Năm Thứ 4889 www.vietnamvanhien.net Biên
Cương Tổ Quốc Ở Đâu ?
|
Mục Lục Phần
I : Nguồn Gốc và Địa Bàn Sinh Sống của Việt
Tộc
Cuộc Xâm Chiếm Đất Việt Lần Thứ Nhất Phần II : Cuộc Xâm Chiếm Đất Việt Lần Thứ Hai Cuộc xâm chiếm nước Biệt Lần Thứ Ba Phần III : Lĩnh Nam Phần IV : Biên Giới Việt Nam Qua Các Thời Đại Phần V: Biên Giới Việt Nam Thời Pháp Thuộc Phần VI : Đảng Cộng Sản Việt Nam Dâng Đất Cho Đảng Cộng Sản Trung Hoa Phần VII : Cộng Sản Việt Nam Dâng Biển Cho Cộng Sản Trung Hoa |
PHẦN I
Toàn thể người Việt Nam không kể người trong nước hay người ở ngoài nước đều bàng hoàng sửng sốt và vô cùng xúc động khi bức kháng thư của ông Đỗ Việt Sơn, người đă có 60 tuổi đảng, 80 tuổi đời được phổ biến để phản đối đảng Cộng sản Việt Nam kư hiệp định Biên giới với đảng Cộng sản Trung Quốc và đề nghị không thông qua hiệp định bán nước đó.
Tiếp theo là bài viết của ông Lê Chí Quang cảnh giác với “Bắc Triều” và thách thức : “Ông Lê Khả Phiêu ra đối chất xem. Ông lấy quyền ǵ mà dám kư hiệp định Biên giới làm nước ta mất hàng trăm kilômét vuông đất đai của Tổ Quốc. Cả về hiệp định vịnh Bắc Bộ nữa, trước kia Pháp thay ta kư với nhà Thanh theo tỷ lệ 62/38, bây giờ lại kư theo tỷ lệ 54/46 ! Tổ Quốc bị thiệt hại biệt bao nhiêu chỉ v́ một người nhân danh đảng ! Biết bao nhiêu xương máu, nước mắt, mồ hôi của cha ông, của nhân dân từ ngàn đời đổ xuống để dành từng tấc đất của Tổ Quốc, các anh có biết không ?”
Ông Trần Khuê, một đảng viên làm công tác văn hóa, trong bức thư ngỏ gửi Tổng Bí thư Giang Trạch Dân tiết lộ : “ Chúng tôi giật ḿnh kinh ngạc khi nghe Bộ chính trị Lê Khả Phiêu chỉ thị cho Chính phủ Phan Văn Khải kư với Chính phủ Trung Quốc hai hiệp định biên giới Việt Trung và đă nhượng mất ngót một ngh́n kilômét vuông địa giới (?) và ngót một chục ngh́n kilômét vuông hải giới. (?) V́ cả hai đảng và hai chính phủ đều giữ bí mật nội dung bản Hiệp ước này nên không rơ diện tích lănh địa và lănh hải mà các đ/c lănh đạo Trung quốc vừa lấy thêm của Việt Nam cụ thể chính xác là bao nhiêu. Tháng 8-2001, chúng tôi có tổ chức một đoàn lên khảo sát thực địa ở Lạng Sơn th́ quả đă thấy cây số 0 nằm trên vạch biên giới Việt Trung, không c̣n nh́n thấy Mục Nam Quan nữa. Phía Trung Quốc đă xây một ṭa nhà sừng sững chắn ngang. Rồi người th́ nói nó đă nằm sâu trong lănh thổ Trung Quốc 500 mét, người th́ nói 2000 mét. Diện tích đất đă nhượng người th́ bảo 500 km2, có người lại nói mất hơn 700 km2, có người lại nói mất hẳn 900 km2. Riêng Đ/c Lê Thế Nghĩa, nguyên Trưởng ban Biên giới của chính phủ th́ cho chúng ta biết Mục Nam Quan hiện nằm cách vạch biên giới là 800 mét và tổng số diện tích địa giới mà Việt Nam, phải cắt nhượng cho Trung Quốc chỉ mất 232 km2.” Các ông Lê Chí Quang và Trần Khuê đă bị Cộng sản bắt và bị buộc tội tiết lộ bí mật quốc gia !
Ông Nguyễn Thanh Giang, một nhà tranh đấu cho nền dân chủ tại quốc nội, “Trăn trở xót đau cùng Biên cương Tổ Quốc” hỏi : “Nhưng biên giới Việt-Trung đă từng ở đâu ? Biên giới Việt- Trung sẽ phải ở đâu ? Biên giới Việt-Trung sẽ phải ở đâu để đừng phụ công cha ông từng kiến lập giang sơn, khai mở bờ cơi, đừng làm tủi nhục vong linh hàng triệu người đă từng ngă xuống v́ quê hương đất nước…Biên giới Việt-Trung sẽ phải ở đâu như nó từng ở đó để không ai phải xót xa trăn trở v́ đă mất 789 kilômét vuông hay 720 kilômét vuông. Hay…chỉ mất 1 kilômét vuông như thông báo chính thức của Ban Bí thư cho toàn thể đảng viên ?…Biên giới lúc đó rất xa. Cách Pắc Bó hàng chục km, cách Bản Giốc h́nh như không thể dưới 1 km. Vậy mà nay có người bảo đứng ở Pắc Bó có thể nh́n thấy Trung Quốc, c̣n thác Bản Giốc - một trong những thắng cảnh nổi tiếng nhất đă từng có trong tất cả các tập bưu ảnh giới thiệu đất nước Việt Nam trước đây – nay đă bị cắt cho Trung Quốc mất hai phần ba !"
Nhân vụ dâng đất, dâng biển của đảng Cộng sản Việt Nam cho đảng Cộng sản Trung Quốc, chúng ta lần giở lại qua các trang sử, qua các truyền thuyết để xem ḍng giống Việt tộc đă bị Hoa tộc cướp mất bao nhiêu đất đai, để xem từ xa xưa lúc trời đất c̣n mịt mù của thuở hồng hoang, ḍng tộc Việt đă sinh sống tại địa bàn Hoa Bắc, phía trên sông Hoàng Hà, bị Hoa tộc xâm chiếm cướp đất đai, đồng hóa, rồi lần xuống xâm chiếm vùng Trường Giang và tới đời Tần Thủy Hoàng xua 500.000 tinh binh vượt dăy Lĩnh Nam chiếm trọn miền Hoa Nam và nước Văn Lang. Ḍng Lạc Việt sau suốt một ngàn năm nô lệ giặc Tàu đă dành được độc lập, đă đổ biết bao xương máu, dành từng tấc đất từng ngọn cỏ nơi biên giới để ngày nay đảng Cộng sản Việt Nam đành ḷng dâng hàng trăm cây số vuông đất biên thùy, hàng chục ngàn dặm vuông biển cả cho Cộng sản Trung Quốc để được bảo trợ chổ ngồi đè đầu đè cổ nhân dân Việt Nam.
NGUỒN GỐC VÀ ĐỊA BÀN SINH SỐNG CỦA VIỆT TỘC
Nguồn gốc và địa bàn sinh sống của ḍng Bách Việt theo truyền thuyết như sau :
HỌ HỒNG BÀNG.
Cứ theo tục truyền th́ vua Đế Minh, cháu ba đời vua Thần Nông đi tuần thú phương Nam đến núi Ngũ Lĩnh (thuộc tỉnh Hồ Nam bây giờ ) gặp nàng Vụ Tiên, lấy nhau, sinh ra người con tên là Lộc Tục. Sau Đế Minh truyền ngôi lại cho con trưởng là Đế Nghi làm vua phương Bắc, và phong cho Lộc Tục làm vua phương Nam, xưng là Kinh Dương Vương, quốc hiệu là Xích Quỷ. Bờ cơi nước Xích Quỷ bấy giờ phía bắc giáp Động Đ́nh Hồ (Hồ Nam), phía nam giáp Hồ Tôn (Chiêm Thành), phía tây giáp Ba Thục (Tứ Xuyên), phía đông giáp bể Nam Hải.
Kinh Dương Vương lấy con gái Động Đ́nh Quân là Long Nữ sinh ra Sùng Lăm, nối ngôi làm vua, xưng là Lạc Long Quân. Lạc Long Quân lấy con gái vua Đế Lai là Âu Cơ, sinh một lần được một trăm người con trai. Lạc long Quân bảo bà Âu Cơ rằng : “Ta là ḍng dơi Long Quân, nàng là ḍng dơi Thần Tiên, ăn ở lâu với nhau không được, nay được trăm đứa con th́ nàng đem 50 đứa lên núi, c̣n 50 đứa ta đem xuống bể Nam Hải.Lạc Long Quân phong cho người con trưởng làm vua nước Văn Lang, xưng là Hùng Vương.”
Qua câu truyện truyền thuyết về nguồn gốc và địa bàn sinh sống của ḍng Bách Việt th́ :
1- Nơi phát tích ḍng Bách Việt là Động Đ́nh Hồ thuộc tỉnh Hồ Nam, Trung Quốc ngày nay. Động Đ́nh Quân làm vua ở Động Đ́nh Hồ thuộc giống Rồng.
2- Kinh Dương Vương là con của nàng Vụ Tiên lấy con gái của Động Đ́nh Quân là Long Nữ sinh ra Sùng Lăm hiệu là Lạc long Quân. Lạc Long Quân là con của Long Nữ thuộc giống Rồng và là cháu của Vụ Tiên thuộc giống Tiên. Dân Việt Nam là hậu duệ của Lạc Long Quân nên tự nhận là “Con Rồng Cháu Tiên”
3- Kinh Dương Vương làm vua nước ta trước tiên với quốc hiệu là Xích Quỷ thuộc họ Hồng Bàng. Chúng ta thuộc ḍng Việt tộc ngành Lạc, nên gọi là Lạc Việt. V́ thế chúng ta tự nhận là “Con Hồng Cháu Lạc” để nhớ gốc tích giống ṇi.
4- Lạc Long Quân lấy Âu Cơ sinh ra trăm người con. Hai Ông Bà chia con với nhau, 50 con theo mẹ lên núi, 50 con theo cha xuống biển. Đó là mấu chốt của truyền thuyết. Nó nói lên việc ḍng Bách Việt chia nhau chiếm lĩnh địa bàn sinh sống từ trên núi xuống biển khắp cả lục địa nước Tàu xuống tận vùng Đông Nam Á và các Hải đảo.
5- Trước khi chia đất, phân tán các con đi các nơi th́ cha Lạc Long Quân và mẹ Âu Cơ truyền ngôi cho con cả làm vua đất Văn Lang. Đó là vua Hùng Vương của chi Lạc Việt. Chúng ta hănh diện là hậu duệ của vua Hùng là ngành cả của ḍng Bách Việt. Đó là truyền thuyết nói về việc phát tích và địa bàn sinh sống của ḍng Bách Việt và được chia ra nhiều chi nhánh như Cửu Lê, Bách Bộc, Lạc Việt, U Việt, Mân Việt, Âu Việt, Nam Việt v,v…
6- Nước Xích Quỷ của Kinh Dương Vương phía bắc giáp Động Đ́nh Hồ, tây giáp Ba Thục, nam giáp Hồ Tôn, đông giáp biển Đông. Khi Lạc Long Quân nối ngôi th́ cũng thừa hưởng giang sơn Xích Quỷ của Kinh Dương Vương. Lạc Long Quân về thủy phủ truyền ngôi cho con là Hùng Vương làm vua th́ Hùng Vương cũng hưởng quyền cai trị nước Xích Quỷ. Hùng Vương đổi tên nước là Văn Lang và dĩ nhiên bờ cơi nước Văn Lang cũng to lớn như nước Xích Quỷ, nghĩa là cả một dăy đất rộng lớn từ mạn nam sông Dương Tử đổ xuống phía nam đến Chiêm Thành đều thuộc đất Văn Lang.
Riêng về mặt khảo cổ th́ các nhà chủng tộc học, các nhà khảo cổ tiền sử và ngôn ngữ tỷ hiệu đă liệt dân Bách Việt trong đó có Việt Nam vào chủng Mă Lai :
1- Cách nay khoảng 10.000 năm, chi Nam Á (Austro-Asian), họ từ đâu tới không biết, tràn vào lục địa nước Tàu ngày nay, vùng Đông Nam Á và các hải đảo, đó là thời kỳ văn hoá Ḥa B́nh, Bắc Sơn, thuộc ngành ngôn ngữ Nam Đại Dương tức Mă Lai đa đảo.
2- Khoảng 3,4 ngàn năm sau, một chi Mă Lai khác tới sau. Họ thuộc ngành ngôn ngữ Nam Đảo (Austronesian).
3- Khoảng 2 ngàn năm sau nữa, một chi khác là Tạng Miến (Thái) tới, họ tràn vào Tứ Xuyên, Vân Nam, Quảng Đông, Vùng núi Bắc Việt.
Xét về mặt địa lư, ḍng tộc Mă Lai (Bách Việt) đă có mặt ở khắp nước Tàu, vùng Đông Nam Á, Ấn Độ, các hải đảo Thái B́nh Dương đến Madagascar (Mă Đảo, Phi Châu), vượt Thái B́nh Dương vào Mỹ châu, đó là người Maya, Inca, Da Đỏ…
D̉NG GIỐNG HOA TỘC VÀ CUỘC XÂM CHIẾM ĐẤT VIỆT LẦN 1.
Cách nay khoảng 5000 năm, có một bộ tộc từ vùng sa mạc tây bắc tràn vào miền tây bắc nước Tàu, sinh sống ở vùng Thiểm Tây và Sơn Tây, đó là chủng tộc Hoa. Ḍng tộc Hoa là giống người lai căn giữa rợ Nhục Chi (Tokharian) thuộc chủng da trắng với một rợ khác là Mông Cổ mà người Tàu gọi là Hung Nô, Âu châu gọi là Huns, thuộc chủng da vàng. (B́nh Nguyên Lộc, Nguồn gốc Mă Lai của dân tộc Việt Nam, tr. 79)
Thứ người lai căn này mà về sau gọi là Hoa tộc cũng gọi là Hoa Hạ, có tính cách Mông Cổ ở loại tóc thẳng và đen (tộc Nhục Chi tóc dợn sóng và màu đỏ hoặc màu râu bắp), giống Mông cổ ở nước da vàng, ở mắt xếch, mí mắt lót, màu mắt đen và ngôn ngữ độc âm. Họ có tính cách Nhục Chi ở thân thể cao lớn và râu quai nón như người Tây phuơng mà hiện nay người Hoa Bắc c̣n mang.
Giống người lai căn này sinh sôi nảy nở ra nhiều nhưng không có đất sống. Người Nhục Chi không muốn nhận giống lai căn đó v́ thấy khác họ quá nhiều. C̣n người Mông Cổ cũng không muốn nhận họ v́ cũng không thấy họ giống người Mông Cổ. Hơn nữa cả dân Nhục Chi lẫn dân Mông Cổ sống bằng nghề chăn nuôi, rất cần nhiều đất để súc vật có cỏ ăn nên họ đuổi giống lai căn đó đi. Thành thử nhóm mang hai gịng máu đó trở thành quân xâm lược đi cướp vùng đất mà nay là Hoa Bắc, lúc đó đă có chủ rồi, chủ đó là Việt tộc, chi Cửu Lê.
Vậy giống lai căn đó rời bỏ vùng vùng Tây Vực của dân Nhục Chi lúc đó cũng đă bị sa mạc hóa, tiến qua hành lang Cam Túc vào đất Quan Trung của tỉnh Thiểm Tây và Sơn Tây. Họ sinh sống ở vùng Quan Trung , trong dăy núi Hoa Sơn v́ thế họ tự nhận là tộc Hoa (Hoa Hạ). Họ ghép tên đất Quan Trung và tên tộc Hoa thành Trung Hoa để làm tên nước, v́ họ cho nơi họ ở là trung tâm thiên hạ ! Từ vùng sa mạc khô cằn vào đất Quan Trung màu mỡ th́ họ đă lấy làm vui mừng lắm, nhưng dần dà dân số tăng lên, đất đai không c̣n đủ cho súc vật, họ cần có vùng đất mới để sinh sống. Nh́n qua b́nh nguyên sông Hoàng Hà của các tỉnh Hà Bắc, Hà Nam họ thấy đất đai ở đó màu mỡ, dân ở đó canh tác hoa màu tốt tươi nên họ áp dụng lối sống du mục của tổ tiên là ăn cướp, giết địch để thâu chiến lợi phẩm là súc vật, đàn bà, và vùng đồng cỏ.
Hoa tộc lúc đó dưới quyền của lănh tụ Hiên Viên, c̣n dân Cửu Lê th́ dưới quyền thống lănh của Xuy Vưu mà sử Tàu gọi là “Xuy Vưu cổ thiên tử, Xuy Vưu bá thiên hạ”. Như thế, sử Tàu cũng công nhận là dân Cửu Lê sống ở đó đă lâu đời, tổ chức thành nước có vua, ông vua đó Tàu gọi là Xuy Vưu với nghĩa miệt thị.
(Trong Lĩnh Nam Chích Quái của Trần Thế Pháp th́ cho Xuy Vưu là quân thần của Đế Lai : “Đế Nghi truyền ngôi cho Đế Lai cai trị phương Bắc; nhân khi thiên hạ vô sự, sực nhớ đến truyện ông nội là Đế Minh nam tuần gặp được tiên nữ, Đế Lai bèn khiến Xuy Vưu tác chủ quốc sự mà nam tuần qua nước Xích Quỷ, thấy Long Quân dă về Thủy phủ, trong nước không vua, mới lưu ái thê là Âu Cơ cùng bộ chúng thị thiếp ở lại hành cung.” bản dịch của Lê Hữu Mục,xb, Huế 1960, tr.43 ).
Hiên Viên kéo nhóm dân du mục hung dữ, tàn bạo đánh úp Xuy Vưu tại Trác Lộc, một địa điểm trên bờ sông Hoàng Hà, phía bắc tỉnh Hà Nam. Dân Cửu Lê, một chi hhánh của đại tộc Bách Việt, là dân vốn sống bằng ghề nông nghiệp, hiền lành. ít có chiến tranh, không pḥng bị gặp phải thứ dân du mục quen nghề chém giết nên bị thua. Xuy Vưu bị giết, dân bị tàn sát, bị bắt làm nô lệ, một số chạy trốn.
Trong số bị bắt, đông nhất hẳn là đàn bà. Giống dân du mục lang thang đó đây theo bầy gia súc rất cần đàn bà nên khi đánh một bộ lạc nào, việc đầu tiên là tàn sát đàn ông và bắt đàn bà làm vợ, làm nô lệ. Đám Hoa tộc của Hiên Viên cũng không ngoài thông lệ đó. Họ bắt đàn bà, giết người đau yếu, bắt người khỏe mạnh làm nô lệ. Nhưng dân Cửu Lê sau khi thua trận, những người khỏe mạnh đă bỏ chạy trốn. Họ chạy xuống miền nam sông Hoàng Hà để nương náu với đồng tộc của họ đang sinh sống ở đó. Họ cũng chạy ra biển, vượt biển, có lẽ là nơi trước đó họ đă đổ bộ vào đất liền. Họ chạy qua Đại Hàn, Nhật Bản, Đài Loan, Hải Nam, và Bắc Việt. Nhóm tới Bắc Việt, nhập vào dân Việt đă sống ở đó và đă lập quốc gọi là Văn Lang.
Sử Tàu khoe rằng đă bắt được đám Cửu Lê với vũ điệu Xuy Vưu. Như thế là dân Cửu Lê đă có một tŕnh độ văn hóa khá cao với các vũ điệu mà Hoa tộc phải học lại. Họ c̣n học lại với lớp dân Cửu Lê nghề canh nông, nghề đánh cá. Và bây giờ th́ Hoa tộc trở thành dân định canh định cư, hết c̣n lang thang bằng nghề chăn nuôi súc vật nữa.
