PHẦN
V
BIÊN
GIỚI VIỆT
NAM THỜI PHÁP THUỘC
NƯỚC
PHÁP
VÀ
NƯỚC TÀU
PHÂN
ĐỊNH
BIÊN
GIỚI
VN.
Khỏang
giữa
thế kỷ thứ 19, nước
Pháp chiếm nước ta.
Triều đ́nh nhà Nguyễn và Pháp kư
Hiệp ước Bảo hộ ngày 6 tháng 6 năm 1884. Điều khỏan
I
của Hiệp ước quy định : “Nước An Nam nh́n nhận
và
chấp thuận sự bảo hộ của nước Pháp. Nước Pháp sẽ
đại diện
cho An Nam trong mọi liên hệ với các nước khác.
Người An Nam sống ở ngoại quốc sẽ được đặt dưới sự
bảo vệ của
nước Pháp.” Người Pháp đă dựa vào điều
khỏan này để phân định biên giới giữa ta và
nước Tàu. Nhà nước bảo hộ Pháp và triều
đ́nh Măn Thanh đă kư hai Hiệp định
xác nhận về biên giới Việt-Hoa vào ngày
26.6.1887 và ngày 20.6.1895 tại Bắc Kinh, sau khi
đă kư Hiệp ước Biên giới ngày 9.6.1885 tại
Thiên Tân. Điều 15 của Hiệp ước này ghi : “Nước
Pháp
bảo
đảm
từ
nay
sự
vẹn
toàn
lănh
thổ
của
vua
xứ
An
Nam,
bảo
vệ
xứ
này
chống
lại những gây hấn đến từ
bên ngoài và chống lại những phản loạn ở trong
nước..” Nước Pháp có tôn trọng sự vẹn
toàn lănh thổ của nước Việt Nam hay không, người
Pháp có v́ quyền lợi riêng tư mà
nhượng đất Việt Nam cho nước Tàu hay không ? Chúng
ta theo rơi cuộc phân định biên giới Việt Hoa do
người Pháp và người Tàu chủ trương.
Việc
phân
định
và
cắm
mốc
biên
giới
Việt
Hoa
bắt
đầu
ngày
12.1.1886 giữa hai
phái đ̣an Pháp –Thanh tại Đồng Đăng (Lạng
Sơn). Sau hơn 10 năm làm việc phân giới đă
có một số cột mốc được cắm.
Số
cột
mốc
có
tất
cả
là
308
cột.
Vùng
biên
giới
giáp
với Quảng
Đông có 33 cột. Cột thứ nhất cắm trên một đảo
nhỏ tên là Sư Tử Lănh. Cột thứ 33 cắm tại một ngọn
đèo khoảng giữa hai núi kư hiệu 746 và 750,
cách thung lũng Bắc Cương Ải 340m. về hướng
nam.
Tại
vùng
biên
giới
giáp
với
Quảng
Tây
được
chia
lảm
hai
đoạn.
Đoạn
một từ sông B́nh Nhi, trên sông Kỳ Cùng
cho đến biên giới tỉnh Quảng Đông, cắm từ Tây
sang Đông có 67 cột. Cột mốc vùng Nam Quan,
mang số 18, được cắm trên con đường từ cổng Nam
Quan, cách
cổng Nam Quan 100 mét về hướng Đồng Đăng. Đoạn thứ 2
từ B́nh Nhi đến biên giới tỉnh Vân Nam có 140
cột mốc cắm từ Đông sang Tây. Thác Bản Giốc, xưa
gọi là Tụ Tổng trên sông Quy Xuân (hay Quy
Thuận hay Quế Chung) ở đoạn này, v́ thác ở gần đồn
Bản Giốc nên Pháp gọi là Thác Bản Giốc.
Thác này ở gần cột số 52, 53, 54.
Vùng
biên
giới
Vân
Nam
chia
làm
5
đoạn.
Đọan
thứ
5
tính
từ hữu
ngạn sông Hồng. Từ sông Hồng đến sông Đà
không cắm mốc. Từ sông Đà đến biên giới
Lào có 4 cột mốc. Theo Công ước Gérard năm
1895 th́ phần Thượng Lào thuộc về Việt Nam. Pháp
lấy danh nghĩa Việt Nam để kư với Tàu vùng
biên giới Thượng Lào giáp Vân Nam.
Vùng
tả
ngạn
sông
Hồng
được
chia
ra
làm
4
tiểu
đoạn.
Đoạn
thứ nhất từ hợp lưu
sông Hồng với sông Lũng Pô qua sông Nậm thi,
biên giới là gịng sông th́
không cắm mốc. Đoạn 1 đến sông Kosso (Tiểu Đỗ
Chú Hà) th́ có 21 cột mốc, đoạn thứ 2 từ
Tiểu Đỗ Chú Hà đến Cao Mă Bạch có 19
cột mốc được cắm. Đoạn 3 và 4 từ Cao Mă Bạch đến
biên giới Quảng Tây gồm có 24 mốc. Như thế từ
sông Hồng đến biển có 304 cột mốc. Từ sông Hồng đến
biên giời Lào có 4 cột mốc, như vậy có 308
cột mốc tất cả.
Chiều
dài
đường
biên
giới
Việt
Hoa
theo
Công
ước
Pháp
Thanh
th́
có
vào khoảng 1350 cây số, nhưng
đó là tính theo Công ước Gérard 1895
kéo dài biên giới từ hữu ngạn sông Hồng đến
sông Cửu Long bao gồm cả vùng Thượng Lào. Con số
1350 cây số biên giới là tính từ biển
tới sông Cửu Long. Nay bỏ miền Thượng Lào ra th́
biên giới Việt Hoa c̣n vào khoảng 900 cây số.
NHỮNG VÙNG ĐẤT
BỊ
MẤT.
1-
MẤT
ĐẤT
LÀO.
Người
Lào
vốn thuộc giống
Thái (Âu Việt)
là giống có địa bàn ở Nam Trung Hoa, từ Tứ
Xuyên xuống Lĩnh Nam, Vân Nam. Kể từ khi nhà
Tần chiếm Ba Thục, dân tộc Thái cứ dần dần bị đẩy
lui
xuống phía nam bán đảo Đông Dương và
thành lập nhiều nước như Thái Lan, Miến Điện,
Lào. Có một số bộ lạc Thái sinh sống tại miền bắc
Việt Nam.
Có
nhiều
bộ
lạc
hay
nổi
lên
cướp
phá
như
bộ
lạc
Ngưu
Hống, bộ lạc Bồn Man. Ngưu
Hống là bộ lạc Thái Đen ở Sơn La bên bờ
sông Đà. Bồn Man là bộ lạc Thái ở
vùng Xiêng Khỏang. Bồn Man bị vua Lê Thánh
Tông dẹp và đặt thành phủ Trấn Ninh. C̣n
Ngưu Hống bị nhà Trần diệt, sáp nhập vào địa đồ
Việt Nam đặt thành Mường Lễ, tỉnh Sơn La.
Nước
Lào
lúc
đầu
gồm
nhiều
bộ
lạc
và
nước
nhỏ
như
đất
Lăo Qua cũng gọi
là Nam Chưởng (Luang Prabang), Vạn Tượng (Vientian).
Đến năm
1353, một lănh tụ Lào là Fa Ngum chinh phuc được 2
nước trên thành lập nước tên là Lan Xang,
đôc lập với Chân Lạp, đóng đô ở Mường
Luông (Luang Prabang). Người Lào lúc th́
giúp các bộ lạc biên thùy giữa Việt Nam
và Lào cướp phá Việt Nam. Lúc bị quân
Xiêm (Thái Lan) xâm chiếm lại kêu cứu Việt Nam
giúp đỡ. Có lần vua Lào phản bội, bị quân
Việt Nam kéo qua chiếm Luang Prabang và đuổi vua
Lào tới tận biên giới Miến Điện.
“Đời
vua
Minh
Mệnh
(1827)
người
Nam
Chưởng
(Luang
Prabang)
thông
với
Xiêm
La, rồi cứ đem
quân xuống quấy nhiễu đất Trấn Ninh. Tù trưởng là
Chiêu Nội xin đem đất Trấn Ninh về nội thuộc Việt
Nam. Vua
Thánh tổ (Minh Mệnh) phong cho Chiêu Nội làm Trấn
Ninh Pḥng ngự sứ…Lại có đất Tam Động và Lạc
Phán (trước thuộc về Vạn Tượng) cũng xin nội thuộc.
Triều
đ́nh chia những đất ấy ra làm hai phủ là Trấn tĩnh
phủ và Lạc biên phủ. Năm ấy lại có xứ Xa Hổ, Sầm Tộ
(Sam Teu), Mường Soạn, Mang Lan (Mường Lam), Tŕnh
Cố, Sầm Nứa
(Sam Neua), Cam Môn và Cam Linh đều xin thuộc. Vua
Thánh Tổ chia những đất ấy ra làm ba phủ là Trấn
Biên, Trấn Định, Trấn Man…Ở miền Cam Lộ thuộc Quảng
Trị lại
có những mường Mang Vang, Ná Bi, Thượng Kế, Tả Bang,
Xương Thịnh, Tầm Bồn, Ba Lan, Mang Bổng, Lang Thời
xin về nội thuộc,
chia làm 9 châu. Đại khái là đất Sầm
Nưá, đất Trấn Ninh, đất Cam Môn và đất Savanakhet
bây giờ, thuộc về Việt Nam.” (Trần
Trọng Kim, Việt Nam Sử Lược)
Vương
quyền
Việt
Nam
đă
bao
trùm
nước
Lào
cho
đến
bờ
sông
Mekong.
