Năm
Thứ
4889
www.vietnamvanhien.org
www.vietnamvanhien.net
www.vietnamvanhien.info
www.vietnamvanhien.com
Gọng
Kềm
Lịch
Sử
Hồi Ký Chính Trị

Tác
giả: Bùi Diễm
Dịch giả: Phan Lê Dũng

1. Gọng Kềm Lịch Sử
Một giọng nói yếu ớt, giục dã xuyên qua những tiếng
ồ ồ ở đầu giây điện đàm: "Ông Diễm, Bob Shaplen
đây, Bob Shaplen. Tôi đang gọi từ Hồng Kông." Giọng
nói lập đi lập lại tên người gọi, nhưng cơn ngủ say
vùi vừa xong và những viên thuốc cho cơn cảm
cúm khốc liệt vẫn làm tôi mù mờ về người
đang gọi.
"Bob Shaplen đây, ông Diễm. Tôi vừa mới từ Sài
Gòn về. Bạn bè ông đang cần gặp ông gấp. Họ
rất hoang mang và đang muốn biết rõ tin tức của
phía Hoa Kỳ. Chính phủ Sài Gòn đã
cắt hẳn mọi liên lạc với dư luận bên ngoài. Chẳng ai
biết ông Thiệu hoặc đại sứ Graham Martin suy nghĩ thế
nào.
Mọi người đều hoang mang. Chỉ còn ông. Ông phải về
Sài Gòn cho mọi người biết rõ sự thật. Ông
phải về ngay!"
Đầu óc tôi bắt đầu tỉnh táo hơn. Giọng nói
đầy vẻ thúc giục của người gọi đã khiến tôi tập
trung được tư tưởng phần nào. Đây là lần đầu
tiên tôi nhận được tin trực tiếp của Sài Gòn.
Khi ký giả Shaplen gác điện thoại, tôi đã
hoàn toàn tỉnh táo. Tôi tin là nhận
định của ông ta hoàn toàn chuẩn xác. Người
ký giả lão thành chuyên tường trình
các mục Viễn Đông của báo New Yorker là
người hiểu biết và có nhận định chính xác.
Ông không phải là người hấp tấp, hay bi thảm
hóa vấn đề. Nếu không phải vì tình trạng bắt
buộc thì chắc chắn ông đã không gọi
tôi. Tôi vẫn còn nghe âm hưởng gấp gáp,
giục dã trong giọng ông ta.
Tuy đã 2 giờ sáng ở Hoa Thịnh Đốn mà khi trở về
giường tôi vẫn không tài nào chợp được mắt.
Thật ra thì trong suốt tuần vừa qua, tôi đã suy
nghĩ rất nhiều về vấn đề cần phải trở về Việt Nam. Tôi
còn
đang phân vân không biết có nên về hay
không thì đột nhiên bị cúm nặng. Trong khi
đó thì ở Sài Gòn những cơn hoảng hốt lại
bùng ra thật bất ngờ. Những cơn hoảng hốt đó đã
khiến quân đội Việt Nam mất tinh thần và trở thành
hỗn loạn. Vào giờ phút này thì chẳng ai
có thể đoán được liệu Sài Gòn còn
có thể đứng vững được bao lâu nữa. Đầu óc tôi
lại miên man nghĩ về vấn đề cần phải trở về Việt Nam.
Tôi
tự hỏi phải chăng trở về lúc này không còn
kịp nữa? Việt Cộng đã đến sát Sài Gòn
và hẳn nhiên là tôi đã đoán
trước được số phận của mình nếu chẳng may bị lọt vào
tay
đối phương.
Ba tuần trước, ông Thiệu gửi tôi sang thủ đô Hoa Kỳ,
nơi tôi đã trú ngụ suốt từ năm 1967 tới năm 1972
khi phục vụ với chức vụ đại sứ Việt Nam. Kể từ năm
1973, khi tôi
bắt đầu làm Đại Sứ Lưu Động thì Hoa Thịnh Đốn cũng
là một trong những nơi tôi thường xuyên lui tới. Lần
này chuyến đi của tôi nhằm mục đích thuyết phục
quốc hội Hoa Kỳ thông qua số tiền viện trợ khẩn cấp
700 triệu
đô la đang bị trì hoãn. Số tiền viện trợ đó
sẽ được dùng vào việc mua thêm đạn dược và
tiếp liệu cho quân đội Việt Nam. Lúc này, trước cơn
thác của những sư đoàn Bắc quân tràn
vào Miền Nam với tốc độ mỗi thành phố một ngày,
quân đội Việt Nam đang hoang mang vì thiếu thốn quân
cụ.
