Việt
Nam Văn Hiến
Năm
Thứ 4888
www.vietnamvanhien.org
www.vietnamvanhien.net
Gia Huấn Ca
Nguyễn Trãi
Đức Nguyễn Trãi
Tác Giả
Và Tác Phẩm
|
Tác
Giả
|
Nguyễn Trãi:
(1380 - 1442) Nguyễn Trãi hiệu là Ức Trai, người
làng Nhị Khê, huyện Thượng Phúc (tức phủ Thường
Tín, tỉnh Hà Đông). Năm 21 tuổi đỗ Thái học
sinh (tiến sỹ) niên hiệu Thánh nguyên thứ 1 triều
vua Hồ Quí Ly (1400). Làm quan đến chức Ngự sử đài chánh
chưởng. Thân phụ là Nguyễn Phi Khanh, đỗ Bảng nhãn
niên hiệu Long Khánh thứ 2 triều vua Trần Duệ tông
(1374), vì cớ là hàn tộc mà lấy con
gái Trần Nguyên Đán là tôn thất
nhà Trần, theo phép nhà Trần không được bổ
dụng.
Mãi đến triều nhà Hồ mới được dùng làm
Trung thư thị lang. Khi quân Minh sang xâm lấn, hai cha con
vua nhà Hồ bị bắt. Phi Khanh cũng bị giải về Tàu. Nguyễn
Trãi khóc theo đến Nam quan. Phi Khanh ngoảnh lại bảo
rằng: "Con về rửa hờn cho nước, báo thù cho cha, mới
là người đại trung đại hiếu, không nên theo nhi nữ
thường tình !" Nguyễn Trãi trở về đi theo Lê
Thái Tổ khởi nghĩa ở Lam Sơn. Trong 10 năm kháng chiến
với quân Minh, giúp vua Lê bằng mưu kế: phàm
các văn thư từ trát giao thiệp với tướng nhà Minh,
đều do một tay ông thảo thiện. Sau khi đã đánh đuổi
ngoại xâm về Tàu, Nguyễn Trãi được phong tước Quan
phục hầu, liệt vào hạng khai quốc công thần đệ nhất .
Triều vua Lê Thái Tông được làm Nhập nội
hành khiển (tức Tể tướng ). Năm 60 tuổi, về trí sĩ tại
Côn Sơn (thuộc huyện Chí Linh, tỉnh Hải Dương). Ba năm
sau, vì án Nguyễn Thị Lộ, bị tru di tam tộc.
Sử chép: Niên hiệu đại bảo thứ 3 triều Lê
Thái Tông (1442), nhà vua đi tuần phương
đông, duyệt võ ở Chí Linh, Nguyễn Trãi
đón xa giá đến chơi chùa Côn Sơn . Thiếp của
Nguyễn Trãi là Nguyễn Thị Lộ, có tài sắc,
được nhà vua vời . Khi xa giá đến vườn Lệ Chi (xã
Đại Lai, huyện Gia Bình, tỉnh Bắc Ninh) nhà vua bị bệnh
sốt, Thị Lộ vào chầu suốt đêm rồi vua mất, ai nấy đều nói Thị Lộ
thí nghịch, nên Nguyễn Trãi phải tội tru di. Năm
ấy, Nguyễn Trãi 63 tuổi, có người thiếp đương có
thai trốn được, sau sinh ra Nguyễn Ánh Vũ. Đời Lê
Thánh Tông, Nguyễn Trãi được minh oan, truy tặng Tế
văn hầu. Anh Vũ được bổ chức Tri châu.
|
Tác Phẩm
|
Nguyễn
Trãi chẳng những là bậc năng thần kinh bang tế thế,
mà còn là một nhà đại văn hào của
Việt Nam ta. Tác phẩm của Tiên sinh bằng chữ Hán
rất nhiều, hiện nay còn truyền lại đều in trong bộ Ức Trai
Toàn Tập: như Ức Trai Thi Tập, Ức Trai Văn Tập, Quân Trung
Từ Lệnh Tập, An Nam Vũ Cống v.v... Tác phẩm bằng Quốc âm,
nay chỉ còn truyền lại có 2: tức là tập "Gia Huấn
Ca" này và bài thơ "Hỏi Ả Bán Chiếu"
mà người ta thường truyền tụng.
|
Lời
Mở Đầu
|
1. |
Đặt
quyển sách, vắt tay nằm nghĩ,
Hễ làm người dạy kỹ thì nên,
Phấn son cũng phải bút nghiên,
Cũng nhân tâm ấy há thiên lý nào.(*)
|
Dạy Vợ Con
|
5. |
Nhân
thong thả lựa vần quốc ngữ,
Làm bài ca dạy vợ nhủ con:
Lời ăn nết ở cho khôn,
Chớ nên đa quá, đa ngôn chút nào!(*)
Ăn mặc chớ mỹ miều chải chuốt, |
10. |
Hình
dung đừng ve vuốt ngắm trông,
Một vừa hai phải thì xong,
Giọt dài giọt ngắn cũng không ra gì?(*)
Khi đứng ngồi chứ hề lơ lẳng,
Tiếng nhục nhằn nữa nặng đến mình, |
15. |
Hạt
mưa chút phận lênh đênh,
Tấm son tạc lấy chữ trinh làm đầu.(*)
Kìa mấy kẻ làu làu tiết ngọc,
Đem sắt đanh nguyện lúc lửa châm,
Con hiền cha mẹ an tâm, |
20. |
Một
nhà khen ngợi, nghìn năm bia truyền.(*)
Nọ những kẻ nước nguyền non hẹn,
Thấy mùi hoa bướm nghển, ong chào,
Miệng đời dê diếu biết bao,
Đông ra quốc pháp, nhục vào gia thanh.(*) |
25. |
Đem
người trước lấy mình ngắm lại,
Khôn ba năm đừng dại một giờ,
Đua chi chén rượu câu thơ,
Thuốc lào ngọt nhạt, nước cờ thấp cao.