Người Pháp đă biết quyền thượng quốc của Việt Nam
trên Lào và Cao Miên nên gọi các vua Việt Nam là
Hoàng Đế (Empereur
d’Annam) và gọi nước
Việt Nam
là Đế quốc (Empire d’Annam).
Khi
phân
định
biên
giới
chung
giữa
Việt
Nam
và
Trung
Hoa,
người
Pháp
đă coi phần Thượng Lào là đất Việt
Nam. Người Pháp thay mặt vua An Nam để phân định
biên giới giữa Vân Nam và Lào, không hề
nói đến chủ quyền của vua hay nước Lào. Công Ước
Gérard năm 1895 nói rơ điều đó :
“Đường
biên
giời
chung
giữa
Vân Nam và An Nam từ hợp
lưu của sông Đà với sông Nậm Nạp cho đến
sông Cửu Long th́ được định như sau: Từ hợp
lưu
sông Đà với sông Nậm Nạp, đường biên giới
theo sông Nậm Nạp cho tới nguồn, sau đó, theo hướng
tây nam dường phân thuỷ cho đến nguồn của sông Nam
Kang vả Nam Hou.
Từ
nguồn
sông
Nam
Hou,
đường
biên
giới
theo
đường
phân
thuỷ
giữa
lưu
vực của sông Nam Hou và sông Nam La, nhường
cho Tàu, phía tây, Bản Noi, O Pang, O Hou,
sáu núi Trà và nhường cho An Nam,
phía đông Mường Hou và Wou Te cùng với
Confédération Hua Panh Ha tang hoc. Đường biên
giới theo hướng bắc nam, tây nam cho tới nguồn của
Nam Suo Ho
và hợp lưu tả ngạn sông Nam La cho tới sông Cửu Long
và sông Nam La ở phiá tây bắc của Muong Pou,
vùng đất Muong Man và Muong Joueun th́ để cho
Tàu. Vùng đất Tám Mỏ Muối (Pa Fat Sai) th́
để cho An Nam,”
Lúc
đó,
đế
quốc
Anh
đang
chiếm
Ấn
Độ
và
Miến
Điện
lại
có
ảnh hưởng rất mạnh ở Thái Lan mà Pháp
th́ chiếm Việt Nam. Hai con cọp đang dành miếng ăn,
sợ
có xung đột nên người Anh gợi ư cần có một
vùng trái độn. Người Anh th́ cam kết không
xâm chiếm Xiêm La (Thái Lan), người Pháp sẽ
cắt đất của Việt Nam ở Lào và Cao Miên làm
trái độn. Và người Pháp thành lập nước
Lào dưới quyền cai trị của họ.
Người
Pháp
dựa
vào
quyền
triều
đ́nh
Huế
bắt
nước
Xiêm
phải
trả
lại
các phần đất đă chiếm của Lào. Nhưng khi bắt
Xiêm phải nhượng bộ rồi, người Pháp lại tách
các phần đất thuộc về Việt Nam như phủ Trấn Man,
Trấn Ninh, Trấn
Tĩnh, Trấn Định, Lạc Biên và 9 châu thuộc đạo
Cam Lộ ra để sáp nhập với những phần đất c̣n lại lập
ra
hai khu vực Hành Chánh lớn là Thượng Lào
và Hạ Lào (nghị định của Toàn quyền Đông
Dương năm 1895). Bốn năm sau (1899) Pháp đă tách
tỉnh Stung Treng của Hạ Lào để ghép vào nước Cao
Miên. Năm 1902 Xiêm phải trả phần đất vùng Bassac
lại cho Pháp rồi sau đó lại phải trả nốt phần đất
phía tây sông Mékong mà trước
đây thuộc vương quốc Luang Prabang cho Pháp. Năm
1904,
Pháp đă tách tỉnh Darlac khỏi Hạ Lào để trả
lại cho Việt Nam. Phiá bắc, Pháp duy tŕ vương
quốc Luang Prabang nhưng phiá nam họ trực tiếp cai
trị. Nước
Lào trái độn được thành h́nh như thế
đó.
Hai
đế
quốc
thực
dân
muốn
tránh
xung
đột
mà
Việt
Nam
mất
đất Lào
và Cao Miên !
2 - MẤT
6 CHÂU
XỨ
THÁI.
Lai
Châu
và Sơn La
ngày nay là vùng đất người Thái sinh sống.
Vùng này được gọi là “Sịp Song Châu
Thái” (Mười hai châu thái). Sơn La là đất
người Thái Đen, ngày xưa là đất Ngưu Hống. Lai
Châu là đất của người Thái Trắng. Gọi là
Thái Trắng v́ họ ưa mặc quần áo trắng. Gọi
là Thái Đen v́ màu đen quần áo
họ mặc. Có người tưởng rằng Thái Đen là da họ
đen. Không phải vậy, người Thái dù bộ lạc
nào cũng trắng cả, chẳng vậy mà ngày xưa ông
Tổ Đế Minh của ta đă phải lặn lội từ vùng
Hoàng Hà xuống măi tận Ngũ Lĩnh để t́m
Tiên Nữ (Mỵ Nương Thái) đó hay sao ! Dân
Thái sống dưới quyền cai trị của các tộc trưởng, cha
truyền con nối gọi là Phú Tạo hay Lang Đạo (phụ
đạo).
Các tộc trưởng hay tù trưởng này v́ quyền
lợi riêng tư mà lúc th́ theo Tàu
lúc th́ trở về Việt Nam v́ địa bàn sinh
sống của họ nằm giữa biên giới Việt Hoa, v́ thế mà
có truyện tranh chấp giây dưa lâu năm giữa hai
nước. (Truyện tranh chấp này đă được nói ở một
đoạn phần trước, nay xin nhắc lại cho có sự liên tục
khi
nói người Pháp nhường đất cho Tàu.)
Tỉnh
Lai
Châu
trước
gọi
là
phủ
An
Tây
thuộc
đạo
Hưng
Hóa.
Phủ An Tây
có 10 châu là Tung Lăng, Hoàng Nham, Hợp
Ph́, Lễ Tuyền, Tuy Phụ, Khiêm, Chiêu Tấn, Quỳnh
Nhai, Lai và Luân.
Đời
Lê
Cảnh
Hưng
tù
trưởng
Ḥang
Công
Thư
chiếm
động
Mănh
Thiên,
nhà
Lê b́nh được động Mănh Thiên
th́ con Công Thư là con Công Toản chạy sang
náu ở Vân Nam đem 6 châu Tung Lăng, Hoàng
Nham, Hợp Ph́, Lễ Tuyền, Tuy Phụ và Khiêm phụ thuộc
vào nhà Thanh. Sau đó nhà Lê sai sứ
đ̣i vua Thanh trả lại nhưng nhà Thanh làm ngơ.
Đến đời nhà Tây Sơn làm biểu xin lại cương giới
Hưng Hóa (6 châu đă mất) lại bị Phúc Khang
An từ chối. Đến đời Gia Long, tù trưỏng Lai Châu
và Văn Bàn là Đèo Chính Ngọc
và Đèo Quốc Uy xin bằng cấp của trấn Hưng Hóa
để chiêu dụ dân phân tán trở về. Do đấy
dân các động Mường Tè, Mường Phù, Mường
Phương, Mường Tôn, Na Hoài (trước là người
châu Lai) và B́nh Lư (trưóc là người
châu Tuy Phụ) đem nhau trở về. Quan lại nhà Thanh
thấy thế
gởi giấy sang triều đ́nh nhà Nguyễn phản đối.
Đời
Tây Sơn dấy nghiệp,
vua Quang Trung đưa tờ biểu nhờ viên Tổng đốc Lưỡng
Quảng chuyển
đạt lên vua Thanh yêu cầu trả lại đất mất từ đời Mạc
Kính Khoan, có đọan như sau :
“……Một
giải biên thùy nước thần, mặt tây bắc tiếp
giáp ba phủ Lâm An, Quảng Nam, Khai Hóa bên
thượng quốc. Trước kia từ Mạc Kính Khoan đem ba động
Ngưu Dương,
Hồ Điệp và Phổ Viên phụ vào thượng quốc đă
kính được đức Thánh tổ nhân ḥang đế ban
tên tù họ Mạc cho nhà Lê và trả đất ấy
rồi. Đó là váo năm Khang Hy thứ 18 (1689). Về sau
thổ mục là Vi Phúc Liêm lại đem đất ấy mà
phụ vào thượng quốc. Việc xẩy ra đă lâu rồi cứ lấy
sông Đỗ Chú bên nước thần làm giới hạn. Ở chỗ
Hung Hóa và Tuyên Quang trước kia đă do
viên tổng đốc Vân Quư Ngạc Nhĩ Thái
vâng chỉ dụ đứng dựng mộc, từ sông Đỗ chú về
phía tây cho đến 7 châu Tung Lăng, Lễ Ṭan,
Ḥang Nham, Tuy Phụ, Hợp Ph́, Lai Châu, Khiêm
Châu nước Xạ Lư đều thuộc về đất Hưng Hóa của nước
thần.
Đến năm
Canh Thân, nhà Lê trước Ḥang công Thư
cha của nghịch thần Ḥang công Tỏan dấy binh giữ đất
đến
30 năm. Nhà Lê trù trừ không trang trải xong.
Dân 7 châu ấy v́ thấy địa thế xa xôi, nước
thần không khống chế được bèn dần dà phụ thuộc
vào thượng quốc.
