Tiên
tri và sấm ký
-
Khi theo học Bảng nhãn Lương
Đắc Bằng, ông được truyền cho quyển Thái Ất
thần kinh từ đó
ông tinh thông về lý học, tướng số... Sau này, dù
Nguyễn Bỉnh Khiêm không còn làm quan nhưng vua Mạc
Hiến Tông (Mạc
Phúc Hải) vẫn phong cho ông tước Trình Tuyền hầu
vào năm Giáp Thìn (1544), ngụ ý đề cao ông có công
khơi nguồn ngành lý học, giống như Trình Y Xuyên,
Trình Minh Đạo bên Trung Hoa. Sau đó được thăng
chức Thượng thư bộ Lại tước hiệu Trình Quốc công.
Nhờ học tính theo Thái
Ất, ông tiên đoán được biến cố xảy ra đến
500 năm sau, được dân gian truyền tụng và suy tôn
là "nhà tiên tri" số một của Việt Nam.
Sấm ký Nguyễn Bỉnh Khiêm, còn
gọi là "Sấm
Trạng Trình" là những lời tiên tri của
Nguyễn Bỉnh Khiêm về các biến cố chính của dân tộc
Việt trong khoảng 500 năm (từ năm 1509 đến khoảng
năm 2019). Đây là những dự báo thiên tài, hợp lý,
tùy thời, tự cường, hướng thiện và lạc quan theo
lẽ tự nhiên "thuận thời thì an nhàn, trái thời thì
vất vả". "Trạng Trình đã nắm được huyền cơ của tạo
hóa" (lời Nguyễn Thiếp – danh sĩ thời Lê mạt). "An
Nam lý học hữu Trình Tuyền" (lời Chu Xán- sứ giả
của triều Thanh). Sấm ký, giai thoại và giải đoán
chứa đựng nhiều thú vị về một trí tuệ bậc Thầy kỳ
tài muôn thuở, nặng lòng yêu nước thương dân và
sâu sắc hiếm thấy.
Sấm ký ở bản A có 262 câu,
gồm 14 câu "cảm đề" và 248 câu "sấm ký". Đây là
bản trích ở bộ "Thành ngữ, điển tích, danh nhân từ
điển" (tập 2) của Trịnh Văn Thanh – Sài Gòn –
1966. Ngoài bản A còn có ít nhất ba dị bản về sấm
Trạng Trình. Tài liệu liên quan hiện có 20 văn
bản, trong đó 7 bản là tiếng Hán Nôm lưu tại Thư
viện Khoa học Xã hội (trước đây là Viện Viễn Đông
Bác Cổ) và Thư viện Quốc gia Hà Nội và 13 tựa sách
quốc ngữ về sấm Trạng Trình xuất bản từ năm 1948
đến nay. Bản tiếng quốc ngữ phát hiện sớm nhất có
lẽ là Bạch Vân Am thi văn tập in trong Quốc Học
Tùng Thư năm 1930 mà hiện nay vẫn chưa tìm được.
Sấm ký gắn với những giai
thoại và sự thật lịch sử. Nhiều nội dung trong sấm
ký hiện đã được giải mã, chứng minh tính đúng đắn
của những quy luật- dự đoán học trong Kinh Dịch và
Thái Ất thần kinh". Đến nay đã có 36 giai thoại và
sự thật lịch sử về Sấm Trạng Trình đã được giải
mã.
Trước Nguyễn Bỉnh Khiêm, vua
Phật Trần Nhân Tông (1258- 1308) là người rất coi
trọng phép biến Dịch. Người đã viết trong "Cư trần
lạc đạo":"Kinh Dịch xem chơi, yêu tính sáng yêu
hơn châu báu. Sách Nhàn đọc giấu, trọng lòng rồi
trọng nữa hoàng kim". Trạng Trình Nguyễn Bỉnh
Khiêm với "Thái Ất thần kinh","Sấm ký","Bạch Vân
Am thi văn tập", "huyền thoại và di tích lịch sử"
đã lưu lại cho dân tộc Việt Nam và nhân loại một
tài sản văn hoá vô giá.
