Trần Trọng Kim (chữ Hán:
陳仲金; 1883 – 1953)[1][2] là
một học giả,[3] nhà
giáo dục, nhà nghiên cứu sử học, văn học, tôn giáo Việt
Nam, bút hiệu Lệ Thần (遺
臣), từng làm thủ tướng của
chính phủ Đế quốc Việt Nam vào
năm 1945 (chính
phủ này được Đế quốc Nhật Bản thành
lập trong thời kỳ chiếm đóng Việt Nam).
Ông là tác giả của nhiều cuốn sách về lịch sử,
văn hóa như Việt
Nam sử lược, Việt Nam văn phạm, Nho giáo,...
Tiểu sử
Thân thế
Trần Trọng Kim,
sinh năm 1883 (Quý Mùi) tại
làng Kiều Linh, xã Đan Phố (nay là xã Xuân
Phổ), huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh.[4] Vợ
ông Bùi Thị Tuất là em gái nhà nghiên cứu văn
học Bùi
Kỷ. Ông có một người con gái duy nhất là
Trần Thị Diệu Chương, lấy chồng làm Chưởng lý
Bộ Quốc ấn tại Sénégal. Cha ông là Trần Bá
Huân (1838-1894), đã từng tham gia từ rất sớm phong trào Cần
Vương do Phan Đình Phùng lãnh
đạo.[5]
Hoạt
động giáo dục
Trần Trọng Kim
xuất thân trong một gia đình Nho giáo, từ nhỏ
ông học chữ Hán. Vào năm 1897,
ông theo học tại Trường Pháp-Việt Nam
Định và học chữ Pháp. Năm 1900,
ông thi đỗ vào Trường Thông
ngôn và đến năm 1903
thì tốt nghiệp.[6]
Năm 1904,
ông làm Thông sự ở Ninh Bình. Năm 1905,
vì hiếu học nên ông qua Pháp học
trường Thương mại ở Lyon.
Năm 1906, nhân có Hội chợ đấu xảo tại Marseille, Pháp, ông
xin làm một chân thợ khảm để được đi với Nguyễn Văn Vĩnh (1882-1936)
sang dự.[6]
Sau hội chợ, ông
xin ở lại để học thêm tại các trường ở Ardèche, Lyon rồi
tiếp tục học ở Trường thuộc địa. Năm 1909,
ông vào học trường
Sư phạm Melun và tốt
nghiệp ngày 31 tháng 7 năm 1911 rồi
về nước.[6][7]
Ông lần lượt dạy
Trường trung học Bảo hộ (Trường Bưởi), Trường Hậu bổ và
Trường nam
Sư phạm. Ông là nhà sư phạm mẫu mực, có
uy tín trong xã hội, giữ nhiều chức vụ trong
ngành giáo dục thời Pháp thuộc như:[8]
- Thanh tra
Tiểu học (1921)
- Trưởng ban
Soạn thảo Sách Giáo khoa Tiểu học (1924),
dạy Trường Sư phạm thực hành 1931
- Giám đốc các
trường nam tiểu học tại Hà Nội (1939)
Từ thập niên 1910 đến thập niên 1940,
ông cũng viết nhiều sách về sư phạm và lịch sử.
Ngoài ra ông còn tham gia các hoạt động xã
hội. Ông là Phó trưởng ban Ban Văn học của Hội Khai trí Tiến
Đức, Nghị viên Viện Dân biểu
Bắc Kỳ, Trưởng ban nghiên cứu Phật học
của Hội Bắc kỳ Phật giáo.
Năm 1943,
một năm sau khi ông về hưu, Nhật Bản kéo
vào Đông Dương, họ lấy cớ "giúp các ông tránh
sự bắt bớ của Pháp"
đưa ông và chí sĩ Cử nhân Dương Bá Trạc (1884-1944)
bí mật sang Chiêu Nam (Singapore).[9] Năm
1945, ông được quân đội Nhật đưa về nước.
Hoạt
động chính trị
Thành lập Đế
quốc Việt Nam
Ngày 9 tháng 3 năm
1945, Nhật đảo chính Pháp,[10] độc
chiếm thuộc địa Đông Dương.
Vấn đề quan trọng nhất đối với quân Nhật là
duy trì bằng được "trật tự và ổn định" nhằm
tìm nguồn cung ứng vật chất tại chỗ cho gần
100.000 lính Nhật, cũng như để cung cấp cho
việc phòng thủ nước Nhật trước đà tấn công của
quân Đồng Minh. Tuy nhiên, đúng lúc đó, bộ máy
hành chính thực dân mà Nhật kế thừa từ Pháp đã
tan rã, vì thế việc thành lập bộ máy cai trị
bản xứ đặt ra như một đòi hỏi cấp bách.[11]
Ngay từ đêm 8/3,
quân Nhật Bản đã
được phái đến canh giữ nghiêm ngặt nhà của các
quan lớn trong triều Nguyễn. Họ giữ các quan
này ở trong nhà để chờ lệnh từ chỉ huy Nhật.
Theo lời kể của đại thần Phạm Quỳnh, quân Nhật
đi tìm tất cả các quan trong Viện cơ mật và
giam họ lại một chỗ. Đến sáng 9/3, khi đã đưa
được Bảo Đại về kinh đô, quan Nhật là Yokoyama
đưa cho họ 2 văn bản đã viết sẵn: Bản tuyên bố
hủy bỏ các hiệp ước nhà Nguyễn đã ký với Pháp
và Bản tuyên bố giải tán Viện cơ mật, tất cả
nhằm dọn đường cho việc thành lập nội các Đế
quốc Việt Nam. Yokoyama nói thẳng "tôi
cho các vị 15 phút để suy nghĩ". Trong
hoàn cảnh đó, các quan nhà Nguyễn không muốn
ký cũng không được.[12]
Ngày 11 tháng 3 năm
1945, triều đình Huế tuyên bố hủy bỏ Hòa ước
Patenôtre ký với Pháp
năm 1884,
thành lập Đế quốc Việt Nam.[13][14] Vua Bảo Đại liền
giải tán Hội đồng cơ mật gồm Thượng thư sáu
bộ, tuyên bố từ nay sẽ tự mình cầm quyền nhưng
bên cạnh nhà vua là viên Đại sứ Nhật ở Đông
Dương Yokoyama làm
'Tối cao cố vấn'.[15]
Chỉ huy quân Nhật,
tướng Tsuchihashi
Yuitsu (âm Hán Việt:
Thổ Kiều Dũng Dật), nghĩ rằng chỉ cần Việt Nam
độc lập trên danh nghĩa và chính phủ mới của
Việt Nam phải được Nhật kiểm soát chặt chẽ.[16] Thoạt
đầu Phạm Quỳnh được
chỉ định tạm quyền nhưng ông này quá thân Pháp, ngoài
ra ông ta thấy ngay "nền độc lập" có những
giới hạn như giống như hồi còn chế độ thuộc
địa Pháp: Không có tự chủ về ngoại giao, không
có quân đội, không có độc lập tài chính...
Nhật liền chọn một nhân vật ôn hoà hơn chính
là Trần Trọng Kim, đang ở Singapore.