Nhưng giờ là 14 tháng tư. Tôi chẳng còn
gì để làm ở Hoa Thịnh Đốn. Ở vào giây
phút khẩn cấp, khi Việt Nam đang trong vòng hiểm họa
gian
nguy, những nỗ lực của tôi từ trước đến nay gần như
hoàn
toàn vô dụng. Tôi đã kêu gọi đến gần
như tất cả bạn bè và đồng nghiệp cũ của tôi để nhờ
họ giúp đỡ mà vẫn thất bại. Tuy tôi đã phục
vụ ở Hoa Kỳ trong suốt 7 năm mà những sự liên hệ của
tôi với Hoa Kỳ trong quá khứ vẫn chẳng giúp
tôi thuyết phục được quốc hội Hoa Kỳ thông qua đạo
luật
viện trợ khẩn cấp cho Việt Nam.
Vào lúc này, những biến chuyển ở Việt Nam đang dồn
dập trong giai đoạn chót. Đã đến lúc tôi
phải về. Mẹ tôi, 90 tuổi vẫn ở Sài Gòn cùng
người chị ruột. Tôi phải cố đưa hai người cùng đi. Hơn
nữa, ngoài việc phải trở về Việt Nam để gặp gia đình,
tôi cũng muốn về để còn được thấy Việt Nam lần cuối.
Đã ba mươi năm qua, cuộc sống của tôi cũng như cuộc
sống
của bao nhiêu người khác đã đi đôi với sự
thăng trầm của chính trường Việt Nam nói chung, hoặc
của
Sài Gòn nói riêng. Trong suốt ba mươi năm
đó, có lẽ không lúc nào là
lúc tôi không tham gia vào các hoạt
động chính trị. Trong tất cả mọi giai đoạn, nếu tôi
không trực tiếp tham gia cộng tác với chính phủ
thì cũng là tham gia vào những đoàn thể đối
lập chống lại chính phủ. Lúc này tuy Sài
Gòn đang lúc nguy kịch, nhưng tôi cho rằng
Sài Gòn vẫn là chỗ của tôi. Nào ai
biết trước được, có thể tôi vẫn còn cứu gỡ được
phần nào như lời Shaplen. Và dù rằng chẳng
giúp đỡ gì được thì về vẫn hơn là ở
đây làm một ông đại sứ lạc loài của một quốc
gia đang hấp hối, nằm bẹp dí ở Hoa Thịnh Đốn xem tin
tức về giai
đoạn kết thúc ở nước mình.
Hôm sau tôi vẫn giữ hẹn ăn trưa ở quán Empress với
ông Ted Shackley, Trưởng phòng Tình Báo Viễn
Đông của CIA. Shackley vừa mới từ Việt Nam trở về sau
một sứ vụ
đặc biệt dưới chỉ thị của Tổng Thống Ford. Vì nghĩ
rằng Trưởng
Phòng Shackley có nhiều tin tức nên tôi muốn
gặp ông để tìm hiểu thêm về tình hình
Việt Nam trước khi về. Lời Shackley đầy vẻ ảm đạm. Sài
Gòn đang nguy và ngày càng nguy hơn.
Ông Thiệu hoàn toàn cô thế, và chẳng
còn đủ sáng suốt để đối phó với tình
hình. Trong cuộc gặp gỡ vừa qua với Trưởng Phòng
Shackley
và ông Federick Weyand, Tư lệnh quân lực Hoa Kỳ ở
Việt Nam, ông Thiệu không còn đủ tâm
trí để phân tích hoặc đàm luận nữa.
Ông Thiệu đang chới với vì tầm mức lớn lao của sự đổ
vỡ.
Sáng hôm sau, tôi chuẩn bị về Sài Gòn
và định rằng trên đường đi sẽ ghé Hồng Kông
để nói chuyện với ký giả Shaplen. Tôi chia tay
nhà tôi và ba con ở phi trường Washington 's
National. Các con tôi lúc đó vẫn còn
nhỏ: Lưu, 24; Giao, 20; và Hân, mới tám tuổi,
hãy còn quá bé chưa hiểu rõ được sự
tình nhưng có lẽ đã đủ khôn để cảm thấy
những sự khác biệt trong lần đưa tiễn này. Nhà
tôi tuy lo nhưng cũng như mọi lần, cố gắng trấn tĩnh
để chồng
khỏi bận tâm. Mặc dù nhà tôi biết rằng chuyến
về Việt Nam của tôi vô cùng nguy hiểm, nhưng
nhà tôi cũng hiểu nếu không trở lại Việt Nam lần
này thì tôi sẽ phải hối hận suốt đời.
Chuyến bay phản lực Pan Am tiến dần về hướng Tây trong
khi
tôi chập chờn, kiệt lực cả về tinh thần lẫn thể xác,
chỉ
nhớ lờ mờ rằng chuyến bay có ghé San Francisco và
Honolulu. Hai mươi bốn giờ sau tôi xuống máy bay tại
phi
trường Kai Tak ở Hồng Kông rồi lập tức đến thẳng nơi
Shaplen cư
ngụ. Khi tôi đến nơi thì trời đã về chiều.