Tương truyền, ông là người đã
đưa ra lời khuyên giúp các nhà Nguyễn, Mạc, Trịnh,
Lê. Khi Nguyễn
Hoàng sợ
bị anh rể Trịnh Kiểm giết, ông khuyên nên xin về
phía nam với câu "Hoành Sơn nhất
đái, vạn đại dung thân" (có tài liệu viết là "khả
dĩ dung thân") nghĩa là "Một dải Hoành Sơn có
thể dung thân lâu dài". Nguyễn Hoàng nghe theo và
lập được nghiệp lớn, truyền cho con cháu từ đất
Thuận Hoá. Lúc nhà Mạc sắp mất cũng sai người đến
hỏi ông, ông khuyên vua tôi nhà
Mạc "Cao
Bằng tuy thiển, khả diên số thể" (tức Cao
Bằng tuy nhỏ, nhưng có thể giữ được). Nhà Mạc theo
lời ông và giữ được đất Cao
Bằng gần
80 năm nữa. Đối với Lê - Trịnh, khi vua Lê Trung
Tông chết không có con nối, Trịnh Kiểm định thay
ngôi nhà Lê nhưng còn sợ dư luận nên sai người đến
hỏi ông. Ông nói với chú tiểu, nhưng thực ra là
nói với bề tôi họ Trịnh: "Giữ chùa thờ Phật thì
ăn oản" (ý nói giữ là bề tôi của các vua Lê
thì lợi hơn). Trịnh
Kiểmnghe theo, sai người tìm người tôn thất
nhà Lê thuộc chi Lê Trừ (anh Lê Lợi) đưa lên ngôi,
tức là vua Lê Anh Tông. Họ Trịnh mượn tiếng thờ
nhà Lê nhưng nắm thực quyền điều hành chính sự,
còn nhà Lê nhờ
họ Trịnh lo đỡ cho mọi chuyện chính sự, hai bên
nương tựa lẫn nhau tồn tại tới hơn 200 năm. Bởi
thế còn có câu: "Lê
tồn Trịnh tại, Lê bại Trịnh vong".
Theo một số nhà sưu tầm và
nghiên cứu, Cách mạng tháng Tám năm
1945 đã được Trạng Trình dự báo qua câu thơ: "Đầu
Thu gà gáy xôn xao/ Trăng xưa sáng tỏ soi vào
Thăng Long". ở câu 1, "đầu Thu" là tháng 7
Âm lịch, "gà" nghĩa là năm Ất Dậu, thời điểm sự
kiện diễn ra, "gáy xôn xao" nghĩa là có tiếng vang
lớn, thức tỉnh muôn người. Ở câu 2, "Trăng xưa"
nghĩa là "cổ nguyệt" theo Hán tự, ghép lại thành
từ "hồ", là họ của Hồ
Chí Minh. "Sáng tỏ soi vào Thăng Long" là sự
kiện Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn độc lập ở quảng
trường Ba Đình của thủ đô Thăng Long – Hà Nội[13].
Ảnh
huởng và di sản
Nguyễn
Bỉnh Khiêm với tư cách một nhà dự báo chiến lược
Nguyễn Bỉnh Khiêm là một nhà
chính trị có tư tưởng thân dân rất rõ ràng. Khi
phê phán tầng lớp cai trị trong xã hội phong kiến,
ông luôn đứng trên lập trường của những con người
áo vải bình dân, mặc dù ông không xuất thân từ
tầng lớp của họ.
Ông được sử sách và người đời
thừa nhận rộng rãi với tư cách là một nhà dự báo
chiến lược kỳ tài, với tầm nhìn địa
chính trị đi
trước thời đại nhiều thế kỷ. Những lời cố vấn nổi
tiếng của ông dành cho các dòng họ Mạc, Trịnh, Nguyễn (nói
theo lời của danh sĩ Nguyễn
Thiếp là phiến
ngữ toàn tam tính) đã có ảnh hưởng to lớn,
mang tính bước ngoặt đối với cỗ xe tiến trình của
lịch sử Việt Nam (trong đó bao gồm quan hệ Việt Nam –
Trung Quốc) và từ đó tác động lớn tới quan
hệ địa chính trị của
cả khu vực Đông
Nam Á từ
thời kỳ trung đại (thế kỷ 16) trở về sau.
Bài thơ “Cự ngao đới sơn”[14] nằm
trong tập thơ chữ Hán Bạch
Vân Am Thi Tập được
Nguyễn Bỉnh Khiêm viết cách đây gần 500 năm, được
GS. Đinh Gia Khánh dịch thơ đã lâu, song gần đây,
bài thơ được nhiều người quan tâm nghiên cứu. Đặc
biệt từ khi chính quyền Trung Quốc bộc lộ rõ tham
vọng xâm lấn, thuộc địa hoá biển
Đông, chiếm các quần đảo Hoàng Sa và Trường
Sa thuộc chủ quyền của Việt Nam, vốn là một thực
tế lịch sử được sử liệu các triều đại Trung Quốc,
Việt Nam và nguồn tư liệu phong phú về hàng hải
của nhiều quốc gia phương Tây thừa nhận.