Theo Daniel Grandcléme, nhà vua Bảo
Đại chẳng có vai trò gì trong việc chỉ định
này.[17]
Trong khi Bảo Đại
tìm người lập nội các thì ngày 30/3/1945,
trong một cuộc họp với công chức người Việt ở Long Xuyên,
Toàn quyền Nhật Bản là Minoda nói thẳng bằng
tiếng Pháp về bản chất sự "độc lập" của Đế
quốc Việt Nam:
“ |
Có một sự
hiểu lầm lớn về sự độc lập ở Đông
Dương. Sự độc lập này là hoàn toàn ở
dưới sự kiểm soát quân sự của Nhật
Bản. Sự độc lập của đế chế Trung kỳ và
cũng như của Cao Miên đã được tuyên
bố. Nam kỳ chẳng những ở dưới sự kiểm
soát quân sự mà còn dưới cả sự cai trị
quân sự của Nhật Bản. Vậy thì không có
sự độc lập của Nam kỳ[18] |
” |
Ngày 30 tháng 03
năm 1945, Trần Trọng Kim được Nhật Bản đón từ
Băng Cốc về Sài Gòn.[19] Khoảng
5 tháng 04 năm 1945, Trần Trọng Kim đến Huế.[19] Sau
khi được yết kiến Bảo đại và gặp Trần Đình Nam,
Trần Trọng Kim cũng tán thành giải pháp lập
nội các do Ngô Đình Diệm đứng đầu nên một bức
điện thứ 2 triệu tập Ngô Đình Diệm được Tối
cao cố vấn Yokoyama nhận chuyển đi. Nhưng Ngô
Đình Diệm không ra Huế (do Nhật không chuyển
điện, hay nhận điện mà từ chối). Bảo Đại triệu
Trần Trọng Kim vào tiếp kiến lần thứ hai.
Trần Trọng Kim và
một số nhà trí thức được giao thành lập nội
các ở Huế vào ngày 17 tháng 4 năm
1945.[3][20] Đây
là một dạng nghị viện đầu
tiên tại Việt Nam và Trần Trọng Kim trở thành Thủ tướng đầu
tiên của Việt Nam. Tham gia Nội các của ông
đều là các nhà trí thức luật sư, bác sĩ, kỹ sư
(một giáo sư, hai kỹ sư, bốn bác sĩ, bốn luật
sư):[21]
- Trần
Đình Nam (1896-1974)
y sĩ Đông Dương, Bộ trưởng Nội vụ.
- Trần
Văn Chương (1898 –
1986), Tiến sĩ Luật, Bộ trưởng Ngoại giao.
- Trịnh
Đình Thảo (1901-1986),
Tiến sĩ Luật, Bộ trưởng Tư pháp.
- Vũ Văn
Hiền (1911-1963),
Tiến sĩ Luật, Bộ trưởng tài chính.
- Hoàng
Xuân Hãn (1908-1996),
Giáo sư, Thạc sĩ toán học, Bộ trưởng giáo
dục và Mỹ thuật.
- Vũ
Ngọc Anh (1901-1945),
Bác sĩ Y khoa, Bộ trưởng Y tế và Cứu tế.
- Lưu
Văn Lang (1880-1969),
Kỹ sư bách nghệ được vua Bảo đại mời làm Bộ
trưởng Công chính, nhưng đến giờ chót ông từ
chối vì tuổi cao.
- Hồ Tá
Khanh (1908-1996),
Bác sĩ Y khoa, Bộ trưởng Kinh tế.
- Nguyễn Hữu Thí (1899-?),
Y sĩ, thương gia, Bộ trưởng Tiếp tế.
- Phan
Anh (1911-1990),
Luật sư, Bộ trưởng Thanh niên.
Ngoài các thành
viên Nội các, nhiều nhà trí thức có tiếng cùng
tham gia công việc của chính quyền:[21] Phan Kế Toại (Khâm
sai Bắc bộ), Bác sĩ Trần Văn Lai (Thị
trưởng Hà Nội), Giáo sư Nguyễn Lân (Thị
trưởng Huế), Phó bảng Đặng Văn Hướng (Tỉnh
trưởng Nghệ An), Phó bảng Hà
Văn Đại (Tỉnh trưởng
Hà Tĩnh), Giáo sư Đặng Thai Mai (Tỉnh
trưởng Thanh Hóa)… Các ông Hoàng Đạo Thúy, Tạ Quang Bửu, Trần Duy Hưng, Nguyễn Xiển, Vũ Văn Cẩn, Ngụy Như Kontum,
được mời ra thành lập Hội
đồng Thanh niên. Tạ Quang Bửu được
mời làm Cố vấn đặc vụ ủy viên Bộ Thanh niên và
Kỹ sư Lê Duy Thước làm
Chánh văn phòng Bộ.
Một chính phủ được
thành lập trong bối cảnh quân đội Nhật chiếm
đóng như chính phủ Trần Trọng Kim, thông
thường dễ bị coi là bù nhìn, là tay sai Nhật.
Và thực tế đúng là như vậy. Luật sư Phan Anh, một bộ trưởng trong
chính phủ Trần Trọng Kim, sau này viết[22]:
- "Chúng tôi đã
lầm rất lớn. Chúng tôi đã tưởng lợi dụng
được một đế quốc chống một đế quốc khác,
tranh thủ quyền lợi về ta, nhưng trái lại
bọn Nhật đã lợi dụng chúng tôi, ít nhất
cũng là về danh nghĩa. Đó là một bài học
đau đớn!"
Mới ra mắt được 4
tháng, ngày 5/8/1945, hàng loạt thành viên nội
các Trần Trọng Kim xin từ chức: 3 bộ trưởng
xin từ nhiệm, Bộ trưởng Vũ Ngọc Anh qua
đời vì trúng bom máy bay Mỹ. Các bộ trưởng
khác tuyên bố bản thân họ cũng bất lực, bởi
không thể làm được việc gì nếu không được cố
vấn tối cao Nhật Bản đồng ý, trong khi vua Bảo
Đại chỉ lo ăn chơi, săn bắn mà không quan tâm
đến chính trị. Trần Trọng Kim cố gắng liên hệ
nhưng các nhân vật cấp tiến đều khước từ cộng
tác, đến đầu tháng 8 thì chính Trần Trọng Kim
cũng nản lòng. Ông nói mình bị "tăng huyết áp"
và không ra khỏi nhà[23].
Trong hồi ký của
mình, Trần Trọng Kim viết về giai đoạn làm
chính trị dưới sự khống chế của Nhật Bản:
“ |
"Nhật Bản
trước vốn là một nước đồng văn đồng
hóa ở Á Đông, nhưng về sau đã theo Âu
hóa, dùng những phương pháp quỷ quyệt
để mở rộng chủ
nghĩa đế quốc của
họ, trước đã thôn tính Cao
Ly và Mãn
Châu, sau lại muốn xâm lược nước
Tàu và các nước khác ở Á Đông đã bị
người Âu châu chiếm giữ. Người Nhật
tuy dùng khẩu hiệu "đồng minh cộng
nhục" và lấy danh nghĩa "giải phóng
các dân tộc bị hà hiếp" nhưng thâm ý
là muốn thu hết quyền lợi về mình"[24] |
” |
Sự khống chế
của Nhật Bản
Giáo sư Đinh Xuân
Lâm có viết: "Nội các
Trần Trọng Kim, với thành phần là những trí
thức có tên tuổi, trong đó phải kể tới một
số nhân vật tiêu biểu của nước ta trước năm
1945, có uy tín đối với nhân dân, như: Trần
Trọng Kim, Hoàng Xuân Hãn, Trịnh Đình Thảo,
Phan Anh… Thủ đoạn của bọn cầm quyền Nhật
Bản là triệt để lợi dụng bộ máy chính quyền
do chúng mới dựng lên để lũng đoạn tình hình
có lợi cho chúng, chúng chỉ muốn có một chính
phủ bù nhìn hoàn
toàn để thi hành mọi ý định của chúng".[25]
Theo Tiến sĩ Lê
Mạnh Hùng: "Với an ninh,
quốc phòng và kinh tế tài chánh đều nằm
trong tay quân đội Nhật, tất cả những gì mà
chính phủ Trần Trọng Kim có thể đạt được
trong việc giành lại chủ quyền cho Việt Nam
thực tế là chỉ có tính cách biểu tượng.