Từ
đó trở đi, các quan chức nơi biên giới của
thượng quốc bắt ép nhân dân vùng biên
viễn đổi lối ăn mặc, đeo thẻ, chịu sưu thuế. Thần từ
ngày chịu
mệnh mở nước đến nay, ràng rịt tổ ở, c̣n bận về việc
nội
trị nên t́nh h́nh ng̣ai biên giới
hăy c̣n náu ná chưa kịp khuôn xếp….”
Sau
thấy các nhà đương cuộc bên Thanh làm lơ
không chịu trang trải việc đất đai lấy cớ rằng bờ
cơi
đă định không thể thay đổ được nữa…
Cuộc
tranh
chấp
đang
dằng
co
như
thế
th́
người
Pháp
tới.
Trong
việc vạch ranh giới Việt Hoa,
Pháp đă nhường 6 châu đó cho nước
Tàu. Thế là nước ta mất hẳn 6 châu khiến cho đất
nước “giống như miếng da
lừa cứ lần lượt co
rút lại” (Kim Định)
3- MẤT
ĐẤT TỤ
LONG.
Đất
Tụ
Long thuộc châu Vị Xuyên tỉnh Hà Giang
ngày nay, xưa thuộc về tỉnh Tuyên Quang. Tụ Long có
mỏ đồng.
Vùng
dất
này
giáp
với
tỉnh
Vân
Nam
nước
Tàu.
Vào
đầu
thời
Lê Trung
Hưng, Gia Quốc Công Vũ Văn Mật có công đánh
nhà Mạc nên được phong chức An Tây Vương và
đời đời được giữ đất Tuyên Quang. Đến đời chắt là
Thiếu
phó Tổng quận công Vũ Công Đắc có ư
định tự lập xưng vương nhưng bị thuộc hạ sát hại.
Triều
đ́nh phong cho con là Vũ Công Tuấn tước Khoan quận
công nhưng giữ lại ở kinh đô và cho quan đi trấn giữ
Tuyên Quang. Vũ Công Tuấn bất măn trốn về
Tuyên Quang làm phản. Lúc đó là thời
Lê gia Tông năm Nhâm Tư 1672.
16
năm
sau,
bị
triều
đ́nh
dồn
đuổi,
Vũ
Công
Tuấn
chạy
sang
Vân Nam đem 3 châu thuộc
lănh địa xin sáp nhập vào Vân Nam để
xin được che chở. Ba châu đó là Vị Xuyên, Bảo
Lạc và Thủy Vĩ. Nhà Thanh bèn chiếm ba châu
ấy. Triều đ́nh nhà Lê nhiều lần cho sứ sang phản
đối với nha Thanh, nhưng đều bị từ chối lấy cớ là
đât ấy
đă thuộc về nước Tàu từ lâu, từ đời nhà
Minh.
Triều
đ́nh
ta
lại
phản
đối
đ̣i
đất
lại.
Măi
đến
năm
Bính
Ngọ 1726 nhà
Thanh mới trả lại một phần đất nhưng không chịu trả
khu vực mỏ
đồng Tụ Long. “Vua Thanh hạ lệnh lập giới mốc khu
vực mỏ kẽm (có
lẽ là mỏ đồng), đặt quan, đào hào, do đó
nước ta mất 40 dặm đất. Việc này vua Thanh hai lần
đưa sắc thư
dụ bảo bắt theo nhưng thổ mục Tuyên Quang Ḥang Văn
Phúc nhất thiết không chịu tiếp nhận sắc văn”, (Đại
Nam
Nhất Thống Chí tỉnh Tuyên Quang),
v́ thế viên tuần phủ tỉnh Vân Nam ngỡ nước ta
có ư ǵ khác, bèn tâu vua
Thanh xin điều động binh mă 3 tỉnh để pḥng bị. Vua
Thanh
bèn sai bọn Đô ngự sử Hàng Dịch Lộc đến nơi xem
xét sự động tỉnh của nước ta, sau đó nhà Thanh đổi
lại sắc dụ và trao trả lại số đất mới tra cứu ra
được là
40 dặm. Triều đ́nh sai Thị lang Bộ binh Nguyễn Huy
Nhuận
và Tế tửu Quốc tử giám Nguyễn Công Thái đến
hội đồng với ủy viên nước Thanh ở Tuyên Quang để lập
bia
đá lấy sông Đỗ Chú làm giới mốc, bờ
cơi từ đó mới định. (Đại
Nam
Nhất Thống Chí, tỉnh Tuyên Quang)
Tại
sao
viên
tuần
phủ
Vân
Nam
xin
vua
Thanh
điều
động
binh
mă 3 tỉnh để pḥng bị rồi vua Thanh sai Đô ngự sử
Hàng Dịch Lộc tới nơi xem xét rồi lập tức trả đất Tụ
Long
cho ta ?
Theo
ông
Từ
Mai
trong
tài
liệu
“Một số sử liệu liên quan tới biên giới Việt
Hoa” th́ : “Nhà sử học Philippe
Langlet,
nguyên giáo sư Đại học Văn khoa Saigon cho biết :
Bốn năm
trước đó (1724) Việt Nam đă thực hiện một cuộc biểu
dương
binh lực (“démonstration militaire”) đánh lui đạo
quân do Tổng đốc Vân Nam- Quư Châu cử đến để
khai thác mỏ đồng. Trong thời gian này các bộ lạc
thiểu số ủng hộ triều đ́nh Việt Nam, đang khi quân
đội
nhà Thanh đang gặp khó khăn ở Trung Á, đang cần
tập trung một binh lực đáng kể tại Tân Cương, vua
Ung
Chánh không muốn thêm một cuộc chiến ở biên
giới phía Nam. Điều khám phá này trong
bài “La front́ere Sino-Vietnamienne du XVIIIe au
XIXe
śecle” in trong Les front́eres du Vietnam
(Paris, Harmatton 1989)
Chuyện
trả
đất
chưa
dứt.
Theo
Cương
Mục th́ từ khi Tả thị lang Bộ binh Nguyễn Huy
Nhuận
và Tế tửu Quốc tử Nguyễn Công Thái (vị quan đứng
đầu Quốc tử giám, cơ sở giáo dục cao cấp nhất thời
đó) lên nhận đất với đồng thuận từ triều đ́nh
nhà Thanh là biên giới ở sông Đỗ Chú,
thổ quan phủ Khai Hóa muốn ăn chặn một số đất ở Bảo
Sơn thuộc
tổng Tụ Long, nên đă chỉ một con sông khác (ở
phía nam sông thật) nói gian là sông
Đỗ Chú. Tế tửu Nguyễn Công Thái phải xông pha
lam chướng, vượt những chỗ hiểm trở để t́m ra sông
Đỗ
Chú thật, rồi cùng quan nhà Thanh tranh biện
và dựng mốc biên giới. Bia của Bắc quốc ở bờ phía
bắc, bia của Nam quốc ở bờ phía nam.
Bia
ở
bờ
phía
nam
được
khắc
như
sau
:
“Giới
mốc
châu
Vị Xuyên trấn Tuyên Quang nước An
Nam, lấy sông Đỗ Chú làm căn cứ. Ngày 18
tháng 9 năm Cung Chính thứ 6, chúng tôi
là Nguyễn Huy Nhuận, Tả thị lang, Binh bộ và Nguyễn
Công Thái, Tế tửu Quốc tử giám, được triều
đ́nh phái ủy, vâng theo chỉ dụ lập bia này.”
Năm ấy, Mậu Thân 1728, là năm Bảo Thái thứ 9 đời
vua Lê Dụ Tông, ng̣ai Bắc dưới quyền chúa An
đô vương Trịnh Cương, sử Trung Hoa nhằm năm Ung
Chính thứ
6 nhà Thanh. Nhà bia lâu ngày đổ
nát đến năm Minh Mệnh thứ 18 sai quan tỉnh tu bổ.
Vùng
biên
thùy
có
mỏ
đồng
Tụ
Long
kể
từ
đó
cho
đến
khi người
Pháp chiếm nước ta rồi dành quyền phân định
biên giới với nhà Thanh để mất đi vùng Tụ long cho
nước Tàu. Việc nhường mỏ đồng Tụ Long này đă bị
chính các người Pháp chân chính như
Đại tá Bonifacy, ông Deloustal, ông Charles
Fourniaud v.v.. và ngay đến ông Đại tá Pennequin,
trưởng đ̣an công tác cắm mốc biên giới cũng
tố cáo việc chính phủ Pháp do ông E.
Constans kư Công ước 1887 đă nhường vùng đất
này cho Tàu.
(Theo Charles
Fourniaud, tổng Tụ
Long gồm 9 xă (Tụ Nhân, Tụ Nghĩa, Tụ Hoa, Tụ Mỹ, Tụ
Thanh,
Tụ Long v.v..) Tổng này ḥan ṭan thuộc
lănh thổ Việt Nam ( “Le Canton de Tulong, tout
entier territoire
de l’Empire annamite). Sau mấy đợt nhân nhượng của
người
Pháp từ 1887 đến 1897, 3 phần 4 tổng Tụ Long gồm cả
mỏ đồng, với
một diện tích 750 cây số vuông đă bị nhường
lại cho Trung Hoa, sáp nhập vào phủ Khai Hóa, tỉnh
Vân Nam.)