Nhà nghiên cứu Nguyễn Khắc
Mai thuộc Trung tâm nghiên cứu Minh triết Việt Nam
trong bài viết “Bài thơ Cự Ngao Đới Sơn - một dự
báo chiến lược thiên tài của Nguyễn Bỉnh Khiêm”
(2013) đã có những phân tích về tầm nhìn đi trước
hằng thế kỷ của Nguyễn Bỉnh Khiêm đối với vấn đề
bảo vệ chủ quyền biển đảo của một quốc gia (cụ thể
ở đây là phải chắc chắn xác lập được chủ quyền của
con dân nước Việt đối với biển Đông hay còn gọi là
biển Nam Trung Hoa) ở vào giai đoạn trung đại khi
mà không mấy ai thực sự quân tâm đến nó, ngay cả
với những nhà hoạch định chiến lược vốn nổi tiếng
nhìn xa trông rộng của các triều đại phong kiến
Trung Hoa trước đây. Tác giả bài viết có những
phân tích: “Bài thơ có tuổi đã khoảng 500 năm mà
bây giờ càng đọc càng thấy rất kim
nhật kim thì, rất thời sự. Ta những tưởng
như cụ Trạng Trình đang nói với chính chúng ta hôm
nay. Bài thơ nguyên là để nói cái chí của cụ: Chí
những phù nguy xin gắng sức (Ngã
kim dục triển phù nguy lực)... Câu thơ cuối
bài của cụ: Ta
nay cũng muốn đem sức phò nguy chính
là nói về chúng ta trong những nhiệm vụ làm chủ
biển Đông hôm nay vậy.”
Một bài phân tích đáng chú ý
khác là bài viết “Tầm nhìn chiến lược về biển đảo
của Trạng Trình từ 500 năm trước: Nhân đọc bài thơ Cự
ngao đới sơn trong Bạch
Vân am thi tập của
danh nhân văn hoá Nguyễn Bỉnh Khiêm” (2014) của
nhà thơ Nguyễn Đình Minh với những nhận định như
sau: “Tác giả đã chỉ ra một trong những điều tất
yếu của sự bền vững muôn đời của giang sơn Đại
Việt chính là nắm giữ chủ quyền biển Đông. Trước
đây khi đề cập đến lãnh thổ, chúng ta thường nói
nhiều về sông núi, đất đai; chúng ta có nói về
biển nhưng không nhiều, biển không là trọng điểm
nhấn mạnh. Nhưng từ về 500 năm trước Nguyễn Bỉnh
Khiêm đã dự báo tầm quan trọng của biển đảo dẫn
đến sự tồn vong thịnh trị của cả quốc gia; điều ấy
cho thấy tầm chiến lược về bảo vệ của ông rất rộng
lớn và toàn diện.” Như tác giả bài viết đã kết
luận: “Một tầm nhìn chiến lược về biển Đông”.
Chúng ta biết bài thơ “Cự
ngao đới sơn” được viết ở thế kỷ 16, vào thời đó,
chủ quyền của các quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa
không bị chanh chấp, các thế lực phong kiến Trung
Quốc chỉ lăm le xâm lược phần lãnh thổ đất liền mà
thôi. Hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa ở rất
xa đất liền là nơi lánh nạn, trú bão của các đoàn
thương thuyền, ngư thuyền mạo hiểm dám ra khơi xa,
trong điều kiện phương tiện thuyền bè đương thời,
vai trò của kinh tế biển - đảo khi đó chưa được
khai thác như bây giờ. Như nhiều nhà nghiên cứu đã
phân tích, bài thơ nếu không phải sấm ký thì cũng
là lời nhắn nhủ tận đáy lòng của tác giả, với tính
dự báo chiến lược đi trước thời đại hằng thế kỷ,
dụng ý dành cho hậu thế nhiều đời sau chứ không
phải cho riêng đương thời thế kỷ 16.
Những
đóng góp cho Phật giáo
Nếu Nguyễn Trãi có nhiều lần
đọc "Pháp Bảo
đàn kinh" (tác giả từng viết "Môn Thiền nhất
phái Tào Khê thủy", "Vô thụ phi đài ngữ nhược tâm"
– "Du Nam Hoa tự"); Nguyễn
Du sau
này đã viết "Ngã độc Kim Cương
thiên biến kinh" (Tụng đọc "Kinh
Kim Cương" hơn nghìn vạn lần) ("Lương Chiêu
Minh thái tử phân kinh thạch đài") thì Nguyễn Bỉnh
Khiêm có bài "Độc
Phật kinh hữu cảm". Ông đã chịu ảnh hưởng Phật
giáo khá
nhiều trong cuộc đời và sáng tác.
Nguyễn Bỉnh Khiêm là nhà nho
có cái nhìn thời thế rất sâu sắc, độc đáo. Ông học
được những kiến thức Nho học từ Lương Đắc Bằng
(thuộc phái Tượng số học của Tống Nho). Học trò
suy tôn ông là Tuyết Giang Phu Tử– một bậc chân
nho.
Tuy nhiên ta vẫn gặp thái độ
như không mấy lạc quan trong cuộc đời. Nguyễn Bỉnh
Khiêm đã viết những câu tương tự Đỗ Phủ, Nguyễn
Trãi: "Nho quan tự tín đa thân ngộ" (Tự biết "cái
mũ nhà nho" đã làm cho tấm thân mắc nhiều lầm lỡ –
"Ngụ hứng, 3", "Bạch Vân am thi tập"). Nguyễn Bỉnh
Khiêm ra làm quan với nhà Mạc nhưng ông cũng thấy
được sự đổ nát từ bên trong. Ông đã dâng sớ chống
tham nhũng. Về trí sĩ ông lấy hiệu là Bạch Vân cư
sĩ như là một tín đồ nhà Phật. (Cha ông là Văn
Định cũng đã từng lấy đạo hiệu là Cù Xuyên).