Nhưng trong tình huống Đông
Dương vào năm chót
của thế chiến thứ hai, biểu tượng đóng một
vai trò rất quan trọng. Biết rằng thất bại
của Nhật Bản chỉ
là một vấn đề thời gian, Trần Trọng Kim và
chính phủ của ông đưa ra một chương trình
nhằm thay đổi tâm lý người Việt đến mức mà
đất nước sẽ không thể trở lại tình trạng
thuộc địa nữa một khi chiến tranh chấm
dứt...".[26]
Tháng 6 năm 1945,
chính phủ Trần Trọng Kim đặt quốc hiệu là Đế quốc Việt Nam;
đặt quốc thiều là bài "Đăng đàn cung";
quốc kỳ có "nền vàng hình chữ nhật, giữa có
hình quẻ Ly màu đỏ thẫm".[19]
Chính phủ Trần
Trọng Kim thực tế vẫn nằm dưới sự bảo hộ của
quân đội Nhật chiếm đóng Đông Dương. Nhật Bản
đưa ra chính sách Đại
Đông Á, tuyên bố "giúp
các dân tộc da vàng đánh đổ ách thống trị
của thực dân da trắng để lập nên khu vực
thịnh vượng chung", nhưng thực ra đó chỉ
là một cách gọi biện minh cho ách chiếm đóng
mới của quân phiệt Nhật. Theo kế hoạch của
Nhật, quân Nhật sẽ khống chế mọi mặt, cả về
kinh tế, quân sự và chính sách nội bộ của các
nước trong khối, miền Nam Châu Á sẽ
trở thành thuộc địa cung
cấp nguyên liệu cho Đế quốc Nhật.
Vì vậy giới sử học
cho rằng đây chỉ là một chính phủ bù
nhìn thân Nhật, không
có thực quyền và không có được sự ủng hộ của
dân chúng. Nó được xếp chung với các chính phủ bù
nhìn do Nhật thành lập
tại các nước bị họ chiếm đóng trong thế chiến
thứ 2 như Mãn Châu quốc, Chính
phủ Uông Tinh Vệ, Mông Cương, Đệ nhị
Cộng hòa Philipine...[27] Cùng
với sự bại trận của Nhật Bản trong thế chiến,
tất cả các chính phủ này đều tự sụp đổ hoặc bị
Đồng Minh giải thể trong năm 1945[27], dù
cho Cách
mạng tháng Tám không
nổ ra thì chính phủ này cũng sẽ bị giải thể
khi quân Đồng Minh (Anh và Pháp) tới Việt Nam
vào tháng 9/1945.
Về hành chánh,
Nhật đảo chính lật đổ Pháp ngày 09 tháng 03
năm 1945, nhưng không trao trả toàn bộ chủ
quyền Việt Nam lại cho chính phủ Đế quốc Việt Nam,
mà mãi đến tháng 7 năm 1945, sau các cuộc
thương lượng, toàn quyền Nhật là Yuichi Tsuchihashi mới
trả lại ba thành phố nhượng địa Hà Nội, Hải
Phòng và Ðà Nẵng kể từ ngày 20 tháng 7 năm
1945. Về việc thu hồi Nam
Kỳ thì cuộc thương
thuyết với Toàn quyền Tsuchihashi có kết quả
mặc dù lúc đầu Tsuchihashi còn do dự vì triều
đình Cao Miên cũng
đòi đất Nam Kỳ. Trần Trọng Kim phái Nguyễn Văn Sâm là
khâm sai vào Sài Gòn tiếp
thu. Ở ngoài
Bắc thì Thống sứ
Nishimura bàn giao với khâm sai Phan Kế Toại tại Hà Nội ngày
12 Tháng 8. Ngày 14 Tháng 8, chính phủ Trần
Trọng Kim công bố chính thức tiếp thu Nam Kỳ[28] Chính
phủ Trần Trọng Kim cũng thay chương trình học
bằng tiếng Pháp bậc
tiểu học và trung học sang chương trình học
bằng tiếng Việt, do học giả Hoàng Xuân Hãn biên
soạn.[19] Hành
chánh được cải tổ với việc dùng chữ Việt trong
tất cả các giao dịch của chính phủ ngoại trừ
lĩnh vực y tế và các văn thư liên lạc với Pháp
hoặc các công ty của người Trung Hoa.[19]
Nạn
nhân của nạn đói năm 1945 ở Việt Nam,
chính phủ Trần Trọng Kim đã bất lực trong
việc cứu trợ
Xương
sọ người chết đói năm 1945 được xếp trong
hầm tại nghĩa trang Hợp Thiện, Hà Nội.
Việc Nhật chiếm
đóng vào thời điểm 1945 đã gây ra những hậu
quả tai hại cho Việt Nam như nạn đói năm Ất
Dậu. Vấn đề cấp thiết nhất khi đó là
việc cứu đói, nhưng chính phủ Trần Trọng Kim
đã không làm được gì vì phương tiện, nhân lực
đều do quân Nhật nắm giữ, giao thông đường bộ,
đường sắt, đường biển từ Nam ra Bắc thì bị quân
Đồng minh cắt đứt. Khi
đó gạo được chất đống trong kho của Nhật, Bảo
Đại đã thử thuyết phục đại sứ quán Nhật Bản mở
kho phát gạo nhưng chỉ huy Nhật Bản không cho
phép.
Nạn đói
năm Ất Dậu đã khiến
gần 2 triệu người dân Việt Nam (chủ yếu ở miền
Bắc) chết đói. Báo Ngày Nay xuất bản tháng
6/1945 nhận xét về sự bất lực hoàn toàn của
chính phủ này, viết[29]:
- "Chúng tôi
nhận thấy ai ai cũng thất vọng và chán
nản, vì sau hai tháng hô hào và tốn bao
giấy mực, dân đói miền Bắc cũng chưa thấy
một bao gạo nào ở Nam đưa ra. Lời tuyên bố
của thủ tướng còn vang vọng bên tai ta:
"Cần nhất là phải tiếp tế cho dân đói miền
Bắc" mà tới nay việc làm vẫn chưa đi theo
lời nói; tuy rằng gạo miền Nam vẫn chất
đầy trong các kho, các nhà máy, tuy rằng
giấy bạc vẫn nằm từng xấp dày trong các
két sắt của nhà tư sản Việt Nam, tuy rằng
nội các vẫn có một bộ tiếp tế và một bộ
tài chính"
Về vấn đề này, nhà
sử học Trần Văn Giàu chỉ
ra nguyên nhân của sự bất lực này là do tính
chất bù nhìn của
chính phủ Trần Trọng Kim[29]:
“ |
Lẽ dĩ
nhiên, nguyên nhân trận chết đói năm
1945 chủ yếu không phải là do chính
phủ Trần Trọng Kim mà là do chế độ
thực dân, là chính sách tàn bạo của
Pháp – Nhật. Sự bất lực của chính phủ
Trần Trọng Kim phần lớn là do tính
chất bù nhìn của nó. Nó không thể bớt
chỗ nào thừa cho chỗ không có. Nó
không thể chống nạn đầu cơ ở miền Bắc
lúc ấy vẫn còn gạo trong các kho của
quân phiệt Nhật. Nhật tích trữ lương
thực để nuôi quân. Từ 9-3 đến giữa
tháng 6, việc thu thóc tạ vẫn được thi
hành trong lúc hàng chục vạn đồng bào
ta chết rũ dọc đường xó chợ. Chính phủ
Trần Trọng Kim đâu dám đụng đến việc
thu thóc tạ, càng không dám đụng đến
kho thóc. Chính phủ đã cam đoan với
Nhật là tiếp tế cho Nhật bằng hoặc hơn
Pháp, để xứng đáng với cái "độc lập"
mà Nhật ban cho!
Cả
chính phủ Trần Trọng Kim và Nhật đều
bắt buộc mọi sự vận chuyển thóc gạo
từ Nam ra Bắc đều phải qua "Ủy ban
thóc gạo" ở Sài Gòn mà ủy ban này do
công ty Nhật nắm. Khi tải ra đến Bắc
thì phải gom gạo cho công ty thóc
gạo Bắc kỳ 75% số lượng, công ty này
lo bảo đảm trước hết lương thực cho
quân Nhật, còn lại mới bán cho dân
|
” |
Không những vậy,
Đạo dụ của chính phủ Trần Trọng Kim ngày
13/6/1945 còn quy định: ai phạm việc phá hoại
cầu cống, đường sá, cướp phá hoặc làm hư hại
kho ngũ cốc, đồ ăn, gạo, đều bị kết án tử hình.