Đám dồi mỏ ra vào săn sóc, |
30. |
Lại
bài phu, tam cúc, đánh đinh,
Đố mười, chẵn lẻ, đố kinh,
Tổ tôm, kiệu chắn, sám quanh tứ chiều.
Đi đứng đắn, chớ điều vùng vẫy,
Khi tối tăm đèn phải phân minh, |
35. |
Hoặc
khi hội hát linh đình,
Đ ược lời dạy đến thì mình hãy ra.
Ra phải có mẹ già em nhỏ,
Đ ừng đánh đàn, đánh lũ không hay,
Nói đừng chau mặt, chau mày, |
40. |
Nghe
ra ngậm đắng nuốt cay hay nào!
Của tằn tiện, chắt chiu hàn gắn,
Khách buôn tàu chưa hẳn nơi đây !
Cũng đừng vắt nước cổ chày,
Tiếp tân tế lễ là ngày nên hoang.(*) |
45. |
Ăn
ở chớ lòng mang khoảnh khắc,
Mua bán đừng điêu trác đong đưa,
Mua đừng ráo riết quá lừa,
Bán đừng bo xiết, ích ta hại người. |
|
Chớ
tắt mắt của người kém cỏi, |
50. |
Đ
ừng đảo điên có nói làm không,
Giàu sang cũng chớ khoe ngông,
Miễn mình ấm phận chớ lòng khinh ai.
Khó khăn chớ vật nài oán hối,
Hết bĩ rồi tới buổi thái lai,(*) |
55. |
Cầm
cân, tạo hóa đổi dời,
Giàu ba họ, khó ba đời mấy ai?(*)
Đừng học cách tham lời đặt lãi,
Lợi kẻ cho thì hại kẻ vay,
Dễ dàng nợ phải lay nhay, |
60. |
Đến
đầu đũa quá, e cay đắng nhiều.(*)
Hoặc lỡ thiếu phải điều lĩnh tạm,
Dù ít nhiều liệu sớm tính xong,
Chẳng nên mê mẩn hơi đồng,
Qua lần cho khỏi thì lòng mới nguôi. |
65. |
Thói
mách lẻo, ngồi rồi bỏ hết,
Hễ điều gì nói ít mới hay,
Lân la giắt rợ, giắt rây,
Đã hư công việc, lại dày tiếng tăm.(*)
Việc chợ búa chăm chăm chúi chúi, |
70. |
Buổi
bán xong liệu vội ra về,
Cửa nhà trăm việc sớm khuya,
Thu va thu vén mọi bề mới xong.
Phòng những kẻ có lòng gian vặt,
Nhỡ xảy ra một mất mười ngờ, |
75. |
Tiếc
thầm đứng ngẩn, ngồi ngơ,
Đau buồn thôi lại đổ cho tại trời.
Từ chốn ở, nơi ngồi thay thảy,
Rác ngập đường nhìn vậy chan chan,
Ai vào rác ngập ước chân, |
80. |
Bát
mâm tơi tả chiếu chăn đầy giường.
Tuy khó rách, giữ gìn thơm sạch,(*)
Có hay gì chiếu lệch bụi nhơ,
Đồ ăn thức nấu cho vừa,
Thường thường giữ lấy muối dưa ngon lành. |
85. |
Nghề
bánh trái chiều thanh vẻ lịch,
Cũng học dần thói cách người ta,
Vá may giữ nếp đàn bà,
Mũi kim nhỏ nhặt mới là nữ công.
Thủa tại gia phải tòng phụ giáo,(*) |
90. |
Khi
lấy chồng giữ đạo chính chuyên,(*)
Lại là hiếu với tổ tiên,
Những ngày giỗ tết không nên vắng nhà.
Đồ cúng cấp hương trà tinh khiết,(*)
Theo lễ nghi khép nép, khoan thai, |
95. |
Ăn
nhiều ăn ít cho rồi,
Nhớ điều ghẻ lạnh lễ thôi lại về. |
Với Cha Mẹ
|
|
Dù
nội, ngoại hai bề cũng vậy,
Đừng trành hanh bên ấy, bên này,
Cù lao đội đức cao
dày, |
100. |
Phải
lo hiếu kính đêm ngày khăng khăng.
Bởi thương đến mới năng mắng quở,
Muốn cho ta sáng sủa hơn người,
Ân cần kẽ tóc, chân tơ,
Tấm lòng chép để mấy lời tạc ghi. |
105. |
Đừng
nặng nhẹ, tiếng chì tiếng bấc,
Đ ừng vùng vằng mặt vực, mặt lưng,
Có thì sớm tiến trưa dâng,
Cơm ngon canh ngọt cho bằng chị em.
Dù chẳng có thì yên một phận, |
110. |
Người
trên ta há giận ta sao!
Hoặc khi lầm lỗi điều nào,
Đánh đằng cửa trước, chạy vào cửa sau.
Khi ấm lạnh ta hầu coi sóc,
Xem cháo cơm, thang thuốc mọi bề, |
115. |
Ra
vào thăm hỏi từng khi,
Người đà
vô sự, ta thì an tâm.
