|
Việt Nam Văn Hiến
|
Năm Thứ 4890
www.vietnamvanhien.org
www.vietnamvanhien.net
www.vietnamvanhien.info
www.vietnamvanhien.com
Hồi
Ký Chính Trị
Giọt Nước Trong Biển Cả
Hoàng Văn Hoan
(1905-1991)
Lời Nói Đầu
Cách mạng Việt Nam kể
từ năm 1858 thực dân Pháp
đánh chiếm Đà Nẵng cho đến năm
1975 dinh lũy cuối cùng của đế quốc
là Sài Gòn được
hoàn toàn giải phóng,
tính ra là một trăm mười bảy
năm. Đó là một thời gian
dài dặc nhân dân Việt Nam
sống trong vòng khổ nạn do đế quốc
gây nên. Đó cũng
là thời gian dài dặc mà
nhân dân Việt Nam kiên
quyết đấu tranh giành độc lập cho Tổ
quốc; phong trào này bị dập
tắt, phong trào khác lại
nhóm lên, người trước
ngã xuống, người sau vẫn xốc tới,
hàng triệu người đã bị tra tấn
kìm kẹp nơi tù ngục và
hy sinh trong các cuộc chiến đấu.
Cuối cùng Hồ Chủ tịch dựa vào
nguyên tắc chủ nghĩa Mác –
Lê-nin và kết hợp với
tình hình thực tế nước
nhà, vạch ra một đường lối
cách mạng đúng đắn đoàn
kết được tất cả lực lượng yêu nước của
toàn dân và tranh thủ sự
đồng tình của nhân dân
tiến bộ thế giới, thì cách
mạng Việt Nam mới hoàn thành,
đất nước Việt Nam mới thật sự được giải
phóng và thống nhất.
Là một người dân mất nước,
trong quá trình tìm
hiểu cách mạng, tôi đã
chịu ảnh hưởng sâu sắc của những
nhà cách mạng tiền bối như
Trương Công Định, Phan Đình
Phùng, Hoàng Hoa Thám,
Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh, v.v…
cuối cùng được sự giáo dục của
Hồ Chủ tịch, tôi đã trực tiếp
tham gia cách mạng từ năm 1926. Nhưng
suốt mấy chục năm tham gia cách mạng,
không bao giờ tôi nghĩ đến
chuyện viết hồi ký; ngay những năm
công tác ở Hà Nội, Ban
nghiên cứu lịch sử Đảng thường nhắc
tôi viết hồi ký ghi lại những
hoạt động của mình, một phần trong
hoạt động của Đảng, tôi vẫn
không định viết, vì sự
đóng góp của mình đối
với cách mạng chẳng qua chỉ là
một giọt nước giữa biển cả mà
thôi.
Nhưng qua hơn hai mươi năm làm việc
gần gũi với Lê Duẩn, tôi được
biết rõ Lê Duẩn là một
kẻ âm mưu đặt lợi ích cá
nhân và bè cánh
lên trên lợi ích của
dân tộc, đặc biệt là những năm
trước và sau khi Hồ Chủ tịch mất,
tôi được biết những hoạt động xấu xa
nguy hiểm của y, như việc choán quyền
Đảng, việc xuyên tạc lịch sử, việc
động viên toàn bộ lực lượng
chống Trung Quốc và xâm chiếm
Cam-pu-chia, là những việc phản chủ
nghĩa Mác – Lê-nin, phản
cách mạng, phản lợi ích của
dân tộc, của Tổ quốc.
Qua nhận thức đó, tôi thấy cần
phải viết hồi ký, không phải
chỉ để nói lên sự đóng
góp hết sức nhỏ bé của
mình đối với cách mạng,
mà chủ yếu để nói lên
chủ trương đường lối và việc
làm của Hồ Chủ tịch trong các
thời kỳ hoạt động qua một số sự việc cụ thể,
đồng thời nêu ra một số sự thật trong
quá trình cách mạng
đã bị Lê Duẩn cố tình
che lấp, xóa nhòa hoặc
xuyên tạc, để sau này những
người có quan tâm đến
cách mạng Việt Nam có thể tham
khảo, không bị bọn bồi bút của
Lê Duẩn lừa gạt.
Cuốn hồi ký này gồm bảy phần:
Phần thứ nhất “Trên đường tiến tới
cách mạng”, viết theo sự yêu
cầu của Phòng truyền thống xã
nhà, xã Quỳnh Đôi, huyện
Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An. Phần này
đã gửi Phòng truyền thống
xã, gửi Ban nghiên cứu lịch sử
Đảng Nghệ-Tĩnh, nay vẫn giữ nguyên,
nhưng có đổi hai chữ “Do-thái”
thành hai chữ “Tô-thái”
trong câu đối viếng người mẹ của bạn.
Việc sửa chữa này sẽ được giải
thích rõ khi dẫn đến câu
đối này ở trong phần.
Phần thứ hai “Những năm tháng hoạt
động cách mạng ở Xiêm”.
Phần thứ ba “Những năm tháng hoạt
động cách mạng ở Trung Quốc”.
Phần thứ tư “Những năm tháng trước
và sau Cách mạng Tháng
Tám”.
Phần thứ năm “Nhiệm vụ mới - Chỉnh đốn một
số công tác ở hải ngoại”.
Phần thứ sáu “Những năm tháng
là Đại biểu Chính phủ
và Đại biểu Trung ương Đảng tại Trung
Quốc”.
Phần thứ bảy “Cách mạng Việt Nam với
sự phản bội của Lê Duẩn”. Phần
này nói lên những sự
thật trong quá trình Lê
Duẩn chuyển biến từ một người cách
mạng thành một người phản bội
cách mạng với những nguyên
nhân nội tại và ngoại tại của
nó. Nguyên nhân nội tại
là bản thân Lê Duẩn
không tự cải tạo mình để phục
vụ lợi ích cách mạng mà
lại muốn lợi dụng cách mạng
hòng nâng cao địa vị và
danh vọng của mình, không quan
tâm đến đời sống của nhân
dân mà lại muốn lợi dụng sức
mạnh của nhân dân hòng
biến Việt Nam thành một nước
bá chủ khu vực. Nguyên
nhân ngoại tại là do một số
người lãnh đạo Liên Xô
với tư tưởng sô-vanh nước lớn,
đã dùng mọi thủ đoạn ép
buộc các nước trong “đại gia
đình xã hội chủ nghĩa”
và các đảng anh em phải
tuân theo chủ trương, đường lối của
mình, ai không nghe thì
đả kích, thì phân
hóa nội bộ, ủng hộ nhóm
này hạ bệ nhóm kia, thậm
chí có khi còn uy hiếp
bằng lực lượng quân sự, hòng
đạt tới mục đích làm bá
chủ thế giới. Với mục đích đó,
người lãnh đạo Liên Xô
đã sử dụng Lê Duẩn trong mưu
toan xây dựng một căn cứ quân sự
mạnh ở Đông Dương để chống Trung Quốc
và để mở phạm vi ảnh hưởng của
mình xuống phía Nam
Thái Bình Dương và Ấn
Độ Dương.
Ngoài phần chính ra còn
có một phần phụ lục ghi lại lý
lịch tóm tắt và một số hoạt
động cụ thể của bản thân tôi.
Cuốn hồi ký này viết trong
lúc phải suy nghĩ nhiều việc quan
trọng khác, trong hoàn cảnh
thiếu tài liệu gốc từ trong nước,
trong hoàn cảnh sức khỏe bị hạn chế,
nên chỉ có thể viết những
nét lớn một cách ngắn gọn. Sau
này nếu có dịp tìm được
tài liệu tham khảo đầy đủ hơn,
có hoàn cảnh tốt hơn
thì sẽ bổ sung.
Cuốn hồi ký này viết để tỏ
lòng kính mến vô
cùng đối với Hồ Chủ tịch, người
lãnh tụ vĩ đại của dân tộc
này đã từng rèn luyện
nên một đội ngũ cán bộ hết
lòng hết sức phục vụ nhân
dân, xây dựng nên một đội
quân trung với Đảng, hiếu với
dân, nhiệm vụ nào cũng
hoàn thành, khó khăn
nào cũng vượt qua, kẻ thù
nào cũng đánh thắng.
Cuốn hồi ký này viết để tỏ
lòng kính mến vô
cùng đối với các vị
cách mạng tiền bối và tất cả
những người anh hùng vô danh
đã hy sinh trong các cuộc đấu
tranh giành độc lập và tiến bộ
xã hội ở Việt Nam suốt hơn một thế
kỷ. Đồng thời để tỏ lòng biết ơn đối
với những người bạn quốc tế đã đồng
tình ủng hộ nhân dân Việt
Nam trong cuộc đấu tranh giải phóng
dân tộc.
Cuốn hồi ký này viết cũng để
tỏ lòng nhớ thương đối với người bạn
già là người đã tham
gia cách mạng từ những năm 1929,
1930, để tỏ lòng nhớ thương đối với
người con trai, người con dâu
và ba đứa cháu hiện đang bị
bọn Lê Duẩn hãm hại ở trong
nước.
Trong quá trình viết hồi
ký, tôi được các cơ quan
nghiên cứu tình hình
Việt Nam tại Bắc Kinh cung cấp một số
tài liệu tham khảo như: Các
thứ sách báo chữ Việt
mà cơ quan lưu trữ; một số tài
liệu gốc của Quốc dân đảng Trung Quốc
về các hoạt động của Hồ Chủ tịch khi
ở Liễu Châu năm 1942-1943, việc Hồ Chủ
Tịch gặp Tư lệnh không quân Mỹ
Chen-nớt-tơ [1] và các hoạt
động khác ở Côn Minh năm 1945;
một số tài liệu về cuộc hội
đàm Việt – Pháp ở
Phông–ten-bơ-lô năm 1946, về
cuộc hội đàm Việt – Mỹ ở Pa-ri năm
1968-1972 v.v… là những tài
liệu tham khảo cực kỳ quan trọng. Qua sự
tham khảo những tài liệu đó
mà một số sự việc trước kia tôi
chỉ biết đại thể, nay có căn cứ chắc
chắn để ghi lại trong hồi ký một
cách rõ ràng, đầy đủ.
Đối với tôi, đó là một
sự giúp đỡ tận tình và
hết sức quý báu. Nhân
dịp xuất bản tập hồi ký, tôi
xin tỏ lời cảm ơn sâu sắc và
chân thành.
Hoàng
Văn Hoan
Tháng 2 năm 1986 ở Bắc Kinh
|
Phần
1:
Trên đường tiến tới
cách mạng
Thời tuổi
trẻ
|
Sinh ra trong một gia
đình nhà nho nghèo ở
làng Quỳnh Đôi, tỉnh Nghệ An,
tuổi trẻ của tôi không lấy
gì làm hạnh phúc. Cha
tôi quanh năm dạy học ở các
tỉnh Bắc kỳ, chỉ đến Tết mới về với gia
đình độ vài ba tuần rồi lại đi
biền biệt. Mẹ tôi vay nợ lãi đi
buôn gánh lụa, gánh lụa
bán tận chợ Lứ, chợ Sy, chợ
Hoàng Mai, cách làng
mười mấy cây số, gà gáy
ra đi, tối mịt mới về đến nhà. Nợ
lãi rất nặng, cứ đầu năm vay một trăm
quan, thì cuối năm phải trả một trăm
ba mươi quan. Có những năm, ba mươi
Tết chưa trả đủ nợ, mẹ phải tránh ra
nhà ông ngoại, nhưng chủ nợ vẫn
tìm đến nơi réo chửi. Lại
thêm tập tục phong kiến, mẹ tôi
là nạn nhân của cảnh mẹ chồng
nàng dâu, không mấy
hôm khỏi bị mắng chửi, hành hạ.
Cảnh nhà chẳng vui vẻ gì,
nên khi tôi lên sáu
tuổi, mẹ tôi đã gửi ở
nhà ông ngoại để học chữ
Hán. Bẩy, tám tuổi theo
ông ngoại đi học ở các huyện
Hoằng Hóa, Thọ Xuân; mười một
tuổi theo ông dượng đi học ở huyện
Thiệu Hóa; mười hai, mười ba tuổi
theo ông bác đi học ở huyện
Quảng Hóa. Các huyện kể
trên đều thuộc tỉnh Thanh Hóa.
Thời gian học với ông bác,
tôi đã bắt đầu có sự
hiểu biết chút ít ngoài
sách vở. Bác tôi
làm hương sư, dạy cả chữ nho lẫn chữ
quốc ngữ ở trường làng Hồ Nam, huyện
Quảng Hóa, tỉnh Thanh Hóa.
Tôi học không lấy gì
làm thông minh, chỉ được
chút ưu điểm là viết chữ tốt
và đọc sách rành mạch.
Bác tôi thường bảo tôi
đọc báo Trung Bắc tân văn
và đôi khi đọc truyện Kiều cho
bác tôi nghe. Bác
tôi giỏi chữ Hán và học
khá rộng, nhiều khi kể cho tôi
nghe những câu chuyện về nước Nhật duy
tân, đến nay tôi còn nhớ
đôi mẩu như:
- Ở Nhật có người “phùng
nhân tiễn tiếu”, gặp người
là cười, cười cái hủ lậu
của nước Nhật; lại có người
“phùng nhân tiễn khốc”, gặp
người là khóc, khóc
cái lạc hậu của nước Nhật.
- Thanh niên nước Nhật nhiều người
say sưa công cuộc duy tân,
quyết làm cho nước giàu
mạnh. Có một chàng thanh
niên mê mải suy nghĩ việc
duy tân, đến nỗi có lần anh
ta cởi quần lội qua suối rồi cứ thế
mà đi, quên cả mặc quần, đi
đến nhà bạn mới sực nhớ ra.
- Ở Nhật có “Xung thiên
thằng”, có “Tảo hải tuệ”. “Xung
thiên thằng” nghĩa đen là
dây chọc trời, có lẽ
nói dây thép,
dây điện. “Tảo hải tuệ” nghĩa đen
là chối quét biển,
có lẽ là nói
tàu quét thủy lôi
hay là tàu đánh
cá.
Luôn sáu bảy năm trời, mẹ
tôi cho tôi đi học xa như vậy
điều cốt yếu là muốn cho con học
thành người; nhưng cũng còn
lý do nữa là để con khỏi phải
chịu cái cảnh thiểu não của
tuổi trẻ và cũng bớt được miệng ăn
cho gia đình.
Năm tôi lên mười bốn tuổi,
bà nội đã mất, nhà
làm ăn cũng khá hơn trước, cha
tôi nghỉ dạy học mấy năm để sắp xếp
việc gia đình, đồng thời cho
tôi ở nhà để kèm cặp cho
tiếp tục học chữ Hán với cụ
Hàn Tô, một người bác
họ. Cụ Hàn là người nho học
rất giỏi, nhưng đến khoa thi bị quan trường
đánh hỏng chỉ vì không
viết được chữ quốc ngữ, thứ chữ mà cụ
cho là do bọn Tây bày
đặt ra, không thèm học. Bị
đánh hỏng, cụ khiếu nại đến tận kinh
đô Huế, được các quan
xét lại và lấy vớt, cho đỗ
tú tài.
Thời cụ Hàn dạy học, chế độ khoa cử
vẫn còn, nhưng đã có
chỗ thay đổi. Học trò đi thi
không phải thi làm thơ,
phú bằng chữ Hán như trước,
mà phải thi làm sớ, tấu, dụ
và luận văn bằng chữ Hán, đồng
thời còn phải làm luận văn
bằng chữ quốc ngữ. (Sớ hoặc tấu
là những bài văn do
các quan trong triều đình
viết dâng lên nhà vua.
Dụ là những bài văn của
nhà vua viết để dạy bảo
khuyên nhủ triều đình hoặc
nhân dân. Luận văn là
bài bình luận về một vấn đề
nào đó do các quan
chấm trường nêu ra). Nội dung
các bài thi thường đề cập đến
đề tài mới, cho nên người đi
thi phải tìm đọc sách mới, chủ
yếu là những sách bằng chữ
Hán mà Trung Quốc xuất bản
trong hồi đó. Trong một lớp học chữ
Hán ở làng quê hẻo
lánh như lớp của cụ Hàn
Tô mà cũng thường có
lúc bình những bài văn
có một nội dung nói đến
Lư–Thoa (Rousseau), Mạnh–Đức (Montesquieu),
Bội-Căn (Bacon), Vực–Đa–Lợi-Á
(Victoria), Đại–Bỉ-Bắc-Hoàng (Pierre
le Grand), Nã–Phá–Luân
(Napoléon), Hoa–Thịnh–Đốn
(Washington) v.v… là những nhân
vật đã làm nên sự nghiệp
lớn, được coi là anh hùng của
thời đại .
Tuy vậy, đối với những bài văn
đó, thì thầy cũng như bạn
thường chỉ tấm tắc khen về cách đặt
câu tài, dùng chữ giỏi,
điển tích mới, đối đáp chặt
chẽ v.v… Vì vậy mà trong thời
gian này, tuy có biết
thêm một số kiến thức mới, nhưng tư
tưởng tôi vẫn ngừng trệ trong
khuôn khổ văn bài, thi cử
mà thôi.
Năm 1918 là năm có khoa thi
Hương cuối cùng, nhưng cụ Hàn
còn bảo tôi cứ cố gắng học để
khoa sau đi thi.
Sang năm 1919, nhân có khoa thi
Hội cuối cùng, được biết chắc
là không còn khoa cử
nữa, thì cha tôi mới cho chuyển
sang học trường Pháp - Việt.
Trường Pháp - Việt mở ở huyện lỵ
cách làng tôi hơn ba
cây số. Làng Quỳnh tuy
nghèo, nhưng có truyền thống
ham học, số học trò theo học trường
Pháp - Việt huyện có tới gần
bốn chục người. Nhiều gia đình
nghèo mấy cũng cố cho con đi học, để
nếu không đậu đạt thì cũng
có ít nhiều chữ nghĩa, sau
này đi dạy học, hoặc kiếm nghề
làm ăn khác.
Thời gian tôi chuyển sang học trường
Pháp - Việt, tư tưởng cũng vẫn
là học để thi cử nhưng vì
cách học đã đổi khác
nhiều, không phải vùi đầu
vào đống sách vở và văn
bài, được nghỉ chủ nhật, được nghỉ
hè, nên có thì
giờ tiếp xúc với nhiều người trong
làng, trong huyện và đã
bắt đầu hiểu được ít nhiều về những
câu chuyện thời thế.
Làng Quỳnh có nhiều người học
giỏi, lại là một làng
nghèo nổi tiếng, người đi kiếm ăn
khắp bốn phương, vì vậy tuy ở
cách thành phố lớn,
cách thành phố Vinh 60
cây số, cách thị trấn Thanh
Hóa 80 cây số, nhưng có
mối liên hệ khá rộng
rãi, tự nhiên thành một
nơi rất nhậy tin tức và tập họp được
nhiều chuyện đàng trong, đàng
ngoài. Người ta thường hay bàn
kháo những câu chuyện chống
Pháp đã được khuếch đại
và thần bí hóa, như
chuyện Đội Quyên, Đội Phấn có
phép tàng hình, hễ khi
nào biết tin có địch đuổi theo
thì múc một bát nước,
bắc đôi đũa lên trên rồi
niệm phù chú và bước
qua bát nước là tránh
được nạn. Những câu chuyện về Văn
Thân, về Đề Thám, về Đông
Kinh Nghĩa Thục cũng được người ta
bàn kháo luôn.
Bản thân làng Quỳnh cũng
là nơi có truyền thống đấu
tranh cách mạng. Người ta thường kể
đến chuyện ông Nho Quý bị
chém, ông Địa bị giặc bắn
trên bờ sông Dinh, và kể
đến chuyện những người nông dân
dũng cảm, như ông Cu Tào, bị
lý trưởng bắt đi cáng quan
huyện, ông ta nói thẳng với
quan huyện: “Con từ nhỏ đến giờ không
khiêng cáng cho ai, nay
ông lý bắt cáng quan
thì con phải làm, nhưng nhỡ
đau vai chịu không nổi, có sinh
việc gì thì xin quan tha tội”.
Quan huyện sợ thằng này nó
định quẳng mình chăng, liền bảo
lý trưởng thay người khác.
Lại như ông Hồ Sỹ Đài
không biết chữ, dám tự nguyện
ra làm lý trưởng trong
lúc làng khuyết lý
trưởng mà không người
nào dám ra làm.
Ông làm lý trưởng hầu
như tháng nào cũng bị quan
huyện nọc ra đánh, bắt khai
báo những người trong làng
trốn theo “giặc”. Đánh bao
nhiêu, ông cũng chỉ nói
một câu: “Tôi không
nuôi được họ, họ phải đi kiếm ăn,
tôi không ngăn được và
cũng không biết là họ đi
đâu”. Khi làm lý trưởng
cũng như khi thôi lý trưởng,
ông vẫn là một người nông
dân lao động.
Người ta cũng kể chuyện những ông cử
thi đỗ rồi mà không chịu ra
làm quan. Ông Hồ Khoan học giỏi
nhưng đi thi để làm thuê
bài lấy tiền, còn ông
thì viết tháu bài cho
quan trường đánh hỏng; ông
Hường Hoàng đỗ Phó bảng, ra
làm tri huyện, nhưng chống Tây
nên bị cách chức v.v…
Đặc biệt là dân làng
nói nhiều về gia đình cụ Hồ
Bá Ôn, án sát
tỉnh Nam Định, hy sinh năm 1883 trong trận
chống Pháp giữ thành Nam Định.
Con cả của cụ là Hồ Bá Kiện
tham gia phong trào Văn Thân,
bị đế quốc bắt giam rồi bắn chết ở Lao Bảo.
Con thứ hai là Hồ Thúc Linh
đậu cử nhân, cũng hưởng ứng phong
trào chống Pháp, khi bị bắt,
đế quốc đốt mâm thau lên để tra
tấn, ông thản nhiên tự ngồi
lên mâm thau nóng để tỏ
gan dạ của mình. Em dâu cụ
là bà Lụa, có thể coi
là một nữ kiệt của làng Quỳnh
Đôi. Bà thường đi lại từ Nghệ
An ra Yên Thế chắp mối liên lạc
giữa phong trào Nghệ - Tĩnh với Đề
Thám. Nhiều lần gặp nguy hiểm,
bà đều dùng mưu trí
thoát tay địch. Đến khi bị sa lưới,
quân thù tra tấn dã man,
bà vẫn không khai. Mỗi lần sắp
phải đòn, bà nhai một cục
thuốc lào to, làm người say
mềm. Tỉnh ra, bà chỉ kêu la:
“Ông cha làm quan làm
gì mà để tội cho con
cháu thế này”. Bọn quan tra
tấn bà nghe nói như chọc
vào tim, đồng thời cũng không
có chứng cớ gì để buộc tội,
chúng đành phải thả bà,
giao về địa phương quản thúc.
Bà đã gửi con trai của
mình là Hồ Học Lãm cho
phong trào Đông du, đi theo cụ
Phan Bội Châu qua Nhật, rồi sau về
Trung Quốc. Cháu đích
tôn của cụ là Hồ Bá Cự
tức Hồ Tùng Mậu, năm 1919 xuất dương
để hoạt động cứu nước, gây ảnh hưởng
sâu sắc trong lớp thanh niên
có chí khí của
làng Quỳnh.
Ngoài những người trong tầng lớp học
sinh, thầy giáo có tâm
huyết và ý chí
cách mạng rõ nét, những
người Hán học ở làng Quỳnh
cũng có những người khí
thái. Trong khi giao du với họ,
tôi thường được nghe nhiều bài
thơ, câu đối có ý nghĩa,
có khi được trao tay mượn về đọc
các sách tiến bộ.
Về thơ văn, đến nay tôi còn nhớ
một số bài, tuy có bài
không biết rõ tác giả
là ai, và cũng không
biết có thật đúng nguyên
văn không, nhưng lúc đó
nghe được như thế nào thì
bây giờ cứ ghi lại như thế:
- Thơ đầu xứ Thái đọc trước khi
bị chém:
Ba hồi lệnh giục thằng cha kiếp,
Một nhát gươm đưa đéo mẹ
đời.
Sống là tướng mạnh ba
quân cậy,
Chết cũng thần thiêng một
góc trời.
- Câu đối chửi Cao Ngọc Lệ:
Vô địa khả mai Cao Ngọc Lệ,
Hữu thiên bất tử Tống Duy
Tân.
Tạm dịch:
Không đất để chôn Cao
Ngọc Lệ,
Có trời chẳng chết Tống Duy
Tân.
Tống Duy Tân đỗ Tiến sĩ, có
tư tưởng chống Pháp. Cao Ngọc Lệ,
học trò của Tống Duy Tân,
đã mật báo những hoạt động
cách mạng của Tống Duy Tân
với Pháp, nên Tống Duy
Tân đã bị xử chém.
Câu đối điếu người mẹ của bạn mới
mất:
Toàn quốc vô Thái
Tây chi nam, toại linh nữ kiệt
tiêu trầm, đáo tử bất lưu
Tô-thái bút.
Đồng bào dĩ Việt nam vi mẫu,
đương thử anh hùng
thống khốc, cư tang hợp trước
Mã–ni y.
Tạm dịch:
Nam giới như Thái Tây
là ai, để cho nữ kiệt
đắm chìm, đến chết không
ghi sách Tô-thái
Đồng bào lấy Việt Nam
làm mẹ, đương lúc anh
hùng
gào khóc, ở tang
nên mặc áo Mã-ni
“Thái Tây” chỉ các
nước phương Tây, chủ yếu là
các nước châu Âu.
“Nam giới như Thái Tây
là ai” ý nói ở
phương Tây, nam giới tôn
trọng phụ nữ, ở nước ta thì
không như thế.
Tô-thái (Kossuth 1802
-1894) là một anh hùng
dân tộc Hung-ga-ri. Trong tập hồi
ký của mình, ông
đã nói nhiều đến
công ơn giáo dục của người
mẹ. [2]
.
- Câu đối mừng người bạn thi đỗ
Đình nguyên:
Phụ giáp ư Hương, huynh ất ư Hội,
quân hựu khôi ư
Đình, khoa hoạn nhất gia tư, bạch
trú đối nhân,
quốc sủng quân ân đa nhược
thị?
Phan thê ư Nhật, Đặng lưu ư hải,
Ngô thượng tù ư
ngục, ky my thiên lý ngoại,
hoàng thành hồi thủ,
cầm bào hoa hốt vị hà như?
Tạm dịch:
Cha là Thủ khoa, anh là
Phó bảng, ngươi lại đỗ
Đình
nguyên, khoa hoạn riêng
một nhà, rạng mặt với người,
lộc nước ơn vua nhiều đến thế?
Phan qua Nhật Bản, Đặng đày
Côn Lôn, Ngô vẫn ở
tù
ngục, xích xiềng ngoài
nghìn dặm, quay đầu về nước,
hốt hoa áo gấm nghĩ làm
sao?
Câu đối này lấy ba
nhà trí thức yêu
nước là Thủ khoa Phan Bội
Châu đang hoạt động ở Nhật,
Phó bảng Đặng Nguyên Cẩn
và Tiến sĩ Ngô Đức Kế đang
bị giặc Pháp giam ở Côn
Đảo, để khêu gợi lòng
yêu nước của người mới thi đỗ.
- Câu đối khóc Nguyễn
Thái Bạt:
Bạt là một người xuất dương
vào hồi Đông du, sau về
hàng Pháp. Bạt không
thi Hương mà được Nam triều cho
thi Hội, đỗ Hoàng giáp,
rồi làm quan, được ít
lâu thì Bạt chết. Khi
còn bị giam, có người con
gái hàng cơm thường đưa
cơm cho y, sau được ra tù, rồi
lấy nhau. Người ta đã đem những
câu chuyện đó gói
ghém trong câu đối rất
có ý nhị như sau:
Xuất dã kỳ, tựu dã kỳ, đại
tiểu đăng cánh kỳ,
khai mạc diễn thành bi hý
kịch.
Tội bất tử, tù bất tử, phủ
quý lai như tử,
cái quan nan định tạc kim
bình.
Tạm dịch:
Ra cũng kỳ, về cũng kỳ, đại tiểu đăng
càng kỳ [3] ,
tấn kịch buồn vui, sân
khâu mở màn xem đã
rõ.
Tội không chết, tù
không chết, giàu sang đến
mà chết,
lời bàn kim cổ, quan tài
đậy nắp định chưa xong.
- Thơ Phan Chu Trinh chửi bọn quan
trường:
Thế cục hối đầu dĩ nhất không,
Giang sơn vô lệ khốc anh
hùng.
Vạn dân nô lệ cường quyền
hạ,
Bát cổ [4] văn
chương túy mộng trung.
Trường thử bách niên cam
thóa mạ,
Bất tri hà nhật xuất lao lung?
Chư quân vị tất vô tâm
huyết,
Bằng hướng tư thi độc nhất thông!
Tạm dịch:
Nhìn lại cuộc đời thấy trống
không,
Giang sơn ráo lệ khóc
anh hùng.
Muôn dân nô lệ dưới
quyền mạnh,
Tám vế văn chương giữa giấc
nồng.
Trọn kiếp đành cam người chửi
mắng,
Bao giờ mới thoát cảnh chuồng
lồng?
Các ngươi chưa chắc không
tâm huyết,
Hãy đọc thơ này ắt hẳn
thông!
Theo người truyền tụng, thì
lúc đó Phan Chu Trinh đi thi,
quan trường ra bài thơ đầu đề
là “Chí thành
thông thánh” nghĩa là
“lòng chí thành
có thể làm cho Thánh
thông cảm”, lấy chữ “thông”
làm vần. Phan Chu Trinh đã
làm bài thơ trên để chửi
chúng.
Ngoài những thơ văn khảng khái
như thế, thời kỳ này còn
có một số sách cấm của Phan
Bội Châu và một vài cuốn
của Lương Khải Siêu như Trung Quốc
hồn, của Khang Hữu Vi như Biến
pháp thông luận, v.v…
thường được bí mật chuyển qua tay
những người yêu nước đến nhà
bà Lụa ở làng Quỳnh, mà
tôi cũng được đọc; lúc
đó tuy chưa hiểu sâu sắc
gì, nhưng đã biết suy nghĩ
rằng mình phải có một
lý tưởng, phải làm gì
để cứu nước, giúp đời; mà nhất
là bài thơ Phan Chu Trinh chửi
bọn quan trường đã làm cho
tôi chán ghét việc học
hành trong lúc bấy giờ. Học ở
trường huyện tôi thấy không
có ý nghĩa, chỉ mong sao học
mau hết lớp để có dịp vùng
vẫy, bay nhảy cao xa hơn.
[1]Claire
L. Chennault (1890-1958) BT
[2]Hai
chữ “Tô-thái” ở đây,
trước kia trong bản gửi cho Phòng
truyền thống xã Quỳnh Đôi
và Ban nghiên cứu lịch sử
Đảng Nghệ - Tĩnh đều viết là
“Do-thái”, là không
đúng. Nay sửa lại.
[3]“Ra”
là xuất dương, “về”
là đầu hàng, “Đại đăng
khoa” là thì đỗ, “Tiểu
đăng khoa” là lấy vợ.
[4]“Bát
cổ” là một lối văn chương cũ
của Trung Quốc. “Bát cổ”
có nghĩa đen là “tám
vế”.
----------------------------
II. Mơ ước xuất dương
Năm 1923, có tin đồn anh Hồ
Tùng Mậu xuất dương từ mấy năm trước
đã bí mật về nước và
có ghé qua làng Quỳnh,
tin này càng làm cho
tôi suy nghĩ, ngày đêm ấp
ủ điều mơ ước: Phải xuất dương để tìm
đường cách mạng.
Mùa hè năm 1923, tốt nghiệp sơ
học Pháp-Việt, nhưng tôi
không tha thiết gì việc học
hành nữa. Tháng tám năm
ấy, nhiều anh em học sinh làng
tôi thi vào trường trung học
Vinh, hồi đó gọi là trường
Quốc học. Tôi cũng đi Vinh, mượn cớ
lấy chứng chỉ sức khỏe để xin thi vào
Quốc học, nhưng thật ra là để nghe
ngóng xem có manh mối
gì về cách mạng không,
chứ không nộp đơn đi thi. Hôm
thi xong, khi có tin báo về
làng Quỳnh được sáu người
vào học Quốc học, thì
tôi còn đang đá
bóng ở sân đình, một
ông Tú [1] trong
làng đã mắng tôi
là không chăm chỉ học
hành, không biết lập
chí.
Thật ra cái chí của tôi
không thể nói cùng ai.
Trong số bạn học, chỉ có anh Nguyễn
Nhu và anh Dương Đình
Thúy là người thường hay
tâm sự. Nhưng hai anh này vừa
học hết lớp nhất đã phải bỏ đi
Hà Đông học nghề dệt rồi.
Tôi không thi vào trường
Quốc học, thì cha tôi bắt nộp
đơn xin vào trường Quốc tử
giám ở Huế, đây là một
trường chuyên đào tạo lớp quan
lại mới phục vụ cho chế độ bảo hộ và
Nam triều, nên ai muốn thi là
phải có quan huyện sở tại chứng thực.
Hôm lên huyện xin chứng thực,
tên tri huyện xem đơn thấy tên
cha tôi là Hoàng Minh
Kha, hắn tưởng lầm là một người chức
dịch giàu trong huyện cũng có
tên là Minh Kha, nên rất
vồn vã. Sau hỏi ra hắn biết là
không phải, nên không cho
chứng nhận và đuổi tôi ra. Thế
là tôi khỏi phải thi vào
Quốc tử giám.
Để cha tôi yên lòng,
tôi thường chăm chỉ đọc sách,
có khi tìm đọc cả một số
sách cổ và thơ Đường.
Mùa hè năm 1924, tôi nộp
đơn thi vào trường sư phạm Nam Định
nhưng thi hỏng, tôi phải ra Bắc kiếm
một nơi dạy trẻ ở làng Trung Sơn,
tổng Kinh Triều, huyện Thủy Nguyên,
tỉnh Kiến An, bên cạnh làng My
Sơn, nơi cha tôi dạy chữ Hán.
Tết năm ấy, lần đầu tiên tôi
mang về cho mẹ được ba chục bạc tiền Tết của
học trò. Mẹ tôi rất mừng.
Đầu năm 1925, tôi lại đi Thủy
Nguyên nhưng lần này thực
dân Pháp bắt các trường
tư phải xin phép mới được dạy. Chưa
có phương kế gì khác,
tôi đành phải mời ông
lý trưởng có con học với
tôi cùng lên huyện xin
phép. Vào huyện đường nộp đơn,
tên tri huyện không thèm
xem, hắn hất hàm bảo ra ngoài
nhờ bọn nho lại viết đơn khác.
Tôi đi qua nhiều chặng nhưng
không ai viết giúp. Lúc
đó người lý trưởng đã
có kinh nghiệm việc quan, lấy tờ bạc
giấy một đồng gấp vào trong lá
đơn lúc nãy, bảo cứ thế đem
nộp, quan huyện ngài sẽ nhận. Thật
vậy, khi tên tri huyện giở đơn ra,
thấy đồng bạc, hắn liền nhận đơn và
bảo: Hãy về chờ quan sức.
Bấy giờ mới biết: Thì ra tất cả mọi
người đến nộp đơn huyện đều phải mất tiền
như thế, việc nhỏ thì một đồng, việc
lớn thì năm, ba đồng. Một người
nông dân vì có con
bò chết, phải lên huyện
báo chết để xin phép về
chôn, cũng phải nộp một đồng bạc
vào trong đơn.
Quan huyện chấp đơn rồi, tôi đi lang
thang xem cảnh, thấy ở cổng huyện có
một câu đối chữ Hán, rất tiếc
đã lâu ngày, nay chỉ nhớ
có một vế: “Thần môn như thị,
băng hồ thu thủy chứng thần tâm”,
nghĩa là “Cửa quan thì
đông như chợ, nhưng lòng quan
thì như nước mùa thu đựng ở
cái bình trong như băng”. Mỉa
mai thay!
Rời huyện đường về Trung Sơn, bụng vẫn nghĩ
rằng mình có biết chữ
Hán, chữ quốc ngữ, lại có bằng
sơ học Pháp-Việt, chắc thế nào
cũng được phép dạy, nên cứ bảo
học trò đến học như thường.
Không ngờ được độ vài tuần
thì có giấy quan huyện sức về
phải đóng cửa trường. Thế là
việc dạy học ở Thủy Nguyên chấm dứt.
Tôi lại trở về Quỳnh Đôi,
cùng với một số anh em cùng
chí hướng tìm cách hoạt
động.
*
Tình trạng Quỳnh Đôi bấy giờ
vẫn trì trệ, bế tắc. Nhân
dân lao động sống nghèo khố.
Lớp nhà nho cũ đã rút
về hậu trường, chỉ biết rung đùi tự
mãn về cái đất Quỳnh Đôi
văn vật; lớp người học mới cũng chỉ lo về
chuyện thi cử mới; còn những người
có chí khí trước kia
nay cũng im hơi lặng tiếng, đành chịu
bó tay, có người chán
đời đâm ra nghiện ngập thuốc
xái.
Bài luận Trung thôn
lãm thắng tôi làm
trong khi tranh thủ học thêm chữ
Hán với một ông giáo,
đã nói lên tình
trạng bế tắc đó. Ông
giáo là một người nổi tiếng
hay chữ trong làng Quỳnh thời bấy
giờ. Một hôm, ông ra cho
tôi bài luận Trung
thôn lãm thắng (Ngắm
cảnh đẹp xóm Trong), với
ý muốn gợi lên một bức vẽ về
người và cảnh mà ông cho
là đẹp.
Số là từ trước đến nay, các cụ
trong làng thường tán tụng
cái vẻ đẹp của làng Quỳnh với
câu “Nam thiên thắng địa Quỳnh
đệ nhất”. Theo các cụ thì
làng Quỳnh Đôi, phía Nam
có núi Yên Mã
hình như cái yên ngựa;
phía Bắc ở vùng Bất Hủ
có Lèn Tàn; phía
Tây có núi Hinh Sơn
hình như cái bảng, đó
là Giáp bảng; phía
Đông có núi Qui Sơn cũng
hình như cái bảng, đó
là Ất bảng; ở trong làng
thì có Cồn Bút, Cồn
Nghiên; về phía Nam xa hơn
Yên Mã là núi
Hung, núi Thè hình như
hai lá cờ. Do đó các cụ
kết luận rằng làng Quỳnh Đôi
nhiều người học hành thi đỗ là
nhờ cái hình thế địa lý
như vậy. Riêng về ông
giáo thì rất thích
cái cảnh chợ Nổi, ở đây
có một hiệu bán thuốc Bắc,
vài hiệu may và một
quán rượu, cứ chiều đến thì
người ta hay tụ tập ở đó để
bàn tán chuyện này,
chuyện nọ. Còn những người có
tư tưởng mới và tiến bộ thì
lại không tin cái thuyết địa
lý ấy và không
thích cái kiểu tụ tập
bàn tán nhảm nhí.
Vì vậy khi nhận đầu bài về
làm, tôi muốn nhân dịp
phát huy ý kiến của
mình để phê phán.
Bài làm bằng chữ Hán,
tạm dịch như sau:
Bàn về ngắm cảnh đẹp xóm
Trong
Khách có một người: Thân
không cao lớn, mặt thiếu đẫy
đà; gió trăng ngập bầu rượu,
non nước đầy túi thơ, cỏ lạ hoa thơm
là nơi thích thú,
núi kỳ sông đẹp là chốn
nhởn nhơ.
Một hôm gặp nhau ở chợ Nổi,
khách chắp tay và vái
tôi mà hỏi rằng: Đây
là nơi nào? Tôi thưa:
Đây là xóm Trong,
làng Quỳnh Đôi. Khách
bèn mỉm cười: Nghe nói cảnh
đẹp trời Nam, Quỳnh Đôi là bậc
nhất; xóm Trong đã là
đất Quỳnh Đôi, chắc hẳn không
thiếu gì cảnh đẹp, vậy có thể
chỉ cho biết một vài chỗ để
nhân dịp qua đây thưởng thức
chút ít được chăng?
Ôi! Lời nói của khách
là lời nói gì?
Giá phỏng các bạn gặp
lúc đột ngột như thế chắc cũng
lúng túng chưa biết bày
tỏ ra sao để giải đáp được câu
nói nghe ra có lý
mà thực thì vô
lý. May sao lúc đó,
tôi được linh tính xui giục,
đối đáp có vẻ trôi chảy,
khách lại hình như cảm thấy
hợp lý, im lặng mà nghe. Mấy
lời như sau:
Quỳnh Đôi từ khi là Quỳnh
Đôi đến nay, đã hơn năm trăm
năm. Qua các đời Trần, Lê, rồi
Nguyễn triều, người giỏi kẻ hiền kể sao xiết
kể; trải qua bao cuộc bể dâu đến hiện
tại, anh hùng chí sĩ
không lúc nào
không. Cái đất được người ta
cho là đẹp, chính là
nhờ có người mà sinh đẹp vậy.
Và xét về mặt địa lý
thì: Núi Ngựa chầu phía
Nam, Lèn Tàn che phía
Bắc, Hinh Sơn là Giáp bảng, Ất
bảng ấy Qui Sơn; nghiên bút sẵn
sàng, cờ quạt chỉnh chiện. Quỳnh
Đôi thật là cảnh đẹp trời Nam
vậy. Nhưng vận có khi thịnh, khi suy;
đời có lúc tốt, lúc
xấu. Ngày nay nói đến Quỳnh
Đôi, sao khỏi làm cho người ta
sinh lòng ngậm ngùi.
Nói về đất thì: Non Rùa
đứng đó, rùa Thục không
còn tuốt móng thiêng [2]
; núi Ngựa nằm kia, ngựa Hồ chẳng
màng kêu gió Bắc [3]
. Hòn Bảng mờ mờ, có tên
tuổi hào kiệt Quỳnh Đôi
đâu nữa. Lèn Tàn mởn
mởn, chỉ rùm ròa cây cỏ
Bất Hủ mà thôi. Địa thế
không còn đáng
trông cậy nữa. Nói về người
thì: Đàn ông bê
tha theo thuốc xái có
hàng trăm; đàn bà
chìm trong canh cửi có
hàng nghìn. Học trò
thì chăm chú hai chữ khoa cử,
chỉ lo thế nào được làm trợ
giáo, làm thông
phán, làm ký lục,
làm tham biện, để mưu giàu
sang cho thân mình, nhà
mình; đến như nghĩa vụ quốc
dân, luân lý xã
hội, thì họ coi như là
không đáng gì cả. Than
ôi! Người học trò mà lại
như thế ư? Mỗi lúc suy thầm, nghĩ
trộm, lòng tôi như bị vò
xé. Nhà nông thì
chỉ chờ thời tiết tốt để cày cấy;
người thợ thì chỉ nhờ bàn tay
khéo để kiếm tiền, không chịu
chú ý đến nông học
và công học. Đến như thương
giới, thì chẳng những đám
thương nữ quen hát bài Hậu
đình, không biết gì
là thù hận mất nước [4]
mà ngay cả bọn mày râu
nam giới cũng không có người
yêu nước như Huyền Cao [5]
.
Ôi! Khí thiêng của
núi Tùng, sông Mai [6]
đã đến lúc tiêu tan rồi
ư? Cái làng Quỳnh Đôi
mà phong tục như vậy, nhân
dân như vậy, thì sao có
thể tự coi là thắng địa được? Quỳnh
Đôi đã không phải
là thắng địa, thì xóm
Trong làm gì có cảnh
đẹp đáng ngắm nữa.
Du khách nghe nói bỗng tỉnh
người ra, bèn vịnh một bài thơ
để nói lên sự giác ngộ
của mình. Thơ rằng:
Giữa đường gặp gỡ may sao,
Nghìn vàng chưa dễ
sánh bao nhiêu lời.
Cho hay cảnh đẹp vì người,
Tìm rồng bắt hổ [7] thôi
thôi chớ màng.
Luận văn chữ Hán là một thể
văn tương đối tự do, nhưng vẫn chịu ảnh
hưởng của lối “bát cổ”, nghĩa
là phải có những câu hai
vế đối nhau và phải dùng điển
tích. Trong bài này
tôi cũng tập dùng một số điển
tích.
Kể ra bài làm như thế cũng
được. Nhưng văn chữ lại nặng về tính
chất kích động, có chỗ thiếu
cân nhắc, như đoạn đầu có
câu “Thân không cao lớn,
mặt thiếu đẫy đà”, chính
là hình dáng con người
của ông giáo. Lại như đoạn cuối
có câu “Du khách nghe
nói bỗng tỉnh người ra”. Đó
là những câu làm cho
ông giáo phật lòng,
nên khi đưa bài cho ông
xem, ông đã nói gắt một
câu: Anh muốn đả kích tôi
đấy à? Thế là ông trả
lại bài không chấm.
*
Trong tình trạng trì trệ bế
tắc của làng Quỳnh, một số thanh
niên tiên tiến muốn làm
cái gì để cải biến xã
hội, nhưng cũng chưa tìm ra phương
hướng rõ rệt.
Anh Nhu, anh Thúy đi học dệt ở
Hà Đông về, cuối năm 1924
đã mở xưởng dệt gần chợ Nổi.
Nói là xưởng dệt, thật ra chỉ
có một ngôi nhà
lá với hai cái khung dệt cải
tiến, so với khung dệt cổ truyền của Quỳnh
Đôi đưa thoi bằng tay, làm ra
lụa hẹp 40-50 phân, thì loại
khung dệt này dùng dây
giật đẩy thoi, dệt ra loại vải rộng 80-90
phân. Về tổ chức vẫn là
cách làm ăn riêng lẻ.
Tuy vậy, xưởng dệt cũng là một hiện
tượng mới trong làng, nó trở
thành nơi đi lại của những người
yêu nước, quan tâm đến thời
cuộc. Ở đây chúng tôi
thường chuyển nhau đọc những cuốn
sách yêu nước, như Chuông
độc lập, Hồn tự do của Trần Hữu Độ,
một số sách của Phan Bội Châu
và một số bài của Nguyễn
Thượng Hiền, Phan Chu Trinh v.v. . .
Do ảnh hưởng của sách báo
và phong trào tiến bộ ở
các nơi dội đến, Quỳnh Đôi
lúc này đã hình
thành một nhóm “Tâm
giao” gồm năm người là ông Cựu
Đờn, ông Thuận, anh Nguyễn Nhu, anh
Dương Đình Thúy và
tôi. Chúng tôi thường
trao đối ý kiến với nhau về thời sự
và chia nhau tiếp xúc với
những người có chí hướng
cách mạng. Chúng tôi
bàn nhau mở lớp dạy quốc ngữ cho anh
em lao động và mời thầy về
làng dạy võ.
Về lớp chữ quốc ngữ, chỉ thu hút được
độ mười lăm người đều là anh em
nông dân yêu nước.
Chúng tôi tranh thủ các
buổi học để đọc báo chí, giảng
tin tức và truyền bá ít
nhiều thơ ca yêu nước một cách
kín đáo. Bọn lý
hào trong làng chưa có
lý do gì ngăn cấm nên cứ
để yên cho chúng tôi dạy.
Còn lớp học võ là lớp
bí mật, chỉ độ sáu, bẩy người
cứ đến đêm khuya mới tập trung ở trước
sân nhà ông Thuận để
luyện tập, do một người giỏi võ ở
làng Cổn Sắt, phủ Diễn Châu
được chúng tôi mời về
làm giáo luyện. Tuy bí
mật, nhưng chỉ vài tuần thì bị
chánh tổng dò biết, dọa sẽ
trình quan. Thế là phải giải
tán.
Một vấn đề xã hội nghiêm trọng
của làng Quỳnh Đôi hồi
này là nạn hút thuốc
phiện. Nhân khẩu làng Quỳnh
Đôi chỉ trên dưới vài
nghìn người mà có đến
mấy chục cái bàn đèn
và ba, bốn chỗ bán thuốc
phiện; kẻ nghiện hút thuốc đủ
các hạng người, trong đó
có cả những người bất đắc chí
như ông Hồ Thúc Linh, ông
Hồ Khoan v.v. . .
Mấy anh em chúng tôi bàn
với nhau, thảo ra một bài diễn văn
chống nạn thuốc phiện, nhân
ngày họp làng, tôi đem
ra đọc giữa đình làng,
vì chúng tôi đã
tranh thủ được sự đồng tình của
ông cử Thống là một nhân
vật tiến bộ, có vai vế trong
làng. Phải nói thật rằng
bài diễn văn này căn bản
là chịu ảnh hưởng của phong
trào “cải lương hương chính”
trong lúc đó. Nhưng dù
sao, một cái tệ hại trong làng
được dùng hình thức diễn văn
đem ra phơi bày giữa đình
làng trước mặt các quan
và các tổng lý
thì vẫn là một việc táo
bạo, mà những người tiến bộ đều lấy
làm thích.
Một việc khác cũng tương đối
có ý nghĩa là việc phản
đối vụ kiện giữa ba họ. Năm 1925, ba họ lớn
trong làng là Hồ,
Hoàng, Nguyễn kiện nhau để
giành được Chính phủ Nam triều
phong sắc Thần cho Tổ họ mình,
vì các vị Tổ của ba họ
này đều là người khai cơ lập
ấp ra làng Quỳnh. Đây là
việc làm bè phái của
mấy ông có vai vế trong
các họ, gây ra ảnh hưởng xấu,
mất đoàn kết trong dân.
Chúng tôi phản đối vụ kiện,
chia nhau đi vận động con cháu
các họ đừng hưởng ứng. Anh
Thúy, anh Lan viết truyền đơn quăng
vào nhà mấy ông Cử [8]
; anh Nhu và tôi đến tận
nhà cụ Hường Hoàng để
nói lý. Cụ là người tai
mắt trong họ và trong làng,
thi Hương đậu Thủ khoa, thi Hội đậu
Phó bảng, được bổ đi làm tri
huyện, phong tước
Hường–lô–tự-thiếu–khanh, nhưng
vì cụ có tư tưởng chống
Tây, bỏ quan về làng, sống
thanh bạch, được dân kính nể.
Chúng tôi gặp cụ trình
bày mọi lẽ, vạch ra rằng kiện tụng
chỉ làm hại cho dân và
làm lợi cho bọn đục khoét. Bản
thân cụ đã không
thèm làm quan để khỏi phải
luồn cúi, mà bây giờ lại
đi kiện để xin phong sắc cho tổ tiên
mình, như thế còn nghĩa
lý gì nữa? Nghe chúng
tôi nói, cụ im lặng,
không cãi vào đâu
được. Thế là vụ kiện được kết
thúc bằng sự rút dần của những
người đã khuấy động lên
nó từ trước.
Năm 1925 là năm tôi thường đi
Vinh, có lúc đi Nghi Lộc,
Yên Thành, Anh Sơn và
Thanh Hóa, nói là đi
kiếm việc, nhưng thật sự là đi nghe
ngóng tình hình, mong
tìm ra manh mối xuất dương. Những lần
đi Vinh, tôi thường tìm gặp
các học sinh tiến bộ ở trường Quốc
học. Qua câu chuyện nghe ở anh em,
tôi được biết tên tuổi một số
giáo sư tiến bộ như Hà Huy
Tập, Trần Mộng Bạch; được biết ít
nhiều tình hình ngoài
nước như phong trào giải phóng
ở Phi Luật Tân, Ai Cập, Ấn Độ, được
nghe nói đến chủ nghĩa cộng sản
“làm theo khả năng, hưởng theo nhu
cầu”, và được nghe nói đến
cách mạng Nga.
Đặc biệt là khi được biết tin Phan
Bội Châu bị bắt và sắp bị đưa
ra xử tại tòa án Đại
hình ở Hà Nội, phong
trào đòi thả Phan Bội
Châu phát triển mạnh, lôi
cuốn cả toàn dân. Ở Quỳnh
Đôi, lúc này xưởng dệt
anh Nhu và nhà ông Thuận
ở phía sau xưởng dệt hầu như
thành chỗ hội họp, những người quan
tâm thời sự đều đến đó để hỏi
tin tức, nghe báo chí
và bàn tán nhiều việc
có quan hệ đến Phan Bội Châu
và quan hệ đến đất nước.
Những tác phẩm của Phan Bội
Châu như Thiên hồ đế hồ!,
Hải ngoại huyết lệ thư, Y hồn đơn
trước kia bị coi là sách cấm
phải đọc bí mật, thì nay được
chuyển tay nhau đọc hầu như công khai.
Tác phẩm của Phan Bội Châu về
nội dung tuy có nhiều chỗ tiêu
cực, nhưng toát lên một điểm
rõ rệt là yêu nước,
là thúc giục mọi người
đoàn kết, hy sinh chiến đấu cho Tổ
quốc. Văn chương Phan Bội Châu
có một tác dụng hấp dẫn kỳ lạ,
đọc đến nghe đến, hình như ai cũng
muốn lao mình vào cuộc đấu
tranh cách mạng ngay. Tự nhiên,
tôi và những người cùng
chí hướng càng có cảm
giác như vậy.
Mơ ước xuất dương càng rạo rực.
Chúng tôi nhờ bà Lụa
tìm manh mối để gặp cho được con cụ
Phan Bội Châu là Phan Huynh,
người mà chúng tôi nghe
nói là thường tổ chức cho
thanh niên đi nước ngoài. Khi
chúng tôi gặp, Phan Huynh nhận
sẽ đưa chúng tôi đi Xiêm
ngay sau Tết âm lịch, miễn là
tự kiếm được lộ phí.
*
Đầu năm 1926, các anh Nguyễn Nhu,
Dương Đình Thúy, Hoàng
Văn Hợp, Hồ Ngọc Chương, Dương Văn Lan
và tôi quyết định xoay xở mọi
cách để có thể đi Xiêm
kịp chuyến sau Tết âm lịch. Nhưng theo
Phan Huynh dặn thì mỗi người phải
có 15 đồng bạc lộ phí,
mà sáu chúng tôi
chỉ gom góp được hai chục, thế
là còn thiếu những bảy,
tám chục! Làm thế nào?
Chúng tôi vận động một thanh
niên con nhà giàu
cùng đi, với điều kiện là anh
ta phải xuất một trăm bạc. Vận động xong,
sau Tết tâm lịch được mấy hôm
là bảy chúng tôi
bí mật đánh đường vào
Vinh gặp Phan Huynh giao tiền lộ phí,
rồi nằm chờ ở phố Cống đệ nhị. Qua mấy
ngày hồi hộp chờ đợi Phan Huynh cho
biết người đưa đường bị trắc trở, nên
chưa đi được. Chúng tôi phải
lập tức về làng ngay để khỏi bị vỡ
chuyện. Thế là chuyến đi thất bại.
Việc bảy thanh niên bỏ làng đi
đột ngột đã gây ra dư luận
xôn xao. Bọn tổng lý bắt đầu
đánh hơi, dọa dẫm các gia
đình có con ra đi. Các
bậc cha mẹ hết sức lo lắng. Chúng
tôi về đến làng, mỗi người nghĩ
ra một cách trám trét
chuyến đi thất bại của mình. Cuối
cùng đều được yên ổn vô
sự.
Tháng ba năm 1926, nhân dịp
đám tang Phan Chu Trinh, tôi ra
Hà Nội cũng vẫn với mục đích
tìm manh mối cách mạng. Nhưng
vẫn chưa tìm được. Vừa lúc Sở
Hỏa xa mở lớp thi tuyển thêm xếp-tanh
[9]
, tôi nghĩ rằng nếu làm
trưởng tàu thì sẽ có
dịp đi Huế, đi Sài Gòn, cũng
có thể đi Nà Sầm, Đồng Đăng,
Lào Cai giáp giới Trung Quốc,
càng thêm có cơ hội để
tìm đường xuất dương. Vì vậy,
tôi nộp đơn thi xếp-tanh. Các
bài thi tôi làm đều tốt.
Nhưng thi đậu rồi, chúng không
bổ đi tập sự trưởng tàu mà chỉ
bổ về ga Phủ Diễn, tập sự ký ga
làm việc thu vé, bán
vé và đánh điện
báo.
Tập sự ký ga ở Phủ Diễn là một
việc hoàn toàn trái với
ý muốn. Nhưng ở dó thường gặp
một số người cổ động cho Hưng nghiệp hội
xã là một tổ chức thương
nghiệp của những người yêu nước, được
biết ở Thanh Hóa đã có
chi điếm mà những người có
chí khí thường hay qua lại.
Vì vậy, tôi có ý
muốn bỏ việc để đi Thanh Hóa.
Một hôm đang lúc làm
việc, lão xếp ga mắng anh ký
ga là đồ con lợn. Anh ký ga
không trả lời, nhưng tôi nghe
thì tức lộn ruột. Lúc ăn cơm,
có đủ cả ba người, tôi
nghiêm sắc mặt nói thẳng với
lão xếp ga rằng: Lúc
nãy, ông mắng ông
ký là đồ con lợn. Ông
ký mà ông còn
mắng được như thế, thì tôi
là người tập sự lúc ông
không vừa ý chắc ông cũng
chả từ. Ông nên biết rằng xếp ga
hay ký ga cũng chẳng qua là
người làm thuê, kẻ trước người
sau mà thôi.
Ít lâu sau, tôi viết thư
về nhà nói ý muốn xin
thôi việc. Mẹ tôi mấy lần đi chợ
Sy qua ga Phủ Diễn thấy con làm
ký ga chỉ đứng thu vé trước
cửa ga, trông chẳng ra quái
gì, nên cũng không phản
đối. Thế là tôi đi Vinh, lấy cớ
kém sức khỏe nộp đơn xin từ chức
ký ga, để tiện bề đi lại giao du,
tìm manh mối cách mạng.
Và lần này thì dịp may
đã đến với tôi.
III. Lên đường cách mạng
Mùa thu năm 1926, tôi đi Thanh
Hóa, đến huyện Đông Sơn, chỗ
anh Cù Minh Vơi là bạn học cũ
của tôi đang làm giáo
viên ở một trường làng. Trong
dịp ở nhà anh Vơi, tôi viết một
bài báo cho tờ Tân
thế kỷ ở Sài Gòn chống
lại luận điệu của bọn Nam triều phỉ
báng phong trào để tang Phan
Chu Trinh. Anh Vơi xem, rồi dán tem
gửi đi. Một tuần sau nhận được số báo
Tân thế kỷ có đăng
bài đó, anh Vơi phấn khởi đem
đi giới thiệu với bạn bè của
mình.
Một hôm anh giáo Lập đến chỗ ở
của anh Vơi gặp tôi. Anh đi thẳng
vào bài báo và
văn thơ của tôi để trao đổi ý
kiến về thời cuộc. Anh nói: Tôi
đã được nghe câu đối Tết
và bài thơ khai bút của
anh, mới rồi lại được xem bài của anh
viết ở Tân thế kỷ, biết rằng
anh có lòng khâm phục
nhà ái quốc Phan Chu Trinh,
anh muốn đền ơn phú tái,
và muốn đi đến cả những nước xa như
Phi Luật Tân, Ấn Độ, Ai Cập là
những chỗ đương có phong trào
giải phóng. Vậy nếu cách mạng
muốn anh đi xa hơn nữa, anh có đi
không?
Thì ra đôi câu đối Tết
và bài thơ khai bút
mà tôi viết dán ở
nhà trong dịp Tết âm lịch hồi
đầu năm, anh Vơi đã đọc lại cho
các bạn giáo viên nghe,
trong đó có anh Lập là
một cán bộ cách mạng bí
mật.
Câu đối Tết như sau:
Xuân trời chẳng riêng ai,
này khắp Bắc, Trung, Nam, ướm hỏi
thiều quang đâu thế nhỉ.
Tết người e có khác, thử qua
Phi, Ai, Ấn, mà xem phong cảnh
đó ra sao.
