|
Việt
Nam Văn Hiến
Năm
Thứ 4888
www.vietnamvanhien.org
www.vietnamvanhien.net
Việt Nam Sử Lược
Trần Trọng Kim
Chương
14
Mười Năm Đánh Quân Tàu
( 1418 - 1427 )
1.
Lê Lợi khởi nghĩa ở Lam Sơn
2. Về Chí Linh lần thứ nhất
3. Về Chí Linh lần thứ hai
4. Bình Định Vương về đóng Lư Sơn
5. Bình Định Vương về đóng Lỗi Giang
6. Nguyễn Trãi
7. Bình Định Vương phá quân Trần Trí
8. Về Chí Linh lần thứ ba
9. Bình Định Vương hết lương phải hòa với giặc.
10. Bình Định Vương lấy đất Nghệ An
11. Vây thành Tây Đô
12. Lấy Tân Bình và Thuận Hóa
13. Quân Bình Định Vương tiến ra Đông Đô
14. Trận Tụy Động: Vương Thông thất thế
15. Vây thành Đông Đô
16. Vương Thông ước hòa lần thứ nhất
17. Bình Định Vương đóng quân ở Bồ Đề
18. Bình Định Vương đặt pháp luật để trị quân
dân
19. Trận Chi Lăng: Liễu Thăng tử trận
20. Vương Thông xin hòa lần thứ hai
21. Trần Cao dâng biểu xin phong
22. Tờ Bình Ngô Đại Cáo
1. Lê Lợi Khởi Nghĩa ở Lam Sơn.
Từ khi nhà Minh sang cai trị An Nam, dân ta phải khổ nhục
trăm đường, tiếng oan không kêu ra được, lòng tức
giận ngấm nghía ở trong tâm can, chỉ mong mỏi ra cho khỏi
đống than lửa. May lúc ấy có một đấng anh hùng nổi
lên, kéo cờ nghĩa để chống với giặc Minh, trong 10 năm ấy
lại được giang sơn cũ, và xây đắp lại nền độc lập cho nước
Nam.
Đấng anh hùng ấy, người ở làng Lam Sơn, huyện Thụy
Nguyên, phủ Thiệu Hóa, tỉnh Thanh Hóa, họ Lê,
tên là Lợi. Đã mấy đời làm nghề canh
nông, nhà vẫn giàu có, lại hay giúp
đỡ cho kẻ nghèo khó, cho nên mọi người đều phục,
và những tôi tớ ước có hàng nghìn
người. Ông Lê Lợi khẳng khái, có chí
lớn, quan nhà Minh nghe tiếng, đã dỗ cho làm quan,
nhưng ông không chịu khuất, thường nói rằng: "
Làm trai sinh ở trên đời, nên giúp nạn lớn,
lập công to, để tiếng thơm muôn đời, chứ sao lại chịu bo bo
làm đầy tớ người ta!" Bèn giấu tiếng ở chỗ sơn lâm,
đón mời những kẻ hào kiệt, chiêu tập những kẻ lưu
vong.
Đến mùa xuân năm mậu tuất (1418) đời vua Thành Tổ
nhà Minh, niên hiệu Vĩnh Lạc thứ 16, ông Lê
Lợi cùng với tướng là Lê Thạch, Lê Liễu khởi
binh ở núi Lam Sơn, tự xưng là Bình Định Vương,
rồi truyền hịch đi gần xa kể tội nhà Minh để rõ
cái mục đính của mình khởi nghĩa đánh kẻ
thù của nước.
Việc đánh giặc Minh tuy là thuận lòng người
và hợp lẽ công bằng, nhưng mà thế lực của
Bình Định Vương lúc đầu còn kém lắm, tướng
sĩ thì ít, lương thực không đủ. Dẫu có
dùng kế đánh được đôi ba trận, nhưng vẫn
không có đủ sức mà chống giữ với quân nghịch,
cho nên phải về núi Chí Linh 74
ba lần, và phải nguy cấp mấy phen, thật là gian
truân vất vả. Sau nhờ hồng phúc nước Nam, Bình Định
Vương lấy được đất Nghệ An, rồi từ đó mới có thể vẫy
vùng, đánh ra mặt Bắc, lấy lại được giang sơn nước
nhà.
2. Về Chí Linh Lần Thứ
Nhất.
Khi quan nhà Minh là Mã Kỳ ở Tây Đô,
nghe tin Bình Định Vương nổi lên ở núi Lam Sơn,
liền đem quân đến đánh. Vương sang đóng ở
núi Lạc Thủy (Cẩm Thủy, phủ Quảng Hóa) để đợi quân
Minh. Đến khi quân Mã Kỳ đến, phục binh của Vương đổ ra
đánh, đuổi được quân nghịch, nhưng vì thế yếu lắm
chống giữ không nổi, Vương phải bỏ vợ con để giặc bắt được, đem
bại binh chạy về đóng ở núi Chí Linh.
3. Về Chí Linh Lần Thứ Hai.
Tháng tư năm kỷ hợi (1419) Bình Định Vương lại ra
đánh lấy đồn Nga Lạc (thuộc huyện Nga Sơn, Thanh Hóa)
giết được tướng nhà Minh là Nguyễn Sao, nhưng quân
của Vương bấy giờ hãy còn ít, đánh
lâu không được, lại phải rút về Chí Linh.
Quan nhà Minh biết rằng Chí Linh là chỗ
Bình Định Vương lui tới, bèn đem binh đến vây
đánh. Vương bị vây nguy cấp lắm, mới hỏi các tướng
rằng: Có ai làm được như người Kỷ Tín ngày
trước chịu chết thay cho vua Hán Cao không? Bấy giờ
có ông Lê Lai liều mình vì nước, xin
mặc thay áo ngự bào cưỡi voi ra trận đánh nhau với
giặc. Quân nhà Minh tưởng là Bình Định Vương
thật, xúm nhau lại vây đánh, bắt được giết đi rồi
rút quân về Tây Đô.
4. Bình Định Vương Về
Đóng Lư Sơn.
Vương nhờ có ông Lê Lai chịu bỏ mình cứu
chúa, mới trốn thoát được nạn lớn, rồi một mặt cho người
sang Ai Lao cầu cứu, một mặt thu nhặt những tàn quân về
đóng ở Lư Sơn (ở phía tây châu Quan
Hóa).
Ngay năm ấy, ở Nghệ An có quan tri phủ là Phan Liêu
làm phản nhà Minh; ở Hạ Hồng có Trịnh Công
Chứng, Lê Hành; ở Khoái Châu có Nguyễn
Đặc; ở Hoàng Giang có Nguyễn Đa Cấu, Trần Nhuế; ở Thủy
Đường có Lê Ngà, nổi lên làm loạn,
quân nhà Minh phải đi đánh dẹp các nơi cho
nên Bình Định Vương ở vùng Thanh Hóa cũng
được nhân dịp mà dưỡng uy súc nhuệ.
5. Bình Định Vương Về
Đóng Lỗi Giang.
Năm canh tí (1420) Bình Định Vương đem quân ra
đóng ở làng Thôi, định xuống đánh Tây
Đô, tướng nhà Minh là Lý Bân được tin
ấy, đem quân đến đánh, đi đến chỗ Thi Lang, bị phục binh
của Vương đánh phá một trận, quân Minh bỏ chạy.
Vương lại đem quân lên đóng ở Lỗi Giang 75 và
ở đồn Ba Lậm. Quân Minh phải lùi về đóng ở Nga Lạc
và Quan Du để phòng giữ Tây Đô.
6. Nguyễn Trãi.
Khi Bình Định Vương về
đánh ở Lỗi Giang, thì có ông Nguyễn
Trãi 76 , vào yết kiến, dâng bài sách
bình Ngô, vua xem lấy làm hay, dùng
ông ấy làm tham mưu.
Ông Nguyễn Trãi là con ông Bảng Nhãn
Nguyễn Phi Khanh. Đời nhà Hồ, ông đã thi đỗ tiến sĩ
(1400). Khi ông Nguyễn Phi Khanh bị nhà Minh bắt về Kim
Lăng, ông theo khóc, lên đến cửa Nam Quan
không chịu trở lại. Ông Phi Khanh bảo rằng: " Con phải trở
về mà lo trả thù cho cha, rửa thẹn cho nước, chứ đi theo
khóc lóc mà làm gì ? " Từ đó
ông trở lại, ngày đêm lo việc phục thù. Nay
ra giúp Bình Định Vương, bày mưu định kế để lo sự
bình định.
7. Bình Định Vương
Phá Quân Trần Trí.
Đến tháng 11 năm tân sửu (1421) tướng nhà Minh
là Trần Trí đem mấy vạn quân đến đánh
Bình Định Vương ở đồn Ba Lậm, lại ước với người Lào sang
cùng đánh hai mặt. Vương mới hội các tướng lại
bàn rằng: Quân kia tuy nhiều nhưng ở xa đến, còn
đang nhọc mệt, ta nên đưa quân ra đón đành
tất là phải được. Bàn xong, đến đêm đem quân
vào cướp trại Minh, giết được hơn 1.000 người. Trần Trí
thấy vậy giận lắm, sáng hôm sau truyền lệnh kéo
toàn quân đến đánh. Quân An Nam đã
phục sẳn trước, thấy quân Minh đến, liền đổ ra đánh hăng
quá, quân Minh lại phải lui về.
Đang khi hai bên còn đối địch, có ba vạn người
Lào giả xưng sang làm viện binh cho Bình
Đình Vương. Vương không biết là dối, quân
Lào nửa đêm kéo đến đánh, tướng của Vương
là Lê Thạch bị tên bắn chết. Nhưng mà
quân ta giữ vững đồn trại, quân Lào phải lùi
về.
8. Về Chí Linh Lần Thứ
Ba.
Sang năm sau là năm nhâm dần (1422) Bình Định Vương
tự đồn Ba Lậm tiến lên đánh đồn Quan Gia, bị quân
Minh và quân Lào hai mặt đánh lại, phải thua
chạy về giữ đồn Khôi Sách. Quân Minh và
quân Lào thừa thế đổ đến vây kín bốn mặt.
Vương thấy thế nguy quá, mới bảo các tướng rằng:
"Quân giặc vây kín rồi, nếu không liều sống
chết đánh tháo lấy đường chạy ra, thì chết cả !"
Quân sĩ ai nấy đều cố sức đánh phá, quân giặc
phải lùi. Vương lại đem quân về núi Chí
Linh.
Từ khi Bình Định Vương đem binh về Chí Linh, lương thực
một ngày một kém, trong hai tháng trời quân
sĩ phải ăn rau ăn cỏ có bao nhiêu voi ngựa làm thịt
ăn hết cả. Tướng sĩ mỏi mệt, đều muốn nghỉ ngơi, xin Vương hãy
tạm hòa với giặc. Vương bất đắc dĩ sai Lê Trăn đi xin
hòa. Quan nhà Minh bấy giờ thấy đánh không
lợi, cũng thuận cho hòa.
9. Bình Định Vương Hết
Lương Phải Hòa Với
Giặc.
Năm quý mão (1423) Bình Định Vương đem quân
về Lam Sơn. Bấy giờ tướng nhà Minh là bọn Trần
Trí, Sơn Thọ thường hay cho Vương trâu, ngựa, cá
mắm và thóc lúa; Vương cũng cho Lê Trăn đưa
vàng bạn ra tạ. Nhưng sau bọn Trần Trí ngờ có bụng
giả dối, bắt giữ Lê Trăn lại, không cho về, vì vậy
Vương mới tuyệt giao không đi lại nữa, rồi đem quân về
đóng ở núi Lư Sơn.
10. Bình Định Vương
Lấy Đất Nghệ An.
Năm giáp thìn (1424) Bình Định Vương hội
các tướng bàn kế tiến thủ. Quan thiếu úy là
Lê Chích nói rằng: " Nghệ An là đất hiểm
yếu, đất rộng người nhiều, nay ta hãy vào lấy Trà
Long (phủ Tương Dương) rồi hạ thành Nghệ An, để làm chỗ
trú chân đã, nhiên hậu sẽ quay trở ra
đánh lấy Đông Đô, như thế thiên hạ có
thể bình được."
Vương cho kế ấy là phải, bèn đem quân về nam,
đánh đồn Đa Căng, tướng nhà Minh là Lương Nhữ Hốt
bỏ chạy.
Lấy được đồn Đa Căng rồi, Vương tiến quân vào đánh
Trà Long, đi đến núi Bồ Liệp, ở phủ Quì
Châu, gặp bọn Trần Trí, Phương Chính đem binh đến
đánh, Vương bèn tìm chỗ hiểm phục sẳn; khi
quân Minh vừa đến, quân ta đổ ra đánh, chém
được tướng nhà Minh là Trần Trung, giết được sĩ tốt hơn
2.000 người, bắt được hơn 100 con ngựa. Quân Minh bỏ chạy, Vương
đem binh đến vây đánh Trà Long. Quan tri phủ
là Cầm Bành chờ cứu binh mãi không được,
phải mở cửa thành ra hàng.
Từ khi Bình Định Vương khởi nghĩa cho đến giờ, đánh với
quân nhà Minh đã nhiều phen, được thua đã
trải qua mấy trận, nhưng quan nhà Minh vẫn lấy làm khinh
thường, cho nên không tâu về cho Minh Triều biết. Bấy
giờ Hoàng Phúc về Tàu rồi, vua nhà Minh sai
Binh Bộ Thượng Thư là Trần Hiệp sang thay.
Trần Hiệp thấy Bình Định Vương lấy được châu Trà
Long, thanh thế lừng lẫy, bèn vội vàng làm sớ
tâu cho vua nhà Minh biết. Minh Đế mới xuống chiếu
trách mắng bọn Trần Trí, Phương Chí, bắt phải dẹp
ngay cho yên giặc ấy. Bọn Trần Trí sợ hãi đem cả
thủy bô, cùng tiến lên đánh Bình Định
Vương.
Vương sai Đinh Liệt đem 1.000 quân đi đuờng tắt ra giữ Đỗ Gia 77
, còn Vương thì đem cả tướng sĩ đến ở mạn thượng du đất
Khả Lưu ở bắc ngạn sông Lam Giang (thuộc huyện Lương Sơn), rồi
tìm chỗ hiểm yếu phục binh để đợi quân Minh.
Khi quân Minh đã đến Khả Lưu, Vương bèn sai người
ban ngày thì kéo cờ đánh trống, ban
đêm thì bắt đốt lửa để làm nghi binh, rồi cho binh
sang bên kia sông phục sẵn. Sáng hôm sau
quân Minh tiến lên bị phục binh bốn mặt đổ ra đánh,
tướng nhà Minh là Chu Kiệt phải bắt, Hoàng
Thành phải chém, còn quân sĩ bỏ chạy cả.
Trần Trí phải thu quân về giữ thành Nghệ An.
Tháng giêng năm ất tị (1425) Vương đem binh về đánh
thành Nghệ An, đi đến làng Đa Lôi ở huyện Thổ Du
(bây giờ là huyện Thanh Chương) dân sự đưa
trâu đưa rượu ra đón rước, già trẻ đều nói
rằng: không ngờ ngày nay lại thấy uy nghi nước cũ. Bấy giờ
lại có quan tri phủ Ngọc ma (phủ Trấn Định) là Cầm
Quý đem binh mã về giúp.
Vương bèn xuống lệnh rằng: "Dân ta lâu nay đã
phải khổ sổ về chính trị bạo ngược của người Tàu,
quân ta đi đến đâu cấm không được xâm phạm đến
chút gì của ai. Những gạo thóc trâu
bò mà không phải là của người nhà
Minh thì không được lấy". Đoạn rồi, phân binh đi
đánh lấy các nơi, đi đến đâu các quan
châu huyện ra hàng cả, đều tình nguyện đi
đánh thành Nghệ An. Vương bèn đem quân về
vây thành; quân Minh hết sức giữ gìn
không dám ra đánh.
Đương khi vây đánh ở Nghệ An, tướng nhà Minh
là Lý An ở Đông Quan đem quân đi dường bể
vào cứu. Quân của Trần Trí ở trong thành
cũng đổ ra đánh, Vương nhử quân Minh đến cửa sông Độ
Gia, rồi dùng phục binh đánh tan quân giặc. Trần
Trí bỏ chạy về Đông Quan, còn Lý An
vào giữ thành, Vương lại đem quân về vây
thành.
11. Vây Thành
Tây Đô.
Đến tháng năm, Vương sai quan Tư Không là Đinh Lễ
đem binh đi đánh Diễn Châu, Đinh Lễ đi vừa đến nơi,
thì gặp tướng nhà Minh là Trương Hùng đem
300 chiếc thuyền lương ở Đông Quan mới vào, quân ở
trong thành ra tiếp, bị phục binh của Đinh Lễ đánh đuổi.
Bao nhiêu thuyền lương Đinh Lễ cướp lấy được cả, rồi đuổi Trương
Hùng ra đến Tây Đô. Bình Định Vương được tin
ấy liền sai Lê Sát và Lưu Nhân Chú đem
binh ra tiếp ứng Đinh Lễ. Đinh Lễ nhân dịp tiến lên
vây thành Tây Đô.