Đêm đó, tôi ngồi đến khuya nghe kể chuyện hỗn mang ở
Việt Nam. "Ở Sài Gòn chẳng ai biết rõ tình
hình, nhất là về ý định của Hoa Kỳ. Tình
trạng thật là khẩn trương. Tuy vậy mọi người vẫn cố
bám
vào những ảo tưởng về việc Hoa Kỳ sẽ viện trợ hoặc sẽ
có
một Giải Pháp Dung Hòa nào đó."
Theo lời ký giả Shaplen thì có đến cả hàng
triệu tin đồn. Người ta tin rằng Hoa Kỳ không thể
khoanh tay đứng
nhìn một đồng minh trong suốt hai mươi năm gục ngã
trước
mũi dùi của Cộng quân đang được tập đoàn Sô
Viết đứng sau làm hậu thuẫn. Có lẽ Hoa Kỳ sẽ có
cách gỡ rối. Các đội B-52 đang được lịnh bay đến đập
tan
các sư đoàn Bắc Quân đang hành quân
vào Nam một cách lộ liễu. Thủy Quân Lục Chiến Hoa
Kỳ đang sửa soạn đổ bộ vào vùng đồng bằng Cửu Long để
bảo
vệ những khu vực sản xuất lúa gạo chính cần thiết cho
nền
kinh tế của Việt Nam. Ngoại Trưởng Kissinger đang đàm
phán về việc phân chia lãnh thổ, cố thuyết phục
cộng sản nhượng những tỉnh chính để đổi lại những viện
trợ kinh
tế khổng lồ. Đây mới chỉ là một trong vài câu
chuyện đồn đãi, những tin đồn không những đã
làm mất tinh thần dân chúng mà còn
làm lung lạc cả tinh thần chính phủ trong lúc
chính quyền đã trở nên mù quáng,
tê liệt và bám víu vào ảo ảnh.
Shaplen kết luận: "Họ cần phải biết sự thật, vì thế
ông
phải về."
Tôi trả lời: "Sự thật là: Đối với Hoa Kỳ, trận chiến
này coi như đã kết liễu."
Shaplen nhìn tôi chăm chăm, buông giọng: "Nếu vậy
thì ông phải nói rõ cho họ biết."
Hôm sau, 17 tháng 4-1975, tôi có mặt
trên chuyến bay Air France về Sài Gòn. Máy
bay đáp xuống Tân Sơn Nhất vào khoảng bốn giờ trưa.
Khung cảnh yên tĩnh nhất thời của phi trường làm tôi
ngạc nhiên. Khi nghe lời tường thuật của Shaplen tôi
đã chờ đón trước những khung cảnh hoàn toàn
hỗn loạn. Tôi nhìn quanh và rồi bất chợt
nhìn thấy một đám đông đang xoay quanh chỗ khu vực
cấm của phi đạo, chờ đợi những chuyến bay đặc nghịt
người sắp sửa ra
đi. Khung cảnh bên ngoài phi trường còn khác
thường hơn. Đường rời phi trường thật vắng. Trong khi
đó
thì ở tất cả những con đường dẫn đến phi trường xe cộ
lại từng
hàng ứ nghẽn. Dường như cả Sài Gòn đang di tản ra
sân bay. Xe cộ sắp hàng như thắt nút. Hàng
đoàn xe nối đuôi theo nhau chậm chạp nhích dần về
hướng phi trường.
Ở Sài Gòn, triệu chứng độc nhất chứng tỏ dân
chúng đã biết về những cơn sóng gió sắp đến
chỉ là những tiếng xì xào bàn tán ở
các đám đông tụ họp trên đường phố. Vẻ căng
thẳng, âu lo hiện rõ trên từng khuôn mặt. Mọi
sinh hoạt ồn ào hàng ngày đã mất.
Trên tất cả mọi khuôn mặt dường như chỉ có những
nét cương quyết, quả cảm của những người có quá
nhiều việc cần làm trong một thời gian gấp rút. Hôm
đó, tin tức loan báo rằng Việt Cộng đã chiếm được
Phan Rang và chỉ còn cách Sài Gòn
khoảng hơn 300 cây số.
Tôi trở về căn nhà thuê ở đường Nguyễn Huệ để gặp mẹ
và chị tôi. Khi thấy tôi về, mẹ và chị
tôi hết sức vui mừng. Cơn khủng hoảng ngày càng
tăng đã khiến cả hai phải lo âu khắc khoải không
biết phải làm gì.
Sau khi chào hỏi và trấn an gia đình rằng
tôi sẽ có cách lo toan mọi chuyện, tôi gọi
điện thoại vào Phủ Tổng Thống để xin gặp ông Thiệu.