Thơ khai bút như sau:
Hăm mốt năm trời chóng biết bao
Bảy mươi chín nữa tính
làm sao
Non sông vẫn cũ năm đà mới,
Ước vọng còn xa tuổi bỗng cao
Một dạ quyết đền ơn phú tái,
Ba sinh không phụ đức cù lao.
Ước chi thêm tuổi càng
thêm trẻ,
Trẻ mãi cho ta thử thế nào.
Câu đối và thơ viết ra
lúc đó cũng chẳng qua chỉ để
nói lên sự cảm xúc của
mình, ngờ đâu lại được truyền
tụng đến tai người cách mạng.
Tôi vốn đã biết anh giáo
Lập ít nhiều qua sự giới thiệu của
anh Vơi, đồng thời lại thường gặp anh ở Hưng
nghiệp hội xã, tin chắc anh
là người cách mạng, nên
không giấu tư tưởng của mình.
Tôi nói: Tôi muốn theo
cách mạng, cách mạng cần đến
tôi, thì xa mấy tôi cũng
đi.
Thế là anh Lập nhận ngay, và
cho tôi biết sắp sửa có chuyến
đưa người ra nước ngoài, cần chuẩn bị
gấp .
Tôi lập tức về làng, thu xếp
mọi việc, rồi viết một bức thư để lại cho
cha tôi, nói thác ra
rằng vì đường làm ăn lận đận,
con quyết chí ra đi, bao giờ
làm nên sự nghiệp, báo
đền được công ơn cha mẹ thì sẽ
trở về nhà. Viết như thế là
có ý đề phòng khi quan
đòi hỏi thì người nhà
có cớ để khai báo, đỡ phần
trách nhiệm cho gia đình. Viết
xong, tôi bí mật bỏ lá
thư vào cái hòm đựng
sách là chắc chắc khi cha
tôi đi dạy học ở Kiến An về thế
nào cũng mở. Còn đối với mẹ
tôi, thì chỉ nói
là đi kiếm việc làm như mọi
lần.
Qua mấy năm mò mẫm tìm
tòi, lần này tôi mới
được gặp người đưa đi nước ngoài học
tập để làm cách mạng.
Tôi chuẩn bị lên đường với tất
cả lòng hăm hở và tin tưởng.
*
Tôi và anh giáo Lập
cùng đi một chuyến tàu hỏa từ
Thanh Hóa đến Hà Nội, ngủ tối
trong nhà một người quần chúng
ở Thái ấp Hoàng Cao Khải. Ngay
hôm sau, đáp ô-tô
đi Bắc Ninh, rồi lấy vé tàu
lên ga Đồng Đăng. Tàu đến nơi
khi trời đã tối được một hồi.
Chúng tôi xuống tàu về
phía bên kia ga để khuất mắt
những người soát vé,
nhìn thấy lố nhố độ khoảng hơn mười
người nữa, đó là những anh em
cùng đoàn xuất dương. Khi
tàu chưa chuyển bánh,
chúng tôi chạy nhanh về
phía rừng. Tàu chạy xong, kiếm
lại đủ người thì tạm lánh
vào đám cây rậm
bên đường để chờ. Một chốc, người giao
thông đến gặp anh giáo Lập
nói: Lối đi cũ bị lính
dõng kiểm soát, chúng
ta phải đi đường vòng, băng rừng suốt
đêm nay thì mới qua biên
giới được.
Sau một đêm leo trèo, lặn lội,
chúng tôi đã sang tới
thôn Nà Đầy, làng Cống
Chạp, thuộc đất Trung Quốc, ở nhà một
người họ Lăng.
Đồng chí Tản Anh được Tổng bộ Thanh
niên cách mạng đồng
chí hội phái đến
đón chúng tôi ở
đây. Hoàn cảnh cách mạng
Trung Quốc hồi này ở giai đoạn
phát triển tương đối thuận lợi. Khi
Tôn Trung Sơn còn sống, chủ
trương liên Nga liên Cộng, ủng
hộ công nông, khi chết
còn để lại di chúc phải
liên hợp với các dân tộc
nhỏ yếu và những dân tộc đối
đãi bình đẳng với Trung Quốc.
Vì vậy, Tưởng Giới Thạch tuy ngầm
có âm mưu xấu, nhưng chưa
đám công khai trở mặt chống
Cộng. Ở Quảng Đông, Chính phủ
Quốc dân đảng mở trường võ bị
Hoàng Phố, Hồ Chủ tịch đã bố
trí được một số cán bộ
cách mạng Việt Nam vào học ở
trường này.
Đồng chí Tản Anh với danh nghĩa
cán bộ trường Hoàng Phố,
đã chuẩn bị sẵn một lá cờ đề
tám chữ “Hoàng Phố quân
hiệu nhập ngũ sinh đội” [10] công
nhiên đưa chúng tôi đi từ
biên giới đến thị trấn Long
Châu. Ở đây chúng
tôi nghỉ lại vài hôm
trong nhà một người họ Lương, sau
đó đáp tàu thủy đi Nam
Ninh, rồi đi Quảng Châu.
Tuy dùng danh nghĩa là học
sinh trường Hoàng Phố để đi đường đến
Quảng Châu, nhưng chúng
tôi không vào học trường
này.
Trường cách mạng của chúng
tôi là lớp huấn luyện
chính trị do đồng chí Nguyễn
Ái Quốc tổ chức. Địa điểm của lớp ở
nhà số 5 Nhân Hưng Cai,
thành phố Quảng Châu, trong một
ngôi nhà bình thường như
nhà ở của nhân dân.
Không rõ lớp này
là khóa thứ mấy, nhưng sau
này một số đồng chí nói
chuyện về lớp huấn luyện Quảng Châu
thì biết đây không phải
là khóa đầu tiên. Người
học gồm độ hơn hai chục anh em, phần nhiều
xuất thân học sinh, trí thức.
Có người mới tham gia bãi
khóa ở Nam Định ra, có người
là Tú tài nho học như
anh Lê Mạnh Trinh.
Khóa học kéo dài khoảng
gần hai tháng. Chương trình
gồm nhiều bài giảng, đại khái
có thể chia làm ba loại vấn
đề: Vấn đề cách mạng thế giới, vấn đề
cách mạng Việt nam, vấn đề phương
pháp vận động cách mạng.
Các bài giảng về cách
mạng thế giới nhằm so sánh
cách mạng Nga với các loại
cách mạng tư sản Anh, Pháp.
Giảng viên chú ý
phân tích sự khác nhau
giữa cách mạng Nga với cách
mạng của giai cấp tư sản và tiểu tư
sản. Có nhiều đoạn phê
phán chủ nghĩa tam dân của
Tôn Trung Sơn.
Về cách mạng Việt Nam, các
bài giảng nhằm phân tích
sự áp bức bóc lột của đế quốc
Pháp đối với nhân dân ta.
Vạch ra lực lượng đấu tranh chủ yếu để
đánh đổ đế quốc thực dân
và phong kiến phải là
công nông, có nhiều đoạn
phê phán đường lối mơ hồ của
Phan Bội Châu như phân biệt “văn
minh cách mạng” với “dã man
cách mạng”, chủ trương phò
Cường Để làm vua, sau lại suy
tôn làm Tổng thống suốt đời,
v.v…Bài giảng còn có
chỗ phê phán học thuyết Găng–đi
muốn giải phóng dân tộc bằng
con đường “bất hợp tác”, “bất bạo
động”.
Về phương pháp vận động cách
mạng, có các bài về
tuyên truyền, về tổ chức, về
công vận, nông vận, phụ vận, học
vận, v.v…
Hồ Chủ tịch trực tiếp lãnh đạo lớp
học, nhưng không phải là giảng
viên duy nhất. Bác lấy
tên là Vương. Bác thường
đến lớp nói chuyện với anh em về
các vấn đề cách mạng Việt nam.
Anh em học sinh, nhiều người đã ngầm
biết Bác là Nguyễn Ái
Quốc, sẵn có lòng hâm mộ
từ khi còn ở trong nước; đến
đây gặp Bác, được thấy
tác phong giản dị, lối nói
ngắn gọn, sâu sắc, dễ hiểu,
thái độ nghiêm túc
và tình đồng chí
thân thiết của Bác, nên
lại càng hết sức kính trọng.
Ngoài Bác ra, các giảng
viên đều là cán bộ của
Đảng Cộng sản Trung Quốc. Trong số
này, có người đã
lãnh đạo phong trào nông
dân như đồng chí Bành
Bái giảng về công tác
nông vận; có người đã
lãnh đạo phong trào công
hội như đồng chí Lưu Thiếu Kỳ giảng
về công vận.
Mỗi khi giảng viên Trung Quốc
lên lớp, các đồng chí Hồ
Tùng Mậu, Tản Anh hoặc Lâm Đức
Thụ phiên dịch. Có lần ba người
này đi vắng, Bác đã
đích thân dịch cho anh em nghe.
Nhiều người cứ tưởng Bác không
thạo tiếng Trung Quốc, khi nghe Bác
dịch nhanh gọn và nói chuyện
trực tiếp với các đồng chí
Trung Quốc thì rất khâm phục.
Sau mỗi lần nghe giảng, học viên chia
tổ thảo luận. Mỗi người nhắc lại những điều
mình hiểu, các đồng chí
khác bổ sung, cho đến lúc nắm
vững toàn bài mới thôi.
Lớp học còn tổ chức một tờ
bích báo để cho anh em viết
bài và viết thơ. Có khi
tổ chức những vở “Kịch cương” diễn ngay ở
trong nhà. “Kịch cương” là một
thứ kịch không có kịch bản,
mà chỉ do một số người nêu ra
chủ đề và nội dung kịch rồi tự
phân vai và dự diễn. Khi diễn
kịch, Bác thường đóng vai
công nhân hoặc nông
dân.
Ngoài việc nghe giảng và thảo
luận ở tổ, chúng tôi còn
được tham quan trường Hoàng Phố, thăm
mộ của bảy mươi hai liệt sĩ Hoàng Hoa
Cương, di tích nổi tiếng của cuộc
Khởi nghĩa 27-4-1911 ở Quảng Châu.
Một dịp khác, nhân có
hội nghị công nhân do Đảng Cộng
sản Trung Quốc tổ chức, Bác đã
giới thiệu cho lớp học đến dự thính
một buổi.
Năm ấy, chúng tôi ăn Tết ở
Quảng Châu, một cái Tết xa tổ
Quốc giản dị nhưng đầm ấm trong tình
đồng chí cách mạng. Tiếc rằng
có vài ba người trong
đám học viên quan niệm ăn Tết
phải cỗ bàn no nê, đã ra
hiệu bán một số quần áo lấy
tiền nhậu nhẹt. Mấy người này về sau
trong trường hoạt động cách mạng đều
không kết quả gì.
Sau Tết, lớp học kết thúc.
Chúng tôi được đưa đến mộ Phạm
Hồng Thái làm lễ kết nạp
vào Việt Nam Thanh niên
cách mạng đồng chí hội.
Trước anh linh của người liệt sĩ kính
yêu, với tiếng bom của mình ở
Sa Diện đã thức tỉnh cả một thế hệ
thanh niên yêu nước,
chúng tôi đưa tay lên thề
trọn đời phấn đấu hy sinh cho cách
mạng quốc gia, cho cách mạng thế
giới.
Sau đó, Tổng bộ phân phối
công tác cho mỗi người,
tôi và một số anh em được bố
trí về nước hoạt động, mỗi người đi
một lối riêng vào một thời gian
khác nhau, để đảm bảo bí mật,
phòng khi bị bắt thì
không tổn thất hàng loạt
cán bộ.
Khi về, đi đường thuận lợi hơn khi đi.
Tôi vượt biên giới đến Đồng Đăng
chỉ mất độ vài tiếng đồng hồ, đến ga
trời chưa sáng, phải im lặng tựa lưng
vào bức tường nhà ga chờ đợi,
đến mờ sáng thì có
tàu ở Nà Sầm xuống.
Mua vé về Hà Nội, nhưng
tôi xuống ga Bắc Ninh, đi xe
ô-tô hàng về Hà
Nội, rồi thuê xe tay đến Văn Điển, lấy
vé về Trình Xuyên (Nam
Định), ghé thăm cậu em vợ đang dạy
học ở đó, để tìm hiểu
tình hình ở nhà. Cậu em
cho biết: Tết vừa qua tôi không
về làng, cả nhà rất lo lắng.
Trong họ có người bàn
nên trình quan để sau
này chúng khỏi làm lụy
đến gia đình, cha tôi
thì lưỡng lự, còn mẹ tôi
thì nhất định không chịu
và nói rằng: Con đã đi
rồi, nếu quan đòi hỏi thì cứ
nói không biết đi đâu,
như vậy con còn có thể về
được, chứ nếu đi trình quan,
thì tự nhiên cắt mất con đường
trở về của con sau này. Thế là
người nhà không đi trình
quan nữa. Nắm được tình hình
như trên, sáng hôm sau
tôi lập tức lên ga Trình
Xuyên mua vé tàu về
nhà. Lúc tàu chuyển
bánh, bất giác buột miệng
ngâm bài thơ của một tác
giả không quen biết:
Văng vẳng tai nghe tiếng
xúp-lê [11] ,
Xúp lê như giục khách
lòng quê.
Gánh tình non nước hai vai
nặng,
Đánh cước bao nhiêu
khách chẳng nề.
Về đến làng Quỳnh vào một buồi
chiều tháng Giêng âm
lịch, giữa lúc tiểu chi họ
Hoàng đang tế tổ ở nhà thờ họ,
tôi liền đi thẳng đến nhà thờ
họ để mọi người thấy sự có mặt của
mình. Ai hỏi về chuyến đi vừa qua,
tôi đều trả lời: Đi Sài
Gòn để kiếm việc làm, nhưng
không được nên lại trở về.
Ông Hồ Khoan là người tinh
ý, mấy hôm sau gặp tôi,
mỉm cười hỏi nhỏ: Đi không
thoát chứ gì! Tôi trả
lời lơ lửng: Bị lạc hậu.
Việc tôi đi Quảng Châu thế
là trót lọt. Mơ ước xuất dương
và gặp cách mạng thế là
thực hiện. Giai đoạn thực tiễn cách
mạng bắt đầu.
*
Bắt tay và hoạt dộng cách
mạng, cần có một việc làm để
che mắt bọn thống trị và có
nơi ở thuận tiện cho việc liên hệ với
các đồng chí. Tôi nhờ
người anh em tìm cho một nơi dạy học
tư ở phố Cầu Giát. Chủ nhà
là một người theo đạo Thiên
chúa, nuôi cơm và trả
lương cho tôi một năm 60 đồng để dạy
chữ quốc ngữ và một ít chữ
Pháp cho hai đứa con.
Hoạt động đầu tiên của tôi
là gây cơ sở. Những người bạn
tâm giao trong làng trước kia
như anh Nhu, anh Thúy, ông Cựu
Đờn, ông Thuận, anh Dương Văn Lan, anh
Hoàng Văn Hợp được tổ chức trước. Sau
đó, phân công những người
ở nhà thì tuyên truyền
phát triển thêm trong
làng, trong huyện; những người
có điều kiện đi xa thì
làm công tác “viễn
phương tuyên truyền”, như ông
Cựu Đờn có quê ngoại ở
Yên Thành thì
phát triển tổ chức ở Yên
Thành, anh Thúy làm
máy dệt ở Nghi Lộc và hay đi
Vinh thì phát triển ở Nghi Lộc
và Vinh, anh Nhu hay đi Anh Sơn
thì phát triển lên Anh
Sơn, anh Lan dạy học ở Đò Cấm
thì phát triển ở Đò
Cấm.
Về phần tôi cũng thường đi Yên
Lý, Vạn Phần nên liên lạc
với đồng chí Võ Mai và
các đồng chí Thanh
niên cách mạng đồng
chí hội ở vùng
đó; có lúc đi Vinh gặp
các đồng chí Trần Văn Cung,
Nguyễn Văn Lợi để bàn công
việc, nhưng người thường qua lại Cầu
Giát liên lạc với tôi
là anh giáo Lập, lúc
này bí danh là
Hoàng Lùn.
Năm 1927 là một năm đấu tranh gay gắt
giữa Thanh Niên và Tân
Việt. Trước khi phân liệt, đồng
chí Hoàng Lùn đã
giới thiệu tôi gặp Đào
Xuân Mai và Thái Văn Đức
ở núi Quyết gần thành phố Vinh
để thành lập liên tỉnh
Thanh-Nghệ-Tĩnh với hai người này.
Đây là một hình thức tổ
chức hợp nhất giữa Thanh Niên
và Tân Việt, nhưng qua một thời
gian liên lạc, việc hợp nhất
không thành, thì
tôi không gặp nữa.
Hết năm 1927, tôi không dạy học
ở Cầu Giát nữa để dễ cho việc đi lại
hoạt động ở các nơi.
Đầu năm 1928, Tổng bộ Thanh niên ở
Quảng Châu đưa tin về, trong cuộc Khởi
nghĩa Quảng Châu tháng chạp
1927, Tưởng Giới Thạch đã ra mặt phản
động, đàn áp cách mạng
Trung Quốc rất tàn khốc. Chúng
bắt cả một số cán bộ cách mạng
Việt Nam, trong đó có đồng
chí Hồ Tùng Mậu. Kỳ ủy Trung
kỳ chủ trương phát truyền đơn
kêu gọi người Hoa ủng hộ cách
mạng Việt Nam, đòi Tưởng Giới Thạch
trả lại tự do cho các đồng chí
cách mạng Việt Nam đã bị
chúng bắt giam.
Các anh Dương Đình
Thúy, Dương Văn Lan và
tôi đều di rải truyền đơn ở Vinh. Anh
Thúy vì tổ chức nhầm một
tên mật thám ở sở Đạc Điền,
nên bị chỉ điểm và bị bắt trong
khi làm nhiệm vụ.
Về phần tôi, làm trót
lọt. Nhưng được tin anh Thúy bị bắt,
tôi phải cảnh giác, tìm
gặp anh Nhu bàn kế hoạch đề
phòng bất trắc. Chúng
tôi chủ trương thay đỗi luôn chỗ
ở, đồng thời phải tìm cách ra
Thanh Hóa gặp anh Hoàng
Lùn để xin ý kiến. Mấy
hôm sau, trên đường đi Thanh
Hóa, tôi rẽ về làng
lúc trời đã thật tối. Vừa bước
vào nhà, mẹ tôi cho biết
lính huyện mới về truy nã từ
buổi chiều, phải cho chúng hai đồng
bạc để chúng khỏi kiếm chuyện.
Đêm hôm đó, tôi
nhắn đồng chí Hoàng Văn Hợp [12]
đến dặn dò một số công việc
trước khi ra đi, rồi đi ngủ ở một chỗ
bí mật. Chuyến đi này được mọi
người trong gia đình góp phần
thu xếp nên rất chu đáo,
không ai hay biết gì cả.
Là một người cách mạng tạm
tránh giặc lùng bắt, tôi
chỉ cố làm cho gia đình bớt lo
lắng, chứ chẳng có gì dặn
dò cha mẹ và ngay cả vợ
tôi với đứa con đầu lòng mới
hơn một tuổi. Tôi cũng không
nghĩ rằng đây là chuyến đi đằng
đẵng mười bốn năm xa Tổ quốc, mười
tám năm xa gia đình.
Một mo cơm nắm, với chiếc cân bỏ trong
cái xéo vải cầm ở tay,
tôi đóng vai người buôn
tơ, đang đêm băng qua mấy cánh
đồng hẻo lánh, lên đường quốc
lộ số 1, đi bộ ra Thanh Hóa. Qua bến
đò Ghép rồi chân mỏi
quá phải thuê xe tay đi đến thị
xã, vào Hưng nghiệp hội
xã giữa lúc anh em đang
ăn cơm tối.
Đồng chí Hoàng Lùn gặp
tôi, nghe báo cáo. Mấy
hôm sau, cho tôi biết là
Kỳ ủy quyết định phái tôi sang
Xiêm hoạt động. Theo kế hoạch,
tôi mượn xe đạp đi thẳng từ Thanh
Hóa vào Vinh tìm gặp
anh Võ Mai để bố trí kịp
chuyến giao thông sang Xiêm sắp
tới, vì anh là người có
trách nhiệm tổ chức chuyến đi, đồng
thời cũng là người phải qua
Xiêm gặp anh em bên ấy để
bàn việc liên lạc.
Anh Võ Mai đưa tôi tạm
lánh ra Phủ Diễn, bí mật ở
nhà anh Đậu Chương. Sau đó,
ông Vương Thúc Xuân đưa
tôi và anh Võ Mai
vào Hà Tĩnh đến Hương
Khê, nghỉ ở một nhà quần
chúng bên ven rừng mấy
hôm, rồi vượt rừng qua Lào đi
sang Xiêm.
Đây là lần xuất dương thứ hai
của tôi. Lần trước xuất dương sang
Trung Quốc, đi tìm cách mạng,
học cách mạng. Ra đi hồi hộp
mà phấn khởi như người đang mò
mẫm trong đêm tối nhìn thấy
ánh đèn cách mạng, xăm
xăm bước tới. Lần này xuất dương sang
Xiêm giữa lúc cách mạng
đang bị khủng bố, lòng tôi
không khỏi bồi hồi nghĩ đến các
đồng chí, nghĩ đến cha mẹ, vợ con sẽ
bị hào lý, quan lại làm
khổ. Càng nghĩ càng thấy
trách nhiệm của mình rất nặng
nề, phải làm thế nào để một
ngày kia có thể lấy lại được
đất nước.
Tâm sự này thể hiện ở
bài hát sa mạc trong vở kịch Người
xuất dương do tôi soạn
và cùng diễn với anh em ở
U–đon năm 1929:
Núi xanh xanh ngắt một màu,
Trông vời cố quốc dạ sầu xiết bao.
Động Trìm, động Trẹo thì
cao,
Nước Xăm, Mòi thì lớn biết
làm sao bây giờ.
Xa trông đỉnh Ác tờ mờ,
Dòng Oi chưa lội biết bao giờ cho
tới nơi?
Dặm quan sơn khôn xiết nỗi ái
hoài,
Tình nhà nghĩa nước
đôi vai nặng nề,
Giơ tay chỉ núi ta thề,
Thề non sông lấy lại ta sẽ về nước
ta.
Động Trìm, động Trẹo, đỉnh Ác
là tên những dãy
núi; nước Xăm, Mòi,
dòng Oi là tên những
dòng suối, dòng sông
trên đường qua Xiêm.
Qua sáu ngày trèo
đèo, lội suối, chúng tôi
đến một địa điểm có mấy nhà
Việt kiều cách Thà–khẹc mấy
cây số. Chờ trời tối, chúng
tôi ra bờ sông ở một bến vắng,
một kiều báo đã chèo
thuyền lảng vảng ở chỗ đó.
Chúng tôi lên thuyền vượt
qua sông sang bên kia là
Na-Khon Pha-nôm, một thị trấn
trên bờ sông Mê Công
thuộc về đất Xiêm.
Hôm ấy vào khoảng cuối
tháng 5 năm 1928.
[1]Người
đỗ Tú tài trong chế độ khoa cử
nước ta thời phong kiến, trước năm 1919.
(BT)
[2]Rùa
Thục tuốt móng thiêng. Nói
về sự tích vua Thục An Dương Vương
nhờ có móng rùa thần
làm lẫy nỏ mà dẹp được giặc.
[3]Ngựa
Hồ kêu gió Bắc: Theo
truyền thuyết cũ thì ngựa Bắc Hồ khi
thầy gió Bắc là kêu
hý lên. Ý nói
tình cảm nhớ nước.
[4]Thương
nữ hát bài Hậu đình:
Lấy ý trong câu thơ của Đỗ
Mục đời Đường Trung Quốc: Thương nữ bất
trí vong quốc hận, cách
giang do xướng Hậu đình hoa,
nghĩa là: Thương nữ biết gì
thù hận mất nước, cách
sông hát điệu Hậu đình
hoa. Hậu đình hoa là một điệu
hát không lành mạnh.
[5]Huyền
Cao: Một nhà buôn
yêu nước đời Xuân Thu Trung
Quốc.
[6]núi
sông lớn của huyện Quỳnh Lưu
[7]thầy
địa lý
[8]Người
đỗ Cử nhân trong chế độ khoa cử nước
ta thời phong kiến, trước năm 1919. (BT)
[9]trưởng
tàu - Chef de train
[10]Đội
học sinh nhập ngũ của trường Hoàng
Phố
[11]còi
xe lửa - souflet
[12]sau
bị xử bắn ngay ở làng Quỳnh trong năm
1930
----------------------------------
Phần 2: Những
năm tháng hoạt động
cách mạng ở Xiêm[1]
(1928-1935)
|
Khoảng cuối tháng
5-1928, tôi cùng anh
Võ Mai sang tới đất Xiêm,
được các đồng chí xếp tạm ở
một trạm liên lạc tại Bản Mày
thuộc phủ Na-khon.
Anh Ngô Tuân, tức Ba Đốc thay
mặt đoàn thể ở Xiêm gặp
chúng tôi. Anh tưởng
chúng tôi là người
trong nước cử ra để học tập như các
đợt trước, nên đã bảo
chúng tôi: Các
ông trở về nước thôi.
Ngày nay ở Xiêm không
nhận học sinh trong nước ra nữa.
Không lạ gì hồi ấy thủ tục
giới thiệu liên lạc không thể
làm được đàng hoàng.
Tôi phải trình bày
rõ lý do Kỳ ủy Trung kỳ điều
động tôi ra Xiêm không
phải để học tập mà là để
hoạt động cách mạng. Còn anh
Võ Mai là người của Kỳ ủy
phái ra đặt mối liên hệ
công tác giữa cơ sở Việt
Nam Thanh niên cách mạng
đồng chí hội ở Xiêm với
trong nước.
Để anh Ba Đốc hiểu thêm, tôi
nói rõ việc có quen
biết anh Tú Chính, tức
Lê Mạnh Trinh, và anh Chu tức
là Trấn Văn Chấn v.v…là
những người đã cùng tham gia
lớp huấn luyện với tôi ở Quảng
Châu năm 1926 mà nay đang
hoạt động ở Xiêm.
Ngay sau đó, chúng tôi
được đưa sang nhà ông
Lê Khoan [2]
, là cơ sở chính của trạm
liên lạc.
Ở cạnh nhà ông Khoan
có một lớp học của thiếu
niên, giáo viên lớp
này là anh Hoàng
Trác, một người em họ và
cùng quê với tôi xuất
dương sang Xiêm từ trước.
Chúng tôi đều biết nhau,
nhưng không ai nhận họ, nhận
quê gì cả, vì phải giữ
nguyên tắc bí mật.
Ở độ dăm bẩy hôm, tôi bắt đầu
đi lại với anh em trong Tổ Hợp tác,
một hình thức tổ chức quần
chúng của Việt Nam Thanh
niên cách mạng đồng
chí hội ở đây. Trong
khi thăm hỏi, làm quen với anh em,
tôi thường đọc một số thơ văn
yêu nước của Phan Bội Châu,
Phan Chu Trinh, Yên Đổ, Tú
Xương, Tản Đà v.v. . . dần
dà anh em hiểu tôi là
người có trình độ văn
hóa; và hình như cấp
trên đã cho biết tôi
là cán bộ của đoàn
thể, nên anh em đối đãi tốt,
thân mến, và coi trọng hơn
trước.
Ít lâu sau, anh Lê Mạnh
Trinh đến gặp tôi và đưa
tôi vào U–đon. Còn anh
Võ Mai, sau khi bàn bạc xong
việc liên lạc thì trở về
trong nước.
Thời gian tôi hoạt động ở Xiêm
gồm hai giai đoạn, một giai đoạn trong
Thanh niên cách mạng đồng
chí hội ở Xiêm, một giai đoạn
dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản
Xiêm.
I. Giai đoạn hoạt động trong Việt Nam
thanh niên cách mạng đồng
chí hội ở Xiêm
Tôi đến U-đon vừa đúng dịp kỷ
niệm Phạm Hồng Thái (19-6-1928).
Các đồng chí phân
công tôi trang trí hội
trường và viết câu đối chữ
Hán. Câu đối như sau:
Đại trượng phu vô sở vị nhi vi, tứ
niên lai kỷ niệm hình hương,
tiên chí khởi kỳ thân
hậu hưởng.
Tinh thần giới yên tri tử bất tử,
cửu tuyền hạ mộng hồn thi chúc,
thành công lưu phó
ngã đồng kiên.
Tạm dịch:
Kẻ trượng phu, làm không
phải vì mình, đã
bốn năm kỷ niệm vang lừng, tiên
chí chẳng màng vinh dự ấy.
Cõi tinh thần, chết đâu
phải là hết, dưới chín
suối mộng hồn thao thức, thành
công còn đợi chúng
ta đây.
Thấy câu đối hay, cứ tưởng là
do anh em ở đây làm, sau
này xem sách văn học mới
biết câu đối này vốn
là của Đặng Nguyên Cẩn
làm để điếu một liệt sĩ cách
mạng, mà anh em dùng lại,
vì nó cũng thích hợp
với lễ kỷ niệm Phạm Hồng Thái.
Trong lễ kỷ niệm đó, tôi
còn được phân công đọc
bài văn truy điệu Phạm Hồng
Thái. Bài văn này do
cụ Đặng Thúc Hứa - anh em thường
gọi thân mật là Cố Đi -
làm.
Kỷ niệm xong, các đồng chí
phái tôi vào Noỏng-ổn,
một vùng cơ sở của Thanh niên
cách mạng đồng chí hội,
cách U-đon khoảng mười cây
số, cùng làm việc với Cố Đi,
phụ trách trường huấn luyện thiếu
niên.
Trường có mười tám học sinh,
phần lớn là con em Việt kiều,
và một số thiếu niên từ
Nghệ-Tĩnh gửi ra để học tập cách
mạng. Các anh Mai Văn Quang, Dương
Trí Trung, Đỗ Văn Hương v.v… hồi ấy
mới 15, 17 tuổi đều là học sinh của
trường này.
Đây là một nhà trường
cách mạng vừa học vừa làm.
Trò cũng như thầy, ngoài giờ
học tập đều tham gia lao động.
Phần học tập chủ yếu là học văn
hóa, có nội dung
chính trị yêu nước. Cố Đi dạy
chữ Hán, tôi dạy chữ quốc
ngữ. Chúng tôi dạy cho
các em biết lịch sử, địa lý
của nước Việt Nam, biết tính
toán, thuộc các bài
văn, thơ yêu nước. Mục đích
chủ yếu là bồi dưỡng cho các
em có lòng căm thù
đối với giặc Pháp, có
ý chí cách mạng, để
sau này trở thành những
người hoạt động cứu nước. Ngoài Cố
Đi và tôi ra, thỉnh thoảng
anh Lê Mạnh Trinh cũng đều giảng dạy
cho các em một đôi buổi.
Điều kiện ăn ở của thầy trò trong
nhà trường rất giản dị. Trường
có hai ngôi nhà tranh.
Nhà chính có ba gian
là nơi học tập. Chính giữa
nhà có một cái phản
dài và khá rộng,
đó là bàn học, hai
bên hai dãy ghế. Ban
đêm, bàn học biến
thành giường ngủ của học sinh.
Ngôi nhà phụ nhỏ hơn, vừa
là nhà bếp, vừa là
phòng ăn và nơi để
các dụng cụ lao động.
Nếp sống của mọi người trong nhà
trường khá quy củ, ngăn nắp. Mỗi
buổi sáng, tôi và học
trò đều ra sân tập thể thao ( Cố
Đi đã 58 tuổi, người yếu được
miễn), sau đó đi lao động,
lao động xong rồi mới vào học. Việc
lao động của thầy trò trong trường
chủ yếu là trồng khoai, trồng rau,
trồng cây lưu niên, chăn
nuôi lợn gà, nấu cơm, rửa
bát, gánh nước v.v…
Có khi thầy trò gánh
khoai của mình trồng được đem
vào làng đổi lấy thóc
lúa của nhân dân địa
phương.
Sản xuất như vậy cũng có ý
nghĩa học tập, bồi dưỡng tinh thần
cách mạng; nhưng chủ yếu là
để bảo đảm đời sống cho cả thầy lẫn
trò. Quỹ đoàn thể chỉ phụ
cấp phần nào mà lớp học
không thể tự túc được.
Hồi còn ở nhà, tôi chỉ
là một anh học trò,
không biết gì là lao
động, khi giác ngộ cách
mạng, mới bắt đầu có ý thức
tham gia lao động ít nhiều, như
gánh nước, đắp đường v.v… ở trong
làng. Đến nay ở Noỏng-ổn, lao động
chân tay đến với tôi đã
trở thành công việc
hàng ngày. Điều kiện sinh
hoạt mới giúp tôi gần gũi
quần chúng lao động nhiều hơn
trước, và nhận thức sâu
thêm về vai trò của
công, nông trong cách
mạng, điều mà Hồ Chủ tịch đã
giảng dạy nhiều cho chúng tôi
trong lớp huấn luyện ở Quảng Châu.
*
Ngoài việc dạy học ở Noỏng-ổn,
tôi còn tham gia việc
lãnh đạo chung của tổ chức Thanh
niên cách mạng đồng
chí hội. Thanh niên
cách mạng đồng chí hội ở
Xiêm được thành lập từ năm
1925 tại Bản Đông, một làng
Việt kiều ở huyện Phi-chịt, thuộc tỉnh
Phít-xa-nu-lốc miền trung nước
Xiêm; năm 1927, 1928 phát
triển đến các địa phương có
Việt kiều tập trung ở các phủ U-đon
Tha-xi, Xa-côn Na-khon, Na-khon
Pha-nôm thuộc tỉnh U-đon, khu
Đông Bắc Xiêm. Vì quần
chúng Việt kiều ở Đông Bắc
nhiều và rải rác ở nhiều địa
điểm khác nhau, nên trung
tâm lãnh đạo của Thanh
niên cách mạng đồng
chí hội chuyển từ Phi-chịt ra
U-đon.
Tháng 8 năm 1928, Hồ Chủ tịch đến
Xiêm, sau một thời gian nghiên
cứu, Bác đề nghị lập Tỉnh ủy U-đon
để thống nhất việc lãnh đạo. Tỉnh
ủy gồm năm đồng chí: Đặng
Thái Thuyến tức Canh Tân,
Võ Văn Kiều tức Đình, Trần
Văn Chấn tức Tăng, Nguyễn Văn Dụ tức Hải,
và tôi lấy tên
là Nghĩa. Các đồng
chí Võ Tòng tức
Sáu, Lê Mạnh Trinh tức Tiến,
đều ở Phi-chịt đã duy trì cơ
sở cũ, Đặng Thúc Hứa đã đi
Xiêng-mày, Lăm-pang để
xây dựng cơ sở mới, nên
không tham gia ban Tỉnh ủy.
Thanh niên cách mạng đồng
chí hội lãnh đạo quần
chúng dưới hai hình thức
là Hội Hợp tác với Hội
Việt kiều Thân ái.
Hội Hợp tác là một tổ
chức quần chúng trung kiên,
nơi đào tạo những thành
viên dự bị cho Thanh niên
cách mạng đồng chí hội. Hội
Hợp tác kết nạp những phần tử
thanh niên yêu nước, chủ yếu
là những thanh niên có
chí hướng cách mạng ở trong
nước mới ra, họ sống chung với nhau
và làm ăn tập thể theo sự tổ
chức của Hội. Có nhóm
chuyên làm ruộng, có
nhóm chuyên làm
các nghề thủ công như thợ
cưa, thợ mộc, thợ nề v.v... Số tiền thu
nhập của mỗi tổ được dành ra một
phần cho sinh hoạt tối cần thiết của
các tổ viên, phần còn
lại dùng làm công quỹ
của Hội để chi tiêu vào việc
chung, như phái người ra nước
ngoài hoặc về trong nước, xây
dựng nhà trường, nuôi
các em ăn học, chi tiêu về
các công tác
tuyên truyền, báo chí
v.v…
Về sau Hội Hợp tác cũng kết
nạp cả một số kiều bào ở Xiêm
từ lâu. Nhưng những hội viên
này làm ăn riêng, theo
chế độ kinh tế độc lập. Ngoài việc
đóng hội phí thường
xuyên, họ còn nhận nuôi
một vài em thiếu niên hoặc
một vài cán bộ cách
mạng chuyên nghiệp.
Tính đến cuối năm 1929, Hội Hợp
tác Việt kiều có
khoảng hơn một trăm hội viên.
Hội Việt kiều Thân ái
là một tổ chức rộng rãi,
có tính chất “mặt trận” của
kiều bào. Ở hầu hết các địa
phương có Việt kiều sinh sống đều
có Hội Thân ái. Hội
viên có hai hạng: Hội
viên chính thức định kỳ hội
họp và đóng hội phí
hàng tháng, thường là
người ở những vùng Việt kiều tập
trung đông đảo. Hội viên cảm
tình thường là những Việt
kiều ở rải rác các địa
phương xa, không tiện liên lạc
hội họp, là những bà con
“Việt kiều cũ” sống trên đất
Xiêm lâu đời, đã
vào quốc tịch Xiêm, nhưng
còn giữ tinh thần dân tộc,
ủng hộ cách mạng Việt Nam.
Các hội viên cảm tình
tùy theo khả năng và
lòng hăng hái mà
góp phần tinh thần hoặc vật chất
giúp cho các hoạt động của
Hội.
Ở những nơi đông đảo Việt kiều
còn có Hội Phụ nữ, Hội
Thanh niên, Hội Thiếu niên.
Đó là những bộ phận của Hội
Việt kiều Thân ái.
*
Trong công tác tuyên
truyền, giáo dục quần chúng,
Việt Nam Thanh niên cách
mạng đồng chí hội ở
Xiêm đã làm những việc
như: Xuất bản báo, mở lớp học cho
thanh thiếu niên, tổ chức các
buổi diễn giảng cho anh em tập
trình bày và thảo
luận các vấn đề chính trị,
tổ chức các ngày lễ kỷ niệm
có ý nghĩa yêu nước
như: kỷ niệm Phạm Hồng Thái, kỷ
niệm ngày quốc sỉ [3] , kỷ niệm
Nguyễn Sĩ Sách v.v… Trong những
buổi lễ này thường tổ chức diễn
kịch.
Ngoài việc tập hợp, giáo dục
Việt kiều, tổ chức Việt Nam Thanh
niên cách mạng đồng
chí hội ở Xiêm
đã đưa được nhiều sách
báo, tài liệu về nước, đưa
được một số cán bộ trong nước ra
Xiêm và đi Trung Quốc để hoạt
động cách mạng, hoặc để đào
tạo thành cán bộ cách
mạng. Năm 1927, đã cử người sang
Lào, thành lập Chi hội Việt
Nam Thanh niên cách mạng
đồng chí hội ở Viêng
Chăn, và đặt được một số cơ sở giao
thông liên lạc ở các
thị trấn Lào đối diện với
Xiêm, như Xa-vằn-na-khệt đối diện
với Mục-đa-hán ở Xiêm,
Thà-khẹc đối diện với Na-khon ở
Xiêm, và Viêng Chăn đối
diện với Noỏng-khai ở Xiêm. Nhất
là từ khi đồng chí Võ
Mai sang Xiêm đặt mối liên
lạc, thì quan hệ giữa cơ sở
cách mạng ở Xiêm với cơ sở
trong nước càng được mật thiết.
Sự hoạt động của Thanh niên
cách mạng đồng chí hội ở
Xiêm đã có tiếng vang
về trong nước. Tháng 6 năm 1928, Việt
Nam Quốc dân đảng đã cử
một đoàn đại biểu gồm ba người
là Nguyễn Ngọc Sơn, Hồ Văn Mịch
và Nguyễn Văn Tiềm, sang Xiêm
đề nghị Tổng chi hội ở Xiêm
giúp súng đạn để về nước
chuẩn bị bạo động. Đoàn thể ở
Xiêm đã tiếp xúc, thảo
luận với họ một cách thân
mật, mời họ tham gia lễ kỷ niệm Phạm Hồng
Thái và tham quan một số địa
phương Việt kiều có tổ chức hoạt
động yêu nước. Mặt khác giải
thích với họ rằng lúc
này chưa phải thời cơ bạo động
và từ chối việc giúp họ
súng đạn, với lý do
còn phải xin ý kiến của Tổng
bộ ở Trung Quốc. Mấy người đại biểu Việt
Nam Quốc dân đảng này khi về
tới Việt Nam bị bắt, đã khai
báo tất cả.
Tham gia công tác lãnh
đạo Thanh niên cách mạng đồng
chí hội ở Xiêm, ngoài
việc họp bàn các chủ trương
công tác, tôi thường
góp phần viết báo Thân
ái; tổ chức các buổi
diễn giảng, các lễ kỷ niệm,
các đêm diễn kịch.
Năm 1929, trong dịp Tết xuân,
tôi đã soạn vở kịch
nói Người xuất dương
và cùng diễn với anh em ở
U-đon. Lâu ngày quên
hết cả cốt chuyện, chỉ nhớ trong vở kịch
có một câu chuyện giữa thầy
giáo và học trò trong
một lớp học như sau:
Thầy giáo nói: Người
Tây ở Việt Nam sung sướng lắm, ngay
con chó của họ cũng được phụ cấp
tiền ăn một tháng ba bốn mươi đồng.
Học trò hỏi: Thế lương thầy mỗi
tháng bao nhiêu?
Thầy giáo đỏ mặt lên chốc
lát, nhưng rồi bình tĩnh
nói: Lương của thầy một
tháng chỉ mười hai đồng, đến như
lương ông đốc học ở một trường
Pháp – Việt huyện cũng chỉ
có ba mươi đồng.
Thanh niên cách mạng đồng
chí hội cũng như các hội Hợp
tác và Thân
ái, trong những năm 1928 -
1929 đang ở trên đà
phát triến tốt. Đó là
nhờ sự đóng góp của nhiều
người, kể từ những bậc tiền bối như Phan
Bội Châu, Đặng Tử Kính, cho
đến những thanh niên mới từ trong
nước ra và những em nhỏ đang học ở
các lớp thiếu niên. Nhưng
người có công lao to lớn nhất
về việc xây dựng cơ sở Việt kiều
lâu dài ở Xiêm
thì phải nói là Đặng
Thúc Hứa, mà kiều bào
đã quen gọi với một cái
tên rất tôn kính
và trìu mến là “Cố
Đi” hay “Thầy Đi”.
*
Để nói rõ công lao của
Đặng Thúc Hứa, tôi
trích dẫn một đoạn trong chương II
của cuốn Hoạt động cách mạng
của Việt kiều ở Thái Lan,
nguyên văn như sau:
“Trong lớp người yêu nước trước khi
có Đảng, có thể nói
Đặng Thúc Hứa là một người
kiên trì cách mạng đến
cùng, và đã tiến
lên theo kịp các bước
phát triển trong lịch sử
cách mạng Việt Nam.
“Đặng Thúc Hứa đã từ chỗ
tham gia phong trào Cần Vương
chuyển qua đồng tình với việc
phò Cường Đế theo chế độ quân
chủ lập hiến, rồi tán thành
việc giải tán Duy tân hội,
lập ra Việt Nam Quang phục hội
theo đường lối dân chủ tư sản,
và cuối cùng chuyển qua cuộc
vận động cách mạng do giai cấp
công nhân lãnh đạo theo
chủ nghĩa cộng sản.
“Sự chuyển biến của Đặng Thúc Hứa
không phải là bị động,
mà là một quá
trình có suy nghĩ, nhận thức
rõ ràng về sự tất yếu của
cách mạng.
“Đặng Thúc Hứa xuất dương từ năm
1908, đến đất Xiêm năm 1909,
là một trong những người đầu
tiên xây dựng nên trại
cày ở Bản Thầm từ năm 1910, khi cụ
Phan Bội Châu hoạt động ở
Xiêm, và là người duy
trì cơ sở Bản Thầm cho đến
cùng.
“Bên cạnh trại cày Bản Thầm,
Đặng Thúc Hứa đã bắt đầu
xây dựng từ năm 1911-1912 một cơ sở
gọi là “Trại các em” để
nuôi dạy con em những gia
đình có căm thù với
đế quốc Pháp từ trong nước gửi ra,
hoặc con em các gia đình
Việt kiều yêu nước ở Lào
và ở Xiêm gửi tới. Mục
đích của cụ là dạy cho
các em bằng tiếng Việt, biết chữ
nghĩa, biết lao động làm ăn,
và nhất là biết yêu
nước để sau này lớn lên trở
thành người cách mạng cứu
nước.
“Không bao lâu, Chiến tranh
thế giới lần thứ nhất bùng nổ,
Chính phủ Xiêm đứng về phe
Đồng minh của Pháp, các hoạt
động yêu nước của Việt kiều gặp
khó khăn lớn. Do sự can thiệp của
Pháp, “Trại các em” của Đặng
Thúc Hứa phải dời về Bản
Đông, thuộc huyện Phi-chịt. Năm 1916
bị Pháp thúc ép,
Chính phủ Xiêm ra lệnh nội
trong năm ngày tất cả người Việt
Nam ở Bản Đông phải dời đi chỗ
khác, nếu không thì
khi quân Pháp đến bắt
và tịch thu tài sản Việt
kiều, họ sẽ không chịu trách
nhiệm; vì lúc đó,
theo điều ước bất bình đẳng
Pháp–Xiêm thì người
Pháp được hưởng quyền lãnh
sự tài phán, có thể
xử phạt Việt kiều trên đất
Xiêm mà chúng coi
là người chịu sự bảo hộ của
chúng. Trước tình
hình đó, Đặng Thúc
Hứa lại phải đưa các cháu
qua Trung Quốc để tiếp tục học tập, rồi ở
Trung Quốc hoạt động cho đến năm 1919.
“Thời gian này, Chính quyền
cách mạng Trung Quốc ở một số tỉnh
đã lọt vào tay bọn
quân phiệt. Khi chiến tranh thế giới
lần thứ nhất bùng nổ, bọn
quân phiệt Quảng Tây
lùng bắt cách mạng Việt Nam,
bắt cả cụ Phan Bội Châu. Những cố
gắng về quân sự của Việt Nam
Quang phục hội ở trong nước cũng như
ở Trung Quốc, ở Xiêm đều bị thất
bại.
“Đứng trước diễn biến của tình
hình trong nhiều năm qua, Đặng
Thúc Hứa nhận thức được rằng
cách mạng Việt Nam không thể
ỷ lại vào sự giúp đỡ của
nước ngoài, mà cũng
không nên chỉ chú trọng
vào những mưu toan bạo động như Việt
Nam Quang phục hội đã
làm bấy lâu nay. Ông
bàn với Phan Bội Châu trở lại
đất Xiêm tiếp tục gây dựng cơ
sở với tư tưởng trường kỳ gian khổ, dựa
vào nhân dân để
làm cách mạng.
“Năm 1919, về đến Phi-chịt, Đặng
Thúc Hứa trao đổi ý kiến với
Đặng Tử Kính về phương châm
hoạt động cứu nước. Nhưng quan điểm hai
người quá xa nhau. Đặng Tử
Kính vẫn khư khư ôm chủ
trương cũ, tôn thờ “minh chủ” Kỳ
ngoại hầu Cường Đế, định lập ra một
cái “Chính phủ lâm
thời” để có cớ cho Cường Đế xin
ngoại viện của Nhật Hoàng.
Bàn đến việc vận động kiều
bào thì Đặng Tử Kính
cho họ là hạng người tha phương cầu
thực, không có tri thức
gì để bàn việc nước. Đặng
Thúc Hứa phản đối hết mọi ý
kiến của Đặng Tử Kính, ông
cho rằng lúc này mà
còn ôm lấy “Kỳ ngoại hầu”,
dựa vào Nhật Hoàng là
lỗi thời. Ông chủ trương phải nương
tựa vào kiều bào,
giáo dục kiều bào
đoàn tụ lại làm cơ sở
lâu dài cho cách mạng.
“Đặng Thúc Hứa thường hay lấy
câu “Thập niên sinh tụ, thập
niên giáo hối” nghĩa
là “Mười năm tập hợp lực lượng,
mười năm giáo dục nhân
dân” [4]
, để hình dung cái
chí hướng và việc làm
cụ thể của mình và đã
thực hiện một cách kiên cường
không biết mệt mỏi.
“Những lúc họp mặt với các
đồng chí trong Việt Nam Quang
phục hội, Đặng Thúc Hứa
thường nêu lên quan điểm của
mình. Cụ phê phán sự
“giúp đỡ” của Chính phủ Nhật
Bản đối với cách mạng Việt Nam
chẳng qua chỉ là nêu ra
cái chiêu bài “đồng
văn, đồng chủng” để che giấu dã
tâm “muốn làm một nước
đàn anh ở châu Á”
mà thôi. Khi Chính phủ
Nhật giúp cụ Phan Bội Châu
đào tạo một số thanh niên
yêu nước Việt Nam thì họ chỉ
dạy cho biết chữ Nhật, khoe khoang nước
Nhật là tài giỏi; nhưng
trong thâm tâm họ đang
âm mưu đẩy Pháp ra để nhảy
vào Việt Nam, và dùng
những người đang học ở Nhật làm tay
sai cho họ sau này. Thực tế
đã cho thấy rằng đế quốc Nhật cai
trị Triều Tiên cũng tàn bạo,
chẳng khác gì đế quốc
Pháp cai trị Việt Nam. Cụ thường
nhắc anh em nhớ lại những chuyện đắng cay
khi Chính phủ Nhật thỏa hiệp với
Pháp, ra lệnh đuổi các học
sinh yêu nước Việt Nam trong
vòng 24 giờ phải rời khỏi nước đất
Nhật, đến nỗi cụ Phan và anh em
phải đấu tranh đòi kéo
dài thời hạn trục xuất ra một tuần
lễ.
“Đối với sự nghiệp cứu nước của người Việt
Nam lưu vong ở Xiêm hồi ấy, Đặng
Thúc Hứa thường ví như con
thuyền đi giữa biển, chưa tìm ra
luồng lạch. Cụ nói: “Chúng
ta không sợ bị đắm thuyền mà
chỉ sợ đi lạc hướng, ngược dòng”.
“Trong khi chưa tìm ra một đường
lối cụ thể, Đặng Thúc Hứa rất
chú trọng việc xây dựng cơ sở
lâu dài trong Việt kiều ở
Xiêm. Cụ thường bạn bạc với những
anh em đồng tâm đồng chí rằng
muốn gây cơ sở trong kiều bào
thì “ở đâu có kiều
báo, ở đó phải có mặt
chúng ta. Chúng ta phải
làm đầy tớ cho thiên hạ, chứ
đừng làm ông thánh thế
gian”. Cụ chủ trương nên tập hợp
bà con Việt kiều lại thành
làng, thành xóm
trên đất Xiêm đề bà con
nương tựa vào nhau mà
làm ăn, cùng nhau giữ
gìn phong tục tập quán tốt
đẹp của dân tộc, nhất là để
con em Việt kiều không quên
tiếng mẹ đẻ, không quên nguồn
gốc Tố quốc Việt Nam. Từ chỗ đó sẽ
tiến lên vận động kiều bào
tham gia các công việc cứu
nước.
Để thực hiện chủ trương trên, Đặng
Thúc Hứa đã len lỏi đi khắp
nơi có Việt kiều trên đất
Xiêm để gần gũi và hướng dẫn
quần chúng. Cụ đã đi rất nhiều
nên kiều bào ở Xiêm
thường gọi cụ là “Cố Đi”, “Thầy Đi”.
Cụ thường đi bộ, và hầu như chỉ
có đi bộ, để tiện dừng chân
trên những xóm Việt kiều hẻo
lánh ở rải rác khắp
vùng Đông Bắc nước Xiêm.
Đi tới đâu, Cụ Đi đều khuyên nhủ
kiều bào đoàn kết, thương
yêu, đùm bọc lấy nhau,
và nhớ lấy cái nhục mất nước.
“Cố Đi đã bố trí một số người
đồng tâm đồng chí của
mình đi gây dựng cơ sở ở
các nơi trên đất Xiêm như
sau:
- Phái bà Nho [5]
và một số người đi xây dựng
lại cơ sở bản Đông.
- Phái ông Ngoét
Vinh đi lập cơ sở Vặt-pà,
Nỏong-xẻng gần thị xã Na-khon,
trên bờ sông Mê
Công, đối diện với thị xã
Thà-khẹc trên đất
Lào. Tiếp đó lại
phái cố Khoan và cố
Ngoét Đài đi lập cơ sở ở
Bản Mày, Bản Phừng, dịch thị
xã Na-khon năm cây số.
- Phái ông Châu đi
lập cơ sở ở U-đon, và một số
người khác đi lập cơ sở ở
Noỏng-bua, cách thị xã
U-đon ba cây số, và ở
Đông-ổn, một khu rừng cách
U-đon hơn mười cây số.
“Sau đó, Cố Đi bàn với anh em
tiếp tục phát triển thêm
các cơ sở dọc đường từ U-đon đi
Xa-côn như Bản Hằn, Noỏng-hán,
từ Xa-côn đi Na-khon như
Thà-hẹ, Cu-xu-man, v.v… và
phát triển thêm cơ sở dọc theo
sông Mê Công như
U-thên, Na-ke, Thạt-pha-nôm,
Mục-đa-hán, Noỏng-khai, v.v…
“Nhờ sự hoạt động kiên trì
trong nhiều năm của Đặng Thúc Hứa
và những người đồng tâm đồng
chí của cụ như trên, Việt kiều
rải rác trên đất Xiêm
ngày càng quy tụ lại với nhau
và có một mối liên hệ
mật thiết.
“Hằng năm, Đặng Thúc Hứa thường đi
một vòng qua những nơi có Việt
kiều từ Pạc-nám-phô đến
các tỉnh vùng Đông Bắc
để thăm hỏi kiều bào, nhắc nhở
bà con giữ vững lòng yêu
nước, dạy dỗ con em, giữ gìn phong
tục tập quán tốt đẹp của dân
tộc, đồng thời tôn trọng phong tục tập
quán và phát luật của
người Xiêm. Đến đâu, cụ cũng lao
động và sinh sống như một người
dân thường. Vì vậy, cụ rất được
kiều bào quý mến, mà
ngay cả nhân dân Xiêm cũng
thương yêu, thường gọi là “Thầu
Đăm” [6]
.
“Có lần Đặng Thúc Hứa bị thực
dân Pháp theo dõi để
bắt. Đương cục và nhân
dân Xiêm ở địa phương đã
báo trước để cụ tránh đi chỗ
khác. Một lần nữa, Pháp giao
thiệp với Chính phủ Xiêm
vây bắt Cố Đi. Nhà đương cục
địa phương không dám từ chối,
nhưng đặt điều kiện với bọn Pháp
là phải nhận diện cho đúng. Họ
để Cố Đi ngồi lẫn với các ông
già địa phương. Vì nước da
ngăm đen và cái vẻ bề
ngoài của Cố Đi rất giống người
Xiêm, nên bọn Pháp
không thể nhận ra. Cố Đi lại
thoát nạn.
“Song song với việc gây dựng cơ sở
lâu dài trong Việt kiều từ năm
1919, Đặng Thúc Hứa đã bố
trí người làm giao thông
liên lạc đi về nước để đưa một số
thanh niên xuất dương sang Xiêm
rồi giúp họ sang Trung Quốc hoạt động
cách mạng.
“Từ năm 1920, nhiều thanh niên
yêu nước đã xuất dương sang
Xiêm. Họ được các cơ sở Việt
kiều đón tiếp từ Na-khon, U-đon rồi
đưa vào Phi-chịt sinh hoạt một thời
gian trong “Trại cày” của Cố Đi, sau
đó được cấp tiền lộ phí
và người đưa đường đi sang Trung
Quốc. Có người như Đặng Thái
Thuyền, ở lại Xiêm hoạt động.
“Năm 1923, một số thanh niên xuất
dương từ Xiêm qua Trung Quốc như Phạm
Hồng Thái, Lê Hồng Phong,
Lê Tản Anh, Hồ Tùng Mậu v.v...
đã thành lập ra Tâm
tâm xã, tách khỏi
ảnh hưởng của đường lối Phan Bội Châu.
Năm 1924, Phạm Hồng Thái ném
tạc đạn ở Sa Diện, mưu giết toàn
quyền Méc-lanh, gây tiếng vang
lớn thúc đẩy phong trào
cách mạng trong cả nước. Tiếp
đó Hồ Chủ tịch về Trung Quốc, tập
hợp, dìu dắt nhóm Tâm
tâm xã, thành lập
Việt Nam thanh niên cách
mạng đồng chí hội.
“Số người xuất dương sang Xiêm từ năm
1920 đến năm 1924, 1925, lớp này tiếp
đến lớp khác tổng cộng lại có
hàng mấy chục người, số đông
sang Trung Quốc, một số ở lại Xiêm,
tham gia công việc vận động Việt kiều
ở Xiêm.
“Hai chủ trương lớn của Cố Đi như trên
– xây dựng cơ sở Việt kiều và
vận động thanh niên xuất dương –
là những đóng góp quan
trọng cho việc phát triển Việt
Nam Thanh niên cách mạng đồng
chí hội ở Quảng Châu
và ở Xiêm sau này. “Tất
nhiên không phải một mình
Cố Đi làm hết mọi việc. Những người
đồng tâm đồng chí của Cố Đi như
ông Kim, ông Sáu (tức
đồng chí Võ Tòng),
bà Nho, ông Thuyên,
ông Vinh, cố Khoan, cố Ngoét
Đài, v.v… đều là những
cán bộ đắc lực, những quần
chúng trung kiên đã
góp phần quan trọng thực hiện
các chủ trương đúng đắn của Cố
Đi. “Năm 1925, khi Hồ Chủ Tịch phái
người về Xiêm thành lập Việt
Nam Thanh niên cách mạng đồng
chí hội thì Đặng
Thúc Hứa là một trong những
người lãnh đạo có uy
tín lớn của Chi hội Thanh niên
cách mạng đồng chí hội
và trong Việt kiều ở Xiêm. “Năm
1928-1929, Hồ Chủ tịch về Xiêm hoạt
động cách mạng, Bác đã
đánh giá cao phẩm chất đạo đức
và những cố gắng của cụ Đặng
Thúc Hứa trong việc xây dựng cơ
sở quần chúng Việt kiều. Lúc
này các tổ chức yêu nước
của kiều bào đã phát
triển và được củng cố. Nhưng Cố Đi
vẫn giữ vững chủ trương xây dựng cơ sở
lâu dài. Cố đã xung
phong xin Hồ Chủ tịch và Ban
lãnh đạo cho đi xây dựng
thêm cơ sở ở Xiêng-mày,
Xiêng-rai và Lăm-pang là
những vùng ở phía bắc
Xiêm gần biên giới Miến Điện
và Lào, để làm những
địa điểm dự trữ sau này có thể
là chỗ dựa để hoạt động. Cố
nói: “Hiện nay quần chúng kiều
bào đã được tổ chức và
phát triển tốt, cơ sở đã vững
chắc. Nhưng tôi nghĩ cách mạng
vẫn có thể có lúc
còn gặp khó khăn, nên
chúng ta cần phải xây dựng
thêm những cơ sở mới. Người xưa
có câu “giảo thỏ tam quật”
nghĩa là giống thỏ khôn thường
làm hang có ba ngách,
như vậy chúng ta cũng phải có
những cơ sở dự bị để chuần bị cho những bước
sau này”. Hồ Chủ tịch và anh
em đã đồng ý để Cố Đi đi
Xiêng-mày. “Năm 1930, khi Đảng
cộng sản thành lập, tuy vắng mặt, Cố
Đi vẫn được vinh dự giới thiệu là một
trong những người đảng viên đầu
tiên của Đảng Cộng sản Xiêm. Năm
1931, Cố mang bệnh từ Xiêng-mày
về U-đon, rồi mất ở đấy, thọ 61 tuổi. Cuộc
đời hy sinh tận tụy của Cố đã để lại
những kỷ niệm sâu sắc trong kiều
bào và cán bộ ở
Xiêm, và những công lao
đáng ghi nhớ trong lịch sử
cách mạng Việt Nam.”