Trung tá Bonifacy trong bài viết về “Tổng Tụ Long
và Biên giới Việt Trung” dẫn chứng lịch sử, Tổng Tụ
Long
là của Việt Nam mà ngừơi Pháp đă để mất về
tay người Tàu, ông kết luận : “Nhưng chắc chắn những
người
An Nam, suốt ḍng lịch sử. đă biết cách bảo vệ hữu
hiệu lănh thổ của họ trước người làng giềng hung
hăng
bành trướng. Mặc dầu chịu sự bảo hộ nhưng họ không
hài ḷng khi giao cho chúng ta việc coi sóc
những quyền lợi của họ. Như vậy việc chúng tôi
tŕnh bầy trong bài biên khảo nầy, là một
câu hỏi : chúng ta có quyền hay không, sau
khi đă kư kết hiệp ước với An Nam bảo đảm sự vẹn
ṭan lănh thổ của nước nầy, lại lấy những vùng đất
để làm quà tặng cho nước Trung Hoa ? Không phải chỉ
như thế ở Tụ Long và ở Phương Độ mà nó xẩy ra
trên khắp đường biên giới. Những ủy viên của ta ở
địa
phương phản đối, nhưng bộ trưởng (ltg; tức ông
Constans) của ta ở
Bắc Kinh luôn luôn đồng ư ở mọi nơi và tất cả
những đ̣i hỏi của người Hoa mà không đưa ra một
giải thích nào. Các việc này cho
phép chúng tôi viết rằng, và chúng
tôi sẵn sàng trưng bằng chứng, là một số nhân
viên ngọai giao của ta ở Trung Hoa phàn nàn về sự
can thiệp của chúng ta trong vấn đề An Nam, một
thuộc địa
nghèo nàn của một đại cường quốc mà các
nhân viên nầy tiếp cận để vinh dự đại diện cho nước
Pháp…..
Mặt
khác
chúng
tôi đă chứng minh rằng người Hoa
đă ư thức rằng họ không ở nhà họ trong
vùng của người Việt ái quốc này.
Chúng ta đă quan sát thấy họ bỏ luôn cả việc
hành quân tại đây. Chúng ta đă nhận
nhiều lời phàn nàn của người An Nam (và
chúng tôi gọi như vậy ṭan thể giống dân An
Nam), ḷng mong muốn lấy lại đất của tổ tiên họ.
Chúng tôi tin rằng nếu chúng ta cho thêm
người Hoa những vùng đất của những người An Nam trao
cho
chúng ta qua một hợp đồng, chúng ta sẽ nh́n nhận
những ǵ lấy đi từ An Nam bằng sự gian lận, hay bằng
sự bỏ rơi,
xem thường hiệp ước đă nối liền chúng ta với An Nam.”
(Ltd. Bonifacy, La Revue Indochine, Canton de Tu-long
et la
Front́ere Sino-Tonkinoise, người dịch : Trương Nhân
Tuấn)
4-
ẢI NAM QUAN
Ải
Nam Quan
được chính thức gọi
là “Cửa Quan Nam Giao”. Đại Nam Nhất Thống Chí nói
về
Ải
Nam
Quan
như
sau
:
“Cách
tỉnh
thành
(Lạng
Sơn)
31
dặm
về
phía
bắc,
ở
địa
phận
2
xă Đồng Đăng và Bảo
Lâm thuộc châu Văn Uyên, phía bắc giáp
địa giới châu Bằng Tường tỉnh Quảng Tây nước Thanh,
tức chỗ
mà người Thanh gọi là Trấn Nam Quan…có tên
nữa là Đại Nam Quan, phía đông là một dải
núi đất, phía tây là một dải núi
đá, đều dựa theo chân núi, xây gạch
làm tường, gồm 119 trượng, cửa quan đặt ở quảng giữa
có
biển đề ba chũ “Trấn Nam Quan”, có một cửa, có
khóa chỉ khi nào có công việc của sứ bộ mới
mở…”
“Trấn
Nam
Quan
không
rơ
bắt
đầu
từ
triều
đại
nào,
trong
Nam Sử và Bắc
Sử đều không có minh văn. Khỏang đời
Lê
Cảnh Hưng đốc trấn Lạng Sơn Nguyễn Trọng Đang, sửa
lại Ngưỡng Đức
Đài, lập bia ghi việc nói : “ Nước Việt ta có Ngũ
Lĩnh, quan ải trước ở đâu không rỏ, là v́
diên cách thế nào không ghi đủ. Gần đây
lấy địa giới châu Văn Uyên trấn Lạng Sơn làm cửa
quan…”
Sử
chép
:
“
năm
Nguyên
Ḥa
thứ
8,
Mạc
Đăng
Dung
cùng
bầy tôi là bọn
Nguyễn Như Khuê qua trấn Nam Quan, đến phủ nhà Minh
dâng biểu xin hàng”. Đến đây mới thấy sử chép
tên Trấn Nam Quan.” (Đại
Nam Nhất Thống
Chí, tỉnh Lạng Sơn)
Ông
Nguyễn
Văn
Siêu
trên
đường
đi
sứ,
có
ghi
lại
ṭan
cảnh Nam Quan
và bài văn bia của đốc trần Nguyễn Trọng Đang trong
quyển
sách về địa lư nổi tiếng của ông là Phương
Đ́nh
Dư
Địa
Chí, được đề tựa vào năm 1865 :
“…Ở
địa
phận
hai
xă
Đồng
Đăng
và
Bảo
Lâm châu
Văn Uyên, phía bắc giáp giới châu Bằng Tường
tỉnh Quảng Tây Trung Hoa, hai bên tả hữu núi
đá cao ngất, ở giữa có một cửa quan, có
cánh cửa có khóa, chỉ khi có sứ mới mở,
tên là cửa Nam Quan (một tên là Đại Nam Quan,
một tên là Trấn Di Quan, lại có tên là
Trấn Nam Quan. Sử chép rằng: năm thứ 8 hiệu Nguyên
Ḥa nhà Lê (1540) Mạc Đăng Dung cùng với bầy
tôi là lũ Nguyễn Như Quế qua cửa trấn Nam Quan, đến
mạc
phủ nhà Minh dâng biểu xin hàng, cái
tên Trấn Nam Quan mới thấy từ đây.) Có Ngưỡng Đức
Đài, khi trước lợp cỏ, năm thư 34, niên hiệu Cảnh
Hưng
quan Đốc trấn là Nguyễn Trọng Đang sửa lại có văn
bia như
sau đây:
“Khi
nước ta có đất Ngũ Lĩnh, cửa quan ở nơi nào không
xét vào đâu được, sau này thay đổi thế
nào không rơ, gần đây lấy châu Văn
Uyên, trấn Lạng Sơn làm cửa quan, có đài gọi
là Vọng Đức, không biết dựng năm nào, h́nh
như mới có từ khỏang niên hiệu Gia Tĩnh nhà Minh
(1522-1566) (ngang với khỏang niên hiệu Nguyên Ḥa
nhà Lê nước ta (1533-1548)), đài không
có quán, hai bên tả hữu lợp bằng cỏ, sửa chữa qua
loa, vẫn theo cũ vậy. Nhà Lê ta trung hưng đời thứ
14, vua
ta kỷ nguyên năm thứ 41 (1780) là năm Canh tư,
ngang với năm thứ 44 niên hiệu Càn Long nhà Thanh,
Đang tôi làm giữ chức Đốc trấn qua 5 năm là năm
Giáp th́n (1784), sửa chữa lại, đổi dùng gạch
ngói, đài mới có vẻ ḥanh tráng.
Trước kia Đang tôi đi sứ về, được lĩnh trấn này, tạ
sứ trở
về một lần, hạ sứ, cống tiến quan hai lần, tôi
thường phải
đón tiếp. Từ nghĩ nước ta, dùng lễ văn thông với
Trung Hoa, hiện nay đức Đại ḥang đế, sủng mạnh
thường ban,
ng̣ai việc tuế cống sứ thần thời thường phụng mạng
đi lại,
nên sửa sang đài quán cao rộng cho được xứng
đáng với t́nh nghi, đem việc tâu về triều,
đă được phê chuẩn, mới ủy cho thập nhị phiên thuộc,
tính tóan tài liệu phí dụng, bắt dân
làm việc, có bốn dịch trưởng trông nom công
việc, khởi công từ mùa hạ năm Giáp th́n
(1784), đài cũ rồi, được cao rộng mới từ đấy, việc
làm
phải theo với thời thế, không dám làm hơn người
trước. Mùa đông năm ấy, Đang tôi được triệu về kinh,
sau nhân sứ sang Trung Quốc khánh hạ trở về, mùa
xuân năm Ất tỵ (1785), vâng mệnh đón tiếp,
phó sứ Nguyễn Đường Chi là cháu tôi vậy,
đă may được vâng hưu mệnh, làm vinh dự cho cả
chú và cháu. Kịp đến cửa quan th́
đài cũng vừa ḥan thành, các phiên
thuộc xin đem công việc khắc vào bia đá, nên
mới kể nghạnh khái như trên. Sau này kẻ giữ đất
và kẻ đi sứ, sẽ có thể xem xét ở bia này
vậy.
Chức
Đặc
tiến
kim
tử
vinh
lộc
Đại
phu, Hàn lâm viện thị
giảng, tước Lạp Sơn Bá. Nguyễn Trọng Đang, hiệu là
Thanh
Chương, tự là Chú Du kư tên.
Vua
ta
kỷ
nguyên
năm
thứ
46
(1785)
là năm Ất tỵ,
mùa xuân, trước ngày vọng (ngày 15) ba
ngày”
Tấm bia có câu : “Sau
này kẻ giữ đất và kẻ đi sứ, sẽ có thể xem
sét ở bia này”. Bia là một chứng tích,
lời bia là một khẳng định nơi này, chỗ trấn Nam Quan
là biên giới giữa hai nước Việt Hoa. Thế mà nay chỉ
mới hơn 200 năm sau Nguyễn Trọng Đang lập bia, thế
mà kẻ giữ đất
và kẻ đi sứ vào cuối thế kỷ 20 (đảng Cộng sản Việt
Nam)
đă không thèm xem xét đến tấm bia chứng
tích đó nữa mà đang tâm nhượng đứt
vùng đất ải Nam Quan và các công
tŕnh kiến trúc Việt Nam tại ải Nam Quan cho Bắc
phương.”