Việc báo hiếu phải chăm chữ hiếu,
Kiệm hay phong cũng liệu tùy ngơi,(*)
Đừng điều tranh cạnh chia bai, |
120. |
Xấu
trong làng nước, để cười mai sau. |
Với Chồng
|
|
Đạo
vợ chồng tình sâu nghĩa ái,
Lại chẳng nên mặt tái, mày tăm,
Chuyện đâu bỏ đấy cho êm,
Đ ừng đem bên ấy về gièm bên ta. |
125. |
Sách
có chữ "nhập gia vấn húy",(*)
Khi nói năng phải kỹ kiêng khem,
Dịu dàng tiếng thuận lời mềm,
Cứ lời chồng dạy mới yên cửa nhà.
Chớ nên cậy mình ta tài sắc, |
130. |
Chồng
nói ra nhiếc móc chê khen.
Nói càn như ở bậc trên,
Thường khi động đến tổ tiên quá lời.
Cơn giận đến, sự đời ngang ngửa,
Dở dói ra nát cửa tan nhà, |
135. |
Chữ
"tùy" là phận đàn
bà,
Nhu mì để dạ, chua ngoa gác ngoài.
Dù lỗi phận gặp người tửu sắc,
Hay gặp người cờ bạc lưu liên,
Nhỏ to tiếng dịu lời êm, |
140. |
Dần
dà uốn mãi may mềm được chăng !
Phải chồng ngược, cắn răng chịu khổ,
Chớ nghiêng đầu, ngảnh cổ thiệt thân,
Duyên may gặp được văn nhân,
Thuộc câu "tương kính như tân" làm
lòng.(*) |
145. |
Nghiệp
đèn
sách khuyên chồng sập sã,
Tiếng kê minh gióng
giả đêm
ngày,
Khuyên chồng nhớ đến đạo thầy,
Vật dâng lớn nhỏ gọi nay lễ thường. |
Với Vợ Lẻ
|
|
In
lấy chữ tao khang chi nghị,(*) |
150. |
Đ
ừng mang câu đố kỵ chi thường,
Dây bìm cho tựa cành vàng,(*)
Trước chàng đẹp mặt, sau nàng đỡ tay.
Câu "đường cái" xưa nay
cũng vậy,
Trai làm nên lấy bảy lấy ba,(*) |
155. |
Lấy
về hầu hạ nhà ta,
Thêm hòe, nẩy quế có là con ai?(*)
Cũng da thịt cũng tai mắt thế,
Kém ta nên phận ế hoa ôi,
Nghĩ tình ăn cạnh nằm ngoài, |
160. |
Ấm
no nên xót lấy người bơ vơ.
Thế mới phải phép thờ phu tử,
Ấy mới là đạo xử hài hòa,
Chữ "Tùy" rắn khúc nghi gia,
Môn đường thong thả, một nhà vẻ vang. |
Với Bạn Hữu Của Chồng
|
165. |
Kìa
những đứa mặt thường cau có,
Khách đến nhà chửi chó mắng mèo,
Cất lời nặng cỡ đá đeo,
Đã ra thét tớ lại vào mắng con.
Khách về đoạn sợ mòn mất chiếu, |
170. |
Chồng
ra đường chẳng kẻo mặt mo!
Hễ ngày bạn hữu giao du,
Sai người trải chiếu, sắp đồ tiếp ra.
Dù trăm giận thì ta để bụng,
Có trọng người mới trọng chồng ta. |
175. |
Tùy
người thết đãi rượu trà,
Nhớ rằng: Của gửi chồng ta đi đường! |
Với Chị Em
|
|
Ấy
là vẹn cương thường bằng hữu,
Lại phải tường trong đạo chị em,
Đạo em thì phải trông lên, |
180. |
Đạo
chị trông xuống cho êm đẹp chiều.
Miếng bùi ngọt chia đều như một,
Khi nắng mưa ấm sốt đỡ tay,
Với nhau như bát nước đầy,
Lá lành đùm bọc bóng cây rườm
rà! |
185. |
Đạo
thúc tẩu một
nhà minh bạch,
Lánh hiềm nghi tăm tích rõ ràng,
Trộm trông bóng đuốc Vân Trường,
Nức danh ba nước treo gương muôn
nhà. |
Với Trong Họ Ngoài Làng
|
|
Cả
trong ngoài cùng là đàn cháu, |
190. |
Xem
như con yêu dấu chẳng sai,
Đồng quà, tấm bánh hôm mai,
Chớ điều dằn vật, chớ lời gieo đanh.
Từ họ mạc, láng giềng, hàng xóm,
Cũng ở cho trong ấm ngoài êm, |
195. |
Tiếng
chào, tiếng hỏi cho mềm,
Chẳng khinh ai cũng chẳng hiềm oán ai. |
Với Những Khi Sản Dục
|
|
Ấy
ngôn hạnh các
lời hằng giữ,
Lại cần điều cư xử cho tuyền,
Hễ ngày sóc, vọng, hối, huyền,(*) |
200. |
Cùng
ngày nguyệt tín phải
khuyên dỗ chồng.
Khi thai sản trong phòng gìn giữ,
Học cổ nhân huấn tử trong thai,
Dâm thanh chớ để
vào tai,
Ác ngôn chớ
chút bợn lời sam sưa! |
205. |
Từ
xuất nhập, khởi cư, hành động,(*)
Có lễ nghi nghiêm trọng đoan trinh,(*)
Đứng ngồi chính đại quang minh,(*)
Cho bằng phẳng thế, chớ chênh lệch mình.
Chớ vịn cao cũng đừng mang nặng, |
210. |
Đừng
ăn đồ cay đắng canh riêu,
Đừng ăn ít, chớ ăn nhiều,
Nuôi từ trong dạ khỏi điều lo xa.
Khi sinh nở thai hòa vô sự,
Cẩn từ khi trong cữ ngoài tuần, |
215. |
Chiều
sương chớ để áo quần,
Đỉnh đầu phải cúi, bước chân phải dò.