II. Hồ Chủ tịch ở Xiêm
Hồ Chủ tịch đến Xiêm hai lần. Lần thứ
nhất từ tháng 8- 1928 đến
tháng 9-1929. Lần thứ hai từ
tháng 3 đến tháng 4-1930.
Hồi trước, học lớp huấn luyện ở Quảng
Châu, tôi đã được
Bác truyền thụ cho những hiểu biết
đầu tiên về lý luận cách
mạng. Năm 1928 ở Xiêm, tôi lại
may mắn thường ở gần Bác, nhiều khi
trực tiếp dưới sự chỉ đạo của Bác
trong công tác hàng
ngày.
Bác đến U-đon, nơi tôi hoạt
động, vào khoảng tháng 8 năm
1928, sau một chuyến đi bộ mười lăm
ngày từ Phi-chịt ra. Bác đi bộ
như vậy là vừa để tìm hiểu
tình hình kiều bào
trên đường đi vừa để bảo đảm bí
mật.
Đến U-đon, Bác lấy tên
là Chín. Năm ấy Bác mới
38 tuổi, nhưng phần đông anh em
cán bộ đều còn rất trẻ
mà Bác thì rất
lão luyện, mực thước, nên mọi
người đều tôn trọng mà gọi
Bác là “Thầu Chín” [7]
. Chỉ một số ít anh em
đã từng học lớp huấn luyện ở Quảng
Châu biết Bác là Nguyễn
Ái Quốc mà thôi.
Tại U-đon, Bác thường làm việc
Noỏng-bua, địa điểm chính của
các Tổ Hợp tác.
Trong các buổi gặp mặt với cán
bộ và quần chúng ở U-đon,
Bác thường nói chuyện về
tình hình trong nước và
thế giới. Với cán bộ phụ
trách, Bác thường trao đổi
ý kiến về công tác
cách mạng.
Cơ sở cách mạng ở U-đon hồi
này đã phát triển
khá rộng, các Tổ Hợp
tác có tới dăm chục người. Hội
Việt kiều Thân ái có
hàng mấy trăm hội viên.
Báo Đồng thanh của Việt
Nam Thanh niên cách mạng đồng
chí hội phổ biến khá
rộng rãi trong quần chúng. Tuy
nhiên hồi này một số thanh
niên trong Tổ Hợp tác vẫn nghĩ
rằng đất Xiêm chỉ là nơi hoạt
động tạm thời; rồi đây chắc sẽ đi
Trung Quốc học tập cách mạng, hoặc sẽ
về nước công tác. Vì vậy
tuy ở Xiêm đã lâu
mà không mấy ai nghĩ đến việc
học tiếng Xiêm, chữ Xiêm, chưa
quan tâm đến việc tiếp xúc với
nhân dân Xiêm. Cũng
có một số ít anh em suy nghĩ
lệch lạc: Nói sang Xiêm để
làm cách mạng, nhưng rốt cuộc
chỉ thấy lao động vất vả, cuốc đất, trồng
cây, xẻ gỗ như người làm ăn
bình thường. Trong khi đó
cách mạng lại gặp khó khăn,
như Khởi nghĩa Quảng Châu ở Trung Quốc
bị thất bại, Tưởng Giới Thạch tàn
sát những người cộng sản Trung Quốc
và bắt bớ cả cán bộ Việt Nam ở
bên đó. Đã có một
vài người dao động phân
vân, tìm cách trốn về
nước.
Trong những dịp tiếp xúc với
cán bộ và quần chúng,
Hồ Chủ tịch thường nhấn mạnh về tinh thần
cách mạng lâu dài,
Bác phân tích tiền đồ
của cách mạng nhất định sẽ đi đến
thắng lợi nhưng trong khi chưa có
thời cơ thì người cách mạng
phải biết kiên trì, chịu đựng
gian khổ, tuyên truyền, giác
ngộ quần chúng và không
ngừng rèn luyện ý chí
phấn đấu cho bản thân mình.
Bác đề ra chủ trương đối nội
thì Thanh niên cách mạng
đồng chí hội phải mở rộng tổ chức,
củng cố cơ sở quần chúng. Các
Tổ Hợp tác trước kia chỉ lấy những
thanh niên xuất dương từ trong nước ra
nay cần kết nạp cả những kiều bào
có lòng hăng hái
cách mạng. Bác đề nghị đổi
tên tờ Đồng thanh ra tờ Thân
ái hướng dẫn anh em cán
bộ viết bài thật dễ hiểu để phổ biến
rộng rãi hơn nữa trong kiều
bào, đưa tới cả những vùng
đồng bào ở thưa thớt. Về mặt đối
ngoại, Bác chủ trương phải làm
cho người Xiêm có cảm
tình hơn nữa với Việt Nam và
cách mạng Việt Nam. Bác
giáo dục cho kiều bào
chú ý tôn trọng phong
tục, tập quán của nhân
dân bạn, và khuyên
chúng tôi cố gắng tạo ra khả
năng hoạt động hợp pháp hoặc nửa hợp
pháp hơn nữa. Bác khuyên
anh em nên học chữ Xiêm, tiếng
Xiêm, và tự Bác
làm gương trước. Chỉ trong một thời
gian ngắn Bác đã nghe hiểu
và nói được ít nhiều
tiếng Xiêm.
Khi các Tổ Hợp tác, Bác
tham gia lao động với anh em thanh
niên để có dịp giúp đỡ
anh em về nhận thức, tư tưởng và
tác phong sinh hoạt hàng
ngày. Mỗi khi có bà con
Việt kiều đến thăm Tổ Hợp tác,
Bác tranh thủ gặp gỡ, hỏi han
bà con về đời sống, cách thức
làm ăn. Nhiều khi bà con đem
những chuyện khó xử trong gia
đình để tâm sự với Bác,
xin Bác góp ý kiến.
Khi ở Noỏng-ổn, Bác cũng tham gia lao
động với thầy và trò trong
nhà trường. Nhiều hôm
Bác tham gia buổi học, nêu
các vấn đề cho anh em thảo luận.
Ở đây, trong chương trình giảng
dạy có một môn gọi là
“hùng biện”, cốt để học cho học
trò quen cách biện luận
và mạnh dạn nói chuyện trước
đông đảo quần chúng. Một
hôm Bác nêu vấn đề
“Có nên giải phóng phụ
nữ không?” Anh em rất hăng hái
biện luận. Phần đông anh em chủ trương
cần giải phóng phụ nữ Việt Nam. Cũng
có nhiều người nói nên
giải phóng phụ nữ từng bước,
vì trình độ chị em hãy
còn thấp kém. Nghe mọi người
nói xong, Bác nói:
“Bây giờ mời thầy Nghĩa phát
biểu.” Tôi bảo vệ ý kiến phải
đấu tranh cho phụ nữ được giải phóng.
Cuối cùng Bác cười vui vẻ
và nói: Số đông anh em
phát biểu đúng, làm
cách mạng, chúng ta chống mọi
sự áp bức, bóc lột, trong
đó có việc chống áp bức
phụ nữ. Nhưng không phải là
chúng ta giải phóng cho phụ
nữ, mà chính là phải
làm cho chị em phụ nữ giác ngộ
cách mạng, đấu tranh để tự giải
phóng mình. Chẳng những phụ nữ
phải giành được quyền bình
đẳng trong mọi sự đối xử hàng
ngày, mà còn phải
giành lấy bình đẳng trong kinh
tế, trong hoạt động chính trị
xã hội nữa.
Mỗi lần có Bác tham gia
nêu vấn đề thảo luận như thế,
chúng tôi học tập thêm
được nhiều điều mới mẻ, nâng cao được
trình độ nhận thức cách mạng
của mình.
Khoảng cuối năm 1928, Bác bàn
với anh em nên xin phép
Chính phủ Xiêm lập nhà
trường ở Noỏng-bua.
Chúng tôi thực hiện chủ trương
của Bác. Khi được giấy phép
rồi, tất cả cán bộ và kiều
bào bắt tay ngay vào việc
xây dựng nhà trường, Bác
cũng tham gia việc đào đất đắp nền,
gánh gạch xây tường như mọi
người.
Ở Noỏng-bua, Bác để khá nhiều
thời gian dịch sách lý luận
cách mạng cho cán bộ và
kiều bào đọc. Bác đã
dịch cuốn Duy vật sử quan mà
Bác lấy nhan đề là Lịch sử
tiến hóa của loài người
và quyển Cộng sản ABC.
Bác thường bảo tôi ngồi
cùng dịch, nhưng thực thì
Bác trông vào
sách chữ Trung Quốc rồi đọc cho
tôi viết. Khi dịch, Bác
không câu nệ theo từng chữ trong
nguyên bản, mà chỉ lấy ý
chính chuyển thành những
câu thật ngắn gọn, mộc mạc, để mọi
người dễ hiểu, dễ nhớ. Có những đoạn
dịch xong, Bác bảo đọc cho anh em
quần chúng nghe. Nếu quần
chúng thấy còn khó hiểu
thì Bác dịch lại.
Ở U-đon ít lâu, Bác ra
Xa-côn, kiều bào Xa-côn
đông hơn ở U-đon. Cơ sở cách
mạng cũng được xây dựng từ lâu,
có Hội Hợp tác, Hội Thân
ái, có trường học cho thiếu
niên v.v. . .
Sinh hoạt của Bác ở Xa-côn cũng
như ở U-đon, vẫn hết sức giản dị, gần gũi
quần chúng và có nề
nếp, kế hoạch chặt chẽ, Bác đi lại
tiếp xúc với kiều bào nhiều
hơn trước. Có một số gia đình
Việt kiều thờ Đức thánh Trần, thường
cầu cúng, lên đồng; khi ốm đau
thì xin tàn hương, nước thải
làm thuốc chữa bệnh. Thấy vậy,
Bác đã soạn ra bài ca
Trần Hưng Đạo kể rõ sự tích
đánh giặc cứu nước của vị anh
hùng dân tộc đời nhà
Trần. Bài ca có đoạn như:
Diên Hồng thề trước thánh
Minh,
Lòng dân đã quyết hy
sinh rành rành,
Nếu ai muốn đến giành đất Việt,
Đưa dân ta ra giết sạch trơn,
Một người Việt hãy đương
còn,
Thì non sông Việt vẫn non
sông nhà …
Với phương pháp tuyên truyền
vận động của Bác, bài ca Trần
Hưng Đạo được truyền bá mau
chóng trong kiều bào. Đức
thánh Trần “trừ ma sát quỷ”
đã trở lại là một vi anh
hùng cứu nước. Nhiều “đệ tử” của
ngài đã giác ngộ, trở
thành hội viên Hội Việt kiều
Thân ái.
Ở Xa-côn ít lâu rồi
Bác đi Na-khon. Ở đây,
Bác cũng cộng tác với anh em
Hợp tác và quần chúng
như ở U-đon và ở Xa-côn, nhưng
Bác chú ý nhiều đền
việc đặt trạm liên hệ với trong
nước.Có lúc Bác
cùng đi thuyền với anh Nguyễn
Tài dọc sông Mê
Công, sát bên phía
Lào để quan sát tình
hình Việt kiều ở đó.
Lúc còn ở U-đon, Bác
cũng đã cùng đi với tôi
đến Noỏng-khai, gọi các anh Chử
và Mãn từ Viêng Chăn đến
gặp để tìm hiểu tình
hình công tác ở
Lào và khả năng đặt mối
liên lạc với bên Xiêm để
đẩy mạnh cuộc vận động cách mạng ở
Việt Nam.
Tháng 5-1929, Đại hội Việt Nam
Thanh niên cách mạng đồng
chí hội do đồng chí Hồ
Tùng Mậu triệu tập ở Hương Cảng,
đã xảy ra phân liệt.
Nhóm Quốc Anh [8] và
Kim Tôn bỏ Đại hội ra về để tổ chức
Đảng cộng sản. Số đại biểu còn lại
trong Đại hội quyết định khai trừ
nhóm này. Hai đại biểu Thanh
niên cách mạng đồng chí
hội ở Xiêm là Võ
Tòng và Đặng Thái
Thuyến đề nghị nên chờ ý kiến
của đồng chí Vương [9] rồi sẽ quyết
định, nhưng Đại hội cứ quyết định. Khi hai
đại biểu ở Xiêm báo cáo
với Bác tình hình
phân liệt và nghị quyết của Đại
hội Thanh niên cách mạng đồng
chí hội ở Hương Cảng, thì
Bác đề nghị Chi hội ở Xiêm
hãy hoãn việc phổ biến nghị
quyết Đại hội để tìm cách
thống nhất các nhóm.
Thế rồi, vào khoảng đầu tháng
9-1929, Bác rời khỏi Xiêm đi
gặp Đông phương cục Quốc tế Cộng sản
để xin ý kiến, được Đông phương
cục giao nhiệm vụ thống nhất các
nhóm cộng sản Việt Nam. Nhiệm vụ
đó được thực hiện bằng một cuộc gặp
mặt giữa các nhóm do
Bác chủ tọa tại một địa điểm ở Hương
Cảng.
*
Vào khoảng cuối tháng 3-1930,
Bác đến Băng-cốc gặp các đồng
chí cộng sản người Hoa để trao đổi
ý kiến, rồi đi U-đon gặp Tỉnh ủy
Thanh niên cách mạng đồng
chí hội ở U-đon để thông
báo tình hình về việc
thống nhất các nhóm cộng sản
Việt Nam và truyền đạt tinh thần của
Quốc tế Cộng sản về việc thành lập Đảng
Cộng sản Xiêm.
Tỉnh ủy U-đon của Việt Nam Thanh
niên cách mạng đồng
chí hội lúc này
là trung tâm của toàn bộ
cuộc vận động cách mạng trong Việt
kiều ở Xiêm, gồm có các
anh Đình, Tăng, Hải và
tôi lấy tên là Dương, anh
Đặng Thái Thuyết là Bí
thư, nhưng đã bị bắt ở Băng–cốc trước
đó một thời gian ngắn.
Gặp Tỉnh ủy, Bác cho biết việc chia
rẽ giữa các nhóm Đông
Dương Cộng sản đảng và An
Nam Cộng sản đảng đã được giải
quyết tốt đẹp. Đại biểu của hai nhóm
đã họp ở Hương Cảng, thỏa thuận hợp
nhất, cùng nhau thành lập ra Đảng
Cộng sản Việt Nam ngày 6
tháng Giêng năm nay. Đảng
đã thông qua chính
cương, chương trình và điều lệ
vắn tắt của Đảng, và đã nhất
trí chấp nhận nhóm Đông
Dương Cộng sản Liên đoàn
tham gia vào Đảng Cộng sản Việt
Nam, mặc dù Liên
đoàn này được triệu tập đến
hội nghị hợp nhất, nhưng vì trắc trở,
đại biểu không đến kịp để tham dự.
Về vấn đề là ngày tháng
thành lập Đảng, ở đây cần
chú thích rõ một điểm
là: Khi Bác nói
thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam
ngày 6 tháng Giêng năm
nay, đã không nói
rõ là ngày tháng
âm lịch, mọi người nghe đều hiểu
là ngày tháng dương
lịch, nên từ đó về sau
hàng năm cứ lấy ngày 6
tháng giêng dương lịch
làm Ngày kỷ niệm thành
lập Đảng. Mãi đến năm 1960,
Liên Xô cung cấp tài liệu
cho biết ngày thành lập Đảng
Cộng sản Việt Nam là ngày 3
tháng 2 năm 1930, chứ không
phải là ngày 6 tháng
Giêng như trước đã hiểu lầm.
Vì vậy, Đại hội lần thứ ba của Đảng
họp cuối năm 1960 mới ra nghị quyết lấy
ngày 3 tháng 2 năm 1930
làm ngày thành lập
Đảng.
Đối với bộ phận Việt Nam Thanh
niên cách mạng đồng
chí hội ở Xiêm,
Bác nói: Theo tinh thần nghị
quyết của Quốc tế Cộng sản thì người
cộng sản cư trú ở nước nào sẽ
tham gia hoạt động vì sự nghiệp
cách mạng của giai cấp vô sản ở
nước đó. Vì vậy người cộng sản
Việt Nam ở trên đất Xiêm cũng
có trách nhiệm giúp đỡ
nhân dân bị áp bức,
bóc lột Xiêm làm
cách mạng. Đó là tinh
thần quốc tế vô sản. Người cộng sản
không thể chỉ lo toan sự nghiệp
cách mạng của riêng nước
mình, mà phải góp phần
vào công cuộc cách mạng
của giai cấp vô sản trên
toàn thế giới [10] .
Bác đề nghị Tỉnh ủy lựa chọn một số
người rất tốt trong Thanh niên
cách mạng đồng chí hội chuyển
thành người cộng sản để tham gia
vào Đảng Cộng sản Xiêm.
Sau khi nghe Bác giải thích
và giới thiệu, các đồng
chí trong Tỉnh ủy U-đon đều hết sức
phấn khởi, vì được biết trong nước
đã có Đảng cộng sản để
lãnh đạo toàn bộ sự nghiệp
cách mạng, đồng thời được biết bản
thân mình cũng được chuyển
thành đảng viên cộng sản.
Có điều lần này chúng
tôi không chuyển thành
đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam,
mà là đảng viên của Đảng
Cộng sản Xiêm. Việc chuyển Thanh
niên cách mạng đồng chí
hội thành Đảng cộng sản, đối với
chúng tôi là một việc
rất tự nhiên, vì từ lâu
trong Thanh niên cách mạng đồng
chí hội vẫn truyền bá tư tưởng
cách mạng xã hội, hướng theo
gương mẫu của Cách mạng Tháng
Mười Nga, đi theo sự dìu dắt của đồng
chí Nguyễn Ái Quốc, một
nhà cách mạng lão
thành của Quốc tế Cộng sản.
Mấy hôm sau Tỉnh ủy triệu tập một số
đồng chí cốt cán trong Thanh
niên cách mạng đồng chí
hội để nghe Bác nói chuyện.
Bác cũng giải thích lại những
điều đã giải thích với
chúng tôi mấy hôm trước.
Bác nói người cách mạng
Việt Nam ngày nay ở trên đất
Xiêm phải vì lợi ích của
cách mạng Xiêm mà hoạt
động. Về tình hình xã
hội nước Xiêm, Bác phân
tích: Lúc này nước
Xiêm là một nước phong kiến
và nửa thuộc địa, chưa thể tiến
hành ngay cách mạng xã
hội chủ nghĩa, mà phải là cuộc
cách mạng tư sản dân quyền kiểu
mới do giai cấp vô sản lãnh
đạo. Sau khi đã hoàn
thành nhiệm vụ cách mạng
dân chủ mới, nhờ sự giúp đỡ của
lực lượng cách mạng thế giới,
cách mạng Xiêm cũng có
thể chuyển lên chủ nghĩa xã
hội, không phải trải qua giai đoạn
phát triển tư bản chủ nghĩa.
Nghe xong, anh em nêu ra nhiều
câu hôi. Một số đồng chí
ngần ngại rằng chuyển sang Đảng Cộng sản
Xiêm thì không
góp phần được vào cách
mạng Việt Nam, sợ kiều bào
không đồng tình. Bác lần
lượt giải đáp các câu
hỏi, anh em đều thỏa mãn.
Gặp xong anh em trong cuộc hội nghị rộng
rãi, Bác lại gặp riêng
Tỉnh ủy để bàn việc tổ chức cụ thể.
Bác đề nghị Tỉnh ủy Thanh niên
cách mạng đồng chí hội chuyển
thành Tỉnh ủy cộng sản. Trước
đây Tỉnh ủy do đồng chí Đặng
Thái Thuyến làm Bí thư,
nay đồng chí đã bị bắt,
chúng tôi cử đồng chí
Đinh làm Bí thư Tỉnh ủy.
Bác dặn dò chúng
tôi lựa chọn những người có
nhiệt tình cách mạng cao, phẩm
chất đạo đức tốt, tự nguyện, tự giác
trọn đời hiến thân cho lý tưởng
cộng sản chủ nghĩa để kết nạp làm
những đảng viên cộng sản đầu
tiên. Sau đó Bác đề nghị
Tỉnh ủy cử đồng chí Tăng thay mặt
nhóm cộng sản người Việt cùng
Bác đi tiếp xúc với
nhóm cộng sản người Hoa, bàn
việc thành lập Đảng Cộng sản
Xiêm.
Đầu tháng 4-1930, Bác
cùng anh Tăng đi vào Băng-cốc.
Trước khi ra đi, Bác còn dặn
dò Tỉnh ủy U-đon cần liên hệ,
giúp đỡ các đồng chí
Thanh niên cách mạng đồng
chí hội ở Lào chuyển sang
thành Chi bộ cộng sản Lào.
Ngày 20-4-1930, một cuộc hội nghị do
Bác là đại biểu Quốc tế Cộng
sản chủ trì đã họp ở Băng-cốc.
Hội nghị tuyên bố thành lập Đảng
Cộng sản Xiêm và cử ra
Ban Chấp hành Trung ương lâm
thời, gọi tắt là Xiêm ủy, trong
đó có anh Tăng là ủy
viên Tỉnh ủy U-đon và anh
Ngô Chính Quốc, một người Việt
Nam sinh ở Xiêm.
Sau khi thành lập Đảng Cộng sản
Xiêm, bác liền đi Mã-lai
để giúp các đồng chí ở
đó thành lập Đảng Cộng sản
Mã-lai. Từ tháng 4-1930 về
sau, Bác không trở lại đất
Xiêm một lần nào nữa.
*
Qua hai lần hoạt động trên đất
Xiêm, Bác đã để lại
những việc làm có ý
nghĩa lịch sử to lớn. Ngoài việc
giúp những người cách mạng ở
Xiêm thành lập Đảng Cộng sản
Xiêm là một sự kiện quan trọng,
Bác đã bồi dưỡng cả một lớp
cán bộ cách mạng trong Việt
kiều, giáo dục cho các đồng
chí tư tưởng cách mạng trường
kỳ gian khổ, xây dựng tình cảm
thân thiện giữa cách mạng Việt
Nam với nhân dân Xiêm,
xây dựng tinh thần quốc tế vô
sản cho những người cách mạng Việt
Nam ở Xiêm, góp phần gây
mầm mống cách mạng trong nhân
dân Xiêm.
[1]Siam
- tên cũ của nước Thái Lan-BT
[2]thân
sinh đồng chí Lý Tự Trọng
[3]ngày
điều ước Pa–tơ-nốt
[4]Phương
châm phục quốc của Câu Tiễn đời
Xuân Thu Chiến Quốc ở Trung Quốc
[5]tức
Đặng Quỳnh Anh
[6]ông
già đen
[7]tức
là ông già Chín
[8]tức
Trần Văn Cung
[9]tức
Hồ Chủ tịch
[10]Đó
là nghị quyết của Quốc tế Cộng sản từ
trước. Năm 1943, Quốc tế cộng sản giải
tán thì nghị quyết đó
cũng không còn là
yêu cầu chung đối với các người
cộng sản trên thế giới nữa
III.
Giai đoạn hoạt động dưới sự
lãnh đạo của đảng
Xiêm
Sau khi Hồ Chủ tịch rời khỏi
Xiêm, đồng chí Tăng
trở về U–đon gặp Tỉnh ủy,
báo cáo lại
tình hình của cuộc
hội nghị thành lập Đảng
Cộng sản Xiêm ở
Băng–cốc ngày 20-4-1930
và những quyết định của hội
nghị có liên quan đến
nhiệm vụ công tác của
Đảng bộ Việt kiều trong Đảng
Xiêm.
Theo sự phân công của
Xiêm ủy, Tỉnh ủy U-đon phải
phụ trách phát triển
công tác vận động
cách mạng trong toàn
khu Đông Bắc nước
Xiêm. Anh Tăng còn
nhấn mạnh lời Bác dặn đi
dặn lại nhiều lần là việc
chọn lựa những đảng viên đầu
tiên phải hết sức coi trọng.
Do đó Tỉnh ủy quyết định
đưa việc chuyển bộ phận Thanh
niên cách mạng đồng
chí hội ở Xiêm
thành một bộ phận Đảng
Cộng sản Xiêm ra thảo
luận trong nội bộ để mọi người
được nói lên ý
kiến của mình.
Qua thảo luận, tuyệt đại đa số
hoan nghênh, chỉ có
vài người chưa đồng
ý với lý do
là hoạt động cho
cách mạng Xiêm
thì sợ quần chúng
Việt kiều không đồng
tình, và có
thể bị Chính phủ Xiêm
khủng bố. Tỉnh ủy đã giải
thích với các đồng
chí là đã
làm cách mạng
thì ở đâu cũng
có thể bị khủng bố,
còn quần chúng
đã là người bị
áp bức, bóc lột
thì bất kể người Việt hay
người Xiêm đều có thể
tán thành chủ nghĩa
cộng sản, và người cộng sản
đều phải vận động, lãnh đạo
họ làm cách mạng.
Tỉnh ủy lắng nghe ý kiến
của mọi người và bước đầu
lập ra một bản danh sách
gồm mấy chục đồng chí trung
kiên có phẩm chất tốt
để kết nạp làm lớp đảng
viên cộng sản đầu
tiên.
Tháng 10-1930, tại một địa
điểm gần tỉnh lỵ U-đon, Tỉnh ủy
triệu tập cuộc hội nghị
toàn thể các đảng
viên người Việt thuộc
các phủ U-đon Tha-xi,
Xa-côn Na-khon và
Na-khon Pha-nôm để
xác định các chủ
trương, phương hướng hoạt động.
Các đồng chí ở
Phi-chịt không có ai
về tham dự hội nghị, vì ở
đây vừa trải qua một cuộc
khủng bố nặng nề, sau khi xảy ra
vụ mất tích một tên
mật thám đã theo
dõi bắt hai đồng chí
Võ Tòng và
Đặng Thái Thuyến. Trong
cuộc khủng bố này, hầu hết
các đồng chí đều bị
bắt, 11 người bị trục xuất sang
Hương Cảng, trong đó
có đồng chí Lê
Mạnh Trinh.
Trong cuộc hội nghị toàn
thể đảng viên người Việt
này, đồng chí
Úa, đại biểu cho Xiêm
ủy giới thiệu việc thành
lập Đảng Cộng sản Xiêm,
và tuyên bố Tỉnh ủy
U-đon là một Đảng bộ của
Đảng Cộng sản Xiêm,
có trách nhiệm
lãnh đạo công
tác toàn khu
Đông Bắc.
Để chuẩn bị cho việc hoạt động
theo đường lối mới, Tỉnh ủy U-đon
đã họp một cuộc hội nghị
đặc biệt, thảo luận các vấn
đề liên quan đến sự hoạt
động của bộ phận người Việt ở
Xiêm.
Sau khi có chủ trương cụ
thể, các đồng chí
đều phấn khởi bắt tay vào
công tác. Phần lớn
các thành viên
Thanh niên cách mạng
đồng chí hội và
nhiều thanh niên tích
cực trong các Tổ Hợp
tác được kết nạp
vào Đảng, đều hăng
hái học tiếng Xiêm,
chữ Xiêm để có điểu
kiện liên hệ với nhân
dân Xiêm. Các
thanh niên được vào
học trường Xiêm như anh
Bích lấy tên
là Thiên, anh Hương
lấy tên là Xổm v.v...
đã có một
trình độ chữ Xiêm kha
khá.
Thanh niên Cộng sản
đoàn được tổ chức,
lúc đầu ở U-đon, sau
phát triển dần ra
các địa phương khác.
Năm 1931, anh Đình,
Bí thư Tỉnh ủy U-đon mất
vì bệnh, các đồng
chí cử tôi làm
Bí thư tỉnh ủy U-đon.
Lúc này tôi
đã nói và đọc
tiếng Xiêm khá thạo,
được Tỉnh ủy phân công
phụ trách Thanh
niên Cộng sản đoàn
và chỉ đạo việc tuyên
truyền vận động quần chúng
Xiêm.
Cuối năm 1931, trong nước
có khủng bố trắng. Phong
trào Xô–viết Nghệ
Tĩnh gặp nhiều khó khăn,
mấy đồng chí trong Tỉnh ủy
Hà Tĩnh do đồng chí
Bùi Khương dẫn đường, chạy
qua Xiêm tìm mối
liên hệ với Đảng. Do
đó, Đảng bộ Việt kiều ở
Xiêm lại gánh
vác thêm một nhiệm vụ
quan trọng là viện trợ
cách mạng Đông Dương.
Công tác của Tỉnh ủy
lúc này triển khai
trên hai mặt hoạt động:
- Tuyên truyền vận động
quần chúng Xiêm
làm cách mạng.
- Viện trợ cách mạng
Đông Dương.
Về công tác
tuyên truyền vận động quần
chúng Xiêm làm
cách mạng, là những
công tác hoàn
toàn do Xiêm ủy
lãnh đạo, tôi thấy
không cần thuật lại, ở
đây chỉ nói đến
công tác viện trợ
cách mạng Đông Dương.
*
Công tác viện trợ
cách mạng Đông
Dương được Xiêm ủy giao
cho Đảng bộ Việt kiều phụ
trách.
Khi các đồng chỉ Bùi
Khương [1] ,
Lê Lộc, Trần Xu v.v… ở
Hà Tĩnh chạy sang
Xiêm, Tỉnh ủy đã mời
các đồng chí
vào U-đon nghỉ ngơi, dưỡng
sức, đồng thời để thông
báo với Tỉnh ủy về
tình hình trong
nước. Vừa khéo lúc
đó đồng chí Tản Anh
bị trục xuất từ Vân Nam
(Trung Quốc) qua Miến Điện đến
Xiêm. Anh Tản Anh vốn
là cán bộ
lãnh đạo trong Tổng bộ Việt
Nam Thanh niên cách
mạng đồng chí hội
trước đây, có
chân trong hội nghị hợp nhất
thành lập Đảng Cộng sản
Việt Nam. Anh em hoạt động ở
Xiêm rất tin tưởng anh
và biết anh là
cán bộ lãnh đạo
có năng lực và gần
gũi với Hồ Chủ tịch nhiều, rất
được Bác tin cậy. Tỉnh ủy
đem vấn đề bàn bạc với anh
Tản Anh. Mọi người đều nhất
trí rằng nên
thành lập một ban gồm mấy
đồng chí ở trong nước mới
chạy sang để xúc tiến việc
viện trợ cách mạng
Đông Dương. Nhiệm vụ của ban
này là:
- Xếp đặt chỗ ăn ở, bồi dưỡng
sức khỏe, bảo đảm an
toàn cho các
đồng chí cách
mạng trong nước chạy ra.
- Mở lớp huấn luyện cho những
đồng chí còn yếu
về lý luận và
kinh nghiệm công
tác để khi trở về nước
sẽ hoạt động tốt hơn.
- Tạo mọi khả năng để
các đồng chí về
nước càng sớm
càng tốt, gây
dựng lại cơ sở.
Còn việc liên lạc
giữa các đồng chí
với Trung ương Đảng Cộng sản
Đông Dương [2]
thì Tỉnh ủy sẽ
báo cáo với
Xiêm ủy và đề nghị
Xiêm ủy hết sức giúp
đỡ.
Bàn bạc xong, chúng
tôi thu xếp cho đồng
chí Tản Anh đi Trung Quốc,
mặt khác báo
cáo lên Xiêm ủy
về các chủ trương
nói trên. Xiêm
ủy hoàn toàn nhất
trí, coi việc viện trợ
cách mạng Đông Dương
là một nhiệm vụ quốc tế của
Đảng Cộng sản Xiêm,
và giao cho Tỉnh ủy U-đon
thực hiện nhiệm vụ này.
Để thực hiện những nhiệm vụ kể
trên, đầu năm 1932, Tỉnh ủy
U-đon đã phân
công đồng chí Tiến
và đồng chí Hải tổ
chức Đông Dương viện trợ
bộ để đẩy mạnh các
mặt công tác. Sau một
thời gian hoạt động, Đông
Dương viện trợ bộ đã
thu được một số kết quả như
sau:
- Bảo đảm đời sống cho
các đồng chí
trong nước chạy ra.
Vận động kiều bào hăng
hái nhận nuôi
cán bộ trong nước ra,
và quyên
góp được hơn 5.000 đồng
bạc Xiêm để chi
phí cho việc cần thiết
giúp đỡ cách
mạng trong nước [3]
.
Những người chạy ra hồi
này gồm có
các đồng chí
trong phong trào
Xô-viết Nghệ-Tĩnh;
nhóm Vừng Hồng
là những người
cách mạng ở Nghệ An,
vì có sự bất
đồng với Đảng bộ tỉnh Nghệ An
hồi ấy. Ngoài ra
còn một số anh em hoạt
động ở Lào, bị
Pháp lùng bắt,
cũng chạy sang Xiêm.
Những người mới chạy sang đều
được kiều bào
nuôi, bồi dưỡng sức
khỏe, sau đó được
đoàn thể bố trí
tham gia sản xuất, làm
ăn, chờ cơ hội trở về nước.
- Tổ chức huấn luyện cho
các đồng chí.
Đa số anh em chạy sang
Xiêm, tuy có tinh
thần hăng hái, nhưng
khi ở trong nước chỉ lo việc
đấu tranh và chống
khủng bố, nhiều người chưa
được học tập về lý luận
cách mạng. Chúng
tôi lấy bản Luận cương
chính trị của Đảng
Cộng sản Đông Dương
và Điều lệ tổ chức
các hội quần
chúng của Đảng do
các anh Lê Lộc,
Trần Xu mang sang làm
tài liệu huấn luyện
chính, để bồi dưỡng
lý luận và
phương pháp công
tác cho các đồng
chí. Những tài
liệu này đối với
các đồng chí ở
Xiêm cũng rất
quý, vì từ khi
thành lập Đảng Cộng sản
Xiêm, Xiêm ủy vẫn
thường vạch ra được cương
lĩnh, điều lệ rõ
ràng. Nhiều đảng
viên Việt kiều ở
Xiêm cũng tham gia học
tập với các đồng
chí trong nước chạy ra.
Ngoài những tài
liệu kể trên, Tỉnh ủy
cung cấp thêm các
tài liệu mà ở
trong nước không
có hoặc rất hiếm, như Đường
cách mệnh, Nhật
ký chìm
tàu, Gương Nga, Lịch
sử tiến hóa của
loài người, v.v…
mà Hồ Chủ tịch
đã biên soạn để
giảng dạy cho chúng
tôi ở Xiêm trong
năm 1928-1929.
Cách huấn luyện
là để các đồng
chí đọc tài liệu
và liên hệ thảo
luận, huấn luyện viên
chỉ góp ý
và kết luận. Các
đồng chí có
trình độ khá như
anh Lê Lộc, Trần Xu
là Tỉnh ủy viên
Hà Tĩnh hồi ấy vừa học
tập với anh em vừa góp
phần như huấn luyện
viên. Để giữ
nguyên tắc bí
mật, chúng tôi tổ
chức huấn luyện thành
những lớp riêng cho
các nhóm anh em
khác nhau. Nhóm
Vừng Hồng, nhóm anh em
ở Lào, nhóm Nghệ
Tĩnh v.v…
- Bố trí một số
cán bộ về nước hoạt
động.
Trước khi đưa cán bộ về
nước, một cuộc họp ở Bản
Mày, Na-khon được triệu
tập gồm các đồng
chí Hải, Tiến, Lộc, Xu,
Bùi Khương, tôi
cũng tham gia với tư
cách Bí thư Tỉnh
ủy U-đon. Trong hội nghị, anh
Hải báo cáo
rằng: Xiêm ủy đã
đồng ý lập Ban Chấp
hành Trung ương Đảng
Cộng sản Đông Dương
để trực tiếp chỉ huy mọi việc
của Đảng Đông Dương. Ban
gồm năm người: Hải, Tiến, Lộc,
Xu, Bùi Khương, Hải
là Bí thư.
Tôi nghe thấy
khác với chủ trương
đã được Xiêm ủy
thông qua là:
“Việc các đồng
chí trong nước chạy qua
Xiêm liên hệ với
Trung ương Đảng Đông
Dương sẽ do Xiêm ủy
giúp đỡ”. Nhưng
vì anh Hải nói
là ý kiến của
Xiêm ủy, nên
tôi chỉ biết thế,
mà không
nói gì
thêm.
Khi lập xong Trung ương Đảng
Cộng sản Đông Dương,
Hải thường đi Na-khon gặp
người từ Thà-khẹc qua.
Tôi vẫn cho đó
là việc của Đảng
Đông Dương nên
không hỏi. Nhưng sau một
thời gian báo
cáo với Xiêm ủy,
thì Xiêm ủy
nói đó là
chủ trương của Hải, chứ
không phải chủ trương
của Xiêm ủy. Xiêm
ủy bắt Hải kiểm thảo và
thi hành kỷ luật, cho
Hải thoát ly khỏi Đông
Dương viện trợ bộ.
Tháng 4-1932, anh
Lê Lộc và mấy
đồng chí khác về
nước. Nhưng vừa về được
vài tuần lễ, chưa kịp
hoạt động gì thì
bị bắt. Sau đó đồng
chí Bùi Khương
lại được phái về điều
tra tình hình,
chưa hoạt động được mấy
thì bị lộ, phải chạy
trở lại Xiêm.
Đầu năm 1933, đồng chí
Trần Xu được bố trí đưa
về Hà Tĩnh. Anh Xu
đã nhen lại được phong
trào, nhưng chưa được
bao lâu thì bị
bắt.
Sau khi các đồng
chí Hà Tĩnh bị
bắt, Tỉnh ủy U-đon tổ chức lại
Đông Dương viện trợ bộ,
gồm ba đồng chí Tiến,
Ba Đốc và Tài,
để tiếp tục mọi việc. Đồng
chí Tiến là
người phụ trách
chính.
Cuối năm 1933, Đông
Dương viện trợ bộ
phái đồng chí
Hoàng Lùn về
nước để nắm tình
hình. Đồng chí
đã tích cực hoạt
động, mở được một lớp huấn
luyện 15 anh em. Nhưng sau
đó đồng chí bị
ốm nặng, được đưa vào
nhà thương Vinh rồi mất
ở đấy.
Năm 1934, đồng chí Ba
Đốc và đồng chí
Bùi Khương lại về
Nghệ-Tĩnh. Anh Bùi
Khương hoạt động ở Hà
Tĩnh một thời gian thì
bị bắt. Anh Ba Đốc hoạt động ở
Nghệ An, đã liên
hệ được với các đồng
chí chưa bị bắt hoặc
mới ra khỏi nhà
tù, thành lập
được Ban Tỉnh ủy Nghệ An,
và liên hệ được
với Đông Dương viện trợ
bộ ở Xiêm.
Năm 1935, khi Đại hội lần thứ
nhất của Đảng Cộng sản
Đông Dương họp ở Ma-cao,
đồng chí Ba Đốc được cử
đi dự Đại hội với tư
cách là đại biểu
Trung kỳ.
- Gây
dựng phong trào
cách mạng ở
Lào.
Từ năm 1930, Tỉnh ủy U-đon
đã giúp đỡ Chi
hội Việt Nam Thanh
niên cách mạng
đồng chí hội ở
Viêng Chăn thành
lập Chi bộ của Đảng Cộng
sản Đông Dương.
Khi cách mạng ở
Lào bị khủng bố, Đông
Dương viện trợ bộ
đã phái hai đồng
chí Chấn và Chỉ
sang Lào, hoạt động ở
mỏ Bò-nèng
và Phông-chiu,
đặt liên lạc với
các cơ sở Việt kiều ở
Thà-khẹc,
Xa-vằn-na-khệt và
Pác-xê.
Tháng 9 năm 1934, Đông
Dương viện trợ bộ
đã lãnh đạo
các cơ sở Đảng ở
Viêng Chăn,
Phông-chiu,
Bò-nèng,
Thà-khẹc,
Xa-vằn-na-khệt và
Pác-xê cử đại
biểu về họp Đại hội
thành lập Ban Xứ ủy
Ai-lao lâm thời.
Năm 1935, khi Đại hội của Đảng
Cộng sản Đông Dương
họp ở Ma-cao, Xứ ủy Ai-lao
đã cử đồng chí
Nguyễn Văn Xô làm
đại biểu Lào đi tham
dự.
Những việc làm kể
trên đã
góp phần quan trọng
vào việc củng cố lại
hàng ngũ Đảng, qua cuộc
Đại hội đại biểu lần thứ nhất
của Đảng họp ở Ma-cao
tháng 3-1935 do Ban chỉ
huy ở ngoài của Đảng
Cộng sản Đông Dương
triệu tập.
- *
Riêng về phần Đảng
Xiêm, trong Xiêm ủy
cũng có một sự thay đổi.
Cuối năm 1933, anh Ngô
Chính Quốc bị bắt ở
Băng–cốc rồi bị đương cục
Xiêm dẫn độ cho Pháp,
tôi được chỉ định vào
Xiêm ủy và phải đi
Băng-cốc để trực tiếp tham gia
công tác của
Xiêm ủy. Được bổ sung
vào Xiêm ủy và
được đi Băng-cốc, đối với
tôi là một việc rất
phấn khởi, nhưng đến Băng-cốc phải
sắp xếp công ăn việc
làm như thế nào lại
là một việc rất gay go. Khi
ở Đông Bắc, tôi
làm việc dạy học, ăn cơm
của đoàn thể, thỉnh thoảng
anh em Tổ Hợp tác
lại cho năm ba đồng để tiêu
vặt. Khi được điều động vào
Băng-cốc, thì đoàn
thể cấp cho 40 đồng bạc để tự
mình lo liệu lấy cuộc sống.
Đây là qui định
chung, trước kia anh em
khác đi công
tác độc lập lâu
ngày ở một địa phương xa
cũng đều được cấp một món
tiền như thế.
Vào Băng-cốc, vấn đề
ngôn ngữ đối với tôi
không phải là
khó lắm, vì từ năm
1930, sau khi chuyển sang
thành Đảng Cộng sản
Xiêm tôi đã cố
học chữ Xiêm và tiếng
Xiêm. Tôi tự học
và nhờ anh em thanh
niên thạo chữ Xiêm
bày cho tôi
cách đọc. Tôi thường
tìm những quyển sách
tập đọc như quyển giáo dục
công dân, hoặc
tìm các bài,
các tin tức trong
các tờ báo
hàng ngày để đọc
và nhờ anh em uốn nắn cho
về âm điệu, rồi tự
mình đọc đi đọc lại nhiều
lần, đọc to tiếng và
rành mạch như kiểu đọc ở
trong đài phát thanh
hàng ngày.
Còn nhớ hồi năm 1933
lúc Pha-da Pha-hồn
Phôn-pha giu-hạ-xể-na [4]
là Thủ tướng Xiêm,
cần nói tên Thủ tướng
cho đúng, tôi
đã phải luyện tập
luôn mấy tuần mới nói
được thật đúng như người
Xiêm.
Vấn đề khó khăn nhất
là vấn đề sinh sống. Xuất
thân từ một nhà nho
nghèo, lớn lên
thì đi học, rồi tham gia
cách mạng, tôi
không có một nghề
nghiệp gì trong tay.
Khi mới đến Băng-cốc, Xiêm
ủy tạm xếp cho ở nhà một
đồng chí giáo
viên người Hoa dạy trường
tư. Nhưng ở một thời gian thấy
đồng chí này thu
nhập không đủ tiền
thuê nhà và
nuôi vợ con, tôi phải
hết sức nghĩ cách kiếm nghề
gì làm ăn để tự
túc về sinh hoạt. Điều tra
nghiên cứu mãi, mới
phát hiện ra chỉ có
việc bán báo
là không đòi
hỏi phải có kỹ thuật,
không mất vốn nhiều
mà lại có thể kiếm
đủ ăn, và có điều
kiện gần gũi quần chúng.
Với 40 đồng bạc trong tay chỉ
có thể làm nghề
này.
Hồi ấy ở Băng-cốc có hai
loại báo hàng
ngày. Loại báo nhỏ
phải mua của nhà xuất bản
mỗi số nửa xu, bán được một
xu; loại báo lớn mua mỗi số
ba xu, bán được năm xu.
Lần đầu tiên làm nghề
bán báo, tôi
không thể nào cất
tiếng rao giữa phố đông
người. Ngày thứ nhất,
tôi mua 50 tờ báo
nhỏ, cắp vào nách
như một cậu học trò, đi đến
từng nhà, đứng trước cửa
mời người trong nhà ra mua
báo. Cứ như thế, chỉ chạy
độ hai tiếng đồng hồ là
đã bán được hết 50
tờ báo, kiếm lãi 25
xu.
Nhưng cách bán
này chỉ làm được mấy
hôm, về sau mời cũng chẳng
mấy ai mua nữa. Tôi bắt đầu
phải học cách rao như
các bạn đồng nghiệp
khác. Trước hết thử rao ở
một quãng đường thật vắng
người, vài ba hôm sau
quen dần, thì mới rao ở phố
đông người.
Anh em bán báo
thường đến sở phát
hành rất sớm, nhận
vài trăm tờ, và
nhanh nhảu chạy đi bán khắp
nơi, mỗi ngày họ kiếm được
vài ba đồng, đủ nuôi
vợ con. Về phần tôi chỉ cần
mỗi ngày độ năm sáu
hào là đủ sống.
Tôi không phải cạnh
tranh với các bạn đồng
nghiệp. Mỗi buổi sáng
tôi đến chỗ phát
hành, lấy một tờ báo
xem trước, xem có tin tức
gì hấp dẫn, nếu có
thì mua độ ba bốn mươi tờ,
không thì mua độ hai
mươi, hăm lăm tờ báo lớn.
Khi bán báo,
tôi cứ đi thong thả, rao
rõ những tin hấp dẫn
đó thì dẫu đi qua
chặng đường mà các
bạn đồng nghiệp đã rao
bán rồi, tôi vẫn
bán được. Bình
quân mỗi ngày kiếm
được năm sáu hào,
cũng có ngày kiếm
được một đồng. Như vậy đời sống
vật chất của tôi có
thể tự túc khá phong
lưu. Tiền nhà mỗi
tháng hai đồng, tiền cơm ăn
ở quán hàng
ngoài phố mỗi tháng
mất từ ba đến năm đồng, tiền thuốc
lá mỗi tháng một
đồng rưỡi, còn lại
là tiền xe điện để hoạt
động cách mạng, tiền
tiêu vặt và
dành dụm phòng khi
bất trắc. Mỗi ngày đi
bán báo hết khoảng
ba giờ là xong, tôi
về phòng riêng tắm
giặt rồi đi nghỉ ở vườn hoa hoặc ở
quảng trường hoặc đi làm
việc.
Hồi này người Việt ở
Băng-cốc chỉ có anh Tăng
và tôi. Vì
đồng chí Bí thư
Xiêm ủy bị ốm, anh Tăng phải
quyền chức Bí thư phụ
trách việc liên lạc
với Ban chỉ huy ở ngoài của
Đảng Cộng sản Đông Dương
và việc viện trợ
cách mạng Đông Dương
nói chung; tôi phụ
trách công việc
tuyên truyền của Xiêm
ủy, nhưng công việc cũng
không nhiều lắm, chỉ theo
dõi các tờ
báo Đảng ở địa phương
và dịch các
bài do anh em đảng
viên người Hoa viết bằng
tiếng Trung Quốc ra tiếng
Xiêm trong dịp các
ngày lễ quốc tế như
Ngày Quốc tế Phụ nữ (8-3),
Ngày Quốc tế Lao động
(1-5), Ngày Cách
mạng Tháng Mười Nga (7-11)
v.v.. Ngoài ra, trong
lúc đi bán
báo hoặc trong lúc
gặp gỡ công, nông
và quần chúng lao
động Xiêm thì
làm việc tuyên truyền
miệng.
Năm 1934, phong trào
cách mạng Xiêm
có phần phát triển.
Ở Băng-cốc có ba cuộc
bãi công của
công nhân các
nhà máy xay,
công nhân xe lửa
và công nhân
lái xe ô-tô.
Những người bãi công
phần lớn là công
nhân người Hoa, cũng
có một số ít người
Xiêm, nói chung
là tự phát, những
đảng viên người Hoa chỉ
tác động vào
các cuộc đấu tranh
này một phần nào
thôi.
Ở Đông Bắc, thì đảng
viên người Việt hoạt động
sát với người Xiêm
hơn. Các tổ chức Thanh
niên cộng sản, Công
hội, Nông hội tuy
còn nhỏ bé, nhưng
đã có nhiều nơi,
đồng thời đã có
những cuộc đấu tranh nhỏ của
nông dân đòi
giảm thuế hoặc chống chế độ phu
dịch. Đáng chú
ý hơn là cuộc đấu
tranh của học sinh Trường Sư phạm
trung cấp Khô-rạt với
hàng trăm người tham gia để
chống chế độ nội trú
hà khắc, chống việc cấm đọc
báo chí. Cuộc đấu
tranh đã bắt buộc
nhà trường phải nhượng bộ.
Nhìn chung, phong
trào tuy có tiến bộ,
nhưng phương hướng đấu tranh vẫn
chưa rõ ràng, nếp
hoạt động thường vẫn là đến
các ngày kỷ niệm
quốc tế thì phát
truyền đơn, treo cờ đỏ, hoặc tập
hợp một số người trong phạm vi nhỏ
kêu gọi làm
cách mạng.
Từ năm 1932, 1933, chính
quyền Xiêm đã bắt đầu
khủng bố cộng sản, nhưng ở
Băng-cốc, anh em đảng viên
người Hoa thường là hoạt
động trong phạm vi người Hoa, tuy
cũng bị khủng bố, nhưng người Hoa
rất đông [5]
nên không dễ
tìm ra manh mối. Còn
Đông Bắc thì Việt
kiều tập trung ở một số địa phương
như Na-khon, Xa-côn
và U-đon, nên mỗi
lúc có hoạt động
là đều có Việt kiều
bị bắt, vì đương cục
Xiêm cho là chỉ
có Việt kiều làm.
Có khi cảnh sát mang
sẵn truyền đơn nhặt được ở
ngoài đường ngoài
phố, rồi xộc vào nhà
Việt kiều, đưa truyền đơn trong
người ra để bắt. Tình
hình đó đã
làm cho anh em Việt kiều
thắc mắc. Nếu cứ làm thế
này mãi, mỗi lần
phát truyền đơn lại bị bắt
bớ dần mòn, rồi sẽ đi tới
đâu? Tuy vậy không ai
nói ra. Đến lúc ở
nhà tù Băng-khoảng,
năm 1936–1937, anh em mới đưa vấn
đề ra tranh luận, nhưng
không đi đến kết quả
gì, vì có
người lấy cớ rằng không
có Xiêm ủy là
không thể thảo luận.
Hồi 1934, Ban chỉ huy ở
ngoài của Đảng ở Hương Cảng
thường gửi về Xiêm một số
báo chí, tờ Bôn-sê-vích
nêu cao tinh thần đấu tranh
không khoan nhượng.
Có bài phê
phán một đồng chí
chủ trương rằng nơi nào mới
khôi phục được một chi bộ
thì chưa nên tổ chức
quần chúng đấu tranh ngay,
cho đó là chủ trương
hữu khuynh.
Riêng tôi, lúc
đó tuy chưa có tư
tưởng chiến lược và
sách lược, nhưng vẫn nghĩ
rộng, cách hoạt động như
thế này, nếu như trong
xã hội người Hoa hoặc ở
trong nước có quần
chúng đông đảo
hàng triệu người,
thì còn có
thể hoạt động được kín
đáo; còn như Việt
kiều ở Đông Bắc vẻn vẹn
có độ vài ba vạn,
mà những nơi tập trung
khá đông như ở U-đon,
Xa-côn, Na-khon, cũng mỗi
nơi độ mấy nghìn người, nếu
đương cục cứ thẳng tay khủng bồ
thì chắc chắn cơ sở dễ bị
tan rã. Vì vậy trong
dịp tháng 5 năm 1934, anh
Tăng đi Hương Cảng họp hội nghị mở
rộng của Ban chỉ huy ở
ngoài của Đảng Cộng sản
Đông Dương, tôi
đã trao đổi điều suy nghĩ
này với anh Tăng, và
đề nghị trình bày
với các đồng chí
lãnh đạo của Đảng. Khi anh
Tăng trở về đến Băng-cốc cũng chỉ
nói theo như tinh thần của
báo Bôn-
sê-vích,
còn một người, còn
đấu tranh. Điều suy nghĩ
này mãi đến khoảng
mùa hè năm 1935,
tôi có dịp gặp anh
Hà Huy Tập ở Nam Kinh mới
trực tiếp trình bày
được đầy đủ.
Hơn một năm phụ trách
công tác tuyên
truyền của Xiêm ủy ở
Băng-cốc, tuy có làm
được một ít việc, nhưng
nhiều lần tôi đã bị
đau đầu kịch liệt. Bệnh này
tôi mắc phải từ năm 1923,
hồi còn học ở trường huyện,
hễ gặp lúc có nắng
là choáng
váng đau đầu, phải
luôn luôn đeo
kính dâm. Hồi tham
gia lớp huấn luyện ở Quảng
Châu cũng thường bị đau, mỗi
ngày đều phải uống thuốc. Ở
Băng-cốc trong hai năm tôi
phải vào bệnh viện ba lần
vì đau đầu cấp tính.
Vì vậy tôi xin
phép Xiêm ủy cho đi
Trung Quốc chữa bệnh với lý
do là ở Trung Quốc điều
kiện thuốc thang có thể tốt
hơn ở Xiêm, đồng thời
tôi có thể nhờ
ông Hồ Học Lãm, một
người yêu nước Việt Nam
cùng quê với
tôi giúp đỡ trong
việc chữa bệnh.
Được sự đồng ý và
giúp đỡ của Xiêm ủy,
khoảng đầu tháng 3 năm
1935, tôi rời Băng-cốc đi
qua Trung Quốc.
.
Phần
3: Những năm
tháng hoạt động
cách mạng ở
Trung Quốc (1935-1942)
|
Năm
1926, tôi qua Trung Quốc
chỉ ở Quảng Châu độ hai
tháng dự lớp huấn luyện
và tham gia Thanh
niên cách mạng đồng
chí hội rồi về nước
công tác. Lần
này qua Trung Quốc
là được Xiêm ủy
đồng ý cho đi để chữa
bệnh, nhưng vì
tình hình thay
đổi, tôi phải ở lại
công tác ở Trung
Quốc từ năm 1935 cho đến năm
1942, tất cả là bảy năm.
Để tiện cho việc trình
bày, tôi xếp
các hoạt động vào
trong hai giai đoạn theo địa
điểm và thời gian
khác nhau. Giai đoạn thứ
nhất là Từ Nam Kinh
đến Côn Minh, giai
đoạn thứ hai là Từ
Côn Minh đến Pác
Bó.
Giai đoạn thứ nhất: Từ Nam
Kinh đến Côn Minh
(1935-1939)
Giai đoạn này kể từ khi
rời khỏi Xiêm tháng
3 năm 1935 do đến đầu năm 1939.
Những hoạt động trong thời gian
này sẽ được trình
bày trong các mục
nhỏ sau đây:
- Trên đường đến Nam
Kinh.
- Hoàn cảnh mới,
công tác mới.
- Sinh hoạt và đấu
tranh ở Nam Kinh.
- Mất mối liên lạc với
Xiêm ủy. Ở lại Trung
Quốc.
I. Trên đường đến Nam
Kinh
Đầu năm 1935, sau khi được
Xiêm ủy cho phép
qua Trung Quốc chữa bệnh,
tôi và Tăng bạc đầu
cùng đi một chuyến
tàu qua Hương Cảng.
Đi tàu vượt biên
đối với tôi là lần
thứ nhất. Trời biển mênh
mang, trong lòng vô
cùng khoan khoái,
trông về phía
trước, tiền đồ rạng rỡ, đầy hứa
hẹn.
Lúc gần đến Hương Cảng,
Tăng bạc đầu kéo
tôi ra ngoài boong
tàu cùng dựa lan
can, và nói: Đến
Hương Cảng, chúng ta sẽ
chia tay nhau. Tôi
là người thuộc đường
và thạo tiếng,
không có điều
gì lúng
túng. Anh chưa chuộc
đường, chưa thạo tiếng, nhưng
cũng không ngại lắm.
Lúc tàu đến bến,
thả neo rồi sẽ có nhiều
thuyền nhỏ, nhiều ca-nô
đến đón khách, anh
cứ xuống một chiếc ca-nô
nào đấy cũng được, họ sẽ
đưa anh về một khách sạn.
Ở đó anh sẽ mua một tờ
Thương báo xem mục quảng
cáo về thuyền bè,
thấy có tàu đi
Thượng Hải thì mua
vé ngay ở khách
sạn đó. Nên mua
vé “tài xoong”
là loại vé rẻ tiền
nhất, nhưng cần chú
ý mua vé thuyền
nào đi đến tô giới
Anh, đừng mua vé thuyền
đến tô giới Pháp,
dễ bị nguy hiểm. Đến Thượng Hải,
sẽ thuê một chiếc xe tay
kéo đến “Bắc xa trạm”,
đó là ga xe lửa
đầu của tuyến đường Thượng Hải -
Nam Kinh. Đến Nam Kinh cũng
thuê một chiếc xe tay
kéo đến nhà số 10
ở Tam Sơn Lý, đó
là nhà ông
Hồ Học Lãm.
Nói thì giản đơn,
nhưng khi vào thực tế
thì không giản đơn.
Vừa bước chân xuống
tàu đi Thượng Hải
thì đã thấy vấn đề
ngay. Thường thường, những người
hành khách mua
vé rẻ tiền, trước khi
xuống tàu đã chuẩn
bị thức ăn sẵn như củ cải muối,
đậu phụ nhự v.v.., và
mang sẵn chăn chiếu. Họ xuống
tàu sớm đế chiếm chỗ tốt,
đỡ bị sóng gió.
Mình chẳng biết gì
cả, đến nơi thấy quang cảnh
mà ngao ngán,
những chỗ tốt người ta đã
chiếm và rải chăn chiếu
sẵn, chỗ còn lại
là những chỗ đầu
sóng ngọn gió
và là lối đường đi
lại của mọi người. Đầu
xuân, trời còn
rét, gió biển thổi
đều, trong người cảm thấy buốt
lạnh, chưa biết tính ra
sao.
Một bà già Quảng
Đông đoán hiểu
tâm sự tôi,
có phần ái ngại.
Sau khi chuyện trò thăm
hỏi, tôi tự xưng là
một Hoa kiều Quảng Đông,
lần đầu tiên ở nước
ngoài về nước, nên
bà rất thương và
hết lòng giúp đỡ.
Bà giúp gọi người
phục vụ ở tàu đến
nói chuyện, thuê
cho một chiếc giường xếp hết hai
đồng, và đặt cho một
suýt cơm năm ngày
hết năm đồng, và cho mượn
một chiếc chăn bông của
bà. Cả trong thời gian ở
dưới tàu, bà thấy
tôi có gặp
khó khăn gì, đều
tích cực giúp đỡ.