( Trần Gia Phụng, Thi sĩ
Nguyễn Du qua ải Nam
Quan)
Thi
sĩ
Nguyễn
Du
đi
sứ
sang
Tàu,
lúc
qua
ải
Nam
Quan,
ông có sáng
tác hai bài thơ nói về tâm sự thi sĩ khi qua
ải : Nam Quan Đăo Trung. (Giũa Đường Nam Quan) và
Trấn
Nam Quan.
Bài Nam Quan
Đạo
Trung có câu :
…Nhất lộ giai lai duy bạch
phát,
Nhị
tuần
sở
kiến
đăn
thanh
sang.
(Suốt
đường
cùng
tới
chỉ
có
mái
tóc
bạc,
Trong
hai
mươi
ngày
cái
nh́n
chỉ
thấy
núi
xanh.)
Cho
thấy
rằng
lúc
đó
ải
Nam
Quan
rất
hoang
vắng
đi
suốt
20 ngày mà
chỉ thấy núi xanh với mái tóc bạc của người đi sứ.
(Không có nhà cửa, người lai văng)
Bài Trấn Nam Quan có câu :
…Lưỡng
quốc
b́nh
phân
cô
lũy
diện,
Nhất
quan
hùng
trấn
vạn
sơn
lâm.
(Hai
nước
(Việt
Hoa)
chia
đều
từ
mặt
lũy
lẻ
loi,
Một
cửa
ải
oai
hùng
trấn
đóng
giữa
ḷng
muôn
núi)
Câu
này
khẳng
định
cửa
ải
Nam
Quan
là
nơi
mà
hai
nước
Việt Hoa chia đều
để phân định ranh giới, không ai lấn qua đất của ai.
Thế
mà rồi thực dân Pháp đă nhường cho
nhà Thanh hơn trăm mét đất và đảng Cộng sản Việt
Nam cũng đă theo gót nhường cho đảng Cộng sản Trung
Hoa
hàng mấy ngh́n mét đất của nước Việt Nam ?
Theo
Đại
Thanh
Nhất
Thống
Chí
ghi
chú
về
về
chấu
Bằng
Tường,
Quảng Tây.
“Trong mục các cửa ải và các cửa biên giới
th́ có trấn Nam Quan ở về phía tây nam
châu Bằng Tường (Ping Siang tcheou) cách 45 lư
người ta gọi nó là Đại Nam Quan. Đây là cửa
chính của biên giới. Bên phải và bên
trái của cổng là núi đá cao xuyên qua
mây, ở giữa núi này người ta ta dựng lên cổng
Nam Quan. Hai bên cổng là một bức tường chạy dọc lên
núi, dài 1190 bộ (khỏang 377 mét). Cách cửa
30 lư là trạm Pha Lũy Dịch. Tại trạm này người An
Nam chuẩn bị đồ đạc triều cống để đưa sang Tàu.”
Cái
cổng
Nam
Quan
này
ngày
mồng
8
tháng
giêng
năm
Ất
Dậu
(1885)
đă bị quân Pháp do tướng De Négrier
cầm đầu phá sập. Người Tầu sau đó từ khỏang năm 1885
đến
1886 đă xây lại với quy mô lớn như hiện nay. Theo
ông Trương Nhân Tuấn th́ : “Dưới thời Pháp
thuộc, phía bên ta có cổng của ta. Cổng của
Tàu kiến trúc mái cong, có hai bức tường
chạy lên núi. Cổng phía bên ta kiến
trúc mái thẳng, cũng có hai bức tường chạy
dài lên núi. Cổng này đă bị
phá hủy,” (Trương Nhân
Tuấn,
“Vài hàng bên lề “Một số sử liệu liên quan
tới biên giới Việt Hoa của Từ Mai”)
Chính
người
Tàu
cũng
công
nhận
cửa
này
là
“cửa
chính
của
biên
giới.”
Thế mà từ thực dân rồi cộng sản
đă để cho cửa ải nằm sâu vào nội địa Tàu,
c̣n biên giới bây giờ cách cửa ải ăn
sâu vào đất ta hàng ngàn mét !
Nguyễn
Du
suốt
20
ngày
đi
qua
ải
Nam
Quan
chỉ
thấy
núi
non, cô đơn quạnh quẻ,
không người ở. Ta đọc thêm bút kư của một
người Tàu tên Tsai Tin Lang bị đắm tàu tại
vùng biển An Nam, đến Huế và không muốn gặp nguy
hiểm nữa nên quyết đi bằng đường bộ vế Tàu qua ngă
Lạng Sơn. (Itinéraire de
Hanoi
à Canton par Lang-son, le Kouang-Si et la riv́ere
Si-Kiang, par Tsai Tin Lang):
Từ Bắc
Ninh Đến Lạng Sơn.
Ngày 17 tháng
3,
ông Tsai qua đêm tại phủ Lưỡng Giang
Ngày 18 ông đến đồn quân sự Tsin-in-chung, gần chỗ
đó, trên vùng giáp ranh của huyện
Vyng-tsyiang (Văn Uyên?), là hồ Hou-lou-hai, nơi đây
người ta lấy rất nhiều chất thần sa (son đỏ).
Ngày
19, ông nghỉ đêm tại trạm Huan-lang (Văn Lang?) sau
khi đi
qua 7 trạm khác có quan quân canh gác.
Ngày
20, sau khi được 13 lư, ông Tsai đến Quỉ-Môn-Quan
(Ải
Chi
Lăng
?). Truyền thuyết của dân địa phương cho rằng
mười người đi vào cửa Quỉ Môn Quan th́ chỉ
có một người sống sót đi ra (Quỷ môn quan, thập
nhân khứ, cửu bất ḥan). Dân chúng vẫn tin
rằng ngày hôm nay tại đó vẫn c̣n có
khu chợ ma. Các hồn ma đêm hôm tụ tập ở đó để
mua bán, người nào đến quấy rầy họ th́ bị
trù mà sinh bệnh. Ông Tsai ngừng chân tạm
nghỉ dưới tường của Quỉ Môn Quan. Nhung th́nh ĺnh
cả người ông run lên bần bật, tóc trên đầu
dựng đứng. Ông Tsai phải vội vă đứng dậy.
Kế bên
Quỉ Môn Quan là đền thờ Phục Ba, biệt danh của
tướng
Mă Viện. Viên tướng nầy đă cầm quân xâm
chiếm Giao Chỉ vào năm 41. Tất cả các viên quan
triều đ́nh đi qua đền thờ nổi tiếng này đều
phải
vào để thắp nhang khấn vái. Phía ng̣ai đền
thờ có lọai lương thảo Y dze (ư dĩ, bo bo) mọc. Lọai
lương thảo bo bo được quân lính của Mă Viện dem
làm lưong thực. Nó có hiệu lực trừ được chướng
khí và nước nôi độc địa. Dân địa phương gọi
lọai lương thảo đó là cỏ của đời sống và sức khỏe.
(Theo tự điển của W. Williams, cho rằng tên Y Dze
được dịch từ
Pearl-barley from de coix; là một lọai lúa mạch có
hạt như ngọc trai. C̣n theo ông Legrand de la Liraye
th́ cắt nghĩa vấn đề như sau: Người ta t́m
thấy
trong sử sách của Kouang Vou (Quang Vũ ?) rằng Mă
Viện
đau bệnh v́ do phong thổ độc địa không thích hợp.
Để chữa trị, Mă Viện đă ăn một số lớn Y Dze, mà ta
đă biết dưới một tên (Ân Độ) là Nước Mắt của
Job (larmes de Job). Lọai này người An Nam gọi là bo
bo.
Khi Mă Viện trở về Tàu th́ có cho xe
kéo chở theo một số lượng lớn. Nhưng tướng Mă Viện
bị
trách v́ tội không đem dâng lên cho
nhà vua. Ông phải chết v́ việc này và
vợ ông không dám làm lễ an táng cho
ông,)
Đi khỏang 2
lư về phía đông nam của đền thờ người ta sẽ gặp một
ngọn núi đá. Trên đỉnh núi ấy có một
trụ đồng tương tự như trụ đồng được cắm trên đỉnh
núi
Phân Mao, thuộc địa phận Khâm Châu (Kin tcheou),
Canton (Quảng Đông). Trụ đồng cao khỏang 10 trượng
và dầy
khỏang 10 phân. Từ xa màu sắc của đổng trụ gtiống
như
màu đá, v́ bao phủ bởi phân chim. Dân
địa phương kể rằng người ta thường thấy những con
chim thần đậu
trên trụ đồng…
Cùng
đêm đó (20 tháng 3), Tsai tin Lang ngừng bước tại
pháo đài thứ 5 (5e batterie). Ngày xưa, vào
thế kỷ thứ 18, người An Nam (triều nhà Lê?) đă dựng
lên 18 pháo đài, tương tự như pháo
đài thứ 5 này để chống lại quân Tây Sơn,
người ta có thế đứng từ dàn pháo này
trông thấy dàn pháo kế; nhưng chúng
đă không c̣n nữa, ng̣ai pháo
đài thứ 3 và 5.
