Nguyễn Văn
Đông (1932 – 2018)
nguyên là một Đại tá Quân
lực Việt Nam Cộng hòa. Tuy nhiên nhiều
người biết đến ông với tư cách là một nhạc
sĩ nổi tiếng qua các
ca khúc như "Chiều mưa
biên giới", "Sắc
hoa màu nhớ",... Một số bút danh khác
của ông là Phượng Linh,
Phương Hà, Hoài Phương, Vì Dân và Đông
Phương Tử.[1]
Ông sinh ngày 15
tháng 3 năm 1932 tại quận Nhất, Sài Gòn, nguyên quán
ở Lợi Thuận, Bến
Cầu, Tây Ninh trong
một gia đình nguyên là một điền chủ lớn có
nhiều ruộng đất ở Tây Ninh. Thiếu thời, do
gia đình có điều kiện nên ông học tại tư gia
dưới sự hướng dẫn của thầy học. Sau đó ông
theo học bậc Trung học tại trường Huỳnh
Khương Ninh ở Đa Kao, quận Nhất.[3] Năm
1945, nhà cầm quyền Pháp đóng cửa trường
Huỳnh Khương Ninh; năm 1946, gia đình gửi
ông vào trường Thiếu sinh quân Đông Dương ở Vũng
Tàu khi ông 14 tuổi.[4] Thời
gian tại đây, ông được học nhạc với các
giảng viên âm nhạc của Học viện Âm nhạc Quốc
gia Pháp sang giảng dạy. Chỉ sau một thời
gian ngắn, ông trở thành một thành viên của
ban quân nhạc thiếu sinh quân, học cách sử
dụng nhiều loại nhạc cụ khác nhau. Năm 16
tuổi, ông đã có những sáng tác đầu tay như "Thiếu
sinh quân hành khúc", "Tạm
biệt mùa hè"...[3] Năm
19 tuổi, ông rời trường Thiếu sinh quân và
được cấp Chứng chỉ tốt nghiệp tương đương
với văn bằng Tú tài bán
phần (Part I).
Quân đội
Quốc gia Việt Nam
Cuối năm 1951,
ông nhập ngũ vào Quân
đội Quốc gia Việt Nam, mang số quân
52/120.117, sau đó được cử theo học khóa 4
trường Võ bị Vũng Tàu. Tháng 10 năm 1952,
mãn khóa tốt nghiệp Thủ khoa với cấp bậc Thiếu
úy. Qua năm 1953, ông được cử đi học
khóa huấn luyện "Ðại đội trưởng" tại trường Võ bị
Ðà Lạt. Năm 1954 ông được gửi ra Hà Nội theo
học khóa "Tiểu đoàn trưởng" tại Trung tâm
Chiến thuật Hà Nội.[5] Ra
trường, ông được cử giữ chức vụ Tiểu đoàn
trưởng Tiểu đoàn Trọng pháo 553 và là Tiểu
đoàn trưởng trẻ nhất của Quân đội Quốc gia
khi mới 22 tuổi.[4] Sau Hiệp
định Genève (1954),
ông di chuyển vào Nam và được thăng cấp Trung
úy, phục vụ tại Phân khu Đồng
Tháp Mười với chức
vụ Trưởng phòng Hành quân, dưới quyền Đại tá Nguyễn
Văn Là.
Quân lực
Việt Nam Cộng hòa
Đầu tháng 11 năm
1955, ông được chuyển biên chế sang Quân
lực Việt Nam Cộng hòa, kiêm nhiệm chức
vụ Trưởng phòng 3 (Tác chiến) của Phân khu
Đồng Tháp Mười. Năm 1956 ông tham gia Chiến
dịch Thoại Ngọc Hầu do tướng Dương
Văn Minh làm Tư lệnh
để đánh dẹp lực lượng quân sự giáo
phái Hòa Hảo, và tướng Minh từng đến
bắt tay ông tỏ lòng ngưỡng mộ.[6]
Cuối năm 1957
ông được cử đi du học khóa Chỉ huy tham mưu
tại tiểu bang Hawaii, Hoa Kỳ.[7] Ngày
Quốc khánh Đệ
nhất Cộng hòa 26
tháng 10 năm 1959, ông được thăng cấp Đại úy tại
nhiệm.
Sau Đảo
chính 1963 ông được
thăng cấp Thiếu tá và
được chuyển về Bộ
Tổng Tham mưu phục
vụ ở khối Lãnh thổ. Ngày Quân lực 19 tháng 6
năm 1968 ông được thăng cấp Trung
tá phụ trách một
Phòng trong khối Lãnh thổ. Ngày Quốc khánh Đệ nhị
Cộng hòa 1 tháng 11
năm 1972 ông được thăng cấp Đại tá,
chuyển sang làm Chánh Văn phòng cho Tổng
Tham mưu phó. Ông giữ chức vụ này cho đến ngày
30 tháng 4 năm 1975.