Nơi bếp vách đừng cho hơ lửa,
Ngọn đèn
hoa chớ quở quá ngôn,(*)
Kiêng khem trăm sự vuông tròn, |
220. |
Trước
mình yên dạ, sau con ít sài. |
Với Con Cái
|
|
Ngày
con đã biết chơi biết chạy,
Đừng cho chơi cầm gậy, trèo cao,
Đừng cho chơi búa chơi dao,
Chơi vôi, chơi lửa, chơi ao có ngày. |
225. |
Lau
cho sạch không hay dầm nước,
Ăn cho vừa, đừng ước cao lương,
Mùa đông tháng hạ thích thường,
Đ ừng ôm ấp quá, đừng suồng sã con.
Dạy từ thuở hãy còn trứng nước, |
230. |
Yêu
cho đòn bắt chước lấy người,
Trình thưa, vâng dạ, đứng ngồi,
Gái trong kim chỉ, trai ngoài bút nghiên.
Gần mực đen, gần đèn thì sáng,
Ở bầu tròn, ở ống thì dài, |
235. |
Lạ
gì con có giống ai,
Phúc đức tại mẫu là lời thế gian.(*)
Làm mẹ chớ ăn càn, nói dở,
Với con đừng chửi rủa quá lời,
Hay chi thô tục những người, |
240. |
Hôm
nay cụ cụ, ngày mai bà bà.
Gieo tiếng ra chết cây, gãy cối,
Mở miệng nào có ngọn có ngành,
Đến tay bụt cũng không lành,
Chồng con khinh rẻ, thế tình mỉa mai! |
245. |
Ấy
những thói ở đời ngông dại,
Khôn thì chừa, mới phải giống người,
Sinh con thì dạy thì nuôi,
Biết câu phải trái lựa lời khuyên răn. |
Với Dâu Rễ
|
|
Tuổi
cả khôn, hôn nhân trạch phối,(*) |
250. |
Giàu
đừng tham, khó đói chớ nề,
Dâu hiền, rể thảo tìm về,
Xem tông xem giống kẻo mê mà lầm.(*)
Xử với rể một niềm kính trọng,
Dù dở hay, đừng giọng mỉa mai, |
255. |
Với
dâu, dạy bảo phải lời,
Bắt khoan bắt nhặt, biết ai cho vừa! |
Với Tôi Tớ
|
|
Gương
giáo tử nhường đưa mặt
nhận,
Mực trì gia đặt hẳn
ân uy,
Bọt bèo là phận nô tỳ, |
260. |
Dạy
nghiêm, ở thảo hai bề vẹn hai.
Có câu ví "Chiều người lấy việc",
Chẳng há nên ráo riết người ta,
Hay thì nó ở lâu ra,
Dở thì nó bước nào ta bận gì. |
265. |
Một
đôi kẻ phải khi lỡ độ,
Có thì cho chẳng có thì thôi,
Chẳng nên nhiếc mắng nhiều lời,
Cơ hàn hầu dễ có ai muốn gì. |
Thờ Cúng
|
|
Trong
nhà vận thịnh suy có mệnh, |
270. |
Đạo
quỉ thần thì kính viễn chi,(*)
Nắng mưa giải kiết có khi,
Phải chăm cơm thuốc, đừng mê cốt thầy.
Nhà chẳng quét, quét hay có rác,
Đã bói ra, bỏ
nhác sao đành, |
275. |
Cao
tay mấy kẻ có danh,
Bùa bèn chẳng bỏ là tinh hiện vào.
Suy cho thấu, tà nào phạm chính,(*)
Cứ thánh kinh cảnh tỉnh dị kỳ,
Kìa như mấy kẻ tăng, ni, |
280. |
Thôi
tuần cúng Phật, lại khi vào hè.
Nam mô Phật rù rì hai chữ,
Đua nhau rằng tín nữ thiện nam,
Miệng rằng chừa độc chừa dâm,
Tay lần tràng hạt dao găm một bồ. |
285. |
Kẻ
trốn việc ở chùa cũng có,
Kẻ lộn chồng, trốn chúa cũng nhiều,
Gian ngoan rất mực làm kiêu,
Mượn danh Hòa thượng, lợi điều tham dâm.
Chẳng qua lũ ngu dân hoặc thái, |
290. |
Phúc
đức đâu nghĩ lại mà coi,
Trước sau có bấy nhiêu lời,
Bảo nhau gìn giữ nên người thơm danh.
Dù ai nấy có tình chẳng cứ,
Thói Thọ Dương vẫn giữ không
chừa, |
295. |
Ngày
ngày mắng sớm đòn trưa,
Thường thường dạy dỗ mà ra tuồng gì.
Cành kia lớn sợ khi khó nắn,
Sắt nọ mài ắt hẳn nên kim,
Diễn nôm cho tiện mà xem, |
300. |
Dạy
nhà trước đã mới đem dạy người. |
Dạy Con Ở Cho Có Đức
|
|
Lấy
điều ăn ở dạy con,
Dẫu mà gặp tiết nước non chuyền vần.
Ở cho có đức có nhân,
Mới mong đời trị được ăn lộc trời. |
305. |
Thương
người tất tả ngược xuôi,
Thương người lỡ bước, thương người bơ vơ.
Thương người ôm dắt trẻ thơ,
Thương người tuổi tác già nua bần hàn.
Thương người quan quả, cô đơn,(*) |
310. |
Thương
người lỡ bước lầm than kêu đường.
Thấy ai đói rách thì thương,
Rách thường cho mặc, đói thường cho ăn.
Thương người như thể thương thân,
Người ta phải bước khó khăn đến nhà. |
315. |
Đồng
tiền bát gạo mang ra,
Rằng đây "cần kiệm" gọi là
làm duyên.