Hôm đến Sơn Đầu,
tàu cập bến mấy tiếng
đồng hồ để lấy khách, lấy
hàng và mua
thêm thức ăn cung cấp cho
hành khách. Bỗng
có một người thiếu nữ đến
trước mặt, đưa cho tôi một
cái quạt. Tôi
không hiểu tại sao trời
lạnh thế này mà
người ta lại đưa quạt,
luýnh quýnh
không biết đối phó
ra sao, bà cụ liền
dùng tiếng Quảng
Đông nói gì
với cô thiếu nữ ấy một
hồi, cô ta bỏ đi, đến
trước mặt người khác lại
chìa quạt ra, mọi người
đều làm thinh, tỏ vẻ
không cần. Cuối
cùng một người đàn
ông đứng tuổi nhận lấy
cái quạt, mở ra xem, rồi
nói một câu
gì đấy, cô thiếu nữ
quay mặt về phía sau, ra
hiệu gọi anh kép gảy
đàn đến. Tiếng đàn
và tiếng hát
cùng nổi lên,
hát khá hay, mọi
người trong tàu nghe đều
có phần chú
ý. Hát xong, người
đàn ông cho
cô ta mấy hào. Bấy
giờ mới vỡ lẽ, đây
là một cô
gái hát,
cái quạt mà
cô ta đưa cho người xem
là một bản ghi các
bài hát, điệu
hát mà cô ta
có thể hát được để
cho khách chọn.
*
Tàu gần đến Thượng Hải,
trông lên thấy san
sát những lầu cao
nhà lớn, đường sá
rộng, xe cộ đi lại như thoi đưa.
Người trên các
đường gần bờ sông
đông như kiến. Cảnh rất
đẹp mắt, nhưng lòng
mình vẫn phập phồng, nửa
mừng nửa lo. Khi tàu
chuyển mình ghé
vào bến, trông thấy
trên một tòa
nhà cao có
lá cờ tam tài bay
phất phới. Thôi! Đây
là tô giới
Pháp rồi!
Không hiểu vì sao
lúc mua vé người
ta bảo tàu vào
tô giới Anh, mà
bây giờ lại cập bến
tô giới Pháp?
Thôi sự việc đã đến
thế đành phải tự
nhiên, bình tĩnh để
nghĩ cách ứng phó.
Trước kia, đã từng được
nghe câu chuyện Bác
Hồ bị cướp ở Thượng Hải;
Bác cũng từ Hương Cảng
đến Thượng Hải, lúc đến
bến, thuê một chiếc xe
ngựa đưa tới chỗ ở, thì
chính chiếc xe ngựa
đó là của bọn cướp
bố trí để đánh lừa
khách. Nó đưa
Bác đến một ngõ
hẻm, dừng xe lại, chỉ cho
Bác đi vào một
gian nhà ở phía
sau, mấy đứa trong bọn
chúng lục soát
người Bác rất kỹ, chỉ
thấy có năm đồng bạc,
chúng kêu lên
một tiếng “thằng ma đói”,
thụi một quả đầm, rồi đẩy
Bác ra. Vì
tình hình trộm
cướp ở Thượng Hải, Bác
đã biết trước, nên
có mấy trăm bạc,
Bác đã lót
vào trong bít tất,
chúng không
tình thấy . Tôi
cũng học kinh nghiệm đó,
có mấy chục bạc đã
giấu vào một chỗ
kín, nên về vấn đề
trộm cướp không sợ lắm,
mà chỉ lo ở tô giới
Pháp có thể xảy ra
vấn đề gì không
may.
Lên bờ, tay xách
một cái va-li nhỏ, trong
chỉ có một chiếc quần
ngắn và một bộ quần
áo lót, lướt qua
một dãy xe kéo đỗ
sẵn hai bên đường để
đón khách, ra vẻ
tự nhiên, hình như
là một người đã
quen thuộc lắm ở Thượng Hải. Đi
một đoạn độ vài trăm
thước, thấy một ông cụ
già đang kéo chiếc
xe không đi lang thang,
trông vẻ mặt biết
là người hiền
lành, thật thà,
tôi liền vẫy tay gọi đến
rồi lên xe, rút
trong túi một mảnh giấy
viết sẵn ba chữ “Bắc xa trạm”
đưa cho ông, ông xem
xong, gật đầu một cái,
rồi kéo đi ngay. Qua mấy
dãy phố bỗng có
một người khỏe mạnh kéo
chiếc xe không, chạy song
song với ông, hai người
nói với nhau gì
đấy. Tôi đâm hoảng,
đang suy nghĩ thì cả hai
chiếc xe cùng dừng lại,
ông già chỉ
vào chiếc xe kia, rồi giơ
hai ngón tay cho
tôi xem và ngả
bàn tay ra trước mặt
tôi. Tôi hiểu
là ông đòi
hai hào tiền xe.
Bây giờ mới rõ
vì đường xa, ông
già không đi được,
nên đã gọi người
kéo xe khỏe mạnh kia,
chuyển khách cho nhau.
Đó là thói
quen trong nghề nghiệp của những
người kéo xe.
Đi qua mấy dãy phố khỏi
tô giới Pháp đến
đất Trung Quốc, lại qua mấy
dãy phố nữa, nhìn
về phía trước đã
thấy ba chữ “Bắc xa trạm” hiện
ra rõ ràng
trên một tòa
nhà, đó là
nhà ga Thượng Hải. Đến
ga, người kéo xe dừng lại
và giơ tay đòi
tiền. Ở trên tàu
thủy tôi đã chuẩn
bị đổi mấy đồng bạc ra tiền
hào để sẵn trong
túi, liền lấy ra bốn
hào đưa cho anh ta, anh
ta lắc đầu, tôi đưa hai
hào nữa, anh ta lại lắc
đầu, tôi đưa thêm
hai hào nữa, anh ta gật
đầu, cười một cách vui
vẻ, rồi kéo xe đi.
*
Ở Bắc xa trạm, chờ độ ba tiếng
đồng hồ thì mua được
vé và lên
tàu di Nam Kinh.
Tàu sắp đến Hạ Quan (ga ở
Nam Kinh), thì những
người phục vụ các
khách sạn đã nhảy
lên xe giành
khách. Một người đến gần
bên tôi hỏi
có ở khách sạn
không? Tôi gật đầu,
anh ta liền dán miếng
giấy có nhãn hiệu
của khách sạn vào
chiếc va-li của tôi,
và như vậy mọi việc đi từ
ga đến khách sạn họ sẽ
thu xếp.
Nhà khách sạn
này là một
khách sạn loại vừa ở một
phố nhỏ, cách ga gần một
cây số. Đến khách
sạn vào khoảng bảy,
tám giờ tối, người phục
vụ đưa tôi vào một
cái phòng chỉ cho
ở đấy, rồi một chốc thì
có cơm mang đến. Ăn cơm
xong, tôi chuẩn bị nghỉ,
thì một phụ nữ đã
đứng tuổi xách một
cái thùng sơn son
để vào dưới gầm giường,
im lặng bước ra. Lại một người
phụ nữ nữa bước vào,
tôi tưởng đây lại
là một người phục vụ
khác đến có việc
gì, không ngờ chị
này đến ngồi sát
ngay người tôi, cười
nói vồn vã, rồi
khoác tay ôm lấy
tôi. Bấy giờ mới biết
đây là gái
điếm, tôi liền đứng phắt
dậy, đẩy nhẹ chị ta ra
ngoài cửa, đóng
cửa lại, xem xét qua
trong phòng một
chút, rồi nằm nghỉ.
Đến Nam Kinh là đã
đạt được chỗ mục đích,
bây giờ không
còn lo lắng về mặt
chính trị nữa. Nhưng
ngày mai sẽ như thế
nào. Có đến được
nhà ông Hồ Học
Lãm như Tăng bạc đầu
đã nói
không? Không gặp
được ông ấy thì
sao? Suy nghĩ nhiều, nhưng khuya
rồi, cũng đánh một giấc
cho đến sáng.
Hôm sau dậy sớm, để chuẩn
bị cho đoạn đường sắp đi. Chừng
khoảng bảy, tám giờ,
người phục vụ khách sạn
gõ cửa vào hỏi
có ăn cơm sáng
không, tôi lắc đầu,
và đưa ra một tờ giấy
viết sẵn mấy hàng chữ
Trung Quốc, đại ý nhờ
khách sạn thuê cho
một chiếc xe tay kéo đến
số nhà 10 Tam Sơn
Lý trong thành
phố. Anh ta liền xuống dưới
nhà đưa lên một tờ
giấy kê rõ số tiền
mình phải trả:
Tiền phòng: 3 đồng
Tiền cơm tối: 1 đồng rưỡi
Hành lý: 5
hào
Mã thùng: 5
hào
Tôi xem không hiểu
mã thùng là
gì, lấy bút
đánh một dấu hỏi ở
bên. Anh ta lấy tay chỉ
vào cái
thùng sơn son để dưới
giường mà người phục vụ
tối hôm qua đưa đến.
Tôi lại viết mấy chữ hỏi
cái thùng ấy để
làm gì? Anh ta
cười mở nắp thùng ra xem,
rồi đậy lại và lấy
bút gạch bỏ chỗ ở trong
giấy viết “mã
thùng 5 hào”. Thế
là tôi chỉ phải trả
có năm đồng, nhưng đối
với mình là một số
tiền quá lớn, không
thể tưởng tượng được. Sau
này ở Nam Kinh mới biết
mã thùng là
một thứ thùng để người ta
dùng trong khi đại, tiểu
tiện.
Từ Hạ Quan đến nhà
ông Hồ Học Lãm
đường dài độ chín
cây số, thông thường
thì người ta đi xe
công cộng chỉ mất một
hào, mình đi xe
tay cố nhiên là sẽ
mất nhiều hơn, nhưng lại
là một dịp tốt để ngắm
phong cảnh. Sau hơn một tiếng
đồng hồ, thì xe
kéo đến Tam Sơn
Lý, dừng trước nhà
ông Hồ Học Lãm. Trả
tiền xe xong, tôi bấm
chuông, trong nhà
có một bà
đã đứng tuổi ra mở cửa,
đó là bà Hồ
Học Lãm, bà
nói mấy câu tiếng
Trung Quốc, nghe không
hiểu gì cả. Tôi hỏi
lại bằng tiếng Việt: Đây
có phải là
nhà ông Hồ Học
Lãm không? Biết
là người Việt, bà
ấy hỏi lại tôi bằng tiếng
Việt: Ông là người
ở đâu, có việc
gì, đến hỏi ai ở
đây? Tôi nói:
Tôi là bà
con ông Hồ Học Lãm,
nhân có việc qua
đây, muốn vào thăm
ông. Bà ta liền đưa
tôi vào nhà.
Hôm ấy, vừa khéo
là ngày chủ nhật,
ông Hồ Học Lãm ở
nhà, nên vào
nhà thì gặp ngay.
Nguyên ông Hồ Học
Lãm là người
cùng làng với
tôi, cháu cụ Hồ
Bá ôn, án
sát tỉnh Nam Định, hy
sinh năm 1883 trong khi chống
Pháp để giữ thành
Nam Định. Ông cũng
là chú của đồng
chí Hồ Tùng Mậu,
và mẹ ông là
bà Lụa, một người
tích cực tham gia
cách mạng trong thời kỳ
Văn Thân, đã từng
bị bắt giam và bị tra tấn
rất tàn nhẫn mà
vẫn không chịu khuất phục.
Lúc 16, 17 tuổi,
tôi thường hay đến
nhà bà cụ, nghe
chuyện cách mạng,
vì vậy tình
hình trong nhà
đó, tôi rất hiểu
biết. Khi gặp ông Hồ Học
Lãm là tự
nhiên nói đến
tình hình gia
đình, tình
hình làng
xóm, tình
hình trong nước và
sự dặn dò của bà
cụ trong trường hợp đi ra
ngoài có dịp gặp
ông. Qua một hồi
trò chuyện, ông Hồ
đã biết rõ về
tôi và khuyên
tôi cứ yên tâm
ở nhà ông.
[1]tức
Liễu Hán
[2]cuối
năm 1930 Đảng Cộng sản Việt Nam
đổi tên thành Đảng
Cộng sản Đông Dương
[3]lúc
này giá bạc
Xiêm ngang giá với
bạc Đông Dương
[4]Phraya
Phahon Phonphayuhasena
(1887-1947)
[5]hơn
một triệu ở Băng-cốc
-----------------------------
II. Hoàn cảnh
công tác mới
Lúc đó ở Nam Kinh,
có độ vài chục
người Việt Nam, gồm mấy loại:
Có người cách mạng
như anh Lê Thiết
Hùng, con rể chưa cưới
của ông Hồ Học Lãm,
anh Cao Hồng Lĩnh trong nước mới
ra, ở nhà một người Hoa
kiều; có người đồng
tình ủng hộ Đảng như gia
đình ông Hồ Học
Lãm và bốn anh em
Việt Quốc chống tụi Nguyễn Thế
Nghiệp và Vũ Hồng Khanh,
từ Vân Nam đến là
Đông A, Đỗ Đăng
Trình, Lê Quốc Trụ
[1]
và Từ Chí
Kiên [2]
; có người lừng khừng như
ông Trần Trọng Khắc mới ở
nước Đức phát-xít
về; cũng có người
đã làm mật
thám cho Pháp từ
Xiêm trốn sang như Đặng
Nguyên Hùng.
Ngoài ra còn
có một Biện sự xứ của
Việt Quốc, đứng đầu là Vi
Đăng Tường cũng gọi là Vi
Chính Nam và một
chàng thanh niên
là Nghiêm Kế Tổ
đang chuẩn bị đi học trường đặc
vụ của Tưởng Giới Thạch. Đặng
Nguyên Hùng
và Trần Trọng Khắc
cùng ở chung nhà
với ông Hồ Học Lãm,
còn Lê Thiết
Hùng thì
làm trung đội trưởng ở
Giao thông binh
đoàn, một vài tuần
mới về nhà một hôm.
Tháng 4 năm 1935 lại đến
thêm hai người nữa
là anh Hải và anh
Văn. Hải là người
đã cùng tham gia
lớp huấn luyện với tôi ở
Quảng Châu từ năm 1926,
sau được giới thiệu đi học ở
Liên Xô. Văn
là một đồng chí
người Xiêm, đã chịu
ảnh hưởng của Đảng và
tham gia phát truyền đơn
chống chính quyền độc
tài ở Xiêm,
mà tôi đã
gặp mấy lần ở Băng-cốc nay lại
gặp lại.
Sau một thời gian, trao đổi
ý kiến với anh Hải,
chúng tôi quyết
định tổ chức một lớp huấn luyện
tại nhà ông Hồ Ngọc
Lãm. Tôi, anh Cao
Hồng Lĩnh và mấy anh em
Việt Quốc có cảm
t-ình với Đảng tham gia,
Hải phụ trách huấn luyện.
Lớp huấn luyện chỉ độ hơn một
tháng nhưng đối với
tôi là một thu
hoạch lớn. Đã mười năm
làm cách mạng, sau
lớp Quảng Châu, được nghe
lý luận cách mạng
tương đối có hệ thống,
như tính chất cách
mạng, lực lượng chủ yếu của
cách mạng, đồng minh của
cách mạng, chính
sách mặt trận, kinh
nghiệm đấu tranh cách
mạng của Liên Xô,
vấn đề cơ bản của chủ nghĩa
Mác Lê-nin, duy vật
biện chứng, v.v… Mỗi lần nghe
xong, tôi lại tóm
tắt tinh thần dùng tiếng
Xiêm giảng lại cho anh
Văn.
Tháng 8 năm 1935,
các anh Cáp,
Truật, Đại, Kỳ [3]
, Trinh, Đức, Lộc, Luận bị
Chính phủ Xiêm trục
xuất từ Băng-cốc đến. Ông
Hồ Học Lãm trước kia
đã phải nuôi mấy
người chúng tôi,
nay lại thêm tám
người nữa, phần lớn đều do
ông phụ trách. Thật
là một gánh
quá nặng, nhưng ông
vẫn vui lòng và
thường khuyên anh em đừng
ngại.
*
Vào khoảng tháng 9
năm 1935, anh Nhỏ [4]
đến Nam Kinh, đó
là đại biểu của Ban chỉ
huy ở ngoài của Đảng,
người tôi muốn gặp
đã từ lâu, nay mới
được gặp.
Nguyên khi tôi xin
phép Xiêm ủy đi
Trung Quốc chữa bệnh, mục
đích là cốt để nhờ
ông Hồ Học Lãm
giúp đỡ chữa cái
bệnh đau đầu đã hơn mười
năm. Nhưng ngoài ra
còn có một mục
đích trọng yếu hơn
là muốn có dịp
được gặp các đồng
chí trong Ban chỉ huy, để
xin ý kiến về công
tác cách mạng
Xiêm.
Sự thực, năm 1930 sau khi
thành lập xong Đảng Cộng
sản Xiêm thì đại
biểu Quốc tế Cộng sản đã
vội vàng đi
Mã-lai, chưa kịp
có những chỉ thị ường tận
về các mặt công
tác. Riêng bộ phận
Đảng Việt kiều ở Xiêm, về
mặt công tác viện
trợ cách mạng Đông
Dương thì làm rất
tốt. Nhưng về mặt công
tác cách mạng
Xiêm, bộ phận Việt Nam
nên làm thế
nào cho phù hợp
với hoàn cảnh của kiều
bào là một vấn đề
còn mơ hồ. Năm 1931, sau
khi anh Đình mất,
tôi thay anh Đình
làm Bí chư Tỉnh ủy
U-đon, năm 1933 đến Băng-cốc
công tác lại được
bổ sung vào Xiêm ủy
[5]
và phụ trách bộ
phận tuyên truyền. Nhưng
thực ra, tôi cũng như Tăng
bạc đầu, người Việt Nam đầu
tiên được chỉ định
vào Xiêm ủy ngay từ
lúc thành lập, đều
rất lúng túng,
chưa mò ra đường lối
nên làm thế
nào?
Năm 1934, Ban chỉ huy ở
ngoài của Đảng
thành lập ở Hương Cảng,
tôi bàn với Tăng
bạc đầu phái một
cán bộ đi gặp Ban chỉ huy
báo cáo và
xin ý kiến. Lúc
anh này ở Hương Cảng về,
hỏi công tác
thì nói lờ mờ,
chẳng ra đầu đuôi,
mà Ban chỉ huy gởi cho
chúng tôi năm trăm
bạc thì hắn không
báo cáo,
đút túi làm
của riêng để phung
phí trong sinh hoạt vật
chất của hắn. Sau Tăng bạc đầu
lại đi gặp Ban chỉ huy, khi về
Băng-cốc, tôi hỏi đến vấn
đề công tác
cách mạng Xiêm của
bộ phận Việt kiều, anh ta chỉ
nói: “Vẫn như tinh thần
báo
Bôn-sê-vích
của Đảng, là còn
một người, còn đấu
tranh”.
Năm 1934, cũng chính
là năm Việt kiều ta ở
Xiêm đang bị khủng bố, ở
các địa phương như
Na-khon, U-thên,
Pha-nôm, Mường-mục, v.v…
cảnh sát Xiêm
đã nhét truyền đơn
vào nhà Việt kiều
rồi bắt. Sự quan hệ giữa
Xiêm với Ban chỉ huy ở
ngoài, cứ như Tăng bạc
đầu nói thì Ban
chỉ huy được Quốc tế Cộng sản
giao nhiệm vụ giúp chỉ
đạo cả Đảng Mã-lai
và Đảng Xiêm. Nay
ý kiến của Ban chỉ huy
được Tăng truyền đạt là
như vậy, thì phương hướng
hoạt động của kiều bào
vẫn không thay đồi.
Tôi nghe nói,
có ý nghi ngờ
là khi Tăng báo
cáo công tác
Đảng Xiêm với Ban chỉ huy
đã thổi phồng
thành tích
mà không
trình bày hết
hoàn cảnh khó khăn
chăng? Với sự suy nghĩ như thế,
tôi quyết định xin
phép Xiêm ủy đi
Trung Quốc chữa bệnh, đồng thời
để tìm dịp liên hệ
với Ban chỉ huy ở ngoài
của Đảng.
Vì vậy khi được gặp anh
Nhỏ, tôi hết sức mừng
rõ, coi đây
là một dịp may mắn để
trực tiếp báo cáo
tình hình
cách mạng Xiêm với
cấp trên.
*
Lúc gặp anh Nhỏ,
tôi tự giới thiệu
và nói việc được
phép Xiêm ủy cho
qua Trung Quốc chữa bệnh.
Anh Nhỏ nói: Về lý
lịch và yêu cầu của
anh, chúng tôi
đã biết.
Tôi nói: Về
lý lịch của tôi
chắc các anh biết
rõ; nhưng về yêu
cầu của tôi chưa chắc
các anh biết hết. Anh
hãy cho tôi
trình bày:
Tôi lần này xin
phép Xiêm ủy đến
Trung Quốc là có
ý muốn nhờ ông Hồ
Học Lãm giúp cho
điều kiện chữa bệnh. Nhưng qua
một thời gian xem xét,
tôi thấy khả năng
đó không có.
Một là vì
ông Hồ Học Lãm
lương bổng không có
mấy mà phải giúp
anh em đồng chí
chúng ta rất nhiều, ở
đây hiện nay có hơn
mười anh em không
có nghề nghiệp đều do
ông giúp đỡ. Hai
là điều kiện chữa bệnh ở
Nam Kinh rất kém: Ở
Băng-cốc tôi vào
bệnh viện chữa bệnh mấy lần, đều
được xếp vào loại
“làm phúc”, nhưng
ăn uống và chữa bệnh hầu
như ngang với loại mất tiền hạng
thường. Còn ở đây
không có chế độ
“làm phúc” như vậy
mà các bệnh viện
có thiết bị tốt như bệnh
viện Trung Ương, bệnh viện Cổ
Lâu thì mỗi
ngày phải mất ít
nhất năm, bảy đồng bạc, lấy
đâu ra số tiền lớn như vậy
mà chữa. Vì thế
bây giờ tôi
không nghĩ đến việc chữa
bệnh nữa.
Anh Nhỏ nói: Việc chữa
bệnh của anh, chúng
tôi cũng đã nghĩ
đến, định sẽ xếp cho anh
cùng đi Liên
Xô với anh Văn, anh Hải,
vừa được chữa bệnh, vừa được học
tập, đồng thời có thể
giúp cho việc học tập của
anh Văn, mà Hải cũng cho
tôi biết là anh
có khả năng đó.
Nhưng hiện nay đường đi
Liên Xô khó
khăn quá, chắc chắn
còn phải chờ một thời
gian.
Tôi nói: Anh
nói thế tôi rất
phấn khởi, nhưng tôi
còn một yêu cầu
khác nữa, anh cho
tôi nói thêm,
đó là yêu
cầu về đường lối và chủ
trương cho công tác
cách mạng ở Xiêm.
Đảng Cộng sản Xiêm được
thành lập năm 1930 chủ
yếu là hai bộ phận Đảng
Hoa kiều và Đảng Việt
kiều gộp lại. Về phía Hoa
kiều, các đồng chí
không có cơ sở
và ảnh hưởng nhiều trong
quần chúng Xiêm. Về
phía Việt kiều thì
ảnh hưởng trong quần
chúng Xiêm
khá tốt. Có nhiều
địa phương, quần chúng
Xiêm muốn đấu tranh chống
thuế, chống phu dịch, đều
tìm cán bộ ta
yêu cầu lãnh đạo;
trong giáo giới có
một số giáo viên
tiến bộ rất khâm phục ta
và cũng muốn được ta
giúp đỡ trong việc hoạt
động; một số vợ con Việt kiều
là người Xiêm đều
theo ta; nhưng đồng chí
thực sự là người
Xiêm thì
không có mấy.
Toàn bộ Việt kiều ta ở
Xiêm có chừng
trên dưới ba vạn, nhưng số
người ta tổ chức được thì
chỉ độ mấy nghìn,
mà phần nhiều là
tập trung vào các
địa phương mà đương cục
đã hoàn
toàn biết rõ, như
U-đon, Xa-côn, Na-khon
Pha-nôm v.v… Nếu
cách hoạt động của
chúng ta như trước, cứ
đến những ngày kỷ niệm
quốc tế như Ngày
Cách mạng Tháng
Mười, Ngày 1 tháng
5, hoặc Ngày Khởi nghĩa
Quảng Châu, Ngày
Xô-viết Nghệ An, v.v…
là phát truyền
đơn; có vài chục
người bán hàng ở
chợ cũng bãi thị,
có vài trăm người
ở địa phương cũng biểu
tình, và nếu
Chính phủ Xiêm sẽ
dùng biện pháp như
nhét truyền đơn
vào nhà để bắt
người, hay quá hơn nữa
dùng biện pháp
khủng bố bắt hết cả mọi người
như ở Phi-chịt thuộc tỉnh
Phi-xa-nu-lốc ở miền Trung nước
Xiêm hồi tháng 9
năm 1930, thì cơ sở
cách mạng của
chúng ta chắc chắn
là không thể bảo
toàn, sự cống hiến đối
với cách mạng Xiêm
sẽ giảm đi, mà công
tác viện trợ cách
mạng Đông Dương cũng sẽ bị
ảnh hưởng không thể lường
hết được.
Về tình hình
nói trên, tôi
đã trao đổi ý kiến
với Tăng bạc đầu cần phải
báo cáo rõ
với Ban chỉ huy và xin
ý kiến. Không biết
Tăng bạc đầu có
báo cáo với
các anh như thế
không?
Anh Nhỏ nói: Tăng bạc đầu
có báo cáo
với chúng tôi về
công tác
cách mạng của Đảng
Xiêm, nhưng không
nêu vấn đề như anh vừa
nói: Hôm nay, nghe
anh báo cáo
rõ, tôi thấy
có nhiều chỗ đáng
phải suy nghĩ. Nhưng trước mắt,
tôi chưa thể trả lời được,
rồi đây chúng
tôi sẽ thảo luận,
có ý kiến
gì sẽ nói với anh
sau.
*
Nói xong vấn đề
công tác Đảng
Xiêm, anh Nhỏ hỏi ý
kiến tôi về việc ông
Hồ Học Lãm muốn
thành lập ở Nam Kinh một
tổ chức cách mạng.
Tôi nói việc
này ông Hồ
đã trao đổi ý kiến
với Hải và tôi. Mục
đích ông muốn như
vậy là cốt để cho địa vị
chính trị của anh em ta ở
đây được hợp pháp
hóa, đồng thời cũng
có ý muốn xin được
sự giúp đỡ của Trung ương
Quốc dân đảng Trung Quốc.
Tôi nghĩ trong hoàn
cảnh hiện nay nếu làm
được như vậy thì rất tốt,
nhưng tôi vẫn còn
suy nghĩ, không hiểu trong
việc này Hải có
ý định gì
không? Vì thấy Hải
rất hứng thú và
rất tích cực hoạt động,
mà đối với Hải thì
tôi có chỗ nghi
ngại.
Anh Nhỏ ngắt lời tôi, tỏ
vẻ ngạc nhiên, hỏi:
Ngài ngại thế nào?
Tôi nói về việc
Hải, tôi phải báo
cáo dài một
chút. Hải là một
người đã cùng tham
gia lớp huấn luyện với tôi
ở Quảng Châu từ năm 1926,
bí đanh là P.V…
Hồi ấy tôi đã nhận
thấy anh ta là người
thích ăn chơi. Xa
cách nhau nhiều năm,
tôi chắc anh ta đã
tiến bộ nhiều. Nhưng lần
này qua mấy tháng
gần gũi, tôi thấy ở anh ta
có nhiều chỗ không
ăn khớp với tư cách một
người cách mạng.
Xin kể một số việc làm
thí đụ:
- Thiếu nghiêm chỉnh
trong quan hệ nam nữ: Anh
ta thường hay nói chuyện
về sinh lý có
tính chất khiêu
dâm trước mặt phụ nữ.
Có lần, buổi tối đi chơi
công viên, thấy một
cô gái ngồi
trên ghế đá, anh ta
chạy thẳng đến ngồi bên
cạnh, anh Văn và
tôi phải phát
ngượng. Có lần dạo phố
thấy một cô nữ sinh đi từ
phía trước đến, anh ta
rảo bước, đu đưa tay ngoặc
vào tay cô nữ sinh.
Thậm chí anh ta
còn nói rõ,
cả chuyện người mọc sừng
mà chính anh ta
là tác giả của
việc mọc sừng ấy. Anh ta
nói như vậy cốt để khoe
cái tài chim
gái của mình,
nhưng có khi quá
mồm, anh ta cũng khoe cả
cái tài của người
vợ anh ta ở trong nước trước kia
đã chim thằng cẩm như thế
nào để thoát khỏi
việc tra xét của bọn
lính cẩm khi đi
tàu từ Hà Nội về
đến Nam Định.
- Thiếu nguyên tắc
trong việc đấu tranh:
Trước hết tôi muốn
nói đến việc đấu tranh
với ông Trần Trọng Khắc.
Ông ta là một người
xuất dương từ hồi Đông Du,
khi bị Nhật đuổi về Trung Quốc
được cụ Phan Bội Châu xếp
cho qua Đức học trường thuốc đỗ
bác sĩ. Lần này về
Trung Quốc được Trần Nghi, Tỉnh
trưởng tỉnh Phúc Kiến,
nguyên là bạn học
của ông ta, giúp
cho mấy nghìn bạc, đang
chuẩn bị mở một phòng
khám bệnh ở Nam Kinh để
lấy tiền. Ông ta vẫn biết
anh em cách mạng ở
Xiêm bị trục xuất đến đang
gặp khó khăn, do một
mình ông Hồ Học
Lãm giúp đỡ, nhưng
phớt lờ hình như
không có chuyện
gì. Anh Văn bị sốt cao
nằm ngay trước phòng
ông ta mà ông
ta cũng không hỏi một
câu, vì cái
lý luận của ông ta
mà người bệnh cần thầy
thuốc, chứ thầy thuốc
không cần người bệnh.
Người như vậy là rất xấu,
thật đáng chê
trách. Một hôm, Hải
bàn tính
dùng bạo lực bắt
ông ta phải xuất tiền cho
anh em. Ý kiến này
tôi không tán
thành, nhưng lại được mấy
anh em Vân Nam đồng
ý. Hải bèn lợi
dụng lúc tôi đi
vắng, được sự ủng hộ của
bà Hồ Học Lãm,
kéo mấy anh em Vân
Nam đến uy hiếp Trần Trọng Khắc.
Tôi đi phố về, nghe
trên gác có
tiếng chân đạp mạnh, chạy
lên thì thấy Hải
và mấy anh em mỗi người
cầm một thứ hung khí
thô sơ lăm lăm nhìn
vào Trần Trọng Khắc. Trần
hoảng quá, xin nộp hai
chục bạc. Tôi thấy
đây là một
hành động vô
chính trị, nếu
không nói
thì sẽ mất uy tín
của Đảng, tôi liền bước
ngay vào phòng,
nói thẳng:
“Cụ Trần, anh em chúng
tôi ở đây gặp
khó khăn, rất cần được sự
giúp đỡ, nhưng Đảng
chúng tôi
không bao giờ chủ trương
dùng biện pháp uy
hiếp để được sự giúp đỡ.
Cụ hãy giữ lại số tiền,
sau này nếu cụ cứ tự
nguyện giúp thì sẽ
đưa. Còn các đồng
chí làm như thế
này là không
đúng chủ trương của Đảng,
xin mời xuống nhà,
có gì chúng
ta sẽ bàn với nhau”. Nghe
tôi nói xong,
các anh em Vân Nam
đều rút. Hải cũng
rút luôn.
Lại một cuộc đấu tranh
khác là đấu tranh
với Đặng Nguyên
Hùng. Một hôm, Đặng
Nguyên Hùng mời mấy
anh em Vân Nam ăn cơm để
ly gián Đảng với mấy anh
em đó. Mấy anh em đem vấn
đề báo cáo với
chúng tôi và
xin ý kiến. Chúng
tôi chủ trương dùng
lời nói thẳng, cự tuyệt
không nhận. Hải lại chủ
trương cứ nhận, rồi lúc
đến sẽ chọn những món ăn
và rượu rất đắt tiền để
đánh nó một mẻ về
mặt kinh tế. Mấy anh em
Vân Nam là những
người mới giác ngộ theo
Đảng, chưa có kinh nghiệm
hoạt động chính trị, cho
rằng Hải là người giỏi,
người lãnh đạo, nên
tiếp thu ý kiến của Hải
ngay. Trước hôm đi ăn, họ
đến hiệu ăn điều tra tên
các món ăn
và rượu quý, để
hôm sau lúc đến ăn
sẽ gọi những món
đó. Nhưng Đặng
Nguyên Hùng
là một tay láu
cá, khi các anh em
gọi thức ăn, trước mặt hắn
không nói
gì, nhưng hắn chạy thẳng
vào bếp bảo nhà
bếp làm món ăn
khác rẻ tiền hơn.
Còn rượu thì
lúc người phục vụ đưa ra
hai chai, vừa mở xong một chai,
thì hắn giật lấy chai kia
xem nhãn hiệu, rồi
không cho mở nữa. Thế
là kế hoạch đả
kích nó về mặt
kinh tế không thực hiện
được. Mấy anh em liền đứng dậy
mắng nó một hồi, rồi bỏ
đi. Hành động này
đối với Đặng Nguyên
Hùng cố nhiên
là một đòn nặng,
nhưng đứng về mặt phong độ
mà xét thì
hành động như vậy, người
chính trị đứng đắn
không bao giờ làm.
- Có hành động
đáng ngờ trong hoạt
động chính trị: Một
hôm Hải nói với
tôi: Vì sao
chúng nó [6]
bảo sẽ đến, bây giờ
đã mấy tháng rồi
mà chẳng thằng nào
đến. Có lẽ ở Hương Cảng
có chuyện gì rồi.
Chúng ta cần đưa mấy anh
em Vân Nam đi Thượng Hải
hoạt động, đồng thời để
tìm hiểu tình
hình Hương Cảng ra sao.
Tôi nói việc đi
này phải có chủ
trương của tổ chức mới
làm được, nhưng Hải
không nghe, cứ bảo mấy anh
em Vân Nam chuẩn bị in
rô-nê-ô
và hành lý
lên đường.
Tôi liền đem vấn đề
này bàn với anh
Lê Thiết Hùng, nhất
trí nhận định rằng cần
phải ngăn chặn, nếu cứ để vậy
mà xảy ra vấn đề
gì thì
chúng ta phải chịu
trách nhiệm với
cách mạng, với Đảng.
Bàn xong, chúng
tôi mời cả Hải và
mấy anh em Vân Nam đến
nói chuyện: Việc
các anh đi Thượng Hải lần
này là một việc
rất mạo hiểm, chúng
tôi không tán
thành vì Đảng
không có chủ trương
như vậy, chúng tôi
khuyên các anh đừng
đi; nếu các anh cứ tự
tiện đi thì đó
là hành động
cá nhân của
các anh, xảy ra chuyện
gì Đảng không chịu
trách nhiệm. Mấy anh em
Vân Nam nghe nói
như vậy đều chối, Hải cũng
đành phải thôi.
Qua các sự việc
nói trên, tôi
nghĩ rằng Hải có thể
đã là một người
biến chất. Không hiểu
trong thời gian công
tác với các anh,
các anh có thấy
gì không?
Nghe xong, anh Nhỏ vỗ vai
tôi và nói
rằng: Đúng! Anh là
một người có con mắt
chính trị. Đáng lẽ
về tình hình anh
ta, chúng tôi
không định nói với
anh, nhưng bây giờ anh
đã thấy rồi, thì
tôi cũng nói để anh
rõ:
Năm 1926, sau khi huấn luyện ở
Quảng Châu một thời gian,
hắn được giới thiệu đi
Liên Xô học tập
chính trị, rồi học tập kỹ
thuật vô tuyến điện, tất
cả là bảy năm. Trong thời
gian học, hắn yêu một
người con gái Nga con tư
sản, bạn học và đồng
chí khuyên hắn đừng
lấy, hắn cứ lấy. Khi học được kỹ
thuật vô tuyến điện rồi,
hắn dùng vô tuyến
điện đánh cho Đảng
Pháp bức điện, phê
bình Đảng Pháp
không hết sức giúp
cách mạng Đông
Dương. Đảng Pháp
không hiểu đầu đuôi
ra sao, nhờ Liên Xô
điều tra mãi mới biết
là hắn đã
làm bậy như thế . Khi
hắn từ Liên Xô về
nước, đi đến Hải-xâm-uy,
chiếc tàu chuẩn bị cho
hắn đi còn phải chờ một
thời gian rồi mới lên
đường, hắn tự tiện trở lại Mạc
Tư Khoa để gặp vợ, rồi mua
vé lại đi
Hải-xâm-uy. Vì thấy
hắn lung tung như vậy, nên
chúng tôi
không để hắn tham gia Đại
hội Đảng. Hắn bất mãn,
bí mật liên lạc với
lãnh sự Pháp ở
Hương Cảng để hòng bắt cả
Đại hội. Lãnh sự
Pháp mặc cả với hắn nếu
bắt được thì sẽ thưởng
năm vạn bạc và sẽ cho đi
du lịch một vòng qua
các nước châu
Âu. Hắn không ngờ
chúng tôi
không họp Đại hội ở Hương
Cảng, mà lại họp ở
Ma-cao, nên hắn đã
vồ hụt, không bắt được
gì cả. Đã vậy, hắn
còn định tiếp tục lộn
sòng trong hàng
ngũ cách mạng. Nhưng
chúng tôi có
manh mối đã theo
dõi hắn và biết
khá rõ việc
làm của hắn. Đại hội họp
xong, chúng tôi
truy hắn, hắn phải thú
thật và nói: Tao
thấy Đảng túng tiền
quá, nên định lừa
thằng Pháp lấy một
ít tiền cho Đảng
dùng! Chúng
tôi hỏi: Thế bây giờ
anh định thế nào? Hắn
nói: Tao sẽ viết bức thư
chửi thằng Pasquier [7]
một mẻ để cắt đứt quan hệ với
Pháp, rồi chúng
mày cho tao đi Liên
Xô ở với vợ tao. Đảng bảo
làm gì, tao cũng
làm. Chúng
tôi nghĩ ý kiến
này có thể tiếp
nhận được, vì đưa hắn đi
nhờ Liên Xô quản
thúc tốt hơn là để
hắn ở với mình. Hôm
sau, hắn đưa cho chúng
tôi một bức thư gửi
Pasquier đã viết sẵn, đại
ý: Tao suốt đời trung
thành với chủ nghĩa cộng
sản, chỉ vì thiếu tiền,
tao định lừa chúng
mày lấy một số tiền,
không ngờ chúng
mày lại ngu ngốc đến nỗi
cho đó là một cơ
hội có thể phá
được cách mạng. Cuối thư
hắn vẽ một anh đứng trật b…ra,
và đề bên cạnh một
câu “Thằng Pasquier
mút b... tao”.
Chúng tôi lấy bức
thư gởi thằng cho Pasquier, rồi
cho hắn đưa anh Văn đến
đây đợi ngày đi
Liên Xô. Nhưng việc
đi Liên Xô bây
giờ rất khó khăn, chưa
biết bao giờ mới có thể
đi được.
*
Nói xong việc
P.V., anh Nhỏ
nói tiếp: Lần
này tôi
đến đây cốt để
ổn định tư tưởng hắn;
ngoài ra
còn có
một nhiệm vụ nữa
là xem
xét tình
hình mấy anh em
bị trục xuất đến
đây như thế
nào? Về việc
này, anh
có ý
kiến gì
không?
Tôi nói:
Anh em ở Xiêm bị
trục xuất đến
có tám
người, trừ anh
Luân và
anh Đức là hai
người ở trong nước bị
khủng bố chạy sang
Xiêm từ năm
1931, tôi chỉ
gặp một vài
lần, nên
không biết
rõ. Còn
các anh
khác là
những đồng chí
và quần
chúng rất tốt.
Hiện nay ở đây
về mặt chính
trị đã
có ông Hồ
Học Lãm bảo
đảm, không ngại
gì, nhưng về
mặt kinh tế, nếu cứ để
ông Hồ phụ đảm
mãi chắc
không ổn. Theo
ý tôi,
nếu có thể
thì đưa anh em
đi Hoa Nam sắp xếp
công tác
cho họ, được cả
càng tốt, nếu
không được
thì cũng giải
quyết cho một số người
đồng thời nếu
có thể, anh
nên đưa
ông Hồ một số
tiền đỡ gánh
nặng cho ông ấy.
Anh Nhỏ nói:
Tôi đã
suy tính, ở Hoa
Nam trước mắt cũng
có nhiều
khó khăn,
có thể đưa đi
một số, còn nữa
vẫn phải để ở
đây và
vẫn phải nhờ ông
Hồ. Anh ở đây
cần nhờ ông Hồ
giúp anh em
kiếm việc làm,
mà nhất
là giúp
đỡ anh em về mặt sinh
hoạt chính trị.
Đồng thời phải
tìm cách
ổn định tư tưởng
và chú
ý theo
dõi hành
động của Hải. Việc
ông Hồ muốn
thành lập một
tổ chức cách
mạng để đăng ký
với đương cục ở
đây là
một sáng kiến
hay, anh có thể
cứ bàn với Hải
cùng
giúp ông
Hồ làm, nhưng
phải đảm bảo là
một tổ chức quần
chúng có
tính chất phản
đế dưới sự lãnh
đạo của Đảng.
Tôi cũng
đã nói
với Hải như vậy, anh
không ngại.
Mấy ngày sau,
anh Nhỏ rời Nam Kinh
mang theo các
anh Truật, Đại, Kỳ,
Trinh, Đông A
và Đỗ Đăng
Trình. Thế
là số người
ông Hồ phải phụ
đảm đã giảm đi
một nửa. Tôi
và mấy anh em
khác còn
ở lại Nam Kinh.
III. Sinh hoạt
và đấu tranh
ở Nam Kinh
Mùa đông
đã đến, vấn đề
trước tiên đặt
ra cho chúng
tôi là
vấn đề nhà ở
của anh em.
Nguyên khi anh
em ở Xiêm đến
phải tạm xếp ở nhờ
nhà một người
bần nông ở
thôn Tân
Dân, đối diện
với ấp Giang Môn
gần ga Hạ Quan,
cách nhà
ông Hồ độ
sáu, bảy
cây số.
Là một
cái nhà
có thể
nói là
dưới không
phên, trên
không tranh,
mùa hè
còn ở được,
mùa đông
thì không
tài nào
chống nổi rét.
Tôi và
anh Cáp mất hơn
một tháng chạy
khắp Nam Kinh để
tìm nhà,
cuối cùng
tìm được một
gian rẻ tiền ở trung
tâm thành
phố, cách
nhà ông
Hồ không xa lắm.
Mỗi tháng vừa
tiền nhà, tiền
điện nước phải trả
sáu đồng rưỡi.
Vấn đề nhà
xong, lại đến vấn đề
áo rét.
Anh em ở xứ
nóng đến, chẳng
ai có áo
rét cả.
Tôi nghĩ nếu ở
nhà ông
Hồ thì thật
là bất tiện,
đành phải
nói với Đặng
Nguyên
Hùng vay
nó một
ít tiền.
Nó trả lời
rằng: Mình
làm gì
có tiền
mà cho vay.
Nhưng hôm sau
nó đưa cho
bà Hồ Học
Lãm ba chục bạc
và nói
có vẻ nhắn cho
chúng tôi
biết: Chúng
nó là
cộng sản, chúng
nó đã
hiểu câu
“không lao động
thì không
được ăn”. Bây
giờ tôi
giúp
chúng nó
hai tháng, mỗi
tháng 15 đồng,
sau hai tháng
nếu chúng
nó không
kiếm được việc
làm thì
mặc kệ, tôi
không
giúp nữa.
Bà Hồ nhận tiền
và kể lại
câu nói
đó với
chúng
tôi.
Chúng tôi
nói:
Chúng tôi
hết sức cảm ơn
ông bà
đã tận
tình
giúp đỡ
chúng
tôi. Cường Để
không phải
là cách
mạng, được tin anh em
bị trục xuất đến
đây cũng
còn gửi một
trăm bạc để
giúp đỡ.
Còn thằng Đặng
Nguyên
Hùng ăn cơm
cách mạng, rồi
lại chửi cách
mạng, chúng
tôi không
cảm ơn nó
đâu.
Được tiền rồi,
tôi và
anh Cáp lại đi
khắp Nam Kinh để mua
áo. Mùa
đông, áo
rét tự
nhiên là
đắt, tiền không
đủ; gần cuối
mùa đông,
áo rét
hạ giá, mới mua
được mấy chiếc
áo cho anh em.
Việt Nam có
câu “đông
the, hè đụp”
nói lên
sự trái ngược
trong cuộc sống của
những người
cùng khổ. Lần
này qua việc
mua áo
rét cho anh em
mới thấy hết ý
nghĩa của câu
nói ấy.
*
Một hôm sau khi
ăn cơm trưa, ông
Hồ Học Lãm gọi
Hải và
tôi đến
nói chuyện: Anh
em chúng
mình ở
đây, nhiều người
chưa có việc
làm, sinh hoạt
khó khăn,
mà chính
trị lại không
có danh nghĩa.
Danh không
chính
thì ngôn
không thuận.
Trước tôi
đã bàn
với các anh
nên lập một tổ
chức cách mạng
đăng ký với
Trung ương Quốc
dân Đảng Trung
Quốc ở đây, như
vậy về danh nghĩa sẽ
được hợp pháp,
đồng thời chúng
ta yêu cầu họ
giúp đỡ, nếu họ
giúp cho được
như giúp bọn Vi
Đăng Tường
thành lập một
biện sự xứ ở đây
thì càng
tốt. Vậy các
anh đã
bàn tính
thế nào chưa?
Tôi và
Hải trả lời: Việc
này
chúng tôi
đã bàn
với các anh em,
thấy nếu làm
được như vậy
thì rất tốt.
Chúng tôi
dự định thảo một bản
điều lệ đưa cụ xem,
nếu cụ thấy được
thì
chúng ta
có thể bắt tay
vào hoạt động.
Ông Hồ tươi hẳn
nét mặt
lên bảo: Thế
thì các
anh thảo ngay đi, thảo
xong đưa mình
xem, rồi chúng
ta cùng
làm.
Mấy ngày sau,
Hải thảo xong bản điều
lệ bằng tiếng Việt,
tôi dịch ra
tiếng Trung Quốc, nội
dung gần giống như
điều lệ của Phản đế
đồng minh, nhưng lấy
tên hội
là Việt Nam
độc lập đồng minh
hội.
Ông Hồ xem xong
khen tốt, nhưng quen
theo kinh nghiệm Trung
Quốc thì những
tổ chức có
tên dài
thường hay ghi
rõ cả
cái tên
gọi tắt, nên
ông đề nghị sau
chữ Việt Nam độc
lập đồng minh hội
nên viết
thêm mấy chữ
“gọi tắt là Việt
Minh”.
Chúng tôi
đồng ý
và đưa ra ngay
một kế hoạch hoạt động
cụ thể mà
chúng tôi
đã trao đổi
trước:
- Ông Hồ sẽ viết
thư mời Nguyễn Hải
Thần và một
vài người ở
Quảng Châu
lên đại biểu cho
Việt kiều ở Quảng
Đông. Còn
ở Nam Kinh thì:
- Hồ Học Lãm,
Lê Thiết
Hùng: Đại biểu
Việt kiều ở Nam Kinh.
Đặng Nguyên
Hùng nếu tham
gia thì
vào nhóm
Nam Kinh, không
tham gia thì
thôi;
- Lê Quốc Trụ,
Từ Chí
Kiên: Đại biểu
Việt kiều ở Vân
Nam;
- Đặng Văn Cáp
và tôi:
Đại biểu Việt kiều ở
Xiêm;
- Hải: Đại biểu Việt
kiều ở Pháp;
- Cao Hồng Lĩnh: Đại
biểu đoàn thể
trong nước.
Không bao
lâu, điều lệ
được sửa chữa hẳn hoi
cả chữ Việt cũng như
chữ Trung Quốc.
Nguyễn Hải Thần cũng
đã mang một
người Việt kiều họ Vi
từ Quảng Châu
lên.
Chúng tôi
đưa điều lệ cho Nguyễn
Hải Thần xem và
nói rõ
mục đích
yêu cầu như
chúng tôi
đã bàn.
Nguyễn Hải Thần
tán
thành ngay
và rất vui
mừng, buột mồm
nói một
câu:
Chúng ta
làm thế
này nhất định
Trung ương Quốc
dân đảng Trung
Quốc sẽ phải
giúp. Lập được
Biện sự xứ, tôi
sẽ ở đây hoạt
động, không trở
về Quảng Châu
làm cái
nghề xem số như trước
nữa.
*
Đầu năm 1936,
ông Hồ Học
Lãm viết thư
xin Trung ương Quốc
dân đảng tiếp
kiến. Ông Hồ Học
Lãm, Nguyễn Hải
Thần, Hải, Lê
Quốc Trụ và
tôi cùng
đi. Đến trụ sở Trung
ương Quốc dân
đảng Trung Quốc, một
đại biểu của Trần Lập
Phu, Bộ trưởng Bộ
tuyên truyền của
Quốc dân đảng
Trung Quốc lúc
đó ra tiếp.
Nghe trình
bày xong,
ông ta nhận văn
kiện, hứa sẽ đăng
ký và
báo cáo
với Bộ trưởng. Thế
là việc
thành lập Việt
Nam độc lập đồng
minh hội
đã gặp thuận
lợi bước đầu.
Cuộc hội nghị để
tuyên bố
thành lập Việt
Minh được chuẩn bị
gấp.
Qua việc giao thiệp,
hội nghị được tổ chức
tại phòng họp
của Đảng bộ khu phố
của Quốc dân
đảng Trung Quốc. Tham
dự cuộc họp về
phía ta
có ông Hồ
Học Lãm, Nguyễn
Hải Thần và
những anh em
khác độ 20
người. Về phía
Trung Quốc có
hai người đại biểu của
Trung ương Quốc
dân đảng Trung
Quốc. Vi Đăng Tường
đại biểu Biện sự xứ Việt
Nam Quốc dân
đảng ở Nam Kinh
cũng được mời đến dự.
Đặng Nguyên
Hùng từ chối
không tham gia.
Hội nghị bắt đầu bằng
lời chào mừng
của ông Hồ Học
Lãm, rồi giới
thiệu quá
trình hoạt động
của việc lập hội, việc
Trung ương Quốc
dân đảng Trung
Quốc đã đăng
ký điều lệ, rồi
đọc điều lệ và
tuyên ngôn
thành lập. Đại
biểu Trung ương Quốc
dân đảng Trung
Quốc [8]
phát biểu
ý kiến, đại
ý tỏ vẻ hoan
nghênh và
có nhắc đến di
chúc Tôn
Trung Sơn là
giúp đỡ
các dân
tộc nhỏ yếu, nhưng
trong cách
trình
bày vẫn lộ ra
cái ý
muốn nói Việt
Nam trước kia
là thuộc Trung
Quốc. Vi Đăng Tường
cũng phát biểu
ý kiến. Hội
nghị giới thiệu mấy
người phụ trách
[9]
, đứng đầu là
ông Hồ Học
Lãm, Nguyễn Hải
Thần và mấy
người trong anh em
chúng
tôi. Cách
tổ chức giản đơn như
vậy, mục đích
là cốt hợp
pháp hóa
thêm một bước về
mặt chính trị
của Việt Minh,
mà thực chất
là để hợp
pháp hóa
địa vị chính
trị của anh em ta ở
Nam Kinh trong
lúc đó.
Để biểu thị sự hoạt
động tích cực
của Việt Minh,
ông Hồ Học
Lãm tự xuất
tiền, ra một tờ tạp
chí nhỏ bằng
chữ Trung Quốc lấy
tên là Việt
Thanh, số lượng
phát
hành chỉ độ một
trăm cuốn, cốt để gửi
cho các cơ quan
Quốc dân đảng
Trung Quốc ở Nam Kinh,
cũng có gửi cho
Việt kiều ở Quảng
Châu và
Côn Minh độ
vài chục cuốn.
*
Việc ông Hồ Học
Lãm đứng ra lập
Việt Minh
là một việc
có tác
dụng rất quan trọng.
Trên kia
tôi đã
nói về lai lịch
của ông, nay
nói thêm
một vài điểm để
thấy rõ
cái tác
dụng đó:
Sau khi phong
trào Đông
Du thất bại, ông
Hồ Học Lãm ở
Nhật về Trung Quốc,
lặn lội nhiều nơi
nhưng phần nhiều
là ở gần cụ
Phan Bội Châu
cho đến lúc cụ
bị bắt. Năm 1927,
Tưởng Giới Thạch ra
mặt phản cách
mạng, các đồng
chí
chúng ta ở
Trung Quốc gặp rất
nhiều khó khăn.
Lúc này
ông ở Nam Kinh,
sau xin được
làm tham mưu ở
Bộ Thanh mưu Tưởng
Giới Thạch với cấp
trung tá.
Ông không
tham gia Thanh
niên cách
mạng đồng chí
hội, mà cũng
không tham gia
Đảng cộng sản, nhưng
các đồng
chí ta mỗi khi
gặp khó khăn
nguy hiểm chạy đến
tìm ông,
ông biết
là cộng sản
nhưng vẫn che chở
và giúp
đỡ một cách
tích cực.
Thí dụ năm
1930, đồng chí
Tản Anh [10]
lấy tên
là Lê Bạt
Quần đến Vân Nam
hoạt động, bị bọn Vũ
Hồng Khanh báo
cho đương cục
Vân Nam bắt.
Ông biết tin,
liền xin gặp Tổng tham
mưu trưởng là
Chu Bối Đức xin
đánh điện cho
Long Vân bảo
tha. Chu Bối Đức
nói: Thanh
niên Việt Nam ở
Trung Quốc hiện nay
đều là cộng sản
cả. Ông trả lời
một cách thẳng
thắn: Người Việt Nam
chúng tôi
đến Trung Quốc cốt
là nhờ Trung
Quốc giúp
đánh Tây.
Quốc dân đảng
giúp thì
họ theo Quốc dân
đảng, Cộng sản đảng
giúp thì
họ theo Cộng sản đảng.
Tôi không
biết Lê Bạt Quần
có phải
là cộng sản
không, nhưng
tôi biết
rõ anh ta
là ở Nhật về,
được ông Cường
Để, một ông vua
Việt Nam lưu vong ở
Nhật giao phó
nhiệm vụ, như vậy chắc
chắn anh ta là
một người yêu
nước. Tôi xin
Tổng tham mưu trưởng
đánh điện cho
Chủ tịch Long
Vân yêu
cầu tha cho anh ta.
Chu Bối Đức ngẫm nghĩ
một hồi rồi
nói: Ông
nói cũng
có lý.
Vậy ông thảo bức
điện, tôi sẽ cho
gửi đi cho Long
Vân. Ông
Hồ thảo ngay bức điện,
được Chu Bối Đức
phê chuẩn rồi
gửi đi. Đồng
chí Tản Anh
khỏi bị cầm tù
và được trục
xuất qua Miến Điện
theo sự yêu cầu
của đồng chí,
sau một thời gian đồng
chí đã
tìm cách
về Xiêm tiếp tục
hoạt động cách
mạng.
Lại thí dụ như
năm 1933, đồng
chí Đông
A bị hiến binh bắt ở
Nam Kinh, đồng
chí khai
là đến
đây để
tìm ông
Hồ Học Lãm. Bọn
hiến binh hỏi
ông, ông
nói: Người Việt
Nam ở Trung Quốc biết
tôi rất nhiều,
nhưng tôi
không biết họ,
vậy phải cho tôi
gặp mặt đã
tôi mới trả lời
được. Khi gặp đồng
chí Đông
A, ông
không quen nhưng
biết thật là
người Việt Nam từ
Vân Nam đến,
ông cứ đảm bảo
cho được tha và
sau còn
giúp cho
vào học trường
kỵ binh của Quốc
dân đảng Trung
Quốc.
Ông làm
tham mưu cho Quốc
dân đảng ở Nam
Kinh đã
tám năm, nhưng
không được thăng
chức, cứ vẫn là
cấp trung tá.
Có người bảo
ông nên
nhờ bạn đồng học
đã làm
quan to giới thiệu để
được đề bạt. Ông
trả lời: Tôi
làm việc ở
đây chẳng qua
chỉ cốt kiếm cơm ăn để
sống mà
thôi. Có
cơm ăn là được,
“kẻ sĩ chẳng
thà chịu chỗ ở
nơi ngòi
rãnh” [11]
, chứ tôi
không muốn nhờ
ai đề bạt.
Lại như năm 1940,
ông bị bệnh nặng
nằm chữa ở bệnh viện
Quế Lâm (Quảng
Tây), bạn học
của ông
là Bạch
Sùng Hy đến
thăm, gọi Viện trưởng
bệnh viện ra bảo phải
hết sức cứu chữa cho
ông, dù
phải dùng thứ
thuốc quý mấy
cũng cứ dùng,
hết bao nhiêu
tiền do tôi
(Bạch Sùng Hy)
phụ trách.
Ông cảm ơn Bạch
và nói:
Cách mạng Việt
Nam lúc
này đang cần
được giúp đỡ,
ông là
một nhân vật
lớn, tôi mong
ông giúp
cách mạng Việt
Nam, còn
cá nhân
tôi thì
những đồng học
khác
giúp cũng đủ.
Ông không
phải là cộng
sản. Ông
là một người
nho học, nhưng
đã thực
hành
đúng mặt
tích cực của
một số giáo
điều của đạo Nho như
“ôn, lương, cung ,
kiệm, nhượng”,
“lễ, nghĩa,
liêm, sỉ,
nhân, ái”
v.v … và
ông đã
giúp Đảng ta
và các
đồng chí
chúng ta rất
nhiều.
Ông không
phải là cộng
sản, điều này
Quốc dân đảng
Trung Quốc biết
rõ trăm phần
trăm. Ông đứng
ra lập Việt Minh
trong lúc
này đối với
chúng ta
mà nói
là một sự che
chở rất có hiệu
lực.
Nhưng thời gian
chúng tôi
vận động thành
lập Việt Minh, cũng
là thời gian
Tưởng Giới Thạch đang
chống Cộng một
cách ác
liệt; mặc dầu phong
trào đòi
chống Nhật đang lan
tràn khắp Trung
Quốc, nhưng khẩu hiệu
phản dộng của
chúng là
“Tiên yên
nội, hậu nhương
ngoại”, hành
động của chúng
là thà
giết oan một trăm
người còn hơn
bỏ sót một
tên cộng sản.
Riêng ở Nam
Kinh, thì Vũ
Hoa Đài, nơi
thường xử bắn những
người cộng sản,
luôn luôn
có tiếng
súng nổ.
Đã vậy,
mà trong
đám Việt Nam
với nhau, những người
tố cáo
chúng tôi
là cộng sản
không phải
là không
có. Vi Đăng
Tường căm thù
chúng ta
đã lôi
kéo mấy người
“đồng chí” của
hắn; Đặng Nguyên
Hùng đã
mưu toan chia rẽ
chúng ta mấy
lần đều thất bại
nên cũng hết sức
căm thù. Bọn
này
chính là
bọn cung cấp
tình báo
cho Quốc dân
đảng Trung Quốc để
phá hoại Việt
Minh. Vì vậy,
tờ Việt thanh
chỉ ra được ba bốn số,
ông Hồ Học
Lãm hết tiền
phải đình bản;
Nguyễn Hải Thần tuy
tích cực chạy
vạy hết chỗ này
đến chỗ khác
đều không
có kết quả,
cuối cùng phải
đưa người Việt kiều họ
Vi cùng về
Quảng Đông. Thế
là mọi hoạt
động đình chỉ.
Cái tên Việt
Nam độc lập đồng
minh hội chỉ nằm
trong sổ đăng
ký của Văn
phòng Trung
ương Quốc dân
đảng Trung Quốc
mà thôi.