Huy
chương
Sau 1975
Sau ngày 30
tháng 4 năm 1975, vì
là một sĩ quan cao cấp của chính thể cũ nên
ông bị chính quyền mới bắt đi học
tập cải tạo, bắt đầu từ trại Suối Máu
(Biên Hòa), một thời gian sau
thì bị đưa về giam ở trại
tù Chí Hòa cho đến
khi được trả tự do vào năm 1985. Tuy nhiên,
khi có Chương
trình Ra đi có Trật tự (ODP),
ông đã không xin đi xuất cảnh mà ở lại Việt
Nam sống thầm lặng
cùng gia đình tại quận Phú
Nhuận, Tp Hồ
Chí Minh.
Ông qua đời vào
lúc 19 giờ 30 phút ngày 26 tháng 2 năm 2018
tại Bệnh
viện Chợ Rẫy, thành phố Hồ Chí Minh.
Hoạt
động trong lĩnh vực âm nhạc
Ngay từ thập
niên 1950 ông đã nổi tiếng khi là Trưởng
Đoàn văn nghệ Vì Dân với
thành phần ca nhạc sĩ tên tuổi như Mạnh
Phát, Minh Kỳ, Hoài
Linh, Thu Hồ, Quách Đàm, Minh Diệu,
Khánh Ngọc và các nghệ sĩ danh tiếng như Kim
Cương, Vân Hùng, Ba Vân,
Bảy Xê, Trần
Văn Trạch, diễn viên điện ảnh Trang
Thiên Kim,... Ông đã tổ chức và điều khiển
các chương trình đại nhạc hội tại Sài Gòn và
khắp các tỉnh của Việt
Nam Cộng hòa.
Từ năm 1958 ông
là Trưởng ban Ca nhạc Tiếng
thời gian của Đài
Phát thanh Sài Gòn, gồm những danh ca,
nhạc sĩ danh tiếng như Lệ Thanh, Hà
Thanh, Minh Diệu, Khánh Ngọc, Mạnh
Phát, Thu Hồ, Quách Đàm, Anh
Ngọc... Năm sau ông là Trưởng ban tổ
chức Đại hội thi đua Văn nghệ toàn quốc ở
cấp Quốc gia, đã quy tụ trên 40 Đoàn Văn
nghệ đại diện cho cả miền
Nam cùng tranh giải
suốt 15 ngày đêm tại Sài Gòn. Ông cũng từng
nhận giải Âm nhạc Quốc gia, một giải thường
do bà Trần
Lệ Xuân trao tặng.
Ông còn là Giám
đốc hãng băng đĩa nhạc Continental và Sơn
Ca, cộng tác với những nhạc sĩ tên tuổi như Lê Văn
Thiện, Văn Phụng, Nghiêm
Phú Phi, Y Vân,... Hai cơ sở của ông cho
ra đời nhiều chương trình tân nhạc cũng như
cổ nhạc gồm các vở tuồng và cải lương. Ngoài ra ông đã có
công phát hiện và đào tạo ca sĩ Thanh
Tuyền khi cô còn là
nữ sinh Đà Lạt.
Nguyễn Văn Đông
là người đã tiên phong thực hiện album riêng
cho từng ca sĩ mà trước đó chưa từng ai làm.
Ông đã thực hiện loạt băng
nhạc Sơn Ca nổi
tiếng trong đó có Khánh Ly với
băng nhạc Sơn Ca 7, Thái
Thanh và Ban
Thăng Long - Sơn
Ca 10, Lệ Thu - Sơn
Ca 9, Phương
Dung - Sơn
Ca 5 và Sơn
Ca 11, Giao Linh - Sơn
Ca 6, Sơn Ca - Sơn
Ca 8,... và một số album riêng cho Trịnh
Công Sơn.
Nhiều sáng tác
của ông viết về chủ đề người lính miền Nam
thời đó. Nhạc phẩm "Phiên
gác đêm xuân" được
ông viết vào đêm 30 Tết
Nguyên Đán năm 1956
khi gác phiên ở khu 9 Đồng
Tháp Mười. "Chiều
mưa biên giới" ra
đời năm 1956 và nổi tiếng qua tiếng hát của Trần
Văn Trạch. "Khúc
tình ca hàng hàng lớp lớp" nổi
tiếng qua tiếng hát của Hà
Thanh nhưng thường
bị nhầm với nhạc phẩm "Khúc
tình Kinh Kha" của Phạm
Duy.
Ông còn có nhiều
bút danh khác như Phượng
Linh, Phương Hà trên
một số nhạc phẩm tình cảm như "Khi
đã yêu", "Thầm
kín", "Niềm đau
dĩ vãng", "Nhớ
một chiều xuân"... Với bút danh Đông
Phương Tử và Phượng
Linh, ông đã viết nhạc nền và đạo diễn
cho trên 50 vở tuồng, cải lương nổi
tiếng ở Miền Nam trước năm 1975 như Nửa
đời hương phấn, Đoạn
tuyệt, Tiếng hạc
trong trăng, Mưa
rừng...
