CÔNG
ÁN THIỀN
UYÊN
HẠNH
Thiền qua phần
lý thuyết và thực hành
Phần lý thuyết
Thiền là
vô niệm, công án thiền là con
đường ’đạt’ đến vô niệm. Thiền qua cái
nhìn của chúng ta có chiều
sâu và chiều dài. Sâu
vì được coi là một triết lý sống,
và dài vì đòi hỏi sự
tìm hiểu, nghiên cứu và thực
hành. Đời càng phức tạp và
có nhiều nỗi đau thì ’vực sâu tư
tưởng’ nầy càng thăm thẳm, và mong mỏi
càng lớn thì đọan đường ta đi càng
dài. Khi chưa nhận diện được nó, ta đi
tìm những cái ở ngòai tầm với
nên khó nắm bắt. Thiền chỉ cho thấy thể
tánh trong khi ngay tại cuộc sống chúng ta
đi tìm cái tướng.
Vạn pháp quy
nhất, nhất quy hà xứ?
Dịch: Các
pháp đi về một, vậy cái một nầy đi về
đâu?
Nhất thiết
pháp không!
Dịch: Tất cả
các pháp đều không!
Không nầy
là gì? Có phải là một
cái không rỗng tuếch? Xin thưa: không
không phải là không, mà
là có. Có là có
cái không, mà lại không
có cái có!
Tất cả những
cái vừa đề cập đến trên đây chỉ
là ngôn ngữ của đối đãi của
phân biệt. Để diễn đạt điều nầy Đức Bổn Sư
đã ”nói” về cái có và
cái không, về tướng và thể
tánh, bằng hành động đưa một cành
hoa sen lên trong đại chúng và
Ngài Ca Diếp mỉm cười. Thể tánh và
tướng thấy rõ ràng trong những mẫu chuyện
của các thiền sư với thiền sinh. Chúng ta
nghe sẽ thấy như không ăn nhập đâu
vào đâu cả, giống như hai người không
“tỉnh táo” đang đối thọai với nhau. Hoặc
vì các thiền sư ’tu hành
cách biệt với thế gian’ mà thành
’gàn bát sách’ nên đã
cho ra những tiếng hét, tung lên những
cái đánh với chiếc thiền trượng đang cầm
trên tay, đơn giản chỉ là một chiếc gậy lấy
ở trên rừng.
Nếu chỉ thấy tướng
mà không thấy được tánh, thì
đọan đường nầy đúng là vô định.
Vô định ở đây có đầy đủ cả nghĩa đen
lẫn nghĩa bóng, cả tướng lẫn tánh.
Vì mãi đi tìm thì tâm
động. Tâm động thì tư tưởng không
dừng. Tư tưởng không dừng thì hành
động vẫn có. Vậy thì làm sao định
được. Vì khắc khỏai với cái mình
nghĩ là mình không có,
nên mình đã lang thang đi
tìm, mà hễ đi tìm thì
không gặp được, chỉ gặp khi biết dừng lại nhận
chân sự kiện sự vật.
Ta đi tìm một
nửa thân ta
Huyễn hư như nắm
gió ngàn xa
Như mây soi
bóng trên dòng nước
Ở trong lòng
vẫn mãi cách xa
(Ta Đi Tìm – Thơ Uyên Hạnh)
Mây và
nước là hai sự kiện của một thực thể. Hơi nước
gặp lạnh bốc lên thành mây. Mây
lang thang trên bầu trời xanh, để rồi một
ngày nào đó Trời… ’buồn trời
khóc’ thì mây sẽ thành mưa
và đổ xuống lòng của dòng
sông. Vì cái thấy phức tạp,
vì cái tâm đối đãi đã
cho chúng ta cái gọi là ”của ta
và của người” nên dòng sông
mới có khát khao về những đám
mây trắng đẹp trôi trên bầu trời xanh
thăm thẳm, và dệt nên giấc mộng được
ôm mây vào lòng. Vì mơ
nên tư tưởng của dòng sông bị
cái ước muốn vây kín không lối
thóat. Cả một dòng nước không đẩy
trôi được sương khói mờ hư ảo trùng
trùng lớp lớp bủa kín ’tâm hồn’ của
dòng sông. Ôm hòai giấc mộng
làm sao thấy được thực tánh. Mộng
là cái tướng, biết thả mộng sẽ thả được
cái tướng mới thấy được bản lai diện mục của sự
vật.