Nhưng sau đó
bốn năm, cuối năm
1940, tình
hình
cách mạng
đã thay đổi,
được sự lãnh
đạo trực tiếp của
Bác Hồ, Biện sự
xứ hải ngoại của Việt
Minh được
thành lập ở Quế
Lâm, ông
Hồ Học Lãm
là Chủ nhiệm,
anh Phạm Văn Đồng
là Phó
chủ nhiệm. Hội
Trung–Việt văn
hóa
cách mạng
đồng chí được
thành lập,
ông Hồ Học
Lãm và
anh Đồng đều tham gia
Ban lý sự với
tư cách
là
chánh,
phó Chủ nhiệm Việt
Minh, thì
cái tên Việt
Minh mới nổi bật
lên và
cái tác
dụng tích cực
của nó mới được
phát huy một
cách
thích
đáng.
Việc Quốc dân
đảng Trung Quốc
không
giúp đỡ
cách mạng Việt
Nam là việc
mà chúng
tôi đã
lường trước. Vì
vậy trong khi hoạt
động, chúng
tôi vẫn
luôn luôn
nghĩ đến việc
tìm kiếm việc
làm cho anh em.
Một hôm,
chúng tôi
bảo anh Đức nói
chuyện riêng với
Đặng Nguyên
Hùng, yêu
cầu hắn giúp
tìm việc
làm. Thấy anh
Đức khù khờ,
tưởng có thể
lôi kéo
được, hắn nhận sẽ
giúp, nhưng đề
ra mấy điều kiện rất
đểu cáng. Anh
Đức báo
cáo lại với
chúng
tôi, mọi người
nghe đều căm tức, nhất
trí quyết định
phải vạch mặt hắn cho
mọi người thấy
rõ.
Một buổi tối sau Tết
âm lịch, ở tầng
dưới nhà
ông Hồ Học
Lãm anh em
đã đến
đông đủ. Nguyễn
Hải Thần lúc
đó chưa về
Quảng Đông cũng
có mặt. Kế
hoạch đã định.
Chúng tôi
phái một người
lên tầng
trên mời
ông Hồ và
nhờ ông gọi Đặng
Nguyên
Hùng
cùng xuống, anh
em có việc muốn
nói. Ông
Hồ xuống thấy anh em
đông đủ tỏ vẻ
vui mừng, Đặng
Nguyên
Hùng thấy anh
em đông đủ
có vẻ lấm
lét, nhưng
làm ra vẻ
bình tĩnh, hắn
cũng ngồi xuống.
Anh Đức phát
ngôn trước:
Thưa cụ Hồ, cụ Nguyễn
và tất cả mọi
người! Anh em
chúng tôi
ở đây đã
lâu, không
kiếm được việc
làm, cứ phải
nhờ vào cụ Hồ
mãi,
chúng tôi
rất lấy làm
khó coi. Mới
rồi, tôi
có nhờ
ông Đặng
Nguyên
Hùng
giúp tìm
việc làm.
Ông ấy nhận sẽ
giúp, nhưng đề
ra mấy điều kiện như
sau:
- Nếu bằng
lòng
thì ở với
ông ấy, phụ
trách
làm cơm
nước, giặt quần
áo
và
quét dọn
nhà cửa. Sẽ
ăn cơm của
ông ấy,
nhưng phải ăn
riêng.
- Mỗi tháng
ông ấy sẽ
trả hai đồng bạc
công, nhưng
không lấy
ngay từng
tháng,
mà cứ để
ông ấy giữ,
lúc
nào đi
đâu,
ông ấy sẽ
tính đưa cả
cho một
lúc.
- Ở với ông
ấy thì
không được
xem sách
báo
và đi lại
với anh em.
- Ông ấy
còn
nói rằng,
trước mặt chưa đến
ở với ông ấy
ngay, mà
phải chờ đến khi
nào anh em
rời Nam Kinh
thì
tôi sẽ lấy
cớ gì
đó xin ở
lại, sau mới đến ở
với ông ấy,
để cho ông
ấy khỏi mang tiếng
chia rẽ. Thật
là những
điều kiện sỉ nhục.
Không ở với
ông ấy
thì cứ phải
nhờ vả cụ Hồ
mãi,
mà ở với
ông ấy
thì phải bỏ
anh em, bỏ
cách mạng.
Xin hai cụ
và anh em
cho ý kiến
nên xử
trí như thế
nào?
Đặng Nguyên
Hùng đứng phắt
dậy nói ngay:
Mày đã
mửa hết chưa? Những
điều tao nói
với mày, tao
có thể
nói với cả
thiên hạ.
Nói xong, hắn
định chuồn, nhưng anh
Cáp, anh Lộc,
anh Văn đã đứng
ngáng trước
cánh cửa
đã khép
và nhìn
chằm chằm vào
mặt hắn. Hắn ngồi im
không dám
động.
Theo sự phân
phối trước của anh em,
một người đứng dậy
nói:
Anh Đặng Nguyên
Hùng! Những
điều anh nói
với cách mạng
anh dám
nói với cả
thiên hạ,
còn những điều
anh nói với mật
thám, với đế
quốc, không biết
anh có
dám nói
với thiên hạ
không? Chắc anh
phải giấu kín.
Hôm nay
nhân có
hai cụ và anh
em đông đủ ở
đây, tôi
phải nói
rõ để mọi người
khỏi nhầm.
Anh cùng xuất
dương qua Xiêm
với nhiều người [12]
, người ta đều
làm cách
mạng, còn anh
thì trốn
tránh, luồn lọt
để được đi học với
lý do học được
nhiều kiến thức sẽ
giúp dân
giúp nước được
nhiều hơn. Nhưng anh
đã đi học ở một
trường đạo Cơ đốc của
Mỹ, rồi về tuyên
truyền đạo Cơ đốc,
và anh
đã viết thư cho
toàn quyền
Đông Dương xin
về đầu hàng.
Toàn quyền
Đông Dương trả
lời bắt anh phải lập
công chuộc tội,
thế là anh nhận
làm mật
thám cho thằng
Đỗ Hùng,
lãnh sự của
Pháp ở
Băng-cốc, mỗi
tháng lĩnh năm
mươi đồng bạc
Xiêm. Khi anh
tốt nghiệp trường lục
quân của
Xiêm được
làm chuẩn
úy đóng
ở Khôn-quảng
thuộc tỉnh U-đon, anh
đã bí
mật đưa tin về
tình
hình
cách mạng Việt
Nam cho Pháp.
Việc bại lộ, anh thấy
ở Xiêm
không làm
ăn được nữa, phải chạy
qua Trung Quốc, lại
lừa cụ Hồ xin việc cho
anh.
Việc làm của
anh, chúng
tôi thấy
rõ như
nhìn vào
bàn tay của
mình, nhưng
chúng tôi
tưởng anh đã xa
rời địch và
yên phận
làm ăn
thì thôi,
không nói
làm gì
nữa. Ai ngờ anh cứ
tiếp tục hoạt động
chống cách
mạng: Lúc anh
em ở Xiêm mới bị
trục xuất đến, anh
chắc rằng họ sẽ
oán
trách
cách mạng,
nên đã
nói xấu
cách mạng
và bị anh em
phản kích lại.
Lúc anh gặp mấy
anh em Vân Nam,
anh chắc rằng họ
không ủng hộ
cách mạng,
nên đã
tìm cách
lôi kéo
và bị
các anh ấy vạch
mặt. Anh giúp
cụ Hồ ba chục bạc để
mua áo
rét cho anh em,
anh đã
nói những
câu rất lếu
láo, mà
chúng tôi
không
thèm trả lời
lại. Đến lần
này, anh Đức
nhờ anh kiếm việc, anh
lại đưa ra mấy điều
kiện rất đểu
cáng. Anh tưởng
như vậy có thể
làm nhục được
người cách mạng
chăng? Không
đâu! Như vậy anh
chỉ tự làm nhục
anh mà
thôi. Tôi
khuyên anh từ
nay cứ yên phận
làm ăn, đừng
giở những trò
dơ bẩn ấy ra nữa.
Người nói vừa
dứt lời, Đặng
Nguyên
Hùng thấy
cánh cửa
đã mở,
có thể
thoát
thân được, liền
nói gượng một
câu: “Tôi
không
thèm nghe
chuyện các
anh”, rồi lách
cánh cửa,
cút thẳng
lên gác.
Nguyễn Hải Thần
cúi mặt
không nói
một câu.
Ông Hồ Học
Lãm lắc đầu,
nhìn hút
theo cái
bóng đen của
hắn tỏ vẻ khinh bỉ.
Kế hoạch xin việc
làm không
có kết quả, anh
em vẫn phải dựa
vào sự
giúp đỡ của
ông Hồ Học
Lãm trong điều
kiện rất túng
bấn, vậy cần phải sắp
xếp thế nào cho
thật hợp lý để
giảm nhẹ phần phụ đảm
cho ông Hồ được
chừng nào hay
chừng ấy. Chúng
tôi đi
tìm một gian
nhà nhỏ cho
ông Hồ ở Nhị
Lang Miếu, đồng thời
xếp anh Văn đến nấu
cơm ở đó. Như
vậy, ông Hồ sẽ
bớt được một số tiền
thuê nhà
và người phục
vụ. Hai anh em
Vân Nam
còn ở lại
đã đi
làm thợ giặt ở
một hiệu giặt quần
áo của người
Hoa kiều từ trước rồi.
Còn sáu
người nữa là
Hải, Cáp, Đức,
Lộc, Luận và
tôi thì
tập trung ở gian
nhà nhỏ mới
thuê được trong
mùa rét
vừa qua. Thế là
gánh nặng của
ông Hồ bớt đi
được thêm một
phần và
cách ăn ở của
anh em được xếp đặt
hợp lý hơn
trước. Về việc
này, đối với
chúng tôi
thì nghĩ như
thế, nhưng đối với Hải
thì lại
khác. Số tiền
được ông Hồ
và Lê
Thiết Hùng
giúp lúc
này mỗi
tháng là
hai mươi đồng, nhưng
đã phải trả mất
sáu đồng rưỡi
tiền nhà
và tiền điện
nước, còn mười
ba đồng rưỡi là
tiền ăn của sáu
người, thì mức
sống nhất định
là thấp. Hải
là người
thích ăn chơi,
lại ở trong
hoàn cảnh như
thế, anh ta cũng phải
tự kiềm chế một phần
nào, nhưng vẫn
thường thường
tránh anh em đi
ăn riêng ở
ngoài,
và thường
thường tỏ vẻ bất
mãn.
Vào khoảng
tháng
tám là
tháng
nóng nhất ở Nam
Kinh, vừa nóng
nực, vừa kham khổ, Hải
không thể chịu
được nữa, phải
nói thật với
chúng tôi
là hắn muốn đi
Thượng Hải và
xin được giúp
đỡ. Chúng
tôi đồng
ý và
nói riêng
với ông Hồ
giúp cho hắn 15
đồng để đi.
Sau này được
biết, hắn đến Thượng
Hải dạy nhảy cho
các cô
gái nhảy ở hộp
đêm. Năm 1937,
xem báo trong
nước thấy hắn bị bắt
và bị kết
án mười năm khổ
sai, mười năm cầm cố.
Tội nặng như thế, chắc
là vì
bức thư viết cho
Pasquier ở Hương Cảng
từ hồi năm 1935.
[1]tức
Trụ đen
[2]tức
Long Cong
[3]Hoàng
Sâm
[4]tức
Hà Huy Tập
[5]Ban
Chấp hành Trung
ương Đảng Xiêm
lúc đó
gọi tắt là
Xiêm ủy
[6]ý
muốn chỉ các
đồng chí trong
Ban chỉ huy ở
ngoài của Đảng
[7]quan
toàn quyền
Đông Dương
lúc đó
[8]thực
sự là người phụ
trách của Đảng
bộ khu phố
[9]giới
thiệu chứ không
bầu cử, xem như việc
đã rồi
[10]quê
ở huyện Thanh Chương
tỉnh Nghệ An,
tên thật
là Lê
Hồng Sơn
[11]dịch
nghĩa câu chữ
Hán trong
sách Mạnh Tử:
“Sĩ ninh tử ư
câu hác”
[12]hắn
xuất dương cùng
một thời gian với
các đồng
chí Lê
Hồng Phong, Hồ
Tùng Mậu
------------------------------------------
|
IV.
Mất mối liên
lạc với Xiêm
ủy, ở lại Trung Quốc
Vào khoảng cuối
tháng
chín năm 1936,
anh Phùng
Chí Kiên,
người phụ trách
việc liên lạc
của Ban chỉ huy ở
ngoài của Đảng,
gửi tiền và
viết thư cho tôi
gọi đi Hương Cảng.
Đến đó, anh
chuẩn bị cho một chỗ ở
chung với một gia
đình công
nhân, phải
góp tiền
nhà mỗi
tháng bốn đồng.
Dẫn đến giới thiệu với
chủ nhà xong,
anh dắt tôi đi
ăn cơm và
nói chuyện:
Mới rồi, Xiêm ủy
thông tri cho
biết ở đó đang
bị khủng bố nặng, phần
nhiều cơ sở Việt kiều
ở Đông Bắc bị
phá vỡ,
cán bộ chủ chốt
bị bắt hầu hết, đề
nghị chúng
tôi xếp cho anh
về Xiêm ngay.
Bây giờ chỉ chờ
giao thông ở
Xiêm đến
là anh
có thể đi. Chỗ
anh ở hiện nay
là nhà
một người công
nhân tốt, nhưng
anh phải ra vẻ
là một người
thất nghiệp đang chờ
xin việc làm,
vì chúng
tôi đã
nói với họ như
thế.
Để ra vẻ là
người đi xin việc, cứ
mỗi ngày
sáng dậy
là tôi
phải đi, trưa mới về,
nghỉ độ vài ba
giờ, rồi chiều lại đi,
có bữa đến
chín mười giờ
tối mới về. Thỉnh
thoảng gặp anh
Phùng
Chí Kiên
một lần, đều
nói chưa
có tin tức. Cứ
chờ như thế độ khoảng
hơn một tháng,
vẫn không
có tin tức
gì cả, anh
Phùng
Chí Kiên
nói ở đây
chờ lâu
quá không
nên, anh
hãy về Nam Kinh
đã. Tôi
nói nếu
còn chờ đợi tin
tức bên
Xiêm, thì
tốt hơn là cho
tôi về Quảng
Châu để hễ
có tin tức của
Xiêm ủy
là thu xếp việc
đi Xiêm được
nhanh chóng.
Anh Phùng
nói mới rồi
chúng tôi
đã gọi
đám anh
Cáp ở Nam Kinh
về Quảng Châu
mấy người chưa biết
sắp xếp công
việc đã ổn
chưa, nếu anh về nữa
chắc sẽ thêm
khó khăn. Hiện
nay ở Nam Kinh
còn anh Văn,
anh nên về Nam
Kinh giúp đỡ
anh ấy.
Thế là
tôi lại về Nam
Kinh.
*
Đến Nam Kinh, vừa
khéo gặp dịp
Giao thông binh
đoàn đang
có kỳ thi để
tuyển thêm học
binh, tôi liền
nhờ anh Lê Thiết
Hùng giới thiệu
cho vào Giao
thông binh
đoàn để học
nghề lái xe.
Vào Giao
thông binh
đoàn rồi phải
theo đơn vị đi tập kết
và huấn luyện ở
Vu Hồ, tỉnh An Huy.
Được độ hai
tháng,
thì nhận được
điện của ông Hồ
Học Lãm gọi về
Nam Kinh, bụng bảo dạ
rằng có lẽ
có tin tức
gì từ Hương
Cảng. Nhưng khi về Nam
Kinh gặp ông,
thì ra
ông đã
xin cho được việc
làm “tư thư” ở
Bộ Tham Mưu nơi
mà ông
đang làm tham
mưu ở đó. Tư
thư là một chức
vụ chuyên
làm việc sao
chép;
lúc mới
vào,
đóng cấp chuẩn
úy, sau
vài
tháng được
lên cấp thiếu
úy, lương mỗi
tháng hơn ba
mươi đồng. Thế
là về mặt sinh
hoạt đã
có thể tự
túc.
Ở Trung Quốc từ năm
1931, Nhật chiếm
Đông Bắc lập ra
Mãn Châu
quốc, phong
trào chống Nhật
ngày
càng lên
cao. Nhất là từ
cuối năm 1935, Hồng
quân hoàn
thành thắng lợi
cuộc Vạn lý
trường chinh. Đảng
Cộng sản Trung Quốc đề
ra khẩu hiệu
“Đình chỉ nội
chiến, đoàn kết
chống Nhật” lại
càng được
nhân dân
ủng hộ mạnh. Ở Thượng
Hải, các
ông Thẩm
Quân Nho,
Trâu Thao Phấn,
Sa Thiên
Lý, Vương Tạo
Thời, Chương Nại
Khí, Lý
Công Phác
và bà Sử
Lương công khai
tuyên truyền
liên Cộng chống
Nhật, bọn Tưởng bắt
giam, buộc tội
là thân
Cộng, về đưa ra xử
án tại Tô
Châu. Vụ
án này,
nhân dân
gọi là vụ
án “bảy
quân tử”. Trong
phiên tòa
xứ án, một
người quân tử
đã nói:
Người cộng sản ăn cơm,
chúng ta cũng
ăn cơm, sao người cộng
sản biết chống Nhật,
mà chúng
ta lại không
biết chống Nhật. Trong
hàng ngũ của
Tưởng Giới Thạch cũng
có sự
phân hóa
sâu sắc.
Tháng 12 năm
1936, Trương Học Lương
bắt Tưởng Giới Thạch ở
Tây An,
đòi phải cam
kết chống Nhật,
và Tưởng cũng
đã cam kết rồi
mới được tha.
Tuy vậy, Nam Kinh vẫn
là một chỗ rất
đen tối, sách
báo tiến bộ hầu
như không lọt
vào được, ngay
ở đó có
cuộc biểu tình
của hàng vạn
học sinh và
sinh viên, mắt
mình
trông thấy
rõ ràng,
nhưng các
báo Nam Kinh
không đăng lấy
một chữ! Chỉ thỉnh
thoảng được đọc tờ Thế
giới tri thức
và một
vài tờ
báo tiến bộ
xuất bản ở Thượng Hải
thì mới biết
rõ tình
hình thế giới
và sự
phát triển về
văn hóa
và tư tưởng
tiến bộ ở Trung Quốc
trong lúc
đó.
Tháng 7-1937,
quân Nhật bịa
chuyện một người
lính Nhật mất
tích,
kéo quân
đến Lư Câu Kiều,
uy hiếp thành
phố Bắc Kinh. Dưới sức
ép của
nhân dân,
Tưởng Giới Thạch phải
tuyên bố
kháng chiến.
Nhưng tháng 8
năm 1937, quân
Nhật chiếm Thượng Hải,
rồi phá vỡ
pháo đài
Giang Âm, Tưởng
Giới Thạch liền quyết
định bỏ Nam Kinh.
Chính phủ
và các
cơ quan khác
đều dời đi
Trùng
Khánh,
riêng Bộ Tham
mưu bấy giờ đổi
tên là Bộ
Quân lệnh,
thì dời đi Vũ
Hán. Tôi
là tư thư trong
Bộ Quân lệnh, tự
nhiên là
phải đi theo cơ quan
đến Vũ Hán.
*
Ở Vũ Hán,
công việc sao
chép tăng
lên rất nhiều,
viết giấy bản bằng
bút lông,
viết giấy than bằng
bút chì,
viết giấy sáp
bằng bút sắt,
văn kiện hàng
đống, có khi
viết không kịp.
Phải làm việc
cả ban đêm, rất
mệt nhọc. Nhưng
có một điều
thú vị
là sau khi
Thượng Hải mất, Vũ
Hán đã
trở thành nơi
trung tâm văn
hóa của Trung
Quốc. Nhiều nhân
sĩ và người
làm công
tác văn
hóa tiến bộ đều
tập trung ở đây.
Dưới hình thức
“Quốc - Cộng
liên hợp”, bọn
Quốc dân đảng
không thể
không cho
các báo
và các
hiệu sách của
Đảng cộng sản
và của những
người có xu
hướng chính trị
tiến bộ ra mắt quần
chúng. Vi vậy,
mỗi ngày, ăn
cơm trưa xong,
tôi đều đến tiệm
nước chè, mua
một tờ Tân hoa
nhật báo, cơ
quan ngôn luận
của Đảng Cộng sản
Trung Quốc, vừa uống
nước vừa đọc
báo, đọc cho kỳ
hết; ăn cơm tối xong
lại đến Tân Hoa
thư điếm hoặc Sinh
Hoạt thư điếm
tìm sách
xem, xem xong thấy
quyển nào cần
đọc kỹ lại thì
mua một quyển. Thời kỳ
này, tôi
đọc được khá
nhiều sách,
nên đối với
tình
hình thế giới,
đối với tiền đồ của
cuộc kháng Nhật
của nhân
dân Trung Quốc
đã hiểu được
rõ hơn, đối với
chính trị kinh
tế học, triết học
và các
thường thức về khoa
học xã hội, đối
với chủ nghĩa
Mác
–Lê-nin đều
có những thu
hoạch nhất định.
Mùa hè
năm 1938, vào
khoảng tháng
sáu, anh
Phùng
Chí Kiên
đến Vũ Hán, cho
biết sự liên lạc
với Đảng Xiêm
đã hoàn
toàn dứt hẳn.
Anh bàn với
tôi sẽ đi gặp
đồng chí Diệp
Kiếm Anh để
thông báo
về việc Trần
Báo và
giới thiệu anh Văn
và tôi đi
học ở Diên An.
Trần Báo khi ở
Xiêm tên
gọi là Choắt,
chuyên
làm việc
phiên dịch cho
các đồng
chí ta ở trong
Xiêm ủy. Năm
1934, được phái
đi gặp các đồng
chí trong Ban
chỉ huy ở ngoài
của Đảng để báo
cáo công
tác, nhưng
đã không
làm tròn
nhiệm vụ mà lại
còn tham
ô tiền Đảng. Năm
1937, các đồng
chí cán
bộ ta ở Xiêm đều
bị bắt, hắn ở Băng-cốc
càng lăng
nhăng, Xiêm ủy
phái hắn đưa
bốn chục thanh
niên Hoa kiều về
nước tham gia
Tân tứ
quân. Nhưng hắn
đã bỏ anh em ở
Hương Cảng rồi đi lung
tung, anh em chờ
mãi, hết tiền
ăn, phải kéo
nhau về Quảng
Châu, có
người bất đắc dĩ phải
xin gia nhập
quân đội Dư
Hán Mưu,
đã không
được kháng
chiến mà
còn bị đối xử
theo kiểu phát
xít. Năm 1938,
hắn đến Hán
Khẩu gặp đồng
chí Diệp Kiếm
Anh, khoe là
Hoa kiều ở Xiêm
về nước kháng
chiến, được đồng
chí Diệp Kiếm
Anh tiếp đãi tử
tế, và
có đưa cho hắn
một cái danh
thiếp, nên sau
đó hễ gặp
các đồng
chí là
hắn đưa danh thiếp của
đồng chí Diệp
Kiếm Anh ra khoe
khoang.
Anh Phùng
Chí Kiên
kể tất cả lai lịch
và hành
động của Trần
Báo cho đồng
chí Diệp Kiếm
Anh nghe, và đề
nghị chú
ý hắn. Tiếp
đó, nói
đến chuyện giới thiệu
anh Văn và
tôi đi học ở
Diên An. Đồng
chí Diệp Kiếm
Anh tỏ lời hoan
nghênh và
nói sẽ giao cho
đồng chí Trần
Gia Khang gặp
chúng tôi
để bàn cụ thể.
Sau mấy lần bàn
bạc với đồng Trần Gia
Khang, tôi xin
thôi việc tư thư
ở Bộ Quân lệnh
và đưa anh Văn
đến cùng nằm
chờ ở Biện sự xử
Bát lộ
quân,
đóng ở Đại
Thạch Dương
Hàng. Nằm chờ
độ hơn hai tuần,
các đồng
chí Bát
lộ quân cho biết
hiện nay đường đi
có trắc trở,
không thể đi
được. Thế là
chúng tôi
phải tìm
cách ra khỏi
Biện sự xứ, anh Văn
lại về Giao
thông binh
đoàn với anh
Lê Thiết
Hùng, tôi
đi Trường Sa, thủ phủ
tỉnh Hồ Nam, ở với
ông Hồ Học
Lãm.
*
Nguyên khi Bộ
tham mưu của Tưởng bỏ
Thủ đô Nam Kinh
thì
chúng cũng bỏ
cả ông Hồ Học
Lãm bằng
cách phong cho
ông cái
chức gọi là
“Lưu thủ chủ nhiệm”.
Lưu thủ chủ nhiệm
nghĩa là
ông chủ nhiệm
phải ở lại để giữ cơ
quan! Ông Hồ
thấy rõ
cách đối xử
hèn mạt của
chúng,
nên trước khi
Nam Kinh bị Nhật
chiếm, ông
đã đưa cả gia
đình với anh
Văn đi Vu Hồ, thuộc
tỉnh An Huy, gửi lại ở
chỗ anh Lê Thiết
Hùng,
còn ông
thì đi Trường
Sa, xin làm
tham mưu ở Quân
quản khu do Tỉnh
trưởng tỉnh Hồ Nam
Trương Trị Trung
kiêm làm
tư lệnh.
Trường Sa lúc
này bình
yên và
náo nhiệt. Một
số người tiến bộ tập
hợp lại ở đó,
thường mở các
buổi diễn giảng về
thời sự và
các vấn đề
có liên
quan đến kháng
chiến. Nếu diễn giảng
đúng vào
buổi tối thì
tôi cũng đi
nghe, vì ban
ngày phải ở
nhà đi chợ
và nấu cơm cho
ông Hồ Học
Lãm.
Đùng một
cái, được tin
Quảng Châu mất,
rồi Cửu Giang, Vũ
Hán cũng mất
nốt. Tình
hình Trường Sa
trở nên căng
thẳng, dân
chúng
nháo
nhác
ngoài đường
phố, hàng
quán phần nhiều
đóng cửa,
các cơ quan lại
dọn chạy.
Sáng sớm
ngày
12-11-1938, hai chiếc
thuyền lớn do
Quân quản khu
trưng dụng để chở
nhân viên
đi tản cư, trong
đó có
ông Hồ Học
Lãm, Trần
Báo và
tôi, bắt đầu rời
bến, thì Trường
Sa bốc cháy,
khói lửa nghi
ngút,
máy bay Nhật
bay liệng trên
bầu trời.
Thuyền đến Tương
Đàm, dân
chúng cũng nhớn
nhác chạy loạn
như ở Trường Sa,
trên bến
không có
người khuân
vác. Tôi
ngồi ở bến trông
nom ông Hồ Học
Lãm đương ốm.
Trần Báo đi
vào phố
tìm mãi
mới thuê được
một chiếc kiệu để
khiêng ông
Hồ với một số đồ đạc
cần thiết và
rất nhẹ, còn
bao nhiêu
thì không
quản nữa, vứt bỏ cả ở
bãi bến.
Đi bộ độ mười
ngày đến huyện
Tân Hóa ở
dọc đường, đọc
báo mới biết
Trường Sa không
phải đã bị Nhật
chiếm, mà
vì tụi
Hán gian phao
tin Nhạc Dương [1]
mất, nên “Ủy ban
bảo vệ Trường Sa”,
trong đó
có vị tư lệnh
Vệ Tuất và vị
cảnh sát trưởng
đã hạ lệnh
“tiêu thổ” để
chạy trốn. Lần
cháy này
làm chết năm
vạn dân,
và thiêu
trụi không biết
bao nhiêu
là tài
sản của Nhà
nước và của
nhân dân.
Mấy tên
Hán gian hạ
lệnh “tiêu thổ”
đã bị xử tử.
Lại đi bộ hơn mười
ngày nữa mới
đến huyện Nguyên
Lăng, phía
tây tỉnh Hồ Nam,
trên đường
ô-tô đi
Quí Dương. Ở
đây chúng
tôi gặp đơn vị
Giao thông binh
đoàn mà
anh Lê Thiết
Hùng là
tiểu đoàn
phó, trong
đó có
nhiều người trước
đã biết
ông Hồ Học
Lãm. Vì
vậy mà
chúng tôi
có thể đi nhờ
xe của họ từng chặng,
từng chặng một để di
chuyển dần về hậu
phương xa hơn.
*
Trên các
chặng đường,
Hoàng
Bình thuộc tỉnh
Quí Châu
là chỗ
mà chúng
tôi dừng
khá lâu,
vì ở đây
yên tĩnh,
ông Hồ có
thể nghỉ để bồi dưỡng
sức khỏe sau trận ốm.
Thời gian ở đây,
chúng tôi
vẫn liên hệ
thân mật với một
số cán bộ trong
tiểu đoàn của
anh Lê Thiết
Hùng, trong
đó có
hai anh trung đội
trưởng tiến bộ, thường
mang theo một số
sách
chính trị để
đọc, nhưng có
những quyển có
một số chữ mà
các anh
không hiểu
nghĩa, phải cầu cứu
đến chúng
tôi. Đó
là những quyển
sách nói
về chủ nghĩa
Mác-Lê-nin.
Số là sau khi
Tưởng Giới Thạch
tuyên bố chống
Nhật, việc Quốc –Cộng
hợp tác
đã thành
hình, những
nhà xuất bản
cánh tả
đã tìm
một số chữ mới, thay
thế những chữ
có thể chọc mắt
Quốc dân đảng,
để thuận lợi cho việc
phát
hành.
Thí dụ như lấy
chữ Y-lý-kỳ (đọc
âm là
Y-li-xi) hoặc
lấy chữ
Ô-lý-ngang-nặc-phu
(đọc âm
là
U-li-ang-nốp)
thay cho chữ
Lê-nin. Lấy chữ
Kha-nhĩ (đọc
âm là
Kha-rơ) thay
cho chữ
Mã-khắc-tư. Lấy
chữ
Bố-nhĩ-kiều-á (đọc
âm na
ná là
Buốc-gioa) thay
cho chữ tư sản giai
cấp. Lấy chữ
Phố-la-liệt-đáp-lợi-á
(đọc âm na
ná là
Prô-lê-ta-ri-a)
thay cho chữ
vô sản giai cấp,
v.v…Với trình
độ tốt nghiệp trung
học vùng Tưởng
chiếm, họ không
thể hiểu được những
chữ đó.
Lại có một anh
trung đội trưởng
khác,
trình độ thấp
hơn, vì
yêu một cô
giáo tiến bộ ở
nông thôn,
mỗi lần gặp nhau,
cô ta đều dặn
mua cho mấy quyển
sách
chính trị. Nếu
anh mua sách
cho người yêu,
mà mình
không hiểu
gì cả, nhỡ
nó hỏi
thì sao? Anh ta
phải cố gắng học
trước, chỗ nào
không hiểu phải
hỏi cặn kẽ để nắm
chắc. Đó cũng
là một cơ hội
để chúng
tôi giúp
đỡ anh ta về mặt
lý luận
và nhận thức
cách mạng.
Chỉ trong thời gian
vài
tháng,
chúng tôi
đã lôi
kéo được
các anh ấy
thành những
người có cảm
tình với Đảng
cộng sản, trong
đó có
anh Xì
Khuân tỏ
rõ ý
muốn đi Diên An.
Vì vậy, trong
dịp gặp Bác Hồ,
chúng tôi
đã báo
cáo với
Bác, và
Bác đã
giới thiệu anh ấy với
Biện sự xứ Bát
lộ quân ở
Quí Dương. Sau
ngày Trung Quốc
giải phóng, anh
Xì Khuân
có dịp
liên hệ được với
chúng
tôi, mới biết
rằng chúng
tôi là
người cộng sản Việt
Nam.
Sau khi sức khỏe
ông Hồ Học
Lãm đã
được bình phục,
lại nhân
có chuyến xe đi
nhờ được, tôi
đưa ông Hồ đi
Quí Dương, thủ
phủ tỉnh Quí
Châu. Theo sự
giới thiệu của mấy anh
em Vân Nam, khi
đến Quí
Châu
chúng tôi
ở nhà Vũ Hồng
Khanh, một người
đã từng lấy
danh nghĩa Việt Nam
Quốc dân đảng
hoạt động ở Vân
Nam, sau vì
việc giết người
và tống tiền,
bị đương cục Vân
Nam trục xuất,
đã đưa gia
đình và
một số thanh
niên Việt kiều
đến định cư ở
đó.
Vũ Hồng Khanh vốn
đã được nghe
tiếng ông Hồ từ
lâu, nay được
gặp, thấy là
một người hiền
lành, đạo mạo
và khiêm
tốn, y rất phục.
Tôi đi theo
ông Hồ, tự nhận
là cháu,
nên y cũng tin
là một người
cách mạng quốc
gia. Chuyện trò
khá mặn
mà, hứa hẹn sau
này về
Côn Minh sẽ
cùng nhau
bàn bạc
công tác
vận động Việt kiều ở
Vân Nam. Ở
nhà Vũ Hồng
Khanh không đầy
một tháng,
nhưng đã
gây được ấn
tượng tốt với mọi
người trong nhà
và mấy anh
thanh niên Việt
kiều theo Vũ Hồng
Khanh từ Côn
Minh đến.
Đầu năm 1939,
nhân dịp
có xe đi
Côn Minh
(Vân Nam),
tôi bàn
với ông Hồ Học
Lãm để
tôi đi về trước.
Ông đồng
ý. Thế
là tôi đi
Côn Minh,
cùng với
các đồng
chí ta ở
đó tiếp tục
hoạt động cách
mạng.
Giai đoạn thứ hai
Từ Côn Minh
đến Pác
Bó
(1939-1942)
Giai đoạn này
kể từ khi đến
Côn Minh đầu năm
1939 cho đến khi rời
Trung Quốc về
Pác Bó
cuối năm 1942. Những
hoạt động trong thời
gian này sẽ
được trình
bày qua
các mục nhỏ sau
đây:
- Tình
hình
và
công
tác ở
Côn Minh.
- Chuyển hướng
hoạt động về
phía Quảng
Tây
- Hoạt động ở Long
Châu.
- Hoạt động ở Tịnh
Tây.
- Bị bắt ở
Bình
Mãnh.
- Cuộc đấu tranh ở
Liễu Châu.
- Chuẩn bị về
nước.
Bốn mục trên
trước đã
phát biểu ở
cuốn Đầu nguồn do
Nhà xuất bản
Văn học Hà Nội
phát
hành năm 1975,
nay vẫn giữ
nguyên, nhưng
mỗi mục có
thêm một đề mục
nhỏ để thống nhất
cách
trình
bày trong
toàn phần.
I. Tình
hình
và công
tác ở
Côn Minh
Đầu năm 1939, sau Tết
âm lịch độ một
tháng, chia tay
với ông Hồ Học
Lãm, tôi
đi từ Quí Dương
đến Côn Minh.
Đến nơi các
đồng chí
đã xếp cho ở
nhà anh Tống
Minh Phương, một gia
đình được
giác ngộ
cách mạng
và theo Đảng từ
năm 1936. Tập
làm thợ may ở
đó một thời
gian, rồi đi may ở một
hiệu may nhỏ để vận
động đám thanh
niên thợ may
Việt kiều. Sau xin
vào làm
thợ ở Xưởng chữa
ô-tô Stai
để vận động công
nhân, nhưng chỉ
được vài
tháng
thì xưởng biết
là cách
mạng, bị đuổi ra khỏi
xưởng. Từ đó,
khi thì ở chỗ
anh Tống Minh Phương,
khi thì ở chỗ
anh Đỗ Đăng
Trình; sau anh
Phùng
Chí Kiên
đến tổ chức Ban hải
ngoại và xếp
được chỗ ở làm
cơ quan bí mật
để in tài liệu
tuyên truyền,
thì tôi
thường ở chỗ anh
Phùng
Chí Kiên.
Cần phác qua
một vài
nét
chính về
tình
hình và
công tác
ở Côn Minh của
các đồng
chí
chúng ta trong
lúc đó:
Côn Minh
là thủ phủ tỉnh
Vân Nam, thuộc
khu Tây Nam
Trung Quốc. Theo điều
ước bất bình
đẳng Mãn Thanh
ký với đế quốc
Pháp năm 1885,
công ty xe lửa
Pháp đã
xây dựng con
đường xe lửa chạy suốt
từ Hà Nội qua
Lào Cai,
Hà Khẩu, đến
Côn Minh. Tất cả
người Việt Nam
làm việc
trên xe lửa cũng
như ở các ga
đều là
công nhân
viên chức do
công ty trả
lương và điều
khiển, đương cục Trung
Quốc không được
đụng chạm đến.
Ở Côn Minh,
người Pháp
có lãnh
sự quán,
có đài
vô tuyến điện,
có bệnh viện
riêng và
một xưởng sửa chữa xe
ô-tô
là Stai. Số
người Việt Nam qua
Vân Nam ở
trên các
thị trấn đọc đường xe
lửa có độ hơn
hai nghìn,
làm các
nghề tự do như cắt
tóc, thợ may
và một số nghề
lặt vặt khác,
đều là
bà con của
các công
nhân viên
chức của công ty
xe lửa, đều thuộc
quyền trị ngoại của
lãnh sự
Pháp.
Năm 1929, Nguyễn Thế
Nghiệp tranh địa vị
lãnh tụ Quốc
dân đảng với
Nguyễn Thái Học
không được, mật
thám đã
bố trí cho chạy
qua Vân Nam. Ở
đây hắn
đã câu
kết với một tên
Việt kiều mật
thám của Quốc
dân đảng Trung
Quốc là Nguyễn
Kim Ngữ và một
tên xếp-tanh tay
chân của
Pháp,
“bí mật hoạt
động” trong giới
công chức Việt
kiều. Năm 1930, sau
khi cuộc Khởi nghĩa
Yên Bái
thất bại, Vũ Hồng
Khanh lại từ trong
nước chạy ra, nhập bọn
với Nguyễn Thế Nghiệp.
Được sự cho
phép ngầm của
đế quốc Pháp,
và sự
“giúp đỡ” của
đương cục Trung Quốc,
chúng đã
tổ chức Việt Nam Quốc
dân đảng, đưa
vào một số lưu
manh làm cốt
cán để uy hiếp
và lừa dối quần
chúng. Trụ sở
Việt Nam Quốc đảng
được lập ở nhiều nơi
trong tỉnh Vân
Nam. Tại Côn
Minh, chúng
còn có
một cái hội
quán,
nói cho
đúng là
một cái ổ để
cho cốt cán của
chúng qua lại,
còn các
tên “lãnh
tụ” như Nguyễn Thế
Nghiệp, Vũ Hồng Khanh
thì đều dựa
vào sự
quyên góp
của kiều bào
và sự tống tiền
để tiêu
xài một
cách trụy lạc ở
khách sạn. Một
người quần
chúng biết
chuyện đem nói
lại với bà con,
chúng liền gọi
đến hội quán
phạt đứng
nghiêm,
tát vào
mặt mấy cái rồi
giao hẹn từ nay về sau
không được
nói chuyện
“lãnh tụ”.
Thời gian chúng
được hoạt động
công khai cũng
là thời gian
chúng tranh
giành nhau kịch
liệt về hưởng thụ
và địa vị,
mâu thuẫn nội bộ
lên đến cao độ.
Nguyễn Thế Nghiệp, Vũ
Hồng Khanh, bị Nguyễn
Kim Ngữ đả kích
ra mặt và đưa
nhiều việc ra
bêu xấu,
chúng liền cho
cho người giết Nguyễn
Kim Ngữ. Việc bị lộ,
chúng đều bị
bắt giam ở Côn
Minh. Nguyễn Thế
Nghiệp liền viết thư
xin lãnh sự
Pháp ở
Côn Minh can
thiệp, đến năm 1933
thì đương cục
Vân Nam trục
xuất chúng qua
Quảng Tây.
Qua những sự việc kể
trên, uy
tín của
chúng đã
tụt xuống như xuống
dốc, tất cả cơ sở của
chúng ở
các nơi đều bị
tan rã. Một số
người còn
có ý
thức cách mạng
đều lìa bỏ
chúng để
tìm đường lối
khác.
Các anh Trần
Quốc Tuấn, Đỗ Đăng
Trình, Lê
Quốc Trụ, Từ
Chí Kiên,
bỏ chúng đi Nam
Kinh, đã gặp
các đồng
chí ta
và được sự
giúp đỡ chuyển
biến dần theo đường
lối của Đảng.
Cuối năm 1935,
các anh Vũ Anh,
Đông A, Đỗ Đăng
Trình được
phái từ Nam
Kinh về xây dựng
cơ sở Đảng và
tổ chức Chi bộ lấy
tên là
Chi bộ Vân -
Quí.
Năm 1936, Vũ Hồng
Khanh lại “bí
mật” về Côn Minh
hoạt động, nhưng quần
chúng đã
hết sức chán
ghét. Những
phần tử phản động vẫn
ngấm ngầm chống
cách mạng
mà bây
giờ Vũ Hồng Khanh
còn dùng
làm cốt
cán,
tính ra chỉ
còn độ hơn mười
người. Với sách
lược đúng đắn,
các đồng
chí Chi bộ
Vân - Quí
vẫn hoạt động với danh
nghĩa Quốc dân
đảng, đồng thời
tìm cách
đưa đồng chí Vũ
Anh cũng vào
Đảng, hình
thành một
nhóm
cánh tả trong
đó để đấu tranh
trực diện với Vũ Hồng
Khanh. Qua một thời
gian tuyên
truyền vận động,
nhóm
cánh tả
đã chiếm ưu thế
tuyệt đối. Hội lao
công
thân ái
cho công
nhân và Hội
thiếu niên dục
tài cho
thanh, thiếu
niêu được
thành lập, nay
đã do đồng
chí Đông
A nắm hoàn
toàn. Khi đồng
chí Đông
A đề nghị đổi
tên tờ Thiết
huyết ra tờ Đại
chúng, Vũ
Hồng Khanh không
chịu, hắn tự viết lấy
tờ Thiết huyết
và tự in lấy
gửi cho quần
chúng nhưng đều
bị quần chúng
xé toạc hoặc
phê chữ
vào rồi gửi trả
lại. Tờ Thiết
huyết chết, đồng
chí
chúng ta ra tờ
Đại chúng
để tuyên truyền
chủ chương của Đảng.
Vũ Hồng Khanh hoạt
động ở Côn Minh
không lâu,
thì bị quần
chúng tố
cáo với đương
cục Trung Quốc, lại bị
trục xuất một lần nữa
qua Quí Dương.
Tuy vậy Vũ Hồng Khanh
vẫn không ngừng
hoạt động, và ở
Côn Minh vẫn
còn một số tay
sai công khai
hoặc bí mật
liên hệ với hắn
để tiếp tục chống
cách mạng.
*
Năm 1939, sau khi
tôi đến
Côn Minh
không bao
lâu, thì
Vũ Hồng Khanh lại về
Côn Minh, lần
này hắn được
Nghiêm Kế Tổ,
một tên đặc vụ
của Trùng
Khánh về che
chở, nên đương
cục coi là
người được hoạt động
hợp pháp. Nhưng
trước kia cũng như
bây giờ, những
lần chúng triệu
tập hội nghị,
chúng ta đều
phái đồng
chí và
đông đảo quần
chúng đến tham
dự để vạch mặt,
nên chúng
rất sợ các cuộc
họp công khai.
Để trấn áp tinh
thần quần
chúng, một
tên cốt
cán đắc lực của
chúng đã
ỷ thế là sĩ
quan của Quốc
dân đảng Trung
Quốc, trắng trợn
rút khẩu
súng ngắn đeo
bên hông
đặt lên
bàn giữa
nhà anh Tống
Minh Phương,
nói rằng: Hễ
còn nghe mấy
thằng cộng sản
thì coi chừng
đây! Một lần,
chúng triệu tập
một cuộc họp rất
kín có
mời đại biểu Quốc
dân đảng Trung
Quốc đến dự,
chúng ta vẫn
biết và xếp đặt
một số quần
chúng của ta
đến. Hội nghị vừa khai
mạc thì người
gác cổng của
chúng la to
lên rằng “bọn
Trịnh Đông Hải
đã đến”. Thế
là quần
chúng
nháo
nhác, lộn xộn
không
thành trật tự
nữa. Chúng phải
tuyên bố hội
nghị giải tán!
Anh Tùng Sơn
được bố trí
trước, ngồi bên
cạnh người Quốc
dân đảng Trung
Quốc, đã
nói lại đầu
đuôi cho họ
nghe. Uy tín
của chúng lại
bị đập mạnh một lần
nữa ngay cả trước mặt
bọn Quốc dân
đảng Trung Quốc.
Tuy vậy, chỉ sau
đó một thời
gian, chúng lại
thông qua
báo chí
và Thông
tấn xã Trung
ương của Quốc
dân đảng Trung
Quốc, ra một bản
“tuyên
ngôn đối với
thời cuộc”,
tuyên bố chủ
trương hợp tác
với Pháp. Tự
nhiên đó
là do Quốc
dân đảng Trung
Quốc bảo chúng
làm, nhưng
đó cũng
là sự
phát triển hợp
lô-gích
với đường lối đầu
hàng, phản
cách mạng của
chúng từ trước
đến nay. Chúng
ta liền lấy danh nghĩa
“Việt Nam hưởng ứng
Trung Quốc
kháng địch hậu
viện hội”, một tổ chức
được thành lập
từ năm 1937, ra
tuyên bố vạch
mặt. Bản tuyên
bố viết bằng chữ Trung
Quốc, được gửi đi cho
tất cả thông tấn
xã các
nước, cho Chính
phủ Tưởng Giới Thạch,
cho các
báo, các
đoàn thể
nhân dân
Trung Quốc và
cho kiều bào ta
ở Vân Nam. Bộ
mặt phản cách
mạng của chúng
càng được quần
chúng thấy
rõ.
Ngoài Vũ Hồng
Khanh và
Nghiêm Kế Tổ ra,
còn có
một nhóm
Tờ-rốt-kit độ ba bốn
tên, cầm đầu
là một anh
có trình
độ văn hóa,
biết vẽ, biết nặn
tượng, chịu ảnh hưởng
của Tạ Thu Thâu
khá sâu,
hay nói
lý luận
có vẻ
cách mạng,
có thể
đánh lừa một số
quần chúng. Hắn
tuyên truyền vận
động kiều bào
xuống đường biểu
tình chống
Pháp và
đòi đương cục
Trung Quốc giảm thuế.
Hắn đi vận động đến
đâu cũng bị
chúng ta đả
thẳng cánh,
âm mưu
không thực hiện
được và
hoàn
toàn bị
cô lập.
Cuối năm 1939, đồng
chí
Phùng
Chí Kiên
từ Sơn Đầu về
Côn Minh [2]
, tổ chức Ban hải
ngoại của Đảng, để
lãnh đạo mọi
mặt công
tác tại Trung
Quốc, gồm ba người:
Đồng chí
Phùng
Chí Kiên,
đồng chí Vũ Anh
và tôi
lúc này
lấy tên
là Lý
Quang Hoa. Ban hải
ngoại ra một tờ
báo nhỏ lấy
tên là Truyền
tin, sau đổi
tên thành
Đồng thanh,
tuyên truyền chủ
trương đoàn kết
chống Pháp, ủng
hộ Trung Quốc chống
Nhật, đồng thời vạch
mặt những luận điệu
tuyên truyền lừa
bịp của bọn Vũ Hồng
Khanh, Nghiêm Kế
Tổ và bọn
Tờ-rốt-kít.
*
Đầu năm 1940,
Bác về
Côn Minh lấy
tên là Hồ
Quang, đóng vai
một giáo quan
cấp thiếu tá
của Bát lộ
quân, ở chỗ
Tân Hoa thư
điếm, nhưng thường lui
tới chỗ đồng
chí
Phùng
Chí Kiên
để chỉ đạo công
tác của Ban hải
ngoại.
Về chính trị,
Bác đánh
giá việc Chi bộ
Vân - Quí
lôi kéo
được quần chúng
đánh tan ảnh
hưởng của bọn Nguyễn
Thế Nghiệp và
Vũ Hồng Khanh
là một
thành
tích. Đồng thời
cũng phê
phán một số
khuyết điểm, và
đề ý kiến để
Ban hải ngoại sửa chữa
lại. Thí dụ,
Bác nhận định
cuộc bãi
công của
công nhân
xe lửa trước đây
do Chi bộ lãnh
đạo, mục đích
chỉ đơn thuần nhằm
vào việc chống
Pháp
không
chuyên chở vũ
khí cho Trung
Quốc, chứ chưa biết
nhân đó
mà tuyên
truyền ý thức
chống Nhật, ý
thức cách mạng
rộng rãi trong
quần chúng.
Vì vậy
Bác đề nghị lấy
danh nghĩa “ Việt
Nam hưởng ứng Trung
Quốc kháng
địch hậu viện hội”
phát truyền đơn
suốt dọc đường xe lửa
Hà Khẩu -
Côn Minh,
kêu gọi kiều
bào chống
Pháp và
giúp Trung Quốc
chống Nhật.
Về việc tuyên
truyền, Bác đề
nghị đổi tên tờ
Đồng Thanh ra
tờ Đ.T.. Theo
Bác giải
thích,
thì Đ.T.
có thể hiểu
là “Đồng
Thanh”, cũng có
thể hiểu là
“Đồng Tâm”, cũng
có thể hiểu
là “Đấu tranh”,
và cũng
có thể hiểu
là “Đánh
Tây”. Các
bài viết trong
báo này
thường được Bác
duyệt và sửa
chữa, nên chất
lượng nâng cao
và cách
viết giản dị dễ hiểu
hơn, quần chúng
rất thích.
Về việc liên lạc
với các đồng
chí cộng sản
Vân Nam
đã có từ
trước, như liên
lạc với đồng
chí Trần
Phương, đồng
chí Mã
Tử Khanh, nay dược sự
xúc tiến của
Bác lại
càng thêm
củng cố và
phát triển.
Để hiểu biết
tình
hình Việt kiều
ta ở Vân Nam,
bác đã
cùng đồng
chí
Phùng
Chí Kiên
đi đến mấy chỗ dọc
đường xe lửa có
kiều bào ở
đông như
Mông Tự, Nghi
Lương, Khai Viễn
và Chỉ
Thôn để
liên hệ với quần
chúng đang
làm chay cho
những người bị bom
Nhật giết chết ở Bua
Chai, Bác
và anh
Phùng đã
tham gia lễ làm
chay, anh Phùng
lấy bài
Khóc đồng
bào bị nạn ở
Bua Chai trong
báo Đ.T.
ra đọc, quần
chúng rất
xúc động.
Theo chỉ thị của
Bác, để
phát triển cơ
sở ở vùng
giáp giới, Ban
hải ngoại đã
phái đồng
chí Lộc đến
làm việc ở
Hà Khẩu để
liên lạc với
quần chúng ở
đó và
đã bí
mật liên lạc với
trong nước.
Đầu tháng 5 năm
1940, anh Bùi
Đức Minh [3]
đưa anh Phạm Văn Đồng
và anh
Võ Nguyên
Giáp với thư
giới thiệu của Trung
ương nói
vì trong nước
đang có khủng
bố nên gửi ra để
ở ngoài
tìm cách
cho đi học. Ban hải
ngoại đã bố
trí cho hai anh
bí mật gặp
Bác. Bác
quyết định sẽ giới
thiệu cho hai anh đi
học Trường đại học
Quân
chính
Diên An. Trong
thời gian chờ đợi,
theo chỉ thị của
Bác,
chúng tôi
đã tổ chức việc
học lịch sử Đảng Cộng
sản Liên
Xô. Cách
học là chia
nhau mỗi người đọc một
phần rồi báo
cáo để mọi
người phát biểu
ý kiến. Lớp học
này chỉ
có anh Đồng,
anh Giáp, anh
Phùng
Chí Kiên
và tôi
thường xuyên
tham gia, các
anh khác như
anh Đặng Văn
Cáp, anh Vũ Anh
chỉ tham gia một
đôi buổi.
*
Ngày 20-6-1940,
Pháp mất Pa-ri.
Bác gọi
các đồng
chí Ban hải
ngoại đến bàn
bạc tình
hình, và
quyết định chuyển
hướng hoạt động
công tác
về biên giới,
rồi về trong nước.
Có thể
nói đây
là một bước
ngoặt lịch sử rất quan
trọng.
Quyết định xong,
Bác đi
Trùng
Khánh gặp Trung
ương Đảng Cộng sản
Trung Quốc trao đổi
ý kiến về thời
cục. Chuyến này
Bác đi hơn một
tháng mới về,
vì lúc
đi thì mua
vé máy
bay, nhưng lúc
về phải đi xe
công cộng
và chờ đợi ở
dọc đường khá
lâu.
Một vấn đề đặt ra phải
suy nghĩ là về
biên giới
thì ở
vùng
nào? Ở
đây, ngay từ khi
Bác đến
đã chú
ý xếp đặt người
ở biên giới,
nhưng chính trị
Vân Nam
không tốt,
dù có
người ở biên
giới cũng khó
lòng hoạt động;
hơn nữa, các
tỉnh giáp giới
Vân Nam như
Hà Giang,
Lào Cai
thì cơ sở quần
chúng của
chúng ta chưa
có. Như vậy,
cái hướng
tính
toán là
phải nhằm về
phía biên
giới Quảng Đông
hoặc Quảng Tây.
Vừa khéo
lúc Bác
còn ở
Trùng
Khánh
thì
chúng tôi
nhận được thư của
ông Hồ Học
Lãm nói
cơ hội hoạt động
cách mạng
đã đến? Trương
Bội Công được
Quốc dân đảng
Trung Quốc giúp
đỡ, hiện đang
liên lạc
các nơi để
tìm người
cách mạng Việt
Nam, đồng thời muốn
mời ông Hồ Học
Lãm ra hợp
tác với
ông ta trong
việc này.
Ông Hồ Học
Lãm vốn biết
Trương Bội Công
không phải
là người
cách mạng,
nên viết thư về
Côn Minh đề nghị
chúng tôi
đi Quảng Tây gấp
để nắm lấy ông
ta kẻo ông ta
làm bậy. Khi
Bác về đến
Côn Minh,
chúng tôi
đưa việc đó ra
báo cáo,
Bác liền quyết
định các đồng
chí
Phùng
Chí Kiên,
Vũ Anh và
tôi đi
Quí Dương gặp
ông Hồ Học
Lãm, đồng thời
điện cho các
anh Đồng, Giáp
đang ở Biện sự xứ
Bát lộ
quân Quí
Dương chờ ngày
đi học Diên An,
và anh Cao Hồng
Lĩnh, người đưa anh
Đồng và anh
Giáp đi từ
Côn Minh đến
cùng ở lại
Quí Dương chờ
chúng tôi
đến để cùng đi
Quảng Tây.
II. Chuyển hướng
hoạt động về
phía Quảng
Tây
Trương Bội Công
vốn là người
Việt Nam làm sĩ
quan cấp thiếu tướng
trong bộ đội Quốc
dân đảng Trung
Quốc. Trước đó
vì sợ
cách mạng
liên lụy đến,
nên ông ta
tránh
không gặp một
người Việt Nam
nào. Lần
này, được Quốc
dân dảng Trung
Quốc giao trách
nhiệm tổ chức việc
tình báo
và chuẩn bị sau
này làm
tiền đạo cho Hoa
quân nhập Việt,
ông ta mới cần
đến người Việt Nam,
và mới cần
ông Hồ Học
Lãm ra
cùng hoạt động.
Theo sự giới thiệu của
ông Hồ Học
Lãm,
chúng tôi
đi gặp Trương Bội
Công ở Đại Kiều
[4]
là chỗ
ông ta đặt cơ
quan làm việc ở
đó. Trương gặp
chúng tôi
thấy đều là
những thanh niên
tuấn tú
có văn
hóa, có
chính trị
và đặc biệt
là am hiểu
tình
hình trong
nước, khác với
số người Việt Nam
và Hoa kiều
mà ông ta
đã tập hợp
được.
Tự nhiên
chúng tôi
gặp ông ta
là bàn
bạc về thời cuộc, về
tình thế
cách mạng,
và tình
hình hoạt động
của nhân
dân trong nước
và của kiều
bào ở
ngoài, đồng
thời cũng làm
một số việc cụ thể như
viết một số tài
liệu về tình
hình trong
nước, xuất bản tập thơ
ca cách mạng,
thuyết phục một số
người Việt Nam
và Hoa kiều
chung quanh ông
ta. Nhưng qua sự
bàn bạc với
ông ta và
qua một vài sự
việc, như việc bảo
chúng tôi
làm dự
toán và
sổ chi tiêu về
sinh hoạt, việc vận
động chúng
tôi tập
quân sự
và đứng
nghiêm
lúc thấy
ông ta đến v.v…
là những việc
rất ngu xuẩn,
mà chúng
tôi đều cự
tuyệt, thì thấy
rõ ông ta
chỉ là một anh
quân phiệt, tay
sai Quốc dân
đảng Trung Quốc, chỉ
muốn lợi dụng
chúng tôi
làm tình
báo, và
đem khả năng của
chúng tôi
ra khoe khoang với
Quốc dân đảng để
lấy tín nhiệm
mà thôi.
Nhưng cái việc
ngu xuẩn nhất
là việc
ông ta viết tất
cả tên
chúng tôi
nộp cho Trương
Phát Khuê
và báo
cáo rằng
chúng tôi
là nhân
viên của cơ quan
ông ta.
Chúng tôi
cực lực phản đối, bắt
ông ta phải
rút tên
chúng tôi
ra khỏi danh
sách, và
phải báo cho
Trương Phát
Khuê biết
chúng tôi
là những người
cách mạng,
không phải
là nhân
viên của
ông. Tự
nhiên làm
như vậy thì
ông ta
không còn
có chỗ đứng,
nhưng chúng
tôi vẫn
kiên quyết đấu
tranh đòi phải
làm [5]
.
Một hôm,
Bác từ
Côn Minh đến,
chúng tôi
bí mật gặp để
báo cáo.
Bác phân
tích
tình
hình, rồi chủ
trương phải bỏ Trương
Bội Công
và đưa
ông Hồ Học
Lãm lên
Quế Lâm để
làm một cơ sở
hoạt động. Sau
đó ít
lâu,
chúng tôi
thu xếp bỏ Trương Bội
Công đi Quế
Lâm.
*
Vào khoảng
tháng 10 năm
1940, khi chúng
tôi đến Quế
Lâm thì
Bác đã ở
đó. Ông
Hồ Học Lãm cũng
đã được xếp đặt
đến chữa ở bệnh viện
Quế Lâm rồi.
Chúng tôi
thường bí mật
gặp Bác ở Biện
sự xứ Bát lộ
quân để
báo cáo
và xin chỉ thị
về cách hoạt
động.
Vấn đề đầu tiên
là vấn đề lấy
danh nghĩa gì
để hoạt động?
Bác chủ trương
lấy danh nghĩa Việt
Nam độc lập đồng minh
hội, và mời
ông Hồ Học
Lãm đứng ra chủ
trì để
chúng ta dựa
vào nó
mà hoạt động.
Chủ trương đó
xuất phát từ
chỗ Việt Minh
là một tổ chức
mà trước kia
đã cùng
với ông Hồ Học
Lãm không
phải là cộng
sản mà lại thật
lòng ủng hộ
chúng ta, nếu
ông đứng ra sẽ
được nhiều điều thuận
lợi.
Rất đồng tình
với ý kiến
này, ông
Hồ Học Lãm nhận
đứng tên
là Chủ nhiệm
Việt Minh, giới thiệu
chúng tôi
đi gặp Lâm Uất
bạn học của ông,
hiện đang làm
Hiệu trưởng Phân
hiệu quân sự
trung ương tại Quế
Lâm, đồng thời
là Phó
chủ nhiệm hành
dinh khu Tây Nam
của Tưởng Giới Thạch,
mà Lý Tề
Thâm là
Chủ nhiệm. Qua sự giới
thiệu của Lâm
Uất, chúng
tôi đi gặp
Lý Tề
Thâm.