Đạo dụ cũng cấm chỉ mọi cuộc tụ tập trên 10
người. Vì đạo dụ này, nhân dân không dám kéo
đi phá kho thóc để chia cho người đói, hàng
chục vạn người đã chết đói ngay bên ngoài cửa
những kho thóc còn đầy ắp[29]
Trong khi Bộ Tiếp
tế chỉ làm được vài việc vặt, thì Bộ Tài chính
của Đế quốc Việt Nam chỉ
chuyên làm một việc là gom tiền thuế của dân
giao cho Nhật. Chỉ riêng trong 5 tháng tồn
tại, Chính phủ Trần Trọng Kim đã nộp cho Nhật
Bản khoản tiền 720 triệu đồng Đông Dương
(Piastre), ngang với số tiền 726 triệu do
chính quyền thực dân Pháp nộp cho Nhật Bản
trong 5 năm trước đó (từ 1940 tới 9/3/1945).
Tổng cộng trong thời gian Thế
chiến thứ hai, người Việt Nam đã phải
nộp cho Nhật khoản tiền là 1 tỷ 446 triệu
Piastre, tương đương 14 tỷ 460 triệu Franc lúc
đó[22]
Chính phủ Trần
Trọng Kim không có quân đội để tránh phải tham
gia chiến
tranh thế giới thứ II với
tư cách đồng minh của Nhật Bản. Bộ trưởng Bộ thanh niên Phan Anh đã
thành lập đoàn Thanh niên Tiền tuyến, Thanh
niên Xã hội để thực hiện công tác trị an, bảo
vệ. Tuy nhiên khi Cách mạng Tháng
Tám nổ ra, do nhận
thấy bản chất bù nhìn của chính phủ Đế quốc
Việt Nam nên lực lượng Thanh niên Tiền tuyến
đã rời bỏ hàng ngũ, quay sang ủng hộ lực lượng Việt Minh,
phong trào mà họ tin rằng sẽ thực sự giành
được độc lập cho Việt Nam. Trường
Thanh niên tiền tuyến đã
đào tạo ra nhiều tướng lĩnh, sĩ quan của Việt Nam Dân chủ
Cộng hòa sau này.
Vai trò
của Đế quốc Việt Nam
Chính phủ Trần
Trọng Kim ra đời trong bối cảnh thế giới có
nhiều biến động, chiến tranh thế giới thứ 2
đang xảy ra. Pháp, các đế quốc châu Âu muốn
giữ quyền lợi vốn có của mình tại các nước
thuộc địa Đông Nam Á. Nước Mỹ, lực lượng chính
của phe Đồng Minh tại mặt trận Thái Bình Dương
muốn ngăn chặn và triệt tiêu ảnh hưởng của
Nhật. Nhật đã giành quyền ảnh hưởng tại Đông
Dương từ tay Pháp, Nhật Bản cần một chính phủ
mới tại Việt Nam phụ thuộc, ủng hộ các quyền
lợi của mình tại chiến lược bành trướng châu Á
Thái Bình Dương. Kết quả là sự ra đời của
chính phủ Trần Trọng Kim.
Chính phủ Trần
Trọng Kim thường được Việt Nam Dân chủ
Cộng hòa mô tả trong
các tài liệu nghiên cứu chuyên môn trước và
sau năm 1975, một cách trực tiếp hay gián
tiếp, là bù nhìn của Nhật.[30][31][32][33] Giới
sử học phương Tây thì coi Đế quốc Việt Nam là
một dạng chính phủ bù
nhìn do Nhật thành lập
tại các nước bị họ chiếm đóng trong thế chiến
thứ 2 như Mãn Châu quốc, Chính
phủ Uông Tinh Vệ, Mông Cương, Đệ
nhị Cộng hòa Philippines... Cùng với sự
bại trận của Nhật Bản trong Thế chiến, tất cả
các chính phủ này đều tự sụp đổ hoặc bị Đồng
Minh giải thể trong năm 1945[34] Chính
phủ Trần Trọng Kim được phương Tây coi là một
bộ phận của chính sách Khối Thịnh vượng
chung Đại Đông Á của
Nhật nhằm chiếm đóng Đông Á trong Chiến tranh thế
giới thứ hai, trong đó các chính quyền
bản xứ phải vận động người dân và nền kinh tế
trong nước phục vụ cho lợi ích của Đế quốc
Nhật Bản[35].
Trong bản Tuyên
cáo trước quốc dân về đường lối chính trị,
dưới sự khống chế của Nhật Bản, nội các Trần Trọng Kim
tuyên bố: "quốc dân phải
gắng sức làm việc, chịu nhiều hy sinh hơn
nữa và phải thành thực hợp tác với nước Đại
Nhật Bản trong sự kiến thiết nền Đại Đông Á,
vì cuộc thịnh vượng chung của Đại Đông Á có
thành thì sự độc lập của nước ta mới không
phải là giấc mộng thoáng qua". Bản Tuyên
cáo của Chính phủ Trần Trọng Kim làm nhân dân
bàn tán xôn xao, vì Đức đã bại trận, Nhật Bản
cũng khó tránh khỏi thất bại, cho nên Trần
Trọng Kim lại phải tuyên bố để trấn an dư
luận: "Việc nước Đức đầu
hàng không hại gì đến sự liên lạc mật thiết
giữa hai nước Nhật và Việt Nam… Sự bại trận
ấy không thể giảm bớt lòng chúng ta kiên
quyết giúp Nhật Bản đeo đuổi cuộc chiến đấu
cho đến khi toàn thắng để kiến thiết vùng
Đại Đông Á… ta chỉ phải giữ vững cuộc trị an
trong nước và chịu những hy sinh cần thiết
để cho quân đội Nhật Bản được chúng ta tận
tâm giúp đỡ về mặt tinh thần và vật chất,
nền độc lập của chúng ta có như thế mới thật
vững bền". Ông Phạm Khắc Hòe,
nguyên Tổng lý Ngự tiền văn phòng của nhà
Nguyễn nói về bản Tuyên cáo: "Rõ
ràng là Trần Trọng Kim đã hạ quyết tâm phục
vụ quan thầy Nhật đến cùng…"[29].
Nhà nghiên cứu Phạm
Xuân Ba, nhận xét rằng "nền độc lập" của
Đế quốc Việt Nam rõ ràng chỉ là giả hiệu bởi
những lý do sau[36]:
- Một nước độc
lập phải có một Chính phủ được toàn dân bầu
ra, có bộ máy Nội các đầy đủ, hoàn toàn độc
lập. Nội các Trần Trọng Kim thì hoàn toàn
không do quốc hội lập
ra, cũng không có hiến pháp, và cũng không được
toàn dân ủng hộ. Chính phủ này cũng không có Bộ
Quốc phòng, không có quân đội, không
có Bộ Công an, việc giữ an ninh quốc gia,
tuyên truyền do quân Nhật nắm giữ.
- Chính phủ
Trần Trọng Kim đã để mặc (hoặc không dám
ngăn cản) việc quân Nhật vơ vét lương thực
của người dân Việt Nam, gây ra nạn
đói kinh hoàng làm chết hơn 2 triệu người ở
nhiều tỉnh miền Bắc.
- Câu nói cuối
cùng trong bản "Tuyên cáo độc lập" của Đế
quốc Việt Nam là "Chính
phủ Việt Nam một lòng tin cậy lòng thành ở
Nhật Bản đế quốc, quyết chí hợp tác với
nước Nhật, đem hết tài sản trong nước để
cho đạt được mục đích như trên", tự
điều đó cho thấy chính phủ này phải lệ thuộc
chặt chẽ vào Đế
quốc Nhật Bản
- Ngày
25/8/1945, Bảo Đại đã
đọc Tuyên
ngôn Thoái vị trước
hàng ngàn người tại Ngọ
Môn, sau đó trao ấn tín cho
đại diện Việt Minh là
ông Trần
Huy Liệu. Bảo Đại nói: "Trẫm
muốn làm dân một nước độc lập, hơn làm Vua
một nước bị trị". Câu nói này chứng tỏ
Bảo Đại thừa nhận trước đó nước Việt Nam
chưa có được độc lập, và chính Bảo Đại đã
"khai tử" bản Tuyên ngôn Độc lập giả hiệu mà
ông phải đọc từ sức ép của Đế quốc Nhật.