12. Lấy Tân Bình
và Thuận Hóa.
Qua tháng bảy, Vương sai quan Tư Đồ Trần Nguyên Hãn
78 , Thượng Tướng Lê Nỗ đem hơn một nghìn quân
vào lấy châu Tân Bình và châu
Thuận Hóa. Đi đến Bố Chính thì gặp tướng
nhà Minh là Nhâm Năng, hai bên đánh
nhau, quân nhà Minh bị phục binh đánh chạy tan cả.
Bấy giờ lại có đạo thủy quân của Lê Ngân đem
hơn 70 chiếc thuyền đi đường bể vào, Trần Nguyên
Hãn liền đem cả thủy bộ tiến lên đánh hạ được hai
thành ấy, mộ thêm mấy vạn tinh binh đưa ra đánh mặt
bắc.
Từ đây binh thế của Bình Định Vương một ngaymột mạnh,
các tướng tôn ngài lên làm "Đại
Thiên Hành Hóa", nghĩa là thay trời
làm mọi việc.
13. Quân Bình
Định Vương Tiến Ra Đông
Đô.
Năm bính ngọ (1426) Vương thấy tinh binh của nhà Minh ở
cả Nghệ An, ở ngoài Đông Đô không có
bao nhiêu người, bèn sai Lý Triện, Phạm Văn Xảo,
Trịnh Khả, Đỗ Bí ra đánh Quốc Oai, Quảng Oai, Gia Hưng,
Quý Hóa, Đà Giang, Tam Đái (Bạch Hạc),
Tuyên Quang để chặn đường viện binh ở Vân Nam sang. Sau Lưu
Nhân Chú và Bùi Bị ra đánh
Thiên Trường, Kiến Xương, Tân Hưng, Thượng hồng
(Bình Giang), Hạ Hồng (Ninh Giang), Bắc Giang, Lạng Giang để
chặn đường viện binh ở Lưỡng Quảng sang. Lại sai Đinh Lễ, Nguyễn
Xí đem binh đi thẳng ra đánh Đông Quan.
Quân của Bình Định Vương đi đến đâu giữ kỷ luật rất
nghiêm, không xâm phạm đến của ai chút
gì, cho nên ai ai cũng vui lòng theo phục. Bọn
Lý Triện lấy được Quốc Oai và Tam Đái rồi đem
quân về đánh Đông Quan.
Quan tham tướng nhà Minh là Trần Trí đem binh ra
đóng ở Ninh Kiều 79 (phía tây phủ Giao Châu)
và ở Ứng Thiên (?) để chống giữ; quân Lý
Triện đến đánh, Trần Trí thua chạy về đóng ở
phía tây sông Ninh Giang (khúc trên
sông Đáy). Chợt có tin báo rằng có
hơn một vạn quân Vân Nam sang cứu. Lý Triện sợ để
hai đạo quân của Minh hợp lại thì khó đánh,
bèn bảo Phạm Văn Xảo đem hơn một nghìn người đi
đón chặn đường quân Vân Nam; còn mình
thì cùng với Đỗ Bí đem quân đến đánh
Trần Trí. Trần Trí thua chạy; bọn Lý Triện đuổi
đến làng Nhân Mục bắt được tướng nhà Minh là
Vi Lạng, chém được hơn 1.000, rồi lại quay trở về Ninh Giang hợp
binh với Văn Xảo để đánh quân Vân Nam.
Phạm Văn Xảo đến cầu Xa Lộc (?) thì gặp quân Vân Nam
sang, đánh một trận, quân nghịc thua chạy về giữ
thành tam giang.
Trần Trí thấy thế ở Đông Quan yếu lắm bèn viết thư
vào Nghệ An gọi Phương Chính đem binh ra cứu, để giữ lấy
chỗ căn bản. Phương Chính được thư bèn sai Thái
Phúc ở lại giữ thành Nghệ An, rồi đem quân xuống
thuyền đi đường bể ra Đông Quan.
Bình Định Vương nghe tin ấy, liền sai Lê Ngân,
Lê Văn An, Lê Bôi, Lê Thận, Lê Văn Linh ở
lại vây thành Nghệ An; Vương tự đem đại quân cả thủy
bộ Phương Chính ra bắc. Ra đến Thanh Hóa, Vương đem binh
vào đánh thành Tây Đô, nhưng
quân Minh giữ vững thành trì đánh
không được, Vương đem quân đến đóng ở Lỗi Giang.
14. Trận Tụy Động - Vương
Thông Thất Thế.
Từ khi Bình Định Vương ở Lư Sơn vào đánh Nghệ An
đến giờ, đánh đâu được đấy, thanh thế lừng lẫy, quân
Minh khiếp sợ, đem tin về cho Minh Triều biết, Minh Đế liền sai Chinh
Di Tướng Quân là Vương Thông và Tham Tướng
là Mã Anh đem 5 vạn quân sang cứu Đông Quan.
Trần Trí và Phương Chính thì phải
cách hết cả quan tước bắt phải theo quân đi đánh
giặc, còn Trần Hiệp thì cứ giữ chức Tham Tán
Quân Vụ.
Vương Thông sang đến đất Đông Quan hội tất cả quân sĩ
lại được mười vạn, cùng với bọn Trần Hiệp chia làm ba đạo
đi đánh Bình Định Vương.
Vương Thông đem quân đến đóng ở bến Cổ Sở (thuộc
huyện Thạch Thất, phủ Quốc Oai, Sơn Tây). Phương Chính
đóng ở Sa Thôi (thuộc huyện Từ Liêm), Mã Kỳ
đóng ở Thanh Oai, đồn lũy liên tiếp nhau một dãy
dài hơn mấy mươi dặm.
Bọn Lý Triện, Đỗ Bí ở Ninh Kiều đem quân và
voi đến phục ở Cổ Lãm, rồi cho quân đến đánh nhữ
Mã Kỳ. Mã Kỳ đem tất cả quân đuổi đến cầu Tam La (ở
giáp giới huyện Thanh Oai và huyện Từ Liêm),
quân phục binh của Lý Triện đổ ra đánh, quân
Minh thua chạy, nhiều người xuống đồng lầy, chạy không được, bị
chém hơn 1.000 người. Lý Triện đuổi quân Minh đến
Nhân Mục, bắt được hơn 500 người. Mã Kỳ một mình
một ngựa chạy thoát được.
Bọn Lý Triện thừa thắng tiến lên đánh đạo
quân Phương Chính. Nhưng Phương Chính thấy
Mã Kỳ đã thua cũng rút quân lui, rồi
cùng Mã Kỳ về hội với Phương Thông ở bến Cổ Sở.
Vương Thông liệu tất thế nào quân An Nam cũng đến
đánh, bèn phục binh và phòng bị trước cả.
Chợt có quân của Lý Triện đến. Quân Minh giả
ra đánh rồi bỏ chạy, nhử quân ta và chỗ hiểm
có chông sắt. Đi đến đấy, voi xéo phải chông
đi không được, rồi lại có phục binh đổ ra đánh,
Lý Triện thua chạy về giữ Cao Bộ (ở vùng Chương Đức, Mỹ
Lương) và cho người về Thanh Đàm (tức là huyện
Thanh Trì bây giờ) gọi bọn Đinh Lễ và Nguyễn
Xí đến cứu.
Đinh Lễ và Nguyễn Xí đem 3.000 quân và hai
con voi lập tức đêm hôm ấy đến Cao Bộ, rồi phân binh
ra phục sẵn ở Tụy Động (thuộc huyện Mỹ Lương) và ở Chúc
Động (thuộc huyện Chương Đức) 80 . Chợt bắt được tên thám
tử của quân Minh, tra ra thì biết rằng quân Vương
Thông đóng ở Ninh Kiều, có một đạo quân đi
lẻn ra đường sau quân Lý Triện để đánh tập hậu, đại
quân sang đò chỉ chờ lúc nào nghe
súng thì hai mặt đổ lại cùng đánh.
Biết mưu ấy rồi, đến canh năm đêm hôm ấy, Đinh Lễ sai người
bắn súng làm hiệu để đánh lừa quân giặc. Quả
nhiên quân giặc nghe tiếng súng đều kéo
ùa đến đánh. Bấy giờ phải độ trời mưa, đường lầy,
quân Minh vừa đến Tụy Động thì bị quân ta bốn mặt đổ
ra đánh, chém được quan Thượng Thư là Trần Hiệp,
và Nội Quan là Lý Lượng. Còn những
quân sĩ nhà Minh thì chết hại nhiều lắm: phần
thì giày xéo lẫn nhau mà chết, phần
thì ngã xuống sông chết đuối, cả thảy đến hơn năm
vạn người; còn bị bắt sống hơn một vạn người, các đồ đạc
khí giới thì lấy được không biết bao nhiêu
mà kể. Trận Tụy Động đánh vào tháng mười
năm bính ngọ (1426).
Phương Chính và Mã Kỳ chạy thoát được, rồi
cùng với Vương Thông về giữ thành Đông Quan.
Bọn Đinh Lễ thừa thắng đem binh về vây thành và cho
người về Lỗi Giang báo tin thắng trận cho Bình Định Vương
biết.
Vương liền tiến binh ra Thanh Đàm, rồi một mặt sai Trần
Nguyên Hãn đem 100 chiếc thuyền đi theo sông Lung
Giang (?) 81 ra cửa Hát Giang (cửa sông Đáy
thông với sông Cái) rồi thuận dòng sông
Nhị Hà xuống đóng ở bến Đông Bộ Đầu ; một mặt sai
bọn Bùi Bị đem hơn 1 vạn quân đi lẻn ra đóng ở
Tây Dương Kiều (?), Vương tự dẫn đại quân đến hạ trại ở gần
thành Đông Quan. Quân Minh giữ ở trong thành
không ra đánh, bao nhiêu chiến thuyền thì
Vương lấy được cả.
Kể từ ngày Bình Định Vương đem binh vào
đánh Nghệ An đến giờ, tuy rằng đánh đâu được đấy,
nhưng chưa có trận nào quan hệ bằng trận Tụy Động
này. Bởi vì việc thắng bại trong 10 phần, đánh
xong trận này, thì đã chắc được 7, 8 phần rồi.
Quân thế nhà Minh chỉ còn ở trong mấy thành
bị vây nữa mà thôi, mặt ngoài thì viện
binh lại chưa có, mà dẫu cho có sang nữa,
thì thế của Bình Định Vương cũng đã vững lắm rồi.
Nhưng cứ trong Việt Sử thì quân của Lý Triện
và Đinh Lễ chẳng qua chỉ có mấy nghìn người
mà thôi, làm thế nào mà phá
được hơn 10 vạn quân tinh binh của Vương Thông ? Vả lại sử
chép rằng đánh trận Tụy Động quân An Nam giết được
hơn 5 vạn quân Minh, lại bắt được hơn 1 vạn người, như thế chẳng
hóa ra quân Minh hèn lắm ru! E rằng nhà
làm sử có ý thiên vị, cho nên sự thực
không được rõ lắm. Nhưng dẫu thực hư thế nào mặc
lòng, đại khái trận Tụy Động là một trận
đánh nhau to, mà Vương Thông thì thua, phải
rút quân về giữ thành Đông Quan rồi bị
vây, còn Bình Định Vương thì ra bắc thu phục
các châu huyện. Việc ấy chắc là thật có.
15. Vây Thành
Đông Đô.
Từ khi Bình Định Vương ra Đông Đô, những kẻ
hào kiệt ở các nơi đều nô nức về theo, xin hết sức
đi đánh giặc. Vương dùng lời úy dụ và lấy
cái nghĩa lui tới mà giảng giải cho mọi người nghe, rồi
cứ tùy tài mà thu dùng.
Vương chia đất Đông Đô ra làm bốn đạo, đặt quan văn
võ để coi việc chính trị.
Cứ theo sách "Lịch Triều Hiến Chương Địa Dư Chí" của
ông Phan Huy Chú thì những trấn Tam Giang,
Tuyên Quan, Hưng Hóa, Gia Hưng thuộc về Tây Đạo;
những trấn Thượng Hồng, Hạ Hồng, Thượng Sách, Hạ Sách
cùng với lộ An Bang thuộc về Đông Đạo; những trấn Bắc
Giang, Thái Nguyên thuộc về Bắc Đạo; những lộ Khoái
Châu, Lý Nhân, Tân Hưng, Kiến Xương,
Thiên Trường thuộc về Nam Đạo.
16. Vương Thông Xin
Hòa Lần Thứ Nhất.
Vương Thông ở Đông Quan cứ bị thua mãi, liệu thế
đánh không được nữa, muốn bãi binh về Tàu,
nhưng sợ mang tiếng, bèn lục tờ chiếu của vua nhà Minh,
niên hiệu Vĩnh Lạc (1407), nói về việc tìm con
cháu họ Trần, rồi cho người ra nói với Bình Định
Vương tìm người dòng dõi họ Trần lập lên, để
xin bãi binh.
Vương nghĩ đánh nhau mãi, trong nước tàn hại,
dân tình khổ sở, bèn y theo lời Vương Thông.
Nhân lúc bấy giờ có người tên là Hồ
Ông trốn ở Ngọc Ma, xưng là cháu ba đời vua Nghệ
Tông, vương bèn cho người đi đón Hồ Ông về
đổi tên là Trần Cao, lập nên làm vua,
mà Vương thì xưng làm Vệ Quốc Công để cầu
phong với nhà Minh, cho chóng xong việc.
Vương Thông cho người đưa thư ra xin hòa, và xin
cho đem toàn quân về nước. Bình Định Vương thuận
cho, định ngày để Vương Thông gọi quân ở các
nơi về hội tại Đông Đô, rồi về Tàu. Việc đã
định như thế, nhưng mà bấy giờ có mấy người An Nam theo
nhà Minh, như những tên Trần Phong, Lương Nhữ Hốt, sợ rằng
quân Minh về thì mình phải giết, bèn lấy
chuyện Ô Mã Nhi ngày trước can Vương Thông
đừng rút quân về. Vương Thông nghe lời, bề
ngoài tuy nói hòa, nhưng bề trong sai người
đào hào, rắc chông, rồi cho người đi lẻn đem thư về
Tàu cầu cứu.
Bình Định Vương bắt được người đưa thư, giận lắm, không
giao thông với quân Minh nữa, rồi sai Lê Quốc Hưng
đánh thành Điêu Diêu (huyện Gia Lâm,
Bắc Ninh) và thành Thị Kiều (tức là Thị Cầu thuộc
huyện Võ Giang, Bắc Ninh); Trịnh Khả và Lê Khuyển
đánh thành Tam Giang (tức là Tam Đái, nay
là huyện Bạch Hạc); Lê Sát và Lê Thụ
đánh thành Xương Giang ( tức là Phủ Lạng Thương
bây giờ); Trần Lựu, Lê Bôi đánh thành
Kỳ Ôn. Chẳng bao lâu những thành ấy đều lấy được cả.
17. Bình Định Vương
Đóng Quân ở Bồ Đề.
Tháng giêng năm đinh mùi (1427), Bình Định
Vương tiến quân lên đóng ở chỗ Bồ Đề, ở phía
bắc sông Nhị Hà, rồi sai tướng đánh thành
Đông Quan: Trịnh Khả đánh cửa Đông, Đinh Lễ
đánh cửa Nam, Lê Cực đánh cửa Tây, Lý
Triện đánh cửa Bắc.
Quân nhà Minh một ngày một kém, tướng
nhà Minh giữ thành Nghệ An và thành Diễn
Châu là bọn Thái Phúc và Tiết Tụ đều
ra hàng cả. Bình Định Vương lại sai Lại Bộ Thượng Thư
là ông Nguyễn Trãi, làm hịch đi khuyên
tướng sĩ các nơi về hàng.
Nhưng cũng vì thấy quân Minh đã yếu thế, có
ý khinh định cho nên quân ta mất hai viên đại
tướng. Trước thì Lý Triện đóng ở Từ Liêm,
không cẩn thận, bị quân của Phương Chính đến
đánh lẻn giết mất; sau Vương Thông ở Đông Quan đem
binh ra đánh Lê Nguyễn ở Tây Phù Liệt (thuộc
huyện Thanh Trì), Vương sai Đinh Lễ và Nguyễn Xí
đem 500 quân đi cứu. Đi đến Mỹ Động (thuộc Hoàng Mai,
huyện Thanh Trì) gặp quân Minh, hai bên đánh
nhau. Vương Thông thấy quân Đinh Lễ có ít,
bèn vây lại đánh bắt được Đinh Lễ và Nguyễn
Xí. Nguyễn Xí trốn đi được, còn Đinh Lễ bị giết.
18. Bình Định Vương
Đặt Pháp Luật Để Trị
Quân Dân.
Bình Định Vương cứ một mặt vây đánh thành
Đông Quan và các thành khác, một mặt
lo việc cai trị, đặt ra các điều lệ để cho việc binh có
kỷ luật và cho lòng dân được yên.
Trước hết Vương dụ cấm tà đạo: ai mà dùng những
phép tà ma giả dối để đánh lừa người ta thì
phải tội. Còn những dân sự bị loạn phải lưu tán đi
chỗ khác cho về nguyên quán, cứ việc làm ăn
như cũ.