Chánh văn phòng Phủ Tổng Thống lúc bấy giờ
là Đại Tá Võ Văn Cầm trả lời rằng ông sẽ lập
tức cho tổng thống biết tôi đã ở Sài Gòn
và sẽ gọi lại cho tôi ngay. Vài phút sau,
ông Cầm gọi tôi để nhắn lại lời ông Thiệu: "Tổng
Thống rất bận rộn và đang dao động vì mất Phan Rang.
Tổng
thống nhắn rằng xin ông đại sứ gặp Thủ Tướng trước rồi
Tổng Thống
sẽ tiếp ông đại sứ sau."
Lời nhắn tin cho thấy rõ ràng tình trạng đang khẩn
trương đến độ nào. Chính ông Thiệu đã gửi
tôi làm đại diện ở Hoa Kỳ. Lúc này tôi
vừa trở lại và đương nhiên tôi là nguồn tin
độc nhất mà ông Thiệu mong mỏi. Thường thường mỗi khi
tôi đi công du trở về thì ông Thiệu vẫn thường
gặp tôi ngay. Vậy mà lần này, trong lúc
tình hình đang khẩn cấp thì thay vì gặp
tôi, ông Thiệu lại muốn tôi gặp thủ tướng Nguyễn
Bá Cẩn, một người mà từ trước tới nay ông vẫn
có ý xem thường. Tôi nhớ lại lời Shackley và
lời Shaplen: Ông Thiệu đang "chới với," đang "mất hết
sáng
suốt". Ông Thiệu (Và luôn cả đại sứ Graham Martin)
"đang cắt đứt hết mọi liên lạc và không tiếp ai cả."
Tôi tự hỏi: "Vậy thì ai, là người đứng ra điều
hành mọi chuyện?" Lần họp cuối giữa tôi với ông
Thiệu trước khi tôi lên đường sang Hoa Kỳ là
vào khoảng trung tuần tháng ba. Kể từ ngày
đó cho tới nay thì thời gian mới chỉ ba tuần. Nếu so
sánh khung cảnh của Sài Gòn vào lúc
tôi mới vừa trở về và khung cảnh của Sài Gòn
ba tuần về trước thì có lẽ chẳng ai có thể tin
được mức độ dồn dập của các biến cố đã xảy ra ở
Sài Gòn.
* * * * *
Ngày
11
tháng
3 năm 1975 có lẽ chính là thời
điểm khởi đầu của giai đoạn kết thúc, tuy rằng biến cố
đánh dấu giai đoạn này vẫn chưa lấy gì làm
rõ ràng hoặc đậm nét. Hôm đó, Ban
Mê Thuật đã bất thần bị ba sư đoàn Bắc Quân
đánh chiếm. Thật ra Ban Mê Thuật chỉ được bảo vệ rất
sơ
sài. Tuy Việt Cộng đã chiếm được Ban Mê Thuật rồi
mà ở Sài Gòn vẫn chưa có cơn hoảng hốt
nào rõ rệt. Ban Mê Thuật là một tổn thất
đáng kể nhưng không phải là một mất mát
có tính cách sinh tử. Đã có lần Việt
Nam phản công tái chiếm những thành phố lớn hơn
-như Huế hồi Tết Mậu Thân năm 1968, Quảng Trị hồi mùa
hè đỏ lửa 1972.
Khi Ban Mê Thuật thất thủ thì tôi vừa từ Tân
Đề Li trở về sau một chuyến công du Ngoại Giao. Đây
là một trong những chuyến công du nằm trong hành
trình Đại sứ Lưu Động của Việt Nam. Chức vụ đại sứ lưu
động
là một chức vụ ngoại giao nhằm mục đích biểu dương
hình ảnh Việt Nam, nối kết các mối bang giao và
tìm viện trợ ở Đông Nam Á, Ấn, Pháp hoặc bất
kỳ nơi nào có thể ủng hộ cho Việt Nam.
Vào ngày 15 tháng 3 ông Thiệu đã ngỏ
ý mời tôi vào để chuẩn bị cho một chuyến công
du Hoa Kỳ kế tiếp. Lần này thì chuyến công du của
tôi khẩn thiết hơn vì Ban Mê Thuật đã thất
thủ và cuộc tấn công của Bắc Quân đang lan rộng khắp
nơi.
Tôi được mời cộng tác với chính quyền ông Kỳ
vào năm 1965, ngay sau khi làm Đổng Lý Văn
Phòng cho bác sĩ Phan Huy Quát, vị thủ tướng
dân sự cuối cùng của Việt Nam. Khi ông Kỳ ngỏ lời
mời tôi tham gia chính phủ. Tôi đã suy nghĩ
rất nhiều. Chính bản thân tôi cũng rất nghi ngờ sự
thực tâm của các tướng lãnh khi họ mời tôi
cộng tác. Kinh nghiệm chính trị của tôi là
kinh nghiệm chính trị của một người phục vụ trong một
chính phủ dân sự có quan niệm chính trị
khác hẳn với quan niệm của một chánh phủ quân
nhân. Và chính chánh phủ đó lại vừa
mới sụp đổ.