Về quê ông tích cực xây chùa,
mở trường học. Thường ngày ông cùng với vài nhà
sư, một số bạn bè dạo chơi các danh thắng trong đó
có núi Yên Tử – trung tâm thiền học Việt
Nam. Khi Nguyễn Bỉnh Khiêm chơi chùa
Phổ Minh (ngôi
chùa được xây dựng từ thời nhà
Trần), ông đã sánh Pháp giới của nhà Phật
với quan niệm Trời của Nho gia: "Pháp giới ưng
đồng thiên quảng đại" (Pháp giới sánh ngang tầm
rộng lớn của trời) "Du Phổ Minh
tự"). Điều này chứng tỏ ông đã nhận thức
được tư tưởng "Nhất thế chư pháp vô phi Phật pháp" ở "Kinh
Kim Cang" [7, 56]. Đến tiết Trung nguyên,
Nguyễn Bỉnh Khiêm hy vọng ở lòng yêu thương rộng
lớn:"Từ bi ta muốn nhờ công sức, Cứu được bao
người chịu khổ oan" ("Trung nguyên tiết xá tội" –
Đinh Gia Khánh dịch). Nhà thơ rất cảm hứng khi đọc
kinh Phật ("Độc
Phật kinh hữu cảm"). Ông tâm đắc triết lý
sắc không: "Xuân hoa phong nguyệt không mà sắc" ("Tân quán
ngụ hứng, 12"). Đây là tư tưởng "Sắc tức thị
không, không tức thị sắc" nổi bật của "Kinh Bát
nhã" Tư tưởng Thiền có lẽ
đã gây chấn động trong nhận thức của tác giả: "Vị
Phật na tri vô hữu tướng, Đáo thiền phương ngộ bổn
lai ky (cơ)" (Chưa Phật nào hay vô hữu tướng, Đạt
thiền mới biết bổn lai cơ – "Tân quán ngụ hứng,
18"). Tư tưởng này được tìm thấy ở "Kinh Kim
Cang". Khi Phật nói với Tu – bồ - đề: "Phàm cái gì
có hình tướng đều là hư vọng. Nếu các ông thấy các
pháp (tướng) đều hư vọng, không thật (phi tướng)
tức là thấy được Như Lai (thật tướng các pháp)"
[7, 41]. Tư tưởng này cũng được tiếp nối ở "Pháp Bảo
Đàn kinh". Tác giả nói "Bổn lai cơ" trong
trường hợp này không ngoài mệnh đề "Bổn lai vô
nhất vật" ("Pháp Bảo Đàn kinh"). Khái niệm "cơ" ở
cuối câu có thể có nguồn gốc xuất pháp từ Tượng Số
học – vốn là sở trường của Nguyễn Bỉnh Khiêm.
Chính tư tưởng Thiền và kinh Phật đã làm phong phú
và nâng cao bản lĩnh Nho học cùng bản sắc trí tuệ
trong thơ và đời Nguyễn Bỉnh Khiêm.
Nguồn
gốc tên gọi Việt Nam
Cho đến trước thế kỷ 19
(trước khi nhà Nguyễn được
thành lập), trong số các tác gia thời trung đại
của Việt Nam, Nguyễn
Bỉnh Khiêm được xem là người có mối liên hệ mật
thiết nhất với hai chữ Việt
Nam thông
qua các trước tác của ông hoặc có liên quan trực
tiếp với ông. Nhà nghiên cứu Nguyễn
Phúc Giác Hải (Trung
tâm nghiên cứu Tiềm năng con người thuộc Liên hiệp
các hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam) là một
trong những nhà nghiên cứu đầu tiên tại Việt
Nam khẳng
định điều này. Dù chưa có những bằng chứng chắc
chắn để khẳng định Nguyễn Bỉnh Khiêm có phải là
người đầu tiên sử dụng danh xưng Việt Nam với tư
cách là quốc
hiệu của dân tộc hay
không nhưng nhiều nhà nghiên cứu hiện nay cũng
đồng quan điểm với ông Nguyễn Phúc Giác Hải khi
cho rằng Nguyễn Bỉnh Khiêm có thể là người đầu
tiên sử dụng danh xưng Việt Nam một cách có ý thức
nhất để gọi tên của đất nước.