( Xin mở dấu ngoặc ở đây để nghe triết gia Kim Định nói về vũ điệu Xuy Vưu mà cụ gọi là Li Vưu v́ cho rằng người Tàu, khi chiến thắng đă gọi kẻ thua trận bằng tên rất xấu có ư khinh miệt nên phải gọi là Li Vưu mới đúng (Li Vưu có nghĩa là Rồng vàng thượng thặng)… “Đồ múa th́ gồm có móc, búa, đuôi ḅ và nhất là lông chim ngũ sắc, chữ nho kêu là vũ. Chính v́ thế bài vũ có tên Vũ Nghi. tức là trang sức (nghi) bằng lông chim ngũ sắc (vũ). Nếu nói Nghê thường vũ y khúc (chỉ màu ráng đỏ) phương Nam, thường là váy, y vũ là áo bằng lông… Những đồ vũ đó nhất là lông chim ngũ sắc đă từ lâu gắn liền với vũ, hễ múa là phải đeo lông chim th́ múa mới thành, mà múa có thành th́ lễ mới nên (valid). Bởi thế vũ có mang lông chim đă trở nên con cháu chủ quyền của Việt lư, con cháu có thể dùng để nhận diện gia bảo…” Kim Định, Văn Lang Vũ Bộ.)
Dân Cửu Lê c̣n ở lại bị liệt vào hạng tôi đ̣i hạ lưu của xă hội Hoa tộc và bị gọi là lê dân (đầu đen) : “Lê dân sồng trong cảnh lầm than khổ cực” và câu : “Được mắt xanh ngó tới” chứng tỏ rằng tầng lớp quư tộc, thống trị là người Hoa, con mắt họ lúc đó c̣n màu xanh và tóc hung đỏ của rợ Nhục chi, c̣n dân Cửu Lê th́ tóc đen. Các nhà chủng tộc học gọi giống Hoa tộc này thuộc chủng Trung Mông gô lích. Chủng Bắc Mông gô lích là người Mông cổ và sau này gọi giống người ở Hoa nam là Nam Mông gô lích.
Đó là lần đầu có cuộc đụng độ chiếm đất, đồng hóa dân Việt của Hoa tộc.Cuộc đụng độ lần đầu tiên này do sử Tàu ghi lại để khoe thành tích, nên ta mới biết có cuộc xâm lăng khủng khiếp đó, nếu không th́ chẳng ai biết ǵ và cứ tưởng vùng đất Hoa bắc ấy là của Hoa tộc từ thuở nào, chứ có ai dè đất ấy là của Việt tộc đă ở đó hàng ngàn năm trước.
Nhóm Cửu Lê thất trận rồi, lớp bỏ chạy, lớp ở lại bị đồng hóa với Hoa tộc th́ bên cạnh đó, ở vùng sông Bộc có một nhóm khác cũng thuộc ḍng Việt tộc, đó là nhóm Bách Bộc. Sông Bộc là con sông phát nguyên từ cao nguyên tỉnh Sơn Đông chảy vào sông Hoàng Hà. Địa bàn của nhóm Bách Bộc không xa Trác Lộc, nơi Hiên Viên đánh Xuy Vưu là bao nhiêu.
Nhóm Bách Bộc này sống bằng nghề canh nông và tầm tang (trồng dâu nuôi tằm dệt lụa). Họ có lối sống cổ sơ hồn nhiên trai gái giao du thân mật không bị cấm đoán “nam nữ thụ thụ bất tương thân” như Hoa tộc. Người Hoa thấy lối sống thân cận nam nữ của dân Bách Bộc th́ chê bai chỉ trích là cảnh dâm loạn : “trên bộc trong dâu”.
Nhóm Bách Bộc này rồi cũng bị người Hoa tấn công chiếm đất. Không biết có những trận chiến xẩy ra khốc liệt như với nhóm Cửu Lê hay không v́ không thấy sử chép nhưng biết rằng nhóm này bị lấn đất măi, bị dồn lên cao nguyên Sơn Đông và cuối cùng cũng bị đồng hóa với Hoa tộc. Nhóm Bách Bộc bị dồn lên cao nguyên Sơn Đông này, Tàu gọi họ là Đông Di. Những người Di Việt bị dồn lên Cao nguyên Sơn Đông vẫn c̣n tồn tại và luôn luôn nổi lên chống đối Hoa tộc. Cho măi đến đời Tam Quốc nhóm người Đông Di này vẫn c̣n dằng dai kháng cự. Cụ thể là nhóm người mà Tàu gọi là Hoàng cân (khăn vàng, người Di này dùng khăn bịt đầu v́ họ cắt tóc ngắn, phát tiễn, một dấu chỉ của người Việt, sử Tàu cũng cho biết người Di này nhuộm răng đen và xâm ḿnh), nổi lên đánh phá khắp vùng Sơn Đông làm điêu đứng nhà Hán không ít và cũng là dịp cho Lưu Bị, Tào Tháo, Tôn Quyền xuất hiện lập ra ba nước Thục, Nguỵ, Ngô.
( Chính nhóm Huỳnh Cân này phát khởi ra Thiên Địa Hội. Có ba người tự xưng là :
- Thiên công tướng quân : Trương Giốc
- Địa công tướng quân : Trương Bảo
- Nhân công tướng công : Trương Lương
Họ kết hợp lại thành “Tụ Nghĩa Hội” hay là “Bài Huyết Hội” thường gọi là “Thiên Địa Hội”. Thiên Địa Hội từ đó bành trướng khắp nước Tàu, trước c̣n có mục đích yêu nước sau biến dạng thành các tổ chức anh chị đâm thuê chém mướn, buôn lậu. Thiên Địa Hội có một thời hoạt động rất mạnh tại miền nam Việt Nam thời Pháp mới đặt nền đô hộ.
Đời nhà Tống có các hảo hớn Lương Sơn Bạc nổi lên chống lại triều đ́nh thối nát tham nhũng, Căn cứ của các hảo hớn này là tỉnh Sơn Đông, hẳn là người Di lại đă nổi lên chống lại người Hoa cai trị. Đến đời nhà Thanh những người Di này lại nổi lên chống nhà Thanh với danh hiệu là “Nghĩa Ḥa Quyền”, khẩu hiệu là “Diệt Thanh Phục Minh” về sau thấy người Tây phương qua ức hiếp người Tàu họ lại quay ra “Phù Thanh Diệt Dương” Nghĩa Ḥa Quyền kéo quân vào thành Bắc Kinh đánh phá các ṭa đại sứ, lănh sự Tây phương khiến các nước Tây phưong phải kéo quân vào đánh quân Nghĩa Ḥa Quyền, người Tây phương gọi đám quân này là Boxer, Quyền phỉ. Từ ngày bị người Hoa dồn lên cao nguyên Sơn Đông đến nay có hơn năm ngàn năm, bị người Hoa bao vây tứ phía, thế mà người Di (BộcViệt) vẫn c̣n đầy sức sống để nổi lên chống lại đám người Hoa xâm lăng. Ngày nay những người Sơn Đông măi vơ, thường hay đi bán thuốc ở Việt Nam là hậu duệ của người Di Việt hay Bách Bộc này. Phải chăng người Sơn Đông măi vơ này, thuộc Thiếu Lâm bắc phái, biết họ có mối liên hệ ruột thịt của ḍng máu Bách Việt với người Việt Nam nên mới thường xuyên t́m đến như thế ? ).
Dân Bách Bộc bị Hoa tộc xâm lăng th́ bỏ chạy tứ tán, một số đi ra biển đông tới Nhật ,Cao ly, Đài Loan, Hải Nam, Việt Nam…, một số rút lên Cao nguyên Sơn Đông kháng cự chống lại Hoa tộc như ta đă biết, một số chạy xuống vùng đồng bằng sông Dương Tử, nơi có các nhóm Việt khác đang sinh sống tại đó. Ở đây, họ thành lập nước Bộc và cầm đầu các nước Việt khác chống lại nước Sở.
Thế là địa bàn Hoa Bắc ở vùng sông Hoàng Hà, Hoa tộc đă chiếm trọn của Việt tộc và lập ra đó nhiều nước mà sử Tàu gọi là vạn quốc. Đến thời Chiến Quốc(476-221 TCN) lúc nhà Đông Châu mạt vận th́ chỉ c̣n 7 nước(Tề, Sở, Ngụy, Yên Triệu, Hàn, Tần) v́ các nước nhỏ đă bị các nước lớn nuốt hết, để rồi Tần Thủy Hoàng gồm thâu lục quốc thống nhất nước Tàu.
Người Tây phương chỉ biết nước Tàu từ thời Tần Thủy Hoàng nên họ lấy tên nước Tần của Tần Thủy Hoàng để gọi nước Tàu hay Trung Hoa, đọc theo giọng quan thoại tức tiếng nước Tần là Ch’in hay Tsin, người Pháp đọc là Chine, người Anh đọc là China. Người Hoa tự coi họ như là trung tâm của thiên hạ (Trung Hoa). V́ tự tôn nên họ coi những dân tộc sống xung quanh họ là man di mọi rợ. Dân phía bắc họ gọi là Bắc Địch (Mông cổ, Măn châu), phía tây là Tây Nhung (Tây Tạng), phía đông là Đông Di (Bộc Việt), phía Nam là Nam Man (Bách Việt). Khi tiếp xúc với người Tây phương th́ họ gọi dân da trắng đó là Bạch quỷ!
Ngày nay người Tàu không gọi nước họ là Trung Hoa mà gọi là Trung Quốc. Họ không gọi ṇi giống họ là Hoa mà gọi là Hán. Đó chẳng qua là họ muốn dấu tung tích ṇi giống Hoa tộc đă đánh chiếm đất của các giống Việt, Măn, Mông ,Tạng và Hồi.và đồng hóa các dân tộc này. Không có thứ dân tộc nào là Hán cả mà chỉ có Hoa tộc, Việt tộc, Tạng tộc, Măn tộc, Mông tộc, Hồi tộc. Để ru ngủ các tộc khác ngoài tộc Hoa khỏi nổi lên đ̣i đất, đ̣i tự chủ nên tộc Hoa đă chịu dấu kỹ cái tộc Hoa của ḿnh mà lấy cái tên Hán làm tên chung cho các thứ dân tộc đă bị người Hoa đồng hóa.
Ngày xưa người Tàu thường dùng các tên triều đại cai trị để gọi tên nước, tên người, như dưới thời nhà Đường th́ gọi tên nước là Đường quốc, người Đường (Thọng dành), đời nhà Măn Thanh th́ gọi là nước Đại Thanh, người Đại Thanh.
Lưu Bang và Hạng Vũ cùng nổi lên lật đổ nhà Tần của Tần Thủy Hoàng. Lưu Bang có ư muốn trừ Hạng Vũ để tự thống nhất thiên hạ. Hạng Vũ cả giận muốn giết đi nhưng nghĩ thương t́nh v́ cũng là người nước Sở cả, nên mới cho vào trấn đất Hán Trung và Ba Thục phong cho tước hiệu là Hán Vương. Về sau Lưu Bang lập mưu đánh bại Hạng Vũ và lên ngôi lấy tước hiệu Hán vương đổi thành Hán Hoàng Đế tức Hán Cao Tổ, thủ đắc một nước Tàu thống nhất và xâm chiếm Bách Việt do công của Tần Thủy Hoàng lập ra. V́ nhà Hán cai trị nước Tàu lâu đời và trọng dụng các nho sĩ nên được ca tụng, rồi từ đó chữ nho được gọi là chữ Hán, người Tàu được gọi là người Hán. Đáng lư ra người Tàu phải gọi người Tần, Ch’in hay Tsin như người Tây phương gọi là Chine, China mới đúng v́ công thống nhất nước Tầu là của Tần Thuỷ Hoàng !
PHẦN II
NƯỚC SỞ : KHUÔN MẪU CỦA HOA TỘC NUỐT CÁC NƯỚC VIỆT TỘC.
CUỘC CHIẾM ĐẤT LẦN THỨ HAI.
Hoa tộc chiếm được b́nh nguyên Ḥang Hà rồi th́ họ lập lu bù nước ở đó, có lúc lên đến hàng vạn nước. Thật ra chỉ là những bộ tộc, những họ, mỗi họ chiếm một một vùng tự xưng là nước chư hầu dưới quyền của một ông ḥang đế, đó là các vua nhà Hạ, nhà Thương Ân, nhà Châu và chính các ông vua này tự xưng là Thiên tử, con trời! Hoa tộc vốn là dân du mục đi theo đàn súc vật kiếm sống, nay vào chiếm được phần đất Trung nguyên, đất đai tốt tươi mầu mỡ, th́ mạnh ai nấy chiếm để vừa canh tác vừa nuôi súc vật. Họ trở thành những lănh chúa phong kiến. Các lănh chúa này có tham vọng đất đai quyền hành thường xung đột lẫn nhau để chiếm đất, bắt địch thủ phải triều cống, phục tùng. V́ thế từ hàng vạn nước, dần dà nuốt lẫn nhau xuống c̣n vài ngh́n, vài trăm. Tới thời Đông Châu mạt vận th́ chỉ c̣n 7 nước, đó là các nước Tần, Triệu , Tề, Sở, Yên, Ngụy, Hàn. Rồi chúa nước Tần là Tần Vương Chính “gồm thâu lục quốc”, nuốt chửng 6 nước kia, lên ngôi Ḥang Đế lấy hiệu là Tần Thủy Ḥang, thống nhất các nước Hoa tộc (221 TCN).
Sau trận đụng độ lớn lao giữa Hiên Viên và Xuy Vưu, sau khi đă nuốt chửng Cửu Lê và Bách Bộc, sau khi đă dồn dân Đông Di (Bách Bộc) lên cao nguyên Sơn Đông và bao vây họ ở đó th́ không c̣n trận đụng độ nào lớn lao giữa Hoa tộc và Việt tộc. Phải mất gần ba ngàn năm (3000 ) sau mới làm cho con hổ đói Hoa tộc chồm xuống nuốt trọn miền Hoa Nam của dân Bách Việt. ( trừ trường hợp vua Cao Tông nhà Ân “phạt Quỷ Phương tam niên” tức xâm lăng nước Xích Quỷ hay Văn Lang đời Hùng Vương thứ 6 trong 3 năm và bị đức Phù Đổng Thiên Vương đánh bại, từ đó không c̣n dám xâm phạm đất Văn Lang lần nào nữa.)
Trong lúc Hoa tộc lo củng cố, phát triển phần đất chiếm được th́ không phải là họ chịu để yên cho dân Việt được sinh sống giữ ǵn đất đai của ḿnh mà họ âm thầm áp dụng một phương thức xâm thực ôn ḥa, bền bỉ mà vô cùng nguy hiểm, thâm độc, cho đến lúc người dân Việt bị Hoa hóa hồi nào không hay và phần đất Việt đó trở thành đất của Hoa tộc!
Nước Sở là trường hợp điển h́nh cuộc Hoa hóa đó.
Mấy ông vua Tàu tuy chức tước lớn lao tự xưng là Thiên tử, Con Trời, là Ḥang Đế, các chư hầu phải phục tùng triều cống, nhưng thật ra đất đai chẳng có bao nhiêu, binh lính cũng chẳng nhiều nên khi có anh chư hầu nào ngang bướng không thèm nghe lời thiên tử, tự xưng chức bá chức vương th́ ông Ḥang đế phải cầu cứu (triệu tập) các nước chư hầu để dẹp loạn. Nếu các chư hầu không đồng thuận hay sợ cái anh ngang bướng đó, v́ anh ta dữ quá th́ ông Ḥang đế cũng đành vuốt giận làm ngơ!
Các ông vua đó cũng thường hay phong chức (Phong) và cắt đất (Kiến) cho mấy công thần để đền ơn, để làm vây cánh, lấy chỗ này một ít ban cho ông này, lấy chỗ kia một ít kiến cho ông khác và như thế chế độ phong kiến mỗi ngày mỗi củng cố. Trong trường hợp đó, vua nhà Châu đă phong chức cho Hùng Dịch và chỉ đại một miếng đất của người Việt ban cho ông này với mục đích đẩy ông này đi tiên phong trong việc chiếm đất Việt tộc.
Châu Thành Vương (1285 TCN) phong cho Hùng Dịch tước Tử và “ban” cho đất Kinh Cức là đất Việt làm lănh thổ. Đây không phải lần duy nhất mà ông vua Tàu lấy đất Việt phong cho công thần. Sử Tàu chép : “Năm Quư Măo (2083 TCN) vua Thiếu Khang nhà Hạ phong cho con thứ là Vô Dư ở đất Việt.” Rồi không thấy sử nói ǵ nữa. Không biết đất Việt đó ở đâu, cái ông Vô Dư được phong đó (hay bị đày) có đến đất Việt hay không và có làm được ǵ không, hay đă bị dân Việt nuốt chửng mất! Từ khi Vô Dư được phong ở đất Việt cho đến Hùng Dịch phải mất gần 800 năm lại mới có cuộc chiếm đất phong bừa như thế. Đây là hai trường hợp mà sử sách có nói đến, có lẽ c̣n nhiều trường hợp lấy đất Việt phong bừa cho các người khác, nhưng sử sách không nói đến v́ những người này không có tiếng tăm, hoặc họ bị dân Việt giết hay bị đồng hóa với dân Việt cả rồi.
Hùng Dịch được phong v́ gịng họ có công nhiều kể từ đời Xuyên Húc. Trong gịng họ có một người tên Lục Chung. Lục Chung cưới con gái nước Quỷ Phương, có thai mười một (11) tháng rồi giở nách bên tả sinh 3 người con, giở nách bên phải sinh 3 người con! Người thứ 6 tên là Quư Liên họ Mỵ (Mễ). Quư Liên có một người con tên Dục Hùng. Dục Hùng lấy tên làm họ. Từ đó con cháu đều lấy tên Hùng làm họ. Hùng Dịch là cháu.
Truyện Lục Chung cưới con gái nước Quỷ Phương làm ta chú ư. Nước Quỷ Phương này được nhắc đến khi Ân Cao Tông “phạt Quỷ Phương tam niên”. Nước Quỷ Phương mà sử Tàu nói đến nó trùng hợp với nước Xích Quỷ trong truyền thuyết của ta. Xích Quỷ là tên nước ta thời Kinh Dương Vương. Truyền thuyết của ta có nói đến vua nhà Ân là Cao Tông kéo quân xâm lăng nước Quỷ Phương 3 năm mà sử Tàu gọi là “phạt Quỷ Phương tam niên” nhưng “bị Thánh Gióng (Phù Đổng Thiên Vương) đánh phải chôn xác lại trên đất Việt, có nói trong Kinh Thư, mà các sử gia Tàu có ư dập bớt đi” (Kim Định, Hưng Việt)
Xin mở dấu ngoặc ở đây để nói về nước Xích Quỷ. Xích Quỷ là tên nước của Kinh Dương Vương. Tên Xích Quỷ này gây nhiều tranh luận. Có người cho là truyện bịa đặt, đâu có ai lại di đặt tên nước xấu như vậy! Ông Nhượng Tống bàn như sau: “Người Tàu cho ḿnh là văn minh và người khác là dă man, là quỷ. Cho măi đến gần đây họ c̣n gọi người da trắng là Dương quỷ, Bạch quỷ. Như thế có lẽ ngày xưa họ gọi ḿnh là Xích quỷ v́ ta ở phương Nam và theo thuyết năm hành của họ th́ xích (đỏ) là màu của phương nam. Nhưng có lẽ nào vua nước ta lại tự đặt lấy cái tên xấu xí như thế ?”
Triết gia Kim Định cho rằng cái tên Xích Quỷ là có thật : “…Đây là giai đọan thờ mặt trời mà ấn tích c̣n sót lại là tên Xích Quỷ, hiểu quỷ là làm chủ, c̣n xích là tinh hoa của cái ǵ, đây là tinh hoa của thời thờ mặt trời.”