Thực ra thì ngay sau khi chánh phủ dân sự của
ông Quát sụp đổ tôi đã kết luận ngay rằng:
Đã đến lúc tôi nên cho sự nghiệp chính
trị của tôi lùi vào quá khứ. Lúc
đó, tôi không hề nghĩ gì về việc tham gia
hoặc cộng tác với chính quyền mới. Ngược lại, tôi
chỉ mong được trở lại để sống mộc cuộc sống bình
thường
và làm chủ nhiệm kiêm chủ bút tờ Saigon
Post. Nhưng chính bác sĩ Quát là người
thúc dục tôi nhận lời. Hơn nữa, tôi cũng biết rằng
đối với một chánh phủ quân nhân thì vấn đề
cần phải giữ một đại biểu dân sự trong chính quyền
là một việc tối cần, nhất là khi Việt Nam đang phải
giao
dịch với Hoa Kỳ. Trong sự giao dịch đó, tôi cho rằng
chính phủ Việt Nam cần có sự đóng góp của
tất cả các thành phần quốc gia. Trước đây, khi
còn phục vụ trong chánh phủ của bác sĩ
Quát, vì là nhân viên đứng giữa
liên lạc nội các của bác sĩ Quát và
Hoa Kỳ nên dầu muốn, dầu không tôi đã phải giữ
mối giao hảo với các nhân viên ngoại giao Hoa Kỳ,
chẳng hạn như đại sứ Maxwell Taylor và phó đại sứ
Alexis
Johnson. Bởi vậy các tướng lãnh thấy rằng kinh nghiệm
giao dịch của tôi có thể giúp họ phần nào
khi họ phải hợp tác với Hoa Kỳ.
Việc các tướng lãnh quyết định mời tôi tham gia
cộng tác với chính phủ là một bằng chứng cho thấy
rằng tôi thật sự có dịp để phát biểu ý kiến
trong chính quyền mới. Vả lại, tôi có thể từ chức
bất cứ lúc nào. Tôi nhận lời một phần vì tin
tưởng rằng cho dù có tham gia chính phủ, tôi
vẫn có quyền phát biểu ý kiến của tôi một
cách tự do hoặc từ chức bất kỳ lúc nào tôi
muốn. Hơn nữa, nếu không ra cộng tác, tôi khó
thể tránh tiếng rằng tôi đã đặt quyền lợi và
tiếng tăm của cá nhân lên trên quyền lợi của
đất nước.
Nói cho cùng thì tuy tôi đã nhận lời
cộng tác với chính phủ Thiệu-Kỳ, nhưng những liên
hệ giữa tôi, ông Thiệu và ông Kỳ vẫn chưa bao
giờ vượt quá những khuôn khổ giao thiệp bình thường
để trở thành thân mật. Khi nhìn lại sự liên
hệ giữa tôi và ông Thiệu trong quá khứ
tôi vẫn nhiều lần thắc mắc chẳng hiểu tại sao sự liên
hệ
khác thường giữa tôi và ông Thiệu lại
có thể tiếp tục lâu dài đến thế?
Đã nhiều năm qua tôi liên tục chỉ trích
chánh quyền ông Thiệu và riêng ông
Thiệu thì đã có tiếng là người không
thích nghe chỉ trích, nhất là khi những chỉ
trích của tôi lại toàn nhằm vào những vấn đề
ông Thiệu không hề nhượng bộ ai bao giờ. Chẳng hạn như
những chỉ trích về vấn đề đoàn kết các tầng lớp
quốc dân. Trong các cuộc bàn luận với ông
Thiệu tôi vẫn thường nói rằng ông Thiệu cần phải cải
tổ chính phủ để loại trừ bớt những nhân viên bất
tài và thiếu khả năng. Tôi đưa ý kiến rằng
ông Thiệu cần phải mời những đại biểu từ khắp cả các
tầng
lớp quốc dân, kể cả những đại biểu của các nhóm đối
lập thì mới có thể phát huy được hết tiềm năng của
quốc gia và đối chọi hữu hiệu được với cộng sản.
Thật sự thì ông Thiệu cũng không hẳn hoàn
toàn mù quáng về những nhược điểm của chánh
phủ. Sau những buổi họp vô vị và dai dẳng của chính
phủ mà ông tham dự, nỗi thất vọng của ông thường
bùng ra. Mỗi khi những cuộc họp đó kết thúc,
ông Thiệu vẫn thường cau có: "Anh coi đó! Thật
chẳng ra làm sao cả!"