Trong các tác phẩm liên quan
đến Nguyễn Bỉnh Khiêm, có ít nhất bốn lần danh
xưng Việt
Nam đã
được sử dụng một cách có chủ ý. Điều này cũng góp
phần bác bỏ quan điểm cho rằng hai chữ Việt Nam
chỉ được Nguyễn Bỉnh Khiêm sử dụng một cách ngẫu
nhiên hay tùy hứng mà thôi. Trong kho lưu trữ của
Viện Nghiên cứu Hán-Nôm hiện còn lưu giữ nhiều tài
liệu cổ (chép tay) về Nguyễn Bỉnh Khiêm có sử dụng
danh xưng Việt Nam như một quốc hiệu tiền
định. Ngay trong phần đầu của tập Sấm ký có
tựa đề Trình
tiên sinh quốc ngữ, tên gọi Việt Nam đã được
nhắc đến: "Việt Nam khởi tổ xây nền". Danh xưng
Việt Nam còn được sử dụng một lần nữa trong bài
thơ chữ Hán của ông có tựa đề Việt
Nam sơn hà hải động thưởng vịnh (Vịnh
về non sông đất nước Việt Nam). Ngoài ra còn
có hai bài thơ của Nguyễn Bỉnh Khiêm gửi hai người
bạn thân đồng thời là hai Trạng
nguyên của
triều Mạc, cho thấy tên gọi Việt
Nam được
dùng như một sự chủ ý. Bài thứ nhất gửi Trạng
nguyên, Thư Quốc công Nguyễn
Thiến, hai câu cuối Nguyễn Bỉnh Khiêm viết: Tiền
trình vĩ đại quân tu ký / Thùy thị phương danh
trọng Việt Nam (Tiền
đề rộng lớn ông nên ghi nhớ, Ai sẽ là kẻ có
tiếng thơm được coi trọng ở Việt Nam?). Bài
thứ hai gửi Trạng nguyên, Tô Khê hầu Giáp
Hải, hai câu cuối Nguyễn Bỉnh Khiêm cũng
viết: Tuệ
tinh cộng ngưỡng quang mang tại / Tiền hậu quang
huy chiếu Việt Nam (Cùng
ngửa trông ngôi sao sáng trên bầu trời, Trước sau
soi ánh sáng rực rỡ vào nước Việt Nam). Các bài
thơ trên còn được chép trong tập thơ chữ
Hán của
ông là Bạch
Vân am thi tập.
Nguyễn
Bỉnh Khiêm với tư cách một nhà hoạt động từ
thiện
Trong các tác phẩm thơ văn
của mình, Nguyễn Bỉnh Khiêm thường nêu cao chữ nhàn,
hiểu theo nghĩa thông thường là nhàn hạ, nhàn tản.
Nhưng như nhiều nhà nghiên cứu đã bàn luận, cách
hiểu theo nghĩa trên sẽ khiến người ta dễ hiểu
nhầm và đi đến chỗ tầm thường hoá tư tưởng và nhân
cách của ông. Thực tế dù thường được sử sách và
người đời mô tả như một nhà ẩn sĩ cốt cách thanh
tao thoát tục nhưng Nguyễn Bỉnh Khiêm chưa bao giờ
là một người lánh đời hay bàng quan trước thế sự
xung quanh mình. Ngược lại, qua những bài văn bia
do ông soạn còn lưu lại người đời không chỉ thấy
tính chủ động và thành tâm của Trình Quốc Công
trong các hoạt động xã hội như vận động xây cầu,
xây quán, xây đình chùa mà còn thấy được uy tín và
ảnh hưởng sâu rộng của ông trong các tầng lớp nhân
dân. Trong lịch sử Việt Nam dưới thời phong kiến,
Nguyễn Bỉnh Khiêm là một trong những danh nhân đi
tiên phong trong việc phát động và tham gia tích
cực các hoạt động xã hội mang tính từ thiện vì lợi
ích chung của cộng đồng, đặc biệt là đối với tầng
lớp thường dân. Trong bài văn bia Diên
Thọ kiều bi ký (1568),
Nguyễn Bỉnh Khiêm đã có những câu như tuyên ngôn
cho tư tưởng nhân nghĩa của ông: “...Làm việc
thiện không phải vì công tích mà ở tấm lòng. Nay
vừa sau cơn loạn lạc thì chẳng những thân người ta
bị chìm đắm, mà tâm người ta càng thêm chìm đắm.
Các bậc sĩ đệ nên khuyến khích nhau bằng điều
thiện, để làm cho mọi người dấy nên lòng thiện mà
tạo nên miền đất tốt lành.”
Nguyễn Bỉnh Khiêm tuy làm
quan cho nhà Mạc, và khi cáo quan vẫn giúp nhà
Mạc; nhưng với tinh thần nhập thế của một nhà Nho
tinh đời, ông không ngần ngại bày kế sách cho cả
vua Lê,chúa
Trịnh và
cả chúa
Nguyễn. Nguyễn Bỉnh Khiêm bình thản nhìn sự
đời thay đổi, chữ “trung” của ông được cắt nghĩa
trong bài Trung
Tân quán bi ký như
sau: “Quán dựng xong, đề biển là Quán Trung Tân.