Những vợ con gia quyến của những người ra làm quan với giặc,
thì được phép theo lệ, lấy tiền mà chuộc 82 ;
còn những quân lính nhà Minh đã
hàng thì đưa về Thiên Trường, Kiến Xương, Lý
Nhân, Tân Hưng để nuôi nấng tử tế.
Vương đặt ra ba điều để răn các quan: 1. Không được
vô tình. 2. Không được khi mạn. 3. Không được
gian dâm
Và lại dụ rằng những quân lính ngày thường
có tội không được giết càn, trừ lúc
nào ra trận mà trái quân lệnh thì mới
theo phép mà thi hành.
Vương lại đặt ra 10 điều để làm kỷ luật cho các tướng sĩ:
1. Trong quân ồn ào không nghiêm. 2.
Không có việc gì mà đặt chuyện ra để
làm cho mọi người sợ hãi. 3. Lúc lâm trận
nghe trống đánh, thấy cờ phất, mà chùng
chình không tiến. 4. Thấy kéo cờ dừng quân
mà không dừng. 5. Nghe tiếng chiêng lùi
quân mà không lùi 6. Phòng giữ
không cẩn thận, để mất thứ ngũ. 7. Lo riêng việc vợ con,
mà bỏ việc quân. 8. Tha binh đinh về để lấy tiền,
và làm sổ sách mập mờ. 9. Theo bụng yêu
ghét của mình mà làm lòa mất
công quả của người ta. 10. Gian dâm, trộm cắp.
Hễ tướng sĩ ai mà phạm vào 10 điều ấy thì phải tội
chém.
Còn quân lính, thì hễ nghe một tiếng
súng mà không có tiếng chiêng,
thì các tướng hiệu phải đến dinh nghe lệnh; hễ nghe hai
ba tiếng súng và hai ba tiếng chiêng ấy là
có việc cảnh cấp, quan chấp lệnh phải sắp hàng ngũ,
còn quan thiếu úy thì đến dinh mà nghe
lệnh; hễ đến lúc lâm trận mà lùi hoặc
là bỏ những người sau không cứu, thì phải tội
chém, nhưng gián hoặc đã có ai không
may chết trận mà mình hết sức mang được xác ra
thì khỏi tội.
Đại khái kỷ luật ở trong quân của Bình Định Vương
như thế, cho nên đi đâu, dân gian kính phục
lắm.
19. Trận Chi Lăng - Liễu
Thăng Tử Trận.
Từ khi quân Minh thua trận Tụy Động, Trần Hiệp bị giết, Vương
Thông cho người về tâu với Minh Đế để xin thêm binh.
Minh Đế thất kinh, liền sai Chinh Lỗ Phó Tướng Quân An
Viễn Hầu là Liễu Thăng, Tham Tướng Bảo Định Bá là
Lương Minh, Đô Đốc là Thôi Tụ, Binh Bộ Thượng Thư
là Lý Khánh, Công Bộ Thượng Thư là
Hoàng Phúc, Hữu Bố Chính Sứ là Nguyễn Đức
Huân, đem 10 vạn quân, hai vạn ngựa, đi đường Quảng
Tây sang đánh cửa Ba Lụy, bấy giờ là tháng
chạp năm bính ngọ (1427). Lại sai Chinh Nam Đại Tướng Quân
Kiềm Quốc Công là Mộc Thạnh, Tham Tướng Anh Hưng Bá
là Từ Hanh, Tây Ninh Bá là Đàm Trung
đi đường vào Vân Nam sang đánh cửa Lê Hoa.
Khi các tướng nghe viện binh của quân Minh sắp đến, nhiều
người khuyên Vương đánh ngay lấy thành Đông
Quan để tuyệt đường nội ứng, nhưng Vương không nghe, bảo rằng:
"Việc đánh thành là hạ sách, nay ta
hãy cứ dưỡng binh súc nhuệu để đợi quân địch đến
thì ra đánh. Hễ viện quân mà thua,
thì quân trong thành tất phải ra hàng. Thế
có phải làm một việc mà thành được hai
không?" Đoạn rồi bắt phải giữ gìn mọi nơi cho nghiêm
nhặt, lại bắt người ở Lạng Giang, Bắc Giang, Tam Đái,
Tuyên Quan, Quy Hóa đi chỗ khác, bỏ đồng
không để tránh quân Minh.
Đến tháng mười (1427) Bình Định Vương nghe tin quân
của bọn Liễu Thăng đã sắp sang đất An Nam, liền hội các
tướng lại bàn rằng: "Quân kia cậy khoẻ khinh yếu, lấy
nhiều bắt nạt ít, chỉ cốt đánh cho được, chứ không
tưởng đến điều khác. Nay đường xa nghìn dặm, mà đi
có mấy ngày, nếu ta nhân lúc người ngựa của
chúng đang mỏi mệt, ta "dĩ dật đãi lao", đánh
là tất được". Bèn sai Lê Sát, Lưu Nhân
Chú, Lê Linh, Đinh Liệt, Lê Thụ đem 1 vạn quân
và 5 con voi lên phục sẵn ở cửa Chi Lăng, để đợi
quân Minh. Lại sai Lê Lý, Lê Văn An, đem 3 vạn
quân cứ lục tục kéo lên đánh giặc.
Bấy giờ Trần Lựu đang giữ cửa Ba Lụy (Nam Quan) thấy quân Minh
đến, lui về giữ Ai Lưu; đến khi quân giặc đến đánh Ai Lưu,
Trần Lựu lại lùi về giữ Chi Lăng, cứ cách từng đoạn, chỗ
nào cũng có đồn, quân Minh đi đến đâu
không ai dám chống giữ, phá luôn một
lúc được những mấy cái đồn. Liễu Thăng đắc ý đuổi
tràn đi. Bình Định Vương lại làm ra bộ khiếp sợ,
cho người đưa thư sang nói với Liễu Thăng xin lập Trần Cao
lên làm vua để xin bãi binh. Liễu Thăng tiếp thư
không mở ra xem cho người đưa về Bắc Kinh, rồi cứ tiến lên
đánh.
Ngày 18 tháng 9, quân Liễu Thăng đến gần cửa Chi
Lăng. Lê Sát sai Trần Lựu ra đánh rồi bỏ chạy. Liễu
Thăng mừng lắm, chỉ đem 100 lính kị đuổi theo, bỏ đại đội ở lại
sau. Đuổi được một đoạn, phải chỗ bùn lầy đi không được,
phục binh ta đổ ra đánh, chém Liễu Thăng ở núi Đảo
Mã Pha (bây giờ là Mã Yên Sơn, ở
làng Mai Sao, thuộc Ôn Châu). Việc ấy vào
ngày 20 tháng 9 năm đinh mùi.
Bọn Lê Sát, Trần Lựu thừa thắng đuổi đánh
quân Minh giết hơn 1 vạn người. Lúc bấy giờ đạo quân
của Lê Lý cũng vừa đến, hội lại tiến lên đánh
quân Minh, chém được Lương Minh ở giữa trận (ngày
25). Lý Khánh thì tự tử (ngày 28).
Còn bọn Hoàng Phúc và Thôi Tụ đem bại
binh chạy về thành Xương Giang (thành của nhà Minh
xây ở xã Thọ Xương, phủ Lạng Giang), đi đến nữa đường bị
quân của Lê Sát đuổi đến đánh phá một
trận; Thôi Tụ cố đánh lấy đường chạy về Xương Giang,
không ngờ thành ấy đã bị bọn Trần Nguyên
Hãn lấy mất rồi, quân Minh sợ hãi quá
bèn lập trại đắp lũy ở giữa đồng để chống giữ.
Bình Định Vương sai quân thủy bộ vây đánh,
sai Trần Nguyên Hãn chặn đường tải lương của quân
Minh, lại sai Phạm Vấn, Lê Khôi, Nguyễn Xí đem
quân thiết đội vào đánh chém quân Minh
được hơn 5 vạn, bắt sống được Hoàng Phúc, Thôi Tụ
và 3 vạn quân. Thôi Tụ không chịu hàng
phải giết.
Bấy giờ Mộc Thạnh với bọn Phạm Văn Xảo và Trịnh Khả đang giữ
nhau ở cửa Lê Hoa. Trước Vương cũng đã liệu rằng Mộc Thạnh
là người lão luyện tất chờ xem quân Liễu Thăng
thắng bại thế nào rồi mới tiến, bèn sai đưa thư dặn bọn
Văn Xảo cứ giữ vững chứ đừng ra đánh. Đến khi quân Liễu
Thăng thua rồi, Vương cho những tên tì tướng đã bắt
được, đem những giấy má ấn tín lên cho Mộc Thạnh
biết.
Mộc Thạnh được tin ấy, sợ quá, đem quân chạy, bị
quân Trịnh Khả đuổi theo chém được hơn 1 vạn người
và bắt được cả người lẫn ngựa mỗi thứ hơn một nghìn.
20. Vương Thông Xin
Hòa Lần Thứ Hai.
Bình Định Vương sai đưa bọn Hoàng Phúc và
hai cái hổ phù, hai dấu đài ngân của quan
Chinh Lỗ Phó Tướng Quân về Đông Quan cho Vương
Thông biết.
Vương Thông biết rằng viện binh sang đã bị thua rồi, sợ
hãi quá, viết thư xin hòa. Vương thuận cho, rồi
cùng với Vương Thông lập đàn thề ở phía nam
thành Đông Quan, hẹn đến tháng chạp thì đem
quân về Tàu.
21. Trần Cao Dâng Biểu
Xin Phong.
Bình Định Vương đã hòa với Vương Thông rồi,
quân Minh ở Tây Đô và ở các nơi đều
giải binh cả. Vương sai Lê Thiếu Dĩnh, Lê Quang Cảnh
và Lê Đức Huy đem tờ biểu và phương vật sang sứ
nhà Minh.
Những đồ phương vật là: 1. Hai người bằng vàng để thay
mình. 2. Một lư hương bằng bạc. 3. Một đôi bình hoa
bằng bạc 4. Ba mươi tấm lượt. 5. Mười bốn đôi ngà voi. 6.
Mười hai bình hương trầm. 7. Hai vạn nén hương duyến. 8.
Hai mươi bố cây hương trầm.
Và lại đem hai cái dấu đài ngân, đôi
hổ phù của Chính Lỗ Phó Tướng Quân
cùng với sổ kê những người quan quân nhân
mã đã bị bắt đem trả lại Minh Triều.
Còn tờ biểu thì đứng tên Trần Cao, đại lược như sau
này:
"Khi vua Thái Tổ Cao Hoàng Đế mới lên ngôi,
tổ tiên tôi là Nhật Khuê vào triều cống
trước nhất, bấy giờ ngài có ban thưởng, phong cho tước
Vương. Từ đó nhà tôi vẫn nối đời giữ bờ cõi,
không bỏ thiếu lễ triều cống bao giờ.
Mới rồi nhân họ Hồ thoán nghịch, vua Thái
Tông Văn Hoàng Đế quân sang hỏi tội. Sau khi
đã dẹp yên rồi, ngài có hạ chiếu tìm
con cháu họ Trần để giữ lấy dòng dõi cúng
tế. Bấy giờ quan tổng binh Trương Phụ tìm chưa được khắp,
đã xin đặt làm quận huyện.
Nguyên tôi lúc trước vì trong nước có
loạn, chạy trốn vào xứ Lão Qua, cũng là muốn để
tìm chốn yên thân mà thôi, không
ngờ người trong nước, vẫn quen thói mọi, nhớ đến ân trạch
nhà tôi thuở trước, lại cố ý ép tôi
phải về, bất đắc dĩ tôi cũng phải theo.
Dẫu rằng trong khi vội vàng, bị người trong nước cố ép,
nhưng cũng là cái tội tôi không biết liệu xử.
Mới đây tôi đã có xin lỗi trước hàng
quân, nhưng không ai chịu nghe, bấy giờ người nước
tôi sợ phải tai vạ, liền đem nhau ra phòng bị các
cửa ải, cũng là một kế giữ mình.
Ngờ đâu quan quân xa xôi mới đến thấy voi sợ
hãi, tức khắc vỡ tan. Việc đã xảy ra như vậy, dẫu bởi sự
bất đắc dĩ của người trong nước cũng là lỗi của tôi. Nhưng
bao nhiêu những quân và ngựa bắt được đều phải thu
dưỡng tử tế, không dám xâm phạm một tí
gì.
Dám xin hoàng thượng ngày nay lại theo như lời
chiếu của vua Thái Tông Văn Hoàng Đế, tìm
lấy con cháu họ Trần, nghĩ đến cái lòng
thành vào triều cống trước nhất của tổ tiên
tôi ngày xưa, mà xá cái tội to như
gò núi ấy, không bắt phải cái phạt nặng bằng
búa rìu, khiến cho tôi được nối nghiệp ở xứ nam, để
giữ chức triều cống.
Tôi đã sai người thân tín mang tờ biểu tạ
và đưa trả những ấn tín nhân mã tới chốn
kinh sư, nay lại xin đệ tâu những danh số ấy"
Vua nhà Minh bấy giờ là Tuyên Tông xem biểu
biết rằng giả dối, nhưng cũng muốn nhân dịp ấy để thôi việc
binh, bèn đưa tờ biểu cho quần thần xem, mọi người đều xin
hòa. Minh Đế sai quan Lễ Bộ Thị Lang là Lý Kỳ đưa
chiếu sang phong cho Trần Cao làm An Nam Quốc Vương, bỏ
tòa Bố Chính và triệt quân về Tàu.
Đến tháng chạp năm đinh mùi, Vương Thông theo lời
ước với Bình Định Vương, đem bộ binh qua sông Nhị
Hà, còn thủy quân theo sau.
Bấy giờ có người xui Vương rằng: lúc trước người Minh
tàn ác lắm, nên đem giết cả đi. Vương nói
rằng: " Phục thù báo oán là cái
thường tình của mọi người, nhưng cái bản tâm người
có nhân không muốn giết người bao giờ. Vả người ta
đã hàng mà lại còn giết thì
không hay. Nếu mình muốn thỏa cơn giận một lúc,
mà chịu cái tiếng muôn đời giết kẻ hàng,
thì sao bằng để cho muôn vạn con người sống mà khỏi
được cái mối tranh chiến về đời sau, lại để tiếng thơm lưu
truyền thiên cổ trong sử xanh".
Vương không giết người Minh lại cấp cho thủy quân 500 chiếc
thuyền giao cho Phương Chính và Mã Kỳ quản lĩnh;
cấp lương thảo cho lục quân giao cho Sơn Thọ, Hoàng
Phúc quản lĩnh; còn 2 vạn người đã ra hàng
và đã bị bắt thì giao cho Mã Anh quản lĩnh
đem về Tàu. Vương Thông thì lĩnh bộ binh đi sau.
Bình Định Vương tiễn biệt rất hậu.
Giặc Minh lục tục về bắc, bấy giờ mới thật là: Nam Quốc Sơn
Hà, Nam Đế Cư; nước Nam lại được tự chủ như cũ.
23. Tờ Bình Ngô
Đại Cáo.
Bình Định Vương dẹp xong giặc Minh rồi, sai ông Nguyễn
Trãi làm tờ bá cáo cho thiên hạ biết.
Tờ Bình Ngô Đại Cáo này làm bằng
Hán Văn, là một bản văn chương rất có giá
trị trong đời Lê. Nay theo nguyên văn ở trong tập
Hoàng Việt Văn Tuyển mà chép ra như sau
này:
Bình Ngô Đại
Cáo
Tượng mảng:
Việc nhân nghĩa cốt ở
yên dân, quân điếu phạt
chỉ vì khử bạo. Như nước Việt từ trước, vốn xưng văn hiến
đã lâu. Sơn hà cương vực đã chia, phong tục
bắc nam cũng khác. Từ Đinh, Lê, Lý, Trần, gây
nền độc lập; cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên,
hùng cứ một phương. Dẫu cường nhược có lúc
khác nhau, song hào kiệt đời nào cũng có.
Vậy nên:
Lưu Cung sợ uy mất vía, Triệu Tiết nghe tiếng giật mình.
Cửa Hàm Tử giết tươi Toa Đô, sông Bạch Đằng bắt sống
Ô Mã. Xét xem cổ tích, đã có
minh trưng 83 .
Vừa rồi:
Vì họ Hồ chính sự phiền hà, để trong nước
nhân dân oán bạn. Quân cuồng Minh đã
thừa cơ tứ ngược 84 , bọn gian tà còn bán nước cầu
vinh. Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn,
vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ. Chước dối đủ muôn
nghìn khóe, ác chứa ngót hai mươi năm. Bại
nhân nghĩa, nát cả càn khôn, nặng khoa liễm
85 vét không sơn trạch. Nào lên rừng
đào mỏ, nào xuống bể mò châu, nào hố
bẫy hươu đen, nào lưới dò chim sả. Tàn hại cả
côn trùng thảo mộc; nheo nhóc thay quan quả
điên liên 86 . Kẻ há miệng, đứa nhe răng, máu
mỡ bấy no nê chưa chán. Nay xây nhà, mai đắp
đất, chân tay nào phục dịch cho vừa. Nặng nề về những nỗi
phu phen, bắt bớ mất cả nghề canh cửi. Độc ác thay ! trúc
rừng không ghi hết tội; dơ bẩn thay ! nước bể không rửa
sạch mùi. Lẽ nào trời đất tha cho, ai bảo thần nhân
nhịn được.