Những lúc đó là những lúc tôi đưa lời
chỉ trích: "Như tôi đã nói với tổng thống,
tổng thống cần thay đổi chánh phủ." Nhưng khi cuộc bàn
cãi tiến tới chỗ găng hơn thì phản ứng cố hữu của
ông Thiệu lại y như cũ. "Để coi, tôi sẽ suy nghĩ lại."
Kết
cục sự trì hoãn và bản tính lưỡng lự cố hữu
của ông vẫn thắng. Mặc dù hiểu tường tận tầm mức cấp
thiết
của việc phải cải tổ, ông Thiệu vẫn rơi vào tình
trạng mãi mãi đợi chờ, mãi mãi nghi ngờ để
rồi chẳng bao giờ có hành động nào thiết thực cả.
Ngày 15-3, ông Thiệu lâm vào tình thế
chính trị nan giải. Vào lúc này, khi Bắc
quân đang phát động tấn công gia tăng ngày
càng ráo riết thì vấn đề viện trợ cho quân
đội Việt Nam trở thành vô cùng cấp thiết.
Lúc ông Thiệu cho vời tôi cũng chính
là lúc tôi dự định sẽ dùng tất cả quyền lực
để làm áp lực với ông Thiệu. Vào ngày
15-3-74, trước khi đến gặp ông Thiệu, tôi nói rằng:
Chắc chắn tôi sẽ đến gặp tổng thống, nhưng tôi yêu
cầu được phép mang hai người nữa đi cùng: Cựu Ngoại
Trưởng Trần Văn Đỗ, nguyên là một trong những bạn
thân của tôi và ông Trần Quốc Bửu, Chủ Tịch
Tổng Liên Đoàn Lao Công. Cả hai đều là những
chính trị gia tháo vát và đều không
phải là nhân viên của chánh phủ Việt Nam
lúc đó. Khi yêu cầu được mang hai người này
đi cùng, ý kiến của tôi về vấn đề cần phải
đoàn kết tất cả các thành phần quốc gia trong mọi
tầng lớp quốc dân đã trở nên quá rõ.
Lúc Chánh văn phòng Phủ Tổng Thống gọi tôi
nhắn rằng tổng thống vui lòng gặp cả ba, tôi biết
mình đang đứng ở vị thế phải làm áp lực hết sức.
Tôi dự định hết sức nhấn mạnh sự quan trọng của ý kiến
dư
luận Hoa Kỳ. Tôi muốn nói rõ ảnh hưởng của dư luận
đối với quốc hội Hoa Kỳ về vấn đề viện trợ cho Việt
Nam.
Qua những buổi thuyết trình của tôi và nhiều
nhân viên khác, ông Thiệu đã biết từ
nhiều năm trước rằng ở Hoa Kỳ ông bị coi là một
lãnh tụ quân phiệt và độc tài. Thật sự
thì một trong những thất vọng lớn nhất của tôi là
việc tôi chẳng thể giải thích cho ông Thiệu hiểu
rõ nổi những bất lợi do ấn tượng xấu xa này gây ra.
Trong các cuộc thuyết trình, lúc nào
ông Thiệu cũng coi thường những dư luận của Hoa Kỳ.
Lúc
nào ông cũng quyết đoán rằng những lời chỉ
trích của dư luận Hoa Kỳ chẳng qua chỉ là những vấn đề
"bị thổi phồng" và "hoàn toàn vô căn cứ."
Những lúc đó tôi thường cực lực lên tiếng
rằng: "Nếu tổng thống còn cần viện trợ của họ thì tổng
thống phải coi trọng ý kiến của họ. Chỉ khi nào tổng
thống không cần họ nữa thì lúc đó tổng thống
mới có quyền xem ý kiến của họ là đồ vứt đi."
Lúc này thì tất nhiên là chánh
phủ Việt Nam đang cần viện trợ. Thất thủ Ban Mê Thuật
là
một thúc đẩy cấp thiết. Có thêm hai người bạn
là cụ Đỗ và ông Bửu tăng cường bên cạnh,
tôi đã dành gần hết 5 tiếng đồng hồ nhấn mạnh tầm
mức cấp thiết của việc phải lập một chánh phủ hoàn
toàn có tính cách đại diện cho mọi tầng lớp
dân chúng. Ở ngay cả giờ phút đó, nếu
ông Thiệu chịu cải tổ chính phủ thì sự thay đổi
này vẫn có thể khiến quốc hội Hoa Kỳ thay đổi ý
kiến về vấn đề viện trợ cho Việt Nam. Và cho dù sự cải
tổ
của ông Thiệu có không thay đổi được ý kiến
của quốc hội Hoa Kỳ thì ít ra thì sự thay đổi
này cũng sẽ cổ võ được tinh thần quốc dân trong
việc chống lại Cộng sản. Cuộc bàn cãi của tôi với
ông Thiệu căng thẳng đến độ về sau có lời đồn đại (như
lời
tường thuật sau này của nhân viên CIA Frank Snepp)
là tôi đã yêu cầu ông Thiệu từ chức. Sự
thật không đúng hẳn. Mặc dù tôi chưa hề
đòi hỏi ông Thiệu từ chức nhưng ngoài chuyện
này ra có lẽ tôi đã làm tất cả mọi
việc có thể làm ở cương vị tôi.