May ra ở chốn bình yên,
Còn người tàn phá chẳng nên cầm lòng.
Tiếng rằng: ngày đói tháng đông, |
325. |
Ở
phải có nhân có nghì,
Thơm danh vả lại làm bia miệng người.
Hiền lành lấy tiếng với đời,
Lòng người yêu dấu, là trời hộ ta.
Tai ương hoạn nạn đều qua, |
330. |
Bụi
trần giũ sạch thực là từ đây.
Vàng trời tuy chẳng trao tay,
Bình an hai chữ xem tày mấy mươi.
Mai sau bạc chín tài mười,
Sống lâu ăn mãi của đời về sau. |
335. |
Kìa
người ăn ở cơ cầu,
Ở thì chẳng biết về sau phòng mình,
Thấy ai đói rách thì khinh,
Cách nào là cách ích mình
thì khen.
Hứng tay dưới với tay trên, |
340. |
Lọc
lừa từng tí, bon chen từng đồng!
Ở thì phất giấy đan lồng,(*)
Nói thì mở miệng như rồng như tiên.(*)
Gan thì quá ngỡ sắt đèn,
Miệng thơn thớt nghĩ rơi tiền bạc ra. |
345. |
Mặt
lành khéo nói thực thà,
Tưởng như xẻ cửa xẻ nhà cho nhau.
Ở nào mùi mẽ chi đâu,
Như tuồng cuội đất giấu đầu hở đuôi.
Nói lời lại nuốt lấy lời, |
350. |
Một
lưng bát xáo mười voi chưa đầy.(*)
Cho nên mới phải lúc này:
Cửa nhà tàn phá phút rày sạch trơn.
Kẻ thì mắc phải vận nàn,
Cửa nhà một khắc lại tàn như tro. |
355. |
Kẻ
thì phải lính, phải phu,
Đem mình vào chốn quân gia trận tiền.
Kẻ thì mắc phải dịch ôn,
Kẻ thì thủy hỏa gian nan kia là!(*)
Thấy người mà phải lo ta, |
360. |
Sờ
sờ trước mắt thực là thương thay,
Khuyên ai chớ bắt chước rày,
Ở lòng nhân nghĩa cho đầy mới khôn.
Lời cha dạy bảo nỉ non,
Trước sau ghi chép khuyên con nghe lời. |
365. |
Nghe
thì mới phải là người,
Chẳng nghe thì cũng là đời bỏ đi. |
Dạy Con Gái Phải Có Đức Hạnh
|
|
Phận
làm gái ở cùng cha mẹ,
Lòng phải chăm học khéo học khôn,
Một mai xuất giá hồi môn,(*) |
370. |
Phận
bồ liễu giá trong như
ngọc,
Khéo là khéo bánh trong, bánh lọc,
Lại ngoan nghề dệt vóc, may mền.
Khôn là khôn lẽ phải, đường tin,
Lại trọn đạo nâng khăn sửa túi. |
375. |
Khôn
chẳng tưởng mưu lừa chước dối,
Khéo chẳng khoe vẻ lịch, chiều trai.
Xưa nay hầu dễ mấy người,
Miệng khôn, tai khéo cho ai được nhờ.
Phận làm gái này lời giáo huấn, |
380. |
Lắng
tai nghe cổ truyện mới nên,
Hãy xem xưa những bậc dâu hiền,
Kiêm tứ đức: dung, công, ngôn, hạnh,
Công là đủ mùi xôi, thức bánh,
Nhiệm nhặt thay đường chỉ mũi kim. |
385. |
Dung
là nét mặt ngọc trang nghiêm,
Không tha thiết, không chiều lả tả.
Ngôn là dạy trình thưa vâng dạ,
Hạnh là đường ngay thảo kính tin.
Xưa nay mấy kẻ dâu hiền, |
390. |
Dung,
công, ngôn, hạnh là tiên phàm trần.
Phận con gái ở nhà thi lễ,
Lắng mà nghe kể chuyện tam cương:
Dẫu ái ân cùng chiếu cùng giường,
Đạo chồng sánh quân thân chi đạo,(*) |
395. |
Làm
tôi con chỉ trung chỉ hiếu,(*)
Làm dâu thì chỉ kính mới nên.(*)
Chớ khoe khoang mình bạc mình tiền,
Đừng đỏng đảnh cậy khôn cậy khéo.
Bề thiếp phụ thuận tòng là điệu, |
400. |
Cũng
như bên thờ chúa thờ cha,
Muôn nghìn đừng thói kiêu ngoa,
Mắng ta không giận, yêu ta không nhờn.
Quyền mệnh phụ là
mình làm chủ,
Trong đại hôn áo mũ thân nghênh,(*) |
405. |
Kính
người vợ phép ở Lễ Kinh.
Chức phận phải chăm bề tần tảo,
Trong khuê khổn giữ
gìn khăn áo,
Trên từ đường trăm việc trơn tru.
Từ cơm, canh, cá, thịt, mọi đồ, |
410. |
Dẫu
nhiều ít sửa cho trong sạch. |
|
Bằng
nhường ấy thần minh lai cách,(*)
Câu "hữu trai" nên tiếng để
đời,
Hoa thơm ai nỡ bỏ rơi,
Người khôn ai nỡ nặng lời đến ai. |
415. |
Bề
nội trợ việc trong xem
xét,
Siêng năng thì trăm việc đều nên,
Chớ khoe khoang lắm thóc nhiều tiền,
Ngồi ăn mãi non mòn núi lở.
Việc nhà có kẻ ăn người ở, |
420. |
Từ
trong ngoài như bảo trước sau,
Đồ làm ăn, ngày để đâu đâu,
Ban tối phải thu về cho đủ.