Ta đây:
Núi Lam Sơn dấy nghĩa, chốn hoang dã nương mình.
Ngắm non sông căm nỗi thế thù, thề sống chết cùng
quân nghịch tặc. Đau lòng nhức óc, chốc là
mười mấy nắng mưa; nếm mật nằm gai, há phải một hai sớm tối.
Quên ăn vì giận, sách lược thao suy xét
đã tinh; ngẫm trước đến nay, lẽ hưng phế đắn đo càng kỹ.
Những trằn trọc trong cơn mộng mị, chỉ băn khoăn một nỗi đồ hồi. Vừa
khi cờ nghĩa dấy lên, chính lúc quân
thù đang mạnh.
Lại ngặt vì:
Tuấn kiệt như sao buổi sớm, nhân tài như lá
mùa thu. Việc bôn tẩu thiếu kẻ đỡ đần, nơi duy ác
hiếm người bàn bạc. Đôi phen vùng vẫy, vẫn đăm đăm
con mắt dục đông 87 ; mấy thủa đợi chờ, luống đằng đẵng cỗ xe hư
tả 88 . Thế mà trông người, người càng vắng ngắt,
vẫn mịt mờ như kẻ vọng dương 89 . thế mà tự ta, ta phải lo toan,
thêm vội vã như khi chửng nịch 90 . Phần thì giận
hung đồ ngang dọc, phần thì lo quốc bộ khó khăn. Khi Linh
Sơn lương hết mấy tuần; khi Khôi huyện quân không một
lữ. Có lẽ trời muốn trao cho gánh nặng, bắt trải qua
bách chiết thiên ma; cho nên ta cố gắng gan bền,
chấp hết cả nhất sinh thập tử. Múa đầu gậy, ngọn cờ phất phới,
ngóng vân nghê bốn cõi đan hồ. Mở tiệc
quân, chén rượu ngọt ngào, khắp tướng sĩ một
lòng phụ tử. Thế giặc mạnh, ta yếu mà ta địch nổi;
quân giặc nhiều, ta ít mà ta được luôn.
Dọn hay:
Đem đại nghĩa để thắng hung tàn, lấy chí nhân
mà thay cường bạo. Trận Bồ Đằng sấm vang sét dậy, miền
Trà Lân trúc phá tro baỵ Sĩ khí
đã hăng, quân thanh càng mạnh. Trần Trí, Sơn
Thọ mất vía chạy tan; Phương Chính, Lý An
tìm đường trốn tránh. Đánh Tây Kinh
phá tan thế giặc, lấy Đông Đô thu lại cõi
xưa. Dưới Ninh Kiều máu chảy thành sông; bến Tụy
Động xác đầy ngoại nội. Trần Hiệp đã thiệt mạng.
Lý Lương lại phơi thây. Vương Thông hết cấp lo
lường, Mã Anh không đường cứu đỡ. Nó đã
trí cùng lực kiệt, bó tay không biết
tính sao; ta đây mưu phạt tâm công, chẳng
đánh mà người chịu khuất. Tưởng nó phải thay
lòng đổi dạ, hiểu lẽ tới lui; ngờ đâu còn kiếm kế
tìm phương, gây mầm tội nghiệt. Cậy mình là
phải, chỉ quen đổ vạ cho người; tham công một thời, chẳng bỏ
bày trò dơ duốc. Đến nỗi đứa trẻ ranh như Tuyên Đức
91 , nhàm võ không thôi; lại sai đồ
nhút nhát như Thạnh, Thăng, đem dầu chữa cháy. Năm
đinh mùi tháng chín, Liễu Thăng từ Khâu
Ôn tiếng san; lại năm nay tháng mười, Mộc Thạnh tự
Vân Nam kéo đến. Ta đã điều binh giữ hiểm để ngăn
lối Bắc quân; ta lại sai tướng chẹn ngang để tuyệt đường lương
đạo. Mười tám, Liễu Thăng thua ở Chi Lăng, hai mươi, Liễu Thăng
chết ở Mã Yên. Hai mươi lăm, Lương Minh trận vong; hai
mươi tám, Lý Khánh tự vẫn. Lưỡi dao ta đang sắc,
ngọn giáo giặc phải lùi. Lại thêm quân bốn
mặt vây thành, hẹn đến rằm tháng mười diệt tặc. Sĩ
tốt ra oai tì hổ, thần thứ đủ mặt trảo nha. Gươm mài
đá, đá núi cũng mòn; voi uống nước, nước
sông phải cạn. Đánh một trận sạch không kình
ngạc, đánh hai trận tan tác chim muông. Cơn
gió to trút sạch lá khô, tổ kiến hổng sụt
toang đê cũ. Thôi Tụ phải quì mà xin lỗi,
Hoàng Phúc tự trói để ra hàng. Lạng Giang,
Lạng Sơn thây chất đầy đường, Xương Giang, Bình Than
máu trôi đỏ nước. Gớm ghê thay ! sắc phong vân
cũng đổi; thảm đạm thay ! sáng nhật nguyệt phải mờ. Binh
Vân Nam nghẽn ở Lê Hoa, sợ mà mất mật; quân
Mộc Thạnh tan chưn Cần Trạm, chạy để thoát thân. Suối
máu Lãnh Câu, nước sông rền rĩ; thành
xương Đan Xá, cỏ nội đầm đìa. Hai mặt cứu binh, cắm đầu
trốn chạy; các thành cùng khấu, cởi giáp
xuống đầu. Bắt tướng giặc mang về, nó đã vẫy đuôi
phục tôi; thể lòng trời bất sát, ta cũng mở đường
hiếu sinh. Mã Kỳ, Phương Chính, cấp cho năm trăm chiếc
thuyền, ra đến bể chưa thôi trống ngực. Vương Thông,
Mã Anh, phát cho vài nghìn cỗ ngựa, về đến
Tàu còn đổ mồ hôi. Nó đã sợ chết cầu
hòa, ngỏ lòng thú phục; ta muốn toàn
quân là cốt, cả nước nghỉ ngơi.
Thế mới là mưu kế thật khôn, vả lại suốt xưa nay chưa
có. Giang san từ đây mở mặt, xã tắc từ đầy vững
nền. Nhật nguyệt hối mà lại minh, càn khôn bĩ
mà lại thái. Nền vạn thế xây nên chăn chắn,
thẹn nghìn thu rửa sạch làu làu. Thế là nhờ
trời đất tổ tông khôn thiêng che chở, giúp đỡ
cho nước ta vậy.
Than ôi !
Vẫy vùng một mảng nhung y nên công đại định, phẳng
lặng bốn bề thái vũ mở hội vĩnh thanh. Bá cáo xa
gần, ngỏ cùng cho biết.
Bình Ngô
Đại Cáo
Cái văn :
nhân nghĩa chi cử, yếu tại an dân; điếu phạt chi sư, mạc
tiên khử bạo. Duy ngã Đại-Việt chi quốc, thực vi văn-hiến
chi bang. Sơn xuyên chi phong vực ký thù, Nam Bắc
chi phong-tục diệc dị. Tự Triệu Đinh Lý Trần chi triệu tạo
ngã quốc, dữ Hán Đường Tống Nguyên nhi các
đế nhất phương. Tuy cường nhược thì hữu bất đồng, nhi hào
kiệt thế vị thường phạp.
Cố Lưu Cung tham công dĩ thủ bại, nhi Triệu Tiết hiếu đại dĩ
xúc vong. Toa Đô ký cầm ư Hàm-tử quan,
Ô Mã hựu ế ư Bạch-đằng hải. Kê chư vãng cổ,
quyết hữu minh trưng.
Khoảnh nhân Hồ-chính chi phiền-hà, trí-sử
nhân-tâm chi oán-bạn. Cuồng-Minh tứ khích,
nhân dĩ độc ngã dân; ngụy đảng hoài gian,
cánh dĩ mãi ngã quốc. Hân thương-sinh ư
ngược-diễm, hảm xích-tử ư họa-khanh. Khi thiên võng
dân, quỷ-kế cái thiên vạn trạng; liên binh kết
hấn, nẫm ác đãi nhị thập niên. Bại nghĩa thương
nhân, kiền khôn ky hồ dục tức; trọng khoa hậu liễm, sơn
trạch mỹ hữu kiết di. Khai kim-trường, tắc mạo lam-chướng nhi phủ sơn
đào sa; thái minh-châu, tắc xúc giao-long
nhi hoàn yêu thộn hải. Nhiễu dân thiết huyền lộc chi
hãm tịnh, điễn vật chức thúy cầm chi võng la.
Côn trùng thảo mộc giai bất đắc dĩ toại kỳ sinh, quan quả
điên-liên câu bất hoạch dĩ an kỳ sở. Tuấn sinh
dân chi huyết, dĩ nhuận kiệt-hiệt chi vẫn nha; cực thổ mộc chi
công, dĩ sùng công tư chi giải vũ. Châu
lý chi chinh dao trọng khốn, lư diêm chi trữ trục giai
không. Quyết Đông-hải chi thủy, bất túc dĩ trạc kỳ
ô; Khánh Nam-sơn chi trúc, bất túc dĩ thư kỳ
ác. Thần nhân chi sở cộng phẫn, thiên địa chi sở bất
dung.
Dư phấn tích Lam-sơn, thê thân hoang dã. Niệm
thế-thù khởi khả cộng đái, thệ nghịch-tặc nan dữ
câu sinh. Thống tâm tật thủ giả thùy thập dư
niên, thường đảm ngọa tân giả cái phi nhất nhật.
Phát phẫn vong thực, mỗi nghiên đàm thao-lược chi
thư; tức cổ nghiệm kim, tế suy cứu hưng vong chi lý. Đồ hồi chi
chí, ngộ mỵ bất vong. Đương nghĩa kỳ sơ khởi chi thì,
chính tặc thế phương trương chi nhật.
Nại dĩ nhân tài thu diệp, tuấn kiệt thần tinh. Bôn
tẩu tiền hậu giả ký phạp kỳ nhân, mưu mô duy
ác giả hựu quả kỳ trợ. Đặc dĩ cứu dân chi niệm, mỗi
uất-uất nhi dục đông; cố ư đãi hiền chi xa, thường cấp-cấp
dĩ hư tả. Nhiên kỳ đắc nhân chi hiệu, mang nhược vọng
dương; do kỷ chi thành, thậm ư chửng nịch. Phẫn hung-đồ chi vị
diệt, niệm quốc-bộ chi tao truân. Linh-sơn chi thực tận
kiêm tuần, Khôi-huyện chi chúng vô nhất lữ.
Cái thiên dục khốn ngã dĩ giáng quyết
nhâm, cố dư ích lệ chi dĩ tế vu nạn. Yết can vi kỳ, manh
lệ chi đồ tứ tập; đầu giao hưởng sĩ, phụ tử chi binh nhất tâm. Dĩ
nhược chế cường, hoặc công nhân chi bất bị; dĩ quả địch
chúng, thường thiết phục dĩ xuất kỳ.
Tốt năng dĩ đại nghĩa nhi thắng hung-tàn, dĩ chi nhân nhi
dịch cường-bạo. Bồ-đằng chi đình khu điện xiết,
Trà-lân chi trúc phá khôi phi. Sĩ
khí dĩ chi ích tăng, quân thanh dĩ chi đại chấn.
Trần Trí, Sơn Thọ, văn phong nhi trĩ phách; Lý An,
Phương Chính, dả tức dĩ thâu sinh. Thừa thắng trường khu,
Tây-kinh ký vi ngã hữu; tuyển phong tiến thủ,
Đông-đô tận phục cựu cương. Ninh-kiều chi huyết
thành xuyên, lưu tinh vạn lý; Tụy-động chi thi
tích dã, di xú thiên niên. Trần Hiệp
tặc chi phúc tâm, ký kiêu kỳ thủ; Lý
Lượng tặc chi gian đố, hựu bộc quyết thi. Vương Thông lý
loạn nhi phần giả ích phần, Mã Anh cứu đấu nhi nộ giả
ích nộ. Bỉ trí cùng nhi lực tận, thúc thủ
đãi vong; ngã mưu phạt nhi tâm công, bất
chiến tự khuất. Vị bỉ tất dịch tâm nhi cải lự, khởi ý phục
tác nghiệt dĩ tốc cô. Chấp nhất kỷ chi kiến, dĩ giá
họa ư tha nhân; tham nhất thì chi công, dĩ di tiếu ư
thiên-hạ. Toại lệnh Tuyên- đức chi giảo đồng, độc binh
vô yếm; nhưng mệnh Thạnh Thăng chi nhụ tướng, dĩ du cứu phần.
Đinh-vị cửu nguyệt, Liễu Thăng toại dẫn binh do Khâu-ôn nhi
tiến; bản niên bản nguyệt, Mộc Thạnh diệc phân đồ tự
Vân-nam nhi lai. Dư tiền ký tuyển binh tắc hiểm dĩ tồi kỳ
phong, dư hậu tái điều binh tiệt lộ dĩ đoạn kỳ thực. Bản nguyệt
thập bát nhật, Liễu Thăng vi ngã quân sở
công, kế đọa ư Chi-lăng nhi dã; bản nguyệt nhị thập nhật,
Liễu Thăng vi ngã quân sở bại, thân tử ư
Mã-yên chi sơn. Nhị thập ngũ nhật, Bảo-định bá
Lương Minh trận hãm nhi táng khu; nhị thập bát
nhật, thượng-thư Lý Khánh kế cùng nhi vẫn thủ.
Ngã toại nghinh nhận nhi giải, bỉ tự đảo qua tương công.
Kế nhi tứ diện thiêm binh dĩ bao vi, kỳ dĩ thập nguyệt trung tuần
nhi điễn diệt. Viên tuyển tỳ hưu chi sĩ, thân mệnh trảo nha
chi thần. Ẩm tượng nhi hà thủy can, ma đao nhi sơn thạch khuyết.
Nhất cổ nhi kình khô ngạc đoạn, tái cổ nhi điểu
tán quân kinh. Quyết hội nghị ư băng đê, chấn cương
phong ư cảo diệp. Đô-đốc Thôi Tụ tất hàng nhi tống
khoản, thượng-thư Hoàng Phúc diện phược dĩ tựu cầm.
Cương-thi tắc Lạng-giang, Lạng-sơn chi đồ; chiến-huyết xích
Xương-giang, Bình-than chi thủy. Phong vân vị chi biến
sắc, nhật nguyệt thảm dĩ vô quang.
Kỳ Vân-nam binh vi ngã quân sở ách ư
Lê-hoa, tự đỗng nghi hư hát nhi tiên dĩ phá
đảm. Kỳ Mộc Thạnh chúng văn Thăng quân đại bại ư Cần-
trạm, toại lận tạ bôn hội nhi cận đắc thoát thân.
Lãnh-câu chi huyết xử phiêu, giang-thủy vị chi
ô yết; Đan-xá chi thi sơn tích, dã thảo vị
chi ân hồng. Lưỡng lộ cứ binh, ký bất tuyền chủng nhi
âu bại; các thành cùng khấu, diệc tương giải
giáp dĩ xuất hàng. Tặc thủ thành cầm, bỉ ký
điệu ngạ- hổ khất liên chi vỹ; thần vũ bất sát, dư diệc
thể Thượng-đế hiếu sinh chi tâm. Tham-tướng Phương Chính,
nội-quan Mã Kỳ, tiên cấp hạm ngũ bách dư sưu,
ký độ hải nhi do thả hồn phi phách táng. Tổng-binh
Vương Thông, tham-chính Mã-Anh, hựu cấp mã
sổ thiên dư thất, dĩ hoàn quốc nhi ích tự cổ lật
tâm kinh. Bỉ ký úy tử tham sinh, nhi tu hiếu hữu
thành; dư dĩ toàn quân vi thượng, nhi dục dân
đắc tức.
Phi duy kế mưu chi cực kỳ thâm viễn, cái diệc cổ kim chi
sở vị kiến văn. Xã-tắc dĩ chi điện an, sơn xuyên dĩ chi
cải quán. Kiền khôn ký bĩ nhi phục thái,
nhật nguyệt ký hối nhi phục minh. Vu dĩ khai vạn thế thái
bình chi cơ, vu dĩ tuyết thiên cổ vô-cùng chi
sỉ. Thị do thiên địa tổ tông chi linh, hữu dĩ mặc tương
âm hựu, nhi trí nhiên dã.
Ô-hô! Nhất nhung đại-định, ngật thành vô cạnh
chi công; tứ hải vĩnh-thanh, dản bố duy-tân chi cáo.
Bá cáo hà nhĩ, hàm sử văn tri.