Cho đến lúc đó mà ông Thiệu vẫn không
chịu nghe tôi. Mặc dù ông đồng ý với
chúng tôi là cần có sự thay đổi trong guồng
máy chính quyền. Mặc dù ông đã
yêu cầu chúng tôi đưa ra những "phương pháp
cụ thể" để tiến hành. Tôi biết ông vẫn ngấm ngầm
tìm cách trì hoãn, hứa hẹn như những lần
trước đây và vẫn chẳng hề có chủ định nào
rõ rệt. Ngay cả khi đã cùng đường ông Thiệu
vẫn chứng tỏ là con người đã mù quáng
vì quyền thế, không còn đủ khả năng để hiểu
rõ nhu cầu thiết yếu của quốc dân và những nhu cầu
thiết yếu của đồng minh, mặc dù đây là một đồng
minh có liên quan đến sự sinh tồn của chính
chánh quyền ông Thiệu.
Ngày 22-3 tôi đến Hoa Thịnh Đốn vừa lúc
thành phố bắt đầu rạng rỡ sinh động trong buổi chớm
xuân.
Tuy vậy, những nụ Azalea, nụ Dogwood và nụ Anh Đào vẫn
chẳng làm giảm bớt được nỗi lo âu trĩu nặng tim tôi.
Khi ghé qua Ba Lê tôi đã nghe về cuộc triệt
thoái cao nguyên. Thay vì cố gắng củng cố
các đội quân ở Ban Mê Thuật sau khi Ban Mê
Thuật thất thủ thì ông Thiệu lại hạ lệnh rút lui về
mé biển. Vì những đại lộ chính đã bị cắt
ngang, quân đội Việt Nam bị buộc phải dùng những con
lộ
phụ hiểm hóc trong chuyến triệt thoái. Giữa rừng
già cao nguyên, những toán quân triệt
thoái đã bị chia cắt và tiêu diệt.
Lúc này quân đội Bắc Việt đang tấn công cả
đại lộ dọc theo bờ biển, cô lập những thành phố
chính như Huế và Đà Nẵng. Một chiến thắng
xoàng xĩnh, địa phương bỗng nhiên lan rộng thành
một biến cố đủ sức gây hoảng hốt trong quân đội. Thảm
kịch
diễn ra ở Việt Nam đã khiến 700 triệu đô la trợ cấp,
nguyên là mục tiêu cho chuyến đi của tôi
thành một thứ viện trợ khẩn cấp liên hệ đến sự sinh
tồn
của Việt Nam.
Những tiến trình tuần tự về sau cho thấy màn đầu của
tấn
thảm kịch kết liễu Việt Nam đang được vén dần lên
trong
các sảnh đường quốc hội Hoa Kỳ. Những kinh nghiệm thâm
niên trong ngành đã khiến tôi thuộc nằm
lòng tất cả các phương thức vận động quốc hội. Tôi
biết rõ cả chi tiết trong từng giai đoạn. Đầu tiên
thì tôi phải theo dõi tất cả những cuộc họp ở
Tòa Bạch Ốc, ở Hội Đồng An Ninh Quốc Gia, ở Bộ Ngoại
Giao
và ở Ngũ Giác Đài. Khi những cuộc họp đó
kết thúc, tôi sẽ phải họp riêng với ký giả về
vấn đề Việt Nam và tìm cách để thuyết phục quốc
hội. Cuối cùng, khi đã biết rõ lập trường của
các dân biểu và Thượng Nghị Sĩ tôi mới chuẩn
bị sẵn sàng để đối phó. Thường thì tôi cố
vận động để nâng cao tinh thần những người có cảm
tình với mình và lên tiếng kêu gọi
những người chỉ trích hãy suy nghĩ lại.
Tôi đến Hoa Thịnh Đốn được một ngày thì Huế, kinh
thành đại nội cổ kính đã bị cắt đứt. Hàng
trăm ngàn dân tản cư đổ xô về phía Nam dọc
theo những con đường chạy sát biển về Đà Nẵng cố trốn
mũi
dùi Bắc Việt. Ở Hoa Thịnh Đốn, quốc hội Hoa Kỳ lúc
đó đang nghỉ nhóm 10 ngày. Ngoại Trưởng Kissinger
đã lên đường đàm phán ngoại giao Trung
Đông và tổng thống Gerald Ford đang nghỉ mát ở
Vail, Colorado.