Trống canh một chớ đà vội ngủ,
Siêng năng thì chăm chú việc ta. |
425. |
Lũ
nô tỳ trai gái năm ba,
Cơm chưa chín không nên khua xáo.
Đứa xay thóc, đứa thì giã gạo,
Đứa bếp thì chủ việc cơm.
Ăn đoạn rồi cho chúng nghỉ ngơi, |
430. |
Đèn
ta sẽ soi trong bếp lại.
Đừøng tin trẻ tôi đòi thơ dại,
Lời dạy răn: "giữ lửa chẳng chơi".
Cho hay đại phú bởi trời,(*)
Nhưng mà ở thế thì người hết chê. |
435. |
Cầm
then khóa giữ bề thu phát,
Chắt chiu mà dè dặt mới nên,
Coi sóc từ hạt gạo đồng tiền,
Đừng cậy có ăn càn, tiêu dở.
Bữa thường phải xem cho con ở, |
440. |
Cũng
đừng thừa, chớ thiếu làm chi.
Kẻ lân bang đến một
đôi khi,
Đồ thết đãi xem cho tử tế.
Trong nhà phải bảo nhau có ý,
Đừng chửi mèo, mắng chó mà chi. |
445. |
Trong
anh em thiên tải nhất thì.(*)
Sang vì vợ nhưng giàu vì bạn.
Chiều rộng hẹp tùy cơ ứng biến,(*)
Đạo trì gia đãi khách khác màu,
Trần trần một mực nên đâu, |
450. |
Phô
loài bồ các biết đâu lẽ gì,(*)
Phận là gái về làm dâu cả,
Việc ta chăm giữ chốn từ đường,
Lấy ngọn tần, lá tảo lễ thường,
Kìa hiếu dưỡng Thành Chu gia pháp.(*) |
455. |
Tôn tộc đến những khi kỵ lạp,
Xem bằng nhường quí khách, gia tân.(*)
Có chữ rằng: "đạo trọng thân thân",
Dễ mấy thủa đông như ngày giỗ.
Lúc lễ tất lẻn vào dọn cỗ, |
460. |
Hãy
pha trà tiếp đãi cho xong,
Bữa thường dù dưa muối mặc lòng,
Khi có họ xem cho tử tế,
Nước đã đoạn rượu liền nhân thể,
Giục tiểu hầu bưng cỗ tiếp ra. |
465. |
Nhà
dưới ta mời họ đàn bà,
Coi sóc hỏi họ hàng con cháu.
Không bỏ sót là tình yêu dấu,
Ai chẳng khen hiền đức phụ nhân,(*)
Trọn đời đẹp mặt phu nhân, |
470. |
Vì
chưng chủ phụ thân thân biết điều.
Bề phụng dưỡng đôi bên cha mẹ,
Muôn một khi đá đổ bồ hôi,
Nghĩ xa lo đứng lo ngồi,
Chẳng còn tưởng đến tham công tiếc việc. |
475. |
Đường
điều hộ tiền không
dám tiếc,
Mặc phu quân giữ việc thuốc
thang,
Song ta nâng giấc giữ giàng,
Điều ăn uống phải hỏi han tùy thích.
Lòng người ước chim, gà, cá, thịt, |
480. |
Của
nên ăn dù đắt cũng mua.
Tùy người ưa thức ngọt chua,
Nhưng gia vị phải mong cho đủ mùi.
Xem quần áo nên thay kẻo bẩn,
Lòng yêu thân phải cẩn từng khi, |
485. |
Tấm
lòng trời đất chứng tri,
Dâu hiền có hiếu, tiếng ghi để đời.
Này con gái thuộc về khôn đạo,
Khôn đức nhu nết
gái dịu dàng,
Một đôi khi chân bước ra đường, |
490. |
Bề
tôn trưởng thì lòng kính nhượng.(*)
Dù chẳng phải là ta hơi hướng,
Nghĩa hương lân phải cất
tiếng chào.
Bằng thấy người đầu bạc tuổi cao,
Có mang đội trình đòi nâng đỡ. |
495. |
Thì
miệng lưỡi chê bai ai nỡ,
Ở trên đời gái ở nết na,
Con hiền đẹp mặt mẹ cha,
Chồng hòa yêu chuộng, họ hòa kính chung. |
|
Dạy
những kẻ đàn
bà con gái, |
500. |
Gặp
phải chồng cờ bạc rượu chè,
Nay ông tơ, bà nguyệt trót xe,
Duyên phận ấy trót làm sao được.
Ở là phải tìm mưu giả chước,
Ngọt lời khuyên lâu cũng phải nghe, |
505. |
Lúc
ham mê cơm rượu say nhè,
Hãy cơm cháo trọn bề phụ đạo.
Chớ vợ nghiến chồng, thêm trân tráo,
Như chuyện chi lửa cháy dầu thêm,
Chẳng bằng khi chăn ấm chiếu êm, |
510. |
Hãy
năn nỉ đường khôn lẽ phải.
Bề ân ái vợ chồng là ngãi,
Dẫu giàu ăn, khó chịu cho cam.
Hay gì yến bắc, nhạn nam,
Khăng khăng một tiết cho cam sở nguyền. |
515. |
Đạo
vợ chồng là duyên kim cải,
Vốn trời sinh bể ái nguồn ân,
Kìa ai nổi trận phong vân,
Cũng vì gái nhiều phần nhầm lỗi.
Phận là gái ít đường giao hối , |
520. |
Thấy
chồng yêu dễ lấy làm nhờn,
Miệng sai ngoa nói những giọng càn,
Bụng kiêu ngạo một ngày một sính,
Đạo cha mẹ đã không biết kính,
Bề anh em lại chẳng hay nhường, |
525. |
Chua
chát thay những tính cương cường.