Chính phủ Trần
Trọng Kim muốn lợi dụng Nhật để hất cẳng hoàn
toàn ảnh hưởng của Pháp, nhưng bản thân họ
cũng bị Nhật biến thành bù nhìn. Chớp lấy thời
cơ Nhật đầu hàng quân Đồng Minh, phải giải
giáp vũ khí, lực lượng Việt Minh đã ra chỉ thị
"Nhật - Pháp bắn nhau và hành động của chúng
ta", kêu gọi dân chúng biểu tình, bãi công,
giành lấy chính quyền. Sau khi chính quyền
Việt Minh được thành lập, nhiều nhân vật của
chính phủ Trần Trọng Kim đã tham gia vào chính
phủ của Việt Minh.[21] Còn
Trần Trọng Kim, do tư tưởng bảo hoàng quá cao
nên ông vẫn bài xích Việt Minh vì cho rằng họ
có tội "tiếm đoạt ngôi vua", và từ chối hợp
tác với Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa mới
được thành lập.
Phan Anh, bộ
trưởng bộ Thanh niên của chính phủ Trần Trọng
Kim và cũng là Bộ trưởng Bộ Quốc phòng đầu
tiên của chính phủ Việt Minh, đã trả lời cuộc phỏng
vấn của nhà sử học Na
Uy Stein Tonnesson năm
1989:
- "… Chúng tôi
không muốn bị cả người Pháp lẫn người Nhật
đánh lừa mình… Chúng tôi nghĩ rằng nhiệm
vụ cấp bách là phải đuổi bọn Pháp ra khỏi
bộ máy hành chính...
- Khẩu hiệu thứ
hai của chúng tôi là tạm thời ngồi làm
việc với người Nhật, nhưng không phải là
"đồng tác giả", không phải là "kẻ hợp tác"
với họ; phải giữ thế trung lập".[37]
- "… Lấy tư cách
là thành viên của chính phủ Trần Trọng
Kim, tôi nói với ông rằng chúng tôi tuyệt
đối không có ảo vọng gì về người Nhật.
Tình thế đã dứt khoát rồi. Phải là kẻ điên
mới đi hợp tác với Nhật. Có những người
điên, nhưng chúng tôi là trí thức, chúng
tôi tham gia chính phủ là để phụng sự…
Chính vì muốn giữ thế trung lập mà chúng
tôi đã quyết định không có bộ Quốc phòng.
Người Nhật muốn có bộ ấy để lôi kéo chúng
tôi đi với họ. Thay bộ ấy chúng tôi lập Bộ
Thanh niên. Phong trào Việt Minh đã nổi
tiếng và gây được hiệu quả là vì được
thanh niên ủng hộ. Chúng tôi vận động một
phong trào thanh niên là nhằm mục đích
quốc gia và mục đích xã hội. Phong trào
thanh niên của chúng tôi không hề xung đột
gì với Việt Minh. Cùng theo đuổi một mục
tiêu như nhau mà!"…[37]
Khi phát xít Nhật
sắp bại trận, ngày 8/5/1945, Trần Trọng Kim
vẫn còn phải ra bản tuyên cáo, yêu cầu quốc
dân "phải giữ vững cuộc trị an trong
nước và chịu những hy sinh cần thiết để cho
quân đội Nhật Bản được chúng ta tận tâm giúp
đỡ về mặt tinh thần và vật chất. Nền độc lập
của chúng ta có như thế mới vững bền" (Việt
Nam tân báo ra ngày 18/5/1945). Ông Phạm Khắc Hòe,
nguyên Tổng lý Ngự tiền văn phòng của triều
Nguyễn nhận xét rằng: Trần Trọng Kim ra sức
giữ ngôi báu cho nhà Nguyễn nên
sẵn sàng phục vụ cho phát xít Nhật.
Khi Cách mạng Tháng
Tám nổ ra, Trần Trọng
Kim ra sức phản đối, tuy nhiên các thành viên
khác trong nội các đã ủng hộ Cách mạng nên
Trần Trọng Kim không làm gì được[29]:
- "Rõ ràng là
Trần Trọng Kim đã hạ quyết tâm phục vụ
quan thầy Nhật đến cùng… Ngày 17-8, chính
phủ họp. Ông Trần
Đình Nam, Bộ trưởng Bộ Nội vụ, phát
biểu: "Toàn dân thắt chặt đoàn kết chung
quanh tổ chức mạnh nhất, hăng hái nhất,
tức là Việt Minh, làm cho nước ngoài không
thể giở thủ đoạn "chia để trị" ra được
nữa. Vậy, tôi đề nghị chúng ta rút lui
ngay, nhường hẳn quyền bính cho Việt Minh.
Theo tôi nghĩ thì cả Hoàng đế cũng nên rút
lui". Câu nói này làm cho Trần Trọng Kim
nhảy dựng người lên, nghiêm khắc lên án
Trần Đình Nam dám đòi nhà vua bỏ ngôi báu.
Một cuộc tranh luận sôi nổi dấy lên.
- Các bộ trưởng
có thiện chí đều xin từ chức. Chính phủ
Trần Trọng Kim không thể tồn tại được. Ông
Trần Trọng Kim có muốn duy trì nó cũng
không được. Ông đành ấm ức chấp nhận thực
tế phũ phàng chứ không phải tự nguyện
nhường quyền cho Việt Minh.
- Chính phủ Việt
Nam dân chủ cộng hòa được thành lập sau
cuộc cách mạng tháng 8 năm 1945 là kết quả
của cuộc đấu tranh lâu đài, gian khổ, đầy
hy sinh của nhân dân Việt Nam chống đế
quốc Pháp, Nhật và tay sai, chứ đâu phải
là một chính phủ chuyển tiếp êm thấm. Càng
không phải là nhờ thiện chí của ông Thủ
tướng Trần Trọng Kim!
Ở Việt Nam, đa số
quần chúng tỏ ra thờ ơ lạnh nhạt với sự "độc
lập" do quân đội Nhật dựng nên. Ngày
17/3/1945, ở các hương thôn, lý trưởng được
lệnh tổ chức dân chúng mừng sự ra đời của Đế
quốc Việt Nam tại các đình làng, nhưng không
khí rất ảm đạm:
- "Cửa đình mở
rộng, trước sân đình có cờ, chuông, trống,
như ngày cúng Thần. Hội đồng xã chỉ lưa
thưa có mấy ông. Dân chúng chẳng ai đến
cả, trừ một số chức việc có phận sự trong
làng. Đến giờ, chuông trống nổi dậy, hương
xã làm lễ tế Thần. Lý trưởng đọc lời
‘tuyên cáo độc lập’. Y như một bài văn tế.
Xong, chiêng trống tiếp tục và buổi lễ
chấm dứt không đầy 30 phút. Không một
tiếng vỗ tay. Không một lời hoan hô. Các
ông làng xã, khăn đen áo dài khệ nệ như
trong các đám cúng Thần theo nghi lễ cổ
truyền, lặng lẽ đóng cửa đình sau khi dọn
dẹp"[38]
Việc đưa Trần
Trọng Kim đứng ra lập nội các cho Bảo Đại
trước sau đều do người Nhật đạo diễn để dẫn dụ
ông, chứ bản thân ông tự ý thức bản thân mình
bất lực, họ trao quyền cũng chỉ để biến ông
thành bù nhìn.[38] Trong
thư viết ngày 8/5/1947 tại Sài Gòn gửi học giả Hoàng Xuân Hãn,
ông Trần Trọng Kim nói về tình hình yếu kém
của Đế quốc Việt Nam năm 1945, sự bất lực của
ông và vai trò tiếp quản của Việt Minh như
sau:[24]
- "Còn về phương
diện người mình (Đế quốc Việt Nam), thì
tôi thấy không có gì đáng vui. Phe nọ đảng
kia lăng nhăng chẳng đâu vào đâu cả. Ai
cũng nói vì lòng ái quốc, nhưng cái lòng
ái quốc của họ chỉ ở cửa miệng mà thôi,
nhưng kỳ thực là vì địa vị và quyền lợi,
thành ra tranh giành nhau, nghi kỵ nhau
rồi lăng mạ lẫn nhau... Tôi thấy tình thế
có nhiều nỗi khó khăn quá, mà mình thì
thân cô thế cô, không làm gì được, cho nên
chỉ giữ cái địa vị bàng quan mà thôi...