Nếu thấy được thực
tướng của sự vật, hiểu được bản chất của vũ trụ
là ta đã thấy được thể tánh. Nhưng
nếu dừng lại ở cái thấy nầy thì chưa
là gì cả, chỉ là giả ngộ. Chỉ mới
thấy chứ chưa thông, hiểu để chứng thực. Khi biết
“tôi” hiện hữu là đã ’nắm’ được
cái ý của Thiền. Nắm được căn bản nầy rồi
phải hạ thủ công phu, nghĩa là hành
và trì, sẽ ’nếm’ được mùi vị của
Thiền định. Mùi vị Thiền định là
mùi vị giải thóat là mùi vị
ta có được như khi đã giải công
án Thiền. Vì là thực chứng,
nên con đường đó phải đi qua, không
đốt giai đọan được. Ngài Liễu quán
đã ôm một công án thiền năm
năm, rồi hóat ngộ! Nói là
hóat ngộ, chứ thực chất không phải tự
nhiên mà hóat được, mà
chính là cái kết quả của năm năm
dài ngồi xây mặt nhìn vào
vách đá để sống và thở chỉ
vì công án nầy thôi. Có
vị đã ’ngắm’ vách đá hằng
chín mười năm trời và rồi ’hóat’
ngộ. Nếu là chúng ta với cái
tâm đối đãi to bằng… bộ não của
chúng ta, thì e rằng phải a tăng kỳ kiếp
mới hoát ngộ.
Nói về thực
chứng chúng ta có thể nêu giả dụ một
người uống được một tách trà ngon
và hiếm, là ’trảm mã trà’.
Sau khi uống xong, có người hỏi: ’Trà ngon
không?’ người nầy sẽ trả lời: ’ngon tuyệt!’. Chắc
chắn là ngon rồi, trà vua ban không
ngon sao được, ngon nhất là ở cái đặc
biệt. Chỉ cái đặc biệt không thôi
cũng đủ làm cho bao người phải ’ao ước’. Chừng
đó cũng đủ để làm một tách
trà giá trị, huống gì nó
thực sự lại qúa ngon. Nếu là một
qúy phi nương nương xinh đẹp, một vị tể tướng
đương kim, một vị quan có công khai quốc
được trọng vọng, hay cũng có thể nhờ là
nịnh thần, nên được vua ban cho chén
trà đó. Khi nghe hỏi về chén
trà vua ban, với sự hãnh diện được vua
trọng dụng, họ sẽ dùng hết khả năng và
ngôn ngữ để tả về cái ngon của tách
trà. Nhưng cho dù một người có giỏi
diễn đạt bao nhiêu đi nữa, và người kia
đã vận dụng khối óc phong phú
giàu tưởng tượng của mình, cùng với
kinh nghiệm uống trà của một người sống cho đam
mê thưởng thức trà, đã lê
mòn gót giày từ Quảng Đông
đến Quảng Tây để được uống những chén
trà đặc sản, người giàu kinh nghiệm
này cũng không thâu thập được 1% vị
ngon của chén trà được miêu tả. Bởi
vì phải chính người đó uống, phải
là cái lưỡi được nếm giọt trà đi
vào cổ họng và khi đi ngang qua phần mũi,
nó bốc lên mùi thơm của trà,
mới thực sự biết được mùi vị thơm ngon của
tách trà. Điều nầy cho thấy, phải tự
chính chúng ta thực nghiệm mới biết
trà ngon thế nào, không thể biết
đích thực mùi vị thơm ngon của một
chén trà bằng ngôn từ.
Thiền là con
đường dẫn đến thực chứng, mà thực chứng
thì không thể diễn tả được bằng ngôn
từ. Nói về Thiền, nhiều Thiền sư đã giảng
cho thiền sinh những từ rất rõ rệt qua những giải
thích như “lông rùa sừng thỏ”… Nhưng
thực sự lông rùa sừng thỏ cũng là
một pháp rồi. Chỉ biết rằng không là
một vật, không có tướng, chỉ có
tánh thì không giải thích
được. Khi đọc những công án Thiền,
chúng ta chỉ biết được đó là lời
dạy của các thiền sư, hướng dẫn cho thiền sinh
thấy được cái gọi là ’đích’. Nếu
chưa nắm vững được tướng và tánh,
chúng ta sẽ bị ’tẩu hỏa nhập ma’ và nghe
như hai người ở hai thế giới khác nhau đang
nói chuyện. Thật sự có hai thế giới
khác nhau, nhưng là thế giới của thiền sư
và thế giới của chúng ta. Thế giới thực
chứng đối lại thế giới của ngôn từ. ”Ngôn
ngữ và tư tưởng bất đồng” làm sao
mà chuyển đạt được. Cũng vì thế
chúng ta đã nghe câu nói:
’Ngôn ngữ không tải được Đạo’ và
câu nói lừng danh của Đức Bổn Sư: ’Trong 49
năm ta không nói điều gì cả’!