Có người hỏi: lấy tên quán như vậy ý nghĩa thế
nào? Ta trả lời rằng: trung nghĩa là trung chính
vậy. Giữ được toàn vẹn tính thiện của mình là
trung vậy, không giữ toàn vẹn được tính thiện của
mình thì không phải là trung vậy. Tân tức là bến
vậy. Biết chỗ dừng đó là đúng bến, không biết chỗ
dừng thì là lạc bến vậy. Tên gọi của quán này đại
thể là như thế. Như trung với vua, hiếu với cha
mẹ, thân ái với anh em, hòa hợp vợ chồng, tín với
bạn bè, đó là trung vậy. Đối diện với của cải mà
không tham, thấy lợi mà không tranh giành, vui với
điều thiện mà bao dung được người, lấy tình thực
mà ứng đãi với mọi vật, đó cũng là trung vậy”.
Điều này cho thấy Nguyễn Bỉnh Khiêm luôn ý thức về
“tam cương ngũ thường” của Nho
giáo, nhưng ông không phải loại nho sĩ cố
chấp, ngu trung. Lòng trung của Nguyễn Bỉnh Khiêm
được thể hiện là giữ vẹn điều thiện và lấy tình
thực mà ứng đãi.
Người
đời đánh giá
Trạng
nguyên, Lại bộ thượng thư Giáp
Hải đời Mạc đã
viết thơ ca ngợi tài lý học của Nguyễn Bỉnh Khiêm
và tên tuổi của ông trong giới Nho gia đương thời
cũng như công lao của ông đối với triều Mạc, trong
đó có những câu sau: "Chu Liêm Khê hậu hữu Y
Xuyên, Lý học vu kim hữu chính truyền"; "Danh quán
nho khoa lôi chấn địa, Lực phù nhật cốc trụ kình
thiên"; "Tứ triều huân nghiệp nhân trung kiệt, Cửu
lão quang nghi thế thượng tiên" (dịch nghĩa: "Sau
Liêm Khê lại có Y Xuyên, Lý học ngày nay bậc chính
truyền"; "Long bảng đứng đầu tên sấm dậy, Chống
trời cột vững sức cường kiên"; "Bốn triều nghiệp
lớn tay anh kiệt, Chín lão dung nghi dáng khách
tiên").
Bài văn tế "Môn sinh tế Tuyết
Giang phu tử văn" đọc trước linh cữu Nguyễn Bỉnh
Khiêm mùa đông năm 1585 do Tiến
sĩ Đinh Thì
Trung (Đinh Thời
Trung) thay mặt các đồng môn soạn ra để tế
viếng người thầy của mình. Trong bài văn tế, học
trò Đinh Thời Trung đã coi Tuyết Giang phu tử là
bậc "muôn chương đọc khắp, học tài chẳng kém Âu,
Tô" (Âu
Dương Tu và Tô Đông Pha đời Tống),
"văn lực không nhường Lý, Đỗ" (Lý
Bạch và Đỗ
Phủ đời Đường),
"một kinh Thái ất thuộc lòng, đốt lửa soi gan
Dương Tử" (hiểu rõ lẽ huyền vi của bộ Thái
ất như Dương
Hùng đời Hán),
"suy trước biết sau, học lối Nghiêu Phu môn hộ"
(suy trước biết sau chẳng khác nào Thiệu Ung đời
Tống) và "một mình Lý học tinh thông, hai nước anh
hùng không đối thủ".
Tiến sĩ đời Lê Trung Hưng, Ôn
Đình hầu Vũ
Khâm Lân trong
bài Bạch
Vân am cư sĩ Nguyễn công Văn Đạt phả ký soạn
năm 1743 có những dòng ca ngợi:...Bởi tiên sinh
chẳng những chỉ tinh thâm một môn Lý học, biết
rõ dĩ vãng cũng như tương lai, mà sự thực thì
trăm đời sau cũng chưa dễ ai hơn được vậy. Ôi! Ở
trong thiên hạ, các bậc quân vương, các vị hiền
giả, hỏi có thiếu chi, nhưng chỉ có lúc sống thì
được phú quý vinh hoa, còn sau khi mất thì những
cái đó lại cũng mai một đi với thời gian, hỏi
còn ai nhắc nữa? Còn như tiên sinh, nói về thế
hệ đã truyền đến 7, 8 đời, gần thì sĩ phu dân
thứ ngưỡng vọng như bóng sao Đẩu trên trời, dẫu
cách ngàn năm cũng còn tưởng như một buổi sớm,
xa thì sứ giả Thanh triều tên Chu Xán, nói đến
nhân vật Lĩnh Nam cũng đã có câu An
Nam Lý học hữu Trình Tuyền tức
là công nhận môn Lý học của nước An Nam chỉ có
Trình Tuyền là người số một, rồi chép vào sách
truyền lại bên Tàu. Như thế, đủ thấy Tiên sinh
quả là một người rất mực của nước ta về thời
trước vậy.