Hôm gặp
Lý Tề
Thâm,
chúng tôi
đi cả sáu
người: Lâm
Bá Kiệt [6]
, Dương Hoài
Nam [7]
, Trịnh Đông
Hải, Phùng
Chí Kiên,
Cao Hồng Lĩnh
và tôi
lấy tên
là Lý
Quang Hoa. Theo kế
hoạch của Bác,
chúng tôi
chuẩn bị sẵn một bản
lý lịch
tóm tắt của
Việt Minh viết bằng
chữ Trung Quốc đưa cho
ông, và
giới thiệu rằng ở
Trung Quốc
chúng tôi
đã có
“Biện sứ xứ Việt Minh
ở hải ngoại” do
ông Hồ Học
Lãm là
Chủ nhiệm, Lâm
Bá Kiệt
là Phó
Chủ nhiệm. Lúc
đưa giấy, chúng
tôi nói
thêm mấy điểm
đại ý như sau:
Ở Việt Nam hiện nay
có hai tổ chức
chính trị lớn
là Đảng cộng
sản và Việt
Minh. Lực lượng của
Đảng cộng sản chủ yếu
là công
nhân và
có sự
giúp đỡ quốc tế
là Đệ tam Quốc
tế. Còn lực
lượng Việt Minh
thì chủ yếu
là trong
các tầng lớp
trên và ở
nông thôn.
Chúng tôi
vẫn liên hợp với
Đảng cộng sản
vì họ là
một lực lượng chống
Nhật khá mạnh.
Nhưng chúng
tôi cũng rất cần
có sự viện trợ
quốc tế, rất mong Chủ
nhiệm hết sức
giúp đỡ
chúng
tôi.
Lý Tề
Thâm trả lời
khá ôn
tồn, đại ý như
sau: Theo di
chúc Tôn
Tổng lý,
chúng tôi
phải giúp đỡ
các dân
tộc nhỏ yếu, nhưng
trong phạm vi
tôi có
thể làm được
thì rất nhỏ,
nếu muốn có sự
giúp đỡ lớn
thì phải do
Trung ương Đảng
chúng
tôi. Cuối
cùng, ông
ta không
quên nhắc
chúng
tôi: Các
anh hợp tác với
Đảng cộng sản, cần
chú ý
đừng để cho họ nắm
quyền lãnh đạo!
Qua cuộc nói
chuyện với Lý
Tề Thâm như vậy,
cái danh nghĩa
Việt Minh thực tế
đã được thừa
nhận, và
cái danh nghĩa
Biện sự xứ Việt Minh
cũng mặc nhiên
thành ra hợp
pháp.
Sau đó
ít hôm,
Bác gợi
ý: Chúng
ta hoạt động
cách mạng, cũng
phải tỏ ra mình
đã có
cái gì
trong tay, không
đến nỗi nghèo
túng lắm.
Chúng ta
nên thết anh
bí thư của
Lý Tề
Thâm một bữa
tiệc, để y kính
nể mình
và sẽ
giúp
mình nhiều hơn.
Sau khi được
Bác xuất cho
một số tiền 500 đồng,
chúng tôi
đã làm
một bữa tiệc
chiêu đãi
tại một hiệu ăn lớn
là Quán
Sinh Viên. Kết
quả đúng như
Bác dự kiến.
Cũng trong thời gian
này, Bác
đã giới thiệu
qua nội bộ để anh Đồng
gặp một số nhà
văn tiến bộ Trung
Quốc, vận động
thành lập Hội
văn hóa
Việt-Trung.
Ngày 8-12-1940,
Hội được thành
lập ở Câu lạc bộ
Lạc Quần, lây
tên chính
thức là “ Trung-Việt
văn hóa
công
tác đồng
chí hội”.
Ông Hồ Học
Lãm và
anh Đồng được giới
thiệu vào Ban
lý sự [8]
với tư cách
là Chủ nhiệm
và Phó
chủ nhiệm Biện sự xứ
Việt Minh ở hải ngoại.
Việc thành lập
này, các
báo ở Quế
Lâm hồi
đó có
đăng tin. Như vậy
là địa vị hợp
pháp của Việt
Minh lại được đề cao
lên một mức.
Lý Tề
Thâm trước
đây vốn
là một người
chống Cộng. Nhưng
bây giờ với
cái chức Chủ
nhiệm hành
dinh, ông ta chỉ
có tiếng
mà không
có miếng, quyền
hành thực sự
đều nằm trong tay
thiếu tướng Dương Kế
Vinh, một tên
trùm đặc vụ
thân tín
của Tưởng Giới Thạch
được xếp đặt ở
đó để bao
vây và
giám thị
ông ta.
Ông ta thấy
rõ điều
này, nên
đối với Việt Minh
mà Trung ương
đã đăng
ký rồi, tỏ vẻ
nhã nhặn
và giúp
đỡ chút
ít thì
vẫn không thiệt
gì, mà
về thể diện thì
đối với ông ta
lại là một việc
có lợi.
Còn Dương Kế
Vinh thì rất
láo xược, mỗi
lần gặp chúng
tôi, hắn đều tỏ
vẻ xoi mói
và thường
nói chuyện theo
kiểu “huấn thị”, thậm
chí có
lần hắn cứ nằm
trên cái
ghế xếp mà
nói chuyện. Hắn
đã biết
chúng tôi
đối với Trương Bội
Công như thế
nào rồi,
nên không
dám trắng trợn
quá, nhưng hắn
luôn luôn
mượn chuyện đả
kích cộng sản
để thăm dò
thái độ
chúng
tôi.
Một hôm, Dương
Kế Vinh đến thăm
ông Hồ Học
Lãm ở bệnh
viện, hắn nói
trắng ra rằng
chúng tôi
là cộng sản.
Ông Hồ Học
Lãm đã
đập lại một vố
khá mạnh.
Ông nói:
Đối với cách
mạng Việt Nam,
các ông
chưa giúp được
gì, nhưng về
phần riêng như
cá nhân
ông chẳng hạn,
thì đã
nhờ cách mạng
Việt Nam mà
phát tài
hàng triệu.
Ông muốn
đám thanh
niên
chúng tôi
làm tình
báo cho
ông thì
không được
đâu, họ
là những người
cách mạng.
Vì ông
lôi kéo
không được
nên ông
đã vu cho họ
là cộng sản chứ
gì? Nếu
ông nói
họ là cộng sản
thì ông
hãy tìm
cho được chứng cớ,
tôi sẽ lấy
cái đầu của
tôi đảm bảo cho
họ. Sau đó,
Dương Kế Vinh
không gặp
ông Hồ Học
Lãm nữa,
và nói
ông ấy cậy nhiều
tuổi, nói
át cả
mình đi,
mình nói
lại không tiện.
Luôn nói
đây sơ qua một
chút về việc
Nguyễn Hải Thần
lúc mới đến Quế
Lâm đã
muốn chia rẽ ông
Hồ Học Lãm với
chúng ta,
ông Hồ Học
Lãm cũng
đã cho một
bài học
đích
đáng. Ông
nói: Anh [9]
với tôi qua
Trung Quốc đã
hơn bốn mươi năm
mà chưa
làm được một
việc gì cho
dân tộc. Nay
chúng ta
đã già
rồi, phải để cho anh
em thanh niên họ
làm,
chính họ mới
là những người
có năng lực
làm nên
sự nghiệp. Hiện nay
Trung Quốc muốn đưa
chúng ta ra
chẳng qua là để
cho họ lợi dụng
là thôi,
chứ thực ra thì
chúng ta cũng
không thể
làm được
gì nếu
không có
lực lượng của anh em
trong nước.
Tôi khuyên
anh cứ ra làm
việc tử tế, đừng
nên kèn
cựa với anh em. Nguyễn
Hải Thần nghe
nói,
không
thích
thú lắm, nhưng
suy tính lợi
hại, thì
có chân ở
Việt Minh lợi hơn,
nên khi ở Quế
Lâm, cũng như
sau này về Tịnh
Tây, về danh
nghĩa, ông ta
vẫn tự nhận là
người Việt Minh [10]
.
Trong thời gian hoạt
động ở Quế Lâm,
nhờ có sự chỉ
đạo trực tiếp của
Bác, có
tiếng nói
và thái
độ đúng đắn của
ông Hồ Học
Lãm, có
sự ủng hộ tích
cực của những người
tiến bộ Trung Quốc,
chúng ta
đã giành
được sự giúp đỡ
nhất định của
Lý Tề
Thâm và
đã có
một địa vị hợp
pháp rõ
rệt.
*
Sau khi chúng
tôi bỏ Liễu
Châu đi Quế
Lâm thì
Trương Bội Công
đưa cả đội ngũ về Tịnh
Tây, một huyện
của Trung Quốc gần
biên giới Cao
Bằng. Trương Trung
Phụng, người trong đội
của Trương Bội
Công nhưng
có cảm
tình với
cách mạng, gửi
thư đến Quế Lâm
cho chúng
tôi, nói
cán bộ trong
nước chạy ra rất
nhiều, các anh
nên về gấp. Được
tin ấy, Bác
liền chỉ định
các anh
Võ Nguyên
Giáp, Vũ Anh
và Cao Hồng
Lĩnh đi về Tịnh
Tây trước để bắt
liên lạc với
đám cán
bộ đó, đồng
thời vận động Trương
Bội Công
đánh điện
lên Quế
Lâm mời Biện sự
xứ Việt Minh
phái người về
Tịnh Tây để
bàn tính
công việc.
Được điện mời của
Trương Bội Công,
Bác và
chúng tôi
xếp đặt về Tịnh
Tây ngay. Lần
này ra đi
có vẻ đường
hoàng vì
Lý Tề
Thâm đã
tặng tám trăm
bạc làm lộ
phí và
cấp giấy chứng minh
thư đi đường với danh
nghĩa “Hoa Nam
công tác
đoàn”,
đóng dấu
có hai chữ
“Trung chính” [11]
đỏ lòe
và to tướng.
Bác và
tất cả chúng
tôi kéo
về Liễu Châu gặp
các đồng
chí Cáp,
Lộc, Trình,
Hiền,…từ Côn
Minh đến đương chờ ở
đó, rồi
cùng nhau đường
hoàng đi xe
công cộng về Nam
Ninh. Đến Nam Ninh ở
độ hai ngày,
rồi thuê thuyền
đi Điền Đông.
Trong khi đi thuyền,
vì còn
bí mật với một
số đồng chí,
nên Bác
đóng vai một
ký giả Trung
Quốc, thường
nói chuyện với
chúng tôi
bằng tiếng Trung Quốc,
khi nói về thời
sự phức tạp thì
nói bằng tiếng
Pháp do anh
Phạm Văn Đồng dịch. Đi
thuyền độ bảy
ngày thì
đi Điền Đông,
các anh Đồng,
Lộc Trình
và Hiền đi xe
công cộng về
Tịnh Tây trước,
còn Bác,
anh Phùng
Chí Kiên,
anh Cáp
và tôi
thì ở lại
Thiên Bảo để chờ
tin tức từ phía
biên giới đến.
Sau một hôm, anh
Vũ Anh cưỡi xe đạp đến
Thiên Bảo gặp
Bác, báo
cáo mọi việc
chuẩn bị đã
xong xuôi.
Ngày thứ ba,
Bác và
chúng tôi
đi bộ, ăn cơm trưa ở
Túc Vinh [12]
rồi tiếp tục đi, độ
tám giờ tối đến
Tân Khư, một phố
nhỏ ở dọc đường,
cách Tịnh
Tây khoảng mười
cây số,
thì đã
thấy các anh Vũ
Anh và
Hoàng Sâm
chờ sẵn ở đấy.
Bác và
chúng tôi
được xếp đặt ở trong
một nhà quần
chúng ngay
trong phố Tân
Khư.
*
Bác sở dĩ đến
Tân Khư
là cốt để chờ
sự liên lạc của
các đồng
chí ở Tịnh
Tây và
trong nước.
Thời gian này,
Bác và
chúng tôi
thường hẹn anh Đồng,
anh Giáp đến
gặp ở một chỗ khoảng
giữa đường Tân
Khư- Tịnh Tây để
nghe phản ánh
tình
hình:
Các anh em ở
Liễu Châu về
đã xếp đặt ổn.
Số anh em bốn mươi ba
người [13]
từ Cao Bằng chạy ra,
Trương Bội Công
đã tập hợp lại
tổ chức thành
một đơn vị huấn luyện
do Trương Trung Phụng
phụ trách,
nhưng thấy cách
đối xử và huấn
luyện quân sự
theo kiểu
phát-xít,
nên anh em
đã có
ý định bỏ
Trương Bội Công,
chỉ còn nấn
ná chờ cơ hội.
Một buổi chiều,
Bác, anh
Phùng
Chí Kiên,
anh Cáp
và tôi ăn
cơm chiều xong, đang
đi bách bộ ở
ngoài đường,
thì gặp hội anh
Lê Quảng Ba,
Hoàng Sâm
đi từ Tịnh Tây
đến, nói
tình
hình
nghiêm trọng,
không thể ở chỗ
Trương Bội Công
nữa, đã thu xếp
cho anh em ngày
mai chạy về biên
giới, còn
chúng tôi
thì đến
Pà Mông
sẽ đi đường
vòng hội hợp
với anh em ở Cột
Mà. Bác
chỉ hỏi qua loa mấy
câu, rồi để cho
hai anh cứ đi.
Còn Bác
và chúng
tôi thì
vừa đi bách bộ
vừa trao đổi ý
kiến, thấy như vậy
là không
ổn, Bác bảo
tôi và
anh Cáp đi ngay
Pà Mông
gọi các anh
Lê Quảng Ba,
Hoàng Sâm
về hỏi lại cặn kẽ để
xếp đặt cho kịp thời
và thỏa
đáng.
Chúng tôi
lập tức đi ngay,
khoảng mười giờ tối
đến Pà
Mông, nửa
đêm mới trở về
đến Tân Khư.
Bác giải
thích cho anh
Lê Quảng Ba biết
rằng trong lúc
này Quốc
dân đảng Trung
Quốc và Trương
Bội Công đang
hết sức cần đến người
Việt Nam, nên họ
không bắt
và làm
hại anh em đâu.
Cứ về Tịnh Tây
tổ chức cho anh em đi
đường hoàng,
nói là
về nước vận động quần
chúng, sau khi
đi trót lọt rồi
sẽ viết thư cho Trương
Phát Khuê
phê phán
Trương Bội Công
và nói
rõ lý do
về nước của anh em.
Như vậy, họ
không thể cho
mình là
chạy trốn, và
sau này Trương
Bội Công cũng
mất điều kiện để lợi
dụng cách mạng.
Nguyên
vùng Tịnh
Tây, Bình
Mãnh trong
những năm Trung Quốc
chống Nhật đã
trở thành một
bộ phận quan trọng của
khu du kích
Quảng Tây. Một
số đồng chí
chúng ta như
Lê Quảng Ba,
Hoàng Sâm
một mặt tham gia du
kích với quần
chúng Trung
Quốc, một mặt
phát triển lực
lượng cách mạng
ở các
vùng gần
biên giới trong
tỉnh Cao Bằng. Đến khi
trong nước bị
Pháp khủng bố,
các đồng
chí phải đưa
một số cán bộ
chạy ra ngoài
tạm thời nương
náu ở chỗ
Trương Bội Công.
Bỗng được tin đương
cục Trung Quốc
có lệnh cho
lùng bắt, anh
em sợ ở đó
không đảm bảo
nên mới đột ngột
bỏ chạy. Đó
là một
cách xử
lý thiếu sự
trông thấy
toàn diện
mà Bác
đã vạch ra
và uốn nắn lại.
Sau khi được ý
kiến của Bác,
anh Hoàng
Sâm ở lại
Tân Khư với
chúng
tôi, còn
anh Lê Quảng Ba
thì trở lại
Tịnh Tây xếp đặt
đưa anh em đi một
cách công
khai về Cột Mà,
rồi phân
tán rải
rác xung quanh
đó. Lúc
ra đi, Trương Trung
Phụng còn tỏ vẻ
quyến luyến hẹn anh em
sau này lại gặp
nhau.
Việc 43 anh em rời
Tịnh Tây
đã tiến
hành được
trót lọt,
Bác bảo
tôi thảo một bức
thư bằng chữ Trung
Quốc để anh em gửi cho
Trương Phát
Khuê. Thảo xong
đưa Bác xem,
Bác sửa lại mấy
chỗ, tôi thấy
sửa như thế ý
vẫn đúng nhưng
văn pháp
không
đúng, nên
có ý
thắc mắc hỏi lại.
Bác trả lời:
Chú chỉ biết
viết thư là
viết thư, chứ chưa
biết chính trị.
Người Việt Nam ở
vùng dân
tộc viết chữ Trung
Quốc thế nào
mà đúng
văn pháp được.
Viết sai như vậy họ
mới tin là anh
em viết. Có thể
nói cái
thư này hay ở
chỗ viết dốt, nếu như
viết đúng văn
pháp lại
là không
hay. Việc tuy nhỏ
nhưng đối với
tôi là
một bài học
sâu sắc về
công tác
quần chúng
và công
tác thực tế.
Từ đó,
tôi và
anh Hoàng
Sâm cứ thường đi
lại vùng
Pà Mông
để củng cố và
phát triển
công tác
quần chúng,
vì quần
chúng ở
đây là
những người có
cảm tình với du
kích, với đường
lối của Đảng Cộng sản
Trung Quốc và
có cảm
tình với
cách mạng Việt
Nam. Chính ở
đây, cuối năm
1942, khi Bác
còn ở trong
nước ra đã lấy
một người quần
chúng đi dẫn
đường, rồi người
đó cùng
bị bắt một lúc
với Bác
và bị giam chết
ở nhà giam Liễu
Châu.
Cuối năm 1940, đầu năm
1941, anh Bùi
Đức Minh đưa đồng
chí
Hoàng Văn Thụ
từ trong nước đến
Tân Khư gặp
Bác để
báo cáo
tình
hình trong nước
và tình
hình chuẩn bị
cho Hội nghị Trung
ương lần thứ
tám.
Sau đó
ít lâu,
cơ sở biên giới
đã được chuẩn
bị xong, Bác
và các
anh Phùng
Chí Kiên,
Đặng Văn Cáp,
Hoàng Sâm
chuẩn bị về nước;
còn tôi,
theo chỉ thị của
Bác, đi Long
Châu để
liên lạc
và xây
dựng cơ sở ở đấy.
[1]cách
Trường Sa độ một trăm
cây số
[2]đồng
chí bị bắt ở
Hương Cảng năm 1938,
bị trục xuất qua Sơn
Đầu, ở đó huấn
luyện dân
quân du
kích một thời
gian rồi về Côn
Minh
[3]một
đồng chí trong
Chi bộ Vân –
Quí đã
về nước công
tác từ trước
[4]cách
trung tâm Liễu
Châu mấy
cây số
[5]Về
tình
hình Trương Bội
Công sau
này còn
có chỗ
nói rõ
thêm
[6]Phạm
Văn Đồng
[7]Võ
Nguyên
Giáp
[8]Lý
sự ủy viên hội
[9]chỉ
Nguyễn Hải Thần
[10]việc
này sẽ
còn nói
thêm ở
các phần sau
[11]dấu
hành
chính của Tưởng
Giới Thạch
[12]chỗ
sau này
Bác bị bắt
[13]trong
đó có
anh Lê Quảng Ba
-------------------------------
III. Hoạt động ở
Long Châu
Hôm đi Long
Châu, tôi
có đi qua Tịnh
Tây nhưng
không ghé
vào chỗ anh em,
mà cứ đi thẳng
luôn, dọc đường
bắt bạn với một người
nông dân
đi Long Châu mua
muối. Đi hơn hai
ngày đến Thạc
Long, một thị trấn
chia cách với
tỉnh Cao Bằng bằng một
con sông nhỏ. Ở
đây có
hai nẻo đi: Một nẻo đi
qua địa phận tỉnh Cao
Bằng thì chỉ
có bốn
cây số mà
đường bằng phẳng dễ
đi; một nẻo
khác đường xa
mười hai cây số
mà lại phải
trèo qua mười
chín đồi
núi thì
mới đến nơi có
chỗ nghỉ đêm.
Nẻo đường này
người Trung Quốc gọi
là “Xập cầu
coòng”, nghĩa
là mười
chín đồi
núi. Lúc
sắp sửa đến chỗ rẽ,
người bạn nông
dân bảo
nên đi qua đường
Việt Nam cho gần,
nhưng chính lại
vì mình
là người Việt
Nam nên
không dám
đi đường ấy, phải
nói dối anh ta
rằng tôi
là đội
viên Đội
tuyên truyền
kháng Nhật, nếu
đi qua Việt Nam
mà lính
Pháp bắt được
thì sẽ lộ
chuyện. Vậy anh cứ
chịu khó đi qua
đường “Xập cầu
coòng” với
tôi cho vui. Anh
ta đồng tình
ngay mà
không ngần ngại
gì. Đi được một
đoạn, thì gặp
một người lính
tuần tra biên
phòng, người
lính này
nghĩ rằng chúng
tôi có
thuốc phiện hoặc vũ
khí nên
mới phải đi đường
này để
tránh
Pháp, anh ta
liền kiểm tra thấy cả
hai người không
có gì
là đồ cấm, chỉ
trong mình
tôi có
một chứng minh thư của
Biện sự xứ Việt Minh,
nói được
phái đến Long
Châu công
tác. Anh ta
hiểu giản đơn Việt
Minh là
đoàn thể chống
Nhật nên cứ cho
đi. Nhưng khi về đến
trụ sở chỉ huy của đồn
biên
phòng, anh ta
báo cáo
với Thủ trưởng
là một thiếu
tá thường hay
liên lạc với bọn
Pháp ở
biên giới Cao
Bằng và
đã từng bắt một
số người Việt Nam giao
cho Pháp để lấy
tiền thưởng. Tên
thiếu tá
này liền gọi
điện thoại báo
cho đồn biên
phòng ở cuối
đường “Xập cầu
coòng” biết để
đón bắt.
Lúc đã
đi hết mười
chín đồi
núi, xuống đến
chỗ đường bằng,
trông về
phía trước thấy
có một
cái đồn
và có
lính đứng
gác trước cửa.
Tôi hỏi người
bạn đường, được biết
đó là
đồn biên
phòng của Trung
Quốc, bấy giờ mới
yên lòng.
Nhưng đi gần đến cửa
đồn thì thấy
nhiều lính
vác súng
giắt lưỡi lê từ
trong đồn đi ra,
có vẻ chuẩn bị
đón bắt. Thật
vậy, lúc đến
gần cửa đồn, một tiếng
hô to “Đứng
lại!”, rồi bọn
lính chĩa
súng vây
quanh lấy hai người
chúng
tôi. Họ vẫn
khám xét
cũng chỉ thấy
có cái
chứng minh thư của
Việt Minh và
một tờ Quảng Tây
nhật báo, anh
đồn trưởng bảo đưa cả
hai chúng
tôi vào
đồn để chờ ủy
viên [1]
đến xét.
Tôi nói
người cùng đi
với tôi chỉ
là một người đi
mua muối, không
có liên
quan gì, đề
nghị ông để anh
ấy đi tự do,
còn tôi,
tôi sẵn
sàng ở
đây chờ ủy
viên đến. Người
buôn muối được
tha. Tôi
vào đồn.
Đến chỗ làm
việc, anh đồn trưởng
hỏi chuyện một
cách cặn kẽ.
Tôi giải
thích cho anh
ta nghe Việt Minh
là thế
nào, và
giơ tờ Quảng
Tây nhật
báo ra
chỉ đoạn tin
nói về việc
thành lập Trung-
Việt văn hóa
công
tác đồng
chí hội ở
Quế Lâm cho anh
ta xem, và
nói thêm
rằng: Nếu các
ông không
tin thì
có thể
đánh điện
lên hỏi ở
hành dinh của
Tưởng ủy viên
trưởng ở Quế
Lâm, hoặc
đánh điện
lên Trùng
Khánh hỏi Trung
ương cũng được,
vì hội Việt
Minh của chúng
tôi đã
đăng ký ở Trung
ương Quốc dân
đảng Trung Quốc từ đầu
năm 1936. Nghe xong,
ông ta liền tỏ
vẻ khách
khí, mời
cùng ăn cơm,
rối xếp chỗ cho nghỉ ở
đây. Hơn
chín giờ tối,
anh ủy viên từ
Thạc Long đến,
tôi cũng
trình
bày như
đã nói
chuyện với anh đồn
trưởng lúc
chiều. Tuy vậy,
tôi đoán
chắc thế nào họ
cũng giải đi Long
Châu là
nơi cơ quan chỉ huy
cấp trên của họ,
nên tôi đề
nghị sáng mai
cho vài người
lính hộ tống
đưa tôi đến Long
Châu. Ông
ta đồng tình
ngay.
Sáng sớm mai,
cơm nước xong,
tôi và
hai người lính
biên
phòng
cùng đi. Trong
khi đi đường,
tôi cố dò
xem thái độ của
họ thì thấy họ
đối xử với mình
tử tế, tôi đến
quán trọ, tuy
cùng ngủ ở một
phòng nhưng ai
ngủ giường nấy,
không có
vẻ canh gác như
giải một người bị bắt.
Vì vậy, mỗi lần
qua hàng
quán ngồi nghỉ,
tôi đều mời họ
ăn quà, uống
nước và
nói chuyện
thân mật. Cứ
cùng đi với
nhau như vậy, độ
khoảng bốn giờ chiều
ngày thứ hai
thì đến Long
Châu, tôi
tán họ,
hãy ăn uống
nghỉ ngơi một hồi
đã, rồi sẽ
vào cơ quan.
Nói xong,
tôi đưa họ
vào một
quán cơm ngay
bên cạnh địa
điểm liên lạc
mà mình
đang muốn tìm.
Họ ngồi trong
quán, tôi
dạo ra ngoài,
vừa đi được mươi bước
thì đã
thấy anh Bùi
Ngọc Thành
và anh Hồ Đức
Thành đứng ngay
ở trước cửa.
Hàn huyên
rồi, anh Hồ Đức
Thành
bàn có
thể đi cơ quan ngay,
chắc không
có việc
gì đâu,
vì ở đây
đã có sự
liên hệ với
Quân bộ của
Quân đoàn
ba mươi mốt.
Tôi liền giục
hai anh lính
cùng ăn cơm,
rồi cùng Hồ Đức
Thành đi đến cơ
quan gặp Đốc biện
là người phụ
trách cao nhất
ở chuyên khu
Long Châu.
Lúc đó
đã hết giờ
làm việc, Đốc
biện không điện
thoại được với
Quân bộ,
nên để tôi
ngủ ở đó một
tối, sáng
hôm sau mời cho
người dẫn sang
Quân bộ. Ở
đây tôi
được gặp Tham mưu
trưởng Cảm Duy Ưng,
và tiếp
đó lại được gặp
Quân trưởng Vi
Vân Tùng.
Ông Quân
trưởng được nghe
tôi báo
cáo về Việt
Minh, nhưng
không quan
tâm lắm,
mà lại quan
tâm hỏi
thái độ của
Việt Minh đối với Phục
quốc quân thế
nào? Tôi
trả lời: Về mặt tổ
chức thì Phục
quốc quân
là do Nhật
xây dựng
nên,
chúng tôi
không thừa nhận,
nhưng về cá
nhân bất kỳ ai,
nếu thật lòng
chống Nhật thì
chúng tôi
sẵn sàng hợp
tác. Ông
ta có vẻ
hài
lòng, mời
tôi uống nước
và dặn sau
này có
việc gì
thì cứ
liên hệ với Cảm
Tham mưu trưởng. Thế
là việc ở Long
Châu được hợp
pháp, sự hoạt
động được dễ
dàng nhờ
có sự
giúp đỡ của
Quân bộ.
*
Ở Long Châu
lúc bấy giờ
có một
nhóm Phục quốc
quân bị
Pháp
đánh và
Nhật bỏ rơi nên
chạy qua đây, do
đương cục Trung Quốc
thu dụng. Nhóm
này có
khoảng năm trăm người
tập trung ở huyện
Thượng Kim do
Hoàng Lương
và Một Ý
[2]
chỉ huy; còn
một nhóm nữa độ
hơn bốn mươi người tập
trung ở Lũng
Già gần thị
trấn Bắc Kiều do một
người Việt Nam vận
động đưa từ Thất
Khê ra, cũng
được Quân Bộ thu
dụng, đãi ngộ
như là một
trung đội của Phục
quốc quân.
Vấn đề trước hết
là phải
tìm cách
liên lạc xem
tình
hình các
nhóm này
thế nào. Việc
liên lạc được
Cảm Duy Ưng
giúp đỡ, tiến
hành khá
thuận lợi. Tôi
gặp nhóm anh em
bốn mươi người ở Lũng
Già trước, được
biết trong đó
có các
anh Hoàng Minh
Thảo, Nguyễn Thanh
Đồng, Hoàng
Điền là những
thanh niên
dân chủ được tổ
chức từ năm 1936,
và anh Bế
Hà Kinh, một
người ở Thất Khê
đã có sự
liên lạc với
cách mạng,
tôi liền đặt
quan hệ trực tiếp với
các anh
này để
giúp họ hiểu
biết về đường lối của
Đảng, và qua họ
giúp cho anh em
thấy rõ việc
đưa người ra đây
cho Quân bộ
dùng là
một việc bị lừa dối.
Sau khi biết như vậy,
số lớn trong số
nhóm người
này đều bỏ về
nước, còn
tám người
là các
anh Hoàng Điền,
Hoàng Minh
Thảo, Nguyễn Thanh
Đồng, v.v…ở lại đi học
quân sự,
thì khi đến Nam
Ninh, Liễu Châu
đều nhận là
Việt Minh và
đấu tranh đòi
đi theo Việt Minh.
Còn đối với
nhóm năm trăm
người Phục quốc ở
Thượng Kim thì
vì đường xa
và không
có manh mối
gì của
mình ở trong
đó, nên
sự liên lạc
không dễ. Một
hôm, tôi
gặp Cảm Duy Ưng ngỏ
ý muốn đi
Thượng Kinh thăm anh
em Phục quốc,
ông ta đồng
ý và cấp
giấy giới thiệu cho
đi. Tôi đưa Bế
Hà Kinh
cùng đi
vì Bế là
người Thất Khê
chắc chắn có
thể gặp được người
quen biết ở trong
nhóm đó.
Khi đến Thượng Kinh
thì
Hoàng Lương đi
vắng, Lương Văn
Ý đón
tiếp chúng
tôi tử tế.
Chúng tôi
tự giới thiệu
là người Việt
Minh được Quân
bộ giới thiệu đến thăm
anh em, đồng thời
nói tình
hình
cách mạng trong
nước cho ông ta
nghe, ông ta tỏ
vẻ rất thích.
Tôi gợi ý
hỏi ông ta rằng
tôi muốn gặp anh
em có được
không? Ông
ta trả lời: Cụ
Hoàng [3]
đi vắng, tôi
không dám
quyết định. Ở
đây có
ông tham nghị họ
Hoàng, người
Trung Quốc, được
Quân bộ
phái đến chỉ
đạo chúng
tôi, nếu được
ông ấy đồng
ý thì
tôi sẽ hạ lệnh
triệu tập, vì
anh em ở tản ra từng
đơn vị nhỏ trong mấy
làng xung quanh
đây. Tôi
liền nhờ Lương Văn
Ý cho người đưa
tôi đi gặp
ông tham nghị.
Ông này
được nghe tôi kể
chuyện Việt Minh đăng
ký ở Trung
ương, lập Biện sự xứ ở
Quế Lâm
và đọc thư giới
thiệu của Cảm Tham mưu
trưởng, liền bảo Lương
Văn Ý triệu tập
toàn bộ anh em
cho tôi gặp.
Sau hơn một tiếng đồng
hồ, các đơn vị
đã được triệu
tập đến, xếp
hàng trên
một bãi cỏ
rộng, có người
về báo
cáo mời Lương
Văn Ý và
tôi ra. Thật
là một chuyện
không ngờ,
mình chỉ nghĩ
gặp anh em là
đi đến gặp người
này người
khác tại chỗ ở
của họ, biết đâu
lại có một cuộc
gặp với nghi thức long
trọng như vậy. Nhưng
như thế càng
oai và
càng tốt! Lương
Văn Ý giới
thiệu tôi với
anh em và mời
nói chuyện. Tự
nhiên đây
là một dịp hiếm
có để giới
thiệu với anh em về
tình
hình thế giới,
tình
hình
cách mạng trong
nước và chủ
trương đoàn kết
các lực lượng
cách mạng ở
ngoài nước. Anh
em nghe rất phấn khởi.
Sau đó
các đơn vị giải
tán về chỗ ở,
chúng tôi
cùng một số
cán bộ độ hai
mươi người cùng
về chỗ Lương Văn
Ý dự bữa cơm
có vẻ như bữa
tiệc chiêu
đãi. Hôm
ấy, trời khô
ráo và
sáng trăng, ăn
cơm xong, một số
cán bộ lại
kéo
chúng tôi
ra bãi tập,
tiếp tục nói
chuyện. Thì ra
trong đám
này đã
có người cảm
thấy ở dưới sự kiềm
chế của Quốc dân
đảng Trung Quốc
là không
tốt, họ muốn có
sự đoàn kết
giữa Việt Nam với nhau
để “người mình
tự quản lấy việc
mình”.
Đêm hôm
đó, hai
chúng tôi
ngủ lại ở chỗ Lương
Văn Ý chuyện
trò thêm
với ông ta
và hẹn sau
này sẽ đến gặp
Hoàng Lương.
Sáng sớm,
chúng tôi
trở về Long
Châu.
Mấy hôm sau,
tôi gặp Cảm Duy
Ưng để cảm ơn về việc
đã giới thiệu
cho gặp Phục quốc
quân; đồng thời
đề nghị với ông
ta về việc lập Biện sự
xứ Việt Minh ở Long
Châu, và
trước mắt thì
tạm lấy một danh nghĩa
gì đấy để đi
lại hoạt động cho dễ.
Tôi đề nghị lấy
danh nghĩa Việt
Nam Hoa kiều
kháng Nhật
công
tác đội,
và lấy một
cái huy hiệu để
dùng lúc
đi lại cho khỏi phải
xin giấy chứng minh
của Quân bộ
luôn luôn.
Ông ta đồng
tình. Thế
là chúng
tôi mở một tiệc
trà chiêu
đãi giới thiệu
việc thành lập
Việt Nam Hoa kiều
kháng Nhật
công
tác đội,
giới thiệu tình
hình
cách mạng Việt
Nam, sau đó đi
đâu chúng
tôi tự đeo huy
hiệu của đội có
đóng dấu
Quân bộ. Huy
hiệu này hiện
nay đồng chí
Hoàng Điền
còn giữ được
một cái.
*
Sau Tết âm lịch
độ năm sáu
ngày, anh
Hoàng Sâm
đến Long Châu
gặp tôi truyền
đạt chỉ thị của
Bác giao
thêm nhiệm vụ
mới là lập cơ
quan bí mật ở
vùng Long
Châu để khi cần
thiết thì
dùng đến. Theo
sự giới thiệu
riêng của
Bác, tôi
và anh
Hoàng Sâm
gặp một cán bộ
chỉ huy du lịch ở Long
Châu để
bàn về việc
này. Ông
ta giới thiệu đi gặp
một ông
liên trưởng họ
Mã đóng
ở vùng Hạ Thạch
giáp giới với
ta, và
chúng tôi
đã đến thẳng Hạ
Thạch gặp ngay ở
liên bộ.
Ông liên
trưởng họ Mã
này có
lẽ là một
cán bộ của
Đảng. Qua mấy
ngày ở
liên bộ,
chúng tôi
thấy ông rất
giản dị, có cảm
tình rất tốt
với anh em binh
lính và
nhân dân
địa phương. Ở
đó trời mưa
phùn đã
mấy hôm liền,
nhưng ông
và ông
thôn trưởng
đã xắn quần
lên cùng
chúng tôi
đi xen xét
nhiều nơi trong
vùng, cuối
cùng
chúng tôi
đã tìm
được một cái
thung lũng có
một gia đình
nông dân
ở, có thể
làm cơ quan
bí mật đi lại
với trong nước,
và nếu cần
thì có
thế in sách,
báo, tài
liệu ở đó.
Ngoài việc
tìm lập cơ quan
bí mật ra,
chúng tôi
còn đến
các nơi
có cơ sở quần
chúng tốt ở
Trung Quốc mà
trước kia đồng
chí
Hoàng Văn Thụ
đã từng được
giúp đỡ, như
đến Bản Kích
liên lạc với
ông Phan, đến
Bản Chang liên
lạc với ông
Tài Thầu,
và liên
hệ với một số người
có cảm
tình với
cách mạng Việt
Nam ở Long Châu,
trong đó
có anh Triệu
Khổ Nhân, một
người biên tập
chủ yếu của tờ Long
Châu nhật
báo, để
tuyên truyền
cách mạng
và vận động họ
giúp đỡ.
Hoạt động ở Long
Châu như vậy
có thể
nói là
có kết quả.
Tôi về
Pác Bó
để báo
cáo công
tác. Còn
anh Hoàng
Sâm vẫn ở lại
Long Châu để
củng cố thêm
tinh thần và
giúp đỡ
các anh
còn ở Lũng
Già về ý
kiến khi cần có
sự giúp đỡ.
IV. Hoạt động ở
Tịnh Tây
Lần này,
trên đường về
Pác Bó,
khi qua Tịnh
Tây, tôi
vào chỗ anh em
ở mấy hôm để nắm
tình
hình. Ở
đây, các
anh Đồng, Giáp
đã tổ chức được
chỗ ở riêng
biệt, không
dính với
đám Trương Bội
Công.
Ngoài những anh
em ở Côn Minh
về, còn
có Nguyễn Hải
Thần và Trần
Báo cũng nhận
là Việt Minh
và cùng
ở một chỗ. Sự quan hệ
với Trương Bội
Công bề
ngoài
không có
gì căng thẳng,
nhưng ai làm
việc nấy, anh em
mình đã
có sự
liên hệ trực
tiếp với Trần Bảo
Thương, Chủ nhiệm Chỉ
huy sở, đại biểu cho
Trương Phát
Khuê.
Ở Tịnh Tây
ít hôm,
anh Lộc đưa tôi
về Pác
Bó gặp
Bác để
báo cáo
công tác,
rồi lại ra Tịnh
Tây cùng
các anh Phạm
Văn Đồng, Võ
Nguyên
Giáp hoạt động
công khai.
Tôi được chỉ
định làm
Bí thư Đảng,
chịu trách
nhiệm báo
cáo và
liên lạc với
Trung ương Đảng trong
nước.
Trong thời gian
này, công
tác chủ yếu của
chúng tôi
ở Tịnh Tây
là chuẩn bị
triệu tập đại hội
thành lập hội Việt
Nam dân tộc
giải phóng
đồng minh thay
cho cái gọi
là Việt Nam
dân tộc giải
phóng ủy
viên hội
mà Trương Bội
Công và
bè lũ đã
tuyên truyền
rùm beng
là cơ quan
lãnh đạo
cách mạng Việt
Nam.
Nguyên
vào khoảng giữa
năm 1940, khi Trương
Bội Công được
gọi ra thành
lập cơ quan
tình
báo, Quốc
dân đảng Trung
Quốc cho phép y
dùng cái
tên Việt Nam
dân tộc giải
phóng uỷ
viên hội
in vào phong
bì và
giấy viết thư để
dùng. Đó
chẳng qua chỉ
là cái
biệt hiệu của cơ quan
tình báo
do Trương Bội
Công điều khiển.
Tháng
tám năm
ngoái,
lúc ở Liễn
Châu,
chúng tôi
đã thấy,
đã hiểu
và không
thèm đếm xỉa
đến. Nhưng khi
chúng tôi
bỏ Liễu Châu đi
Quế Lâm,
thì Trương Bội
Công vội
vã chạy đến
Tịnh Tây mở một
tiệc trà
chiêu đãi
tuyên bố việc
thành lập
cái “uỷ
viên hội” ấy
và giới thiệu
những người phụ
trách của “uỷ
viên hội”, trong
đó có
Trương Bội Công,
Nguyễn Hải Thần
và hai người
Hoa kiều.
Chiêu đãi
và tuyên
bố xong, Trương Bội
Công liền
phái Nguyễn Hải
Thần đi Quế Lâm
để vận động xin viện
trợ, thì vừa
khéo lúc
đó các
anh Võ
Nguyên
Giáp, Vũ Anh,
Cao Hồng Lĩnh cũng đến
Tịnh Tây,
các anh
bàn với nhau cử
anh Võ
Nguyên
Giáp
cùng đi với
Nguyễn Hải Thần để
lái ông
ta chuyển ra
thành người
Việt Minh, vì
năm 1936 khi
thành lập Việt
Minh ở Nam Kinh,
Nguyễn Hải Thần được
chúng tôi
gọi từ Quảng
Đông lên,
có tham gia mọi
việc hoạt động rất
tích cực.
Còn hai anh Vũ
Anh và Cao Hồng
Lĩnh vẫn ở lại Tịnh
Tây để thực hiện
chỉ thị của
Bác: Tìm
cách nắm lấy số
hơn bốn mươi anh em từ
trong nước ra;
phân hóa
đám người của
Trương Bội Công,
vận động Trương Bội
Công đánh
điện lên Quế
Lâm mời đại biểu
Biện sự xứ Việt Minh
về Tịnh Tây để
bàn bạc
công việc.
Mọi kế hoạch bố
trí của ta đều
đạt kết quả: Anh
Giáp đưa Nguyễn
Hải Thần đi Quế
Lâm và
kéo ông
ta về với Việt Minh
thật; hơn bốn mươi anh
em trong nước ra, ta
cũng nắm được thật;
Trương Bội Công
cũng đánh điện
lên Quế
Lâm mời Việt
Minh thật.
Thực ra, việc
chúng ta
kéo cả một
đoàn người
công khai từ Quế
Lâm về Tịnh
Tây là
kết quả hoạt động dưới
sự chỉ đạo tỉ mỉ
và khôn
khéo của
Bác. Tuy
nhiên, bức điện
của Trương Bội
Công vốn
có ý
nghĩa quan trọng
là ở chỗ
ông ta phải thừa
nhận sự tồn tại của
Việt Minh, thừa nhận
phải bàn bạc
với Việt Minh mới
có thể
đóng nổi vai
trò giả danh
cách mạng, mới
được sự tín
nhiệm của Quốc
dân đảng Trung
Quốc.
Nhưng chúng ta
về Tịnh Tây lại
không phải
là để
“bàn bạc
công việc” với
Trương Bội Công,
mà để tạo điều
kiện thuận lợi cho
cách mạng ở
ngoài nước, tổ
chức lực lượng
cách mạng ở
trong nước, để đấu
tranh vạch mặt y,
phân hóa
lực lượng của y.
Với mục đích
đó,
chúng ta đề
nghị lập hội Việt
Nam dân tộc
giải phóng
đồng minh
mà anh em
thường hay gọi gọn
là “Hội giải
phóng” thay cho
cái gọi
là Việt Nam
dân tộc giải
phóng uỷ
viên hội.
Chúng ta
đã giải
thích:
Đã gọi
là giải
phóng Việt Nam,
thì phải
có quần
chúng Việt Nam,
phải có người
Việt Nam cả ở
ngoài nước lẫn
trong nước, chứ nếu
chỉ có một
nhúm người
thoát ly quần
chúng quanh
quẩn ở đây
thì giải
phóng
gì?
Chúng ta đề
nghị thành lập
“Hội giải
phóng” bằng
cách triệu tập
một cuộc đại hội ở
Tịnh Tây, gồm
đại biểu ở hải ngoại
và đại biểu
các đoàn
thể cách mạng
trong nước, để
thông qua điều
lệ và cử ra ban
lãnh đạo chung.
Chúng tôi
sẽ tham gia và
sẽ thông tri cho
các đoàn
thể Việt Nam trong
nước cũng đến Tịnh
Tây tham gia.
Không có
lý do gì
để bác bỏ, Quốc
dân đảng Trung
Quốc đành phải
đồng ý với đề
nghị của chúng
ta. Nhưng nói
cho đúng
thì dụng
ý của họ
không phải ở chỗ
thành lập “Hội
giải phóng”
mà ở chỗ muốn
qua việc đó để
dò xem lực
lượng thực sự ở trong
nước của ta như thế
nào. Quốc
dân đảng Trung
Quốc đã đồng
ý thì
Trương Bội Công
tự nhiên
là phải
cúi đầu
làm, chẳng
còn chối
cãi vào
đâu được.
*
Vào khoảng
tháng 4 năm
1941, các đại
biểu của ta từ trong
nước ra để dự Đại hội
thành lập hội Việt
Nam dân tộc
giải phóng
đồng minh
đã đến
đông đủ.
Đại biểu của
chúng ta, người
từ trong nước ra cũng
như người đang ở Tịnh
Tây, hoặc từ
Long Châu đến,
đều được theo sự nhu
cầu trong lúc
đó mà
“phân vai”.
Có người
là đại biểu địa
phương như đại biểu
cho tỉnh này,
tỉnh khác, đại
biểu cho Trung kỳ, Nam
kỳ v.v… Có
người đại biểu cho
đoàn thể, như
thanh niên,
nông dân,
văn hóa, v.v…
Đặc biệt có một
người lấy tên
Hà Đức Phương
đại biểu cho
lãnh tụ Việt
Minh là
Hoàng Quốc Tuấn
vì sức khỏe
và đường
sá khó
khăn quá
không thể đến
được. Hoàng
Quốc Tuấn là
một cái
tên tự
chúng ta bịa ra
để giới thiệu với
đương cục Trung Quốc.
Dự Đại Hội về
phía Trương Bội
Công có
độ năm, sáu
người. Về phía
Việt Minh có độ
hai chục người. Về
phía Trung Quốc
có đại biểu
đương cục Tịnh
Tây, đại biểu
Chỉ huy sở của Trương
Phát
Khuê, mấy người
quân nhân
có trách
nhiệm ở vùng
biên giới, Ngũ
Căn Hoa, đội trưởng
Trung - Việt
biên khu
chính trị
công tác
đội; và Chủ
nhiệm Dương Kế Vinh,
đại biểu Lý Tế
Thâm từ Quế
Lâm về.
Đại hội thành
lập diễn ra rất đơn
giản: Sau khi khai mạc
và tuyên
bố việc thành
lập, anh Hà Đức
Phương thay mặt Tổng
bộ đọc bức thư của
lãnh tụ
Hoàng Quốc Tuấn
gửi Đại hội; rồi
Trương Bội Công
đọc bức điện Đại hội
gửi “Tưởng uỷ
viên trưởng”.
Tiếp đó,
phía Trung Quốc
có Nhan Tăng
Vũ, sư trưởng sư
đoàn
đóng dọc
biên giới
phát biểu
ý kiến tỏ
thái độ đồng
tình với
cách mạng Việt
Nam; rồi đến Dương Kế
Vinh diễn giảng theo
kiểu huấn thị, đại
ý nói
cách mạng Việt
Nam không dựa
vào sức mạnh
Trung Quốc,
không ủng hộ Hoa
quân nhập Việt
thì không
thể làm
gì được.
Phần nói chuyện
xong, Đại hội cử ra
Ban Chấp hành
Trung ương: Về
phía Trương Bội
Công có
vài người. Về
phía Việt Minh
có anh Phạm Văn
Đồng, anh Võ
Nguyên
Giáp và
tôi là uỷ
viên
chính thức,
Trần Báo
là Ủy
viên Trung ương
dự khuyết, còn
một số người nữa
là người ở
trong nước,
không nhớ
tên. Ban
giám sát
Trung ương gồm
có ba người
là Nguyễn Hải
Thần, Bùi Ngọc
Thành và
Đặng Văn Cáp
mà Nguyễn Hải
Thần là Chủ
tịch.
Dưới Ban chấp
hành Trung
ương, chia ra
các tổ:
- Tổ Chính
vụ: Trương Bội
Công ,
Lâm
Bá Kiệt,
Dương Hoài
Nam, Lý
Quang Hoa…
- Tổ Quân
sự: Lê Thiết
Hùng,
Trương Trung
Phụng…
- Tổ Ngoại giao:
Trần Báo…
- Tổ Tài
vụ: Cao Hồng Lĩnh…
[4]
Thế là trong
danh sách Trung
ương, danh sách
Ban giám
sát và
cả danh sách
các tổ đều
không có
một người Hoa kiều
nào. Đó
là một thắng
lợi rất có
ý nghĩa.
Nguyên trong
quá
trình vận động,
đương cục Trung Quốc
và Trương Bội
Công cố
nài cho được
hai người Hoa kiều
là Mai
Công Nghị
và Dương Thanh
Dân vào.
Đồng chí ta
cũng phân
vân không
dám quyết định,
nhưng khi báo
cáo với
Bác, Bác
nói dứt
khoát:
Đã là
cách mạng Việt
Nam thì
không thể do Hoa
kiều lãnh đạo.
Chúng tôi
đã đấu tranh
theo hướng đó,
và cuối
cùng họ
không có
lý do gì
để áp đặt theo
ý muốn của họ.
Đối với Đại hội,
Trương Phát
Khuê có
gửi một bức trướng
mừng, đề bốn chữ “Minh
chúc
thiên nam”,
tôi dịch
là “Soi rạng
trời nam”. Dịch như
vậy là
có ý
muốn lấy bốn chữ dịch
bốn chữ cho cân
đối và dễ đọc,
nhưng nếu dịch
đúng theo
ý tứ của họ,
thì phải dịch
là “Nhìn
rõ phía
Nam của trời”,
ý tứ là
trời của họ, chứ
không phải trời
Việt Nam.
Lý Tế
Thâm cũng gửi
một bức trướng mừng,
đề bốn câu thơ:
Trung - Việt dân
tộc,
Thuần xỉ quan
thiết.
Tiền sỉ đồ tồn,
Duy thiết dữ huyết.
Bài thơ
này, tôi
đã dịch
thành tiếng
Việt và viết
luôn vào
phía dưới
bài thơ chữ
Hán. Dịch như
sau:
Hai dân tộc
Trung - Việt,
Như môi răng
quan thiết.
Rửa thẹn, mưu sống
còn,
Chỉ có sắt
và huyết.
Ngoài ra,
còn một bức
trướng mừng của Hội
phản xâm lược
đồng minh Triều
Tiên được
bọn Quốc dân
đảng Trung Quốc nặn ra
ở Quế Lâm, do
một “Trương Bội
Công Triều
Tiên” là
Lý Nhược Sơn
nắm.
Sau khi Đại hội họp
xong, Bác kế
hoạch cho đưa những
thứ này về
triển lãm lưu
động ở một số nơi
trong tỉnh Cao Bằng để
gây ảnh hưởng,
và tuyên
truyền cách
mạng ta được “Đồng
minh” giúp.
Mục đích ta
tham gia tổ chức Hội
giải phóng
này cốt để hợp
pháp hóa
những hoạt động của
chúng ta ở nước
ngoài,
và cũng để
tranh thủ sự viện trợ
ở ngoài về vật
chất cũng như về tinh
thần được chừng
nào hay chừng
ấy, nhưng Việt Nam độc
lập đồng minh hội vẫn
là một tổ chức
hoàn
toàn độc lập.
Việc thành lập
Hội giải phóng
theo đề nghị của
chúng ta lần
này, về
chính trị cũng
như về thành
phần cơ cấu
“lãnh đạo”,
chúng ta
đã chiếm ưu thế
tuyệt đối, và
có thể
nói
chúng ta nắm sự
chi phối hoàn
toàn. Nhưng như
vậy, thì
cái Hội giải
phóng đó
có thể coi
là một tổ chức
lãnh đạo
cách mạng được
không?
Không! Đây
chỉ là một cơ
cấu chính trị
do Quốc dân đảng
Trung Quốc và
tay sai của
chúng định lập
ra để phục vụ cho mục
đích đen tối,
mà chúng
ta đã đấu tranh
uốn nắn nó
thành ra một
thứ công cụ
có thể
dùng để
làm lợi cho
cách mạng của
ta. Về điểm
này, ngay bản
thân
chúng tôi
lúc đầu cũng
chưa thấm nhuần hết,
nên khi Hội
thành lập xong,
chúng tôi
đã xuất bản một
tờ báo nhỏ lấy
tên là Giải
phóng. In
xong đưa về nước mấy
số, Bác xem rồi
phê phán
và giải
thích: Việc
lãnh đạo
cách mạng
là do Đảng ở
trong nước, chứ
không phải
là Hội giải
phóng. Ra
báo thế
này sẽ
làm cho quần
chúng hiểu lầm.
Cần đình chỉ,
không ra nữa.
Những số đã in
ra rồi thì chỉ
để mấy tờ gửi cho một
số cơ quan của Trung
Quốc, còn nữa
phải đốt hết, tuyệt
đối không được
phát cho quần
chúng. Việc
này tuy cũng
bình thường
và đã
qua đi lâu rồi,
nhưng tôi muốn
nhắc lại để thấy
rõ cái
ý nghĩa chiến
lược và
sách lược của
chúng ta do
Bác Hồ trực
tiếp chỉ đạo trong
lúc đó.
Trong
khi chuẩn bị
cho Đại hội
thành
lập Hội giải
phóng,
chúng
ta [5]
đã
yêu cầu
đương cục
Trung Quốc
giúp
huấn luyện cho
một số
cán bộ
quân sự
[6]
và một
số cán
bộ về
môn bộc
phá.
Đương cục
Trung Quốc
đã
đáp ứng
yêu cầu
đó với
sự tính
toán
bẩn thỉu
là sẽ
nhồi sọ
cán bộ
ta, để từ nội
bộ ta
chúng
nặn ra một số
tay sai đắc
lực.
Sau khi Hội
giải
phóng
thành
lập,
cán bộ
Việt Minh từ
Cao Bằng, Lạng
Sơn,
Thái
Nguyên
và một
ít ở
dưới
xuôi lục
tục kéo
ra để dự
các lớp
huấn luyện.
Lớp bộc
phá
có mười
hai người được
tổ chức ngay
tại Tịnh
Tây,
bên hồ
Đại Long
Đàm,
gần Chỉ huy sở
của Trần Bảo
Thương, chỉ
huấn luyện độ
hai mươi
ngày
rồi
phái về
nước
công
tác.
Còn lớp
quân sự,
có độ
sáu
mươi người,
thì họ
bảo tập trung
ở Biển
Đông với
lý do ở
Tịnh Tây
không
có điều
kiện vật chất,
nhưng thật ra
thì họ
muốn đưa anh
em đi xa để dễ
bề khống chế.
Khi anh em
còn ở
Biển
Đông,
chúng
ta đề cử anh
Lê Thiết
Hùng
làm phụ
trách,
sau họ
tìm
cách
gạt đi, đưa
người của họ
vào
thay, ngăn cản
không
cho anh em
liên lạc
với
chúng
tôi,
đồng thời đưa
anh em đi Nam
Ninh, xa Tịnh
Tây hơn,
và cứ
chần chừ
mãi cho
đến khoảng
cuối năm 1941,
mới bắt đầu mở
lớp huấn
luyện. Trong
quá
trình
huấn luyện họ
đã
dùng
trăm phương
nghìn
kế để
phân
hoá
và
lôi
kéo anh
em, nhưng kết
quả họ
đã
không
lôi
kéo
được ai,
vì anh
em biết
đoàn
kết, đấu
tranh, quyết
không để
một người
nào sa
ngã
thành
tay sai của
họ.
Đi đôi
với âm
mưu huấn
luyện, họ
còn
có
âm mưu
muốn
tìm
hiểu lực lượng
của
chúng
ta sâu
hơn nữa.
Trương
Phát
Khuê
yêu cầu
chúng
ta cho một
người sĩ quan
họ Lục cấp
thượng
tá [7]
vào
Việt Nam để
quan
sát.
Bác chỉ
thị cứ đồng
ý cho
vào.
Đến Việt Nam,
Lục thượng
hiệu đã
được đi qua
những
núi
cao, rừng rậm,
những suối
nhỏ, hồ
sâu,
đã đến
nhiều
làng
bản, đã
luôn
luôn gặp
đội vũ trang
của ta,
đã đi
vòng
quanh những
trạm
gác
và đồn
lính
của địch,
và
đã nếm
cái
cảnh vắt cắn.
Ban
ngày
chỉ được ở
trong
nhà
quần
chúng
hoặc ở trong
hang
núi,
ban đêm
mới được đi,
đi rất mệt,
rất khổ
và
nhiều
lúc rất
nguy hiểm;
nhưng đến
đâu
ông ta
cũng được quần
chúng
trai,
gái,
già,
trẻ của
các
dân tộc
Thổ,
Mán,
Nùng,
Kinh hoan
nghênh
và tiếp
đãi rất
hậu, với danh
nghĩa
là tiếp
đãi
“Bạn đồng
minh”. Kế
hoạch hướng
dẫn đi quan
sát
và sự
tiếp
đãi đều
do Bác
trực tiếp vạch
ra và
chỉ đạo thực
hiện tỉ mỉ.
Quan
sát
xong, về đến
Tịnh
Tây, Lục
thượng hiệu
viết một bản
báo
cáo
dài năm
mươi tờ [8]
trình
Trương
Phát
Khuê với
kết luận: Hơn
tám
mươi phần trăm
nhân
dân ở
mấy tỉnh
mà
ông ta
đã thị
sát [9]
đều theo Việt
Minh,
nên
Trung Quốc
muốn
làm
gì ở
Việt Nam
có hiệu
quả, nhất định
phải
liên hệ
với Việt Minh
mới được.
Có
nhiên
báo
cáo của
ông ta
có
nhiều chỗ thổi
phồng
lên để
khoe
công,
nhưng
cái kết
luận như thế
lại là
một thực tế.
*
Một việc buồn
cười,
là Hội
giải
phóng
vừa
thành
lập xong
thì
Trương Bội
Công
chuồn đi
Bình
Mãnh
ngay,
và chỉ
mấy hôm
sau đó,
khi nội bộ
chúng
ta đang
liên
hoan với nhau
thì
Trương Bội
Công bị
bắt ở
Bình
Mãnh,
với cái
tội danh
là
dính
vào
việc
buôn
lậu.
Đúng,
Trương
có
làm
cái
nghề
buôn lậu
thật, một số
học trò
quân sự
của y
đóng
quân ở
biên
giới đã
thông
đồng với y
chuyển
hàng
lậu từ Việt
Nam về Trung
Quốc, đồng
thời chuyển
vật tư chiến
tranh từ Trung
Quốc sang cho
Nhật và
Pháp ở
Việt Nam.
Nhưng
nguyên
nhân chủ
yếu
không
phải ở chỗ
đó,
mà
là vấn
đề
chính
trị.
Nguyên
Trương Bội
Công từ
khi được Quốc
dân đảng
Trung Quốc
dùng
đến nay
đã
liên
tiếp vấp phải
nhiều thất
bại: Việc thứ
nhất là
khi ở Liễu
Châu
chúng
tôi
đòi
phải
rút
tên khỏi
danh
sách
đội công
tác của
ông ta.
Việc thứ hai
là lớp
học sinh hơn
bốn mươi người
ở Tịnh
Tây bỏ
về nước
và viết
thư tố
cáo.
Việc thứ ba
là từ
khi đến Tịnh
Tây
ông ta
không
đưa được một
người
nào từ
trong nước ra
và một
người
nào từ
nước
ngoài
về,
trái
lại Việt Minh
thì
nào
là
cán bộ,
nào
là học
sinh, hầu như
lúc
nào
cũng có
người qua lại.