Ông B́nh Nguyên Lộc viết: “Truyền thuyết ta cho rằng nước ta tên là Xích Quỷ, Ngô Sĩ Liên chép lại, bị Nhượng Tống cứ cho rằng lẽ nào ta lại đặt tên nước xấu đến thế. Nhưng chúng tôi sẽ tŕnh diện một thứ người cổ Mă Lai tự xưng là Lạc, nói tiếng Việt cổ và mang màu da thổ chu….Truyền thuyết của ta không ngốc đâu. Xích Quỷ có thể là danh xưng mà Tàu gọi ta vào cổ thời ta không hiểu, nhưng cứ nhận y hệt như nước Xiêm.”
Ông B́nh Nguyên Lộc tŕnh diện người Việt cổ có màu da thổ chu là người Khả Lá Vàng, sống ở vùng Trường Sơn giữa Việt Nam và Lào : “Những người này cao lớn, nước da thổ chu, xâm trán (Điêu đề) nói tiếng cổ Việt Nam, ăn canh cua đồng. Màu da thổ chu của Khả Lá Vàng cắt nghĩa được tại sao ta là Xích Quỷ mà Nhượng Tống phủ nhận cho rằng không lẽ nào ta lại lấy tên nước xấu như vậy. Tóm lại Khả Lá Vàng theo tài liệu ở đây là tộc “Xích Quỷ”, xâm trán (điêu đề), tự gọi là Lạc (Alak), nói tiếng Việt cổ, ăn canh cua đồng và đàn bà đẻ nằm bếp”. (BNL, Nguồn gốc Mă Lai của dân tộc VN)
Ông Nguyễn Xuân Quang viết : “Tên nước Xích Quỷ rất giản dị. Xích là đỏ. Quỷ phiên âm từ chữ Kẻ là người. Xích Quỷ là Người Đỏ, là Kẻ Đỏ. Kẻ Mặt Trời. Người Mặt Trời. Việt Mặt Trời. Nước Xích Quỷ là nước Người Mặt Trời rực lửa.
Và ông “khám phá” ra một nước Xích Quỷ ở Hoa Kỳ. “Đó là tiểu bang Oklahoma, với Okla là ochre : hoàng thổ, đất đỏ. Homa là Người. Oklahoma là người “Thổ Chu”, người “Da Đỏ chính là Xích Quỷ.”(NXQ, Khai Quật Kho Tàng Cổ Sử Hừng Việt)
Ông Lê văn Ẩn giải nghĩa Xích Quỷ : “Xích có nghĩa đường Xích đạo. Quỷ ở dây là sao Quỷ, tượng trưng cho Phương Nam. Khi vua Vũ Định nhà Ân (Ân Cao Tông) đóng quân tại Kinh, tức vùng Kinh thuộc Châu Kinh. Thời điểm đó th́ sao Quỷ nằm tại vùng Châu Kinh, mà Châu Kinh là của Việt nên người Việt ta mới có truyền thuyết Phù Đổng Thiên Vương chống giặc Ân. Chống giặc Ân tức là chống quân của Ân Cao Tông từ phía Bắc kéo xuống”. (LVA, Việt tự và khảo cổ, Giai phẩm Xuân Giáp Thân 2004, Thời Báo)
Truyện ông Lục Chung cưới con gái nước Quỷ Phương chứng tỏ con cháu Lục chung có lai gịng máu Việt. Hùng Dịch là thứ con lai đó. Có lẽ v́ thế mà vua Châu Thành Vương mới đẩy xuống đất Kinh Việt làm lănh chúa, đi tiên phong mở mang bờ cơi, nếu thành công th́ là đầu cầu cho Hoa tộc tràn xuống đất Việt, c̣n nếu có bị dân Việt phản ứng giết đi th́ ráng chịu!
Đất Kinh Cức Hùng Dịch được phong nằm ở thượng nguồn phía tây sông Hán. Ở đó có núi Kinh và thứ cỏ gai mọc tràn lan tên là Cức. Nó là đất của dân Việt nên cũng gọi là Kinh Việt hay Kinh Man. Ngày nay nó thuộc về tỉnh Hồ Bắc.
Hùng Dịch v́ có máu lai nên đi xuống vùng Kinh Cức cũng như người về quê mẹ. Dần dà quy tụ được một số người dưới trướng, rồi bành trướng măi ra, bắt các đầu mục các trưởng lăo quy thuận. Thế là Hùng Dịch có được một địa vị, trở thành chúa một nước, nước Sở. Hùng Dịch lại được một số người Hoa tới bổ xung, lấn dần đất, cho người Hoa lai với dân Việt, bắt dân Việt ăn mặc, sống theo nếp người Hoa, dần dà người Viêt bị Hoa hóa. Hùng Dịch rồi con cháu cứ lấn dần đất Việt từ Hồ Bắc xuống Hồ Nam nơi có Hồ Động Đ́nh. Hồ Động Đ́nh đối với dân Việt như vùng Thánh Địa v́ ở đó là nơi bà Long Nữ, con gái Động Đ́nh Quân lấy Kinh Dương Vương. Nơi đó Lạc Long Quân lấy mẹ Âu Cơ đẻ bọc trứng nở ra 100 con, thủy tổ của ḍng Bách Việt. Từ nay vùng Thánh Địa của dân Việt lọt vào tay Hoa tộc.
Dân Việt lại phải một lần nữa lui xuống phía nam Ngũ Lĩnh hay chạy qua phía đông sông Hán để nương nhờ các nước Việt c̣n đứng vững nơi đó.
Cuộc chiếm đất một cách âm thầm như tằm ăn dâu của Hoa tộc đă kéo dài từ Hoa Bắc xuống tới sông Trường Giang và Hồ Động Đ́nh.
Đó là lần thứ hai Hoa tộc bành trướng lănh thổ, xâm chiếm đất Việt.
CUỘC XÂM LĂNG LẦN THỨ BA :
NƯỚC SỞ NUỐT TRỌN CÁC NƯỚC VIỆT MIỀN HÁN ĐÔNG.
Trong khi Hùng Dịch và con cháu thành lập nước Sở ở miền Hán Tây (phía tây sông Hán) th́ tại miền Hán Đông (phía đông sông Hán) dân Việt thành lập nhiều nước trong đó có các nước như : nước Ba, nước Ưu, nước Đặng, nước Giao, nước La, nước Viên, nước Nhị, nước Chẩn, nước Thân, nước Giang, nước Tùy, nước Huỳnh (Ḥang), nước Dung, nước Bộc. Chắc c̣n nhiều nước nữa nhưng không được nhắc đến v́ chỉ có các nước kể trên mới thành lập liên minh chống Sở.Nước Sở đă chiếm trọn miền Hán Tây xuống đến Hồ Động Đ́nh, đă khuất phục được dân Việt ở đó th́ quay ra ḍm ngó các nước Việt ở Hán Đông. Nước Sở cho quân sang quấy nhiễu bắt các nước này phải phục tùng, phải triều cống khiến các nước này phải liên kết lại thành liên minh chống nước Sở. Dưới con mắt các nước Việt th́ Sở là dân mất gốc dưới quyền cai trị của tầng lớp thống trị Hoa tộc. Đến thời Sở Trang Vương th́ dân Việt đất Sở đă bị đồng hóa với Hoa tộc cả rồi. (611 TCN)
V́ cứ bị nước Sở lấn đất, cướp của bắt người nên các nước Việt vùng Hán Đông nhất quyết liên minh đánh Sở. Các nước Việt liên minh dưới quyền lănh đạo của nước Bộc. Nước Bộc Việt này là ḍng dơi của dân Bách Bộc trên sông Ḥang Hà bị Hoa tộc xâm chiếm thời Hiên Viên, chạy xuống phía Hán Đông, thành lập nước Bộc Việt.
Chúa nước Sở là Sở Trang Vương thấy quân các nước Việt đông quá, hỏang sợ định chạy trốn qua phía tây. Các tướng nước Sở trấn an Sở Trang Vương và liều chết xông vào đánh liên quân Việt, chiếm được nước Đặng rồi sáp nhập nước này vào nước Sở luôn. Liên quân Việt thấy quân Sở mạnh quá đánh không lại nên phải lui quân. Các nước Việt này rồi bị Sở chiếm lần lần, một số khác bị nước Ngô nuốt.
Các nước Việt nho nhỏ ở Hán Đông tan ră, nhưng lại nổi lên hai nước cùng ḍng tộc Việt khác rất nổi tiếng thời Đông Châu cũng gọi là thời Xuân Thu hay Chiến Quốc, đó là nước Ngô và nước Việt.
Nước Ngô ở vào tỉnh Giang Tô ngày nay. Vua nước Ngô lúc đó là Thọ Mông. Một phản tướng của nước Sở là Khuất Vu chạy trốn qua nước Tấn nên tộc đảng bị vua Sở đem chém hết. Khuất Vu tức giận, đổi tên là Vu Thần, bày mưu cho vua nước Tấn là Tấn Cảnh Công sang giao hiếu với nước Ngô, dạy cho nước Ngô về binh pháp, chế tạo vũ khí để mượn tay nước Ngô đánh phá nước Sở. Vu Thần lại cho con là Hồ Dung sang làm quan ở nước Ngô. Từ đó nước Ngô hùng mạnh lên, chiếm các nước Việt Hán Đông của nước Sở.
Nước Ngô nổi tiếng về tài đúc kiếm. Thanh kiếm Can Tương và Mạc Gia rất nổi tiếng được sử Tàu nói đến nhiều. V́ có tài luyện kim, đúc kiếm, chế tạo vũ khí nên kho vũ khí rất dồi dào. Nước Ngô lại được phản tướng nước Sở là Ngũ Viên tự là Ngũ Tử Tư sang đầu, rèn luyện quân binh rất hùng mạnh. Nước Ngô lại được thêm Tôn Vũ là người Việt nước Ngô. Tôn Vũ là một chiến lược gia, viết bộ Binh Thư, thường được biết dưới tên “Tôn Ngô Binh Pháp” nổi tiếng cho đến ngày nay các nhà quân sự vẫn c̣n áp dụng. Có thể nói nước Ngô là nước mạnh nhất thời đó. Ngũ Tử Tư v́ muốn báo thù vua Sở nên xúi vua Ngô đánh nước Sở. Vua Ngô là Hạp Lư đem quân đánh Sở, vào chiếm kinh đô nước Sở là Dĩnh Đô, vua Sở phải bỏ chạy. Vua Ngô Hạp Lư lập con vua Sở là công tử Thắng làm vua rồi rút quân về. Con Hạp Lư là Phù Sai nối ngôi làm vua nước Ngô, thế lực bao trùm cả các nước chư hầu nhà Châu. Ngô Phù Sai triệu tập các nước chư hầu nhà Châu để xưng Bá thay cho nước Tấn. Đây là lần đầu tiên một nước Việt tộc đă làm bá chủ các nước Hoa tộc và sau đó một nước Việt tộc khác là U Việt của Câu Tiển lên làm bá chủ thay Phù Sai.
Phía dưới nước Ngô, có nước Việt tức U Việt, nay là tỉnh Chiết Giang. Vua nước Việt là Dơan Thường chăm lo sửa sang triều chính, dùng người hiền lương, thương mến dân nên nước mỗi ngày mỗi cường thịnh. Vua nước Ngô là Dư Sái thấy thế đâm lo lắng sai tướng sang đánh nước Việt, bắt được tướng Việt là Tôn Nhân đem về chặt chân sai giữ thuyền vua. Một hôm Dư Sái ngự chơi thuyền, uống rượu say rồi ngủ quên. Tôn Nhân cởi thanh gươm của Dư Sái, đâm Dư Sái chết. Bọn nội thị xúm lại giết Tôn Nhân. Từ đó giữa nước Ngô và nước Việt có mối thù khiến hai nước cùng chung ḍng giống Việt này gây chiến muốn tiêu diệt lẫn nhau.
Nước Việt cũng rất giỏi nghề luyện kim đúc kiếm, đúc đồng pha. Tương truyền vua nước Việt có 5 thanh kiếm quư do kiếm sư Âu Gia Tử luyện ra. Vua Ngô là Thọ Mông nghe tiếng muốn lấy nên vua Việt phải dâng 3 thanh kiếm, đó là các thanh Ngư Trường, Ban Dĩnh và Trạm Lư.
Vua Ngô là Dư Sái bị tướng Việt Tôn Nhân giết, vua kế vị là Hạp Lư hận lắm, điều đông binh thuyền để trả thù. Hạp Lư mới thắng nước Sở thanh thế rất lớn. Vua nước Việt là Câu Tiễn cho lũ tù nhân cầm gương kề cổ, kéo tới dinh quân Ngô la lớn rồi đâm gươm vào cổ tự tử chết (thuật tự đâm ḿnh chết này được các di dân Việt đem theo qua Nhật Bản trở thành Harakiri). Quân Ngô thấy việc lạ chạy ra xem, ngơ ngác chẳng hiểu ǵ cả, quên cả pḥng bị. Lúc đó quân Việt từ tả hữu kéo đến xông vào dinh quân Ngô làm quân Ngô rối loạn. Vua Hạp Lư bỏ chạy bị tướng Việt chém đứt ngón chân cái, rớt mất giày. Hạp Lư đă già, đau quá chịu không nổi nên chết.
Con Hạp Lư là Phù Sai lên kế ngôi. Phù Sai nhớ hận vua cha bị quân Việt giết nên đem quân qua Thái Hồ đánh Việt Câu Tiễn, thế quân Ngô rất mạnh, quân Việt chống không lại phải xin giảng ḥa. Phù Sai bắt Câu Tiễn qua Ngô làm tù binh. Câu Tiễn bị giam ở nhà đá, nuôi ngựa, Phù Sai đi đâu, Câu Tiễn phải giắt ngựa. Có lần Phù Sai bị bệnh, Phạm Lăi coi số biết vua Ngô sắp hết bệnh bảo Câu Tiễn nếm phân Phù Sai mà chúc mừng rằng vua Ngô sắp hết bệnh. V́ khổ nhục kế như vậy nên Phù Sai cảm động mà tha cho về.
(Tương truyền v́ Câu Tiễn nếm phân Phù Sai nên sinh chúng hôi miệng, mấy ông lang (băm) mới bày cho Câu Tiễn ăn rau dấp cá để báng mùi hôi, thế rồi các ông quan cũng đua nhau ăn dấp cá để tỏ ḷng thông cảm với nỗi cay đắng vua phải chịu. Sau đó, ṭan dân nước Việt cũng bắt chước ăn. Tục ăn rau dấp cá truyền sang nước ta là do đám người lưu vong chạy qua khi nước Sở diệt nước Việt. Ngày nay thói ăn rau dấp cá rất phổ biến ở nước ta. Thời gian Ngô Việt tranh hùng này c̣n truyền tụng nhiều giai thọai và ca dao tục ngữ :“Nằm gai nếm mật” nghĩa là nằm ngủ trên đống chà, mỗi ngày phải le lưỡi nếm mật heo cho đắng miệng nhắc nhở đừng quên mối thù, đó là cách thức vua Việt Câu Tiễn sau 10 năm bị Ngô Phù Sai cầm tù được tha về vẫn thực hiện mà nhớ măi nỗi cay đắng khi bị cầm tù, để nhớ phải báo thù.
Người dân nước U Việt bị nước Ngô đày đọa khổ sở nên tỏ ḷng căm phẫn: “Gánh vàng đi đổ sông Ngô” có ư nói dân Việt phải triều cống phục dịch Ngô như gánh vàng đi đổ xuống sông th́ biết bao giờ mới lấp đầy ḷng tham của vua Ngô. Hai nước đánh nhau không thôi c̣n t́m cách trấn áp trù ếm nhau như trong câu : “Đánh trống qua cửa nhà Sấm”, vua Ngô muốn trấn áp vua Việt khi xây thành cho làm một cái cửa xây về hướng nước Việt và đặt tên là cửa Sấm có ư chỉ nước Ngô như sấm xét đánh tan nước Việt. Vua Việt cho thợ đúc nhiều trống đồng đem ra đánh để làm bạt sấm xét đi!
Thói tục ghét nước Ngô truyền vào nước ta (Văn Lang, Việt Nam) theo bước chân di cư của dân U Việt, cứ hễ thấy người Tàu phương bắc, bất luận là sắc dân nào cũng đều cho là người Ngô, và chỉ trích chế nhạo. Người Việt có tục nhuộm răng đen và cho như thế là đẹp, người Tàu th́ để răng trắng, bởi thế mới có câu : “Răng trắng ởn như răng thằng Ngô”. Lại lấy cả truyện gia đ́nh so sánh với giặc Ngô : “Giặc bên Ngô không bằng bà cô bên chồng”., hoặc “Thằng Ngô con đĩ” hoặc “Hoài con mà gả cho Ngô cho Lào” hoặc “Băm bầu băm bí, băm chị thằng Ngô, băm cô cái ả”. Có một bài hát nói hóm hỉnh mỉa mai“con đĩ” đốt vàng cho”thằng Ngô” như sau :
Tham giàu lấy phải thằng Ngô
Đêm nằm như thể cành khô chọc vào
Kể từ ngày tôi lấy anh
Anh bảo tôi rằng chả biết tiếng ǵ
Tôi chỉ biết một tiếng phán x́ là củ khoai lang.
*
Ba mươi tết, tết lại ba mươi,
Vợ thằng Ngô đốt vàng cho chú khách
Một tay em cầm cái dù rách
Một tay em xách cái chăn bông
Em ra đứng bờ sông
Em trông sang nước người :
Ới chú chiệc ơi là chú chiệc ơi!
*
Một tay em cầm quan tiền
Một tay em cầm thằng bù nh́n
Em ném xuống sông
Quan tiền nặng th́ quan tiền ch́m
Bù nh́n nhẹ th́ bù nh́n nổi
Ới ai ơi của nặng hơn người!
*
Tội ǵ mà ở chính chuyên
Một đêm là xám côn śn ai cho!
Có người nói rằng dân ta ghét nhà Ngô đời Tam Quốc v́ lúc đó Sĩ Nhiếp chết mà Ngô Tôn Quyền không cho con là Sĩ Huy lên nối ngôi cha lại cho người khác sang làm thái thú. Sĩ Huy đem quân chống giữ bị giết, người nhà bi bắt đem về Tàu trị tội, dân ta vỉ thế mà ghét nhà Ngô. Nếu chỉ có thế th́ không ông thái thú này cai trị ông thái thú khác cai trị cũng vậy thôi chứ có ǵ mà phải hận thằng Ngô đến thế. Đời nhà Hán cai trị c̣n tàn bạo biết mấy khiến Hai bà Trưng Trắc, Trưng Nhị phải nổi lên đuổi Tô Định đi sao dân ta không hận thằng Hán ? Đời nhà Tùy nhà Đường nhà Minh tàn bạo biết mấy sao dân ta không hận thằng Đường thằng Minh? Chỉ có thể cắt nghĩa được là dân Việt Câu Tiễn đă đem mối hận Ngô Phù Sai tới nước ta và từ đó dân Việt Văn Lang tiêm nhiễm mà cũng ghét Ngô lây, rồi đồng hoá tất cả dân Tàu đều là Ngô cả.)
Vua Việt Câu Tiễn được tha về lo chỉnh đốn binh lính thuyền bè, tích trữ lương thực. Mặt khác dùng mỹ nhân kế tuyển nàng Tây Thi dâng cho Phù Sai khiến ông vua này mải mê sắc đẹp, xây cất Cô Tô thành, ăn chơi trác táng, trể nải việc binh bị. Vua Ngô Phù Sai ỷ sức mạnh v́ đă đánh Sở, dẹp Việt, phạt Tề, bèn triệu tập các chư hầu Hoa tộc nơi đất Ḥang Tŕ (nước Vệ) tranh ngôi bá chủ với Tấn.
Câu Tiễn được tin Phù Sai kéo binh đi hội chư hầu liền kéo mười vạn tinh binh sang đánh Ngô. Quân Ngô không cự lại được, tan ră hàng ngũ. Quân Việt thừa thắng kéo đến vây kinh thành nước Ngô, thủy binh đóng tại Thái Hồ, c̣n bộ binh đóng ở cửa Tư Môn. Bao nhiêu chiến thuyền của quân Ngô bị quân Việt cướp đọat hết. Phạm Lăi nổi lửa đốt Cô Tô đài.