Tôi vẫn biết việc chống Pháp chỉ có Việt
Minh mới làm
nổi... Nay Việt Minh đứng vào cái địa vị
chống Pháp, tất là có cái thanh thế rất
mạnh...".
Lưu vong và hồi
hương
Khi quân Nhật thất
trận sắp đầu hàng Đồng
Minh, chính phủ Trần
Trọng Kim cũng chỉ tồn
tại được đến ngày 23 tháng 8 năm
1945 thì sụp đổ.[1][39]
Sau khi Việt Minh giành
được chính quyền và nước Việt Nam Dân chủ
Cộng hòa được thành
lập, chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã
đối xử với ông cực kỳ ưu đãi. Ông được sống
yên ổn tự do ở nhà, Chính phủ Việt Nam Dân chủ
Cộng hòa còn cấp tiền lương cho ông. Chính ông
đã viết trong hồi ký: "Bây
giờ tôi không có tiền, may nhờ chính phủ
Việt Minh ở Huế trả tôi 1.600 đồng tiền
lương quá nửa tháng 8 tôi mới có tiền chi
tiêu". Món tiền 1.600 đồng thời ấy là
không hề nhỏ, có thể mua được hai tấn gạo[29].
Tháng 6-1946, khi
quân Quốc dân đảng Trung Quốc phải rút về
nước, ông sang Trung Quốc tìm gặp cựu hoàng Bảo Đại đang ở
Hồng Kông. Ông cùng Bảo Đại bàn mưu tính kế
khôi phục lại ngôi báu nhà Nguyễn, có cả
Cousseau, chỉ huy mật thám Pháp tham dự.
Sau nhiều năm
tháng ở Quảng Châu và Hồng
Kông, ngày 6 tháng 2 năm 1947,
ông trở về Sài Gòn và
sống tại nhà luật sư Trịnh Đình Thảo.
Người Pháp thu xếp
cho ông trở về Sài Gòn để
vận động thành lập chính phủ mới. Về đến Sài
Gòn, ông nhận ra rằng những lời hứa hẹn của
người Pháp là giả dối nên ông quyết định không
làm gì.
Năm 1948,
ông qua Phnom Penh và
sống với người con gái. Sau đó, ông lại trở về
Việt Nam sống thầm lặng. Trong thời gian này
ông có viết hồi ký về giai đoạn ông làm chính
trị. Theo nhà nghiên cứu Vũ Ngọc Khánh,
tập hồi ký này của Trần Trọng Kim cả về nội
dung và nghệ thuật đều chưa đạt, nhiều sự kiện
Trần Trọng Kim né tránh không dám trình bày vì
mang tiếng xấu cho bản thân ông (việc ông phục
vụ phát xít Nhật, nạn đói
năm Ất Dậu khiến 2
triệu người chết mà ông cũng gián tiếp chịu
trách nhiệm).
Trần Trọng Kim mất
tại Đà
Lạt vào ngày 2 tháng 12 năm 1953 do
bị đứt
mạch máu, thọ 71 tuổi.
Bài
Ai-điếu
Cố Thủ-Tướng Trần-trọng-Kim của
quốc trưởng
Bảo Đại do
quan khâm mạng đọc trước linh cữu năm
1953.
“ |
Cụ Trần
Trọng Kim qua đời (2/12/1953). Nhận
được tin buồn, Quốc trưởng Bảo Đại
muốn an táng cụ tại Đà Lạt - nơi cụ
trút hơi thở cuối cùng. Nhưng theo hồi
ký của người thân trong gia đình,
trước đó cụ Kim đã dặn dò người nhà,
khi cụ qua đời thì đưa về chôn cất
cạnh chùa Láng. Ở đó, gia đình có một
khoảnh đất.
Nhận được tin học giả Trần Trọng Kim
- Thủ tướng Đế quốc Việt Nam (1945) từ
trần, các đảng phái cử người lục tục
lên Đà Lạt chia buồn cùng gia đình.
Quốc trưởng Bảo Đại hạ lệnh khẩn cấp
đưa phi cơ tới Liên Khương để chuyển
linh cữu cụ về Hà Nội. Việc lễ tang,
Quốc trưởng giao ông Đổng lý Nguyễn Đệ
và ông Thủ hiến Bắc Việt lo liệu.
Máy bay chở linh cữu học giả Trần
Trọng Kim đáp xuống sân bay ngoài Hà
Nội (tất nhiên không phải Nội Bài).
Đông đảo người dân ưa ra xem, vì hiếu
kỳ cũng có.
Chiếc quan tài kẽm được quàn tại chùa
Quán Sứ. Thủ hiến Nguyễn Hữu Trí chủ
sự tang lễ. Tướng Bảy Viễn từ Sài Gòn
bay ra. Phủ Cao ủy cũng cử đại diện
tới viếng tang.
Có chuyện vui là người em vợ cụ Trần
Trọng Kim viết một bài thơ phúng,
không đề tên, rồi đem treo cạnh quan
tài : PHÚNG TRẦN HỌC GIẢ / Hai
vai nặng trĩu bảy mươi đông / Còn cố
len vào, gánh núi sông / Sức yếu khôn
lay Liên hiệp cũi / Thân đơn khó phá
Quốc nô vòng / Tay xuôi, vẹn cả, hai
tay trắng / Máu đọng, y nguyên, giọt
máu hồng...
Linh cữu cụ Trần Trọng Kim được đưa
ra an táng như ý nguyện. Đến năm 1987,
khu vực này Nhà nước lấy đất để mở
rộng trường Đại học GTVT và trường Đội
Lê Duẩn. Phần mộ học giả Lệ Thần được
cải táng vào đài hoá thân Hoàn Vũ rồi
tro cốt gia đình gửi chùa Vĩnh Nghiêm
(TP.HCM) như ngày nay những người quan
tâm tới cụ đều biết./. |
” |
— Kí giả Kiều Mai Sơn, Lễ
tang cụ Trần Trọng Kim, 22 tháng
12 năm 2020, 13:43 (GMT+7) |
Đánh giá
Phan Anh, Bộ
trưởng Thanh niên trong Nội các của ông, nhận
xét:
- "Tôi quen Trần
Trọng Kim từ ngày ông còn dạy học, viết
sử. Trong những tác phẩm của mình, ông
động viên ý chí quật cường cho thanh
niên... Tôi rất có cảm tình đối với ông
ấy. Trần Trọng Kim là một người yêu nước
nhưng không phải là một nhà chính trị. Ông
ta cần được sự giúp đỡ ý kiến" [40]
Từ năm 1945, do
nhận lời làm Thủ tướng Đế quốc Việt Nam, ông
bị các báo chí bí mật của giới trí thức yêu
nước chửi rủa nặng nề. Chu
Lang làm thơ phê phán
ông thẳng thừng:
- "Ngực đeo cái
biển Việt gian, cúi đầu bái tạ Thiên hoàng phía
đông".
Khi gặp đại diện
của Việt Minh, ông Lê Trọng Nghĩa,
Trần Trọng Kim nói:"Lịch sử sẽ phán xét
công việc của chúng tôi"[41][42][43] Khi
ông Kim gặp Tổng tư lệnh Tsuchihashi để yêu
cầu Nhật trả lại ba tỉnh Hà Nội, Hải Phòng, Đà
Nẵng và toàn bộ đất Nam kỳ cho Việt Nam:
- "Quân đội Nhật
đã đánh quân đội Pháp và công nhiên hứa
hẹn trả quyền tự chủ cho nước Việt Nam.