------------
74
Sách "Khâm Định Thông Giám" chép
là núi Chí Linh này ở phủ Trấn Định, tỉnh
Nghệ An, tức là ở vào đất Cam Môn, Cam Cát
giáp tỉnh Hà Tĩnh. Nhưng xem kỹ địa đồ thì vua
Thái Tổ khởi binh ở Lam Sơn, thuộc huyện Thụy Nguyên, phủ
Thiệu Hóa, và lúc ấy vẫn lui tới ở vùng Lạc
Thủy, tức là Cẩm Thủy và ở vùng Nga Sơn. Vậy
thì núi Chí Linh này không phải ở
miền Trấn Định, mà chắc là chỉ ở trong vùng Thanh
Hóa mà thôi. Xem như khi ngài thua ở
Chí Linh thì chạy về Lư Sơn ở châu Quan Hóa,
thuộc phủ Quảng Hóa thì biết. Vả lại ngày khởi
nghĩa từ năm mậu tuất (1418) mà mãi đến năm giáp
thìn (1424) thì ngài mới bàn sự đi
đánh mạng Nghệ An, như thết mà nói rằng núi
Chí Linh ở phủ Trấn Định, tức là xứ Ngọc Ma ngày
trước, ở phía nam tỉnh Nghệ An bấy giờ thì chắc là
lầm.
75 Lỗi Giang là tên một khúc sông Mã
Giang ở vùng trên huyện Cẩm Thủy.
76 Ông Nguyễn Trãi là cháu ngoại ông
Trần Nguyên Đán, bởi vậy ông cùng với Trần
Nguyên Hãn có tình thân. Ông
Nguyễn Trãi và ông Trần Nguyên Hãn
là người đại công thần nhà Lê, sau đều bị
giết hại cả.
77 Vào quãng gần đồn Linh Cảm, huyện Hương Sơn, Hà
Tĩnh.
78 Trần Nguyên Hãn, có nơi chép là
Trần Hãn, là cháu Trần Nguyên Đán,
dòng dõi Trần Quang Khải.
79 Những tên Ninh Kiều, Ninh Giang, Ứng Thiên chắc
là ở vùng huyện Từ Liêm, huyện Thanh Oai, về
quãng sông Nhuệ Giang và sông Đáy.
Mà Ninh Giang có lẽ là khúc sông
Đáy ở vào quãng Từ Liêm hay Thanh Oai
gì đó.
80 Tụy Động và Chúc Động ở vào quãng huyện
Chương Mỹ, phía đông có sông Đáy,
phía tây có con sông con gọi là
sông Bùi, chảy vào sông Đáy, chỗ
Ngã Ba Thá.
81 Chắc là một khúc sông Đáy thuộc hạt tỉnh
Hà Đông bây giờ.
82 Vợ con của quan Bố Chính thì phải 70 quan; vợ con
những sinh viên và thổ quan thì 10 quan; còn
những con trai, con gái đầy tớ, đứa ở thì 5 quan.
83 Minh trưng: chứng cớ rõ ràng.
84 Tứ ngược: Hết sức tàn ngược.
85 Khoa liễm: Thuế má.
86 Quan: Người không vợ; Quả: người góa chồng; Điên
Liên: những kẻ không có nhà ở, không
trông cậy vào đâu được.
87 Dục đông: ý nói muốn về lấy Đông Đô.
88 Hư tả: Cỗ xe không bên trái để đợi người hiền.
89 Vọng dương: Trông ra biển không thấy gì.
90 Chửng nịch: Vớt người chết đuối.
91 Vua Tuyên Tông nhà Minh, niên hiệu
Tuyên Đức.
Chương 15
Nhà Lê
(1428-1788)
I. Lê Thái Tổ
1. Bình-định-vương
lên ngôi tôn
2. Việc học-hành
3. Luật-lệ
4. Việc cai-trị
5. Phép
quân-điền
6. Việc binh-lính
7. Công thần bị giết
II. Lê Thái
Tông
III. Lê Nhân
Tông
1. Cai-trị
2. Việc thuế-lệ
3. Việc canh-nông
4. Nhà sinh-tế
5. Việc sửa phong-tục
6. Địa-đồ nước Nam
7. Đại-Việt sử-ký
8. Việc văn-học
9. Việc vũ-bị
10. Đánh
Chiêm-thành
11. Đánh
Lão-qua
12. Đánh Bồn-man
13. Việc giao-thiệp với
Tàu
V. Lê Hiến Tông
VI. Lê Túc
Tông và Lê Uy Mục
VII. Lê Tương Dực
1. Việc thuế-má
2. Đại-Việt
thông-giám
3. Sự biến-loạn
VIII. Lê Chiêu
Hoàng và Lê Cung Hoàng
1. Giặc Trần Cao quấy-nhiễu
ở Đông-đô
2. Quan trong Triều
làm loạn
3. Mạc đăng Dung
chuyên quyền
I. Lê Thái Tổ ( 1428 - 1433 )
Niên-hiệu: Thuận Thiên
1. Bình Định Vương
Lên Ngôi Tôn.
Bình-định-vương là Lê Lợi có
công dẹp giặc Minh, đem lại giang-sơn cho nước nhà. Nhưng
vì trước phải lấy cớ lập con cháu nhà Trần để cầu
hòa với nhà Minh, cho nên phải tôn Trần Cao
lên làm vua. Nay việc chiến-tranh đã xong,
lòng người theo về Bình-định-vương, mà Trần Cao
cũng biết chừng không ai để cho mình ở yên,
bèn trốn vào châu Ngọc-Ma (thuộc phủ Trấn-ninh)
nhưng bị quan quân đuổi bắt được, đem về bắt phải uống thuốc độc
mà chết.
Trần Cao chết rồi, Bình-định-vương lên ngôi tức
là vua Thái-tổ nhà Lê, đặt quốc-hiệu
là Đại-Việt. Năm ấy là năm mậu-thân, lịch Tây
là năm 1428.
Vua Thái-tổ sai sứ sang cầu phong bên Tàu, nhưng
mà nhà Minh không chịu, bắt phải tìm con
cháu nhà Trần để lập lên làm vua. Sứ
nhà Minh đi về hai ba lần, sau vua Thái-tổ bắt các
quan viên và phụ lão trong nước làm tờ khai
rằng con cháu nhà Trần thật không còn ai
nữa, và xin phong cho ngài là Lê Lợi
làm vua nước Nam. Vua nhà Minh thấy vậy mới thuận phong
vương cho ngài.
Từ đấy lệ cứ 3 năm phải sang cống nhà Minh một lần, mà
lần nào cũng phải đúc hai người bằng vàng gọi
là: "đại thân kim nhân ". Có lẽ là
lúc đánh trận Chi-lăng có giết mất tướng
nhà Minh là Liễu Thăng và Lương Minh, cho
nên phải đúc hai người bằng vàng thế mạng.
Việc cầu phong và việc chịu cống nước Tàu là việc
thế bất-đắc-dĩ, vì rằng nước ta đối với nước Tàu
thì lớn nhỏ khác nhau nhiều lắm; vả lại nước ta một
mình lẻ-loi ở phía nam không có
vây-cánh nào cả, như vậy, nếu mà cứ
kháng-cự, không chịu kém một tí, thì
không bao giờ yên được. Mà dẫu bề ngoài
mình chịu kém nước Tàu, nhưng kỳ thực bề trong vẫn
tự chủ, chứ người Tàu không xâm-phạm gì đến
việc nước mình. Thế cũng là một sự giao-thiệp
khôn-khéo, làm cho nước được yên-trị.
Vua Thái-tổ lên ngôi rồi, phong thưởng cho
các công-thần: bên văn thì ông Nguyễn
Trãi đứng đầu, bên võ thì ông Lê
Vấn đứng đầu, cả thảy là 227 người đều được quốc-tính cả.
Ngài lại phong cho ông Nguyễn Trãi là
Quan-phục-hầu, ông Trần nguyên Hãn là
Tả-tướng-quốc, ông Phạm văn Xảo làm Thái-úy.
Những người công-thần vào bậc thứ nhất thì được
thưởng tước là Thượng-trí-tự, bậc thứ nhì
thì được tước là Đại-trí-tự, bậc thứ ba thì
được tước là Trí-tự.
2. Việc Học Hành.
Vua Thái-tổ sửa-sang việc học-hành, đặt trường
Quốc-tử-giám ở đất kinh-đô để cho con cháu
các quan viên và những người thường dân
tuấn-tú vào học-tập; mở nhà học và đặt thầy
dạy nho-học ở các phủ và các lộ. Rồi lại bắt
các quan văn vũ từ tứ phẩm trở xuống phải vào thi
Minh-kinh-khoa,
nghĩa là quan văn thì phải thi kinh-sử, quan vũ
thì phải thi vũ-kinh. ở các lộ cũng mở khoa thi Minh-kinh
để cho những người ẩn-dật ra ứng-thí mà chọn lấy
nhân-tài.
Những người đi tu đạo Phật, đạo Lão cũng bắt phải thi kinh điển
những đạo ấy; hễ ai thi trúng thì mới cho phép
được làm tăng và đạo-sĩ, ai thi hỏng thì phải về
tục làm ăn.
3. Luật Lệ.
Đặt ra luật-lệ mới theo như hình-luật nhà Đường:
có tội xuy, tội trượng, tội đồ, tội lưu và tội tử.
Tội xuy chia ra làm 5 bậc từ 10 roi đến 50 roi; tội trượng cũng
chia ra làm 5 bậc, từ 60 đến 100 trượng; tội đồ chia ra
làm 3 bậc: đồ làm dịch đinh, đồ làm lính
chuồng voi, và đồ làm lính đồn-điền; tội lưu chia
ra làm 3 bậc : lưu đi cận châu, lưu đi viễn châu
và lưu đi ngoại châu 92 ; tội tử cũng chia ra làm 3
bậc: tội thắt cổ và chém, tội chém bêu đầu
và tội lăng-trì.
Hễ ai được vào hàng bát nghị 93
thì trước phải tâu xin nghị, khi vào nghị xong rồi
lại phải tâu để vua xét lại. Những người cựu thần
có công từ ngũ-phẩm dĩ thượng, có ai phạm tội đồ
hay là tội lưu thì cũng tha cả; con cháu những
người được
nghị công
mà có tội, thì cứ theo cái thứ bậc tập
92
Lưu đi cận châu là vào Nghệ-an, đi viễn châu
là vào Bố-chính, đi ngoại châu là
vào Tân-bình. 93
Bát nghị là : Nghị thân, nghị cố, nghị hiền, nghị
năng, nghị công, nghị quí, nghị cần, nghị tân. Xem ở
sách Chu-lễ thì biết rõ. ấm của ông cha
mà giảm cho. Những quan viên, quân dân ai
có lầm-lỗi, nhỡ ra phạm đến tội lưu trở xuống thì được
cho chuộc. Những người 70 tuổi trở lên, 15 tuổi trở xuống hay
là có phế-tật mà phạm tội lưu trở xuống,
thì cũng được cho chuộc. Những người 80 tuổi trở lên, 10
tuổi trở xuống hay là đốc-tật, thì cứ thứ-tự giảm bớt
cho. Những người phạm tội gì hay là phạm tội ăn-trộm,
ăn-cắp của người ta mà tự mình ra thú nhận trước,
thì được lượng tội mà giảm cho ít nhiều.
Trong nước bấy giờ có nhiều người du-đãng cứ rượu
chè cờ bạc, không chịu làm ăn tử-tế, vậy nên
đặt ra phép nghiêm để trừng-trị : ai đánh
đổ-bác bắt được phải chặt ngón tay mất ba phân;
đánh cờ, bắt được phải chặt ngón tay mất một phân;
không có việc gì quần-tụ nhau để rượu chè,
phải đánh 100 trượng, người dung chứa những kẻ ấy cũng phải tội,
nhưng mà được giảm đi một bậc.
Sự nghiêm-phạt như thế, thì có
thái-quá thật, vì là làm
tàn-hại đến thân-thể người ta, nhưng mà cũng
có công-hiệu, khiến cho trong nước bớt có thứ người
cả đời không chịu làm gì, chỉ đi đánh lừa
người mà kiếm ăn.
4. Việc Cai Trị.
Khi vua Thái-tổ mới ở Nghệ-an ra Đông-đô, thì
đã chia nước ra làm bốn đạo, nay lại đặt thêm một
đạo nữa gọi là Hải-tây- đạo, gồm cả Thanh-hóa,
Nghệ-an, Tân-bình và Thuận-hóa.
Trong các đạo, đạo nào cũng có quan
Hành-khiển để giữ sổ-sách về việc quân-dân.
Còn như các xã-thôn thì cứ xã
nào có hơn 100 người trở lên, gọi là đại
xã, đặt ba người xã quan; xã nào có
50 người trở lên, gọi là trung xã, đặt hai
xã quan; xã nào có 10 người trở lên
gọi là tiểu xã, đặt một người xã quan để coi việc
trong xã.
5. Phép Quân Điền.
Bấy giờ thường những người không có công-lao
gì với nhà-nước thì lắm ruộng nhiều nương,
mà những kẻ phải đánh đông dẹp bắc lao-lung khổ-sở,
lúc về một tấc đất cũng không có. Vì thế cho
nên vua Thái-tổ định ra phép quân-điền
để lấy công điền, công thổ mà chia cho mọi người, từ
quan đại-thần cho đến những người già yếu cô quả, ai cũng
có một phần ruộng, khiến cho sự giàu nghèo ở trong
nước khỏi chênh-lệch lắm.
6. Việc Binh Lính.
Khi giặc Minh hãy còn ở nước Nam, thì phải cần
có nhiều quân binh, cho nên lúc quân
An-nam ta mới ra Đông-đô, cả thảy được 25 vạn, sau lấy được
Đông-đô rồi cho 15 vạn về làm ăn, chỉ để lại 10 vạn
để phòng-vệ mà thôi, nay lại chia quân ra
làm 5 phiên, một phiên ở lại lưu ban còn bốn
phiên cho về làm ruộng, cứ lần lượt thay đổi nhau
mà về.
7. Công Thần Bị Giết.
Vua Thái-tổ vẫn là một ông vua anh
tài, đánh đuổi được giặc Minh, mà lại sửa-sang
được nhiều công-việc ích-lợi cho nước, nhưng khi
ngài lên làm vua rồi, có tính hay
nghi-ngờ, chém giết những người công-thần như ông
Trần nguyên Hãn và ông
Phạm văn Xảo. Hai
ông ấy giúp ngài đã có công to,
về sau chỉ vì sự gièm-pha mà đều phải chết oan cả.
Nghĩ mà buồn thay cho mấy người công-thần đời xưa, chỉ lầm
về hai chữ công danh, mà đem tấm lòng son sắt đi
phù-tá quân-vương trong lúc nguy-nan, mong
được chút hiển-vinh để cho thỏa cái chí trượng-phu
ở đời. Ngờ đâu : chim bay
đã hết, cung tốt cất đi, thỏ nhanh chết rồi, chó săn phải
giết; đến khi công việc xong rồi, thì không
những là một thân mình cũng không được trọn
vẹn mà cả họ-hàng thường cũng phải vạ lây. Thế mới
biết chỉ có ôn Trương tử Phòng nhà
Hán là người kiến cơ hơn cả !
Vua Thái-tổ làm vua được 6 năm thì mất, thọ được
49 tuổi.
II. Lê Thái Tông ( 1434
- 1442 )
Niên-hiệu: Thiệu Bình ( 1434 - 1442 ) Đại Bảo ( 1440 -
1442 )
Khi vua Thái-tông lên làm vua thì
ngài mới có 11 tuổi, cho nên công- việc
gì cũng ở quan Phụ-chính là Lê Sát
quyết định hết cả.
Lê Sát là một người ít học nhưng vì
trước theo vua Thái-tổ lập được công to, quan làm
đến Đại-tư-đồ. Nay làm Phụ-chính, thường hay cậy quyền,
trái phép, làm nhiều điều kiêu-hãnh,
hễ triều-thần ai là người không tòng-phục
thì tìm cách làm hại.
Vua Thái-tông tuy còn trẻ tuổi nhưng vốn có
tính thông-minh, làm vua được ít lâu
thì ra thân chính lấy, rồi giết Lê Sát
đi để thu lấy quyền. Song cũng vì ít tuổi mà lại
không có người phù-tá, cho nên sau
thành say- đắm tửu sắc làm lắm điều không được
chính-đính.
Đời Thái-tông làm vua thì trong nước phải
mấy năm đại hạn, nước lụt và hoàng-trùng
làm hại mùa-màng, dân phải đói khổ. ở
mạn mường- mán lại có đôi ba đám giặc nổi
lên làm loạn, có khi vua phải thân chinh đi
đánh, có khi chỉ sai quan đi tiểu-trừ, cũng dẹp yên
được. Còn việc giao- thiệp với những nước lân-bang, như
Tiêm-la (Thái-lan), Chiêm-thành, Ai-lao
thì những nước ấy đều có sứ thần đi lại và thường
có tiến cống cả.
Ở trong thì chỉnh-đốn việc thi-cử lại. Lệ cứ 5 năm một lần thi
hương, 6 năm một lần thi hội. Phép thi thì kỳ đệ-nhất
làm một bài kinh- nghĩa, bốn bài tứ-thư nghĩa, mỗi
bài phải 300 chữ trở lên; kỳ đệ-nhị thì làm
bài chiếu, bài chế và bài biểu; kỳ đệ-tam
làm bài thi phú; kỳ đệ-tứ thì làm
một bài văn sách phải 1.000 chữ trở lên.