Ngô Phù Sai đang lúc vừa đoạt được ngôi bá chủ th́ nghe tin quân Việt qua đánh, lật đật kéo quân về theo đường thủy, bị quân Việt chận đánh phải lui binh và cho Bá Hy qua xin Câu Tiễn tha cho nước Ngô. Câu Tiễn nhớ ơn Bá Hy đă giúp đỡ khi bị Phù Sai bắt tù nên cho nước Ngô giảng ḥa.
Ít năm sau, Câu Tiễn lại đem quân qua đánh nước Ngô. Phù Sai chống không nổi phải tự tử. Câu Tiễn họp các nước Tề, Tấn, Tống, Lỗ xưng bá chủ ở Đông Phương. Câu Tiễn làm vua được 27 năm.
Hai nước Ngô và Việt từ cấp lănh đạo đến dân đều là người Việt. Hai nước Ngô và Việt đă thay nhau làm bá chủ các nước Hoa tộc một thời. Có lúc nước Lỗ bị quân Tề uy hiếp, Khổng Tử đă phải cho học tṛ là Tử Cống sang Ngô và Việt làm thuyết khách nhờ hai nước này làm áp lực bắt Tề phải rút quân. Dân Việt đă có một nền văn minh khá cao. Họ đă biết luyện kim, đúc đồng pha. Dân Việt trồng lúa nước, phát minh ra cách dẫn thủy nhập điền.
Sử kư Tư Mă Thiên viết về Câu Tiễn như sau : “Tổ tiên của Câu Tiễn thuộc ḍng dơi người Việt (Yue) có tục vẽ ḿnh, cắt tóc và những tập quán giống như người Việt ở phương Nam và Âu Việt.” Nước Việt này từ thế kỷ thứ 5 TCN, đă mở rộng lănh thổ từ phía bắc lên đến tận Giang Tô và nam Sơn Đông.
Hai nước Ngô Việt tranh chấp, tiêu diệt lẫn nhau để rồi bị nước Sở là nước Việt đă bị Hoa hóa nuốt. Sau khi Câu Tiễn mất (465 TCN), các người kế vị không giữ nổi bờ cơi cũ. Năm 375 TCN nước Việt chỉ c̣n phần lănh thổ ở vùng Chiết Giang và đến năm 334 TCN nước Việt hoàn toàn bị Sở diệt.Nước Việt sau những biến cố này bị phân tán, các phe trong hoàng tộc đánh lẫn nhau tranh quyền, mỗi người chiếm một vùng xưng vương, xưng chúa. Họ chiếm giữ miền duyên hải phía nam Chiết Giang. Các tiểu quốc người Việt thành h́nh được gọi là Bách Việt. Trong các tiểu quốc Bách Việt này sử sách c̣n viết đến các nước chính như Đông Âu (Ôn Châu, Chiết Giang), Mân Việt (Phúc Kiến), Nam Việt (Quảng Đông), Tây Âu (Quảng Tây), Dạ Lang (Quư Châu) Văn Lang (Bắc Việt). Trong khi dân Việt ở lại lập nên các nước Bách Việt th́ cũng có một số lớn chạy đi các nơi như Nhật Bản đem theo phương thức đúc kiếm và thuật harakiri, mổ bụng, một số khác xuống nước Văn Lang đem theo thuật đúc đồng pha…
Năm 317 TCN, một phản tướng nước Ngụy là Ngô Khởi xuống đầu nước Sở thực hiện ḍm ngó Bách Việt với việc kư kết hiệp ước thân hữu với các nước Việt phía nam Cối Kê. Cối Kê là kinh đô của nước Việt Câu Tiễn, dưới Cối Kê là các nước Bách Việt từ Phúc Kiến xuống vùng Ngũ Lĩnh.. Nước Sở, đứa con lai của Hoa tốc, đă nuốt xong các nước Việt ở vùng Trường Giang nay lại lăm le nh́n xuống phía dưới Ngũ Lĩnh tức Vùng Lĩnh Nam. Việc Ngô Khởi ḍm ngó các nước Bách Việt đă gợi ư cho Tần Thủy Ḥang đánh xuống vùng Lĩnh Nam sau này.
Thế là Việt tộc bị Hoa tộc xâm chiếm lần thứ ba. Biên cương Việt tộc nay co rút lại chỉ c̣n vùng Lĩnh Nam và duyên hải Phúc Kiến.
BA THỤC BỊ TẦN XÂM CHIẾM.
Nước Ba và nước Thục, một ḷng chảo ph́ nhiêu ở thượng nguồn sông Trường Giang, nay là tỉnh Tứ Xuyên thuộc ḍng Âu Việt tức người Thái sinh sống tại đó, nổi tiếng với thổ sản đậu nành, họ chế biến thành nước tương, đậu hủ. Nước Thục nổi danh về nghề sơn mài. Nước Ba và nước Thục được bao phủ xung quanh những núi non hiểm trở khó có thể ở ng̣ai xâm nhập vào được, phía bắc có dăy Tần Lĩnh hiểm trở, muốn qua phải làm sạn đạo, phía đông có Tam Hiệp là 3 quả núi ở giáp bên sông Trường Giang đó là các núi : Cổ Đường Giáp, Vu Giáp và Tây Lăng Giáp, ghềnh thác cheo leo tàu bè không qua được. (ở chỗ này ngày nay xây một con đập rất lớn gọi là đập Tam Hiệp).
Nước Tần ở vùng Thiểm Tây đất đai khô cằn thấy Ba Thục ph́ nhiêu th́ sinh ḷng tham muốn chiếm đọat. Chúa nước Tần cho tướng Tư Mă Thác vượt ải làm sạn đạo đem quân vào chiếm Ba Thục (316 TCN).
(Họ Tư Mă này h́nh như là khắc tinh của nước Thục. Mấy trăm năm sau, một ông Tư Mă khác sẽ lại đánh Thục, đó là Tư Mă Ư. Về đời Hán mạt, xẩy ra giặc Hoàng Cân (Đông Di) nhân đó một số người nhảy ra xưng hùng xưng bá, rồi đi dến việc chia ba nước Tàu, đó là thời Tam Quốc. Phía bắc, vùng đất thời Chiến Quốc thuộc về Tào Tháo, gọi là nước Ngụy. Phía nam, vùng đất nước Sở và Lĩnh Nam thuộc về Tôn Quyền, gọi là nước Ngô. Phía tây, vùng đất Ba Thục, Lưu Bị được Khổng Minh Gia Cát Lượng pḥ vào chiếm gọi là nước Thục. Từ vùng đất Thục, Khổng Minh đem quân cố vượt các cửa ải ra chiếm Quan Trung nhưng đều bị tướng nhà Ngụy là Tư Mă Ư chặn. Đến khi Khổng Minh chết, Tư Mă Ư vào chiếm Thục, rồi đánh chiếm luôn Ngô, lại thống nhất nước Tàu, lập ra nhà Tấn.)
Vua Thục và hoàng gia bị giết. Một số người hoàng tộc, dân chúng và binh sĩ chạy thóat được xuống vùng Lĩnh Nam (Quảng Tây, Quảng Đông). Họ trở thành Khách Gia, tức Hẹ, tức Hakka. Dân Thục lưu vong này rồi sẽ có liên hệ nhiều đến nước Văn Lang. Tương truyền vua Thục là Đỗ Quyên bị tử trận hóa thành con quốc, ra rả kêu quốc quốc trông ngày phục quốc (người ta gọi chim quốc là chim đỗ quyên). Hiện nay c̣n một số người Hẹ thờ chim quốc như là vật Tổ.
Đây là cuộc xâm lăng của nhà Tần vào đất dân Thái tức Âu Việt để sau đó ít lâu Tần Thủy Ḥang đánh chiếm các nước Hoa tộc rồi tràn xuống phía nam xâm lăng các nước Việt tộc c̣n lại. Ta sẽ c̣n thấy nhóm lưu vong nước Thục đụng độ với quân nhà Tần ở Lĩnh Nam.
NƯỚC SỞ.
Từ khi Hùng Dịch đến khai thác vùng Kinh Cức th́ đất Hồ Quảng, tên của hai tỉnh Hồ Bắc và Hồ Nam, trở thành trung tâm văn hóa và kinh tế của Trung Hoa. Nước Sở bị Tần diệt. Thật ra nước Sở chỉ bị diệt có cấp lănh đạo nhưng dân chúng vẫn c̣n đó, mà đa số dân chúng là dân Việt có lai ít nhiều với Hoa tộc. Tần Thủy Ḥang chiếm nước Sở chỉ vỏn vẹn có 21 năm th́ Hạng Vơ, một tướng của nước Sở và một công dân Sở khác là Lưu Bang cùng nổi lên đánh Tần rồi đánh lẫn nhau, sau cùng Lưu Bang thắng lập ra nhà Hán. Dưới đời nhà Hán, nước Tàu rộng lớn từ Đông Hải tới Tây Vực, Từ Mạc Bắc xuống tới Lĩnh Nam, nền văn minh, kinh tế phồn thịnh chưa từng có.
Nước Sở đă nuốt chửng nước Xích Quỷ, nước Sở đă chiếm Động Đ́nh Hồ, nơi phát tích, nơi chôn nhau cắt rốn của Việt tộc. Động Đ́nh Hồ có chu vi 450 cây số, có nơi bề rộng tới 350 cây số. V́ hồ quá rộng, lớn bằng 3,4 tỉnh của ta gộp lại nên nó mang nhiều tên như : Động Đ́nh Hồ, Cửu Giang Hồ, Ngũ Hồ, Tràng Hồ. (Có truyền thuyết nói Phạm Lăi đốt Cô Tô đài rồi đem Tây Thi trốn Câu Tiễn tới Ngũ Hồ, tức Động Đ́nh Hồ). Động Đ́nh Hồ có núi Cửu Nghi cũng gọi là núi Hành Sơn cao lớn vào bậc nhất nước Tàu, có những thác cao và đẹp. Núi Hành Sơn là một trong Ngũ Nhạc tức 5 ngọn núi cao nhất nước Tàu. ( Ngũ nhạc : bắc có Hằng Sơn, tây có Hoa Sơn, đông có Thái Sơn, nam có Hành Sơn, trung ương có Tung Sơn).
Nước Sở tức các tỉnh Hồ Bắc, Hồ Nam cũng gọi là Hồ Quảng được tưới mát bằng 4 con sông lớn là Ḥang Hà, Dương Tử Giang, sông Hán, sông Hoài và vô số phụ lưu v́ vậy mà có nhiều hồ, đầm lầy, kinh rạch, ruộng vườn ph́ nhiêu, có thể nuôi cả tỷ người.
Người Hoa tuy có thiết lập nền văn minh của họ ở Hoa Bắc nhưng đó là thời kỳ khởi lập chú trọng nhiều về mặt quân sự, cướp phá hơn là về văn học. Phải đến khi nước Sở được thành lập ở vùng Kinh Cức tức vùng Kinh Man, tức Kinh Việt, có sự đóng góp của dân Việt th́ nền văn minh mới thật nở rộ. Điệu hát Hồ Quảng rất được người Việt ưa thích (cải lương Hồ Quảng).
Hồ Quảng là đất của Việt tộc. Nền văn minh đó chủng Việt đă có phần đóng góp xây dựng. Những truyện thần tiên và tinh thần lăng mạn của người Tàu phát tích tại Động Đ́nh Hồ và núi Cửu Nghi là của Việt tộc. Người Tàu Hoa Bắc tức Hoa tộc v́ sống ở vùng sa mạc và băng giá nên tinh thần của họ rất thực tế, tính t́nh lầm lỳ không thể chế biến nổi chuyện thần tiên hay tôn giáo.
Thí dụ chuyện ông Bàn Cổ (Bangu). Người Hoa nhận ông Bàn Cổ là của họ. Trong thời kỳ Hỗn Mang, vũ trụ giống như cái trứng gà. Lúc đó trời đất chưa có. Từ trái trứng này đẻ ra ông Bàn Cổ, thường được vẽ bằng h́nh một người lùn hai tay cầm cái trứng hỗn mang Âm Dương. Phần nặng lắng xuống, phần nhẹ bay lên trời. Khi ông Bàn Cổ chết, những phần thân thể của ông trở thành những yếu tố thiên nhiên như đầu cho ra núi bốn phưong, mắt cho ra trời trăng, tóc thành cây cối, rận bọ chét trong ḿnh ông thành ḷai người v.v.. Nhưng ngày nay các nhà nghiên cứu đă t́m thấy đó là thần thoại Tạo Thiên Lập Dịa của người Mán. Ông Bàn Cổ chính thực là ông tổ của người Mán (Miêu) mà người Hoa nhận vơ là của ḿnh. Dân ta gọi là ông Bành Tổ. “Tương truyền mồ mả của ông c̣n đâu đó trong miền rừng núi tỉnh Quảng Đông, ông mới được đưa vào Tàu đời Tam Quốc trong quyển “Tam ngũ lược kỷ” của Từ Chỉnh và đến đời Tống th́ được đưa vào triết. Trong ḥan vũ đông tây cổ kim không có h́nh ảnh nào về nhân chủ cao đẹp hơn h́nh ảnh Bàn Cổ.” (Kim Định, Hưng Việt)
Và như thế thuyết Âm Dương, Ngũ Hành, Kinh Dịch cần xét lại xem thật sự là của ai !
PHẦN III
LĨNH NAM : CUỘC CHIẾM ĐẤT LẦN THỨ TƯ.
Sau khi Câu Tiễn mất (465 TCN), con cháu kế vị tranh quyền lẫn nhau, các phe phái trong hoàng tộc đánh nhau để mỗi người chiếm một vùng xưng vương xưng bá. Lúc đó, nước Việt đă yếu lắm rồi, các phần đất do Câu Tiễn chiếm được đă bị Sở chiếm mất, chỉ c̣n lại vùng Chiết Giang. Đến năm 333 TCN, nước Việt ḥan ṭan bị Sở thôn tính.
Do đó dân Việt bị phân tán đi các nơi, di cư về vùng Đại Ngũ Lĩnh hay chạy qua các hải đảo, Đài Loan, đi Nhật Bản, đi Đại Hàn, xuống Hải Nam, Phi Luật Tân,Văn Lang, Chiêm Thành. Họ xuống tới tận Mă Lai, Indonesia và vượt biển tới Mă Đảo (Madagascar, Phi Châu).
Họ cũng lập quốc ở nam Chiết Giang, Phúc Kiến.V́ có rất nhiều tiểu quốc do Việt tộc thành lập nên được gọi là Bách Việt. Trong các nước Bách Việt, có mấy nước sử sách nhắc đến như Đông Âu (ở vùng Ôn Châu, Chiết Giang), Mân Việt (Phúc Kiến), Nam Việt (Quảng Đông), Tây Âu (Quảng Tây), Dạ Lang (Quư Châu), Văn Lang (Lạc Việt, Bắc Việt). Các nước này phần nhiều đều nằm dưới Ngũ Lĩnh. Ngũ Lĩnh là dăy núi nằm chắn ngang gần như chia ba nước Tàu, từ Ba Thục ra tới Phúc Kiến. Ngũ Lĩnh gồm có năm dăy núi là Đại Dữu, Thủy An, Lâm Hạ, Quế Dương và Yết Dương. Các nước nằm dưới Ngũ Lĩnh gọi là Lĩnh Nam.
Nước Sở vừa diệt nước Việt xong th́ bị nước Tần thôn tính. Tần Thủy Hoàng gồm thâu lục quốc xong rồi mà chưa phỉ chí lại muốn thôn tính các nước Việt ở vùng Lĩnh Nam v́ thấy dân Bách Việt có nhiều quư vật như sừng tê, ngà voi, lông chim trả, ngọc trai, ngọc cơ. Tần Thủy Ḥang sai Đồ Thư đem năm mươi vạn quân (500.000) vượt Ngũ Lĩnh xuống đánh Bách Việt đặt ra các quận Quế Lâm, Nam Hải, Tượng Quận rồi bắt bọn lưu vong, rể thừa, bọn lái buôn tới thực dân ở đó. Tần Thủy Ḥang cố ư cấy người để đồng hóa người Việt kiểu như Nhà Chu cho Hùng Dịch vào Kinh Việt đồng hóa dân Việt ở nước Sở.
Quế Lâm nay là huyện Minh Quư thuộc tỉnh Quảng Tây, Nam Hải là tỉnh Quảng Đông, Tượng Quận thuộc tỉnh Quảng Tây. Dân Việt ở đó là dân Thái tức chi Âu của ḍng Việt tộc. Ngày nay người Quảng Đông, Quảng Tây vẫn gọi hai tỉnh này là Việt Đông, Việt Tây hay Lưỡng Việt. Người Quảng cũng gọi là Việt nhân. (Từ Hải trong truyện Kiều là người Quảng Đông : “Đội trời đạp đất ở đời, họ Từ tên Hải vốn người Việt Đông”)
Nhưng dân Việt ở Tây Âu (Quảng Tây) có tinh thần bất khuất không chịu ách đô hộ của Hoa tộc, rút vào rừng tổ chức kháng chiến đánh cho quân Tần nhiều đ̣n chí tử. Tần Thủy Ḥang gọi dân Việt ở đây là Lục Lương có nghĩa là dân cứng đầu. Phần đất gọi là Lục Lương đó là đất của người Choeng, tức là người Chàng, người Lang ngày nay tại tỉnh Quảng Tây và là khu tự trị dân số lên đến vài chục triệu người.
Vua đất Tây Âu là Trạch Hu Tống cầm đầu cuộc kháng chiến bị quân Tần của Đồ Thư giết. Quân Việt rút vào rừng, cứ đêm tối lại ra tập kích quân Tần. Quân Tần bị sát hại rất nhiều, chính Đồ Thư cũng bị giết. Cuộc kháng chiến kéo dài mười năm sát hại quân Tần trên hai mươi vạn ngừơi (200.000) phần bị giết, phần v́ lam sơn chướng khí mà chết. Quân Tần thấy bị tổn thất quá nặng đành phải bỏ ư định thôn tính phần đất này.
Tần Thủy Hoàng thống nhất nước Tàu và đánh chiếm Lĩnh Nam, ở ngôi được 21 năm. Con là Tần Nhị Thế lên ngôi th́ có loạn Trần Thắng nổi lên chống chế độ tàn bạo. Triệu Đà là một huyện lệnh ở Nam Hải lợi dụng nhà Tần có loạn tự xưng vương, đổi hai quận Quế Lâm và Nam Hải thành nước Nam Việt.
Đây là lần thứ tư Hoa tộc xâm chiếm đất của Việt tộc.
NƯỚC VĂN LANG, NƯỚC ÂU LẠC.
ĐẾ QUỐC NAM VIỆT.
Đời Hùng Vương thứ 18, nước Văn Lang bị thu hẹp chỉ c̣n phía bắc có Hợp Phố, Liêm Châu, Khâm Châu, phía nam giáp Lâm Ấp. Kinh đô đóng tại Nghĩa Lĩnh, tỉnh Phú Thọ ngày nay. Thời nhà Đường gọi vùng đất này là Phong Châu.
Lúc đó nước Thục đă bị nước Tần Chiếm. Vua Thục bị giết, con cháu và hàng quư tộc chạy trốn vào đất Sở. Nhưng đất Sở của người Việt đă bị Hoa tộc cai trị và đồng hóa nên nhóm lưu vong Thục lại phải chạy xuống đất Lĩnh Nam. Tại đây, dân Thục vốn là chi Âu tức Thái gặp người đồng chủng chi Âu đang lập quốc ở đây nên họ dễ được cảm thông đón nhận. Tuy nhiên dân Thục lưu vong là những nhà quư tộc, binh sĩ nên không tan lơang vào dân Thái ở Lĩnh Nam. Họ sống biệt lập, dân địa phương gọi họ là Khách Gia (Hakka) c̣n họ tự xưng là Hẹ (Hecka). (Dân chi Âu Việt, tứcThái có làn da thật trắng, người Quảng Đông là dân Thái nên có làn da trắng. Thấy người Quảng có nước da trắng ta cứ tưởng người Tàu đều có da trắng. Thật sự không phải vậy, người Hoa chính tông ở miền Bắc có làn da ngăm ngăm đen. Ngày nay nhiều người Quảng Đông cứ tự nhận ḿnh là người Hoa. Họ đă quên gốc Việt tộc chi Thái. Người Quảng đă có một số lai Hoa nhưng chỉ là những người ở thành phố, c̣n dân ở thôn quê vẫn c̣n giữ nguyên bản chất Thái.)