Ai là đá ru mà chịu vậy ! |
|
Đường
gia pháp không
ăn lời dạy,
Việc giáo hình đến
phải ra tay,
Hổ thân tiếng khắp đông tây, |
530. |
Nông
nỗi ấy hết đương khôn khéo.
Khuyên những các đào tơ liễu yếu,
Lấy làm gương chớ bắt chước chi,
Một niềm kính thuận vô vi,
Trước là khỏi nhục, sau thì nên danh, |
535. |
Thương
những kẻ đàn
bà mất dạy,
Lại gặp chồng sợ vợ như ma,
Trách chi mà chẳng thói kiêu ngoa,
Những lừa cạnh, phô sòng, làm lệ.
Bề họ mạc không hay kính nể, |
540. |
Nghĩ
bon chen tiền bạc là khôn,
Đ ường gia tài khôn biết vén vun,
Nghĩ tha thướt áo quần là khéo,
Gà eo óc, phòng loan uốn éo,
Bầng mắt ra đã tỏ vầng ô, |
545. |
Việc
trong ngoài khí dụng các đồ,
Mặc con cái gặp sao hay vậy,
Bề nội ngoại những phô loài ấy.
Phúc đức kia còn nói làm chi,
Khen cho bà nguyệt khéo xe, |
550. |
Anh
này sánh với chị kia đương vừa. |
Vợ Khuyên Chồng
|
|
Vợ
chồng ta tơ hồng vấn vít,
Nhân duyên này bà nguyệt khéo xe.
Trình anh thân thiếp vụng về,
Yêu thì nên tốt chớ nề ngu si. |
555. |
Quản
bao lỗi nọ, lầm kia,
Chiều thanh vẻ quí dám bì được đâu.
Thiếp vâng lời dạy trước sau,
Nguyện xem then khóa, giữ hầu áo khăn.
Trước là thờ phụng tiền nhân, |
560. |
Sớm
thăm tối viếng ân cần đỡ anh.(*)
Bốn phương chàng hãy kinh doanh,
Dùi mài kinh sử tập tành cung tên.
Công danh mong đợi ơn trên,
Còn trong trần lụy hãy xin dấu
mầu. |
565. |
Gửi
trình dễ dám khuyên đâu,
Sắc phòng thương thận, rượu hầu thương tâm,(*)
Thiếp xin chàng chớ đăm đăm,
Những nơi cờ bạc chớ ham làm gì.
Thế gian lắm kẻ điên mê, |
570. |
Áo
quần lam lũ người thì như ma.
Thiếp xin chàng lánh cho xa,
Một niềm trung hiếu để mà lập thân.
Bấy lâu những đợi long vân,
Đào thơ, liễu yếu gửi thân anh hùng.(*) |
575. |
Xưa
nay gái đội ơn chồng,
Hiển vinh bõ lúc cơm sung, cháo dền.
Ơn trời công đã được đền,
Chàng nên quan cả, thiếp nên hầu bà! |
Dạy Học Trò Ở Cho Phải Đạo
|
|
Nào
là những kẻ học trò, |
580. |
Nghe
lời thầy dạy phải lo sửa mình.
Nghĩa cha sinh cùng công mẹ dưỡng,
Thời đêm
ngày tư tưởng chớ khuây,
Hai công đức ấy nặng thay,
Xem bằng bể rộng, coi tày trời cao! |
585. |
Trình
vâng từ tốn ngọt ngào,
Đi về thưa thốt, ra vào thăm lênh.
Bánh quà, cá thịt, cơm canh,
Sớm trưa thay đổi để dành hẳn hoi.
Bữa thường dâng ngọt dâng bùi, |
590. |
Nâng
niu chào hỏi chẳng sai đâu là.
Nghĩ công khó nhọc nuôi ta,
Đến ngày cả lớn mong cho vuông tròn,
Kể từ lúc hãy còn thai dựng,
Đến những khi nuôi nấng giữ giàn. |
595. |
Nặng
nề chín tháng cưu mang,
Công sinh bằng vượt bể sang nước người.
Đoạn thôi lúc ấy vừa rồi,
Ấp ôm bú mớm chẳng rời trên tay.
Mong cho biết ngửa biết ngây, |
600. |
Biết
chuyện biết hóng chẳng khuây bao giờ,
Ngày trứng nước, thủa ngây thơ.
Bao giờ sài ghẻ bấy giờ lại lo.
Lo cho biết lẫy, biết bò,
Mong cho biết đứng, mong cho biết ngồi. |
605. |
Đoạn
rồi lại lo khi xảy đậu,
Công, dại, ngây, thơ ấu, u ơ.
Ba năm nhũ bộ còn thơ,
Kể công cha mẹ biết cơ ngần nào?
Chữ rằng "sinh ngã cù lao",(*) |
610. |
Bể
sâu khôn ví, trời cao khôn bì.
Nhưng mà gặp buổi bình thì,
Tiền trăm, bạc chục việc gì mà lo!
Hay là gặp cửa nhà giàu,
Của chìm của nổi dễ hầu lo chi! |
615. |
Song
ta vốn đã hàn vi,
Lại sinh ra gặp phải thì can qua.
Đòi khi kém đói thiết tha,
Bán buôn tần tảo cho qua lúc này.
Việc nhà việc cửa chuyên tay, |
620. |
Khi
đêm
quên ngủ, khi ngày quên ăn. |
|
Ngược
xuôi gánh vác nhọc nhằn,
Chân le, chân vịt nào phần khoan thai.