La Sơn phu tử Nguyễn
Thiếp sống
thời nhà
Tây Sơn, người được Quang Trung Nguyễn
Huệ tôn
kính như bậc thầy, từ xứ
Nghệ ra
Bắc, về trấn Hải Dương mong tìm lại những dấu tích
gắn với cuộc đời của Tuyết Giang phu tử (Bạch Vân
cư sĩ), đã ngậm ngùi viết trong bài thơ Quá
Trình Tuyền mục tự (Qua
chùa cũ của Trình Tuyền)[15] khi
viếng cảnh xưa mà không còn am Bạch Vân, quán
Trung Tân bên bến Tuyết Giang, trong đó có những
dòng thơ ca ngợi Trình Tuyền hầu Nguyễn Bỉnh Khiêm
là người có tài áo
cơ thâm tạo hóa (mưu
cơ thâm kín can dự cả vào công việc của tạo hóa)
hay phiến
ngữ toàn tam tính (một
lời ngắn gọn mà bảo toàn cho cả ba họ).
Phạm
Đình Hổ trong Vũ trung tùy bút đã
viết: "Lý học như Nguyễn Bỉnh Khiêm và Phùng
Khắc Khoan đều
là tinh anh của non sông đúc lại".
Phan
Huy Chú, danh sĩ thời nhà
Nguyễn, trong bộ sách Lịch
triều hiến chương loại chí đã
xem Nguyễn Bỉnh Khiêm là "một bậc kỳ tài, hiền
danh muôn thuở".
Nguyên Tổng bí thư Ban chấp
hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam Đỗ
Mười về
thăm khu di tích Trạng Trình đã ghi những hàng chữ
lưu niệm: "Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm là nhà
thơ, nhà văn, một thầy giáo, một nhà triết học,
một nhà dự báo, một danh nhân văn hóa như cây đại
thụ bóng trùm cả một thế kỷ XVI. Tấm lòng yêu
nước, thương dân tha thiết, nhân cách cao cả cùng
với tri thức uyên bác và tài năng sáng tạo đã tạo
nên sự nghiệp, uy tín và ảnh hưởng rộng lớn của
ông mà đến nay chúng ta rất đỗi tự hào, trân
trọng."
Giáo sư Vũ
Khiêu có
những đánh giá về việc Nguyễn Bỉnh Khiêm đã quyết
định đi theo phò tá triều
Mạc mà
không phải là nhà Lê:
"Vì sao nhà trí thức kiệt xuất này, suốt cuộc đời
cho đến lúc gần 50 tuổi vẫn nhất định không chịu
đi thi, không chịu cộng tác với nhà
Lê, không nhận bất cứ công việc gì của nhà
Lê để cuối cùng chọn Mạc Đăng Dung như
minh chủ của mình?... Tấm lòng của Nguyễn Bỉnh
Khiêm và thái độ của ông do chính ông tự tay viết
ra và còn để lại đã bác bỏ mọi sự xuyên tạc vô căn
cứ về ông. Những lời tâm huyết trong thơ của ông
khiến người đời sau phải suy nghĩ vì sao ông lại
gắn bó với Mạc Đăng Dung và triều
Mạc đến
thế."
GS Vũ Minh Giang (Phó Giám
đốc Đại học Quốc gia Hà Nội)
cho rằng: "Sự dấn thân muộn màng của một con người
tài năng bộc lộ từ khi còn bé chứng tỏ Nguyễn Bỉnh
Khiêm không thuộc người lãnh đạm với thời cuộc, mà
trái lại ông là người có lý tưởng cao hơn nhiều so
với chí hướng thi đỗ làm quan, vinh thân phì gia
thường thấy ở phần lớn nho sỹ. Ông chỉ tham dự vào
chính trường khi cảm thấy thời cuộc cần đến mình,
khi hoàn cảnh chính trị có thể tạo điều kiện cho
ông đem tài trí ra giúp đời, phụng sự đất nước".
Giáo sư Nguyễn
Huệ Chi trong
bài tham luận "Bước đầu suy nghĩ về văn học Mạc"
đã đánh giá về Nguyễn Bỉnh Khiêm: "...Ông là một
nhà văn hóa, và riêng ở bình diện văn
hóa mà
nói thì tầm vóc không thua kém Nguyễn
Trãi là
mấy, phần nào đấy còn khai phá vào một vài lĩnh
vực sâu hơn. Bởi ông chuyên về dịch học. Chính ông
xây dựng nền tảng của tư tưởng biện chứng trong Kinh
Dịch, góp vào lịch sử tư tưởng Việt Nam một
số kiến giải mới mẻ. Là một nhà dịch học nên ông
nổi tiếng là bậc tiên tri, nhưng ông cũng lại là
một nhà thơ lớn. Ông viết đến một nghìn bài thơ chữ
Hán. Đây là con số mà từ thời đại Mạc trở về
trước hoàn toàn chưa có..."