Về truyện quên gốc này, xin được kể lại câu truyện khá lư thú do cụ Ḥang Văn Chí ghi lại : “Hồi Cụ Phan Bội Châu mới sang Tàu, một nhân sĩ Tàu là Dương Giác Đôn, đưa Cụ đến yết kiến một viên đại thần của triều đ́nh Măn Thanh, tên là Trang Uẩn Khoan. Vị đại thần tiếp đăi rất tử tế và biếu Cụ một món tiền trợ cấp. Sau khi Cụ ra về, Trang Uẩn Khoan bảo Dương Giác Đôn : “Người An Nam có bản tính nô lệ (nô lệ căn tính), dù có vài chí sĩ như ông này (chỉ Cụ Phan) cũng chẳng làm nên tṛ trống ǵ”.
Sau cuộc Cách mạng Tân Hợi (1911) và sau khi nhường chức Tổng thống cho Viên Thế Khải, ông Tôn Văn (Tôn Dật Tiên) sang viếng thăm Nhật Bản, với tư cách là đảng trưởng Quốc Dân Đảng Trung Hoa, và được ông Khuyển Dưỡng Nghị (Inukai Tsuyoshi) đảng trưởng Quốc Dân Đảng Nhật, thết tiệc khỏan đăi. Giữa bữa tiệc, lừa khi ông Tôn Văn bất ư, ông Khuyển Dưỡng Nghị đột nhiên hỏi : “Tôi được biết tiên sinh đă có dịp qua Hà Nội, xin tiên sinh cho biết tôn ư về dân tộc An Nam ?” Bị hỏi một cách bất th́nh ĺnh, ông Tôn Văn chỉ kịp nhớ lại câu của Trang Uẩn Khoan, vội vàng đáp : “Ngườ An Nam vốn nô lệ căn tính. Ngày xưa, họ bị người Hán chúng tôi đô hộ, ngày nay họ lại bị người Pháp cai trị. Dân tộc ấy quả không có tương lai”. Được dịp, Khuyển Dưỡng Nghị liền nói : “Về điểm này tôi xin phép không đồng ư với tiên sinh. Ngày nay họ thua người Pháp, v́ họ không có khí giới tối tân, nhưng cứ xét lịch sử, th́ trong số Bách Việt, chỉ có họ là thóat khỏi, không bị Hán hóa. Tôi tin rằng một dân tộc biết tự bảo vệ một cách bền bỉ như vậy th́ thế nào cũng sẽ lấy lại được quyền tự chủ”. Tôn Văn đỏ mặt, v́ hiểu ư Khuyển Dưỡng Nghị muốn châm chọc, cho rằng Tôn Văn là người Quảng Đông, tổ tiên l người A Khách, một sắc tộc trong Bách Việt, nhưng kém xa dân tộc Việt Nam, v́ đă bị Hán hóa ḥan ṭan.
Sau bữa tiệc, Khuyển Dưỡng Nghị gọi giây nói mời mấy học sinh người Việt do ông bảo trợ, để kể cho họ câu truyện, tỏ ư hớn hở đă thắng Tôn Văn trong cuộc đối thọai. Trong số mấy người được Khuyển Dưỡng Nghị mời đến và thuật lại câu truyện có cụ Sở Cuồng Lê Dư, hồi ấy theo Cụ Phan sang Nhật du học. Chính cụ Sở Cuồngkể câu truyện đó cho chúng tôi nghe. (Ḥang Văn Chí, Từ Thực Dân Đến Cộng Sản)
Lưu dân Thục xuống tới Lĩnh Nam ít lâu th́ quân Tần đánh xuống. Việc nhà Tần đánh Lĩnh Nam, sách Hoài Nam Tử viết như sau : “Khoảng năm 221 trước Công Nguyên, giữa lúc toàn thịnh nhà Tần, Tần Thủy Ḥang dùng bọn lưu vong, rể thừa và lái buôn làm lính đánh xuống miền Nam là nơi sinh tụ của người Bách Việt. Quan Hiệu Úy Đồ Thư đem quân lâu thuyền cùng Sử Lộc đào sông vận lương đi sâu vào đất Lĩnh Nam, chiếm đất Lục Lương, Quế Lâm (nay là hyuện Minh Quư tỉnh Quảng Tây), Nam Hải (Quảng Đông), sau khi đă diệt được nhóm Đông Âu và Mân Việt. Đến lượt Tây Âu cũng bị xâm lăng của đạo quân viễn chinh Tần. Tù truởng Tây Âu là Dịch Hu Tống bị hại, nhưng ở đây quân Tần vấp phải sức kháng cự dẻo dai của người Tây Âu. Người Việt (Tây Âu) rút vào rừng sống cùng cầm thú và cứ đêm tối lại đem quân ra tập kích quân Tần. Cuộc kháng chiến kéo dài 10 năm. Sau quân Tần chết rất nhiều, Đồ Thư bị hại, quân Tần hao tổn vài chục vạn (200.000), phần v́ không chịu được lam sơn chướng khí, phần bị giết. Tần triều đành ngừng lại và thiết lập bộ máy cai trị ở các miền đất đai đă lấy được lập ra ba quận Nam Hải, Quế Lâm, Tượng Quận.”
Tù trưởng Trạch Hu Tống bị quân Tần hại, dân Việt đă cử người Kiệt Tuấn lên lănh đạo cuộc kháng chiến. Người Kiệt Tuấn được đề cử này là ai? Theo sách “Quảng Đông và Giao Châu Ngoại Vực Kư” th́ đó chính là Thục An Dương Vương. Thục An Dương Vương tên là Thục Phán, một người ḍng dơi vua Thục lưu vong, sử ta gọi là con vua Thục. Thục Phán lợi dụng lúc quân Tần suy vong mà sáp nhập nước Văn Lang của vua Hùng Vương thứ 18 vào Tây Âu lập ra nước Âu Lạc và xưng hiệu là An Dương Vương. (237 TCN). An Dương Vương rời đô về vùng Phúc Yên và xây thành Cổ Loa. Thục An Dương Vưong dạy cho dân Việt lấy tre làm nỏ, tên bịt đồng bắn ra nhiều phát liên tiếp (truyện nỏ thần bắn ra một phát hàng trăm mủi tên), lại biết lấy đất làm lũy làm thành ngăn giặc. Trong lúc nhà Tần đă gồm thâu 6 nước thống nhất thiên hạ Trung Hoa, dẹp bỏ mọi cơ cấu phong kiến hùng cứ địa phương để đặt thành quận huyện dưới quyền cai trị trung ương tập quyền của một ông vua là Tần Thủy Hoàng. Đối ngọai, phía bắc xây dựng Vạn Lư Trường Thành ngăn giặc Hung Nô, phía nam khuất phục các phiên bang hùng mạnh. Với sức mạnh kinh khủng, với quân số nửa triệu, Tần Thủy Ḥang quyết nuốt trọn miền Lĩnh Nam. Thế mà Thục Phán dám dùng sức châu chấu đá voi chống với một đế quốc hung hăn ngăn bước tiến của đoàn quân viễn chinh Tần, tinh thần đó của Thục Phán thật đáng khen đáng phục.
Về Thục An Dương Vương có nhiều người cho rằng An Dương Vương không phải là người Thục nhất là càng không phải thuộc ḍng dơi các vua Thục ở đất Ba Thục. Theo Trần Trọng Kim trong Việt Nam Sử Lược th́ : “Nhà Thục chép trong sử nước ta không phải là nước Thục bên Tàu v́ rằng cứ theo sử nước Tàu th́ đời bấy giờ đất Ba Thục (Tứ Xuyên) đă thuộc về nhà Tần cai trị rồi, th́ c̣n có vua nào nữa. Vả lại sử lại chép rằng khi Thục vương Phán lấy được nước Văn Lang th́ đổi quốc hiệu là nước Âu Lạc gồm cả nước Thục và nước Văn Lang. Song xét trong lịch sử không thấy đâu nói đất Ba Thục thuộc về Âu Lạc. Huống chi lấy địa lư mà xét th́ từ đất Ba Thục (Tứ Xuyên) sang đến Văn Lang (Bắc Việt) cách bao nhiêu đuờng đất và có bao nhiêu núi sông ngăn trở, làm thế nào mà quân nhà Thục sang lấy nước Văn Lang dễ dàng như vậy?”
Phe cho rằng Thục Phán đích thị là người đất Ba Thục lưu vong tị nạn từ Ba Thục xuống Tây Âu khi bị nhà Tần dánh chiếm, mà Thục Phán lại đích thị là con cháu thuộc ḍng dơi vua Thục. Ông B́nh Nguyên Lộc cho rằng :
“1- Sử Tàu có chép truyện “Con vua Thục cướp nước của vua Lạc Vương”
2- Khám phá của các nhà chủng tộc học Tây phương rằng cổ Ba Thục là dân Thái, rồi tiếp theo đó nhà bác học Trung Hoa La Hương Lâm xác nhận khám phá trên không c̣n chối cải được rằng An Dương Vương là con vua Thục.
3- Tả Truyện chép rằng sau khi Tư Mă Thác diệt nước Thục th́ dân Thục bỏ xứ, sang nước Ba rồi tràn vào nuớc Sở, nhưng không phải xâm lăng mà là để đi đâu nữa không biết.
4- Họ đi xuống dưới, qua Quư Châu, không ở lại Quư Châu v́ đó là đất đai núi non nghèo khó, khí hậu lại xấu. Họ đi xuống đất Tây Âu là nơi mà dân chúng là Thái như họ. Như thế không quá xa như ta tưởng tượng.”
Nhóm lưu vong Thục xuống tới Tây Âu ít lâu th́ nhà Tần đánh xuống Lĩnh Nam. Dân Thục bị Tần cướp nước, chạy xuống đây lại bị đuổi theo, họ liền sát cánh với dân Tây Âu chặn đánh quân Tần. Đây là dịp để dân Thục rửa hờn, đánh bọn xâm lăng đă cướp nước họ. Họ đánh rất hăng, chặn đứng mọi cuộc tấn công của quân Tần. Trạch Hu Tống, lănh tụ kháng chiến của dân Tây Âu bị giết th́ Thục Phán được đề cử lên lănh đạo cuộc kháng chiến. Cuộc kháng chiến kéo dài mười năm. Thục Phán dùng 1ối đánh du kích, ban ngày rút vào rừng xâu nghỉ ngơi, đêm kéo quân ra tập kích địch. Lối đánh này làm cho quân Tần hao kiệt mỏi mệt, giết chết trên hai trăm ngàn quân và chính tướng chỉ huy là Đồ Thư cũng bị giết. Tần Thủy Ḥang đành bỏ ư định thôn tính Tây Âu.
Thục Phán là con của ông vua Thục lưu vong, nhân cơ hội được hưu chiến này, đă đem quân đánh Hùng Vương thứ 18, trả thù cho cha đă bị vua Hùng từ chối cuộc cầu hôn với Mỵ Nương, con gái vua Hùng. (Có lẽ truyện Sơn Tinh và Thủy Tinh bắt nguồn từ cuộc cầu hôn này mà Thủy Tinh là vua Thục c̣n Sơn Tinh là Nguyễn Tuấn, thần núi Ba V́). Thục Phán giết Hùng Vương thứ 18 rồi sáp nhập nước Văn Lang với Tây Âu lấy quốc hiệu là Âu Lạc lên làm vua xưng là An Dương Vương.”
Dân nước Văn Lang vốn thuộc chi Lạc của Việt tộc (AustroAsian, Nam Á) được bổ xung của dân Việt (Câu Tiễn) chạy xuống khi bị Sở Xâm lăng (chi U Việt thuộc ḍng Austronesian) nay lại được chi Âu (Thái) tăng cường. Kể từ khi Cha Lạc Long Quân và Mẹ Âu Cơ chia tay kẻ chiếm lĩnh vùng biển, người khai thác vùng núi non, nay mới lại có dịp họp mặt. Cuộc họp mặt trong ḥan cảnh đau thưong của ḍng tộc Việt trước cuộc xâm lăng của Hoa tộc do Tần Thủy Hoàng cầm đầu.
Khi đó ở bên Tàu, nhân lúc Tần Thủy Hoàng chết, nhiều người nổi lên chống lại chế độ hà khắc của nhà Tần. Có hai nhân vật người nước Sở đáng chú ư nhất là Hạng Vơ và Lưu Bang. Hai người này đánh đổ nhà Tần rồi quay lại đánh nhau, cuối cùng Lưu Bang thắng lập nên nhà Hán.
Ở Lĩnh Nam, huyện lệnh Long Xuyên là Triệu Đà nhân cơ hội chính quốc có loạn đă ngang nhiên xưng vương, đổi các quận Quế Lâm, Nam Hải, Tượng Quận làm nước Nam Việt lấy hiệu là Triệu Vũ Vương, đóng đô tại Phiên Ngung (Quảng Châu, Quảng Đông).
Triệu Đà thành lập nước Nam Việt và xưng vương rồi nhưng chưa phỉ chí lại muốn lấy nước Âu Lạc của An Dương Vương. Triệu Đà kéo quân vào đất Âu Lạc tiến đánh An Dương Vương nhưng bị thất bại. Theo truyền thuyết của ta th́ An Dương Vương xây thành Cổ Loa nhờ thần Kim Quy giúp mới hoàn thành rồi thần lại cho cái móng chân chế thành lẫy nỏ bắn mỗi lần ra hàng trăm mủi tên khiến quân Triệu Đà chết vô số. Triệu Đà đành phải lui quân và giảng ḥa với An Dương Vương, lại cho con là Trọng Thủy sang ở rể lấy con gái An Dương Vương là Mỵ Châu. Trọng Thủy lừa vợ đánh tráo lẫy nỏ thần rồi về báo cho Triệu Đà đem quân sang đánh. An Dương Vương đem nỏ ra bắn nhưng hết hiệu nghiệm phải đem Mỵ Châu chạy ra biển tự vận. Triệu Đà thôn tính Âu Lạc năm 207 trước Công nguyên.
Triệu Đà sáp nhập Âu Lạc vào đất Nam Việt lập thành đế quốc Nam Việt, xưng vương ngang hàng với nhà Hán. Đất Văn Lang cũ được Triệu Đà chia làm hai quận là Giao Chỉ và Cửu Chân. Giao Chỉ ở vùng Bắc Việt, Cửu Chân ở vùng Bắc Trung Việt ngày nay, Triệu Đà cử hai viên sứ thần xuống coi giữ. Có lẽ hàng quư tộc thuộc ḍng Hùng Vưong và An Dương Vương vẫn giữ các quyền chức như cũ. Cụ thể là khi nhà Hán đánh chiếm Nam Việt của nhà Triệu th́ một quư tộc Giao Chỉ là Tây Vu Vương định chống lại người Hán, bị viên tùy tướng người Tàu tên là Hoàng Đổng do Triệu Đà cử để giám sát, đă giết Tây Vu Vương rồi hàng nhà Hán.
Như thế chứng tỏ Triệu Đà muốn lấy ḷng dân Việt và hàng quư tộc đă giữ lại hệ thống cai trị cũ. Chính Triệu Đà cũng đă sống theo tập tục của người Lĩnh Nam. Khi sứ giả nhà Hán là Lục Giả đến th́ Triệu Đà ngồi xổm mà tiếp. Nhà Hán cấm dân buôn bán các dụng cụ làm ruộng bằng sắt với Nam Việt, ngựa, ḅ, dê th́ bán cho nhưng chỉ bán cho con đực chứ không bán cho con cái, lại lăm le đem quân đánh Nam Việt. Để đối phó, Triệu Đà bèn xưng làm Nam Việt Hoàng đế ngang hàng với vua nhà Hán rồi đem binh sang đánh Trường Sa (vùng Động Đ́nh Hồ). Mặt khác ông dùng của cải chiêu dụ các xứ Mân Việt, Tây Âu về thần phục Nam Việt, lănh thổ rộng lớn trở thành Đế quốc Nam Việt. Ông dùng các nghi vệ của Thiên tử, đi xe mui vàng cắm cờ tả đạo (cờ tả đạo là cờ lớn trang sức bằng lông đuôi cừu, dựng trên xe nhà vua). Nhà Hán thấy ông quá mạnh đành phải xuống nước, khuyên ông nên bỏ chức Hoàng đế, chỉ nên xưng Vương thôi : “Vậy từ Ngũ Lĩnh về nam Vương cứ việc trị lấy. Tuy vậy, Vương xưng là Đế, hai Đế cùng lập mà không có xe sứ thông hiếu, thế là tranh nhau. Tranh mà không biết nhường th́ có nhân không làm. Trẫm cùng Vương đều bỏ hiềm trước, từ nay trở đi thông hiếu như xưa.” (Đại Nam Sử Kư Ṭan Thư) Triệu Vũ Vương là người tài giỏi tự lập nên một đế quốc sánh ngang với nhà Hán. Nhưng khi chết đi th́ con cháu hèn kém để mất nước vào nhà Hán. Triệu Đà với nước Nam Việt là một bản sao của Hùng Dịch với nước Sở, là đầu cầu để Hoa tộc bước xuống xâm lăng Việt tộc.
Triệu Vũ Vương mất, truyền ngôi cho cháu đích tôn tên Hồ là con của Trọng Thủy và Mỵ Châu, lấy hiệu Triệu Văn Vương. Văn Vương tính nhu nhược khi bị quân Mân Việt (Phúc Kiến) qua đánh, đă phải cầi cứu nhà Hán. Nhà Hán kéo quân đánh Mân Việt. Em vua Mân Việt sợ, vội cắt đầu anh dâng cho quân Hán. Qua sự kiện này nhà Hán nhận thấy nước Nam Việt đă suy nên t́m cách đánh chiếm. Để thử phản ứng của Nam Việt, nhà Hán đ̣i vua Triệu Văn Vương sang chầu. Văn Vương sợ sang bị giữ lại, xin xho con là Anh Tề qua làm con tin.
Kinh đô nhà Hán là Hàm Dương, gần đó có thị trấn Hàm Đan là một nơi ăn chơi nổi tiếng. Vua Hán cho Anh Tề tới Hàm Đan ăn chơi trác táng với thâm ư hủ hóa ông vua tương lai nước Nam Việt. Anh Tề dan díu với một gái điếm là Cù Thị. Sau khi về nước Nam Việt nối ngôi, Anh Tề phong cho Cù Thị làm hoàng hậu mặc dù đă có vợ trước và phong cho người con riêng với Cù Thị tên là Hưng làm thái tử. Cái họa mất nước bắt đầu từ đó.
Anh Tề lên ngôi lấy hiệu Triệu Minh Vương ở ngôi được 12 năm. Con với Cù Thị kế vị lúc c̣n ấu niên lấy hiệu là Triệu Ai Vương, quyền hành đều ở trong tay Cù Thị. Một người tên là An Thiếu Quư, trước là t́nh nhân của Củ Thị được vua Hán cho làm sứ gỉa sang dụ Cù Thị hàng nhá Hán. An Thiếu Quư ra vào cung cấm tư thông với Cù Thị. Thái Phó Lữ Gia thấy truyện ngang trái và họa mất nước nên đem quân vào giết Cù Thị và An Thiếu Quư rồi lập con trưởng của Triệu Minh Vương lên ngôi hiệu là Triệu Dương Vương.