Một người bán
hoa không có được cái hiểu
cái thấy của người thầy lang bán thuốc
bắc. Một bên giỏi về săn sóc hoa và
biết được mùa nào có lọai hoa
thích hợp. Người thầy lang bán thuốc bắc
sẽ biết được, chẳng hạn lọai thuốc nào làm
dễ tiêu hóa và ngủ ngon, trị bệnh
gì… Hai người nầy không thể một sớm một
chiều, vì cái bốc đồng của phút
trước mà phút sau đổi cửa hàng cho
nhau để điều hành song suốt được. Đạo Phật
có nói rằng, đã gọi là
vô minh đầy rẫy thì làm sao
mà chứng ngay được, mà phải có thời
gian để gột dũa nó từ từ.
Công án
Thiền là một phương thức tu tập để giải
thóat. Đi trên con đường tu hành
không thể mang đôi hia bảy dặm, bước một
bước là đến cửa giải thóat. Không
đốt giai đọan được, mà phải tu để sửa đổi,
và phải hành trì để gọt bỏ vô
minh. Thiền có thể giải thích rằng,
ví như khi ta nói với cha mẹ một đứa trẻ
lên sáu: – Cho nó học kỹ sư đi!.
Muốn được thế, đứa bé phải được cho học
đánh vần, vào tiểu học lên trung học
vào đại học rồi mới học thành kỹ sư, với
điều kiện biết chăm chỉ và tinh tấn học
hành.
Nếu chúng ta
hiểu rõ câu “Nam mô A Di Đà
Phật” là “Xin quay về nương tựa Phật”. Nam
mô là quay về nương tựa. Phật A Di
Đà là đức Phật ở cõi Thanh tịnh.
Quay trở về cái thanh tịnh là trở về
tánh không của vạn pháp, là
dừng lại, là hành thiền, là tỉnh
thức, là thực chứng. Nếu hiểu được ý nghĩa
của công án Thiền, biết hành
trì, sẽ chứng đắc. Nhận chân được
giá trị công án Thiền chúng
ta sẽ đi trong trần gian với đôi mắt mở lớn
và nhìn vào cuộc đời để thấy cuộc
đời rất thực và rất đẹp. Đức Bổn Sư đã
từng nói rằng trước đây ngài
đã thấy núi sông là
núi sông, rồi Ngài đã từng
không thấy núi sông là
núi sông, cuối cùng ngài thấy
được núi sông vẫn là núi
sông! Gọi là thấy được cái thực
trong cái mộng và cái mộng trong
cái thực.
Phần thực hành
Thường khi nói
về Thiền Tông và Tịnh Độ Tông,
có nhiều vị đã bảo: ”Thiền không
phải là Tịnh Độ, và Tịnh Độ làm sao
mà so sánh với Thiền được!”. Đây
là câu nói có chủ đích
xiển dương Thiền mà quên rằng trong Thiền
có Tịnh Độ, trong Tịnh Độ có Thiền.
Không trách Đức Phật ngồi trên
tòa sen nhìn vào chúng ta
mỉm cười không nói, chính vì
tư tưởng lọan động của chúng ta. Có
tám vạn bốn ngàn pháp môn,
không nên dùng thì giờ
hí luận so sánh viễn vông, mà
nên quyết tâm chọn cho mình một con
đường và ”khăn gói lên đường để tới
đích”. Không đi sẽ không đến. Ngồi
nhìn chỉ làm tư tưởng lọan động.
Đói bụng phải đi nấu cơm ăn, ngồi nghĩ tới nồi
cơm và gạo, thì cơm không tự
nhiên chín được, và nếu có
chín được trong tư tưởng thì làm
sao mà no bụng. Thế nên phải thực
hành!
Đã thấy được
con đường giải thóat, đã phát
tâm và có lòng muốn tu
hành thì phải thực hiện. Đây
là một hạnh phúc to lớn của cuộc đời.