Giáo sư Nguyễn Tài Thư trong
tác phẩm Nghiên
cứu Kinh Dịch (Nhà
xuất bản Văn hóa-Thông tin, 2002) đã có những đúc
kết về di sản Lý học (Dịch học) của Trạng Trình:
"Chiêm nghiệm những nguyên lý của Chu
Dịch, đưa nó vào xử thế mà ông nổi tiếng là
người nhìn xa trông rộng. Những sự kiện Nguyễn
Bỉnh Khiêm tiên đoán nhà Lê trung hưng, chỉ
cho nhà Mạc lên Cao Bằng, khuyên Nguyễn
Hoàng vào
trấn thủ Hóa Châu đã
được lịch sử chứng minh là tài tình, thì ở đây
không có gì là lời nói gặp may, mà là những dự
đoán có cơ sở thực tế vững vàng, đáng được nhân
dân tôn ông làm nhà tiên tri. Quả
thật, học Dịch và hiểu Dịch như ông xưa nay không
phải là nhiều... Ông đã vượt được các nhà Nho khác
chính là ở chỗ ông học Dịch nhưng không bị lệ
thuộc hoàn toàn vào Dịch".
Nhà nghiên cứu Trần Khuê
trong tham luận hội thảo khoa học “Nguyễn Bỉnh
Khiêm trong lịch sử phát triển văn hóa dân tộc”
(1991) đã có những đúc kết tinh tế về hành trạng
cuộc đời cũng như tư tưởng của Nguyễn Bỉnh Khiêm:
“Nguyễn Bỉnh Khiêm xuất thân từ cửa Khổng,
ông đi ngang qua sân nhà Lão tử, rồi dừng
lại trước cửa Thiền,
suy ngẫm về giáo lý và đạo lý, cuối cùng ông đã
trở về với đồng ruộng và lũy tre xanh của làng quê
Việt Nam, hay nói khác đi, ông đã trở về với dân
tộc. Suốt đời ông, ông đã sống như mình cần sống
và đã hành động như mình cần hành động.”
Hình
tượng Nguyễn Bỉnh Khiêm trong tôn giáo
Nguyễn Bỉnh Khiêm là danh
nhân văn hóa duy nhất trong lịch sử Việt Nam cho
tới nay được công nhận là một vị thánh của một tôn
giáo chính
thức. Ông được suy tôn là Thanh
Sơn Đạo sĩ(còn được gọi là Thanh
Sơn Chơn nhơn), là một trong ba vị thánh
linh thiêng của Đạo
Cao Đài. Bức tranh Tam Thánh ký hòa ước được
lưu thờ tại Tòa Thánh Tây Ninh có vẽ
chân dung của Nguyễn Bỉnh Khiêm bên cạnh Victor
Hugo và Tôn Trung Sơn.
Giai thoại
Tương truyền thuở nhỏ Nguyễn
Bỉnh Khiêm có tên là Văn Đạt. Mẹ ông là Nhữ thị
vốn tinh thông tướng số và có ước vọng là lấy
chồng làm vua hoặc có con làm vua. Do đó trong quá
trình dạy dỗ, bà đã truyền cho ông mơ ước ấy rồi.
Một hôm khi bà đi vắng, ông
Định ở nhà với con và tình cờ hát:
- "Nguyệt
treo cung, nguyệt treo cung".
Không ngờ Nguyễn Bỉnh Khiêm
nhanh nhảu ứng đối lại ngay:
- "Vịn
tay tiên, nhè nhẹ rung".
Khi bà về đến nhà, ông rất
tâm đắc kể lại chuyện ấy thì bị bà trách nuôi con
mong làm vua làm chúa cớ sao lại mong làm bầy tôi
(nguyệt chỉ
bầy tôi).
Lại một lần khác bà dạy
Nguyễn Bỉnh Khiêm câu hát
- "Bống
bống bang bang, ngày sau con lớn con tựa ngai
vàng".
Ông Định hoảng sợ vì nếu
triều đình hay được sẽ mất đầu về tội khi quân nên
sửa lại:
- "Bống
bống bang bang, ngày sau con lớn con vịn ngai
vàng".
Nhiều lần như vậy, bà rất bất
bình nên bỏ đi. Nguyễn Bỉnh Khiêm lớn lên chỉ được
ở cạnh bố.
Tương truyền sau đó bà lấy
một người họ Phùng và sinh ra Trạng Bùng Phùng
Khắc Khoan. Sau chính Khắc Khoan trở thành
học trò của Nguyễn Bỉnh Khiêm.
Bà Nhữ Thị vẫn không thoả chí
vì họ Phùng không có chí làm vua.
Mãi sau này bà Nhữ tình cờ
gặp một trang nam nhi làng chài đang kéo lưới mà
bà tiếc nuối vì cho rằng người này có số làm vua,
còn tuổi mình đã cao. Người đó chính là Mạc Đăng Dung, vị
vua khai triều của nhà Mạc
Nguồn:https://vi.wikipedia.org/wiki/Nguy%E1%BB%85n_B%E1%BB%89nh_Khi%C3%AAm