Đến năm nhâm-tuất (1442) mở khoa thi tiến-sĩ, bao nhiêu
những người thi đỗ đều được khắc tên vào bia đá để
phấn-chấn lòng người văn- học. Các tiến-sĩ được khắc
tên vào bia ở Văn-miếu khởi đầu từ đấy.
Những cách-thức tiêu-dùng tiền và lụa vải ở
trong nước cũng định lại cả; cứ 60 đồng là một tiền; lụa
thì cứ dài 30 thước, rộng 1 thước 5 tấc trở lên
là một tấm; giấy thì 100 tờ làm một tập.
Tháng bảy năm nhâm-tuất (1442), Thái-tông đi
duyệt binh ở huyện Chí-linh. Bấy giờ ông Nguyễn
Trãi đã về trí sĩ ở trại Côn-sơn, thuộc
huyện Chí-linh. Khi vua đi qua đó có vào
thăm, và thấy người hầu ông ấy là Nguyễn thị Lộ
có tài sắc, bèn bắt theo hầu. Đi đến huyện
Gia-định (nay là huyện Gia-bình ở Bắc-ninh) thì
vua mất. Triều-đình đổ tội cho Nguyễn thị Lộ giết vua, bắt
ông
Nguyễn Trãi làm tội và tru di cả ba họ.
Vua Thái-tông làm vua được 9 năm, thọ được 20 tuổi.
III. Lê Nhân Tông ( 1443
- 1459 ) Niên-hiệu: Đại Hòa ( 1443 - 1453) Diên Ninh
( 1454 - 1459 )
Khi vua
Thái-tông mất, thái-tử là Băng Cơ mới
lên 2 tuổi. Các quan đại-thần là bọn Lê Khả,
Nguyễn Xí, lập thái-tử lên làm vua, tức
là Nhân-tông, để bà
Hoàng-thái-hậu ra nhiếp chính.
Trong mấy năm bà thái-hậu cầm quyền, thì có
mấy việc quan-trọng như là đặt ra 14 điều hộ-luật về việc
tư-điền; đổi cách thi để lấy người làm lại, bỏ thi
ám-tả và thi kinh-nghĩa, chỉ thi viết và thi
tính mà thôi. Lại đào sông
Bình-lỗ 94
ở tỉnh Thái-Nguyên để cho tiện đường vận-tải.
Còn ở ngoài, thì vua nước Chiêm-thành
là Bí Cai cứ hay sang cướp phá ở đất
Hóa-châu. Triều-đình đã mấy phen sai quan
vào đánh đuổi, nhưng vẫn không chừa. Đến năm
bính-dần (1446) Triều-đình sai Lê Thụ, Lê Khả
đem quân sang đánh Chiêm-thành lấy được
thành Đồ-bàn, bắt được Bí Cai và cả phi tần
đem về để ở Đông-kinh, rồi lập người cháu vua Bồ-đề
là Mã-kha-qui-Lai lên làm vua.
Năm mậu-thìn (1448) lại có xứ Bồn-man xin nội thuộc nước
ta, đặt làm châu Qui-hợp. Đất Bồn-man phía
đông-nam giáp tỉnh Nghệ-an, tỉnh Quảng-bình,
phía tây-bắc giáp tỉnh Hưng-hóa, tỉnh
Thanh-hóa.
Tuy vậy, nhưng vì bà Thái-hậu hay nghe những lời
nói gièm, chém giết các quan cựu-thần như
là Lê Khả, Lê khắc Phục, làm cho nhiều người
không phục.
Năm quí-dậu (1453), Nhân-tông mới bắt đầu thân
chính. Trước hết ngài truy-tặng cho những người
công-thần và cấp ruộng quan-điền cho con cháu
các ông Lê Sát, Lê Ngân,
và Lê khắc Phục.
Lại sai ông Phan phù Tiên làm bộ quốc-sử kể
từ vua Thái-tông nhà Trần cho đến khi thuộc
nhà Minh, cả thảy là 10 quyển.
Trước các vương-hầu và các quan văn-vũ đều cứ theo
phẩm-hàm của mình mà ăn lộc lấy thuế trong 50 hộ
hay là 100 hộ. Nay Nhân-tông lại cho thêm tiền
tuế-bổng nữa.
Vua Nhân-tông có lẽ cũng nên được một
ông vua hiền, nhưng chẳng may ngài có người anh
là Lạng-sơn-vương Nghi Dân, trước đã làm
Thái-tử, sau vì người mẹ phải tội cho nên phải bỏ.
Đến năm kỷ-mão (1459), Nghi Dân đồng mưu với bọn Lê
đắc Ninh, Phạm Đồn, Phan Ban và Trần Lăng, nửa đêm
trèo thành vào giết Nhân-tông
và Hoàng-thái-hậu, tự xưng làm vua, rồi cho
sứ sang Tàu cầu phong.
Nhân-tông trị-vì được 17 năm, thọ 19 tuổi.
94
"Khâm-định Việt-sử" chép rằng sông Bình-lỗ
chảy từ Thái-nguyên về đến Phù-lộ, thì
có lẽ sông Bình-lỗ là sông
Cà-lồ chăng?
IV. Lê Thánh Tông
( 1460 - 1497 )
Niên-hiệu: Quang
Thuận ( 1460 - 1469) Hồng Đức ( 1470 - 1497 )
Nghi Dân
cướp ngôi vua được 8 tháng, nhưng vì tính
hay nghe lời dua-nịnh, chém giết kẻ cựu thần, cho nên
lòng người không ai phục, đến tháng sáu năm
canh-thìn (1460) các quan đại-thần là bọn Nguyễn
Xí, Đinh Liệt mưu chém Phạm Đồn và Phan Ban ở giữa
nghị-sự-đường, rồi đóng cữa thành lại vào bắt Nghi
Dân giết đi, rước con thứ tư vua Thái-tông là
Bình- nguyên-vương Tư-Thành lên làm
vua, tức là vua Thánh-tông.
Thánh-tông là một ông vua thông-minh,
thờ mẹ rất có hiếu, ở với bề tôi đãi lấy
lòng thành. Ngài trị-vì được 38 năm,
sửa-sang được nhiều việc chính-trị, mở-mang sự học hành,
chỉnh-đốn các việc vũ-bị, đánh dẹp nước Chiêm, nước
Lào, mở thêm bờ-cõi, khiến cho nước Nam ta bấy giờ
đuợc văn- minh thêm ra và lại lừng-lẫy một phương, kể từ
xưa đến nay chưa bao giờ cường-thịnh như vậy.
Thánh-tông lên ngôi rồi phong tước và
cấp ruộng quan điền cho các công-thần. Ngài lại
truy-tặng những người công-thần bị giết oan ngày trước,
và cho tìm con cháu ông Nguyễn Trãi
về, cấp cho 100 mẫu ruộng để phụng- thờ tổ-tiên.
Những người mà được quốc-tính, nay ngài cho phục
tính lại để cho khỏi mất tên họ.
1. Việc Cai Trị.
Từ trước đến giờ triều-chính vẫn theo lối cũ của nhà Trần
: trên thì có tả hữu Tướng-quốc, rồi đến Lễ-bộ,
Lại-bộ, Nội- các-viện, Trung-Thư, Hoàng-Môn,
và ba sở Môn-hạ, lại có ngũ-đạo Hành- khiển
để coi sổ-sách quân-dân các đạo. Đến khi Nghi
Dân cướp ngôi, đặt ra lục Bộ và lục Khoa. Lục Bộ
là : Lại-bộ, Hộ-bộ, Lễ-bộ, Binh-bộ, Công-bộ và
Hình-bộ. Lục khoa là : Lại-khoa, Lễ-khoa, Binh-khoa,
Hình-khoa, Hộ-khoa và Công-khoa.
Quan lục bộ thì có Thượng-thư làm đầu, rồi đến tả
hữu Thị-lang, Lang-trung, Viên-ngoại-lang, Tư-vụ.
Thánh-tông đặt thêm ra lục tự là :
Đại-lý-tự, Thái-thường-tự, Quang- lộc-tự,
Thái-bộc-tự, Hồng-lô-tự, Thượng-bảo-tự. Quan Lục Tự
thì có Tự- khanh, Thiếu-khanh và Tự-thừa.
Ngài lại lập ra quan chế và lễ-nghi theo như bên
Tàu. Các quan văn võ có phần ruộng đất, lại
được tiền tuế bổng. Nhưng ai mà làm điều gì
nhũng-lạm thì đều phải nghiêm trị.
Ngài lại định lệ trí sĩ, cho các quan nội ngoại :
ai làm quan đến 65 tuổi thì được xin về trí sĩ,
còn những người làm nha-lại đến 60 tuổi cũng được xin về.
Trước vua Thái-tổ chia ra làm 5 đạo, có phủ, lộ,
trấn, châu, huyện, xã. Đạo thì đặt quan
Hành-khiển, Tuyên-phủ chánh phó-sứ; phủ
thì đặt Tri- phủ; lộ thì đặt An-phủ-sứ; trấn thì
đặt Trấn-phủ-sứ; huyện thì đặt Chuyển- vận-sứ và
Tuần-sát-sứ; xã thì đặt Xã-quan.
Thánh-tông chia nước ra làm 12 đạo là
Thanh-hóa, Nghệ-an, Thuận-hóa, Thiên-trường,
Nam-sách, Quốc-oai, Bắc-giang, An-bang, Hưng- hóa,
Tuyên-quang, Thái-nguyên, Lạng-sơn. Mỗi đạo
có tòa Đô, tòa Thừa và tòa
Hiến. Tòa Đô thì có chánh phó
Đô-tổng-binh, coi về việc binh; tòa Thừa thì
có Thừa-chính chánh-phó-sứ, coi về việc
chính; tòa Hiến thì có Hiến-sát
chánh-phó-sứ, coi về việc hình.
Lại đặt ra chức Giám sát-ngự-sử để đi xem xét
công-việc ở các đạo cho khỏi sự nhũng-nhiễu.
Sau nhân có đất Quảng-nam mới lấy của
Chiêm-thành lại đặt ra làm 13 xứ là
Thanh-hóa, Nghệ-an, Sơn-nam (trước là
Thiên-trường), Sơn-tây (trước là Quốc-oai), Kinh-bắc
(trước là Bắc-giang), Hải-dương (trước là Nam-
sách), Thái-nguyên, Tuyên-quang,
Hưng-hóa, Lạng-sơn, An-bang, Thuận- hóa, Quảng-nam. Ở
những xứ hiểm-yếu như Nghệ-an, Thuận-hóa, Tuyên- quang,
Hưng-hóa, Thái-nguyên, Lạng-sơn, Quảng-nam đều đặt
chức Thủ- ngự kinh-lược-sứ để phòng giữ. Trong 13 xứ ấy lại chia
làm 52 phủ, 172 huyện và 50 châu. Còn ở dưới
phủ huyện thì có hương, phường, xã, thôn,
trang, sách, động, nguyên, trưởng cả thảy là 8.006.
2. Việc Thuế Lệ.
Bấy giờ thuế đinh mỗi người đồng niên đóng 8 tiền;
còn thuế ruộng, thuế đất và thuế đất bãi trồng
dâu thì cứ kể mẫu mà đóng thuế, mà
thứ đất nào cũng chia ra làm ba hạng.
Việc làm sổ hộ, thì cứ 6 năm một kỳ, quan phủ huyện phải
dẫn các xã-trưởng về Kinh để khai số hộ-khẩu ở các
xã.
3. Việc Canh Nông.
Vua Thánh-tông lấy sự nông-tang làm trọng,
cho nên ngài chú ý về việc ấy lắm. Thường
thường ngài sắc cho phủ huyện phải hết sức khuyên bảo
dân làm việc cày ruộng trồng dâu.
Đặt quan Hà-đê và quan Khuyến-nông để coi
việc cày cấy trong nước. Bắt quan Hộ-bộ và quan
Thừa-chính ở các xứ phải tâu cho ngài biết
những đất bỏ hoang để bắt phủ huyện đốc dân phu khai-khẩn
làm ruộng.
Lập ra cả thảy 42 sở đồn-điền, đặt quan để trông-nom sự
khai-khẩn, khiến cho dân khỏi phải đói-khổ.
4. Nhà Tế Sinh.
Vua Thánh-tông lại lo đến các chứng bệnh làm
hại dân. Ngài lập nhà Tế-sinh để nuôi những
người đau-yếu, và khi nào ở đâu có dịch tễ
thì sai quan đem thuốc đi chữa bệnh.
5. Việc Sửa Phong Tục. Dân ta bấy giờ sùng-tín đạo
Phật, hay làm đình làm chùa. Những lễ
hôn và lễ tang thì làm những điều
trái với lẽ thường, như là nhà nào
có tang-chế thì làm cỗ bàn ăn-uống, rồi
bày ra các trò hát xướng, làm một
cuộc vui chơi. Lễ hôn thì ăn lễ hỏi rồi, để ba bốn năm mới
cho rước dâu về nhà chồng.
Thánh-tông cấm không cho làm chùa mới,
để tiền của và công-phu mà làm việc
có ích. Cấm những nhà có lễ tang
không được bày cuộc hát xướng. Việc hôn
thì khi đã nhận lễ hỏi rồi, phải chọn ngày cho
rước dâu, và lệ cứ cưới rồi ngày hôm sau đi
chào cha mẹ, ba ngày thì đi lễ từ đường.
Ngài lại đặt ra 24 điều, sức cho dân-xã thường
thường giảng đọc để giữ lấy thói tốt :
1. Cha mẹ dạy con phải có phép-tắc, trai gái đều
có nghề-nghiệp, không được rượu-chè cờ-bạc, tập
nghề hát-xướng để hại phong-tục.
2. Người gia-trưởng tự mình phải giữ lễ-phép để cho cả
nhà bắt-chước; nếu con em làm càn, thì bắt
tội người gia trưởng.
3. Vợ chồng cần-kiệm làm ăn, ân-nghĩa trọn-vẹn, duy chỉ
có khi nào người vợ phạm tội thất-xuất thì mới
được bỏ, chứ không được khiên ái cẩu dung
làm hại đến phong-hóa.
4. Làm kẻ tử-đệ nên yêu-mến anh em, hòa-thuận
với hương-đảng, phải lấy lễ-nghĩa mà cư-xử; nếu trái
phép thì người tôn-trưởng đánh-đập dạy-bảo,
có tội to thì phải đem nộp quan để trừng-trị.
5. ở chốn hương-đảng tông-tộc, có việc hoạn-nạn thì
phải giúp-đỡ lẫn nhau; nếu ai có tiếng là người
hạnh-nghĩa tốt, thì các quan phủ huyện sở tại phải bẩm
lên tòa Thừa, tòa Hiến, để tâu vua mà
tinh biểu cho.
6. Đàn-bà có lỗi mà cha mẹ và chồng
đã trừng-trị thì nên phải sửa mình đổi lổi,
không được tự-tiện trốn đi, làm hư mất nết
đàn-bà.
7. Người đàn-bà góa không được chứa những
đứa trai trẻ ở trong nhà, nói dối là con
nuôi để ám hành những việc gian dâm.
8. Người đàn-bà góa chồng, đối với các con
vợ cả, hoặc vợ lẽ, nàng hầu, nên có lòng
thương-xót, không được mưu-mô để chiếm đoạt
gia-tài làm của riêng mình.
9. Đàn-bà góa chồng, chưa có
con-cái, phải ở nhà chồng để giữ đủ tang-lễ, không
được chuyển-vận, của-cải mang về nhà mình.
10. Làm đàn-bà thì phải theo chồng,
không được cậy cha mẹ mình phú-quí mà
khinh nhà chồng, nếu không như thế thì bắt tội đến
cha mẹ.
11. Kẻ sĩ-phu nên quí phẩm-hạnh và giữ phép
quan, nếu cứ xu-nịnh những kẻ quyền quí để cậy thế làm
càn thì phải cách bỏ đi không kể đến nữa.
12. Kẻ điển-lại chỉ việc giữ sổ-sách giấy-má để
làm việc quan, nếu làm những sự điên-đảo án
từ, thì quan trên sẽ xét ra mà trừng trị.
13. Quan dân đều phải hiếu-để, và chăm-chỉ làm
ruộng, cùng giúp đỡ lẫn nhau; khi đi làm việc
quan, không được trễ biếng, trốn-tránh. Nếu ai có
tiếng là người lương-thiện thì các quan phủ huyện
phải trình tòa Thừa, tòa Hiến để tâu
mà tinh biểu cho.
14. Kẻ thương-mãi phải tùy thời giá mà
buôn-bán với nhau, không được thay đổi thưng đấu,
và tụ-tập đồ-đảng để đi trộm-cướp; nếu phạm điều ấy thì
trị tội rất nặng.
15. Việc hôn-giá tế-tự phải giữ lễ-phép,
không được làm càn.
16. Chỗ dân-gian có mở trường du-hí hoặc
cúng-tế, thì con-trai con-gái đến xem, không
được đứng lẫn lộn, để khỏi thói dâm.