Hình dung ăn mặc lôi thôi,
Áo thời xốc xếch, khố thời đuôi nheo. |
625. |
Gian
nan đòi đoạn ngặt nghèo,
Mà cho con học có chiều bao dong.
Thế gian mấy kẻ có lòng,
Có công trời hẳn dành công để chờ.
Bây giờ loạn lạc bơ vơ, |
630. |
Cơ
trời bĩ thái nắng mưa là thường.
Khuyên con học lấy văn chương,
Có bên nghĩa lý, có đường hiển vinh .
Loạn rồi lại có khi bình,
Khi bình ta hãy cá kình giương vây. |
635. |
Say
sưa kinh sử chớ khuây,
Sắt mài ắt hẳn có ngày nên kim.
Mãi Thần kia mới
là gan,
Trèo non kiếm củi, đốt than dãi dầu.
Bể thánh sâu, cố gia công lội, |
640. |
Rừng
nho gai, thẳng lối xông pha,
Ba năm chợt đổi khôi khoa,
Sân rồng ruổi ngựa, đường hoa giong cờ.
Trần Bình nhà
bạc cửa thưa,
Đói no chẳng quản, muối dưa chẳng nề. |
645. |
Đọc
sách là chí nam nhi,
Giúp Lưu trót đã lục kỳ nên công.(*)
Lọng giương, ngựa cưỡi, xe giong,
Bể sâu cá nhảy vẫy vùng bõ khi.
Ấy là thuở trước nam nhi, |
650. |
Bây
giờ đèn
sách sớm khuya thế nào?
Chữ rằng: " loạn độc thư cao",(*)
Khi nên cũng thế, khác nào người xưa.
Nắng lâu cũng có khi mưa,
Trồng dưa thì lại được dưa nệ gì.(*) |
655. |
Mai
ngày treo biển tên đề,
Khôi khoa lại được gặp kỳ thánh minh.
Lộc trời, tước nước hiển vinh,
Báo đền đôi đức dưỡng sinh bấy chầy.
Bõ khi nghèo khổ chua cay, |
660. |
Bõ
khi đèn
sách, bõ ngày gian truân.
Bệ rồng gang tấc chín lần,
Trong triều mực thước, ngoài dân quyền hành. |
|
Một
triều là một thanh danh,
Bởi chưng có chí học hành thì nên. |
665. |
Bao
nhiêu là gái thuyền quyên,
Lưng ong má phấn cũng chen chân vào.
Đã má đỏ, lại má đào,
Thơm tho mùi xạ ngạt ngào mùi hương.
Đủ mùi những thức cao lương, |
670. |
Sơn
hào hải vị bữa thường đổi trao.(*)
Lợn quay, xôi gấc, chè tàu,
Ai ai là chẳng đến hầu làm tôi.
Quạt lông, gối xếp, thảnh thơi,
Một lời dạy đến, trăm người dạ vâng. |
675. |
Tiếng
đàn,
tiếng địch, tưng bừng,
Câu thơ, câu phú lại dâng chén quỳnh.
Trong ngoài quan khách linh đình,
Treo chông nội thất, truyền sênh công đường.
Phấn trần, tranh cánh, giá gương. |
680. |
Khi
buông màn vóc, khi giường chiếu hoa.
Người hầu, người hạ, nhởn nhơ,
Thắm chen vẻ tía, vàng pha màu hồng.
Nhà ngang dãy dọc trùng trùng,
Hầu non: con mới, tiểu đông: thằng tranh. |
685. |
Trai
khoe lịch, gái khoe thanh,
Ra vào hài hán, chung quanh dập dìu !
Giàu sang khác vẻ trăm chiều,
Vì ơn cha mẹ lắm điều vì ta.
Nghĩa thứ ba là trong thầy tớ, |
690. |
Dạy
mấy lời phải nhớ đinh ninh.
Nghĩa dưỡng sinh hiếu trung là thế
Đ ường công danh có chí thì nên. |
Khuyên Học Trò Phải Chăm Học
Bước lên đường vào cửa ung dung,
695. |
Trăm
quan, tôn miếu, lạ lùng,(*)
Học hành cho biết thủy chung tỏ tường.
Bẩm phi thường khác hơn mọi vật,
Ắt làm người thời chẳng hư sinh.
Phú cho tai mắt thông minh,(*) |
700. |
Tính
tình gồm đủ kiếp sinh vẹn tuyền.
Bực thánh hiền ấy không dám ví,
Song làm người có chí thì nên,
Khai tâm từ thủa thiếu niên,
Hiếu kinh tiểu học trước liền cho thông.(*) |
705. |
Đọc
cho đến Trung dung, Đại học,(*)
Tứ thư rồi lại đọc ngũ Kinh,
Thi, Thư, Dịch, Lễ, đều tinh,
Xuân thu nghĩa cả cho minh nghiệp nhà.
Xem cho đến Bách gia, Chư tử,(*) |
710. |
Bảy
mươi pho sử đều thông,
Sớm khuya ở chốn văn phòng,
Bút nghiên, giấy mực bạn cùng chân tay.
Bài kinh nghĩa cùng
bài văn sách,
Tinh phú, thơ, mọi vẻ văn
chương. |
715. |
Một
đèn,
một sách, một giường,
Có công mài sắt có ngày nên kim.
Học trò giữ chính tâm
làm trước,
Với tu, tề, bình, trị đều yên,(*)
Cương thường giữ hiếu
làm nên, |
720. |
Từ
đoan, ngũ giáo cho tuyền công sinh.
Bề đạo đức, gia đình phải giảng,
Phủ thiên quân quang đãng tinh vi.(*)
Lý cho cách vật, trí tri,
Trong thì dưỡng đức, ngoài
thì tu thân.
-------------------------Hết --------------------
|
|