Có hành Thiền chúng ta mới diệt
được cái khổ. Cái khổ lớn nhất trong những
cái khổ của cuộc đời chúng ta, đó
là cố chấp, là một cái khổ trong
nhiều cái khổ cần phải diệt trước tiên
trên con đường học Đạo. Vì chấp chặt
nên lòng nặng nề, ăn không ngon ngủ
không yên. Ăn ngon ngủ yên sẽ trị được
bá bệnh, thì cho dù Hoa Đà
có tái thế ở ngay nhà bên
cạnh cũng chỉ là người hàng xóm
bình thường, gặp nhau chào hỏi vài
câu.
Suốt một ngày
làm việc mệt nhọc, về đến nhà quẳng được
đôi giày ra, thay bằng một đôi
dép và bộ áo quần mặc ở nhà
thay vì bộ áo quần đi làm việc,
thì thật là thỏai mái. Cái
thỏai mái êm ái khi được ngã
người xuống ghế xa lông, sau khi uống một ly nước
mình thích và nhắm đôi mắt
lại ngơi nghỉ một chút thì đúng
là tuyệt vời. Mệt quá mà nằm nghỉ
được như thế, cơ thể không phải nhọc nhằn bận bịu.
Ở cái trạng thái nầy có được coi
là nghỉ ngơi hòan tòan hay
không. Nằm thẳng người, chân duỗi dài
ra trên ghế xa lông, bù cho một
ngày làm việc vất vã. Nhưng
có thật là mình đã nghỉ ngơi
hòan tòan không. Bởi vì
nói đến chữ hoàn toàn là
phải nói đến con số 90 hoặc 100%.
Không đâu,
chúng ta chỉ mới nghỉ ngơi được nhiều lắm
là 40 – 50% mà thôi. Trong trạng
thái nầy cơ thể thì nghỉ ngơi, nhưng đầu
óc vẫn làm việc. Trí óc của
mình vẫn nghĩ ngợi miên man thì
làm sao gọi là nghỉ ngơi hòan
tòan. Sợ rằng, đây chính là
lúc trí óc làm việc
còn nhiều hơn những thời điểm khác trong
ngày, so với những lúc mắt và tai
ta tiếp nhận nhiều âm thanh và hình
ảnh trong khi ta đang bận bịu với các công
việc khác. Chúng ta như một chiếc chong
chóng quay vùn vụt suốt ngày theo
cái đồng hồ. Vừa làm việc nhọc nhằn cho cơ
thể, vừa suy nghĩ để xử lý thích ứng với
công việc mình làm, nếu không
nói là đương đầu với cuộc sống. Đang
làm việc tại sở đã chắc gì tư tưởng
ở yên tại đó thôi đâu,
chúng ta còn cho nó chạy lung tung
mà. Có bà cho tư tưởng nằm trong rổ
chợ sắp mua chiều nay khi tan sở. Có ông
cho tư tưởng nằm ở hãng bán xe với
hình ảnh chiếc xe mình đã ’lỡ dại’
mê rồi. Tư tưởng như thế đúng là đa
mang. Vậy thì trí óc ta đời
nào nghỉ ngơi được. Có người còn
’bồi bổ’ cho đầu óc mình đủ thứ chuyện để
lo, và trong cái lo nầy khi nào
cũng có sự hiện diện của cái “Tôi”.
Nói theo nhà Phật là bồi đắp
cái u minh, là chồng chất cho nhiều nỗi lo
trong tâm trí. Lo càng nhiều
càng vướng mắc, nên khó thoát
được cái khổ.
Cách hay nhất
là dừng bớt tư tưởng lại để bớt lo, làm
việc gì hãy chuyên tâm
vào việc đó, công việc sẽ dễ
dàng trôi chảy lại khỏi bị sơ suất
vì sự chểnh mảng của chúng ta. Nhưng
làm sao mà dừng đây. Nói dừng
là dừng được hay sao. Chúng ta phải tập để
đừng suy nghĩ nhiều. Và tập bằng cách
nào?
Cách tập luyện
đơn giản nhất và tiên khởi có thể
thực hành bằng cách tập “nắm lấy” hơi thở
và tư tưởng của chúng ta. Mỗi buổi
sáng khi vừa thức giấc, đừng vội bước ra khỏi
giường. Nằm lại trên giường để hít thở 3
hơi rồi hãy rời chiếc giường của chúng ta:
hít vào thật sâu thật chậm, rồi thở
ra thật nhẹ và dài. Khi hít
sâu và thở nhẹ như thế, hãy tập
trung tư tưởng của mình vào hơi thở.