Cuộc đảo chánh vừa xong th́ Lộ Bác Đức đem quân nhà Hán chia làm 5 đạo quân đánh chiếm Nam Việt. Triệu Dương Vương và Lữ Gia bị bắt và bị giết. Lộ Bác Đức diệt Nam Việt rồi chia ra quận huyện cai trị, Giao Chỉ và Cửu Chân cũng bị nhà Hán cai trị từ đó. Tên Nam Việt của Triệu Đà đặt cho các nước thuộc Lĩnh Nam sẽ c̣n gây nhiều rắc rối giữa ta và Trung Hoa.
Lộ Bác Đức diệt Nam Việt th́ nước Âu Lạc tức Văn Lang và Tây Âu cũ cũng bị rơi vào ách đô hộ của nhà Hán. Đó là Lần Thứ Năm (5) ḍng Việt Tộc bị Hoa tộc xâm chiếm.
Nước Việt Nam tức Văn Lang bị Hoa tộc đô hộ dài trên 11 thế kỷ. Măi đến năm 939 sau Công Nguyên mới dành được độc lập. Các dân tộc Măn, Hồi, Mông, Tạng, có lúc các dân tộc này đă xâm lăng, cai trị nước Tàu nhưng rồi cũng bị cuốn hút vào cái khối Hoa tộc đó để trở thành người Tàu và cho đến nay chưa có dân tộc nào thóat ra khỏi cái khối gọi là Hán, thực ra là Hoa tộc đó.
Viết về thời nhà Triệu, sử thần Ngô Thời Sĩ than : “…Từ thời nhà Triệu đến nay chưa bao giờ có thể thu trọn được đất Ngũ Lĩnh, nh́n thẳng tận mặt để tranh với Trung Nguyên th́ là chuyện c̣n phải đợi đến những tay thánh hiền ở sau này..” Triết gia Kim Định, nhận định : “…chỉ c̣n lại một số nhỏ duy tŕ óc bất khuất lại nhờ chiếm được chút đất để phát triển nên giữ lại tên Việt và gọi là Việt Nam, ngầm hiểu rằng c̣n Bắc Việt tức là toàn thể Trung Hoa cổ đại, hay ít ra là miền gồm Trường Giang thất tỉnh hay cùng lắm là Việt Giang ngũ tỉnh sẽ có ngày đ̣i lại. Nhưng hiện nay v́ thế chính trị yếu nên âm thầm chịu vậy và chỉ c̣n ra mắt có ở phần Nam Việt nhỏ xíu. Đó là lư do rất thâm sâu ít ai nh́n thấy…”
Người anh hùng mà Ngô Thời Sĩ gọi là Thánh hiền dám nh́n thẳng mặt để tranh với Trung Nguyên, người đó là vua Quang Trung. Sau khi đánh đuổi quân Thanh ra khỏi bờ cơi, vua Quang Trung nuôi chí rèn luyện quân sĩ đánh qua Lưỡng Quảng lấy lại đất nước Nam Việt cũ. Để làm suy yếu nhà Thanh vua Quang Trung đă cung cấp mọi trang bị cũng như phong tước cho đám cướp biển Trung Hoa, lợi dụng đảng Thiên Địa Hội quấy rối nội địa, chuẩn bị cho việc phối hợp tấn công nhà Thanh. Thăm ḍ phản ứng nhà Thanh, vua Quang Trung gởi thư lên vua Càn Long xin hai tỉnh Quảng Đông và Quảng Tây làm nơi đóng đô và xin cưới công chúa Thanh. Việc xin hai tỉnh Quảng Đông và Quảng Tây th́ Càn Long ưng cho tỉnh Quảng Tây để đóng đô c̣n việc cưới công chú th́ Càn Long cũng ưng và định ngày cưới. Xem như thế ta đủ biết nhà Thanh phải nhượng bộ đến thế nào. Tiếc rằng vua Quang Trung đă chết quá sớm chưa thực hiện được giấc mộng của dân tộc. (Có thuyết nói sứ thần qua đưa thơ yêu sách đ̣i Lưỡng Quảng và xin cưới Công chúa Thanh, nhưng sau đó nghe tin vua Quang Trung băng hà nên ém các văn kiện đó đi)
Về việc vua Nguyễn Huệ lấy hiệu Quang Trung, triết gia Kim Định có nhận định như sau : “Có truyền thuyết cho rằng tên hiệu Si Vưu chính trước là Trung Quang, nhưng Hiên Viên đă đổi đi bằng thêm chữ Sơn lên đầu và c̣ng chân lại nên Trung hóa ra Si (ngốc) c̣n Quang bớt nét đi cho ra Vưu là oán hờn. Theo thuyết đó th́ vua Nguyễn Huệ lấy hiệu là Quang Trung để nhớ lại một tị tổ xưa và lấy cờ Si Vưu nền đỏ có miếng tṛn màu vàng ở giữa.” Chỗ khác, nói về Si Vưu, cụ viết : “Ly Long được sách gọi là rồng vàng không có ngà. Tổ tiên ta quen chạm trên đầu cột nhà và gọi là Ly đầu và Ly là tên của “Ly Vưu” mà người Tàu đọc là Si Vưu. Không hiểu tại sao đọc như vậy trái cả với luật hài thanh là chữ ly. Ly Vưu là Rồng cao cả phi thường (đàn bà cực đẹp gọi là vưu vật) thế mà đọc Si Vưu th́ ra ngu xuẩn cùng cực. Có thể v́ Ly Vưu chống Hiên Viên (Hoàng Đế) nên tâm lư chiến của Hiên Viên gọi thế để hạ nhục, người sau không hay nên cứ đọc Si Vưu. Các cụ nhà ta thấy ngượng ngượng sao đó nên đọc là Suy Vưu” (Kim Định, Hưng Việt)
- Khi Vua Gia Long lên ngôi, sai sứ qua nhà Thanh xin phong với quốc hiệu là Nam Việt. Vua Càn Long nhà Thanh cho rằng lấy tên Nam Việt, vua nước Nam ngầm ư đ̣i lại đất Nam Việt cũ nên không chịu. Càn Long có ư định phong cho Gia Long chức “An Nam Quốc Vương”. Vua Gia Long không chịu nói là sẽ không nhận sắc phong. Sau nhiều lần sứ qua sứ lại, vua Gia Long nhận tên nước là Việt Nam. Khối Việt tộc lớn lao nay chỉ c̣n có nước Việt Nam nhỏ xíu !
ĐÀI LOAN
Những đợt chạy loạn do việc Hoa tộc cướp đất từ thời Hiên Viên dánh Xuy Vưu đến nước U Việt bị nước Sở chiếm, hẳn có những lớp Việt tộc chạy qua Đài Loan. Những lớp người này trở thành thổ dân của hải đảo này. Theo truyền thuyết th́ Tần Thủy Hoàng cho rằng ngoài Biển Đông là nơi thần tiên ở luyện đan dược trường sinh nên sai Từ Phác đem một số người vượt biển t́m thuốc. Họ lênh đênh nhiều ngày tháng trên biển cả mới tới một hải đảo, Đảo Châu, chẳng thấy tiên thánh, thuốc thang ǵ lại bị dân đảo đánh giết. Phần bị chết v́ bị giết, phần bị bệnh tật mà chết, số người c̣n lại không dám về v́ không lấy được thuốc, về cũng chết nên họ ở lại đảo sống với thổ dân. Có lẽ Đảo Châu là Đài Loan.
Đến đời Tam Quốc, Ngô Tôn Quyền (năm 230) nghe nói ngoài biển Đông có một nơi gọi là Châu Di (ư nói châu đó có người Di làm chủ quyền) đất đai màu mở có nhiều hải sản. Tôn Quyền sai người đóng thuyền và phái hơn một vạn người dưới quyền của Vệ Ôn và Gia Cát Trực ra chinh phục khai phá đảo. Quân của Vệ Ôn lênh đênh nhiều ngày mới tới đảo. Họ vừa bước chân lên đảo liền bị dân hải đảo chận đánh. Dân đó sử Tàu gọi là dân Cao Sơn, thật ra đó là người Việt tộc thuộc nhóm Bộc Việt, tức Lạc Việt. Cuộc chiến cầm cự lâu ngày khiến cho quân Ngô bị tổn hại rất nặng nề, chết đến tám chín phần mười, phần chết v́ bị giết phần v́ bệnh tật thời khí. Cuối cùng quân Ngô do Ôn cầm đầu c̣n sống sót vài ngàn người đành phải rút khỏi đảo bắt đem theo một số dân đảo. Đó là lần đầu Hoa lục xâm lăng Đảo Châu tức Đài Loan bị thất bại.
Đài Loan trở thành căn cứ địa của các toán cướp biển hoành hành nhất là vào đời nhà Minh và nhà Thanh. Đám cướp biển (hải tặc) dữ dội nhất xuất phát từ Nhật Bản, người Tàu gọi họ là Nụy Khấu (giặc lùn). Từ Hải trong truyện Kiều, người Việt Đông ở trong đám cướp biển đó, đánh phá 5 huyện vùng Mân Triết (Phúc Kiến, Triết Giang). Sử Tàu nói bọn này được vua Quang Trung Việt Nam giúp sức, cấp vơ khí và phong chức tước để họ quấy phá nhà Thanh.
Đài Loan được người Bồ Đào Nha đặt tên là Ilha Formosa v́ họ khám phá thấy đảo đẹp đẽ, khí hậu mát mẻ. Đời nhà Minh, Lâm Đạo Càn chiếm lĩnh đảo, nhưng bị người Lưu Cầu (Okinawa) đuổi mà cướp lấy rồi người Nhật Bản lại đến đuổi người Lưu Cầu mà kinh doanh. Năm 1623, đời nhà Minh, người Ḥa Lan chiếm đảo Bành Hồ rồi chiếm luôn Đài Loan. C̣n Tây Ban Nha th́ chiếm đảo Lữ Tống, mở cuộc tàn sát Hoa kiều 18 ngày liên tiếp, máu chảy thành sông. Chống cự lại với người Ḥa Lan và người Tây Ban Nha không phải là triều đ́nh nhà Minh mà là các tướng cướp biển như Lâm Phượng, Trịnh Chi Long. Lâm Phượng (tây gọi là Li Ma Hong) là một thiên tài, đánh thắng quân Tây Ban Nha nhiều trận, làm họ phải kiêng nể.
Năm 1644, quân Thanh vào Bắc Kinh. Bọn tôn thất nhà Minh chạy về Nam Kinh. Tướng cướp biển Trịnh Chi Long quy hàng nhà Minh. Con là Trịnh Thành Công (có tên Nhật là Koxinga v́ mẹ là người Nhật), thấy nhà Minh bị quân Thanh đánh mất hết đất, đến Vân Nam cũng bị Ngô Tam Quế chiếm, nên năm 1661, dồn hết binh lực đánh đuổi người Ḥa Lan, chiếm Đài Loan làm căn cứ kháng chiến. Chí chưa toại th́ Thành Công chết (1662). Con là Kinh lên thế cha, đem binh hợp với Cảnh Kế Mậu (phiên trấn Phúc Kiến) đánh quân Thanh chiếm được đất Chương Tuyền, Triều Châu (thuộc Quảng Đông), sau lại thua phải trở về Đài Loan. Kinh mất, con là Khắc Tàng lên thế, Khắc Tàng là người hiền tài, bọn bề tôi tiểu nhân sợ Tàng, xúi bà mẹ giết đi mà lập Khắc Sản lên ngôi. Trịnh Khắc Sản c̣n nhỏ, hèn kém không coi được việc nước, nhân đó có nội loạn. Triều đ́nh nhà Thanh nhân cơ hội đánh lấy Đài Loan (1683), đặt thành phủ huyện, thuộc tỉnh Phước Kiến.
Sau chiến tranh Trung-Nhật đời vua Quang Tự, nhà Thanh phải nhượng cho Nhật đảo Bành Hồ, Đài Loan và các đảo phụ thuộc (Ḥa ước Mă Quan, Simonoseki, kư năm 1895). Năm 1945 Nhật thua trận phải kư ḥa ước trả Đài Loan lại cho Trung Hoa. Năm 1949, Mao Trạch Đông chiếm ṭan nước Trung Hoa, Tưởng Giới Thạch chạy ra Đài loan. Tưởng Giới Thạch và Quốc Dân Đảng cũng như Mao Trạch Đông và đảng Cộng sản, cả hai chống đối tiêu diệt lẫn nhau nhưng cả hai đều có một quan niệm coi Đài Loan là một phần của Trung Hoa. Quốc Dân Đảng sẽ từ Đài Loan về chiếm lại lục địa. Đảng Cộng Sản sẽ chiếm Đài Loan sáp nhập vào Trung Hoa. Bởi vậy Quốc Dân Đảng luôn luôn chống đối khuynh hướng độc lập của dân Đài Loan.
C̣n dân Đài Loan là dân Việt (Cửu Lê, Bách Bộc, U Việt) muốn được độc lập, tách khỏi lục địa Trung Hoa. Tổng Thống Trần Thủy Biển thuộc lớp người Đài Loan thổ sanh, Việt tộc, đại diện cho khuynh hướng độc lập đó. Đây là cơ hội ngàn năm một thuở để Việt tộc Đài Loan đứng lên dành độc lập, thoát khỏi ách thống trị Hoa tộc. Kể từ khi Tần Thủy Ḥang đánh chiếm Lĩnh Nam, các nước Việt nhiều lần nổi lên chống quân Hoa tộc xâm lăng, người Việt ở Lưỡng Quảng, ở Phước Kiến cũng như các nước Mân, Ngô Việt đều có ước vọng thu hồi độc lập nhưng chỉ có Việt Nam là thành công trong việc dành độc lập.
HẢI NAM
Lộ Bác Đức đánh chiếm nước Nam Việt của Triệu Đà nhưng không chiếm được đảo Hải Nam. Vào khỏang 50 năm sau nhà Hán mới cho quân ra chiếm và đặt ra hai quận là Châu Nhai và Đạm Nhĩ. Quan lại nhà Hán không trấn nổi dân Hải Nam. Dân Lê luôn luôn nổi dậy chống đối. Quan quân nhà Hán phần bất phục thủy thổ, đau bệnh liên miên, phần bị dân nổi dậy đánh giết. Đặt binh ít th́ không đủ đàn áp, mà đặt nhiều th́ tổn phí nặng nề. Cuối cùng đành phải rút khỏi Hải Nam v́ theo như Giả Quyên Chi khuyên vua Nguyên Đế nhà Hán th́ : “Dân ấy mọi rợ, uống bằng mũi (tỵ ẩm), căng tai (đạm nhĩ), lấy sắc đen làm đẹp (Sở từ gọi Hải Nam là Huyền Quốc), trai gái tắm chung một ḍng sông, không biết lễ nghĩa ǵ, đâu có đáng cho thánh triều giáo hóa!” Đúng là lư lẽ kẻ cướp, không bắt được tha làm phúc!
Ông Lăng Hồ trích một đoạn của ông Tề Tân viết về Hải Nam như sau : “Hải Nam tức Châu Nhai, Đạm Nhĩ đời Hán vậy. Vua Vũ Đế b́nh xong Nam Việt, sai sứ xuất phát ở Từ Văn (nay là Lôi Châu, Từ Văn huyện), vượt biển sang chiếm cứ đất của địch quân, đặt ra hai quận, Chu Nhai, Đạm Nhĩ. Chiêu Đế (86-73 TCN) phế bỏ Đạm Nhĩ, sáp nhập vào quận Chu Nhai. Nguyên Đế chiếu theo lời tấu nghị của Giả Quyên Chi băi bỏ Chu Nhai, măi tới đời Lương (502-527 sau Công Nguyên) và đời Tùy 589-618) mới đặt lại. Đời Đường, Trinh Quan nguyên niên, lại chia ra làm ba châu, Nhai, Đạm và Chấn, thuộc Lĩnh Nam. Đến năm thứ năm (631) Quỳnh Sơn và Châu Nhai được đặt thành quân khu và Vạn An huyện được đặt thành châu, nay là quân khu Vạn An, c̣n Đạm và Chấn, thời đó cũng như nay, trở thành quân khu Cát Dương và quân khu Xương Hóa. Năm thứ năm, niên hiệu Trinh Nguyên 789, Quỳnh Sơn được đặt làm Đốc phủ cho tới nay.” (Lăng Hồ, Sử Địa, Đặc Khảo Vể Hoàng Sa và Trường Sa)
Như vậy, Hải Nam bị Hán Vũ Đế chiếm nhưng luôn bị dân Lê Hải Nam chống đối đánh phá quân Hán, đến đời Hán Chiêu Đế phải rút quân khỏi Hải Nam, tức Hải Nam chỉ bị chiếm có khỏang 40 năm th́ lấy lại được quyền tự chủ. Măi cho đến đời Lương, đời Tùy mới lại bị đánh chiếm, nghĩa là sau khi nhà Hán rút khỏi Hải Nam th́ phải 500 năm sau Hải Nam mới bị quân Tàu chiếm. Dân Hải Nam lại nổi lên kháng chiến khiến người Tàu phải dùng vơ lực, đặt thành các quân khu để cai trị.
Tuy bọn xâm lược Trung Hoa đă phải đặt thành quân khu mà cai trị, nhưng dân Hải Nam vẫn luôn luôn tỏ ra bất phục. “ Cho măi đến năm 1881-1884, dân Lê, dân Miêu vẫn c̣n đánh nhau kịch liệt với quân đội Thanh triều. Năm 1898, Pháp thuê được đất Quảng Châu Loan, tha hồ buôn lậu. Có lợi quá nhiều rồi lại sinh ḷng tham và hối hận sao không thừa cơ hội dân Lê quật khởi mà chiếm luôn Hải Nam làm b́nh phong bảo vệ Đông Dương th́ có phải tiện hơn không ? (Lam Giang, Sử Địa, Đặc Khảo Về Hoàng Sa và Trường Sa)
Dân Hải Nam thuộc ḍng Việt tộc, chi Lạc Lê. Dân Văn Lang thuộc chi Lạc Việt và dân Chiêm Thành thuộc chi Lạc Lồi. Như thế dân Hải Nam và dân Việt Nam vốn cùng một ngành Lạc.
“ Thủy Kinh Chú của Lệ Đạo Nguyên, tả thổ trước Hải Nam giống hệt dân Nhật Nam (Chàm)…Nay chúng tôi học ngôn ngữ của người Lê Hải Nam th́ thấy họ giống hệt người Mân. Mặt khác chúng tôi c̣n chứng minh rằng cổ thời Nhật Nam tuy là đất của ta, nhưng dân th́ khác, đó là dân Lạc Lồi, Mă Lai đợt II.
Vậy hồi cổ thời Mân và Chàm đồng ngôn ngữ với nhau và hẳn cuộc hợp chủng giữa Mân đang bị Hoa hóa và Chàm phải lớn lao lắm.
…Thế nên người Tàu di cư đi các xứ Mă Lai, đa số là người Phước Kiến. Có thể nói Tân Gia Ba là một quốc gia Phước Kiến.
Người Chàm tuy theo văn minh Ấn, nhưng lại thân thuộc với người Tàu hơn. Sử của họ và sử của ta đều chép rằng năm 981 một người Việt kiều ở đất Chàm tên là Lưu Kỳ Tông, nổi lọan cướp ngôi vua Chàm rồi cai trị rất hà khắc, v́ thế mà có rất đông người Chàm bỏ nước sang Quảng Đông và Hải Nam….Ở Quảng Đông có vùng Hợp Phố , Đông Hưng Móng Cái th́ dân là Lạc Lê nói y như Hải Nam, tức y như Chàm. (B́nh Nguyên Lộc, Nguồn Gốc Mă Lai của Dân Tộc Việt Nam)
Hải Nam có dân Lê th́ ở tỉnh Thanh Hóa cũng có dân Lê, Vua Lê Lợi là người Mường có cùng gốc với dân Lê Hải Nam. Năm 1905, E. Brerault khảo sát về đảo Hải Nam thấy có người Việt Nam ở bờ biển phía Nam. Đây là người Lê ở duyên hải. Một dấu chỉ đặc biệt của dân Lê Hải Nam là đạm nhĩ, căng tai th́ các dân tộc ở Cao nguyên Trung phần cũng căng tai. Điều đó càng chứng tỏ người Lê Hải Nam và người Lê Việt Nam có sự liên hệ rất mật thiết.Người Tàu chia người Lê Hải Nam làm hai loại, một thứ người Lê đă tiếp súc và sống theo văn minh Tàu, đó là Thục Lê (Lê Chín). C̣n thứ người Lê sống cách biệt, giữ sắc thái riêng biệt của chủng tộc, đó là người Sinh Lê (Lê Sống).