Và việc
thất bại lớn
nhất là
trong việc
thành
lập Hội giải
phóng
lần
này, đọ
sức với Việt
Minh,
ông ta
đã tỏ
ra là
hoàn
toàn
vô dụng.
Ngoài
ra, còn
một việc nữa
cũng
dính
đến
chính
trị là
việc
bán “uỷ
nhiệm trạng” [10]
cho một số Hoa
kiều mong sau
này
“Quốc
quân”
đến thì
đã
có chức
tước sẵn, sẽ
được hưởng
nhiều quyền
lợi. Việc
bán uỷ
nhiệm trạng
này
làm cho
Chính
phủ
Pháp
phải
chính
thức phản
kháng ở
Trùng
Khánh
đòi
Chính
phủ Trung Quốc
phải xử
lý.
Đây
là
cái cớ
trực tiếp
mà
Tưởng Giới
Thạch phải hạ
lệnh cho
Trương
Phát
Khuê bắt
Trương Bội
Công.
Bắt Trương Bội
Công cố
nhiên
là một
hình
thức
giáo
dục để
làm cho
y sau
này trở
thành
một tay sai
ngoan
ngoãn
hơn. Nhưng
cũng có
ý nghĩa
nữa là
ra oai cho
người
khác
biết rằng,
quyền trong
tay họ, họ
muốn bắt ai
lúc
nào
cũng được.
*
Sau khi Trương
Bội Công
bị bắt,
nhóm
người bộ hạ
của y dần dần
phân
tán đi,
đặt dưới quyền
điều khiển
trực tiếp của
Chỉ huy sở.
Mọi hoạt động
cách
mạng ở Tịnh
Tây hầu
như đều do
nhóm
Việt Minh nắm
cả.
Tháng 5
năm 1941,
Trung ương họp
Hội nghị lần
thứ tám
ở Pác
Pó,
tôi được
gọi về tham
dự. Nhưng
trong
quá
trình
Hội nghị,
tôi
thường phải
chạy đi chạy
lại giữa
Pác
Pó với
bên kia
biên
giới để bố
trí
việc cảnh giới
từ hướng Bắc,
bảo đảm an
toàn
cho Hội nghị [11]
. Vì
vậy, tôi
chỉ tham dự
Hội nghị một
số buổi.
Về chủ trương
đường lối
mà Hội
nghị vạch ra
đều đã
ghi rõ
trong văn kiện
của Đảng. Ở
đây,
tôi chỉ
kể lại một
vài
việc mà
trong
lúc
đó
tôi
có ấn
tượng rất
sâu:
- Trong hội
nghị, theo
ý kiến
của
Bác,
Trung ương
đã
quyết định đổi
tên Mặt
trận phản đế
Đông
Dương
thành Mặt
trận Việt Nam
độc lập đồng
minh, gọi
tắt là
Việt Minh.
Như vậy, tổ
chức Việt Minh
mà
chúng
tôi sử
dụng ở Trung
Quốc hồi đầu
năm 1963 như
một
sách
lược đối
phó với
hoàn
cảnh để hoạt
động hợp
pháp,
thì từ
cuối năm 1940,
qua sự chỉ đạo
của
Bác,
đã
có
những hoạt
động thực sự,
và nay
đã trở
thành
một mặt trận
rộng
rãi,
tập hợp quần
chúng
đông đảo
của các
hội cứu quốc,
thực hiện
đường lối
chiến lược
“liên
minh tất cả
các lực
lượng giai
cấp, đảng
phái,
các
nhóm
cách
mạng cứu nước,
các
tôn
giáo để
chống
Pháp,
Nhật”, như
nghị quyết
Trung ương
đã
xác
định.
- Trong Hội
nghị,
các
đồng
chí đề
nghị
Bác
làm
Tổng bí
thư Ban Chấp
hành
Trung ương
Đảng để trực
tiếp
lãnh
đạo
cách
mạng cả nước,
nhưng
Bác
đã
kiên
quyết từ chối,
và đề
nghị cứ để
đồng
chí
Trường Chinh,
người
đã từng
lãnh
đạo công
tác
Đảng trong
nước, đảm
nhiệm chức vụ
Tổng bí
thư của Đảng.
Tuy vậy, đồng
chí
Trường Chinh
cũng như
toàn
thể Trung ương
vẫn coi
Bác
là bậc
thầy, vẫn
dành
cho Bác
quyền
lãnh
đạo cao nhất.
Hội nghị Trung
ương xong,
các anh
Trường Chinh,
Hoàng
Quốc Việt về
xuôi
hoạt động.
Vì
đường đi từ
Pác
Pó về
xuôi bị
địch kiểm
soát
gắt
quá,
nên phải
vượt
biên
giới sang
Trung Quốc, đi
vòng
qua Long
Châu,
rồi về lối
Thất
Khê,
Lạng Sơn. Anh
Cao Hồng Lĩnh
tổ chức chuyến
đi này.
Khi qua
các
trạm
gác của
Quốc dân
đảng Trung
Quốc, anh Lĩnh
cứ dùng
giấy đi đường
“Hoa Nam
công
tác
đoàn”
do Lý
Tế Thâm
cấp cho
chúng
tôi
trước
đây,
nên khi
gặp rắc rối
đã giải
quyết được
trót
lọt,
không
xảy ra việc
gì
đáng
tiếc.
Về phần
tôi, sau
Hội nghị Trung
ương,
tôi cũng
đi Long
Châu để
xếp đặt
công
việc ở
đó, đặc
biệt là
việc
thành
lập Biện sự xứ
Việt Minh ở
Long
Châu
và giới
thiệu anh Cao
Hồng Lĩnh
làm Chủ
nhiệm Biện sự
xứ.
Cũng trong
thời gian
này,
tôi
đã gặp
các anh
Hoàng
Văn Kiểu, Bế
Chấn Hưng từ
Lạng Sơn chạy
ra, tôi
đã phổ
biến chương
trình
và
phương
pháp
hoạt động của
Việt Minh,
phái
các anh
về củng cố cơ
sở ở
vùng
Hội Hoan
và
các
vùng
gần biên
giới Việt –
Trung.
Đó
là một
công
việc có
liên
quan đến
công
tác Nam
tiến sau
này
nhằm
đánh
thông
đường Cao Bằng
- Lạng Sơn
xuống
Thái
Nguyên.
*
Mọi công
tác của
Việt Minh đều
phát
triển thuận
lợi. Nhưng
không
phải là
thuận lợi cho
mưu đồ xấu xa
của Quốc
dân đảng
Trung Quốc,
càng
không
phải là
thuận lợi cho
việc Hoa
quân
nhập Việt. Về
điều
này
đương cục
Trung Quốc
hiểu rất
rõ, đặc
biệt là
Trần Bảo
Thương, người
trực tiếp phụ
trách
Chỉ huy sở
Tịnh Tây
lại
càng
rõ hơn
ai, và
càng
có
trách
nhiệm phải
tích
cực đối
phó.
Nếu trước kia
ông ta
đặt hy vọng
vào
Trương Bội
Công,
thì
bây giờ
Trương
đã bị
bắt, ông
ta đặt hy vọng
vào
Nguyễn Hải
Thần và
Trần
Báo,
những người
cũng có
danh nghĩa
là “phụ
trách”
của Việt Minh
và
là
người
mà
ông ta
nhận thấy
có thể
tin cậy.
Thời gian
trước
và sau
khi lập Hội
giải
phóng,
Trần Bảo
Thương định
dùng
thủ đoạn lung
lạc, nên
đối với
chúng
tôi
có vẻ
rất trịnh
trọng
và rất
tốt. Cứ thường
thường mời
chúng
tôi đến
ăn cơm, một
vài
tuần lại mời
chúng
tôi đến
nói
chuyện về
tình
hình
Việt Minh cho
nhân
viên Chỉ
huy sở
và một
số cơ quan hữu
quan nghe. Khi
chúng
tôi đến
nói
chuyện, Trần
Bảo Thương
thường chạy ra
cửa đón
bắt tay,
và mọi
người đều đứng
dậy
chào
rồi mời ngồi
xuống như một
lớp học
chào
thầy
giáo
rồi mới nghe
giảng.
Có lần
ông ta
còn ngỏ
ý muốn
ủy nhiệm
tôi
làm
thượng
tá để
“dễ bề
liên
lạc”. Nhưng
chúng
tôi
đã biết
đây
là một
thủ đoạn nhằm
biến
mình ra
thành
người bộ hạ
của họ, để họ
dễ sai khiến,
nên
chúng
tôi
đã
báo
cáo với
Bác,
và cự
tuyệt
không
nhận. Nhưng
cũng trong
thời gian
này,
Nguyễn Hải
Thần lại gọi
cháu
gái
và
cháu rể
về Tịnh
Tây chạy
chọt xin việc
làm ở
Chỉ huy sở;
chúng
tôi giải
thích
và
nghiêm
nghị
nói dứt
khoát
là
không
nên
làm như
thế, Nguyễn
Hải Thần vẫn
bí mật
đi lại Chỉ huy
sở nài
xin.
Mục
đích
của Nguyễn Hải
Thần đi với
chúng
ta là
cốt để
có địa
vị, có
danh vọng
và lợi
lộc
riêng,
nhưng trong
quá
trình
gần gũi,
ông ta
thấy
chúng
ta chỉ
là
những người
cách
mạng,
không
vì danh
lợi, và
cũng
không
giúp
gì cho
ông ta.
Thêm
vào
đó lại
có Trần
Báo
là một
tên phản
Đảng,
hàng
ngày to
nhỏ
mách
nước cho
ông ta
cùng
tìm
cách
đẩy
chúng
tôi đi
chỗ
khác để
chúng
có thể
choán
được vị
trí chi
phối.
Chúng
đã
báo cho
Trần Bảo
Thương biết
chúng
tôi
là cộng
sản, và
bịa đặt ra
chứng cớ để
xác
minh điều
chúng
báo
cáo.
Cho nên
sau khi Hội
giải
phóng
được
thành
lập chỉ mấy
tháng
thì
Trần Bảo
Thương tỏ vẻ
lạnh nhạt với
chúng
tôi,
có khi
nói
thẳng ra rằng
chúng
tôi
là cộng
sản. Và
một việc rất
láo
xược là
Dương Kế Vinh
đã
trắng trợn
nêu
ý kiến
đòi anh
Phạm Văn Đồng
và anh
Võ
Nguyên
Giáp
phải đi
Trùng
Khánh
học Tam
dân chủ
nghĩa! Những
chuyển biến
đó
chúng
tôi đều
về Pác
Pó
báo
cáo với
Bác.
Sau khi nghe
báo
cáo
và
nghiên
cứu đầy đủ,
Bác chủ
trương
các anh
Đồng,
Giáp,
Lê Thiết
Hùng,
Cao Hồng Lĩnh
và một
số người
khác
đều về nước;
còn
tôi
thì ở
lại với nhiệm
vụ duy
trì cứ
điểm Tịnh
Tây,
và
hòa
hoãn
được Nguyễn
Hải Thần chừng
nào hay
chừng ấy. Cụ
Lê Nhuận
Chi, anh Phạm
Việt Tử, anh
Mã
Thành
Kính
cũng ở lại
Tịnh Tây
với tôi.
Việc đại bộ
phận
các
đồng
chí ta
kéo về
nước đã
làm cho
Nguyễn Hải
Thần hí
hửng,
càng tỏ
ra đối lập.
Còn
Trần Bảo
Thương
thì hết
sức bực tức,
bất kể
có
chuyện
gì đều
to nhỏ với
Nguyễn Hải
Thần và
Trần
Báo,
ông ta
chẳng những
không
vồn vã
với tôi
như trước,
mà
còn hết
sức
tránh
không
gặp. Tôi
về Pác
Pó
báo
cáo,
Bác chủ
trương
hãy cứ
cố gắng duy
trì
thêm
nữa, Trung
ương sẽ bố
trí
người gặp
Nguyễn Hải
Thần để thuyết
phục, may ra
có thể
giữ ông
ta lại được.
Nhưng lần
này,
tôi trở
lại Tịnh
Tây
thì
Nguyễn Hải
Thần lại
càng
găng.
Ông ta
đã
kéo cụ
Lê Nhuận
Chi, anh Phạm
Việt Tử, anh
Mã
Thành
Kính đi
ăn ở một chỗ
khác
ngoài
trụ sở của
Việt Minh
trước kia, để
cô lập
tôi về
mặt
chính
trị và
làm
khó
khăn về mặt
kinh tế. Đồng
thời ông
ta báo
cáo với
Trần Bảo
Thương
là Việt
Minh có
âm mưu
ám
sát
ông ta.
Cuối năm 1941,
tôi lại
về Pác
Pó
báo
cáo,
Bác
nói:
Tình
hình
Tịnh Tây
như vậy
là
tôi
có thể
sắp xếp về
nước
công
tác,
nhưng
hãy đến
Bình
Mãnh
tìm
cách
báo
cáo cho
Trần Bảo
Thương biết
là
mình về
nước, để khỏi
mang tiếng
“chạy trốn”,
rồi sẽ về.
Chuẩn bị xong,
đồng
chí
Đàm
Minh Viễn đưa
tôi ra
Bình
Mãnh ở
nhà
Lương Tĩnh
Sơn, Chủ nhiệm
Biện sự xứ của
Chỉ huy sở
Bình
Mãnh.
Lương
là một
người thường
tỏ vẻ tiến bộ,
hay trao đổi
ý kiến
về cuộc
kháng
chiến Trung
Quốc, về
tình
hình
quốc tế với
chúng
tôi,
thường hay gặp
các
đồng
chí
Lê Quảng
Ba,
Hoàng
Sâm,
Đàm
Minh Viễn,
và tỏ
vẻ đồng
tình
với
cách
mạng Việt Nam.
Nhưng ở
nhà
Lương Tĩnh Sơn
chỉ một buổi
tối,
thì
sáng
hôm sau
tôi bị
bắt ở
đó.
V. Bị bắt ở
Bình
Mãnh
Việc tôi
bị bắt ở
nhà
Lương Tĩnh Sơn
là một
việc có
lai lịch.
Lương Tĩnh Sơn
vốn là
một anh tư sản
nhỏ kiêm
địa chủ ở
Bình
Mãnh,
được Trần Bảo
Thương ủy
nhiệm
làm
chuyên
viên ở
Bình
Mãnh
với chức thiếu
tá. Hắn
thường đi lại
Tịnh Tây
để báo
cáo
công
việc với Chỉ
huy sở,
và
thường gặp
chúng
tôi, tỏ
ra là
một người
thân
thiện,
đôi khi
đưa những
sách
báo
tiến bộ cho
chúng
tôi xem,
hoặc cho
chúng
tôi biết
những tin tức
có
tính
chất “nội bộ”.
Đồng thời ở
Bình
Mãnh,
mỗi lúc
có anh
Lê Quảng
Ba, Đàm
Minh Viễn,
Hoàng
Sâm đến
đó vẫn
thường ở
nhà
hắn. Lần
này từ
Pác
Pó về
nhà
hắn, tôi
liền nhờ hắn
gọi điện thoại
báo cho
Trần Bảo
Thương biết
là
tôi hiện
đang ở
Bình
Mãnh,
nhưng hắn
nói
quanh co
không
chịu điện
thoại,
tôi
đã
có
ý nghi
ngờ nhưng vẫn
tỏ vẻ
bình
tĩnh như
không
có
ý nghĩ
gì.
Tối hôm
ấy, hắn cưới
vợ lẽ,
tôi
còn bỏ
ra mấy đồng
bạc để mua
pháo
mừng hắn.
Trong lễ kết
hôn, hắn
mời tôi
ăn cơm với
Đường Ngạn,
một tay thổ
phỉ nổi tiếng
ở địa phương
được Trần Bảo
Thương phong
chức tham nghị
với cấp thượng
tá.
Cùng ăn
cơm còn
có anh
hương trưởng
và anh
giáo
viên ở
Bình
Mãnh.
Có thể
nói
đó
là một
mâm cỗ
thết những
người thượng
khách
mà
Lương Tĩnh Sơn
là
người chủ ngồi
tiếp
đãi từ
đầu đến cuối.
Tiệc vui xong,
tôi nghỉ
ngay ở
nhà
khách
của hắn.
Sáng
sớm, tôi
còn
ngủ, hắn
đã đến
bên cạnh
giường lay
tôi
và
nói:
Đồng
chí
Lý!
Hương trưởng
muốn mời đồng
chí.
Bừng mắt dậy
thì
thấy bốn anh
lính
dõng
có đeo
súng
pạc-hoọc
đã đứng
bên cạnh
giục tôi
mặc áo
đi qua hương
công sở
ngay.
Đến hương
công sở,
chúng
chẳng
nói
chẳng rằng,
bắt tôi
cùm lại
ở bên
chái
nhà,
rồi bỏ đi. Sau
hai tiếng đồng
hồ, thấy anh
giáo
viên đi
qua, tôi
gọi anh ta nhờ
đi nói
với Lương Tĩnh
Sơn rằng
tôi muốn
gặp. Anh
giáo
viên
cũng chỉ
ì
è một
vài
câu, rồi
bỏ đi. Khoảng
mười giờ,
Lương Tĩnh Sơn
cho người
nhà
mang cơm đến,
tôi từ
chối
không
ăn. Độ khoảng
mười một giờ,
Đường Ngạn đến
thấy tôi
bị cùm
tỏ vẻ sửng sốt
và bực
tức, hắn gọi
bọn
lính
dõng
đến mắng:
Chúng
mày
không
biết đồng
chí
Lý
là một
người
cách
mạng Việt Nam
hay sao?
Dù
trên
có lệnh
giữ đồng
chí ấy,
chúng
mày
cũng phải đối
xử một
cách lễ
phép. Ở
đây,
chúng
mày
có
đông
người,
có vũ
trang, đồng
chí ấy
còn
chạy đi
đâu
và
còn
kháng
cự gì
được mà
chúng
mày đối
xử một
cách
dã man
như thế!
Chúng
mày
phải mở
cùm cho
đồng
chí ấy
ngay!
Bọn
lính
dõng mở
cùm
xong, Đường
Ngạn liền mời
tôi
cùng
ngồi ở
bàn
nói
chuyện. Hắn
nói:
Không
hiểu ở
trên Chỉ
huy sở hay ở
trên
Trung ương
hiểu lầm đồng
chí như
thế
nào,
nhưng bọn
nhãi
con ở
đây
đã
vô lễ
với đồng
chí,
xin đồng
chí
đừng chấp.
Bây giờ,
hương
công sở
theo lệnh
trên sẽ
giải đồng
chí đi
huyện Trấn
Biên,
phải đi đường
hơn ba
ngày
và qua
ba hương
công sở,
tôi sẽ
gọi điện cho
các
hương
công sở
ở địa phương
dọc đường
chiếu cố đồng
chí.
Còn
bây giờ
ra đi,
tôi sẽ
cho một người
đi hộ tống để
bọn
nhãi
con
không
dám
làm
bậy.
Nói
xong hắn bảo
bọn
lính
dõng ra
phố đặt một
bát phở
ngon đưa về
mời tôi
ăn.
Nghe
nói
và thấy
cử chỉ của
Đường Ngạn như
thế, tôi
hiểu rằng
đây chỉ
là một
tấn kịch
có bố
trí,
chứ Lương Tĩnh
Sơn, hương
trưởng, thầy
giáo
hay Đường Ngạn
cũng chỉ
là một
đồng một cốt
mà
thôi. Ăn
phở xong, bốn
tên
lính
dõng
có mang
súng
và mang
theo một cuộn
thừng, giục
tôi
lên
đường. Đường
Ngạn liền gọi
ngay anh
cán bộ
của hắn mang
một khẩu
pạc-hoọc
cùng đi
với tôi
và bốn
anh
lính
dõng.
Đi đường, bụng
bảo dạ rằng
chuyến
này thế
nào
chúng
cũng giết ngầm
mình ở
dọc đường,
vì
trước
đây
đã nghe
chuyện anh Vi
Nam
Bào,
một người Việt
Nam ở Long
Châu
cũng bị
chúng
giải đi
và giết
ngầm ở dọc
đường. Nghĩ
vậy, nên
mỗi lúc
đi qua khoảng
rừng rậm hễ
thấy có
lối đường
mòn rẽ
về một
bên,
thì
đã chờ
đợi việc
chúng
đưa vào
đường rẽ để
bắn chết.
Nhưng sau
nhiều lần đi
qua
quãng
rừng rậm đều
không
thấy xảy ra
việc
gì,
nên
tôi
có phần
yên
tâm. Gần
tối, đến một
hương
công sở
thì
thấy anh hương
trưởng từ
trong chạy ra,
gọi thẳng
tên
tôi
là đồng
chí
Lý, rồi
mời vào
công sở.
Xem giấy
má
và
ký nhận
xong
thì bốn
anh
lính
dõng
và anh
cán bộ
của Đường Ngạn
ở Bình
Mãnh
chào
hương trưởng,
rồi đi chỗ
khác,
còn
hương trưởng
vẫn ngồi
nói
chuyện với
tôi. Một
hồi, cơm trong
nhà
bưng ra
có rượu
thịt tử tế.
Ông ta
cùng
ngồi ăn với
tôi
và
khuyên
đừng ngại,
chắc có
sự hiểu lầm
gì
đây, đến
huyện sẽ được
giải quyết
thôi.
Đêm
hôm ấy,
tôi được
xếp ngủ ở
trong
phòng
làm
việc của hương
trưởng,
có chăn
màn tử
tế, và
cũng có
mấy người
lính
gác,
nhưng chỉ đốt
lửa ngồi sưởi
ở phòng
bên
ngoài.
Ngày
hôm sau,
hương trưởng
này cho
hai anh
lính
dõng
giải tiếp đi,
một mặt gọi
điện thoại cho
hương trưởng
sắp tới,
nói
Đường tham
nghị [12]
dặn phải chiếu
cố đồng
chí
Lý,
không
được ngược
đãi.
Buổi chiều đến
hương thứ hai,
thấy anh hương
trưởng
này
cũng vẫn đối
đãi tử
tế. Và
đến hương thứ
ba cũng vậy.
Đường Ngạn
là một
anh thổ phỉ
sao lại đối
đãi với
mình
tốt như thế?
Lúc
đó cứ
nghĩ rằng hắn
là thổ
phỉ nhưng vẫn
có một
chút
khí
phách
giang hồ; sau
nghĩ kỹ
thì
thấy rằng
đây
có lẽ
là một
sự bố
trí của
Trần Bảo
Thương để
hòng
sau này
còn
có thể
mua chuộc
mình
được.
Khi gần đến
huyện Trấn
Biên,
tôi lấy
tờ danh thiếp
mang tên
Lý
Quang Hoa
và chức
vụ Uỷ
viên
Trung ương Ban
Chấp
hành
của Hội giải
phóng
Việt Nam, viết
sẵn mấy
hàng
chữ ở mặt sau
nói
muốn được gặp
mặt huyện
trưởng để
trình
bày.
Nguyên
ông
huyện trưởng
này
trước kia
đã đến
Tịnh Tây
nhiều lần,
có lần
cùng ăn
cơm với
chúng
tôi
trong bữa tiệc
do
chuyên
viên khu
Thiên
Bảo
chiêu
đãi.
Ông
này
có cảm
tình
với
cách
mạng Việt Nam
và rất
khâm
phục Nguyễn
Hải Thần. Khi
đến huyện,
tôi đưa
ngay tấm danh
thiếp cho
người truyền
đạt nhờ
trình
bày với
huyện trưởng
đang đứng
làm lễ
hạ cờ ở gần
cổng huyện.
Ông ta
nhận được danh
thiếp liền đến
gặp tôi
và đi
thẳng
vào
phòng
thu
phát
hỏi lấy
công
văn, rồi đưa
tôi
lên
công
đường,
vào
phòng
riêng
cùng
ngồi.
Trước khi đi
vào
câu
chuyện,
ông ta
giở công
văn ra xem,
tôi ngồi
trước mặt
trông
thoáng
qua đoạn đầu,
thì ra
chính
Lương Tĩnh Sơn
đã
báo cho
Trần Bảo
Thương
và Trần
Bảo Thương
mệnh lệnh cho
y nói
với hương
trưởng ở
Bình
Mãnh
hợp đồng bắt
tôi giải
lên
huyện. Xem
công văn
xong,
ông ta
nói:
Theo tinh thần
trong giấy tờ
thì
có lẽ
người ta nghi
cho anh
có quan
hệ với địch?
Tôi
đã biết
rằng việc bị
bắt là
do Nguyễn Hải
Thần,
mà
huyện trưởng
này rất
phục Nguyễn
Hải Thần, nếu
sau này
ông ta
biết rõ
Nguyễn Hải
Thần đề nghị
bắt,
thì
có lẽ
ông ta
cũng cho
mình
là
người
không
tốt. Vì
vậy, tôi
đã kiếm
lời đón
trước với
ông ta:
Tôi lần
này bị
bắt chắc
không
phải là
chuyện
gì hiềm
nghi,
mà
chính
là
vì
trong nội bộ
chúng
tôi
có hai
ý kiến
khác
nhau về chủ
trương
cách
mạng: Một
ý kiến
cho rằng
cách
mạng Việt Nam
thì
phải dựa
vào lực
lượng Việt Nam
là
chính,
mà lực
lượng
đó
là cơ
sở quần
chúng
Việt Nam; một
ý kiến
cho rằng
cách
mạng Việt Nam
trong
lúc
này
không
cần tổ chức
quần
chúng
mà chỉ
nhờ vào
việc Hoa
quân
nhập Việt
là
có thể
giải quyết.
Tôi
là
người chủ
trương theo
ý kiến
trên.
Có lẽ
vì thế
mà
người ta muốn
gây
khó dễ
cho tôi.
Tôi đề
nghị ông
cứ đưa
tôi về
Tịnh Tây
gặp chủ nhiệm
Trần Bảo
Thương
thì mọi
việc sẽ
rõ
ràng.
Huyện trưởng
nghe xong,
ngẫm nghĩ một
chút,
rồi
nói:
Việc nội bộ
của các
anh
chúng
tôi
không
hiểu nhưng
tôi
đã quen
biết anh,
tôi sẽ
hết sức
giúp
anh trong phạm
vi quyền hạn
của tôi.
Nói
xong,
ông ta
gọi người
giám
ngục đến dặn
rằng: Đồng
chí
Lý
là một
người
cách
mạng Việt Nam,
không
biết vì
sự hiểu lầm
gì
mà ở
trên
giao
chúng
ta tạm giữ,
vậy anh đưa
đồng
chí
Lý
xuống dưới
trại
cùng
với anh,
và đối
đãi tử
tế, để chờ chỉ
thị.
Tôi tỏ
lời cảm ơn
huyện trưởng,
rồi
cùng đi
xuống chỗ anh
giám
ngục,
cùng ở
chung một
phòng
và
cùng ăn
cơm với anh
ta, chứ
không bị
nhốt
vào
nhà
giam như
các
tù phạm
khác.
Sau đó
khoảng độ hai
mươi
ngày,
huyện trưởng
gọi tôi
lên
huyện đường
với sắc mặt
vui mừng
và
nói:
Việc anh
đã được
giải quyết,
chúng
tôi
đã nhận
được chỉ thị
của Chủ nhiệm
Trần Bảo
Thương bảo đưa
anh về Tịnh
Tây.
Ngay
lúc
đó,
cảnh
sát
trưởng ở huyện
được gọi đến
giao nhiệm vụ
chuẩn bị
ngày
mai đưa
tôi
lên
đường. Lần
này từ
Trấn
Biên đi
Tịnh
Tây, tuy
cũng là
một người bị
giải đi,
có cảnh
sát
trưởng
và bốn
người cảnh
sát
cùng đi
theo, nhưng đi
đường họ đối
xử rất tử tế,
không
có vẻ
đối xử như một
người
tù. Đi
đường bốn
hôm đến
Tịnh
Tây, anh
cảnh
sát
trưởng đưa
tôi
vào Chỉ
huy sở
làm thủ
tục giao người
xong
thì xin
ra về. Khi rời
Chỉ huy sở,
anh ta
còn
chào
tôi theo
lối nhà
binh và
nói sau
này
mong có
dịp gặp nhau.
*
Từ Trần
Biên đến
Tịnh Tây
vào
khoảng đầu năm
1942. Chỉ huy
sở nơi
mà
mình
được giải đến
chính
là nơi
trước kia
thường được
mời đến ăn
tiệc và
báo
cáo
tình
hình
Việt Nam.
Ông Khoa
trưởng, người
phụ
trách
mình
lại là
người trước
kia đã
thường đưa
đón
mình
và nghe
mình
báo
cáo,
nên đối
với
mình
vẫn
khách
khí,
ông ta
nói:
Hiện nay Chủ
nhiệm
còn đi
Liễu
Châu độ
vài ba
tuần nữa mới
về, đồng
chí cứ
ở đây
với
chúng
tôi,
có việc
gì Chủ
nhiệm về sẽ
giải quyết.
Thế là
tôi được
xếp ở trong
một cái
phòng
gần chỗ
ông ta
làm
việc, ăn cơm
ngay ở Chỉ huy
sở và
có một
người
lính
cần vụ
giúp đỡ
những việc
cần.
Mấy hôm
đầu tôi
còn
dè dặt
không đi
ra
ngoài,
nhưng dần dần
thấy
bình
thường
nên thử
đi ra
ngoài
cơ quan dạo
chơi xem,
luôn dăm
bảy
ngày
như thế
mà vẫn
không
thấy ai
chú
ý
gì cả.
Một hôm
tôi
nói với
anh cần vụ
là
tôi sẽ
đi ra phố,
không
thấy anh ta
phản ứng
gì
và cũng
không
thấy
báo
cáo với
người phụ
trách.
Tôi liền
đi ra cổng,
rồi đi thẳng
đến chỗ trụ sở
cũ của
mình,
thì
thấy
nhà cửa
vắng teo, chỉ
có vợ
chồng Vi Đức
Minh ở đấy,
hỏi ra mới
biết Nguyễn
Hải Thần
và tất
cả mọi người
đều đã
đưa nhau đi
Liễu
Châu,
còn Vi
Đức Minh nay
là
nhân
viên của
Chỉ huy sở
nên vẫn
ở lại. Sau
đó đi
dạo qua một
lượt quanh tất
cả các
phố, thấy cảnh
tượng đều như
cũ, người qua
lại tấp nập
trên phố
đều là
người Trung
Quốc,
không ai
hiểu
mình
là thế
nào
và
có
tâm tư
gì.
Dạo phố xong,
về đến Chỉ huy
sở, tôi
giở bức thư
mà
lúc
nãy lấy
ở chỗ Vi Đức
Minh ra xem,
thì ra
là thư
của anh
Lê
Tùng
Sơn từ
Côn Minh
gửi đến.
Nguyên
từ khi rời
Côn Minh
cho đến nay,
tôi cũng
như anh Vũ Anh
đều
không
liên hệ
với anh em
Côn
Minh, nay xem
thư thì
mới biết anh
Lê
Tùng
Sơn vẫn tiếp
tục đấu tranh
chống bọn Vũ
Hồng Khanh,
và nhờ
sự giới thiệu
của người bạn
Trung Quốc,
anh được biết
tình
hình
và địa
chỉ
chúng
tôi,
nên mới
viết thư tỏ
ý muốn
đến Tịnh
Tây gặp
nhau để
bàn bạc
công
việc.
Tôi liền
viết thư trả
lời nhanh,
khuyên
đấu tranh với
Vũ Hồng Khanh
cần phải
có
sách
lược để duy
trì cho
được cơ sở ở
đó;
còn
việc đi Tịnh
Tây
thì
hiện nay chưa
nên,
vì anh
em đã
về nước hết,
đi đến sẽ gặp
khó
khăn. Như thế
là
tôi
đã
gián
tiếp
báo tin
và
nói
được ý
kiến về
công
tác với
anh em ở
Côn Minh
đã hơn
một năm
không
có
liên
lạc.
Ở Chỉ huy sở
được độ hai
mươi hôm
thì Chủ
nhiệm Trần Bảo
Thương ở Liễu
Châu về.
Sau khi nghỉ
ngơi độ
vài
giờ, ông
ta cho người
mời tôi
đến nói
chuyện.
Ông ta
nói:
Gần đây
có sự
hiểu lầm nhau
nên
đã
làm
phiền đến anh,
bây giờ
các
đồng
chí
Việt Nam
đã đi
Liễu
Châu
hết, anh
tính
thế
nào?
Tôi trả
lời ngay:
Tôi cũng
biết Chủ nhiệm
đã hiểu
tôi,
nên mới
bảo huyện
trưởng Trấn
Biên đưa
tôi về
đây,
và
trong thời
gian ở
đây, qua
việc Khoa
trưởng đối xử
tốt, tôi
đã biết
là Chủ
nhiệm
không
có
ý nghĩ
gì xấu
đối với
tôi.
Tôi rất
cảm ơn.
Bây giờ
các
đồng
chí
Việt Nam
không
còn ai
ở đây
nữa, tôi
đề nghị Chủ
nhiệm cho
tôi đi
Liễu
Châu gặp
các
đồng
chí
Việt Nam để
bàn
tính
công
việc.
Ông ta
vui vẻ trả
lời: Được!
Tôi sẽ
giúp đỡ
anh. Thế
là
ngày
hôm sau
có xe
đi Liễu
Châu,
ông ta
cho giấy giới
thiệu
lên gặp
Bộ tư lệnh
Quân khu
bốn, tức
là Bộ
tư lệnh của
Trương
Phát
Khuê.
Đồng thời đưa
cho một
cái
phong
bì
trong
đó
có năm
trăm bạc
làm lộ
phí,
và gọi
người
phó
quan dặn
dò đưa
tôi
lên xe
cùng đi
Liễu
Châu.
Nói cho
đúng
là đưa
đi Liễu
Châu để
giám
thị.
Cuộc đấu tranh
mới lại tiếp
tục, nhưng
không
phải chỉ đối
phó với
nhóm
Trương Bội
Công như
trước kia,
mà phải
đối phó
ngay với
Nguyễn Hải
Thần, Trần
Báo,
với
nhóm
Phục quốc
và cả
với chủ trương
của Quốc
dân đảng
muốn lập
Chính
phủ bù
nhìn
Việt Nam để
phục vụ việc
Hoa quân
nhập Việt.
[1]chức
vụ của người
chỉ huy đồn
biên
phòng
có
trách
nhiệm
làm
việc giao
thiệp với
Pháp
[2]Lương
Văn Ý
là quan
một hồi
Pháp
thuộc
nên gọi
là Một
Ý
[3]tức
Hoàng
Lương
[4]Về
tên
người cụ thể
có thể
có chỗ
chưa thật
chính
xác,
sau này
sẽ điều tra
thêm
[5]Việt
Minh
[6]theo
ý
Bác
là cốt
để có
người lấy
súng
của
chúng
mang về
[7]gọi
theo kiểu
Trung Quốc
là Lục
thượng hiệu
[8]có
đưa cho
chúng
tôi xem
[9]sự
thật chỉ loanh
quanh trong
một số khu vực
được
chúng
ta bố
trí
[10]giấy
uỷ nhiệm
làm
chức
này,
chức nọ
[11]Anh
Chu Văn
Tân chịu
trách
nhiệm cảnh
giới từ hướng
Nam,
phía
Lạng Sơn
[12]tức
Đường Ngạn
---------------------------
VI. Cuộc
đấu tranh ở
Liễu
Châu
Xe đến Liễu
Châu
không
dừng ở
ngoài
phố mà
chạy thẳng
vào
trong Bộ tư
lệnh
Quân khu
bốn, tôi
chợt nghĩ
có lẽ
họ sẽ bắt
mình
cùm lại
đột ngột như ở
hương
công sở
Bình
Mãnh?
Nhưng khi xe
dừng lại trước
cửa
phòng
truyền đạt.
Người phụ
trách
phòng
truyền đạt
nói
ngay: Ở
đây
có một
lớp huấn luyện
vô tuyến
điện cho
các
đồng
chí
Việt Nam do
ông Hồ
Quốc
Tuý phụ
trách.
Có lẽ
đồng
chí đến
đấy gặp
ông Hồ
Quốc
Tuý
trước, rồi sau
muốn gặp ai
thì tuỳ
đồng
chí.
Hồ Quốc
Tuý
tên
là
Trương Quốc
Trụ, gọi
là Trụ
Đen, là
một người Việt
kiều ở
Vân Nam
trước kia
chống tụi
Nguyễn Thế
Nghiệp, Vũ
Hồng Khanh,
đã gặp
chúng
tôi ở
Nam Kinh
và được
chúng
tôi
giác
ngộ theo Đảng.
Hiện nay anh ở
đây phụ
trách
nhóm
học vô
tuyến điện gồm
bốn người Việt
Minh và
ba người Phục
quốc cũng
có cảm
tình
với Việt Minh.
Gặp tôi,
anh Trụ rất
mừng,
vì
trước
đây
Nguyễn Hải
Thần và
Trần
Báo
đã phao
tin là
tôi bị
bắt và
thể nào
cũng bị giết
chết. Anh kể
lại cho
tôi nghe
tình
hình
hoạt động của
các
nhóm
Việt Nam ở
đây
và cho
biết Nguyễn
Hải Thần được
Trần
Báo
làm
quân sư
quạt mo,
đã tự
nhận
mình
là đại
biểu cho Việt
Minh,
mà cụ
thể là
đại biểu cho
anh em học
sinh học ở lớp
vô tuyến
điện và
lớp quân
sự. Anh em
chẳng ai thừa
nhận
chúng
nó,
nhưng
không
biết
tình
hình ở
trong nước
và ở
Tịnh Tây
ra sao,
còn
nghe
ngóng
xem, nên
cũng
không
phủ nhận.
Hôm ấy,
tôi ở
lại chỗ anh
Trụ
cùng ăn
cơm và
nói
chuyện suốt
đêm. Qua
cuộc
nói
chuyện
đã nắm
được một số
tình
hình
như sau:
Nguyễn Hải
Thần hiện nay
đã được
Trương
Phát
Khuê
giúp
cho mấy
nghìn
bạc, và
có một
cái
nhà ở
hai tầng,
không
phải trả tiền
nhà. Cụ
Lê Nhuận
Chi,
các anh
Phạm Việt Tử,
Mã
Thành
Kính,
Từ Chí
Kiên
và
Trương Trung
Phụng cũng đều
ở đấy. Về
công
việc hoạt động
ông ta
chỉ bàn
bạc với Trần
Báo,
đầu đuôi
ra sao anh em
mọi người đều
không
biết. Tiền
được Trương
Phát
Khuê
giúp
ông ta
cũng nắm hết,
anh em
có
người
không
có giầy
đi cũng
không
có tiền
mua, ngay cụ
Lê Nhuận
Chi thường đau
bụng
luôn,
xin mấy đồng
bạc để mua
thuốc uống cho
đỡ đau cũng
không
được.
Tôi hỏi:
Trương Trung
Phụng trước
kia là
người của
Trương Bội
Công,
sao nay lại ở
chỗ Nguyễn Hải
Thần? Anh Trụ
nói: Từ
khi Trương Bội
Công bị
bắt ở Tịnh
Tây,
nhóm
người của
ông ta
bị dần dần
phân
tán đi
mỗi người một
nơi,
còn
Trương Trung
Phụng
thì
nhập bọn với
Nguyễn Hải
Thần, nhưng
bây giờ
hình
như anh ta
đã biết
Nguyễn Hải
Thần cũng
chẳng tốt đẹp
gì,
nên
có vẻ
thân
thiện với ta,
nếu ta
khéo
công
tác
thì
có thể
lôi
kéo
được. Anh Trụ
nói
thêm: Ở
đây
còn
có một
nhóm
Phục quốc được
Trung Quốc đưa
từ Long
Châu
lên cũng
đang ở Đại
Kiều là
chỗ trụ sở của
Trương Bội
Công
trước kia.
Nhóm
này
sống như một
đơn vị bộ đội
của Trung
Quốc,
nên rất
khó
tiếp
xúc.
Thế là
tình
hình
hoạt động
và địa
chỉ của Nguyễn
Hải Thần,
tôi
đã nắm
chắc.
Tôi
còn
định ở chỗ anh
Trụ ít
hôm nữa
để tìm
hiểu
thêm
tình
hình
và
bàn bạc
cách
ứng phó
cụ thể,
thì
ngay hôm
sau đi phố
bỗng gặp
Nguyễn Hải
Thần và
Trần
Báo. Cả
hai người chợt
thấy tôi
thì hết
sức ngơ
ngác.
Để trấn an
tinh thần họ,
tôi
nói:
Tôi
chuyến
này nhờ
có Trần
Chủ nhiệm
giúp đỡ
lộ phí
và cấp
giấy chứng
minh cho
lên
đây, chứ
không
thì
chật vật
còn
lâu mới
đến đây
được. Hiện nay
cụ và
anh em ta ở
đâu?
Nguyễn Hải
Thần chối
ngay:
Chúng
tôi hiện
nay còn
phân
tán mỗi
người một nơi,
chưa có
chỗ ổn định.
Tôi hỏi:
Thế cụ ở
đâu?
Nguyễn Hải
Thần
nói:
Tôi ở
“Hoàn
cầu lữ
quán”,
nhưng
bây giờ
tôi
có việc
phải chạy,
ông cứ
đến đấy hỏi
thì lữ
quán sẽ
chỉ cho biết.
Nói
xong,
ông ta
rút một
mảnh giấy
trong
túi ra
định viết số
buồng đưa cho
tôi.
Nhưng
tôi
đã biết
là
nói
láo,
nên trả
lời:
Thôi cụ
không
phải viết nữa,
tôi đến
đó chắc
sẽ tìm
được. Cuộc gặp
Nguyễn Hải
Thần và
Trần
Báo chỉ
ngắn ngủi như
thế. Nhưng tối
hôm sau,
qua sự
thông
báo của
anh Trụ, anh
Phạm Việt Tử
đưa cả Trương
Trung Phụng
và
Mã
Thành
Kính
đến chỗ hẹn
gặp tôi
để trao đổi
tình
hình cụ
thể,
thì đều
nhận định
rằng, việc đầu
tiên
là phải
làm thế
nào để
tôi đến
ở chỗ Nguyễn
Hải Thần với
anh em
thì địa
vị
chính
trị của
mình
được hợp
pháp,
rồi dần dần sẽ
đầu tranh,
giải quyết
các vấn
đề
khác.
Kế hoạch
đã
bàn kỹ,
ngày
hôm sau,
tôi đến
thẳng chỗ ở
của Nguyễn Hải
Thần nhưng
hành
lý vẫn
để chỗ anh
Trụ. Tôi
đến đó
trong khi
Nguyễn Hải
Thần và
Trần
Báo đều
đi vắng. Mấy
giờ sau,
Nguyễn Hải
Thần về đến
nhà
thì
thấy tôi
đã
đường
hoàng
ngồi ở đấy,
ông ta
luýnh
quýnh
không
biết
nói
năng và
xử trí
thế
nào?
Tôi
nói
ngay: Địa điểm
này Chỉ
huy sở
đã cho
tôi biết
rõ
trước khi
tôi đến
Liễn
Châu,
vì vậy
hôm
trước gặp cụ ở
đường phố, cụ
nói
là ở
“Hoàn
cầu lữ
quán”,
tôi
đã
không
ghi số
phòng
và cũng
không
đến tìm
gặp. Hôm
nay đến
đây,
tôi muốn
nói
thực là
chúng
ta cần phải
đoàn
kết chặt chẽ
thì mới
làm
nên sự
nghiệp
cách
mạng,
và cũng
mới có
địa vị xứng
đáng
ngay ở Liễu
Châu
này.
Tôi
trước kia
công
tác ở
Trung Quốc
đã
lâu,
tôi
có
nhiều bạn
bè quen
biết, nếu
tôi ở
chỗ
khác
thì vẫn
có
người
giúp
đỡ, nhưng về
mặt công
tác nếu
mỗi người ở
một nơi
thì đối
với đương cục
cũng như đối
với các
nhóm
Việt Nam hoạt
động ở
đây sẽ
có ấn
tượng
không
tốt, và
ngay bản
thân
công
việc của
chúng
ta cũng bị trở
ngại.
Hôm nay
tôi đề
nghị cụ, cụ
Lê
và
các anh
em bàn
bạc kỹ xem như
thế có
đúng
không
và
có cần
thiết
không?
Bây giờ
tôi
hãy về
chỗ ở của
tôi,
vài
hôm nữa
tôi sẽ
đến.
Sau khi
tôi ra
về, cụ
Lê,
các anh
Phạm Việt Tử,
Từ Chí
Kiên,
Trương Trung
Phụng,
Mã
Thành
Kính
đều nói
lý với
Nguyễn Hải
Thần một
cách
cương quyết
là thế
nào
cũng phải mời
anh Lý
Quang Hoa về
đây, nếu
không
thì tất
cả các
anh em Việt
Minh ở Liễn
Châu sẽ
không
ủng hộ cụ.
Nguyễn Hải
Thần im lặng.
Hai hôm
sau, tôi
lại đến như
một người đến
chơi, chứ
không
mang theo
hành
lý. Cả
nhà
đang ăn cơm ở
tầng dưới, mọi
người đều vồn
vã
chào
hỏi, nhưng
Nguyễn Hải
Thần
thì lầm
lì,
không
nói
gì cả.
Cơm nước xong,
vợ Nguyễn Hải
Thần và
mấy đứa
cháu
thì dọn
dẹp,
còn
các
người
khác
đều lên
tầng
trên
nói
chuyện.
Tôi
không
động gì
đến việc chỗ ở
mà chỉ
nói về
tình
thế
cách
mạng. Mọi
người đều đồng
thanh
nói:
anh Lý
cần phải đến
đây ở
với
chúng
tôi.
Nguyễn Hải
Thần vẫn im
lặng,
tôi cứ
tiếp tục
nói
chuyện.
Lúc
đứng dậy ra
về, tôi
mới nói
một câu
như là
kết luận:
Tôi ở
chỗ
khác
cũng được,
nhưng hai cụ
và
các anh
đều thấy rằng
tôi đến
đây
thì
có lợi
cho công
tác
hơn, như vậy
ít
hôm nữa
tôi sẽ
đến. Thế
là chỗ
ở đã
được giải
quyết.
*
Về ở chỗ
Nguyễn Hải
Thần,
tôi
liên lạc
với các
anh em để
tìm
hiểu
tình
hình
thêm về
các
mặt.
- Về
nhóm
Trương Bội
Công.
Sau khi Trương
Bội Công
bị bắt ở Tịnh
Tây, bọn
tay chân
đều bị Trần
Bảo Thương
trực tiếp nắm
và
phân
phối đi hết,
chỉ có
Trương Trung
Phụng
thì đi
với Nguyễn Hải
Thần. Trương
Bội Công
hiện nay ở
Liễn
Châu tuy
còn bị
quản
thúc
nhưng vẫn được
ưu đãi.
Trong
các
hoạt động, tuy
vẫn thường
được nêu
tên,
nhưng
không ra
mặt, có
chăng y chỉ
bí mật
gặp những
người như
Nguyễn Hải
Thần, Trần
Báo
hoặc
Hoàng
Lương,
Nông
Kinh Du
mà
thôi.
- Về
nhóm
Phục quốc
quân.
Nhóm
này
có độ
năm trăm người
tập trung ở
Đại Kiều, nơi
đội công
tác của
Trương Bội
Công
trước kia.
Nông
Kinh Du
và
Hoàng
Lương cầm đầu,
Lương Văn
Ý chỉ
huy quân
sự. Nông
Kinh Du vốn
là một
tên địa
chủ ở Lộc
Bình
(Lạng Sơn) sở
dĩ được coi
là
lãnh tụ
vì đa
số người trong
đơn vị Phục
quốc
quân
trước kia hoặc
là cố
nông
hoặc là
người
cày
ruộng rẽ của
hắn. Hắn được
Quốc dân
đảng Trung
Quốc phong cho
cái
chức tham nghị
và xếp
cho một chỗ ở
riêng
biệt, chỉ ăn
chơi,
không
dính
dáng
gì đến
công
việc của đơn
vị; Nông
Quốc Long
là con
hắn được phong
chức đại đội
trưởng, dưới
sự chỉ huy của
Lương Văn
Ý. Đơn
vị này
từ lúc
ở Thượng Kim
cũng như hiện
nay ở Liễu
Châu,
được Quốc
dân đảng
Trung Quốc coi
như là
một đơn vị
biệt động của
họ, nên
Nông
Kinh Du cũng
như
Hoàng
Lương đều bị
họ sai khiến
như những
người bộ hạ,
thực sự
không
có một
chút
quyền
bính
gì.
Phục quốc
quân
là một
đội quân
rất phức tạp.
Trong
đó
có
những người bị
áp bức
lôi cuốn
vào như
đám
nông
dân
trước
cày
ruộng rẽ cho
Nông
Kinh Du;
có
người bị
chúng
bắt vào
để phục dịch
như nấu cơm,
gánh
nước,
khuân
vác đồ
đạc. Cũng
có một
số ít
giáo
viên,
công
chức vì
mù
quáng
mà đi
theo, nhưng
khi tập trung
ở Đại Kiều
huấn luyện
quân sự
theo kiểu
phát-xít
thì họ
phản đối cả
Nông
Kinh Du
và
Hoàng
Lương,
đòi ở
riêng;
Quốc dân
đảng Trung
Quốc cũng xếp
cho ở một
khách
sạn nhỏ để nắm
riêng,
hòng
sau này
có thể
lợi dụng.
Đây
có thể
gọi là
nhóm ly
khai,
có độ
bảy,
tám
người
mà
trước kia
tôi gặp
ở Thượng Kim
đã tỏ
vẻ đặt hy vọng
vào
Việt Minh,
nhưng khi ở
Liễu
Châu họ
thấy Nguyễn
Hải Thần
và Trần
Báo tự
xưng là
người
“lãnh
đạo” của Việt
Minh lại
không
làm
đúng
như chủ trương
của Việt Minh
mà họ
đã được
biết,
nên họ
cũng
không
tin và
tỏ ý
khinh bỉ.
- Về
nhóm
Nguyễn Hải
Thần, Trần
Báo
và
các anh
em Việt Minh :
a) Về
Nguyễn Hải
Thần:
Từ đầu năm
1936, khi được
ông Hồ
Học Lãm
gọi lên
Nam Kinh vận
động
thành
lập Việt Minh,
y là
một người hoạt
động
tích
cực; nhưng sau
không
được sự
giúp đỡ
của Quốc
dân đảng
Trung Quốc
thì y
quay về Quảng
Đông.
Cuối năm 1940,
khi Trương Bội
Công
được bọn Tưởng
tin
dùng,
thì y
theo Trương
Bội Công
về Tịnh
Tây rồi
lên Quế
Lâm để
hoạt động
yêu cầu
viện trợ. Vừa
khéo
lúc
đó anh
Võ
Nguyên
Giáp,
Vũ Anh, Cao
Hồng Lĩnh về
đến Tịnh
Tây,
đã kịp
thời chủ
trương bố
trí anh
Võ
Nguyên
Giáp đi
kèm để
lái y
nghiêng
về phía
mình.
Theo sự
lãnh
đạo tài
tình
của
Bác, ở
Quế Lâm
chúng
ta đã
đưa ông
Hồ Ngọc
Lãm ra
làm cho
vai trò
Việt Minh nổi
bật lên,
mà
chúng
ta còn
kéo
được cả Nguyễn
Hải Thần về
phía
mình.
Một hôm
chúng
ta đã
mở cuộc họp
báo
chí do
Nguyễn Hải
Thần chủ tọa
và anh
Võ
Nguyên
Giáp
báo
cáo về
tình
hình
công
tác
và ảnh
hưởng của Việt
Minh ở trong
nước. Một tờ
báo của
Tưởng
là Tảo
đãng
đã đăng
cái tin
ấy lên,
Trương Bội
Công ở
Tịnh Tây
đọc thấy tin
đó
đã nổi
khùng,
vất tờ
báo
xuống đất,
chửi một
câu rất
thô tục:
“Thằng Nguyễn
Hải Thần ngu
như
chó!”.
Vì vậy
khi ở Tịnh
Tây mở
Đại hội
thành
lập Hội giải
phóng,
Nguyễn Hải
Thần đã
ở với
chúng
ta và
là đại
biểu của Việt
Minh. Nhưng
khi Trương Bội
Công bị
bắt, và
tiếp đó
không
lâu Việt
Minh lại gặp
khó
khăn, phần lớn
cán bộ
đều về nước
công
tác,
thì
Nguyễn Hải
Thần lại đề
nghị Trần Bảo
Thương bắt
tôi,
hòng để
nắm lấy bộ
phận anh em
Việt Minh
còn ở
lại làm
cái
vốn, tự xưng
là
người phụ
trách
của Việt Minh
để lừa đảo
chính
trị.
b) Về Trần
Báo:
Những việc
làm của
Nguyễn Hải
Thần từ
lúc ở
Tịnh Tây
như đã
nói
trên đều
là do
Trần
Báo,
một tên
phản bội
đã
có lai
lịch từ
lâu,
làm mưu
sĩ.
Nguyên
từ năm 1937
hắn được Đảng
Cộng sản
Xiêm
giao nhiệm vụ
đưa mấy chục
thanh
niên Hoa
kiều đến Trung
Quốc để gia
nhập Tân
tứ quân,
nhưng
vì sợ
chiến đấu gian
khổ, hắn bỏ
mặc số thanh
niên
đó ở
Hương Cảng,
rồi lêu
bêu chạy
chỗ này
chỗ
khác
cho đến cuối
năm 1940 hắn
gặp Nguyễn Hải
Thần,
thì hai
bên
ngoặc với
nhau, nhưng
vì
trước kia hắn
là đảng
viên,
nên khi
gặp
chúng
tôi,
ngoài
mặt hắn vẫn tỏ
ra theo tổ
chức mà
thật sự
thì hắn
đã
là một
tên đặc
vụ đem
tình
hình
nội bộ
và chủ
trương hoạt
động của Đảng
mách
nước cho
Nguyễn Hải
Thần bí
mật báo
cáo
và tự
hắn cũng
báo
cáo với
Quốc dân
đảng Trung
Quốc.
Cái
âm mưu
gây
khó dễ
cho các
đồng
chí phụ
trách
của ta ở Tịnh
Tây
chính
là
âm mưu
của Trần
Báo.
Chẳng thế
mà khi
các
đồng
chí
chúng
ta đã
về nước
và
tôi
đã bị
bắt,
thì hắn
được phong
làm
trung
tá, mặc
quân
phục
đàng
hoàng
đến lớp học
quân sự
ở Điền
Đông [1]
để uy hiếp
tinh thần
và lừa
bịp anh em,
đồng thời xưng
với đương cục
Trung Quốc
cũng như với
đám
Phục quốc
quân
và
các
nhóm
người
khác
rằng: Nguyễn
Hải Thần với
hắn là
đại biểu Việt
Minh, mặc
dù
không
một anh em
Việt Minh
nào
thừa nhận.
c) Về
các anh
em Việt Minh
mà
Nguyễn Hải
Thần và
Trần
Báo tự
nhận là
đại biểu
thì
có ba
nhóm:
Nhóm
lớn nhất
là
nhóm
học ở lớp
quân sự
gồm sáu
mươi người do
chúng
ta lục tục từ
trong nước đưa
ra mà
Quốc dân
đảng Trung
Quốc đã
tập trung ở
Điền
Đông
và bố
trí cho
Trần
Báo đến
gặp.
Nhóm
này
hiện đã
di chuyển đến
Liễu
Châu,
nhưng tập
trung huấn
luyện
riêng
biệt ở gần
sân bay
cách
Liễu
Châu độ
bảy,
tám
cây số.
Anh em bị quản
chế rất
nghiêm
ngặt, chỉ
ngày
chủ nhật mới
cho
phép
một vài
người đi ra
ngoài,
đó
là cơ
hội duy nhất
để anh em
liên lạc
với các
nhóm
Việt Minh
khác ở
Liễu
Châu,
mà
người thường
được anh em cử
ra là
Hoàng
Minh Thảo,
cũng có
một đôi
lúc
là anh
Hoàng
Văn
Thái.
Một
nhóm
Việt Minh
khác
là
nhóm
vô tuyến
điện, trong
đó
có bốn
người Việt
Minh và
ba người Phục
quốc mà
anh em
đã
bí mật
tổ chức
vào
Việt Minh.
Việc tổ chức
người Phục
quốc
vào
Việt Minh như
thế là
một việc vội
vã
và
không
cần thiết,
nên
tôi
đã
phê
phán
và dặn
anh em cứ tiếp
tục
giác
ngộ họ, nhưng
không
sinh hoạt theo
lối tổ chức,
đợi xem sau
này học
xong họ
có thật
đi với
mình
không,
và phải
qua thử
thách
công
tác mới
có thể
coi là
Việt Minh thực
sự.
Nhóm
học vô
tuyến điện
này,
anh Trụ Đen
là
người
phiên
dịch và
giúp đỡ
về mặt
chính
trị.
Và sau
cùng
là
nhóm
Việt Minh ở
trong
nhà
Nguyễn Hải
Thần [2]
. Nguyễn Hải
Thần và
Trần
Báo
thì vẫn
lén
lút
hoạt động
riêng,
còn tất
cả những người
khác
thì vẫn
đoàn
kết
thành
một khối chặt
chẽ, kể cả
Trương Trung
Phụng
lúc
này vẫn
không
tin theo
Nguyễn Hải
Thần và
Trần
Báo,
nhưng vẫn chờ
đợi nghe
ngóng.
*
Một cuộc họp
của Việt Minh
tổ chức trong
một
ngày
chủ nhật với
kế hoạch chu
đáo.
Khoảng
tám giờ
sáng,
mấy anh em học
ở lớp vô
tuyến điện,
anh Trụ Đen
và mấy
người ở trong
nhà đều
có mặt
đông đủ.
Anh em lớp
quân sự
vì
hoàn
cảnh hạn chế
nên
không
thể đến tham
gia. Cuộc họp
bắt đầu, một
anh trong lớp
vô tuyến
điện
nói:
Đã mấy
tháng
nay, sau khi
đồng
chí
Lý
Quang Hoa bị
bắt,
chúng
tôi
không
được biết tin
tức gì
ở trong nước
cũng như ở
ngoài,
đồng thời nghe
nói
ngoại giao của
ta đã
thất bại,
Trung Quốc
không
ủng hộ,
các
đồng
chí phụ
trách
đều chạy trốn
về nước, lại
còn
có tin
nói
đồng
chí
Lý thế
nào
cũng bị giết.
Hôm nay
đồng
chí
Lý
đã đến
đây,
chúng
tôi đề
nghị được
thông
báo về
tình
hình
trong nước
và
ngoài
nước,
tình
hình về
sự việc sẽ xảy
ra và
triển vọng
công
tác của
chúng
ta sau
này như
thế
nào?
Tôi
nói: Từ
khi tôi
bị bắt đến
nay, mọi
tình
hình
tôi đều
không
biết,
tôi đề
nghị để cụ
Nguyễn Hải
Thần và
anh Trần
Báo
báo
cáo.
Nguyễn Hải
Thần đỏ bừng
mặt lên,
nói
ngay một
câu:
Tôi
có biết
gì
đâu
mà
báo
cáo.
Còn
Trần
Báo
thì
ngồi im thin
thít,
không
nói một
lời.
Không
khí
bỗng trở
nên nặng
nề như sắp
có
giông
tố, oi bức
không
có một
chút
gió.
Tôi liền
nói: Cụ
Nguyễn Hải
Thần và
anh Trần
Báo
đã
không
báo
cáo
thì
tôi
báo
cáo một
vài
nét
lớn.
1. Tình
hình
cách
mạng trong
nước
phát
triển rất
thuận lợi,
phong
trào
Việt Minh
đã lan
rộng khắp Bắc,
Trung, Nam.