Đây là cách tập trung tư tưởng
không cho tư tưởng chạy vòng vòng,
để suy nghĩ đến chuyện khác. Nhiều khi đang ở
nước Pháp chẳng hạn, mà tư tưởng cứ lang
thang đi về Sài gòn thăm bà con,
và rồi tư tưởng nầy đẻ ra tư tưởng kia và
ta quay mòng mòng trong đó.
Hãy thực tập
như thế vài tuần, rồi gia tăng thành ra 5
hơi thở mỗi sáng, và từ từ theo ý
thích và khả năng của mình, tăng
dần số hơi thở, thời gian, thay đổi không gian
và cách thức thực hành hít
thở như thế trong một ngày. Sau nầy chúng
ta sẽ dần dần thấy rõ được kết qủa công
việc mình làm. Đến một thời điểm
nào nó, chúng ta nhận định được
rằng mình trầm tỉnh hơn và nhìn
thấy được nhiều sự kiện rõ ràng hơn trước
đây.
Thực hiện việc
hít thở và tập trung hơi thở như thế sẽ
có một ngày chúng ta “nắm” được tư
tưởng của mình. Không cho tư tưởng
mình bị ngọai vật và ngọai cảnh chi phối
một cách dễ dàng, là
không để cho tâm mình dễ dàng
bị giao động bởi bất cứ ai bất cứ chuyện gì. Khi
đã có được sự bình tĩnh để đối mặt
được với mọi chuyện trong cuộc sống, đầu óc
chúng ta tỉnh táo hơn sẽ dễ tiếp nhận
và tìm giải pháp cho những sự kiện
đang đến với mình rõ hơn. Sự lọan động của
tư tưởng làm ta rối trí, và khi rối
trí ta sẽ không thấy được sự kiện một
cách khách quan và rõ
ràng để tìm ra được giải pháp
thích ứng. Đó là lý do
nên tập hít thở để nắm bắt được cái
tâm không cho nó “chạy mất”
còn gọi là gọt bỏ dần cái tâm
đầy tạp niệm. Công việc nầy là một trong
những bước đầu của thiền quán tu tập.
Để giữ tâm Đạo,
không cho mình lơ là biếng trể việc
tu hành, xin hãy thỉnh kinh sách
và đọc tụng, nghiên cứu. Tụng kinh cũng
là một hình thức tu Thiền. Vì ngồi
tụng kinh phần lớn là để luyện cái
tâm mình bớt vọng động. Tâm
không dấy lên vọng tưởng, thân thanh
tịnh là thiền tập. Vì thế đơn giản ta
có thể nói, trong Thiền có Tịnh Độ
và trong Tịnh Độ có Thiền.
Đọc Kinh sách
mà không hành trì thì
Kinh sách chỉ là một mớ chữ chết. Lời Kinh
có được là do cái vô minh
cái khổ của con người chạm vào Trí
tuệ của Chư Phật mà phát sinh. Trì
Kinh là đọc, tụng và hiểu để thực
hành. Đọc mà hiểu là giai đọan thứ
nhất. Hiểu rồi phải thực hành là giai đọan
thứ hai. Đó là lợi ích của Kinh
điển, là điều Đức Phật chỉ cho thấy trong Kinh.
Nếu không may
mắn có được một chân sư để nương mà
học hỏi, chúng ta có thể tự mình
nghiên cứu để hành trì. Khởi sự
chúng ta có thể thỉnh bộ Phật học Từ điển
được phát hành tại nhiều chùa lớn
khắp nơi và đọc để thông suốt những
pháp số (xin đưa một ví dụ đơn giản: lục
căn, lục dục, lục thức, lục trần… gọi là
pháp số). Khi đã rõ và
đã thông suốt pháp số trong Kinh, ta
sẽ hiểu lời Kinh rõ ràng. Song hành
với việc đọc để hiểu chúng ta phải trì
Kinh. Hai công việc nầy bổ sung cho nhau, cho ta
dần dần thấy được cái tỉnh trong tư tưởng
và cái tịnh của thân. Nhờ thế
chúng ta sẽ từ từ hiểu rõ lời dạy trong
Kinh hơn, và sẽ là động cơ làm
chúng ta tinh tấn tu tập không để xao
lãng.
Phải nên thu xếp
một ít thời gian cho việc thiền tập, nghiên
cứu, học hỏi và trì tụng kinh sách
nhà Phật. Chúng ta sẽ thấy một chân
trời mới mở rộng trong cuộc đời của chúng ta, bao
la trong sáng không đắm nhiễm như
cái đẹp đơn giản của thiên nhiên, như
nụ cười bình dị của Ngài Đạt Lai Lạt Ma.
|