Từ thuở hồng hoang tối cổ, Việt tộc đă làm chủ Hoa lục, nhưng kể từ khi Hiên Viên ở sa mạc tây bắc vào đánh bại Xuy Vưu th́ Việt tộc cứ phải lui dần từ Ḥang Hà xuống Trường Giang rồi Lĩnh Nam rồi th́ mất hết đất cho Hoa tộc! “Xưa kia Bách Việt có đến 70% dân số ở nước Tàu mà nay th́ không c̣n tên Việt nào, đang khi ấy th́ các tộc Hán, Măn, Tạng, Mông, Hồi chẳng có được bao nhiêu người th́ lại được đề cao.” (Kim Định, sđd)
Ngày nay, nước Tàu của Mao Trạch Đông được gọi chính thức là Trung Quốc mà không gọi là Trung Hoa như trước nữa v́ họ đang cố quên đi, dấu đi cái chủng Hoa thống trị đó để các chủng khác như Hồi Tạng Măn Mông khỏi bị chạm tự ái dân tộc mà khởi lọan. Họ đưa ra cái chủng Hán mơ hồ v́ không có một chủng nào gọi là Hán mà Hán chỉ là tên một vương triều nhà Hán của Lưu Bang mà thôi. Thật ra cái chủng Hán đó chỉ là người Hoa gốc Việt đă góp phần lớn cho văn minh Tàu. Họ đang cố ru ngủ Việt tộc bị Hoa hóa trong mộng phồn vinh, trong hănh diện dân một nước lớn để quên đi cái nhục mất nước, quên đi sự phục quốc, lấy lại đất đai cho giống ṇi.
Cửu Lê, Bách Bộc, Bách Việt, Âu Việt, trăm con nay c̣n lại được bao nhiêu con không bị Hoa tộc thống trị ?
PHẦN IV
BIÊN GIỚI VIỆT NAM QUA CÁC THỜI ĐẠI :
VĂN LANG, BẮC THUỘC VÀ TỰ CHỦ.
THỜI VĂN LANG VÀ BẮC THUỘC.
Lê Quư Đôn trong Vân Đài Lọai Ngữ viết về Cương vực lănh thổ Văn Lang như sau : “Sử thần Ngô Sĩ Liên làm sách Ngoại Kỷ có chép: “Hùng Vương dựng nước gọi là Văn Lang, đóng đô ở Phong Châu. Đất nước Văn Lang, Đông giáp Nam Hải, Tây giáp Ba Thục, phía Bắc đền hồ Động Đ́nh, phía Nam đến nước Hồ Tôn. Cả nước chia làm 15 bộ :
1- Giao Chỉ ( Hà Nội, Hưng Yên, Nam Định, Ninh B́nh )
2- Chu Diên ( Sơn Tây, vùng núi Ba V́ )
3- Vũ Ninh ( Bắc Ninh )
4- Phúc Lộc ( Miền Đồng Bằng )
5- Việt Thường ( Quảng B́nh, Quảng Trị )
6- Ninh Hải ( Quảng Yên và một phần Quảng Đông )
7- Dương Tuyền ( Hải Dương )
8- Lục Hải ( Lạng Sơn và một phần Quảng Tây )
9- Vũ Định ( Thái Nguyên và một phần đất Hoa Nam )
10- Hoài Hoan ( Nghệ An, Hà Tỉnh )
11- Cửu Chân ( Thanh Hóa )
12- B́nh Văn ( ? )
13- Tân Hưng ( Hưng Hóa, Tuyên Quang )
14- Cửu Đức ( Lưu vực sông Đà )
15- Văn Lang ( Bạch Hạc, tỉnh Vĩnh Yên )
Theo đọan sử trên th́ nước Văn Lang chia làm 15 bộ trong đó có bộ thứ 6 Ninh Hải là Quảng Yên và một phần Quảng Đông là châu Liêm, châu khâm, Hợp Phố, nay không đ̣i lại được nữa.
Bộ thứ 8 Lục Hải là Lạng Sơn với một phần tỉnh Quảng Tây đó là vùng Nam Ninh mà có lần Lỳ Thường Kiệt đánh qua.
Bộ thứ 9 Vũ Định là Thái Nguyên và một phần đất Hoa Nam. Phần đất Hoa Nam này có lẽ ăn lên đến Quư Châu. Các phần đất ấy nay đều không đ̣i lại được nữa.
Nhưng 15 Bộ của nước Văn Lang nói trên chỉ là nước Văn Lang bị thu hẹp lại vào cuối thời các Hùng Vương. Thật sự nước Văn Lang lớn hơn nhiều.
Nước Văn Lang nguyên thủy là nước Xích Quỷ của Kinh Dương Vương truyền lại cho Lạc Long Quân. Lạc Long Quân truyền ngôi cho Hùng Vương th́ cũng giao luôn nước Xích Quỷ. Hùng Vương đổi tên nước Xích Quỷ ra Văn Lang.
Nước Xích Quỷ ở đâu ?
Truyện Hồng Bàng viết : “Cháu ba đời Viêm Đế họ Thần Nông tên là Đế Minh, sinh ra Đế Nghi rồi đi Nam tuần đến Ngũ Lĩnh, gặp được nàng con gái Vụ Tiên đem ḷng yêu mến mới cưới đem về, sinh ra Lộc Tục dung mạo đoan chính, thông minh túc thành; Đế Minh lấy làm lạ, cho nối ngôi vua; Lộc Tục cố nhường cho anh. Đế Minh lập Đế Nghi làm tự quân, cai trị Phương Bắc; phong Lộc Tục làm Kinh Dương Vương cai trị Phương Nam, đặt quốc hiệu là Xích Quỷ Quốc.” (Lĩnh Nam Chích Quái của Trần Thế Pháp, bản dịch Lê Hữu Mục, Huế 1960)
Đoạn trên cho ta thấy Lộc Tục được Đế Minh cho làm vua nước Xích Quỷ ở Phương Nam c̣n anh cùng cha khác mẹ Đế Nghi làm vua Phương Bắc. Phương Bắc ở vùng sông Hoàng Hà. Phương Nam ở vùng sông Trường Giang. Tên hiệu của Lộc Tục là Kinh Dương Vương nói lên Lộc Tục làm vua đất châu Kinh, châu Dương. Như thế nước Xích Quỷ ở vùng Trường Giang đúng với cương vực nước Văn Lang Bắc giáp Động Đ́nh Hồ, Tây giáp Ba Thục, Đông giáp Nam Hải, Nam giáp Hồ Tôn. Nước Văn Lang bao gồm Trường Giang thất tỉnh ( bảy tỉnh vùng Trường Giang là Tứ Xuyên, Hồ Bắc, Hồ Nam, Giang Tây, Giang Tô, An Huy, Chiết Giang) và Lĩnh Nam ngũ tỉnh ( năm tỉnh vùng Lĩnh Nam là Vân Nam, Quư Châu, Quảng Tây, Quảng Đông, Phúc Kiến) của nước Tàu ngày nay.
“Đế Nghi truyền ngôi cho Đế Lai cai trị phương Bắc; nhân khi thiên hạ vô sự, sực nhớ đến chuyện ông nội là Đế minh Nam tuần gặp tiên nữ, Đế Lai bèn khiến Xi Vưu tác chủ quốc sự mà Nam tuần qua nước Xích Quỷ.” (Lĩnh Nam Chích Quái, sđd.)
Thế là Đế Lai nổi máu giang hồ, bắt chước ông nội Đế Minh xuống phương Nam t́m tiên nữ, (chắc lại xuống vùng Ngũ Lĩnh là đất của Âu Việt, con gái Thái trắng đẹp nổi tiếng như tiên nữ). Không thấy nói Đế Lai có truyền ngôi cho con là Đế Ly chưa mà chỉ nói giao quyền bính cho Xi Vưu. Lúc đó Hoa tộc đă vượt sa mạc qua ngă Cam Túc vào Quan Trung rồi xâm chiếm đất Việt tộc.
“Hoa tộc dưới quyền điều động của HiênViên, tiến đánh Xi Vưu ba lần, trong đó có trận Trác Lộc (một địa điểm bên bờ sông Hoàng Hà). Trong quyển “Kỳ Môn Độn Giáp Toàn Thư” c̣n câu hát : “Ngày xưa Hoàng Đế đánh Xi Vưu, cuộc chiến ở Trác Lộc đến nay tưởng như chưa dứt : Tích nhật Hoàng Đế chiến Xi Vưu Trác Lộc kinh kim vi nhược hưu”. Từ khi Xi Vưu tử trận th́ Hoa tộc chiếm 6 tỉnh lưu vực sông Hoàng Hà để lập quốc. Hiên Viên nhờ vậy được công kênh lên làm tông tù trưởng và xưng hiệu Hoàng Đế.” (Kim Định, Việt Lư Tố Nguyên)
Tại sao Hoa tộc thắng Việt tộc, cụ Kim Định nhận định :
“1- Việt tộc ở rải rác khắp 18 tỉnh nước Tàu nên dân cư thưa thớt không
thể chống cự đoàn người du mục kết thành một đạo quân hùng mạnh.
2- Việt tộc lúc đó c̣n ở trong t́nh trạng thị tộc hay bộ lạc, chưa đạt ư thức quốc gia nên thường hay xung đột lẫn nhau, bởi vậy cháy nhà hàng xóm b́nh chân như vại.
3- V́ Việt tộc đă đạt định cư nông nghiệp sớm hơn nên Văn cao hơn mà Vơ kém….tự cổ chí kim chiến đấu lực của những dân du mục bao giờ cũng vẫn cao hơn dân tộc nông nghiệp. Hồi đó Hoa tộc c̣n sống du mục, những năm đồng khô cỏ héo họ thường lấy sự cướp bóc làm sinh họat; c̣n Việt tộc đă định cư có của tư hữu nên người đâm ra nhút nhát hiếu ḥa. V́ một hay tất cả những lư do trên mà Hoa tộc du mục đă thắng Việt tộc nông nghiệp, một việc sẽ c̣n lập lại nhiều lần về sau trong lịch sử.” (Kim Định, sđd)
Ṭan thể nước Tàu ngày xưa thuộc họ Thần Nông cai trị. Đến đời Đế Minh mới chia làm hai, cho con trưởng là Đế Lai làm vua Phương Bắc và Lộc Tục làm vua Phương Nam. Phương Bắc là lưu vực sông Hoàng Hà, Phương Nam là lưu vực sông Trường Giang. Đến khi Hiên Viên đánh Xi Vưu chiếm lưu vực Hoàng Hà th́ Phương Bắc thuộc về Hoa tộc.
Vậy th́ Phục Hy, Thần Nông là Tổ của Việt tộc. Hoa tộc vốn là thứ lai căn chẳng có gốc có tổ nên đă nhận vơ thần Nông là tổ của họ. Đó chỉ là cả vú lấp miệng em, cũng như ông Bàn Cổ là thần thọai của dân Mán cũng nhận là của họ, khi người ta thắng th́ muốn nói ǵ cũng được.
Thần Thoại Mán về ông Bàn Cổ :
Ngày xưa, thuở chưa có trời đất, chưa có mặt trời, mặt trăng soi sáng đất và nước, đầu tiên chỉ có Nhiêu Vương (tức Ngọc Hoàng) và Bàn Cổ, Bàn Cổ thành h́nh một lượt với Nhiêu Vương.
Nhiêu Vương có ba trăm sáu con mắt, Bàn Cổ có ba trăm sáu thân h́nh. Con mắt bên trái của Nhiêu Vương sinh ra Mặt Trời (Dương), con mắt bên phải sinh ra Mặt Trăng (Âm), đầu làm thành trời, chân làm thành đất. C̣n ḷai người th́ do tâm của Bàn Cổ mà sinh ra, trong đó có Bàn Vũ…”(Hoàng Trọng Miên, Việt Nam Văn Học Toàn Thư)
Trở lại vấn đề lănh thổ Văn Lang thời Lạc Long Quân truyền ngôi cho Hùng Vương. Vua Hùng Vương tiếp nhận nước Xích Quỷ rồi đổi tên nước là Văn Lang. “Chia nước làm 15 bộ là : Giao Chỉ, Chu Diên, Ninh Sơn, Phúc Lộc, Việt Thường, Ninh Hải, Dương Tuyền, Quế Dương, Vũ Ninh, Ḥai Hoan, Cửu Chân, Nhật Nam, Quế Lâm, Tượng Quận, sai các em phân trị, đặt em thứ làm tướng vơ, tướng văn; tướng văn gọi là Lạc Hầu, tướng vơ gọi là Lạc Tướng, con trai vua gọi là Quang (Quan) Lang, con gái gọi là Mỵ Nương, quan Hữu ty gọi là Bồ Chính, thần bộc nô lệ gọi là nô tỳ, xưng thần là khôi, đời đời cha truyền con nối gọi là phụ đạo, thay đời truyền cho nhau đều hiệu là Hùng Vương không đổi.” (Lĩnh Nam Chích Quái, sđd)
Theo đó, vua Hùng Vương chia nước làm 15 bộ rồi chia cho các em phân trị và đặt các quan văn vơ trị nước. Con trai gọi là Quang Lang, cho đến ngày nay, những họ quư tộc người Tày ở Thanh Hóa đều gọi là Lang. Dân tộc Choeng ở Quảng Tây là người Lang. Chắc họ Lang này có liên hệ đến ḍng dơi Lang, con Hùng Vương. Ḍng dơi Hùng Vương có họ Lang đời đời cha truyền con nối gọi là Tạo (Phú Tạo) mà Lĩnh Nam Chích Quái gọi là Phụ Đạo, c̣n dân gian gọi là Lang Đạo.(tước vị của quư tộc như người Anh gọi Lord, người Pháp gọi Seigneur, người Lào gọi là Thao.)
Như thế nước Văn Lang, hậu thân của Xích Quỷ dưới quyền cai trị của Hùng Vương, chia làm 15 bộ giao cho các em trông coi. Đến khi nước Văn Lang bị thu hẹp lại th́ các vua Hùng vẫn nhớ tên 15 bộ hồi c̣n cực thịnh ở vùng Trường Giang mà gọi các bộ ở vùng đất sông Hồng.
Tại sao lănh thổ Văn Lang bị thu hẹp lại ? Hiển nhiên là do các cuộc xâm lăng bành trướng của Hoa tộc. Cuộc xâm lăng đầu tiên được sử sách nói đến là do Cao Tông nhà Ân vào đời Hùng Vương thứ sáu. (Chu Dịch, quẻ Kư Tế, hào Cửu tam viết : Cao Tông phạt Quỷ Phương tam niên..) Sử ta ghi đời Hùng Vương thứ sáu Cao Tông nhà Ân xâm phạm đất Văn Lang bị Phù Đổng Thiên Vương đánh bại. Đất Quỷ Phương mà Ân Cao Tông xâm lăng là vùng Kinh, Dương nước Xích Quỷ đổi thành Văn Lang. “ Kinh là nước Sở sau này, c̣n Dương là miền sông Hoài, Châu Từ, U Việt v.v.. Chính ở vùng này mà có truyện vua Ân kéo quân xâm lăng, bị Thánh Gióng đánh phải chôn xác lại trên đất Việt, có nói trong Kinh Thư, mà các sử gia người Tàu có ư dập bớt đi.” Kim Định, Hưng Việt)
Thấy việc đem quân đánh chiếm không thành công, Hoa tộc đă dùng lối xâm thực dần dần không gây chấn động, đó là cho dân đi khai phá từ từ, chiếm đất một cách nhẹ nhàng, đồng hóa dân Việt rồi đặt bộ máy cai trị với lính tráng trấn đóng. Thế là dân Việt mất đất. Hùng Dịch với nước Sở là điển h́nh cho lối tằm ăn dâu, xâm thực độc ác đó. Cứ thế các bộ của nước Văn Lang mất dần, cho đến đời Câu Tiễn của nước U Việt th́ vùng Trường Giang mất hết. Nước Văn Lang rút về vùng Sông Hồng với 15 bộ thu hẹp.
Đến đời Hùng Vương thứ 18, nước Văn Lang mất vào tay Thục Phán An Dương Vương thành lập nước Âu Lạc. Rồi Âu Lạc bị sáp nhập vào nước Nam Việt của Triệu Đà. Triệu Đà, một viên tướng người Hoa do Tần Thủy Hoàng sai xuống làm huyện lệnh. Cũng giống như Hùng Dịch nước Sở, nước Nam Việt của Triệu Đà cũng bị Hoa tộc thôn tính. Thế là nước Văn Lang mất, Việt tộc bị Hoa tộc đô hộ suốt ngàn năm mới dành lại được tự chủ.
THỜI BẮC THUỘC.
Cũng theo Lê Quư Đôn th́ Hán Vũ Đế diệt nhà Triệu của nước Nam Việt rồi chia làm 9 quận như sau :
1- Nam Hải
2- Uất Lâm
3- Hợp Phố
4- Thương Ngô
5- Giao Chỉ
6- Cửu Chân
7- Nhật Nam
8- Châu Nhai
9- Đạm Nhĩ
Về sau nước Việt Nam ta dựng nước chỉ c̣n 3 quận : Giao Chỉ, Cửu Chân, Nhật Nam. C̣n 6 quận kia hăm cả vào Trung Quốc, không lấy lại được !” (Lê Quư Đôn, Vân Đài Lọai Ngữ,)
Sau Hai Bà Trưng khởi nghĩa bị Mă Viện đánh dẹp th́ nhà Hán đặt ra bộ phận Giao Châu, gồm 7 quận :
1- Nam Hải
2- Thương Ngô
3- Uất Lâm
4- Hợp Phố. Bốn quận này về sau thuộc bờ cơi Bắc Triều.
5- Giao Chỉ
6- Củu Chân
7- Nhật Nam. Ba quận này là nước Việt Nam ngày nay.
C̣n hai quận Châu Nhai và Đạm Nhĩ thuộc đảo Hải Nam theo Hai Bà trưng khởi nghĩa, nhà Hán không đánh dẹp được nên không kể vào nữa.
Đến đời Tam Quốc, Ngô Tôn Quyền cho là Giao Châu quá rộng nên cắt 3 quận Nam Hải, Thương Ngô, Uất Lâm lập ra Quảng Châu, trị sở ở Phiên Ngung. Chỉ lấy 4 quận Giao Chỉ, Nhật Nam, Cửu Chân và Hợp Phố làm Giao Châu, đặt trị sở tại Long Biên. Châu Giao, Châu Quảng chia đôi từ đó.
Nhà Tấn b́nh được nhà Ngô đặt ra Giao Châu thống trị 7 quận, 5 huyện trong đó có Hợp Phố, Giao Chỉ, Tân Xương, Vũ B́nh, Cửu Chân, Cửu Đức, Nhật Nam.
Nhà Đường lên làm vua nước Tàu, đổi Giao Châu đặt ra An Nam Đô Hộ Phủ. Tên An Nam có từ đó, gồm 17 châu, phủ. Trong các châu phủ này không c̣n có tên Hợp Phố nữa. Như thế Hợp Phố đă bị nhà Đường chiếm mất, đem sáp nhập vào Quảng Châu (Quảng Đông) đổi ra làm hai châu là Châu Khâm và Châu Liêm.