Bởi vậy tôi không quản tuổi già và sự khó
khăn của hoàn cảnh mà đứng ra lập chính
phủ. Tôi làm việc một lòng giúp nước tôi,
cũng như các ông lo việc giúp nước Nhật…
Nếu các ông cho tôi là người làm việc cho
nước Nhật, việc ấy không phải là phận sự
của tôi, tôi sẵn sàng xin lui…"[44]
Chính phủ Trần
Trọng Kim từng đưa ra bản Tuyên cáo về đường
lối chính trị, trong đó tuyên bố "quốc
dân phải gắng sức làm việc, chịu nhiều hy
sinh hơn nữa và phải thành thực hợp tác với
nước Đại Nhật Bản trong sự kiến thiết nền
Đại Đông Á". Ông Phạm Khắc Hòe,
nguyên Tổng lý Ngự tiền văn phòng của nhà
Nguyễn nhận xét:
- "Rõ ràng là
Trần Trọng Kim đã hạ quyết tâm phục vụ
quan thầy Nhật đến cùng… Bộ mặt Việt gian
phản quốc của Trần Trọng Kim ngày nay
chúng tôi mới thấy thật rõ, nhưng đã được
những người cộng sản vạch ra một năm trước
khi nội các Trần Trọng Kim ra đời. Nhà
cách mạng Trường Chinh, trong báo Cờ Giải
phóng số ra ngày 18-4-1944 đã viết: "Bọn
Việt gian thân Nhật bảo: thì đồng bào ta
cứ hy sinh cho Nhật miễn sao cho cuộc
chiến tranh Đại Á của Nhật được toàn thắng
thì nước ta sẽ được độc lập tự do. Xảo
quyệt thay giọng lưỡi ấy. Có đời thuở nào
hy sinh cho bọn đế quốc đang cướp nước
mình lại được độc lập tự do bao giờ. Giá
bọn Việt gian thân Nhật nói trắng ngay
rằng đồng bào hãy chịu khó hy sinh tính
mạng, tài sản để cho một nhóm Việt gian
thân Nhật được mũ cao áo dài thì đúng
hơn""[29].
Tuần báo Văn nghệ
thành phố Hồ Chí Minh có bài viết nhận xét:
Vua Bảo Đại chỉ là bù nhìn trong
tay người Pháp và người Nhật, thế mà Trần
Trọng Kim vẫn chấp nhận phục vụ phát xít Nhật để
tìm cách giữ ngôi vua cho Bảo Đại. Trần Trọng
Kim đã được Việt Minh khoản đãi rất tốt, nhưng
ông vẫn bỏ ra nước ngoài để theo vua Bảo Đại
(và Bảo Đại lúc đó thì đang nhận sự tài trợ
tiền bạc của Pháp, thế lực đã quay lại xâm
chiếm Việt Nam). Dù sớm nhận ra sự giả dối của
Pháp và về nước, nhưng Trần Trọng Kim vẫn có
những bài viết, cuốn sách với nội dung bài
xích Việt Minh và phong trào kháng
chiến chống Pháp do
Việt Minh lãnh đạo chỉ vì họ đã buộc Bảo Đại
thoái vị. Vì lòng trung thành với một vị vua
mà đi ngược lại phong trào kháng chiến của dân
tộc, thì có thể coi Trần Trọng Kim là "ngu
trung" và rất mâu
thuẫn với một người được giáo dục theo tinh
thần Cộng hòa của nước Pháp[45].
Nhà thơ Nguyễn Hải
tỏ ra trân trọng đóng góp về học thuật của
Trần Trọng Kim, nhưng phê phán việc ông phục
vụ quân phát xít Nhật[45]:
- Một tài năng
tầm cỡ
- Một tiết tháo
hoen mờ!
- Một cái tên,
liệu rồi mai một, một mai!…
Nhà nghiên cứu Vũ Ngọc Khánh nhận
xét:
- Ông bị lôi
cuốn vào hoạt động chính trị, mặc dầu sự
hiểu biết chính trị của ông không sâu sắc,
không thức thời. Ông bị người ta (Nhật)
dùng làm con bài, mà vẫn tưởng là họ cho
ông ra đóng góp với dân tộc. Tư tưởng của
Trần Trọng Kim là tư tưởng luân lý phong
kiến. Đọc sách Nho giáo của
ông, mọi người thấy rõ điều này. Cho đến
khi gặp bế tắc, ông vẫn cứ phải loay hoay
với lý thuyết của Khổng Tử (qua
câu cuối cùng của ông nói với Phạm
Khắc Hòe về việc
đi ở ẩn), do đó mà bế tắc lại càng bế tắc.[46]
Tên đường và tác
phẩm
Tên đường
Hiện nay tại Phường 22, Bình Thạnh, Thành phố Hồ Chí
Minh có một con đường
mang tên ông.[47]
Tác phẩm
Trước năm 1945,
Trần Trọng Kim có nhiều tác phẩm nổi tiếng
thời bấy giờ về các lĩnh vực sử học, văn học, nghiên cứu và sư phạm gồm:
- Sơ học luận lý (1914)
- Vương
Dương Minh (1914)
- Việt
Nam văn phạm (Hợp
soạn, 1941)
- Luân lý
giáo khoa thư (1916)
- Sư
phạm khoa yếu lược (1916)
- Sơ
học An Nam sử lược (1917)
- Sư
phạm yếu lược (1918)
- Việt
Nam sử lược (1919).
Đây được coi là quyển sử Việt Nam đầu tiên
viết bằng chữ quốc ngữ, có phong cách ngắn
gọn, súc tích và dễ hiểu, thích hợp với
trình độ của đại chúng nên được tái bản
nhiều lần. Tuy nhiên thời gian biên soạn quá
ngắn nên sách có rất nhiều chi tiết sai sót,
sau này Trần Trọng Kim đã hiệu đính lại 2
lần nhưng vẫn còn nhiều lỗi sai.
- Truyện
Thúy Kiều chú giải (1925)
- 47
điều giáo hóa triều Lê (có
bản dịch ra tiếng Pháp- 1928)
- Nho giáo (3
tập từ 1930-32)
- Vương
Dương Minh (1934)
- Phật giáo thuở xưa và Phật giáo
ngày nay (1938)
- Phật Lục (1940)
- Quan niệm về nhân sinh, Vũ trụ
đại quan (1943)
- Quốc
văn giáo khoa thư, 3 tập: lớp
Đồng ấu, Dự bị, và Sơ đẳng (soạn cùng Nguyễn
Văn Ngọc, Đặng Đình Phúc, Đỗ Thận; Nam
Sơn Nguyễn Văn Thọ vẽ)
- Việt
Nam văn phạm (cùng Bùi Kỷ, Nguyễn
Mạnh Tường) (1941).
Chú thích
- ^ a ă Justin Corfield
(2013). Historical Dictionary of Ho Chi
Minh City. Nhà xuất bản Anthem Press. ISBN
0857282352. Trang 299.
- ^ Bằng Giang
(1999), Sài Côn cố
sự 1930-1975, Nhà xuất bản Văn
học, Trang 111.
- ^ a ă Huỳnh Kim Khánh
(1986), Vietnamese
Communism, 1925-1945, Nhà xuất bản
Đại học Cornell, ISBN
0801493978, Trang 295.
- ^ Quốc Liên Mai,
Văn Lưu Nguyễn, Hoài Anh, Minh Đức Hà
(2004). Văn học
Việt Nam thế kỷ XX, Tập 5, Phần 2.
Nhà xuất bản Văn học. Trang 859.
- ^ “Trần Trọng
Kim học giả”. Báo Tia sáng, bộ
Khoa học và Công nghệ. Truy
cập 2 tháng 7 năm 2014.