Ca sĩ trình bày
thành công: Thanh
Tuyền, Hà
Thanh, Giao Linh.
Danh
sách ca khúc
STT |
Tên
tác phẩm |
Bút
hiệu |
Chú thích |
1
|
Anh |
Nguyễn Văn Đông
|
|
2
|
Anh
trước tôi sau |
|
3
|
Áo
trắng người yêu |
|
4
|
Bà
mẹ hai con |
|
5
|
Bài
ca hạnh phúc |
|
6
|
Bến
đò biên giới |
|
7
|
Bông
hồng cài áo trắng |
Khác
với "Bông hồng
cài áo" của Phạm
Thế Mỹ |
8
|
Chiều
mưa biên giới |
|
9
|
Cuốn
theo chiều gió |
Khác
với bài cùng tên của Anh Việt Thu |
10
|
Cung
thương ngày cũ |
Đồng
sáng tác với Mạnh
Phát |
11
|
Dáng
xuân xưa |
|
12
|
Dù
biết thế |
|
13
|
Đêm
buồn |
Đồng
sáng tác với Lam
Phương |
14
|
Đôi
bờ thương nhớ |
|
15
|
Hải
ngoại thương ca |
|
16
|
Hiến
dâng |
|
17
|
Hoa
đêm |
|
18
|
Hồi
chuông kỉ niệm |
Đồng
sáng tác với Song
Ngọc |
19
|
Khúc
tình ca hàng hàng lớp lớp |
|
20
|
Khúc
xuân ca |
|
21
|
Lá
thư người lính chiến |
|
22
|
Mấy
dặm sơn khê |
|
23
|
Mùa
sao sáng |
|
24
|
Ngày
mai anh về |
|
25
|
Người
tình yêu dấu |
|
26
|
Nguyện
cầu trên bến ngàn năm |
|
27
|
Nếu
có em bên anh |
|
28
|
Nhớ
một chiều xuân |
|
29
|
Nhớ
người viễn xứ |
Đồng
sáng tác với Lâm Tuyền |
30
|
Núi
và gió |
|
31
|
Phiên
gác đêm xuân |
|
32
|
Thu
hoài cảm |
|
33
|
Tình
cố hương |
|
34
|
Tình
đầu xót xa |
|
35
|
Trái
tim Việt Nam |
|
36
|
Truông
mây |
|
37
|
Về
mái nhà xưa |
|
38
|
Vô
thường |
|
39
|
Xin
chúa thấu lòng con |
Phượng Linh
|
|
40
|
Bóng
nhỏ giáo đường |
|
41
|
Cay
đắng tình đời |
|
42
|
Chiếc
bóng công viên |
|
43
|
Chuyện
tình hoa Pensée |
|
44
|
Cô
nữ sinh Gia Long |
|
45
|
Dạ
sầu (Nỗi
buồn duyên kiếp) |
|
46
|
Đoàn
chim cánh sắt |
Đồng
sáng tác với Ngọc Sơn |
47
|
Đom
đóm |
|
48
|
Đoạn
tuyệt |
|
49
|
Em
vẫn của anh |
|
50
|
Khi
đã yêu |
|
51
|
Lời
cuối cùng cho nhau |
|
52
|
Lời
giã biệt |
|
53
|
Mây
chiều |
Viết
chung với Mây Tần |
54
|
Niềm
đau dĩ vãng |
|
55
|
Thầm
kín (Bẽ
bàng) |
|
56
|
Thương
muộn |
|
57
|
Thương
về mùa đông biên giới |
|
58
|
Tình
người ngoại đạo |
|
69
|
Rồi
một đêm đó |
|
60
|
Xin
đừng trách anh |
|
61
|
Hẹn
ước đêm xuân |
Hoài Phương
|
|
62
|
Lời
hứa ban đầu |
|
63
|
Màu
hoa kỷ niệm |
|
64
|
Màu
xanh Noel |
|
65
|
Mỗi
độ xuân về |
|
66
|
Ngỏ
ý |
|
67
|
Viễn
xứ ca |
|
68
|
Việt
Nam hôm nay |
|
69
|
Đồng
Tháp duyên gì |
Vì Dân
|
Viết
chung với Minh
Kỳ |
70
|
Sắc
hoa màu nhớ |
|
71
|
Chúc
tết |
Đông Phương Tử
|
|
72
|
Ave
Maria |
Nhạc của Franz Schubert
|
Soạn
lời Việt |
73
|
Đêm
thánh huy hoàng |
Khác
với bài "Đêm thánh vô
cùng" do Hùng
Lân soạn lời
Việt dựa theo nhạc của nguyên tác bài "Silent
Night" |
|
74
|
Hồi
chuông nửa đêm |
Nguyên tác Jingle Bells của James Lord
Pierpont
|
Soạn
lời Việt |
Chú
thích