Khi Ngô Quyền đánh đuổi quân Nam Hán (938) khôi phục nền tự chủ th́ không đ̣i Hợp Phố lại được nữa. Biển Hợp Phố có nhiều ngọc trai. Chính v́ mê ngọc trai này mà Tần Thủy Hoàng đă đánh chiếm Lĩnh Nam. Hợp Phố nổi tiếng với câu “Châu về Hợp Phố”.
Tự điển Lê Văn Đức cắt nghĩa câu Châu về Hợp Phố là “Của về chủ cũ” : Dưới thời Bắc thuộc, quan Tàu bắt dân Nam ṃ hột châu ở Hợp Phố (lúc đó c̣n thuộc về đất Nam); bị hà khắc khổ sở, dân trốn đi nơi khác cả. Quan Tàu bắt lớp dân khác tới ṃ th́ không có châu. Sau thái thú Mạnh Thường bỏ lệ ấy, người xứ đó trở về, th́ châu cũng có lại và nhiều hơn trước.
Truyện Mỵ Châu Trọng Thủy có liên quan đến ngọc trai Hợp Phố. Truyện kể Mỵ Châu nghe lời ngon ngọt của Trọng Thủy đem nỏ thần ra để Trọng Thủy đánh tráo đồ giả vào. Triệu Đà đem quân qua đánh, An Dương Vương bị thua phải đem Mỵ Châu chạy ra biển Đông. Thần Kim Quy hiện ra bảo giặc ngồi đàng sau, nh́n lại chỉ thấy Mỵ Châu, An Dương vương chém Mỵ Châu rồi nhảy xuống biển tự vận. Máu Mỵ Châu chảy xuống biển, trai uống vào mang ngọc trong ḿnh. Trọng Thủy t́m Mỵ Châu không thấy nhảy xuống giếng tự vận. Những người ṃ ngọc trai đem rửa nước giếng Trọng Thủy th́ ngọc sáng ngời lên. Giếng Trọng Thủy ngày nay vẫn c̣n ở đền thờ An Dương Vương, làng Cổ Loa, huyện Đông Anh, tỉnh Phúc Yên.
THỜI TỰ CHỦ
Từ khi dành được tự chủ, qua các đời Ngô, Đinh, Lê th́ vấn đề biên giới không thấy đề cập đến, có lẽ các vua ta thời đó đặt nặng việc củng cố quyền hành, ổn định đất nước trước khi nghĩ đến đ̣i đất. Từ nhà Lư về sau th́ có nhiều tranh chấp về biên giới.
Thời nhà Lư trị v́ (1010), bên Tàu là nhà Tống, có Vương An Thạch làm tể tướng đưa ra nhiều cải cách để làm giàu và mạnh cho nhà Tống. Lúc đó, tại vùng biên giới giữa ta và nhà Tống đang có sự lôi kéo các tù trưởng lệ thuộc nhà Lư theo vế nhà Tống. Vương An Thạch quyết định đánh chiếm Giao Chỉ, một phần để nâng cao uy tín, một phần để mở mang về Nam lấy nguồn tài nguyên chống với Liêu, Hạ phương Bắc. Triều nhà Lư biết âm mưu đó quyết định ra tay đánh trước.
Lư Thường Kiệt chia quân làm hai đạo, một tiến đánh đường biển, một tiến đánh đường bộ. Đường biển do chính Lư Thường Kiệt cấm đầu tiến đánh hai châu Liêm và Khâm (Hợp Phố) rồi thẳng đường lên đánh Ung Châu. Đường bộ do tướng Tôn Đản cầm đầu tiến đánh thẳng vào Ung Châu. Hai đạo quân phối hợp vây Ung Châu (nay là Nam Ninh), vào ngày 18-1-1076, đến ngày 1-3-1076 thành Ung Châu bị hạ, tướng giữ thành là Tô Giàm tự sát, quân dân trong thành không chịu hàng bị quân Lư giết hết, tính ra có đến 70 ngàn người bị giết, bị bắt hơn 200 người đem về Đại Vịêt với nhiều của cải.
Nhà Tống bị quân ta tấn công nên giận hết sức, sai Triệu Tiết và Quách Quỳ đem tám vạn quân phối hợp với Chiêm Thành, Chân Lạp tấn đánh nước ta. Lư Thường Kiệt đem quân chận ở sông Như Nguyệt (Bắc ninh). Quân Chiêm Thành và Chân Lạp cũng bị chận đứng ở phía nam nên không giúp ǵ được cho quân Tống.
Để nâng cao tinh thần chiến đấu cho quân sĩ, Lư Thường Kiệt đă áp dụng thuật tâm lư chiến, cho người vào đền Trương Hát bên sông thét ra bài thơ được coi như bản tuyên ngôn Độc Lập (bảo rằng do thần cho) :
Nam quốc sơn hà Nam đế cư
Tuyệt nhiên định phận tại thiên thư
Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm
Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư.
(Đại ư rằng : Đất nước của người Nam phải do người Nam (vua nuớc Nam) cai trị. Điều đó đă do ư trời định. Kẻ nghịch dám xâm phạm đất ta, chỉ là mua lấy thảm bại mà thôi.)
“Quân lính nghe đọc mấy câu thơ ấy, ai nấy đều nức ḷng đánh giặc, quân nhà Tống không tiến lên được. Hai bên cứ chống giữ nhau măi. Lư triều sợ đánh lâu không lợi, bèn sai sứ sang Tống xin hơan binh. Vua Tống thấy quân ḿnh không tiến lên được, mà lại đóng ở chỗ chướng địa, quân sĩ trước sang hơn 8 vạn, sau chết quá nửa, cho nên cũng thuận hơan binh lui về.” (Trần Trọng Kim, Việt Nam Sử Lược)
Lê Quư Đôn dẫn sách Nhị Tŕnh Di Thư của Tŕnh Di viết về chiến sự Tống Việt có đọan như sau : “…Quân (Tống) kéo vào đất giặc sâu qúa, dùng bè chở 500 quân sang sông, vừa đẵn tre, vừa đốt phá trại rào bằng tre, mà mấy lần không được, lại chở bè không về, đem viện binh sang, th́ lại bị giặc hợp binh bắt giết. Quân ta không có quân cứu, hoặc chết hoặc trốn, nên không thành công. Chỉ tranh nhau có 50 dặm đất mà sau lại muốn đem quân sang đánh, nhưng thuyền không có mà qua sông, lương cũng không đủ để đóng giữ. Tính toán sai lầm chưa hề thấy có. May được bên địch nói nhũn, bèn vịn vào đó mà giảng ḥa. Giả thử, đối phương bướng bỉnh, th́ không biết xử sự làm sao ? Về trận này, quân chở lương chết mất 8 vạn, quân chiến đấu ngă nước chết mất 11 vạn. C̣n sống sót trở về là 28.000 người, nhưng phần nhiều đều bị ốm đau cả. Lại c̣n, trước kia bị giặc giết mất mấy vạn. Tính ra , tất cả không kém 30 vạn người. Sao ngu dốt mưu cơ đến thế !” (Lê Quư Đôn, Vân Đài Lọai Ngữ)
Rút quân về, nhà Tống cho quân chiếm đóng mấy châu của ta, đó là : Châu Quảng Nguyên, (nay là Quảng Uyên, Cao Bắng), châu Tư Lang ( tức châu Thượng Lang và Hạ Lang, Cao Bằng), châu Tô Mậu (giữa hai tỉnh Cao Bằng và Lạng Sơn) và huyện Quảng Lang (tức Ôn Châu thuộc Lạng Sơn).
Năm 1078 (Mậu Ngọ) vua Lư Nhân Tông cho sứ thần là Đào Tôn Nguyên đem 5 con voi sang nhà Tống đ̣i lại những châu thuộc Cao Bằng về cho Đại Việt. Tống rút quân rồi th́ người Tàu tiếc của v́ châu Quảng Nguyên có mỏ vàng nên có câu thơ :
Nhân tham giao Chỉ tượng
Khước thất Quảng Nguyên kim.
Năm 1084, Triều Lư lại cho Binh bộ Thị lang Lê Văn Thịnh sang đ̣i nhà Tống trả nốt mấy châu c̣n lại. Trong cuộc tranh luận giữa sứ thần Lê Văn Thịnh và nhà Tống, sử Tàu c̣n ghi lại lư luận của Lê Văn Thịnh : “ Nơi nào quân thiên triều chiếm đóng trong cuộc chiến th́ nay mới trả lại. C̣n những nơi các tù trưởng tự ư dâng nạp cho Tống th́ không liên quan ǵ đến việc tranh chấp mà phải bàn tới.” Chánh sứ Lê Văn Thịnh đă trả lời một câu sắc sảo làm nhà Tống phải cứng họng : “Đất có chủ. Bọn tù trưởng coi cho chủ, đem đất đi dâng cho người khác là bọn ăn trộm. Sao thiên triều lại giữ đất ăn trộm để làm nhơ sổ sách của nhà vua ?”
Thế là Đại Việt đă đ̣i lại được hết các châu huyện bị quân Tống chiếm giữ. Đó là thắng lợi ngọai giao có sự hậu thuẫn của binh hùng tướng mạnh. Ngoài ra các vùng Hải Ninh, Móng Cáy đến Khâm Châu, đến Ôn Châu, đến Ung Châu hai bên Lư Tống cùng kiểm sóat. Địa thế Việt Nam hồi đó như ôm đất Ung Châu v́ biên giới chưa phân định rơ rệt nên hay có cuộc rắc rối giữa hai nước.
Như ta biết đất Hợp Phố của Văn Lang mất do việc nhà Đường cắt để nhập vào đất Quảng Châu thành lập 2 châu Khâm và Liêm. Theo truyền thuyết dân gian th́ nơi ranh giới giữa nước ta và Tàu là nơi có đồi cỏ “Phân Mao Cỏ Rẽ”, nơi đó có cột đồng do Mă Viện cướp trống đồng của ta đúc ra, cắm làm biên giới với câu thề “Đồng trụ chiết Giao Chỉ diệt” (Cột đồng mà găy th́ Giao Chỉ bị diệt). Thế mà nay đồi cỏ rẽ, cột đồng đều nằm cả nơi đất Tàu !
Theo sách “Đại Thanh Nhất Thống Chí” th́ : “Đèo Phân Mao ở động Cổ Sâm, cách Khâm Châu 3 dặm ở phía tây”. Sách “Đại Nam Nhất Thống Chí” viết : “Mă Viện nhà Hán lập cột đồng ở dưới, chia địa giới với nước ta, đỉnh núi có sân cỏ tranh, ngọn cỏ chia hướng về nam và bắc, đến nay vẫn thế. Bản đồ năm Hồng Đức thứ 21 gọi là xứ Yên Bang. Năm Nguyên Ḥa thứ 8, nhà Mạc lại đem 4 động Tư Lẫm thuộc châu Tĩnh Yên nộp về nước Minh : “Xin nộp các động Tư Phù, Kim Lặc, Cổ Sâm, Liễu Cát, Yên Lăng, La Phù thuộc châu Tĩnh Yên ở trấn Yên Quang nguyên thuộc về Châu Khâm”.
Như thế tuy Hợp Phố đă mất về Tàu, nhưng vẫn lấy đồi Phân Mao thuộc động Cổ Sâm chỉ cách Châu Khâm có 3 dặm làm ranh giới. Đáng lư đất Việt Nam c̣n rộng thêm hàng trăm cây số nhưng Mạc Đăng Dung v́ lo củng cố ngai vàng mà dâng cho nhà Minh một vùng rộng lớn, để ranh giới lùi măi xuống Móng cáy ngày nay.
Đời nhà Hồ, cũng bị mất một số đất cho nhà Minh. “Nhà Minh yêu cầu lấy đất Lộc Châu thuộc Lạng Sơn. Quư Ly sai Hoàng Hối Khanh làm Cát địa sứ, lấy 59 thôn Cổ Lâu trả về cho Minh, (Thổ quan Quảng Tây Hoàng Quảng Thành bảo rằng : “Lộc châu là đất cũ của phủ Tư Minh”), Quư Ly thấy số đất trả lại nhiều quá; phàm thổ quan do Minh bổ đến th́ mật sai ở đấy đánh thuốc độc giết đi.” (Ngô Thời Sỹ, Việt Sử Tiêu Án)
Vùng đất địa đầu Lạng Sơn này có nhiều tranh chấp từ các triều trước. Sử nhà Minh nói : “Cuối đời Nguyên loạn lạc, người Giao Chỉ đem quân đánh phà trại Vĩnh B́nh, bèn vượt qua Đồng trụ hơn 200 dặm lấn cướp 5 huyện Khâu Ôn, Như Ngao, Khánh Viễn, Uyên và Thoát thuộc phủ Tư Minh, mà người Giao Chỉ nói là thuộc địa giới Đồng trụ, rồi lập trạm ở đấy, xin sắc cho An Nam trả lại đất cũ để cho cương vực được chính xác. Minh Thái Tổ sai hành nhân là Trần Thành và Lữ Nhượng sang bàn luận qua lại măi không quyết, việc bèn thôi.” (Đại Nam Nhất Thống Chí)
Nhà Minh tranh với nhà Lê không được, nhân Hồ Quư Ly thoán đoạt nên lợi dụng cơ hội bắt phải nhuợng đất.
Vùng biên giới phía bắc giáp Tàu này, nước Việt Nam sẽ c̣n bị mất thêm đất vào thời Pháp thuộc khi Pháp-Thanh phân định biên giới cũng như Việt cộng noi gương Hồ Quư Ly, Mạc Dăng Dung dâng đất cho Trung cộng để củng cố chế độ.
Vùng Tây Bắc, ranh giới giữa Việt Nam và tỉnh Vân Nam nước Tàu cũng có nhiều tranh chấp.
Đến cuối đời nhà Mạc, ông vua cuối cùng này lại dâng đất cho Tàu. Nguyên Mạc Kính Khoan ra hàng nhà Lê (Chúa Trịnh), được phong tước Thái Úy Thông Quận Công và cho giữ đất Cao Bằng. Nhưng con là Mạc Kính Hoàn không chịu cống bị Chúa Trịnh Tạc đem quân đánh phải chạy qua Tàu nương nhờ Ngô Tam Quế và dâng 3 động Ngưu Dương, Hồ Điệp và Phổ Viên. Khi nhà Thanh đánh Ngô Tam Quế bắt được Hoàn đem giao nhà Lê và trả lại 3 động. ( Khang Hy thứ 28, năm 1689). Nhưng sau đó thổ mục là Vi Phúc Liêm nhận của đút lót của nhà Thanh mà đem đất 3 động ấy lệ thuộc vào nước Tàu. Đến đời Lê Bảo Thái,ta đ̣i quá, người Tàu sợ có chiến tranh giữa hai nước nên mới trả lại mỏ đồng Tụ Long, lấy sông Đỗ Chú làm ranh giới. Cuộc tranh chấp c̣n gay go, ta sẽ trở lại khi nói về việc phân định biên giới thời Pháp thuộc.
Vùng biên giới giữa ta và Tàu phần nhiều là các dân tộc thiểu số như Thái, Tày, Nùng, Dao, Mèo, Mán…cư ngụ, Các tù trưởng, thổ mục (phụ đạo, phú tạo, Lang đạo) của các dân tộc này tùy theo các yếu tố ngoại tại chi phối mà lúc th́ thần phục triều đ́nh Việt Nam lúc lại thần phục nước Tàu. V́ thế mà nhiều vùng đất đang do Tàu kiểm soát lại trở lại thuộc về ta và trái lại. Tỉnh Hưng Hóa thời đó rất rộng bao gồm suốt dải đất Tây Bắc giáp ranh với tỉnh Vân Nam nước Tàu và phấn nhiều do người thiểu số cư ngụ. Tỉnh này có phủ An Tây giáp với Vân Nam bao gồm 10 châu : Tung Lăng, Hoàng Nham, Hợp Ph́, Lễ Tuyền, Tuy Phụ, Khiêm, Chiêu Tấn, Quỳnh Nhai, Lai Châu và Luân Châu. Vùng đất này xẩy ra nhiều tranh chấp giữa ta và Tàu.
Đời Lê Cảnh Hưng (1740-1788) tù trưởng Hoàng Công Thư (tức Chất) chiếm cứ động Mănh Thiên, nhà Lê b́nh định được động Mănh Thiên, con Công Thư là Công Toản chạy sang nương náu ở Vân Nam đem 6 châu là Tung Lăng, Hoàng Nham, Hợp Ph́, Lễ Tuyền, Tuy Phụ và Khiêm lệ thuộc vào nhà Thanh, đặt làm động Lục Mănh. Nhà Lê đ̣i nhà Thanh trả lại rồi nhà Tây Sơn lên cũng đ̣i trả lại, nhưng đều bị nhà Thanh từ khước không chịu trả lại. Lúc Gia Long lên ngôi Tổng trấn Nguyễn Văn Thành dâng sớ lên Gia Long đ̣i 6 châu đă mất : “Vua lấy cớ là lúc bắt đầu khai sáng, chưa vội lo nghĩ đến việc phương xa, việc này bèn bỏ đấy. V́ thế 6 châu bị mất về nước Thanh, không thể khôi phục được” (Đại Nam Nhất Thống Chí) Thời Pháp thuộc, khi phân định biên giới, người Pháp cũng bỏ qua việc đ̣i lại 6 châu này. Thế là ta mất thật sự 6 châu đó.
Phủ An Tây, sau này là tỉnh Lai Châu, chỉ c̣n có 4 châu là Chiêu Tấn, Quỳnh Nhai, Lai Châu và Luân Châu (Luân Châu sau sáp nhập vào châu Điện Biên Phủ). Bốn châu c̣n lại làm thành tỉnh Lai Châu. Sáu châu mất đi, nếu c̣n lại sẽ làm thành một tỉnh khác nữa. Thế là ta mất toi một tỉnh cho Tàu !
Biên cương lănh thổ nước Văn Lang rồi Âu Lạc không hẳn là như ngày nay. Không nói đến lănh thổ thời Kinh Dương Vương, Lạc Long Quân hay thời Hùng Vương thứ nhất mà chỉ nói đến nước Văn Lang thu hẹp dưới thời các Hùng Vương cuối cùng và nước Âu Lạc của An Dương Vương, sau khi bị Triệu Đà sáp nhập vào Nam Việt, rồi dưới thời Bắc thuộc th́ đă bị cắt xén mất nhiều phần cho nước Tàu.
Ông Đào Duy Anh xác định về biên giới nước Âu Lạc : “Chúng ta có thể căn cứ vào phạm vi của các quận Giao Chỉ và Cửu Chân thời Hán mà nhận định phạm vi của nước Âu Lạc. Nước Âu Lạc đại khái là tương đương với miền Bắc nước ta hiện nay và khi nghiên cứu về phạm vi quận Giao Chỉ, chúng ta sẽ thấy quận Giao Chỉ lấn sang một phần đất tỉnh Quảng Tây đến phía nam sông Tả Giang, như thế phía bắc nước Âu Lạc cũng phải lấn vào miền nam tỉnh Quảng Tây ngày nay.” (Đào Duy Anh, Việt Nam Văn Hóa Sử Cương)
Biên giới Việt Nam được bộ Hồng Đức bản đồ thực hiện dưới triều vua Lê Thánh Tôn (1460-1497) ghi : “An Nam đồ thuyết: An Nam chi địa, Tây khóa Ai Lao, Đông chí Hải tận, Bắc du Lưỡng Quảng, Nam khống Chiêm Thành.” (Những ǵ ghi trên bản đồ An Nam : Đất đai An Nam, phía Tây bước ngang Ai Lao, phía Đông chạm đến tận Biển, phía Bắc vượt quá hai xứ Quảng, phía Nam ḱm chế Chiêm Thành)
Biên giời bốn phía được xác định bằng các động từ : “khóa Ai Lao”, “Hải tận”, “Khống Chiêm Thành”, “Du Lưỡng Quảng”. Du Lưỡng Quảng, có nghĩa là biên giới phía Bắc của nước ta vượt qua khỏi Quảng Đông, Quảng Tây, tức là lên đến Ngũ Lĩnh, đến tận Hồ Động Đ́nh.
(Hết Phần IV)