2. Tình
hình ở
ngoài
này hay
nói một
cách
cho
đúng
là
tình
hình
đối ngoại
mà
người ta
thường gọi
là
ngoại giao
thì
tôi muốn
nói một
vài
ý nghĩ
như sau:
Lúc
chúng
ta nói
ngoại giao
là
chúng
ta đứng
trên lập
trường đại
biểu của
đoàn
thể
cách
mạng, của
dân tộc,
lấy tư
cách
bình
đẳng mà
nói
chuyện với
người ta. Nếu
trong trường
hợp người ta
không
xem
mình
là đại
biểu của
đoàn
thể
cách
mạng,
không
xem
mình
là đại
biểu dân
tộc thì
mình
không
nói
chuyện. Đến
như việc một
số đồng
chí phụ
trách
của
chúng
ta về nước,
là cốt
để làm
công
tác
trong nước,
chứ
không
phải là
chạy trốn.
Đoàn
thể
cách
mạng bao giờ
cũng tập trung
cán bộ
ở những chỗ
có
công
tác
nhiều nhất
và quan
trọng nhất.
Ngày
nay công
tác
trong nước rất
nhiều
và rất
quan trọng,
còn ở
ngoài
thì
không
có việc
gì
nhiều,
vì vậy
mà
không
cần để nhiều
cán bộ.
Như vậy, sao
lại gọi
là
ngoại giao
thất bại?
Những người
mượn tiếng
ngoại giao
nhưng
không
mưu lợi
gì cho
cách
mạng, cho
dân tộc,
mà chỉ
lo kiếm địa
vị, kiếm lợi
cho thân
mình
và cho
gia
đình
mình,
những người
đó
không
thể gọi
là
những người
ngoại giao,
mà
là
những người
phản bội.
Nghe xong, anh
Trụ liền quắc
mắt, vung tay
lên,
nói một
câu như
búa bổ:
“Những đứa
phản bội
cách
mạng như vậy
phải
tiêu
diệt
chúng
nó
đi!”. Nguyễn
Hải Thần
tái mặt
đứng dậy toan
xuống
nhà,
một anh em nắm
lấy tay
kéo lại
nói mời
cụ hãy
ngồi lại.
Nguyễn Hải
Thần giằng co
nói:
Thì để
cho người ta
xuống
nhà đi
tiểu chứ! Rồi
giật tay đi
thẳng xuống
dưới
nhà.
Trần
Báo
thấy thế cũng
đứng dậy, đi
ngay
vào
cái
phòng
ngủ của hắn ở
cạnh
đó, rồi
khép
cửa,
đóng
khoá
lại.
Tất cả mọi
người
nhìn
nhau cười, anh
Trụ lại
nói:
Trần
Báo
thì
không
thể chạy trốn
đi đâu
được. Nếu
không ra
đây
thì
chúng
ta sẽ đạp cửa
vào
kéo cổ
ra. Trần
Báo
nghe
nói
hoảng
quá,
phải
lóp
ngóp
chạy ra, ngồi
nguyên ở
chỗ cũ.
Còn đối
với Nguyễn Hải
Thần,
chúng
ta đã
nắm được
thóp
của ông
ta là
tự nhận với
đương cục
Trung Quốc
là
“lãnh
đạo” Việt
Minh,
nên
có
người lấy danh
nghĩa Việt
Minh
nói:
Hôm nay
là Hội
nghị Việt
Minh, cụ
Nguyễn Hải
Thần
làm chủ
tọa, nếu dở
cuộc bỏ chạy
không
đến nữa,
thì
chúng
ta sẽ ra nghị
quyết khai trừ
khỏi Việt
Minh, rồi
thông
báo cho
anh em, cho
tất cả người
Việt Nam ở
đây
và cho
cả đương cục
Trung Quốc
nữa. Nguyễn
Hải Thần nghe
nói rất
hoảng, trong
khi đã
có
người từ
trên
gác
xuống
nói
“mời cụ
lên”,
nên lại
phải
lóp
ngóp
lên.
Hội nghị lại
tiếp tục. Việc
đả kích
Nguyễn Hải
Thần và
Trần
Báo
bước đầu như
thế là
đủ,
chúng
ta còn
phải lôi
kéo giữ
họ lại trong
Việt Minh để
còn
phải đấu tranh
trên
nhiều mặt
trong điều
kiện rất
khó
khăn.
Tôi
nói xoa
dịu mấy
câu để
khôi
phục lại
không
khí của
hội nghị:
Hôm nay
trong hội nghị
chúng
ta có
đồng
chí hơi
nóng
nảy,
làm cho
cụ Nguyễn Hải
Thần và
anh Trần
Báo
không
vừa ý.
Tuy vậy cụ
Nguyễn
và anh
Trần
Báo
cũng phải suy
nghĩ,
vì
trong
lúc mọi
người đang
quan tâm
muốn biết đến
công
tác của
đoàn
thể và
của
cách
mạng mà
thái độ
của cụ Nguyễn
và anh
Trần
Báo lại
như vậy,
thì anh
em nổi
nóng
cũng có
thể là
một việc dễ
hiểu.
Nguyên
tắc làm
việc của
chúng
ta là
tập trung
dân chủ,
thiểu số phục
tùng đa
số, hạ cấp
phục
tùng
thượng cấp,
toàn
thể phục
tùng
Trung ương.
Giữ vững
nguyên
tắc như thế
thì
dù
chúng
ta có
ý kiến
gì bất
đồng với nhau
vẫn có
thể bàn
bạc đi tới
giải quyết. Cụ
Nguyễn nhận
là một
trong những
người phụ
trách
của Việt Minh,
điều đó
không
sai, vì
khi Việt Minh
thành
lập từ năm
1936 cụ
đã
là một
người hoạt
động
tích
cực, về sau
này cụ
vẫn ở với Việt
Minh. Hiện nay
tình
hình ở
Liễu
Châu rất
phức tạp,
chúng
ta cần
thông
cảm với nhau,
cần
đoàn
kết chặt chẽ
thì mới
đối phó
được với
tình
hình,
mới giải quyết
được vấn đề
và mới
mang lại lợi
ích cho
cách
mạng, việc
không
vui đã
xảy ra trong
hội nghị
hôm nay
của
chúng
ta đến
đây
nên xem
là hết.
Cụ Nguyễn, anh
Trần
Báo
cũng như
các anh
em khác
không
nên để
lại trong
lòng.
Nghe xong,
Nguyễn Hải
Thần và
Trần
Báo như
được
khôi
phục lại thể
diện, anh em
hiểu ý
đều
nói:
Chúng
tôi
tán
thánh
ý kiến
của anh
Lý, sau
này
chúng
ta phải
làm
việc như vậy
mới
đúng.
Hội nghị kết
thúc.
*
Việc Hoa
quân
nhập Việt đang
được chuẩn bị
tích
cực, nhưng
cái “tổ
chức
cách
mạng” của
người Việt Nam
để phục vụ cho
việc đó
thì do
sự bất lực của
Nguyễn Hải
Thần và
những
tên tay
sai
khác
mãi đến
nay vẫn chưa
thành
lập được; Bộ
tư lệnh
Quân khu
bốn lần
này
phải tự đứng
ra làm
lấy. Giấy mời
đến Bộ tư lệnh
để bàn
việc
cách
mạng Việt Nam
do Bộ tư lệnh
triệu tập
đã được
bí mật
gửi cho Nguyễn
Hải Thần
và Trần
Báo,
nhưng
đã lọt
vào tay
Trương Trung
Phụng. Trương
Trung Phụng
đưa giấy cho
tôi xem
và hỏi
ý kiến
nên xử
trí như
thế
nào?
Một cuộc hội
nghị Việt Minh
lập tức được
triệu tập. Khi
anh em đến
đông đủ,
Trương Trung
Phụng đưa giấy
ra báo
cáo.
Nguyễn Hải
Thần và
Trần
Báo hết
sức ngạc
nhiên
và
lúng
túng.
Cụ Lê
Nhuận Chi, anh
Phạm Việt Tứ
và anh
Trụ đều
nói:
Cách
mạng Việt Nam
là một
việc rất quan
trọng,
Quân khu
bốn đã
mời đến để
bàn bạc
thì
chúng
ta nhất định
phải đi. Nhưng
tình
hình
trong nước
cũng như trong
tình
hình
chúng
ta ở
ngoài
này,
chỉ có
anh Lý
Quang Hoa
là nắm
vững. Vậy
nên đề
nghị với
Quân khu
bốn cử
thêm anh
Lý
Quang Hoa
cùng
tham dự, như
vậy khi
có việc
quan trọng
chúng
ta đã
có ba
người để
bàn
bạc.
Trước ý
kiến
đó,
Nguyễn Hải
Thần
không
thể chối
cãi,
chỉ
nói:
Đúng!
Đúng!
Thế là
hội nghị cử
ngay anh Từ
Chí
Kiên
thảo
công văn
gửi Trương
Phát
Khuê.
Nội dung
công văn
đã được
chúng
tôi
chuẩn bị
trước,
nên khi
viết xong đưa
ra, Nguyễn Hải
Thần
không
sửa chữa một
chữ nào
và
đành
phải ký
tên,
đóng
dấu, cho người
đưa đi ngay.
Ngay chiều
hôm ấy,
bức công
văn được
chuyển lại,
bên cạnh
đó
phê một
chữ “khả”,
nghĩa
là
“được”,
trên chữ
“khả”
có
đóng
dấu đỏ của
Trương
Phát
Khuê.
Sáng
sớm
ngày
hôm sau,
Nguyễn Hải
Thần, Trần
Báo
và
tôi
cùng đi
đến Bộ tư lệnh
Quân khu
bốn,
vào
phòng
họp thấy
ngoài
những người
Việt Nam được
mời,
còn
có
thiếu tướng
Dương Kế Vinh
và hai
người Hoa kiều
là Mai
Công
Nghị và
Dương Thanh
Dân. Một
chốc, thiếu
tướng
Ngô
Thạch, Tham
mưu trưởng
Quân khu
bốn, đại biểu
cho Trương
Phát
Khuê đến
chủ tọa.
Ngô
Thạch
nói:
Hôm nay
mời các
đồng
chí đến
cốt để
bàn
việc
thành
lập hội Việt
Nam phản
xâm lược
đồng minh,
mong
các
đồng
chí
bàn bạc
nhất
trí để
có thể
thành
lập được sớm.
Việc gấp
rút,
thời cuộc
không
chờ đợi
chúng
ta. Nói
xong, Dương
Thanh
Dân đưa
ra một bản
cương lĩnh in
sẵn, đọc cho
mọi người
nghe. Nghe
xong, mọi
người đều im
lặng.
Tôi đứng
dậy xin
phát
biểu ý
kiến:
Về bản cương
lĩnh
này,
tôi mới
nghe qua, chưa
đủ thời giờ
suy nghĩ,
nhưng sơ bộ
thấy có
chỗ
chúng
ta còn
phải thảo luận
thêm.
Thí dụ:
- Về điểm
“lấy chủ nghĩa
tam dân
làm
cương lĩnh
xây dựng
Việt Nam sau
này”,
tôi thấy
chủ nghĩa tam
dân
là rất
tốt, nhưng
trong
đó
có chủ
trương
“Bình
quân địa
quyền, tiết
chế tư bản”,
như vậy
có
làm cho
giai cấp địa
chủ và
giai cấp tư
sản sợ sệt,
không
dám đi
theo
chúng
ta chăng?
- Về điểm
“lấy Việt Bắc
làm căn
cứ địa
cách
mạng”, theo
tôi hiểu
thì
Việt Nam
là một
dải đất giăng
dài
trên
hàng
nghìn
cây số,
mà Bắc,
Trung, Nam lại
cách
trở sông
núi rất
nhiều. Cuộc
chiến tranh
chống Nhật ở
Việt Nam
đòi hỏi
mỗi kỳ, thậm
chí
là mỗi
tỉnh đều phải
có căn
cứ địa. Nay
nói
“lấy Việt Bắc
làm căn
cứ địa
cách
mạng”,
nói như
thế đã
thật
chính
xác
chưa? Cũng
còn
nên thảo
luận.
- Về việc
“Hoa
quân
nhập Việt”,
theo tôi
hiểu
thì
có thể
tạo điều kiện
thuận lợi cho
cách
mạng Việt Nam.
Nhưng
đây
là
cương lĩnh
cách
mạng Việt Nam,
thì
phải
nói đến
việc
cách
mạng, việc
tuyên
truyền tổ chức
quần
chúng,
chứ nếu chỉ
nói
“Hoa
quân
nhập Việt”
mà
thôi,
thì
có thể
không
toàn
diện.
Tôi
nói
xong,
Ngô
Thạch sầm mặt
lại, Mai
Công
Nghị liền
nói một
câu để
vớt lại bầu
không
khí
đang nặng nề:
Những ý
kiến của đồng
chí
Lý
Quang Hoa
nói
có chỗ
đáng
cho
chúng
ta phải suy
nghĩ và
bàn bạc
thêm,
nên
chăng
chúng
ta hãy
thành
lập một ban
trù bị
để
nghiên
cứu lại bản
cương lĩnh
đó,
đồng thời
bàn bạc
lại những việc
cụ thể
mà rồi
đây
chúng
ta phải
làm.
Như đã
có xếp
đặt trước,
Dương Thanh
Dân đứng
dậy đến
bên cạnh
Ngô
Thạch đưa ra
một tờ giấy
viết sẵn mấy
cái
tên,
Ngô
Thạch xem rồi
nói:
Tôi đề
nghị hội
trù bị
gồm có
các
đồng
chí:
- Nguyễn Hải
Thần,
- Nông
Kinh Du,
- Nông
Quốc Long,
- Hoàng
Lương,
- Trần
Báo,
- Mai
Công
Nghị,
- Dương
Thanh
Dân. [3]
Tôi nghe
xong, liền
đứng dậy
nói: Về
phía
Trung Quốc
thì Bộ
tư lệnh đề
nghị ai
chúng
tôi cũng
tán
thành,
còn về
phía
Việt Nam,
chúng
tôi thấy
nên để
các
đồng
chí
Việt Minh trao
đổi ý
kiến
thêm.
Ngô
Thạch
nói cắt
ngang: Ủy ban
trù bị
chỉ là
một cái
ủy ban để
nghiên
cứu một thời
gian ngắn rồi
giải
tán,
có quan
trọng
gì lắm
mà phải
thay đổi cho
cho phiền
phức.
Mọi người đều
nói:
Ý kiến
của Tham mưu
trưởng rất
đúng!
Ngô
Thạch liền
đứng dậy,
tuyên bố
hội nghị kết
thúc,
rồi đi thẳng
không
chào
hỏi ai cả!
*
Từ đó,
mỗi hôm
cứ ăn cơm
sáng
rồi là
Nguyễn Hải
Thần và
Trần
Báo đi
họp hội nghị.
Mặc dù
đã quy
định là
mỗi
ngày
hội nghị xong
về phải
báo
cáo,
nhưng Nguyễn
Hải Thần
và Trần
Báo
không
ngày
nào
chịu
báo
cáo,
và chỉ
nói
rằng hôm
nay
không
có việc
gì.
Một hôm,
tôi gặp
Dương Thanh
Dân,
đã biết
y là
một người muốn
dò la
tình
hình,
nên
tôi
nói:
Ông
Dương Thanh
Dân,
công
việc hội nghị
trù bị
làm tốt
chứ? Về
công
việc của hội,
tôi
có một
số ý
kiến muốn
phát
biểu, nhưng
phát
biểu như thế
nào? Y
nói:
Đồng
chí
có thể
nói với
tôi,
tôi sẽ
báo
cáo lại
với hội nghị.
- Nhưng
tôi
không
biết hội nghị
đã tiến
hành
đến đâu,
và đang
bàn
việc gì
thì
phát
biểu cũng
khó,
và
có thể
rất lạc
lõng.
- Ở
đây,
tôi
có
biên bản
của hội nghị,
đồng
chí
có thể
lấy xem,
có
ý kiến
gì, cứ
nói
thẳng với
tôi,
tôi đảm
bảo sẽ
báo
cáo lại
một
cách
trung thực.
Nói
xong, Dương
Thanh
Dân
rút
trong kẹp ra
một bản
biên
bản, đưa cho
tôi
và hẹn
lúc
khác sẽ
gặp.
Thì ra
hội nghị
trù bị
đã
không
bàn
gì đến
cái
cương lĩnh của
cái hội
gọi là
“Việt Nam phản
xâm lược
đồng minh”,
mà chỉ
bàn
việc Hoa
quân
nhập Việt,
và
đã đi
tới quyết định
một danh
sách
chính
phủ bù
nhìn
lâm thời
gồm:
- Nguyễn Hải
Thần, Chủ
tịch,
- Hoàng
Lương, Bộ
trưởng Bộ Quốc
phòng
- Mai
Công
Nghị, Bộ
trưởng Bộ
Ngoại giao,
- Dương
Thanh
Dân, Bộ
trưởng Bộ
Tài
chính,
- Trần
Báo, Bộ
trưởng Bộ
Tuyên
truyền,
- Nông
Kinh Du, Cố
vấn.
- v.v…
Việc rất
nghiêm
trọng!
Tôi phải
bàn bạc
với các
anh em để đối
phó.
Ngày
hôm sau,
hội nghị Việt
Minh lại được
triệu tập.
Tôi đi
thẳng ngay
vào vấn
đề:
- Cụ Nguyễn
Hải Thần
và anh
Trần
Báo
đã hơn
một tuần nay
đi họp về
không
báo
cáo,
nói
là
không
có việc
gì,
nhưng sự thật
thì sự
việc đã
phát
triển đến một
bước
không
thể tưởng
tượng. Người
ta đã
định
thành
lập
chính
phủ lâm
thời sau khi
Hoa quân
nhập Việt với
một danh
sách
đầy đủ!
- Cụ Nguyễn
Hải Thần
là Chủ
tịch, nhưng
quyền hạn Chủ
tịch như thế
nào?
- Hoàng
Lương
là một
người do Nhật
nặn ra,
bây giờ
sao lại
làm Bộ
trưởng Bộ Quốc
phòng?
- Mai
Công
Nghị là
Hoa kiều, sao
lại làm
Bộ trưởng Bộ
Ngoại giao?
- Dương
Thanh
Dân cũng
là Hoa
kiều, sao lại
làm Bộ
trưởng Bộ
Tài
chính?
- Nông
Kinh Du
là một
người
không
biết
chính
trị là
gì, sao
lại làm
Cố vấn?
- Còn
anh Trần
Báo,
thì
Quốc
phòng
người ta nắm,
Ngoại giao
người ta nắm,
anh sẽ
tuyên
truyền
cái
gì?
Và
tuyên
truyền cho ai?
Bất kể
chính
quyền của một
nước
nào,
Quốc
phòng,
Ngoại giao,
Tài
chính
đều là
những bộ quan
trọng,
đáng lẽ
người
cách
mạng phải nắm,
sao
chúng
ta phải để
người
thân
Nhật và
Hoa kiều nắm,
mà
không
dám
có
ý kiến?
Hơn nữa lại
không
báo
cáo với
đoàn
thể? Sự việc
đã như
vậy, bây
giờ cụ Nguyễn
Hải Thần
và anh
Trần
Báo
nghĩ thế
nào?
Và
nói với
đoàn
thể như thế
nào?
Nguyên
trong
quá
trình
bàn bạc
và khi
lập danh
sách
chính
phủ bù
nhìn
lâm
thời, Nguyễn
Hải Thần cảm
thấy
mình
không
có
quyền
hành
gì,
đã lấy
làm bất
mãn,
nhưng
không
dám
hé
môi, nay
tôi
gãi
vào chỗ
ngứa,
ông ta
mới nổi
khùng
lên,
nói cụt
ngủn một
câu:
Thôi từ
nay về sau mặc
kệ họ,
tôi
không đi
họp nữa!
Thế là
từ đó
luôn mấy
hôm,
Nguyễn Hải
Thần và
Trần
Báo cứ
nằm lì
ở nhà,
không đi
họp. Trương
Phát
Khuê
nóng
ruột
quá,
phải viết thư
mời
toàn
ban trù
bị đến tiếp
kiến để thuyết
phục, Nguyễn
Hải Thần vẫn
bướng, nhất
định
không
đi. Tôi
liền
nói: Cụ
không đi
như vậy sẽ mất
lòng
Trương
Phát
Khuê,
và nếu
họ sẽ bất
chấp, gạt
phăng cả cụ
và Trần
Báo đi,
rồi cứ
làm thế
nào?
Lúc bấy
giờ Nguyễn Hải
Thần sợ
có tội
với Trương
Phát
Khuê,
đồng thời cũng
nghĩ đến địa
vị tương lai
của
mình
trong
cái tổ
chức bù
nhìn
ấy, nhưng
không
còn
cách
gì đối
phó,
nên phải
làm
lành
với tôi,
hỏi rằng: Thế
ông bảo
bây giờ
nên
làm thế
nào?
*
Sau khi nghỉ
họp một
lúc,
tôi lại
mời mọi người
ngồi lại
và
trình
bày
ý kiến:
Bây giờ
muốn sửa chữa
thì
phải sửa chữa
tận gốc, tức
là phải
sửa lại cả
cái ban
trù bị,
để mình
có
tiếng
nói
vững
vàng ở
trong
đó, chứ
nếu như
bây giờ
thì
có đưa
ra ý
kiến gì
cũng bị gạt đi
mà
thôi.
Tôi nghĩ
ngày
mai cụ cứ
nên đi
gặp Trương
Phát
Khuê,
nhưng
không đi
với tư
cách ủy
viên của
ủy ban
trù bị,
mà đi
với tư
cách
Việt Minh
thì
nói
chuyện mới
có tư
thế. Nguyễn
Hải Thần nghe
nói rất
thích,
trả lời ngay:
Thế
ngày
mai, cả
ông
và
các anh
em cùng
đi với
tôi
vào gặp
Trương
Phát
Khuê.
Thế là
ngày
mai, Nguyễn
Hải Thần, Trần
Báo, cụ
Lê Nhuận
Chi, anh Phạm
Việt Tử, Trụ
Đen, Long Cong
và
tôi
cùng đi
vào Bộ
tư lệnh. Đến
phòng
khách
thấy
các
người trong
ban trù
bị đã ở
đấy đông
đủ, họ
nhìn
chúng
tôi với
con mắt kỳ lạ,
vì
hôm nay,
Trương
Phát
Khuê mời
đến họp ủy ban
trù bị,
sao lại
có
những người
không
có
trách
nhiệm
mà cũng
đến đông
thế? Tự
nhiên
không
một ai mở
miệng, họ chỉ
nhìn
nhau và
nói với
nhau bằng
khóe
mắt mà
thôi.
Một chốc, thấy
bóng
Trương
Phát
Khuê từ
phòng
riêng
bước ra, Dương
Thanh
Dân
hô to
một tiếng:
Nghiêm!
Mọi người đều
đứng dậy như
đối với thượng
cấp. Trương
Phát
Khuê đi
vào rất
tự
nhiên,
không
bắt tay ai cả,
đến ngay
cái ghế
bành
chỗ danh dự
nhất, rồi ngồi
phịch xuống.
Ông ta
vốn
không
biết trong ủy
ban trù
bị có
những ai
và
làm
việc như thế
nào,
nên khi
gặp
chúng
tôi,
ông ta
đều cho
là ủy
viên của
ban trù
bị cả,
và
nói: Ủy
ban trù
bị đã
làm
việc như thế
nào?
Phải
chóng
đi chứ, sao
lại chậm trễ
quá?
Nguyễn Hải
Thần đã
hậm hực sẵn
trong bụng,
liền
không
khách
khí
gì cả,
bốp ngay một
câu:
Chúng
tôi
không
thừa nhận ủy
ban trù
bị, vì
ủy ban
đó
là do
Ngô Tham
mưu trưởng chỉ
định, chứ
không
phải
chúng
tôi bầu
ra.
Trương
Phát
Khuê
nghe xong,
sửng sốt
không
biết đầu
đuôi ra
sao. Dương
Thanh
Dân, một
tay chạy việc
lão
luyện
nói đỡ
ngay rằng:
Thưa Trưởng
quan, Nguyễn
tiên
sinh
nói
đúng
đấy, vì
hôm
thành
lập uỷ ban
trù bị,
Ngô Tham
mưu trưởng
chưa nghe hết
ý kiến
các
đồng
chí
Việt Nam.
Có lẽ
Trưởng quan để
cho các
đồng
chí
Việt Nam
bàn
tính
lại, rồi tự
lập lấy uỷ ban
trù bị
thì
hơn. Trương
Phát
Khuê như
được cứu khỏi
chỗ bế tắc,
liền trả lời
là đồng
ý
và
khuyên
các
đồng
chí
Việt Nam
nên cố
gắng
làm
việc mau. Cuộc
gặp Trương
Phát
Khuê đến
đó
là hết.
Lúc ra
về, Nguyễn Hải
Thần hí
hửng coi như
một thắng lợi
do sự thẳng
thắn
dám
nói của
ông ta
mang lại. Về
đến
nhà,
chúng
tôi mời
Nguyễn Hải
Thần
cùng
ngồi lại để
đánh
giá sự
việc mới xảy
ra và
bàn
tính
ngay
cách
tiến
hành
sau
này.
Nguyễn Hải
Thần
phát
biểu ý
kiến ngay:
Bây giờ
chúng
ta cần chủ
động họp người
Việt Nam lại
để bầu ra ủy
ban trù
bị mới,
ông
Lý
Quang Hoa
và một
số anh em ta
thế nào
cũng phải
có
chân
trong
đó,
còn hai
người Hoa kiều
thì
phải để ra
ngoài,
chỉ làm
cán bộ
thôi.
Tôi mời
anh em
phát
biểu ý
kiến, nhưng
mọi người đều
suy nghĩ, chưa
ai phát
biểu.
Tôi gợi
ý:
Làm như
cụ Nguyễn
nói
thì dứt
khoát
đấy, nhưng về
sẽ mất
lòng Bộ
tư lệnh, mất
lòng
Trương
Phát
Khuê,
Ngô
Thạch
và
Dương Kế Vinh,
như vậy
có tốt
không?
Hay là
chúng
ta chỉ
làm một
việc rất đơn
giản là
không
động gì
đến ủy ban
trù bị
cũ, mà
chỉ đề nghị bổ
sung
thêm mấy
người mới. Như
vậy,
công
việc sẽ tiến
hành
được thuận lợi
hơn. Nguyễn
Hải Thần nghe
ra tấm tắc
khen và
mọi người đều
đồng ý.
Trong việc bổ
sung người
vào ủy
ban trù
bị,
chúng
tôi
đã nghĩ
đến một người
trong
nhóm ly
khai Phục
quốc. Nhưng
qua quá
trình
liên hệ
với họ, thấy
nhóm
này
cũng phức tạp,
về mặt đả
kích uy
tín
Hoàng
Lương
và
Nông
Kinh Du trong
đám
Phục quốc
thì họ
làm
được phần
nào,
còn về
các mặt
khác
thì họ
không
có
tác
dụng. Nay nếu
đề nghị đưa ra
một người của
họ và
ban trù
bị, thì
phải qua những
thủ tục phiền
phức,
mà cũng
chưa chắc
đã
có lợi,
chi bằng Việt
Minh cứ giới
thiệu người
Việt Minh. Suy
tính
kỹ,
chúng
tôi
bàn với
Nguyễn Hải
Thần viết thư
giới thiệu với
Trương
Phát
Khuê.
Thế là
Lý
Quang Hoa
và Phạm
Việt Tử lại
là ủy
viên của
ban trù
bị.
Nhưng trước
mắt còn
nhiều
khó
khăn,
công
việc
không
phải vì
thế mà
được giải
quyết
trót
lọt.
*
Không
bao lâu,
ủy ban
trù bị
của hội Việt
Nam phản
xâm lược
đồng minh
lại được mời
đến họp ở Bộ
tư lệnh
Quân khu
bốn. Ngô
Thạch
và
Dương Kế Vinh
đều
không
có mặt.
Dương Thanh
Dân
nghiễm
nhiên
xem
mình
như Chủ tịch
điều khiển
cuộc họp,
thong thả
nói:
Ban trù
bị trong mấy
kỳ họp qua
đã
bàn một
số vấn đề,
nhưng mới rồi
Nguyễn
tiên
sinh đã
đề nghị bổ
sung ban
trù bị
để bàn
lại. Vậy
hôm nay,
hội nghị chưa
có văn
kiện
gì, xin
mời các
vị ai
có
ý kiến
gì
thì
phát
biểu. Hội nghị
im lặng. Mai
Công
Nghị
nói:
Lần trước đồng
chí
Lý
Quang Hoa
đã
nêu một
số ý
kiến về bản
cương lĩnh.
Các
ý kiến
đó đang
được Bộ tư
lệnh
nghiên
cứu, nay đồng
chí
Lý
có
ý kiến
gì, xin
mời nói
thêm.
Tôi
nói:
Lần trước
tôi
phát
biểu một số
ý kiến
cũng chỉ
là một
sự gợi
ý. Nay
tôi xin
phát
biểu
thêm
ý kiến
về cái
tên
và
cái
tính
chất của hội.
Theo tôi
nghĩ
thì
cái
tên
“Phản
xâm lược
đồng minh”
có
tính
chất là
một tổ chức
quốc tế, chẳng
hạn như
“Phân
hội phản
xâm lược
đồng minh quốc
tế ở Trung
Quốc”
có thu
nạp cả người
ngoại quốc như
người Anh,
người
Pháp,
v.v... Vậy đối
với cái
tên
“Phản
xâm lược
đồng minh Việt
Nam” người ta
cũng có
thể hiểu
là một
cái
phân hội
tổ chức quốc
tế ở Việt Nam.
Mà theo
cương lĩnh
thì
nó
là một
tổ chức chỉ
đạo cho
cách
mạng Việt Nam.
Vậy
chúng
ta hãy
suy nghĩ xem
cái
tên
đó
có
thích
hợp với
tính
chất của cương
lĩnh
không?
Tôi
nói
xong, hội nghị
không
thấy ai
phát
biểu. Dương
Thanh
Dân đưa
mắt
nhìn
mọi người như
có vẻ
thúc
giục, rồi
nói:
Vấn đề đồng
chí
Lý mới
nêu ra
có thể
là một
vấn đề
mà mọi
người chưa
có
ý kiến
ngay được. Để
tôi xin
báo
cáo với
Trương Trưởng
quan và
Ngô Tham
mưu trưởng
đã, rồi
sau sẽ hay.
Thế là
hội nghị kết
thúc.
Từ đó
về sau, Bộ tư
lệnh
Quân khu
bốn
không
mời ủy ban
trù bị
họp nữa.
Rõ
ràng,
vấn đề
cách
mạng Việt Nam
nên tổ
chức như thế
nào,
và
nên
làm
gì?
Không
phải do ủy ban
trù bị
quyết định,
mà
là do
Bộ tư lệnh
Quân khu
bốn, hay
nói cho
đúng
hơn là
do
Trùng
Khánh
quyết định.
Về tình
hình
kháng
chiến chống
Nhật ở Trung
Quốc trong
thời gian
đó:
Các
chiến trường
địch hậu do
Đảng cộng sản
lãnh
đạo với sự
chiến đấu anh
dũng của
Bát bộ
quân
và
Tân tứ
quân,
đã
xây dựng
được nhiều khu
giải
phóng
rộng lớn;
Kháng
Nhật
liên
quân
cũng hoạt động
mạnh ở
vùng
Đông
Bắc.
Còn ở
các
chiến trường
chính,
phải đối diện
với địch,
thì tuy
có một
số tướng lĩnh
yêu nước
kiên
quyết chống
Nhật nhưng
không
được sự ủng hộ
của Tưởng Giới
Thạch,
nên đều
bị thất bại,
các
thành
phố chủ yếu
đều bị Nhật
chiếm, tệ hơn
nữa là
ở Nam Kinh,
Uông
Tinh Vệ
đã lập
chính
phủ bù
nhìn
làm tay
sai cho Nhật
công
khai chống lại
tất cả
các lực
lượng
kháng
chiến. Sau khi
Nhật tập
kích
cảng
Trân
Châu
và
đánh
chiếm nhiều
nơi ở
Châu
Á như
Hương Cảng,
Nam Dương,
Mã-lai,
Miến Điện;
Anh, Mỹ phải
trực tiếp tham
chiến; Tưởng
Giới Thạch như
được sự khuyến
khích
đã hết
sức hí
hửng, đẩy mạnh
chuẩn bị việc
Hoa quân
nhập Việt,
nhưng
cái tổ
chức
“cách
mạng Việt Nam”
để phục vụ cho
việc Hoa
quân
nhập Việt lại
liên
tiếp bị
phá sản
bởi sự bất lực
của bọn tay
sai. Vì
vậy,
chúng
phải xem
xét lại
vấn đề, bố
trí lại
lực lượng,
tìm
kiếm
thêm cốt
cán.
Sau khi kế
hoạch lập
“Việt Nam phản
xâm lược
đồng minh” bị
bác
lại,
thì
chúng
đưa Vũ Hồng
Khanh,
Nghiêm
Kế Tổ từ
Trùng
Khánh
về, rồi thả
Trương Bội
Công,
rồi tiếp tục
bằng việc đưa
Đặng
Nguyên
Hùng [4]
và
Nguyễn Tường
Tam đến, tới
cuối năm 1942
thì
chúng
đã gạt
hẳn những
người Việt
Minh
chân
chính
ra,
không tổ
chức “Việt Nam
phản xâm
lược đồng
minh” nữa,
mà
chuẩn bị tổ
chức ra
cái gọi
là Việt
Nam
cách
mạng đồng minh
hội.
*
Việc
chúng
sẽ gạt những
người Việt
Minh
chân
chính
ra là
việc mà
chúng
tôi
đã
đoán
trước,
nên sau
khi được tin
Vũ Hồng Khanh
và
Nghiêm
Kế Tổ đến,
thì anh
em đã
bàn đến
việc tôi
cần tìm
cách
rút
lui, và
bản thân
tôi cũng
thấy việc
rút lui
là cần
thiết,
vì
Nghiêm
Kế Tổ
là đặc
vụ của
Trùng
Khánh,
đã biết
tôi từ
lúc
còn ở
Nam Kinh,
còn Vũ
Hồng Khanh
đã biết
tôi
là cộng
sản từ
lúc
còn ở
Côn
Minh; hai
tên
này đến
thì bộ
mặt thật của
mình
không
còn
giấu giếm được
nữa.
Một hôm,
tôi xin
gặp Trương
Phát
Khuê
và
nói
thẳng với
ông ta
rằng: Mục
đích
tôi đến
đây
là cốt
để bàn
bạc với người
Việt Nam về
công
tác
cách
mạng. Nhưng
bây giời
tôi thấy
đúng
như lời Trưởng
quan đã
nói,
những người
Việt Nam ở
đây đều
không
phải là
người
cách
mạng,
mà chỉ
là
những người
mưu toan quyền
lợi
riêng
mà
thôi.
Như vậy, nếu
cứ theo đuổi
cuộc hoạt động
với họ ở
đây cũng
không
có lợi
ích
gì.
Hiện nay ở
Trung Quốc
đang chống
Nhật, ở Việt
Nam cũng đang
chống Nhật,
tôi mong
muốn Trưởng
quan
giúp
tôi một
cách
nào
đó,
miễn là
tôi
có thể
góp
phần
vào
công
cuộc chống
Nhật là
được.
Trương
Phát
Khuê vốn
có
ý muốn
đẩy tôi
đi, nay được
tôi đề
nghị thế
thì
ông ta
rất vừa
ý,
nên trả
lời ngay: Nếu
anh bằng
lòng
thì
tôi sẽ
ủy nhiệm anh
về làm
việc ở Trung-Việt
biên khu
chính
trị công
tác đội
với Ngũ Căn
Hoa ở Tịnh
Tây, ở
đó Chủ
nhiệm Trần Bảo
Thương sẽ
giúp đỡ
anh.
Đây
là một
việc
không
ngờ! Được về
Tịnh Tây
có thể
sẽ là
một dịp rất
tốt để
tìm
cách về
nước được mau
chóng!
Tôi tỏ
lời cảm ơn
ông ta,
và
ngày
hôm sau
thì
được giấy ủy
nhiệm
làm
“dịch thuật
quan” với cấp
bậc trung
tá ở
Trung-Việt
biên khu
chính
trị công
tác
đội.
Trước khi
lên
đường về Tịnh
Tây,
tôi
tìm gặp
các anh
em Việt Minh ở
đây để
dặn dò
một số
ý kiến:
Việc
thành
lập hội Việt
Nam phản
xâm lược
đồng minh từ
trước đến nay
chúng
ta phản đối.
Nhưng
bây giờ
tôi sẽ
đi về Tịnh
Tây, nếu
họ cứ chủ
trương lập,
mà anh
em ta cứ tiếp
tục phản đối
thì
không
lợi. Vì
số đông
người Việt Nam
ở đây,
nhất là
mấy trăm anh
em Phục quốc
đều hy vọng
có một
đoàn
thể
cách
mạng
nào
đó, để
tự người Việt
Nam chỉ đạo
lấy người Việt
Nam, để
thoát
khỏi
cái
vòng
kìm kẹp
mà bấy
lâu nay
họ phải chịu.
Vì vậy,
sau khi
tôi đi
rồi, nếu họ
muốn lập
cái hội
gì
đó
thì anh
em cứ để mặc
họ, mà
ta chỉ
tuyên
truyền
là
không
tin tưởng,
vì
cái hội
với những
người
lãnh
đạo như thế
thì
chẳng
có thể
làm
nên
trò
trống
gì. Như
vậy đến
lúc sự
thật chứng
minh ý
kiến ta
là
đúng,
thì uy
tín của
Việt Minh vẫn
giữ được,
và sau
này
có dịp
vẫn có
thể lôi
kéo
được quần
chúng.
Anh em đều
nhận thấy như
thế là
đúng.
Tôi chia
tay với anh
em, về Tịnh
Tây để
chuẩn bị cho
việc về nước
công
tác.
[1]đại
bộ phận người
trong lớp
này
là
người của Việt
Minh đưa từ
trong nước ra
[2]có
thể coi như
trụ sở của
Việt Minh.
[3]Thời
gian
này
Trương Bội
Công bị
bắt ở Tịnh
Tây
có lẽ
còn
chưa được tự
do, nên
không
có
tên
[4]lai
lịch Đặng
Nguyên
Hùng
đã
nói
rõ ở
trong mục Sinh
hoạt và
đấu tranh ở
Nam Kinh
|
-----------------------------------
VII.
Chuẩn bị về
nước
Lần này
rời Liễu
Châu lại
có vẻ
đường
hoàng,
có giấy
ủy nhiệm với
chức vụ
khá cao
và
có tiền
lộ phí
đi đến Tịnh
Tây.
Tịnh Tây
bây giờ
với Tịnh
Tây hơn
một năm trước
đây
đã
hoàn
toàn
khác
hẳn. Trụ sở
Việt Minh
đã
đóng
cửa,
cán bộ
Việt Minh
không
còn ai
đi lại; những
người Việt Nam
và Hoa
kiều trong
đám
Trương Bội
Công
cũng vắng
tanh, đến nỗi
ngay cả trong
các
hiệu ăn, hiệu
nước
chè
trước kia rất
nhộn nhịp
bây giờ
vắng teo,
không
thấy một người
nào
quen.
Cái
quang cảnh hiu
quạnh
không
khỏi gây
ra những
xúc cảm
ngổn ngang,
nhưng
có một
điều chắc chắn
là về
đến Tịnh
Tây
thì
nhất định
có thể
về đến trong
nước.
Theo thủ tục
làm
việc,
thì
đã được
ủy nhiệm
là
nhân
viên của
đội Biên
chính,
trước hết
là phải
gặp đội trưởng
đội Biên
chính
Ngũ Căn Hoa để
nhận
công
việc.
Ông
này khi
gặp tôi
tỏ vẻ vui mừng
nói:
Đồng
chí
Lý
chuyến
này về
đây
làm
việc chắc hẳn
sẽ giúp
ích cho
“bản đội” được
nhiều.
Chúng
tôi rất
hoan
nghênh.
Chúng
tôi
đã định
để đồng
chí phụ
trách
bộ phận xuất
bản tài
liệu tiếng
Việt,
mà hiện
nay một đồng
chí
Phục quốc
quân
điều từ Liễu
Châu về
đang phụ
trách.
Trước kia
trong lớp bộc
phá
cũng như trong
các
cuộc hội nghị,
đồng
chí
đã tỏ
ra là
một người
có khả
năng “dịch
thuật” rất
nhiều. Trưởng
quan Trương
Phát
Khuê ủy
nhiệm đồng
chí
làm
chức vụ
này
là
có sự
cân
nhắc.
Về nhiệm vụ
của bộ phận
xuất bản
tài
liệu tiếng
Việt
thì
tôi
đã biết
rõ chỉ
là in
phát
những
tài
liệu phản động
để nhồi sọ
người xem, mặc
dù
những
tài
liệu đó
in rồi cũng
chỉ để xếp
đống ở cơ quan
hoặc đem vứt
bậy ở
biên
giới, quần
chúng
mình
không ai
xem đến. Tuy
vậy, về
nguyên
tắc là
mình
không
thể
nhúng
tay vào
việc
này,
phải
tìm
lý do
để từ chối.
Tôi
nói: Về
công
tác
này
hiện nay
đã
có một
đồng
chí
Phục quốc
quân phụ
trách,
nếu để
tôi thay
thế đồng
chí ấy
thì
có thể
mất
đoàn
kết, sau
này sẽ
khó
làm
việc.
Tôi đề
nghị đội
trưởng cứ để
đồng
chí ấy
phụ
trách
như cũ,
tôi sẽ
giúp
duyệt lại
những văn kiện
mà đồng
chí ấy
phiên
dịch hoặc
biên
soạn. Như vậy
kết quả vẫn
tốt mà
nội bộ lại
êm thấm
hơn.
Ngoài
việc đó
ra, tôi
có thể
dịch quyển Tam
dân chủ
nghĩa
là một
tài
liệu
chính
trị rất quan
trọng, cần
được dịch cẩn
thận và
đúng
đắn. Ngũ Căn
Hoa thấy
tôi
nói
có
lý,
liền đồng
ý.
Mấy hôm
sau, cũng theo
thủ tục,
tôi phải
đi gặp Chủ
nhiệm Trần Bảo
Thương. Khi
gặp, ông
ta tuy cũng
nói một
cách
ôn tồn
nhưng
có vẻ
uy hiếp ra
mặt. Vì
trước kia
ông ta
thường hay gặp
tôi với
tính
chất là
gặp
khách,
còn lần
này gặp
với
tính
chất tiếp kiến
một người bộ
hạ. Ông
ta nói:
Bây giờ
anh đã
là
cán bộ
của
chúng
tôi
thì
phải thật
lòng
thật dạ
làm
việc,
tôi rất
tin anh, nhưng
Bộ tư lệnh
Quân khu
bốn thì
chưa chắc
đã tin
anh, nếu
có chỗ
sơ suất
mà Bộ
tư lệnh phải
can thiệp
thì
chúng
tôi cũng
khó
lòng
đảm bảo sự an
toàn
cho anh. Anh
phải biết rằng
cách
mạng Việt Nam
nếu
không
có
chúng
tôi
giúp
thì
không
làm
được nên
chuyện
đâu.
Đấy, anh thử
xem các
anh Lâm
Bá
Kiệt, Dương
Hoài
Nam từ khi bỏ
Tịnh Tây
về đến nay
cũng chỉ loay
hoay ở
vùng
biên
giới,
có
làm
nên
trò
trống
gì. Đội
trưởng Ngũ Căn
Hoa đã
xếp đặt
công
tác cho
anh, anh
nên hết
sức cố gắng.
Nghe xong,
tôi chỉ
trả lời mấy
câu
khách
khí,
rồi xin
phép ra
về. Thế
là buổi
tiếp kiến kết
thúc.
Từ hôm
về Tịnh
Tây đến
nay
không
gặp được một
người quen
nào,
không
hiểu
tình
hình
trong nước,
nhất là
tình
hình
biên
giới ra sao.
Câu
nói
“các
anh Lâm
Bá
Kiệt, Dương
Hoài
Nam cũng chỉ
loay hoay ở
vùng
biên
giới” của Trần
Bảo Thương
vô
tình
đã
làm cho
tôi biết
được
cái đầu
mối quan
trọng. Từ
đó,
tôi
hàng
ngày cứ
đem quyển Tam
dân chủ
nghĩa ra dịch,
rồi cứ
sáng
dậy và
lúc ăn
cơm chiều xong
thì ra
ngoài
cổng
thành
đi bách
bộ, có
bữa đi
vài
cây số
rồi mới quay
về. Làm
như thế cốt để
xem có
người theo
dõi
mình
không,
nhưng lần
nào
cũng
không
thấy gì
cả.
*
Một buổi chiều
trời
mát,
vào
khoảng bốn
giờ,
chuông
điện thọai
réo
lên ở
phòng
làm
việc,
tôi cầm
máy
lên nghe
rõ
ràng:
Sáu giờ
chiều
hôm nay,
Phó chủ
nhiệm Đặng
Khuông
Nguyên
mời đồng
chí đến
ăn cơm ở
khách
sạn...
bên cạnh
cửa
thành
phía
Nam. Tôi
hỏi lại một
lần nữa
thì vẫn
nói
đúng
như thế.
Tôi trả
lời
vâng,
vâng,
rồi đặt
máy
nghe xuống.
Kỳ lạ! Đặng
Khuông
Nguyên
là một
tay đặc vụ,
trợ thủ đắc
lực của Dương
Kế Vinh, hắn
đã biết
mình
rất rõ
trong cuộc đấu
tranh ở Liễu
Châu,
sao bây
giờ lại đặc
biệt mời
mình
đến
khách
sạn ăn cơm?
Có lẽ
hắn muốn gọi
mình
đến để
tóm cổ
chứ gì?
Nghĩ thế,
tôi liền
xếp gọn
sách vở
và
bút
giấy ở
trên
bàn,
mặc áo
đi thong thả
đến chỗ
khách
sạn để quan
sát,
thấy có
bốn anh
lính
cầm
súng
giắt lưỡi
lê đứng
gác ở
cửa.
Đúng
rồi! Đặng
Khuông
Nghuyên
“mời” đến bắt
là việc
chắn chắn!
Tôi cứ
thẳng đường đi
ra
ngoài
cửa
thành,
rồi đi về
phía
đường
cái
có
đông
người qua lại,
vừa đi vừa
nghĩ
cách
đối
phó.
Làm thế
nào để
khỏi bị bắt?
Có lẽ
phải chạy đi
Pà
Mông,
nơi đã
có
những quần
chúng
từng thề thốt
sống chết
có
nhau? Nhưng
không
ổn! Tịnh
Tây -
Pà
Mông
cách
nhau hơn hai
chục cây
số, mà
lại phải đi
theo đường
ô
tô hơn
mười cây
số, rồi mới rẽ
vào
đường
nhánh
nhỏ. Chạy lối
ấy không
thể
thoát
được. Vậy nếu
bị bắt
thì
làm thế
nào cho
người
mình
biết để đến
cứu? Tôi
tính đi
tính
lại chỉ
có một
cách
là cứ
đến ăn cơm,
nếu bị bắt
thì
quần
chúng
sẽ biết,
và
trong
đám
quần
chúng
đó nhất
định là
có
người của
mình.
Đúng
sáu
giờ, tôi
đến
khách
sạn đã
thấy anh đại
úy quen
mặt ở đội
Biên
chính
đứng ngay chỗ
có bốn
tên
lính
gác.
Anh ta
chào
tôi, rồi
đưa vào
phòng
khách
đã
có anh
Khoa trưởng
của Đặng
Khuông
Nguyên
chờ sẵn,
và
Hoàng
Quốc
Chính,
một tên
tay sai độc
ác,
và đắc
lực nhất của
Vũ Hồng Khanh
ở Côn
Minh cũng ở
đây. Mời
các
người ngồi
vào chỗ
xong, anh Khoa
trưởng
nói:
Hôm nay
Phó chủ
nhiệm Đặng
Khuông
Nguyên
ủy quyền cho
tôi mời
các
đồng
chí ăn
cơm, nhưng rất
tiếc
Phó chủ
nhiệm đột
nhiên
có việc
gấp phải đi,
chưa chắc
đã về
kịp để ăn cơm
với các
đồng
chí.
Anh đại
úy
nói
thêm mấy
câu
có vẻ
phân
trần:
Nguyên
hôm nay,
Phó chủ
nhiệm chỉ định
mời đồng
chí
Hoàng
Quốc
Chính,
nhưng
tôi
đã đề
nghị với Khoa
trưởng rằng
đồng
chí mới
được Trưởng
quan Trương
Phát
Khuê ủy
nhiệm về
làm
việc ở đội
Biên
chính
với cấp bậc
trung
tá,
nên mới
luôn.
Được Khoa
trưởng đồng
ý
là
tôi gọi
điện
báo
cáo với
đồng
chí,
chứ
không
kịp gửi thiếp
mời.
Thế là
việc đã
rõ. Bữa
tiệc hôm
nay nói
Đặng
Khuông
Nguyên
mời là
cốt để cho
có vẻ
long trọng,
chứ thực
thì chỉ
anh Khoa
trưởng chủ
trì,
mà anh
này
không
biết
mình
là thế
nào,
nên mới
nghe lời anh
đại úy
mời
mình
đến dự.
Hoàng
Quốc
Chính
vốn đã
biết tôi
từ ở Côn
Minh nhưng hắn
nghe được
lõm
bõm một
đôi
tiếng như
“Trưởng quan
Trương
Phát
Khuê”,
“đội
Biên
chính”,
“cấp bậc trung
tá”
v.v...
mà lại
được Đặng
Khuông
Nguyên
mời,
thì hắn
tin là
tôi
đã bị
mua chuộc
làm tay
sai như hắn,
vì vậy
ngồi đối diện
với nhau
mà vẫn
không
có vẻ
gì tỏ
ra đối lập.
Khi ngồi
vào
bàn ăn,
anh Khoa
trưởng, anh
đại úy
và
tôi vẫn
chuyện
trò với
nhau bằng
tiếng Trung
Quốc,
còn hắn
thì chỉ
biết ăn
không
biết
nói, tự
cảm thấy
ngượng nghịu.
Tôi liền
bảo hắn muốn
gì cứ
nói
bằng tiếng
Việt,
tôi sẽ
phiên
dịch. Như vậy
câu
chuyện sẽ
rôm rả
hơn, mà
mình đỡ
phải đối
phó. Ăn
cơm xong, đang
uống cà
phê
và
chuẩn bị ra
về, thì
Đặng
Khuông
Nguyên
từ phía
ngoài
đi vào,
hắn liếc thấy
rõ cả
mấy người
trong tiệc,
nhưng lờ đi
như
không
thấy, bước
thẳng
lên
gác chỗ
làm
việc của hắn.
Sau mấy
phút,
anh Khoa
trưởng mời
tôi
và
Hoàng
Quốc
Chính
lên
gác
chào
Phó chủ
nhiệm.
Chúng
tôi theo
lời bước
lên
gác,
Đặng
Khuông
Nguyên
cũng đứng dậy
bắt tay một
cách
miễn cưỡng
và
nhìn
vào mặt
Hoàng
Quốc
Chính,
chứ
không
nhìn
tôi,
nói mấy
câu
khách
sáo:
Hôm nay
rất tiếc,
tôi bận
việc về muộn
quá để
các
đồng
chí
phải chờ.
Tôi vẫn
thản
nhiên
như một người
phiên
dịch, dịch lại
cho
Hoàng
Quốc
Chính
nghe,
và bảo
hắn nên
nói mấy
lời cảm ơn,
rồi xin về sớm
kẻo Phó
chủ nhiệm đi
làm
việc về mệt.
Hoàng
Quốc
Chính
nghe theo sự
gợi ý
của tôi
và
nói một
thôi độ
vài
phút.
Tôi dịch
ra tiếng Trung
Quốc bằng
cách
thêm bớt
một đôi
chỗ để
có lợi
cho
hoàn
cảnh
oái oăm
của
mình
trong
lúc
đó.
Nói
xong,
tôi bảo
Hoàng
Quốc
Chính
xin cáo
từ. Cuộc tiếp
kiến chỉ diễn
ra trong
khoảng bốn,
năm
phút
với lối
nói
chuyện đứng
chứ
không
ngồi,
không
uống nước,
không
hút
thuốc, mặc
dù ở
cạnh đó
vẫn có
bộ bàn
ghế và
chè
nước, thuốc
lá để
sẵn.
Trong
quá
trình
liên hệ
với Quốc
dân đảng
Trung Quốc kể
từ khi ở Quế
Lâm cuối
năm 1940 đến
nay đã
gần 20 năm,
thấy rõ
chúng
đã
dùng
cái thủ
đoạn hai mặt,
một mặt
là đả
kích
trắng trợn qua
bàn tay
của Dương Kế
Vinh,
và một
mặt là
vuốt ve mua
chuộc qua
bàn tay
của Trần Bảo
Thương. Nhưng
những thủ đoạn
ấy chỉ
là
những
câu
chuyện buồn
cười sau
này
mà
thôi.
Tôi đang
định một
ngày
nào
đó, hễ
có dịp
là
chuồn về nước.
*
Một tuần lễ
trong đầu
tháng
tám năm
1942, Chỉ huy
sở mở cuộc đại
hội thể thao
cho các
đơn vị
và bộ
đội ở
đó.
Chương
trình
đại hội
kéo
dài năm
ngày,
gồm các
môn thi
điền kinh,
bóng
chuyền,
bóng
rổ, đấu kiếm,
đua ngựa
v.v... rất
linh
đình.
Quần
chúng
xung quanh
vùng
hàng
ngày lũ
lượt
kéo
nhau đến xem
như
ngày
hội,
các cơ
quan và
bộ đội thuộc
hệ Chỉ huy sở
của Trần Bảo
Thương cũng
rất bận rộn,
hầu hết
thì giờ
đều để
vào
đó.
Vào
ngày
thứ tư
là
ngày
sắp kết
thúc
của đại hội,
quần
chúng
đi xem
càng
đông,
nhân
viên
công
tác
càng
bận.
Nhân dịp
này, ăn
cơm
sáng
xong,
tôi
thủng thỉnh ra
ngoài
cổng
thành
đi bách
bộ, rồi nhắm
hướng về
biên
giới một mạch
đi luôn.
Đi khỏi Tịnh
Tây độ
bốn cây
số, ngoảnh lại
không
thấy ai theo,
liền đi rẽ
vào một
chỗ rậm cởi bộ
quần áo
len, mặc bộ
quần áo
kiểu học sinh
vào,
rồi đi
vào
trong
làng
mua một
đôi
dép rơm
và một
cái
nón đội
đi như người
học sinh đi
đường thường
hay
dùng.
Đoạn đường từ
Tịnh Tây
đến Pác
Pó
dài gần
sáu
mươi cây
số, thường
thì
phải đi hai
ngày.
Dọc đường
có mấy
trạm nghỉ
chân
là
Dường Lầu, Cột
Mà
là
những chỗ
có quần
chúng
cảm
tình
với
cách
mạng bảo vệ.
Chỉ ngại ở Cột
Thăm, nhưng
lúc đi
qua vẫn
không
thấy có
động tĩnh
gì,
nên cứ
rảo bước đi
thẳng. Đi khỏi
Cột Thăm độ
vài
cây số
thì một
trận mưa
giáng
xuống như
trút
nước,
áo quần
ướt hết, nhưng
bây giờ
thì
hoàn
toàn
yên
tâm,
không sợ
có
người đuổi bắt
nữa.
Vừa xẩm tối
thì đến
Cột Mà
là chỗ
có anh
thôn
trưởng
và anh
thôn
phó
là
những người
có cảm
tình
với
cách
mạng Việt Nam.
Tôi
không
vào
nhà anh
thôn
phó ở
ngay giữa phố,
mà đi
vội đến
nhà anh
thôn
trưởng ở cuối
thôn.
Đến dưới
nhà
sàn
nghe tiếng
nói ở
trên
nhà
hình
như tiếng anh
thôn
trưởng, nhưng
khi lên
nhà hỏi
thì
người em
nói
không ở
nhà.
Tôi liền
nói:
Nếu thôn
trưởng
không ở
nhà
thì để
tôi đi
xuống
nhà
thôn
phó.
Nói vậy
nhưng xuống
khỏi cầu thang
thì
tôi đi
thẳng ra
ngoài
thôn,
rồi tuột xuống
một cái
dốc dài
độ bốn, năm
trăm
mét, đi
thêm một
đoạn, đến mấy
dãy
ngô
bên
rìa
núi
đá gồ
ghề thì
trời tối hẳn.
Bụng rất
đói,
tôi
vào
dãy
ngô
tìm mấy
bắp mới mọc
thật non,
bóc vỏ
đi rồi cứ cả
hột lẫn
lõi
nhai nuốt như
ngựa. Ăn xong,
đi loanh quanh
phía
núi
đá
tìm một
chỗ ngồi
có thể
dựa lưng để
nghỉ cho qua
đêm.
Trời tờ mờ
sáng,
tôi đứng
dậy đi ngay,
trèo
qua mấy dốc
đá
thì đến
Pò-vằn,
ngay ở chỗ mốc
giáp
giới Việt -
Trung, nhưng
là địa
phận Trung
Quốc,
vào
nhà một
người quần
chúng
thấy đương nấu
rượu. Người
nhà
thấy
mình
áo quần
ướt và
lấm bẩn khắp
nơi,
thì
hiểu ngay
đêm qua
mình
đã gặp
một sự bất
trắc gì
đó,
liền
nói mấy
câu an
ủi rồi lấy
cái
bát to
rót đầy
một bát
rượu
nóng
mời uống.
Tôi vừa
uống vừa hỏi
thăm
tình
hình
Pác
Pó,
bỗng
nhìn
xuống
sân thấy
anh Lê
Quảng Ba đi
qua, mừng
quá,
đặt bát
rượu xuống,
xuống thang
gác
chạy ra vồ lấy
ngay. Anh
Lê Quảng
Ba cười, chỉ
về đường sau
nói:
“Ông
ké đi
sau ấy!”. Vừa
nghe xong
câu
nói
thì
đã thấy
Bác từ
dưới dốc bước
lên. Gặp
nhau,
Bác
nói
ngay: Chắc
là ở
ngoài
ấy khó
khăn nên
chạy về
đây phải
không?
Thôi, cứ
đi đến chỗ
nhà Đại
Hoa,
mình đi
có
việc, sau sẽ
gặp.
Nói
xong,
Bác cứ
đi. Tôi
lên
nhà
uống hết
bát
rượu, hơ
khô quần
áo,
vò qua
các chỗ
lấm cho sạch
đất, phủi giũ
sạch, rồi đi
qua biên
giới. Xuống
một đoạn dốc
khá xa
nữa thì
đến nhà
Đại Hoa ở
Pác
Pó...
|
|
|
|
Nhóm mạng Việt
Nam Văn Hiến
Trang:
Giọt
Nước Trong Biển Cả
www.vietnamvanhien.net
www.vietnamvanhien.org
www.vietnamvanhien.info
www.vietnamvanhien.com
Email:
thuky@vietnamvanhien.net
"Bất
chiến tự nhiên
thành" chi kế
Văn Hiến ngàn
năm sử đã đề
Giải trừ quốc nạn bằng Tâm
lực
"Nhân
Chủ
(tự chủ) - An Vi (an lạc)" khai lối về
|
Lấy Tâm Lực thay
cho vũ lực để giải trừ quốc nạn là phục hoạt
nếp sống Văn Hiến và phục hồi nền "An Lạc
& Tự Chủ" ngàn đời cuả Việt tộc.
|