Ṭan
vùng này đồi cao hoang vu bao phủ, đôi lúc
một con đường ṃn vắng lặng cắt ngang qua. khắp nơi
xen lẫn bụi
rậm gai góc là cỏ dại mọc cao đến 10 trượng. Đường
đi
lúc th́ gặp núi đá hiểm trở, lúc
th́ gặp vực thẳm tối tăm. Không thấy một dấu vết con
người; ng̣ai những đám cướp hung dữ lấy vùng nầy
làm nơi ẩn trốn. Giữa các tảng đá hay phía
dưới những vực sâu là nơi chướng khí tụ tập. Hơi
nước độc địa tại nơi đây không tan hết trong ngày.
Mặc dầu là mùa xuân, cây cối trong rừng đều
vàng vọt và khô héo. Các tảng
đá rêu mọc phủ đầy. Tuy nhiên, hai bên bờ của
con sông chảy qua vùng này th́ cây cối
um tùm, rậm rạp. Trên sông có những con
công đang bơi lội. Trên đường ṃn mà những
con công t́m đến đây cây cối che phủ dầy đặc,
kín mít, không một tia nắng xuyên lọt qua.
Rắn rết, ḅ cạp khắp nơi, chúng nhả chất độc ô
nhiễm cả ḍng sông. Những người du hành đi qua
vùng này đều mang theo hạt kê rang và lương
thực. Họ uống nước sông với nhiều thận trịng. Nước
nầy được nấu
sôi với thân cây bo bo, dùng như là một
lọai thuốc ngừa bệnh, uống như nước trà. Đối với
người
không quen phong thổ, phương cách nầy lại càng cần
thiết.
Gần dến
Lạng Sơn, đường chân trời bao bọc vô số chóp
núi lô nhô và nhọn bén. Nh́n từ
xa thấy chấp chởm hàng ngàn điểm đen. Tại đây rặng
núi Pang-che-ling bao phủ một vùng khỏang 20 lư.
Con đường ṃn xuyên qua đi rất khó nhọc; lúc
th́ phải leo qua những đỉnh cao, lúc th́ phải đi
đánh ṿng rất khổ sở. Ngày 21, Tsai-tin-lang đi
đến Lạng Sơn vào lúc xế trưa. Viên quan trấn thủ
Lạng Sơn, theo như thông lệ, gởi một sứ gỉa sang
Quảng Tây
để hỏi quan phủ Thái B́nh lúc nào
th́ cho phéo ông Tsai đi qua cửa ài. Sứ giả
trở về Lạng Sơn ngày 31 tháng 3 mang tin rằng ông
Tsai được phép qua cửa ải vào ngày 8 tháng
4. Trong lúc chờ đợi, ông Tsai thăm viếng vùng
chung quanh Lạng Sơn và lên đường vào ngày 3
tháng 4.
Từ Lạng
Sơn đến Biên giới.
Ngày 3 tháng 4
sau
khi qua sông, ông Tsai đi qua chợ Tsoi-moi-pou (có
lẽ là Kỳ Lừa) thương buôn tại đây ṭan
là người Tàu từ Quảng Tây và Quảng
Đông. Sau khi đi được 35 lư ông đến Văn Uyên
Châu (Đồng Đăng). Ông lên đường lúc 8 giờ
sáng. Đường đi là đường ṃn nhỏ, đi
ṿng vo quanh núi. Im lặng và cô lập. Khắp
nơi không thấy bóng dáng một người nào.
Không nghe tiếng gà gáy cũng như tiếng chó
sủa. Đi được 45 lư ông Tsai đến Yo
Ai hay
Nan Kouan (Nam Quan).Người An Nam gọi ải
nầy là IO-
TSONG-AI. Cùng ngày, quan viên Tàu ở Tả
Giang và vùng Ning-ming-tcheou gởi người đến
cửa ải
để đón Tsai-tin-lang…
Ngày
8
tháng
4
Tsai-tin-lang
vượt
cửa
biên
giới
phía nam (tức Trấn Nam Quan). Sau khi qua khỏi nơi
nầy, người ta
cũng ít thấy nhà cửa. Đường xá cũng khó đi
như phía bên kia ải. Cũng ṭan là núi
non hiểm trở…” (Tài liệu của ông Trương Nhân Tuấn,
T́m hiểu về Ải Nam Quan qua một vài tài liệu nước
ng̣ai)
Ông M. Aumoitte, năm 1881
viết về Ải
Nam Quan trong “De Hanoi à la Front́ere
du
Quang-si” (Từ Hà Nội đến biên giới
Quảng
Tây) :
“Đồng
Đăng
cách
cửa
ải
2
cây
số
rưỡi.
Nơi
nầy
bề
ng̣ai cũng giống như Kỳ Lừa.
Dân chúng phần lớn Tàu lai với thổ dân
và sinh trưởng tại đây. Có nhiều tiệm bán lẻ
(chạp phô); chỉ có 12 cửa hiệu buôn theo lối trao
đổi (bông, dầu hôi, thuốc phiện, thuốc bắc..)..
Từ
Đồng
Đăng
đến
biên
giới
con
đường
chỉ cón là một
con đường nhỏ, đá lởm chởm, chạy quanh những ngọn
đồi hầu như
là trọc và không có người ở. Đi khỏi Đồng
Đăng được 10 phút là không c̣n bóng
người. Con đường món này mỗi lúc một hẹp và
dẫn đến trước một cửa cổng có hai cánh bằng gỗ. Cửa
được
gắn với một bức tường làm bằng gạch nung, xây dài
lên tới đỉnh đồi, có độ cao chừng 50 mét.
H́nh thức của cổng và hai bức tường xây trên
núi tạo thành như một “cuống họng”. Đó
là đường Biên Giới. Trên đỉnh đồi, bức tường
chấm dứt và người ta có thể đi qua Quảng Tây
không có trở ngại. Trên cánh cổng cửa gỗ
có vẽ rồng, phụng mầu sắc rực rỡ.”
Ải Nam
Quan dài bao
nhiêu ?
“Ải
là
hẻm
núi;
là
đường
hẹp
đi
giữa
hai
trái
núi
hay
đồi.
Ngày xưa khi lưu thông chỉ c̣n là đi bộ, hay
đi ngựa, hàng hóa được người gánh gồng hay chở
bằng xe ngựa, xe trâu… muốn vượt qua núi th́ người
ta chỉ có hai cách : hoặc là leo núi để
vượt qua; hoặc nếu núi cao, không vượt được th́
t́m cách len lỏi theo các chân núi
t́m hẻm núi để đi. Các đường hẻm núi người
ta gọi là ẢI (passe). Những con đường ải này nhiều
khi
ṿng vo rất dài. Ngày hôm nay với cơ
khí nặng, người ta có thể thu ngắn đọan đường bằng
cách đục núi làm hầm thông qua (tunel), hay
ủi những con đường đi lượn quanh trên sườn núi để
vượt qua
núi. Đường này gọi là Đèo (col). Giống nhau
giữa đèo và ải là cả hai cùng là con
đường qua núi. Khác nhau giữa đèo và ải
là đường đèo leo lên lưng chừng núi, hay
vượt thẳng qua núi, c̣n đường ải th́ len lỏi dưới
chân núi để qua núi mà không leo
lên núi. Chiều dài của đèo và ải
có thể dài ngắn khác nhau… Theo bản đồ lộ
tŕnh Nam Quan - Bằng Tường – Long Châu và
các tài liệu trên đây ta có thể ước
lượng được độ dài phỏng chừng của cửa ải Nam Quan.
Vừa ra khỏi
Đồng Đăng, con đường dẫn đến Nam Quan phía bên trái
là núi đá vôi cao ngất, phía
bên phải là đồi chập chùng. Đương nhiên nếu
quan niệm về “ải” của tác giả ở những đọan mở đầu là
đúng th́ ải Nam Quan bắt đầu vừa ra khỏi Đồng Đăng.
Ải
chấm dứt, cũng theo bản đồ này, là nơi chấm dứt
núi đá vôi phía trái. Đó
là Bố Sa (không phải cửa ải Bố Sa), gần Quang Thiên
Ải. Tức là chiều dài của ải ước lượng là từ 5
đến 6 cây số (từ Đồng Đăng lên cửa Nam Quan là 2,5
Km) Cổng Nam Quan xây ở giữa ải. (Trương Nhân
Tuấn,
tlđd)
Theo
tài
liệu
của
Toan
Ánh
và
Cửu
Long
Giang
trong
Miền Bắc Khai Nguyên
th́ đọan đường từ “Lạng Sơn tới Đồng Đăng 14 cây
số…từ
Đồng Đăng tới ải Nam Quan 4 cây số. Ải cách Lạng
Sơn 18
cây số”. (Miền Bắc Khai Nguyên, tỉnh
Lạng Sơn)
LƯU
Ư
: Khỏang
cách từ Đồng Đăng tới cửa
ải Nam Quan do ông Trương nhân Tuấn đưa ra là 2,5
Km. Con số do các ông Toan Ánh và Cửu
Long Giang đưa ra là 4 cây
số
(km).
Bản đồ các làng
phía
Đông Bắc Móng Cái bị người Pháp nhường cho
Trung Hoa theo Thỏa ước 26.6.1887 kư tại Bắc
Kinh giữa Ernest
Constans và đại diện nhà Thanh. Trích
trong:
Neis. P. The Sino-Vietnamese Border
Demarcation, 1885-1887.( Bangkok:
White Lotus Press, 1998 )
|
MŨI BẠCH LONG
Ở
về
đông bắc Móng
Cáy, tỉnh Quảng Yên, tự xa xưa, thửa nhà Hán
chiếm đất Nam Việt, đổi thành Giao Châu rồi sau đó
chia Giao Châu ra làm hai châu là Quảng
Châu và Giao Châu. Phần đất Giao Châu tức nước
Văn Lang, Âu Lạc cũ, th́ đất Hợp Phố bị lấy đi cho
sáp nhập vào đất Quảng Châu (Quảng Đông)
làm thành hai châu Liêm và Khâm.