17. Các hàng quán bên đường, có
phụ-nữ đi xa đến trọ, thì phải phòng giữ. Nếu để
hà-hiếp ô-nhục người ta, việc phát-giác ra,
thì người phạm cùng với chủ nhà đều phải trị tội
cả.
18. Phủ huyện phải lập bia ở các nơi sở-tại để cấm con-trai
con-gái không được cùng tắm một bến, để cho
có phân biệt.
19. Các xã-thôn phải chọn một vài người
già-cả, đạo-đức làm trưởng, những ngày thong-thả
đem dân ra đình, tuyên giảng những lời cáo
dụ, để khiến dân bắt-chước làm điều thiện, thành ra
mỹ tục.
20. Trong hạt phủ huyện có kẻ cường-hào xâm-chiếm
điền-thổ, ức-hiếp cô- độc và xui-giục người ta kiện-tụng,
thì cho xã-thôn cáo giác lên để
quan xử- trị, nếu mà ẩn-nặc thì phải biếm-bãi.
21. Các nhà vương, công, đại-thần dung túng
những đứa tiểu-nhân, đưa người khấn lễ, và để cho người
nhà đi ức-hiếp dân-gian mà mua rẻ các đồ
vật, thì cho dân được đầu cáo để trọng trị.
22. Những người làm quan phủ, huyện mà biết
khuyên-bảo dân-gian làm điều lễ-nghĩa
khiêm-nhượng, có quan Thừa-chính, Hiến-sát
xét thực, thì được cho vào hạng tốt; nếu ai
không chăm dạy-bảo dân thì cho là người
không xứng chức.
23. Các người huynh-trưởng ở chốn xã-thôn và
phường biết dạy bảo con em trong làng cho nên được
phong-tục tốt, thì quan phủ huyện phải bẩm tòa Thừa,
tòa Hiến để tâu vua ban khen cho.
24. Các dân mường-mán ở ngoài bờ-cõi,
nên giữ lời di-huấn, không được trái đạo
luân-thường như cha, anh, chú, bác đã chết
thì con em không được chiếm lấy những thê-thiếp, nếu
mà trái phép, thì sẽ trị tội rất nặng.
6. Địa Đồ Nước Nam.
Từ xưa đến nay nước Nam ta vẫn không có địa-đồ,
Thái-tông bèn sai quan ở các đạo xem
xét ở trong hạt mình có những núi
sông gì, hiểm-trở thế nào phải vẽ địa-đồ ra cho
rõ-ràng và chỗ nào tự cổ chí kim
có những sự-tích gì phải ghi-chép
vào cho tường-tận, rồi gửi về bộ Hộ để làm quyển địa-dư
nước ta.
7. Đại Việt Sử Ký.
Thánh-tông sai Ngô sĩ Liên làm bộ
Đại-Việt sử-ký chia ra làm 2 bản. Một bản kể từ
Hồng-bàng-thị cho đến thập-nhị Sứ- quân có 5 quyển.
Một bản kể từ Đinh Tiên-hoàng cho đến Lê
Thái-tổ có 10 quyển. Cả thảy là 15 quyển.
8. Việc Văn Học.
Vua Thánh-tông định phép thi hương, sửa phép
thi hội, để chọn lấy nhân-tài. Thường ngài ra
làm chủ các kỳ thi đình, và ngài lập
ra lệ xướng danh các Tiến-sĩ và lệ cho về vinh qui.
Ngài mở rộng nhà Thái-học ra. Phía trước
thì làm nhà Văn-miếu, phía sau thì
làm nhà Thái-học, và làm ra
các phòng ốc để cho những kẻ sinh-viên ở học.
Làm kho Bí-thư để mà chứa sách. Sự học bấy
giờ càng ngày càng mở-mang thêm.
Ngài lại hay ngâm thi, đặt ra Quỳnh-uyển cửu-ca, xưng
làm Tao-đàn nguyên-súy, cùng với kẻ
triều-thần là bọn ông Thân nhân Trung, Đỗ
Nhuận, cả thảy 28 người xướng họa với nhau. Non xanh nước biếc chỗ
nào cũng có thơ của ngài.
Ngài sai ông Thân nhân Trung và
ông Đỗ Nhuận làm bộ Thiên-nam dư-hạ-tập, 100 quyển
nói về việc chính là hình-luật đời
Hồng-đức. Ngài làm ra một quyển Thân-chinh
ký-sự, kể việc ngài đi đánh
Chiêm-thành, Lão-qua và các mường.
9. Việc Võ Bị.
Tuy rằng vua Thánh-tông hết lòng sửa-sang mọi việc
trong nước, nhưng ngài cũng hiểu rằng phàm một nước
mà cường-thịnh thì tất là phải có
võ-bị, cho nên ngài bắt các quan tổng-binh
phải chăm giảng-tập trận-đồ, phải luyện-tập sĩ-tốt để phòng khi
có việc.
Ngài đổi năm Vệ-quân ra làm năm phủ là :
Trung-quân phủ, Nam quân-phủ, Bắc-quân phủ,
Đông-quân phủ và Tây-quân phủ. Mỗi một
phủ thì có 6 vệ, mỗi vệ có 5 hay là 6 sở,
mỗi sở có số quân độ 400 người. Quân cả 5 phủ ước
chừng 6, 7 vạn người. Ngài lại đặt ra 31 điều quân lệnh để
tập thủy trận; 42 điều để tập bộ trận.
Lại đặt ra lệ cứ ba năm một kỳ thi võ. Tướng-sĩ ai đậu
thì thưởng, ai hỏng thì phạt, để khiến mọi người đều vui
lòng về việc võ-bị.
Đời vua Thánh-tông mấy năm về trước cũng được yên
ổn, nhưng mấy năm về sau thì phải chinh-chiến nhiều lần. Khi
thì phải đánh giặc Lào, khi thì đánh
những giặc cỏ ở trong nước; nhưng chỉ có đánh
Chiêm-thành, đánh Lão-qua và
đánh Bồn-man là phải dùng đến đại-binh.
10. Đánh Chiêm Thành.
Năm canh-thìn (1470) là năm Hồng-đức
nguyên-niên, vua nước Chiêm-thành là
Trà Toàn muốn sinh sự với nước Nam. Một mặt thì
cho người sang cầu viện-binh bên nhà Minh, một mặt
thì đem quân sang đánh phá ở đất
Hóa-châu.
Vua Thánh-tông cho sứ sang Tàu kể chuyện Trà
Toàn làm nhiễu, rồi ngài tự làm tướng, cử
đại-binh hơn 20 vạn sang đánh Chiêm-thành; khi
quân vào đến Thuận-hóa, Thánh-tông
đóng quân lại để luyện-tập và sai người lẻn sang vẽ
địa-đồ nước Chiêm-thành để biết cho rõ chỗ hiểm chỗ
không rồi mới tiến binh lên đánh lấy cửa Thị-nại
(cửa Bình-định).
Trà Toàn đánh thua, rút quân về giữ
kinh-thành Đồ-bàn. Quân An- Nam kéo đến
vây đánh, phá được thành, bắt được
Trà Toàn.
Bấy giờ có tướng Chiêm-thành là Bô
trì Trì chạy về đất Phan-lung, sai sứ vào cống
và xin xưng thần. Thánh-tông có ý
muốn làm cho nước Chiêm yếu thế đi, mới chia đất ra
làm ba nước, phong làm ba vua, một nước gọi là
Chiêm-thành, một là Hóa-anh và một
nước nữa là Nam-phan.
Còn đất Đồ-bàn, đất Đại-chiêm và đất Cổ-lũy
thì vua Thánh-tông lấy để lập thêm đạo
Quảng-nam, có 3 phủ, 9 huyện, rồi đặt quan cai-trị, và
chọn dân đinh từ 15 tuổi trở lên, ai là người
thông-minh ham học thì cho làm sinh-đồ, để dạy cho
sự học-hành và sự lễ-nghĩa.
Khi Trà Toàn đã phải bắt rồi, em là
Trà Toại trốn vào núi, sai người sang kêu
với nhà Minh và xin phong làm vua.
Thánh-tông biết tin ấy liền sai ông Lê Niệm
đem 3 vạn quân vào bắt được Trà Toại giải về
kinh-sư. Sau vua nhà Minh có sai sứ sang bảo ngài
phải trả đất Chiêm-thành, nhưng ngài không
chịu.
Từ khi vua Thánh-tông đánh được
Chiêm-thành rồi, thanh-thế nước Nam lừng-lẫy, nước
Lào và các mường ở phía tây đều về
triều cống cả.
11. Đánh Lão Qua.
Đến năm kỷ-hợi (1479) có tù-trưởng xứ Bồn-man là
Cầm Công có ý làm phản, xui người
Lão-qua 95
đem binh quấy- nhiễu ở miền tây nước ta. Thánh-tông
liền sai quan Thái-úy là Lê thọ Vực
95
Lão-qua, là đất thượng Lào ở về phía
tây Bắc-Việt bây giờ tức là Luang-Prabang. Có
khi gọi là nước Nam-chướng. cùng với các tướng
quân là Trịnh công Lộ, Lê đình Ngạn,
Lê Lộng và Lê nhân Hiếu chia làm 5 đạo
đi từ Nghệ-an, Thanh-hóa và Hưng-hóa sang
đánh đuổi vua Lão-qua đến sông Kim-sa 96
giáp với nước Diến-điện. Trận ấy quân An- nam được
toàn thắng.
12. Đánh Bồn Man.
Gây nên sự đánh Lão-qua là cũng
vì họ Cầm ở Bồn-man muốn làm điều phản-nghịch.
Nguyên đất Bồn-man trước đã xin nội thuộc, đổi làm
châu Qui-hợp, nhưng vẫn để cho tù-trưởng là họ Cầm
được đời đời làm Phụ-đạo. Sau đổi làm Trấn-ninh phủ,
có 7 huyện, và đặt quan phủ huyện để giám-trị. Nay
Cầm Công cậy có người Lão-qua giúp-đỡ,
bèn đuổi quân An-nam đi, chiếm lấy đất, rồi đem quân
chống giữ với quan quân.
Thánh-tông bèn ngự giá thân-chinh,
nhưng đi đến Phù-liệt, được tin thắng trận của quân ta
sang đánh Lão-qua, ngài trở về, sai ông
Lê Niệm đem binh đi đánh. Cầm Công đánh thua
chết, còn những người Bồn-man xin hàng.
Thánh-tông phong cho người họ Cầm Công là Cầm
Đông làm Tuyên- úy-đại-sứ và đặt quan
cai-trị như trước.
13. Việc Giao Thiệp Với Tàu.
Nước ta bấy giờ tuy phải theo lệ xưng thần với nhà Minh, nhưng
vua Thánh-tông vẫn hết lòng phòng- bị mặt
bắc. Thỉnh-thoảng có những người thổ-dân sang quấy-nhiễu,
thì lập tức cho quan quân lên tiễu-trừ và cho
sứ sang Tàu để phân-giải mọi sự cho minh-bạch. Có
một hôm được tin rằng người nhà Minh đem binh đi qua địa-
giới, Thánh-tông liền cho người lên do-thám
thực hư. Ngài bảo với triều- thần rằng : "Ta phải giữ-gìn
cho cẩn-thận, đừng để cho ai lấy mất một phân núi, một tấc
sông của vua Thái-tổ để lại."
Ngài có lòng vì nước như thế, cho nên
dẫu nước Tàu có ý muốn dòm-ngó cũng
không dám làm gì. Vả lại quân An-nam
bấy giờ đi đánh Lào, dẹp Chiêm, thanh-thế bao
nhiêu, nhà Minh cũng phải lấy lễ-nghĩa mà
đãi An-nam, cho nên sự giao-thiệp của hai nước vẫn được
hòa-bình.
Xem những công việc của vua Thánh-tông thì
ngài thật là một đấng anh-quân. Những sự văn-trị
và sự võ-công ở nước Nam ta không có
đời nào thịnh hơn là đời Hồng-đức. Nhờ có vua
Thái-tổ thì giang-sơn nước Nam mới
96
Theo địa-dư nước Tàu, thì Kim-sa-giang là
khúc trên sông Trưng-giang. Sông ấy chảy ở
phía bắc qua tỉnh Tây-khương và Tứ-xuyên.
Đây có lẽ là nhà chép sử lẫn với
khúc sông Lan-thương- giang là khúc
trên Cửu-long-giang còn, và nhờ có vua
Thánh-tông thì văn-hóa nước ta mới thịnh,
vậy nên người An-nam ta không bao giờ quên công
đức hai ông vua ấy.
Thánh-tông làm vua được 38 năm thọ được 56 tuổi.
V. Lê Hiến Tông ( 1497 - 1504 )
Niên-hiệu: Cảnh
Thống
Thái-tử là Tăng
lên nối ngôi làm vua, tức là vua
Hiến-tông.
Ngài là một ông vua thông-minh
hòa-hậu. Thường khi bãi triều rồi, ngài ra ngồi
nói chuyện với các quan, hễ ai có điều gì
trái phải, ngài lấy lời êm-ái mà
nhủ-bảo, chứ không gắt mắng bao giờ. Ngài vẫn hay
nói rằng : "Vua Thái-tổ đã gây-dựng cơ-đồ,
vua Thánh-tông đã sửa-sang mọi việc, ta nay chỉ
nên lo gìn-giữ nếp cũ, và mở-mang sự
nhân-chính ra cho sáng rõ công-đức của
ông cha trước."
Ngài theo cái chủ-ý ấy mà trị dân,
cho nên trong mấy năm ngài làm vua không
có giặc-giã gì, mà những việc
chính-trị đều theo như đời Hồng- đức, chứ không thay-đổi
gì cả. Nhất là về việc cày ruộng trồng dâu,
ngài lưu tâm khuyên-nhủ quan dân, khiến mọi
người phải hết sức giữ-gìn, bắt đào sông, khai
ngòi, đắp đường, làm xe nước, để cho tiện việc vệ
nông. Việc văn-học cũng vậy, không bao giờ ngài để
trể-nải. Nhưng ngài trị-vì được có 7 năm
thì mất, thọ được 44 tuổi.
VI. Lê Túc Tông ( 1504 ) và Lê Uy Mục (
1505 - 1509 ) Niên-hiệu: Thái Trinh và Đoan
Khánh
Hiến-tông mất, truyền ngôi lại cho người con thứ ba
tên là Thuần, tức là vua Túc-tông.
Túc-tông làm vua được 6 tháng thì
mất. Triều-đình tôn người anh thứ hai của ngài
là Tuấn lên làm vua, tức là vua Uy-mục.
Từ vua Uy-mục trở đi thì cơ-nghiệp nhà Lê mỗi
ngày một suy dần, vì rằng từ đó về sau không
có ông vua nào làm được việc
nhân-chính, và lại thường hay say-đắm tửu sắc,
làm những điều tàn-ác, cho nên thành
ra sự giặc-giã, thoán-doạt, đến nỗi về sau dẫu có
trung-hưng lên được, nhưng quyền chính-trị vẫn về tay kẻ
cường-thần.
Vua Uy-mục mới lên làm vua thì giết tổ-mẫu
là bà Thái-hoàng Thái- hậu, giết
quan Lễ-bộ Thượng-thư là ông Đàm văn Lễ và
quan Đô-ngự-sử là ông Nguyễn quang Bật, vì lẽ
rằng khi vua Hiến-tông mất, bà Thái-hậu và
hai ông ấy có ý không chịu lập ngài.
Đã làm điều bạo-ngược, lại say đắm tửu-sắc; đêm
nào cũng cùng với cung-nhân uống rượu, rồi đến khi
say thì giết đi. Có khi bắt quân sĩ lấy gậy
đánh nhau để làm trò chơi. Tính đã
hung-ác, mà lại hay phản-trắc. Cho nên sứ
Tàu sang làm thơ gọi Uy-mục là Quỉ-vương .
Bấy giờ Uy-mục lại hay tin dùng mấy kẻ ngoại-thích
và tìm những người có sức mạnh để làm
túc-vệ. Bởi thế cho nên Mạc đăng Dung là người
đánh cá vào thi đỗ đô-lực-sĩ, được
làm chức Đô-chỉ-huy-sứ. Còn những tôn- thất
và công-thần thì bị đánh-đuổi, dân sự
thì bị hà-hiếp, lòng người ta-oán,
thiên-hạ mất cả trông-cậy, triều-thần có nhiều người
bỏ quan trốn đi.
Tháng chạp năm kỷ-tị (1509) có Giản-tu-công
tên là Oanh cháu vua Thánh-tông,
là anh em con chú con bác với ngài, bị bắt
giam. Ông đút tiền cho người canh ngục mới được ra, trốn
về Tây-đô, rồi hội với các quan cựu- thần đem binh
ra đánh bắt vua Uy-mục và Hoàng-hậu Trần-thị giết
đi.
VII. Lê Tương Dực ( 1510 - 1516 )
Niên-hiệu: Hồng Thuận
Giản-tu-công
giết vua Uy-mục rồi tự lập làm vua, tức là vua Tương-
dực.