- ^ a ă â Quốc Liên Mai,
Văn Lưu Nguyễn, Hoài Anh, Minh Đức Hà
(2007). Văn học
Việt Nam thế kỷ XX, Tập 3, Phần 1.
Nhà xuất bản Văn học. Trang 621.
- ^ Trần Văn Giáp
(2007). Lược truyện
các tác giả Việt Nam, Tập 2. Nhà
xuất bản Khoa học Xã hội. Trang 121.
- ^ Lữ Giang (1999). Những
bí ẩn đằng sau cuộc chiến Việt Nam,
Tập 1. Trang 190.
- ^ Xem hồi ký 'Một
cơn gió bụi'
- ^ Guy Faure,
Laurent Schwab (2008). Japan-Vietnam:
A Relation Under Influences.
Publisher NUS Press. ISBN
9971693895. Trang 27.
- ^ "Nhận thức lại" hay xuyên tạc
và phủ nhận lịch sử ?, THIÊN
PHƯƠNG, Báo Nhân dân, 13/03/2015
- ^ Nguyễn Kỳ Nam.
Hồi ký 1925-1964. Tập 2, trang 166
- ^ Justin Corfield. Historical
Dictionary of Ho Chi Minh City.
Publisher Anthem Press. ISBN
0857282352. Trang 138. "Hoàng đế
Bảo Đại tuyên bố Việt Nam độc lập".
- ^ Nghia M. Vo
(2011). Saigon: A
History. Publisher McFarland. ISBN
0786486341. Trang 112.
- ^ Phạm Khắc Hòe
(1983). Từ triều
đình Huế đến chiến khu Việt Bắc.
Nhà xuất bản Hà Nội. [cần số trang]
- ^ Masaya Shiraishi
trích trong L Indochine française (Đông
Dương thuộc Pháp) của Paul Isoart, Nhà
xuất bản Presses Universitaires
Françaises, 1982
- ^ Bảo Đại, hay là
những ngày cuối cùng của vương triều An
Nam, Daniel Grandcléme. Nhà xuất bản Phụ
nữ. Trang 184
- ^ Ngô Văn Quỹ: Đêm
dài Nhật – Pháp bắn nhau – Nhà xuất bản
Trẻ, 2001. Trích: "Il-y-a un grand
malentendu au sujet de l’idépendance de
l’Indochine. Celle ci tout entière est
sous le contrôle militaire du Japon.
L’indépendence de l’Empire d’Annam et
cellce du Cambodge on été pro clameés.
La Cochinchine, non seulement se trouve
sous le contrôle militaire du Japon,
mais encore sous l’aminis tration
militaire japonaise. Donc, pas
l’idépendance de la Cochinchine…"
- ^ a ă â b c “Trần Trọng
Kim, chính khách bất đắc dĩ?”.
Báo Tia Sáng. Truy
cập 3 tháng 7 năm 2014.
- ^ Thomas Hodgkin
(1981).Vietnam: the revolutionary
path. Nhà xuất bản Macmillan.
Trang 362.
- ^ a ă â Thái Kim
Đỉnh (1 tháng 2 năm 2013). “Lệ thần Trần
Trọng Kim (1883 - 1953): Học giả
& Chính khách”. Tạp
chí Văn hóa Nghệ An.
- ^ a ă Sự thật lịch sử không thể tô
hồng, không thể bôi đen, Tuần báo
Văn nghệ Tp.HCM, 2/6/2017
- ^ Những ngày làm vua cuối cùng
của hoàng đế Bảo Đại - Kỳ 2: Thông
điệp gửi tướng De Gaulle, Báo
Thanh niên, 4/9/2015
- ^ a ă "Nhận thức lại" hay xuyên tạc
và phủ nhận lịch sử ?, Báo
Nhân dân, 12/03/2015
- ^ Nội các Trần
Trọng Kim với Trường Thanh niên tiền
tuyến Huế năm 1945. Tạp chí Huế -
Xưa và Nay. Số tháng 7,8 năm 2005.
- ^ Tiến sĩ Lê
Mạnh Hùng (ngày 15 tháng 4 năm 2006). “Chính phủ
Trần Trọng Kim năm 1945”. Đài
Á Châu Tự do. Truy
cập ngày 27 tháng 8 năm 2013.
- ^ a ă Organization and
order or batte of militaries in World
war II: Germany's and Imperial Japan's
allies & Puppet states. P 5-7
- ^ Dommen, Arthur J. The
Indochinese Experience off the French
and the Americans, Nationalism and
Communism in Cambodia, Laos, and
Vietnam. Bloomington, IN: Indiana
University Press, 2001. 101-756.
- ^ a ă â b c d đ Thực chất chính phủ Trần Trọng
Kim và "lòng yêu nước" của ông Thủ
tướng, Tuần báo Văn nghệ Thành phố
Hồ Chí Minh , 29/4/2017
- ^ Hà Nội: Nhà xuất
bản Giáo dục, 1998, tr. 370-378.
- ^ 'Việt Nam: Những
Sự Kiện Lịch sử (1919 – 1945)' của Dương
Trung Quốc
- ^ 'Lịch sử Việt Nam
Giản Yếu'. Nhà Xuất Bản Chính trị Quốc
gia
- ^ Lịch sử Việt Nam,
tập II. Nhà Xuất Bản Khoa Học Xã Hội,
1989.
- ^ Organization and
order or batte of militaries in world
war ii: germany's and imperial japan's
allies & Puppet states. P 5-7
- ^ Lebra, Joyce C.
Japan's Greater East Asia Co-Prosperity
Sphere in World War II: Selected
Readings and Documents. New York: Oxford
University Press, 1975, p. 157, 158, 160
- ^ Về hai bản tuyên ngôn độc lập,
Tuần báo Văn nghệ Tp.HCM, 19/3/2016
- ^ a ă “Giáo sư Stein
Tonnesson phỏng vấn Bộ trưởng Phan
Anh”. Nghĩ về nước Việt. Truy
cập 3 tháng 7 năm 2014.
- ^ a ă Trần Văn Chánh
(26 tháng 4 năm 2014). "Tản mạn nhân vật lịch sử Trần
Trọng Kim qua những trang hồi ký". Tạp
chí Văn hóa Nghệ An.
- ^ PGS. TS. Phạm
Hồng Tung. Nội các
Trần Trọng Kim: Bản chất, vai trò và
vị trí lịch sử. Chương 2. Bản tóm tắt.
- ^ Lệ thần Trần Trọng Kim (1883 -
1953): Học giả & Chính khách,
Văn hóa Nghệ An, 01 Tháng 2 2013
- ^ 'Tưởng nhớ Phan
Anh' do Hoàng Xuân Hãn viết, tập I. Tạp
chí Hồng Lĩnh, số 6 năm 1993
- ^ La Sơn Yên Hồ
Hoàng Xuân Hãn (1908-1996) do Hữu Ngọc -
Nguyễn Đức Hiền biên soạn. Nhà xuất bản
Giáo dục, 1998, tr. 370-378.
- ^ Lê Trọng Nghĩa,
"Các Cuộc Tiếp Xúc Giữa Đại Diện Việt
Minh Với Chính Phụ Trần Trọng Kim",
trong Xưa và Nay, số 5 (06), VIII,.
1994, tr. 4 6 và số 6 (07), IX, 1994,
tr. 9 -.
- ^ Một đoạn trong
sách của G.S Lê Xuân Khoa (SĐD): "Khoảng
tháng 6-1945
- ^ a ă Phê bình Việt Nam sử lược,
Tuần báo Văn nghệ Tp HCM, 31/12/2016
- ^ Vũ Ngọc
Khánh (26 tháng 11 năm 2009). “Bàn thêm về
Trần Trọng Kim”. Tạp chí Văn hóa
Nghệ An. Bản gốc lưu
trữ ngày 26 tháng 11 năm 2009. Truy
cập ngày 7 tháng 1 năm 2011.
- ^ Đường Trần Trọng Kim,
Google map
Xem thêm
Liên
kết ngoài