Một số châu động có các dân tộc thiểu số sinh
sồng, lúc th́ lệ thuộc vào Quảng Đông,
lúc lại chạy sang ta. Phần đất chỗ này nhà Mạc
đă lấy dâng cho nhà Minh để được làm vua.
Tuy nhiên có một mỏm đất nằm sát biển ở phía
đông bắc Móng Cáy do người Việt làm chủ
quyền, với các tên làng xă ḥan
ṭan Việt Nam. Đất ấy nằm lọt thỏm giữa đất Tàu, chỉ
có mặt biển để thông thương với Việt Nam. Muốn đi
đường
bộ, phải đi 10 cây số qua đất Tàu mới đến. Đất đó
có tên là Mũi Bạch Long.
Bác
sĩ
Néis
cho
biết
:
“Sát
theo
bờ
biển
đông
bắc
Móng
Cáy
có một số làng Việt Nam. Cư dân gồm người Việt
cùng nhiều sắc dân thiểu số chứ không có
người Hoa. Những làng này ngăn cách với
vùng đất Trung Hoa bao quanh bằng mấy rặng núi
h́nh ṿng cung của dăy Thập Vạn Đại Sơn (Shiwan
dashan). Danh hiệu một số làng là danh hiệu Việt Nam
:
Trung Sơn, Song Phong, Mai Công…Một số làng sống
bằng nghề
đánh cá lấy tên Vạn Công, Vạn Mi, Vạn
Tray…như nhiều làng đánh cá Việt Nam khác.
Các làng nầy từ trước vẫn sống dưới quyền quản trị
của
triều đ́nh Việt Nam.
Có
điều
bất
thường
là
các
làng
này
không
tiếp
giáp
với
lănh
thổ
chính của Việt Nam. Một giải đất
chiều ngang 10 cây số thuộc tỉnh Quảng Đông của
Trung Hoa
chắn ngang ở giữa. Muốn đi từ các làng này về
lănh thổ chính của Việt Nam (chẳng hạn Móng
Cáy) phải đi khỏang 10 cây số qua đất Trung Hoa,
hoặc phải
dùng thuyền. Ngay khi mới tới Móng Cáy và
biết được điều ấy, bác sĩ Néis tiên liệu sẽ gặp rắc
rối trong việc phân định biên giới. Ông vẽ môt
bản đồ và gọi khu vực này là “enclave annamite”
(vùng Việt Nam bị vây trong lănh thổ Trung Hoa).
Các
làng
nầy
quay
quần
quanh
một
vùng
biển
nhỏ
có
tên
là
vũng
Vạn Xuân. Một mỏm đất nhọn chạy nhô ra biển, bọc
phía ng̣ai chặn sóng gió, có
tên là mũi Bạch Long (phía Trung Hoa gọi là
Pak lung). Bác sĩ Néis được cho biết Tổng đốc Lưỡng
Quảng
Zang Zhi Dong (Trương Chi Động), một đối thủ chính
trị
đáng kể của Lư Hồng Chương, rất muốn đọat vũng biển
và mũi đất nầy.
Việc
tranh
chấp
xẩy
đến
đúng
như
dự
đóan.
Theo
những
t́m
ṭi
của
bác sĩ Néis, tất cả những tiêu chuẩn xác
định chủ quyền cần thiết, từ phong tục truyền thống,
tập quán,
văn kiện sổ sách, cho đến tài liệu địa dư chính
thức của Trung Hoa, đều cho thấy vùng đất nầy
thuộc miền Bắc
Việt Nam (“Traditions, custums, records, and
even official Chinese
geography indicate this country as being part of
Tonkin”). Trong điện
văn do phái đ̣an gởi cho đại diện chính phủ
Pháp có câu : “Tham khảo nhiều nguồn tài
liệu khác nhau, các ủy viên của nước Pháp
đă thu thập được một hồ sơ thật lớn về thẩm
quyền của đế
quốc An Nam trên vùng đất nầy” (“Les
commissaires francais avaient accumulé une grosse
documentations
sur les droits de l’empire d’Annam sur cette
région, en
consultant des sources nombreuses et varíees”).
Nhưng
phái đ̣an Trung Hoa nhất định không nhân
nhượng. Họ được lệnh chính thức từ Trương Chi Động
không
được nh́n nhận vùng đất này là của Bắc Kỳ (
“They had formal order from the viceroy of Canton
not to recognise this
territory as Tonkinese”).
Phái
đ̣an
Pháp
không
thể
làm
ǵ
khác
hơn
là
viết
một
tờ
tŕnh
kèm
theo
bản
đồ,
gởi
về
xin
ư
kiến chính phủ. Sau sáu
tháng chờ đợi (từ tháng 12-1886 đến tháng 6-1887).
Bác sĩ Néis được biết, vị đặc ủy (Ernest Constans) đại
diện chính phủ Pháp, người đang điều đ́nh một Hiệp
ước thương mại quan trọng ở Bắc Kinh đă quyết định
nhường
các làng ấy cùng mũi Bạch Long cho Trung Hoa.
Trong “Thỏa ước phân định biên giới giữa Trung Hoa
và Bắc Kỳ” do Ernest Constans, Đặc ủy viên Cộng Ḥa
Pháp, kư với đại diện Trung Hoa tại Bắc Kinh ngày
26 tháng 6 năm 1887, vùng đất trên được nhắc tới
như sau : “Những điểm tranh chấp ở Đông và
Đông bắc Móng Cáy, phía bên kia
biên giới theo sự ấn định của Ủy ban phân giới, được
phân phối cho Trung Hoa”. Bác sĩ Néis kết
thúc đọan hồi kư về chuyện này một cách
bùi ngùi : “Dân chúng trở về nhà, từ
nay trở đi là người Tàu”!
(Néis, P.
The Sino-Vietnamese
Border Demarcation, 1885-1887. Tài liệu do ông Từ
Mai viết
trong tài liệu đă dẫn)(Bác sỉ Paul Marie
Néis, sinh ngày 28 tháng 2 năm 1852 tại Quimber,
Pháp. Tố nghiệp trường y sĩ Hải Quân Brest. Đến
Tonkin năm
1879 với tư cách Bác sĩ hạng hai, Médecin seconde
classe)
“Dân
chúng
trở
về
nhà,
từ
nay
trở
đi
là
người
Tàu”!
Lời
than
của
một
trí
thức
mới
năo
nề
làm
sao. Chỉ v́ quyền lợi kinh tế của thực dân
mà dân tộc ta bị cắt xén nhiều phần đất cho đế quốc
Măn Thanh.
Phần
đất
vừa
mất
đi
không
chỉ
thuần
túy
mất
đất
17
km
chiều ngang mà
c̣n mất đi 27km chiếu ngang của hải phận. Đường ranh
chia hải
phận Vịnh Bắc Việt (Gulf of Tonkin) (“đường ranh
Brévíe”)
chỉ được tính từ mỏm cực đông của đảo Trà Cổ. Nếu
không mất đi đất mũi Bạch Long th́ hải phận ta c̣n
rộng thêm 27km chiều ngang nữa về phía Đông.
Và như thế không chỉ là 62% cho Việt Nam và
38% cho Trung Hoa mà phải là 65% cho Việt Nam và
35% cho Trung Hoa. Chúng ta đă bị thiệt tḥi dước
thời Pháp thuộc, đến thời Cộng sản thống trị nhân
dân ta, lại bị mất thêm một số hải phận nữa do cộng
sản
Việt Nam dâng cho cộng sản Trung Hoa : Việt Nam chỉ
c̣n
53,23% và cộng sản Trung Hoa dược 46,77% ! Chúng ta
sẽ
trở lại vấn đề khi nói về Cộng sản Việt Nam và Cộng
sản
Trung Hoa phân định lại Biên giới.
NHẬN ĐỊNH VỀ
PHÁP-THANH
PHÂN RANH BIÊN GIỚI.
Cuối
thế kỷ
thứ 18 người Pháp
xâm chiếm Việt Nam
đặt nền đô hộ. Trước đó, vào thế kỷ thứ 17, người
Măn Châu vượt Vạn lư Trừơng thành vào
chiếm nước Tàu, đặt ách đô hộ trên người
Hán (Hoa). Như thế người Hoa bị đô hộ bởi ngọai bang
trước
rồi người Việt cũng cùng chung số phận sau đó.
Hai
đế
quốc
thực
dân
Pháp-Thanh
đụng
nhau
ở
biên
thùy
Việt-Hoa
và
họ
phải dàn xếp phân ranh rơ ràng để
tránh các cuộc đụng độ.
Trong
cuộc
phân
ranh
này,
như
chúng
ta
đă
biết,
Pháp
đă
phải
nhượng
bộ để mất một số đất đai của Việt Nam,
đánh đổi lấy vài nhượng bộ của Măn Thanh về quyền
lợi kinh tế.
T́nh
h́nh
miền
Bắc
Việt
Nam
thời
Pháp
tới
rất
là
nhiễu
nhương
:
Vào khỏang năm 1849, Hồng Tú Ṭan, một người Quảng
Tây, khởi nghĩa đánh nhà Thanh, xưng là
Thái B́nh Thiên Quốc, chiếm Kim Lăng và
các tỉnh miền sông Trường Giang. Bọn Lư Hồng Chương
và Tăng Quốc Phiên hết sức đánh dẹp, lại nhờ
có các nước Tây phương giúp v́ họ sợ
Hồng Tú Ṭan thắng th́ bất lợi cho quyền lợi kinh
tế của họ. Hồng Tú Ṭan v́ vậy thua và tự
tử. Thái B́nh Thiên Quốc tan.