Vua Tương-dực tính hay chơi-bời và xa-xỉ, như là
sai người thợ tên là Vũ như Tô làm cái
điện 100 nóc, xây cái Cửu-trùng-đài,
bắt quân dân làm trong mấy năm trời không
xong, mà thật là hao-tổn tiền-của, chết hại nhiều người.
Rồi lại đóng chiến-thuyền bắt đàn-bà chèo
chơi ở hồ Tây. Lại tư- thông cả với những cung-nhân
đời tiền triều. Vì hoang dâm như thế cho nên sứ
nhà Minh sang trông thấy ngài, bảo rằng ngài
là tướng lợn,
sự loạn-vong chắc là sắp tới vậy.
1. Việc Thuế Má.
Việc thuế-má lúc bấy giờ thì đại-khái cũng
như mấy triều trước, nhưng không biết rõ tiền-tài
sản-vật đồng-niên thu được những gì. Đến đời vua Tương-dực
thấy sử chép rằng trước thì thuế vàng thuế bạc
đồng niên thu được :
Vàng mười, thứ tốt gọi là "kiêm-kim".. 480 lượng
Vàng mười
2.883 lượng
Bạc
4.930 lượng Nay vua Tương-dực định lệ đổi lại mỗi năm thu được :
Vàng mười thứ "kiêm-kim"
449 lượng
Vàng mười
2.901 lượng
Bạc
6.125 lượng
Những vàng bạc ấy là nộp vào kho để chi vua
tiêu-dùng. Còn cách thu-nộp thế nào
thì không rõ.
2. Đại Việt Thông Giám.
Đời bấy giờ có quan Binh-bộ Thượng-thư là ông Vũ
Quỳnh làm xong bộ Đại-Việt thông-giám; chia ra từ
họ Hồng-Bàng cho đến thập-nhị Sứ-quân làm ngoại-kỷ,
còn từ Đinh Tiên- hoàng đến Lê Thái-tổ
làm bản-kỷ, cả thảy là 26 quyển. Vua sai ông
Lê Tung soạn bài tổng-luận về bộ sử ấy.
3. Sự Biến Loạn.
Thời bấy giờ vua thì hoang chơi, triều-thần thì tuy
là có bọn ông Nguyễn văn Lang, ông Lê
Tung, ông Lương đắc Bằng, v.v... nhưng người thì
già chết, người thì xin thôi quan về. Vả cũng
không có ai là người có thể ngăn giữ được
vua và kinh-doanh được việc nước, cho nên trong nước
giặc-giã nổi lên khắp cả mọi nơi. ở đất Kinh-bắc
thì có Thân duy Nhạc, Ngô văn Tổng,
làm loạn ở huyện Đông-ngạn và huyện Gia-lâm;
đất Sơn-tây thì có Trần Tuân đánh
phá. Lại có tên Phùng Chương làm giặc
ở núi Tam-đảo; Trần công Ninh chống giữ ở huyện
An-lãng. Đất Nghệ-an thì có Lê Hy, Trịnh
Hưng, Lê văn Triệt làm phản. Lại ở huyện Thủy-đường (Hải-
dương) có Trần Cao thấy sấm nói rằng ở phương đông
có thiên-tử khí,
bèn cùng với đồ-đảng đánh lấy đất Hải-dương,
Thủy-đường, Đông-triều, rồi tự xưng là vua Đế-thích
giáng sinh, bởi thế thiên-hạ theo có hàng
vạn người.
Trần Cao đem quân về đóng ở đất Bồ-đề, bên kia
sông Nhị-hà, chực sang lấy Kinh-đô. Sau quan
quân sang đánh, Trần Cao lui về đóng ở Châu-
sơn, thuộc phủ Từ-sơn. Vua sai An-hòa-hầu là Nguyễn hoằng
Dụ sang đóng quân ở Bồ-đề để chống giữ.
Tuy trong nước giặc cướp như thế, nhưng vua cũng không chịu sửa-
sang việc gì cả, lại khinh-dể các quan triều-thần. Bấy
giờ có Nguyên-quận- công là Trịnh duy Sản,
trước vẫn có công đi đánh giặc, nhưng sau vì
hay can vua mà phải đánh. Trịnh duy Sản tức giận
bèn mưu với Lê quảng Độ và Trình chí
Sâm để lập vua khác, rồi giả mượn tiếng đi đánh
giặc, đêm đem binh vào cửa Bắc-thần giết vua Tương-dực.
Ngài trị-vì được 8 năm, thọ được 24 tuổi.
VIII. Lê Chiêu
Tông và Lê Cung Hoàng ( 1516 - 1527 )
Niên-hiệu: Quang Thiệu ( 1516 - 1526 ) Thống Nguyên (
1527 )
Bọn Trịnh duy Sản giết vua Tương-dực rồi, hội
triều-đình lại định lập con Mục-ý-vương là Quang
Trị, mới có 8 tuổi, nhưng Võ-tá-hầu là
Phùng Mại bàn nên lập cháu ba đời vua
Thánh-tông là con Cẩm-giang-vương tên
là Y, đã 14 tuổi. Đảng Trịnh duy Sản bắt Phùng Mại
chém ngay ở chỗ nghị-sự, rồi lập Quang Trị. Quang Trị mới
làm vua được ba ngày, chưa kịp đổi niên-hiệu
thì bị Trịnh duy Đại là anh Trịnh duy Sản đem vào
Tây-kinh. Quang Trị vào đấy được mấy ngày lại bị
giết.
Lúc trong triều còn đang rối loạn, chưa biết ai là
vua thì Nguyễn hoằng Dụ ở bến Bồ-đề được tin Trịnh duy Sản
đã giết vua Tương-dực, bèn đem quân về đốt
phá Kinh-thành và bắt Vũ như Tô, là
người đốc việc làm đền-đài cho vua Tương-dực, đem
chém ở ngoài thành.
Bọn Trịnh duy Sản lại lập con Cẩm-giang-vương là Y lên
làm vua, tức là vua Chiêu-tông.
Nhưng bây giờ Kinh-thành đã bị
tàn-phá rồi, Trịnh duy Sản phải rước vua vào
Tây-kinh.
1. Giặc Trần Cao Quấy Nhiễu ở Đông Đô.
Giặc Trần Cao thấy Triều-đình đã bỏ kinh-đô,
bèn đem quân sang chiếm lấy, rồi tiếm hiệu làm vua.
Triều-đình vào đến Tây-kinh, truyền hịch đi
các nơi lấy binh ra đánh Trần Cao.
Trịnh duy Sản, Nguyễn hoằng Dụ, Trịnh Tuy, Trần Chân và
các quan cựu thần phân binh ra vây Đông-kinh.
Trần Cao phải bỏ thành chạy lên đất Lạng-nguyên
(có lẽ là Lạng-sơn).
Triều-đình lại về Đông-kinh, rồi sai Trịnh duy Sản
lên Lạng-nguyên đuổi đánh Trần Cao. Trịnh duy Sản
khinh địch quá, bị giặc giết mất. Quan giặc lại về đóng ở
Bồ-đề. Vua sai Thiết-sơn-bá là Trần Chân đem
quân đánh tập hậu, phá được quân của giặc.
Trần Cao lại chạy về Lạng-nguyên, và thấy sự-nghiệp
không thành, bèn nhường quyền lại cho con là
Thăng rồi cắt tóc đi tu để trốn cho khỏi nạn.
2. Quan Trong Triều Làm Loạn.
Tuy giặc Trần Cao đã phá được, nhưng mà lúc
bấy giờ vua Chiêu-tông hãy còn trẻ tuổi, chưa
quyết-đoán được, mà Triều-thần thì không
có ai là người có chí giúp nước, đến
nỗi ngoài thì giặc làm loạn, trong thì
các quan sinh ra hiềm-thù, đem quân đánh lẫn
nhau, như là Nguyễn hoằng Dụ và Trịnh Tuy, hai người đi
đánh giặc về rồi mỗi người đóng quân một nơi để
chống-cự với nhau, vua can ngăn cũng không được.
ở trong triều thì bọn Trịnh duy Đại mưu sự làm phản, bị
người tố cáo ra, phải giết cả đảng.
Bọn Nguyễn hoằng Dụ và Trịnh Tuy cứ đánh nhau mãi,
sau Trần Chân bênh Trịnh Tuy đem quân đánh
Nguyễn hoằng Dụ. Nguyễn hoằng Dụ bỏ chạy về giữ Thanh-hóa.
Vua sai bọn Mạc đăng Dung đi đánh Nguyễn hoằng Dụ. Nhưng Đăng
Dung tiếp được thư của Hoằng Dụ viết riêng cho mình,
bèn không đánh, đem quân trở về.
Bấy giờ quyền-bính về cả Trần Chân và lại có
người nói rằng Trần Chân có ý làm
phản, vua bèn cho người vời Trần Chân vào
thành rồi đóng cửa thành lại, bắt giết đi.
Bộ tướng của Trần Chân là bọn Hoàng duy Nhạc,
Nguyễn Kính, Nguyễn Áng nghe tin Trần Chân phải
giết, bèn đem quân vào đánh phá
kinh-thành. Vua phải chạy sang lánh mình ở đất
Gia-lâm, rồi cho người vào Thanh-hóa vời Nguyễn
hoằng Dụ ra đánh giặc. Nguyễn hoằng Dụ không ra.
Chiêu-tông không biết mong cậy vào ai được,
phải cho người sang Hải-dương vời Mạc Đăng Dung về giúp. Mối
thoán-đoạt gây nên từ đó.
Nguyên Mạc đăng Dung là cháu 7 đời ông Mạc
đĩnh Chi, ngày trước vốn ở làng Đông-cao, huyện
Bình-hà (thuộc Hải-dương), sau dời sang ở làng
Cổ-chai (thuộc huyện Nghi-dương, tỉnh Kiến-an bây giờ). Mạc đăng
Dung thủa trẻ nhà nghèo, làm nghề đánh
cá, nhưng có sức mạnh, thi đỗ Đô-lực-sĩ, làm
đến Đô-chỉ-huy-sứ về triều vua Uy-mục; đến triều vua Tương-dực
được phong là Vũ-xuyên-hầu.
Nay vua Chiêu-tông gọi sang, nhất thiết trao cả binh quyền
để đánh giặc Hoàng duy Nhạc.
Mạc đăng Dung đem vua về ở Bồ-đề rồi cho người mật dụ bọn Nguyễn
Kính, Nguyễn Áng về hàng. Bọn ấy nói rằng
Trần Chân bị giết là tại Chử Khải, Trịnh Hựu, Ngô
Bính gièm-pha. Nếu nhà vua làm tội ba người
ấy thì xin về hàng.
Vua bắt ba người đem giết đi, nhưng bọn tên Kính tên
Áng vẫn không giải binh. Mạc đăng Dung lại dời vua về
Bảo-châu (thuộc huyện Từ- liêm). Thế giặc vẫn mạnh, rồi lại
có Trịnh Tuy và Nguyễn Sư làm phản, thông
với bọn tên Kính lập Lê Do lên làm vua,
đóng hành-điện ở Từ-liêm.
Vua lại phải cho người vào gọi Nguyễn hoằng Dụ lần nữa. Nguyễn
hoằng Dụ đem binh Thanh-hóa ra để cùng với Mạc đăng Dung
đi đánh giặc. Nhưng Hoằng Dụ xuất binh đánh trước, bại
trận, phải rút quân về Thanh.
Được ít lâu Mạc đăng Dung trừ được bọn Lê Do, Trịnh
Tuy và Nguyễn Sư, rồi lại hàng được bọn Hoàng duy
Nhạc, Nguyễn Kính, Nguyễn Áng đem về làm
vây-cánh của mình. Từ đó quyền bính
về cả Đăng Dung.
3. Mạc Đăng Dung Chuyên Quyền.
Mạc đăng Dung bây giờ quyền-thế hống-hách, ra vào
cung cấm tiếm dụng nghi-vệ thiên-tử. Các quan ai có
vì nhà vua mà can-gián điều gì,
thì Đăng Dung tìm cách giết đi. Các quan
triều-thần có nhiều người thấy quyền lớn về cả họ Mạc, cũng bỏ
vua mà theo phò Mạc đăng Dung.
Vua Chiêu-tông thấy vậy, mới mưu ngầm với bọn nội thần
là Phạm Hiến và Phạm Thứ để đánh Mạc đăng Dung,
lại cho người vào Tây-kinh vời Trịnh Tuy đem binh ra
làm ngoại ứng. Đêm đến canh hai vua chạy lên Sơn-
tây để thu-xếp binh-mã đánh họ Mạc.
Sáng hôm sau Mạc đăng Dung mới biết vua xuất ngoại, liền
sai Hoàng duy Nhạc đem quân đuổi theo, đến Thạch-thất, Duy
Nhạc bị quân sở- tại bắt được giết đi.
Mạc đăng Dung cùng với các quan ở trong triều lập
Hoàng-đệ là Xuân lên làm vua, tức
là Cung-hoàng, đổi niên-hiệu là
Thống-nguyên. Nhưng ở kinh-thành sợ vua
Chiêu-tông viện quân về đánh, cho nên
Mạc đăng Dung rước Hoàng-đệ Xuân về ở đất Gia-phúc,
nay là Gia-lộc thuộc tỉnh Hải-dương.
Khi vua Chiêu-tông chạy lên Sơn-tây, những
người hào-kiệt ở các nơi theo về cũng nhiều, nhưng
vì vua nghe lời những kẻ hoạn-quan là bọn Phạm Điền,
không theo lời bàn của các tướng, cho nên
lòng người ly-tán, mọi việc hỏng cả. Vua cho người
vào Thanh-hóa vời Trịnh Tuy ba bốn lần, Trịnh Tuy do-dự
mãi không ra. Sau Trịnh Tuy cùng với Trịnh duy Tuấn
đem hơn một vạn quân ra giúp, thì vua lại nghe lời
bọn Phạm Điền bắt Nguyễn bá Kỷ là thuộc tướng của Trịnh
Tuy đem giết đi. Trịnh Tuy tức giận đem quân bắt vua
Chiêu-tông về Thanh-hóa.
Năm giáp-thân (1524) Mạc đăng Dung đem quân
vào đánh Thanh- hóa, Trịnh Tuy thua trận rồi chết,
vua Chiêu-tông bị bắt đem về để ở Đông- hà
(thuộc huyện Thọ-xương), rồi cho người đến giết đi.
Vua Chiêu-tông làm vua được 11 năm, thọ 26 tuổi.
Cách hai năm sau là năm đinh-hợi (1527), Mạc đăng Dung
bắt các quan nhà Lê thảo bài chiếu truyền
ngôi cho nhà Mạc.
Cung-hoàng và bà Hoàng-thái-hậu đều
bị giết cả. Bấy giờ triều-thần có Vũ Duệ, Ngô Hoán,
quan Đô-ngự-sử là Nguyễn văn Vận, quan
Hàn-lâm hiệu-lý là Nguyễn thái Bạt,
quan Lễ-bộ thượng-thư là Lê tuấn Mậu, quan Lại- bộ
thượng-thư là Đàm thận Huy, quan Tham-chính-sứ
là Nguyễn duy Tường, quan Quan-sát-sứ là Nguyễn tự
Cường, tước Bình-hồ-bá là Nghiêm bá
Ký, quan Đô-ngự-sử là Lại kim Bảng, quan Hộ-bộ
thượng-thư là Nguyễn thiệu Tri, quan Phó Đô-ngự-sử
là Nguyễn hữu Nghiêm, quan Lễ-bộ tả Thị-Lang là
Lê vô Cương đều là người khoa-giáp cả, người
thì nhổ vào mặt Mạc đăng Dung hay là lấy
nghiên mực đập vào mặt, hay chửi mắng, bị Đăng Dung giết
đi. Có người thì theo vua không kịp, nhảy xuống
sông mà chết, người thì quay đầu về Lam-sơn lạy rồi
tự-tử. Những người ấy đều là người có nghĩa- khí
để tiếng thơm về sau.
Nhà Lê, kể từ vua Thái-tổ cho đến vua
Cung-hoàng vừa một trăm năm (1428-1527), được 10 ông vua.
Nhưng trong bấy nhiêu ông, trừ vua Thái-tổ ra,
thì chỉ có vua Thánh-tông và vua
Hiến-tông là đã lớn tuổi mới lên ngôi,
còn thì ông nào lên làm vua
cũng còn trẻ tuổi cả. Vì thế cho nên việc
triều-chính mỗi ngày một suy-kém, lại có
những ông vua hoang-dâm, làm lắm điều tàn-bạo
để đến nổi trong nước xảy ra nhiều sự biến loạn.
Vậy vận nhà Lê phải lúc trung-suy, nhưng
công-đức vua Thái-tổ và vua Thánh-tông
làm cho lòng người không quên nhà
Lê, cho nên dầu nhà Mạc có cướp ngôi
cũng không được lâu bền, và về sau họ Trịnh tuy
có chuyên-quyền nhưng cũng chỉ giữ ngôi chúa,
chứ không dám cướp ngôi vua.
Nguồn: http://www.vnthuquan.net
Trần Nguyên Hản!
Phạm văn Xảo!
Nguyễn Trãi!
Lê Sát!
|