Dư
đảng
của
Hồng
Tú
Ṭan
là
Ngô
Côn
chạy
sang
nước
ta
xin
hàng rồi sau đó lại đi cướp phá các tỉnh
biên giới của ta, quân ta đánh măi
không được. Đó là vào thời vua Tự Đức. Sau
Ngô Côn bị giết nhưng dư đảng là Ḥang
Sùng Anh hiệu cờ Vàng, Lưu Vĩnh Phúc hiệu cờ Đen
(Lưu Vĩnh Phúc vốn là Tổng binh ở Đài Loan bị Nhật
chiếm phải chạy vào nội địa rồi theo Thái B́nh
Thiên Quốc), Bàn Văn Nhị và Lương Văn Lợi hiệu cờ
Trắng vẫn quấy nhiễu. Đám cờ Đen và cờ Vàng lại
đánh lẫn nhau càng làm cho dân chúng
thêm khốn khổ. Sau đám cờ Đen xin hàng, nhà
vua cho trú tại Lào Cay rồi lợi dụng cho đi đánh
dẹp đám cờ Vàng ở Hà Giang.
Lúc
đó,
ngườp
Pháp
muốn
chiếm
Bắc
Kỳ
để
mở
đường
thông
thương
buôn
bán với Tàu ở Vân Nam. Francis Garnier chiếm
Hà Nội (1873). Ông Ḥang Kế Viêm đóng
ở Sơn Tây kêu Lưu Vĩnh Phúc của đám cờ Đen
giúp sức. Đám cờ Đen phục kích ở Ô Cầu Giấy
đổ ra giết Francis Garnier (Ngạc Nhi). Đến năm 1882
Henri
Riv́ere lại bị quân cờ Đen giết cũng ở Cầu Giấy.
Franis
Garnier
(Ngạc
Nhi)
bị
giết,
có
một
bài
văn tế được truyền tụng nói
là do cụ Yên Đổ sọan theo sụ yêu cầu của các
quan ta làm lễ truy điệu để giải tỏa mối căng thẳng
Pháp
Việt. Bài văn tế có tính chất mỉa mai có
khi đến sổ sàng :
Nhớ
ông
xưa
:
Tóc
ông
quăn,
Mũi
ông
lơ,
Ông
ở
bên
tây
ngang
tàng,
Ông
sang
bên
Nam
bảo
hộ.
Quan
ông
to,
ông
có
lon
vàng
đeo
tay;
Công
ông
cao,
ông
có
mề
đay
đeo
cổ.
Mắt
ông
chiếu
kính
thiên
lư,
đít
ông
cưỡi
lừa,
Vai
ông
đeo
súng
lục
liên,
miệng
ông
húyt
chó.
Tháng…ngày
hai…
ông
ở
huyện
Thụy
Anh,
Ông
định
giết
thằng
Đen,
để
yên
con
đỏ,
Nào
ngờ
:
nó
chém
đầu
ông
đi,
nó
bêu
ḿnh
ông
đó.
Khốn
nạn
thân
ông
Đù
mẹ
cha
nó.
Nay
tôi
:
Vâng
mệnh
các
quan
-
Tế
ông
một
cỗ.
Xôi
một
mâm
-
Rượu
một
hũ.
Chuối
một
buồng
-
Trứng
một
ổ.
Ông
ăn
cho
no
-
Ông
uống
cho
đủ.
Hồn
ông
lên
thiên
đường
-
Phách
ông
vào
địa
hộ.
Ông
ơi
là
ông
ơi
-
Nói
càng
thêm
hổ
!
Trong
khi
đó
triều
đ́nh
nhà
Nguyễn
thấy
Pháp
muốn
chiếm
Bắc
Kỳ,
lại
tưởng rằng Tàu
có thể giúp được mới cho người sang cầu cứu. Thật ra
lúc đó nước Tàu cũng đang bị chia năm xẻ bảy bởi
các cường quốc th́ làm sao mà cứu được.
Nhưng đây là dịp tốt để đem quân qua với ư đồ
chiếm đất. Tổng đốc Lưỡng Quảng là Trương Thụ Thanh
làm
mật sớ tâu về triều đ́nh nhà Thanh : “Nước Nam
và nước Tàu tiếp giáp với nhau mà thế lực
nước Nam thật là suy hèn, không có thể tự
chủ được nữa, vậy ta nên mượn tiếng sang đánh giặc
mà đóng giữ các tỉnh ở thượng du. Đợi khi
có biến th́ ta chiếm lấy những tỉnh ở về phía bắc
sông Hồng hà.” Bởi vậy triều đ́nh nhà Thanh
cho đem quân sang đóng ở Bắc Ninh và Sơn Tây,
sau lại cho quan bố chính Quảng Tây là Từ
Diên Húc đem quân sang tiếp ứng.” (Trần Trọng Kim,
Việt Nam Sử Lược)
Với
mưu
đồ
chiếm
đất
như
vậy
nên
trong
các
cuộc
đàm
phán
về ranh
giới, nhà Thanh có lúc đă đ̣i
đường biên giới Việt Hoa ở khỏang giữa hai vĩ tuyến
21 và
22, bắt đầu từ Lào Cay kéo dài ra biển. Điều
đó có nghĩa là lấy phần đất phía bắc
sông Hồng Hà như tờ mật sớ, cũng có nghĩa là
nhà Thanh muốn cắt cái chóp nón lá
trên bản đồ của nước Việt Nam. Có lúc họ lại
đ̣i lấy Việt Nam cho tới Quảng B́nh, tức là lấy
ṭan bộ nước Việt Nam khi chưa mở mang về phía Nam.
Có
lúc
vùng
Cao
Bắc
Việt
(Haut
Tonkin)
đă
bị
bỏ
trống
cho
bọn
cướp Tàu. “Thật vậy, đọc bút kư của Dr.
Néis về vùng Móng Cái để thấy rằng trong
khỏang thời gian “tiền” Hiệp ước Thiên Tân (về phân
định biên giới), không có một người Việt nào
sống ở thị trấn Móng Cái. Vùng nấy trở
thành khu Tàu, chuyên buôn bán
các phẩm vật do bọn cướp Tàu đánh cướp được. Bọn
nầy, theo Dr Néis, buôn bán cả đàn bà
và trẻ con Việt, Một tài liệu là lá thư của
một viên tướng Pháp, phụ trách Đông
Dương, có nói rằng, muốn b́nh định khu nầy, phải
“raser” tức là bào láng Móng
Cái. Tất cả vùng biên giới Việt Nam, từ tỉnh
Hải Ninh (Móng Cái) phía đông xuyên
sang các tỉnh phía tây, Lạng Sơn, Cao Bằng,
Hà Giang, Lào Cay… đều là nơi của giặc Tàu
ḥanh hành. Lào Cay là vùng của giặc
cờ Đen Lưu Vĩnh Phúc. Cho tới năm 1897, với sự hợp
tác
của dân địa phương, nhà nước bảo hộ mới tạm b́nh
định được các vùng sào huyệt của bọn cướp
Tàu nầy.
Dr
Néis
có
kể
lại
,
đường
đi
lên
Lạng
Sơn,
Đồng
Đăng
chỉ rải rác vài
bóng người. Mùi tử khí vẫn c̣n vướng vất.
Việc nầy là hậu quả của chiến tranh giữa Pháp và
Tàu khỏang thời gian trước (với tướng De Négrier).
(Trương Nhân Tuấn, tlđd)
Trong
việc
phân
định
cắm
mốc
biên
giới,
người
Pháp
cũng
c̣n
gặp
nhiều rắc rối
và nạn thổ phỉ. Bác sĩ Néis thóat chết ở
biên giới v́ bị bệnh không theo tóan cắm mốc
được nhưng bạn của Néis, ông Haitce, một thông dịch
viên, bị thổ phỉ giết, bị chặt đầu, moi gan, mật
ngâm rượu,
“những người Tàu tham dự vào vụ này tay cầm
giáo dài, trên gắn thủ cấp người bị giết, uống rượu
pha gan, mật ḥ hét man rợ nhu thế cả đêm và
kéo dài mấy ngày”.
Trong
Hiệp
ước
Bảo
hộ,
Pháp
đă
cam
kết
bảo
vệ
ṭan
vẹn
lănh thổ
cho Việt Nam thế mà Pháp đă không tôn
trọng hiệp ước ấy để bị áp lực của nhà Măn Thanh
hay v́ quyền lợi kinh tế của người Pháp, mà nhường
đi một số đất đai của Việt Nam cho Măn Thanh. Tham
vọng của Bắc
phương dù là người Hoa, người Hán, người
Mông Cổ, người Măn Thanh hay người Cộng sản vẫn luôn
luôn muốn bành trướng xuống phía Nam. Họ lấn chỗ
này lúc này một ít, họ sẽ lấn chỗ
khác lúc khác một ít như ta đă thấy
suốt ḍng lịch sử, Việt tộc đă mất vùng
Ḥang Hà, đă mất vùng Trường Giang,
đă mất vùng Lĩnh Nam, nay c̣n một ít đất
Việt Nam, cứ bị họ gặm nhấm dần. Để cho mất đất, dù
là
thực dân Pháp, dù là họ Hồ, dủ là họ
Mạc, dù là Cộng sản đều đắc tội với dân tộc Việt.
Nguồn:http://www.taphopdongtam.org