Cũng trong hôm đó tôi đến gặp ông Philip
Habib, Phụ Tá Ngoại Trưởng Hoa Kỳ Đặc Trách Viễn
Đông Sự Vụ. Tôi biết ông Philip đã ngót
một thập niên, từ khi ông còn là cố vấn Bộ
Trưởng ở Sài Gòn năm 1965. Ông Habib vừa là
một nhà ngoại giao thẳng thắn, chuyên nghiệp lại vừa
là người bộc trực, can đảm và thành thật đôi
khi đến tàn nhẫn. Vừa gặp tôi, ông Habib đã
đi thẳng vào vấn đề: "Lúc này Tổng Thống Ford đang
bị Đạo Luật về Quyền Hạn Chiến Tranh trói chặt và
hoàn toàn bất lực... Tôi không biết Tổng
Thống phải làm thế nào để có thể vượt ra khỏi
vòng kềm tỏa của quốc hội... Chúng ta phải ráng
tìm cách trình bày để quốc hội có
thể thấy rõ tình trạng khẩn cấp của Việt Nam..."
Tuy ông Habib có vẻ bộc trực và bi quan, những nhận
xét của ông vẫn chưa thấm tháp vào đâu
so với những nhận xét của nghị sĩ George Aiken. Ông
George
Aiken là nghị sĩ của tiểu bang Vermont và cũng là
đường giây liên lạc chặt chẽ giữa tôi và quốc
hội. Tuy là một nghị sĩ của đảng Cộng Hòa, nghị sĩ
Aiken
cũng là bạn thân của lãnh tụ đa số Thượng Viện Mike
Mansfield. Thượng Nghị Sĩ Mansfield vốn nổi tiếng là
một nghị sĩ
phản chiến. Thông thường thì những nhận xét về thế
đứng quốc hội của nghị sĩ Aiken lúc nào cũng rất sắc
bén. Khi tôi đến gặp ông ta ở văn phòng
riêng, ông đã nhận định rằng: "Tình thế rất
là ảm đạm." Lúc tìm đến các nghị sĩ
khác tôi có cảm giác là ngay cả bạn
bè cũng cố tránh gặp tôi. Nếu bị buộc phải
nhìn thẳng mặt tôi thì họ cũng chỉ nhìn với
vẻ miễn cưỡng, khó khăn.
Ngày 30-3, Đà Nẵng, một thị xã nằm khoảng non 200
cây số về phía Nam của Huế và là một
thành phố lớn hàng thứ hai của Miền Nam bị một lực
lượng
35 ngàn quân Bắc Việt tiến chiếm. Đêm đó
màn ảnh truyền hình đầy những cảnh tượng hãi
hùng: Phụ nữ và trẻ em bị dày xéo trong
đám đông hỗn loạn. Dân, quân đạp lên
nhau cố vượt ra khỏi vòng vây khổng lồ đang thắt dần
lấy
thành phố. Một triệu dân tản cư tràn ngập đường phố
dẫn về Nam.
Lúc này đường liên lạc giữa tòa đại sứ ở Hoa
Thịnh Đốn và Sài Gòn đã bị cắt đứt
hoàn toàn. Chúng tôi không còn
liên lạc được với ông Thiệu nữa. Mặc dù đã
gửi liên tiếp hàng loạt điện tín, chúng
tôi vẫn không nhận được trả lời. Dường như đã
có một bức màn vô hình chụp xuống, cắt
lìa Sài Gòn với thế giới bên ngoài,
với những người như chúng tôi. Hàng đêm
chúng tôi ngồi lịm trước máy truyền hình
bàng hoàng nhìn những thành phố, quận lị
theo nhau lần lượt bị xoá tên trên bản đồ Việt Nam.
Mỗi ngày ông Trần Kim Phượng, người đã thay thế
tôi giữ chức vụ đại sứ Việt Nam ở Hoa Kỳ từ năm 1972,
và
tôi đều phác họa thời khắc cho những cuộc điện đàm,
những buổi họp, làm đi làm lại những bước mà
càng ngày cả hai càng tin là hoàn
toàn vô hiệu. Và khi ngày đã tắt, cả
hai đều phờ phạc vì kiệt sức, không nhớ nổi lấy một
điều
về những việc đã làm. Ở mười ngàn dặm xa, đất nước
đang chết dần và chúng tôi hoàn toàn
bất lực.
Cuối tháng 3, một tia hy vọng bỗng loé lên khi tổng
thống Ford thình lình gửi đi một phái đoàn
chuyên viên sang Việt Nam để lượng định tình
hình. Những người được gửi đi bao gồm Tư Lệnh quân sự
Frederick Weyand, Trưởng Phòng Tình Báo Viễn
Đông Ted Shackley và Phụ Tá Bộ Trưởng Quốc
Phòng Đặc Trách Quân Nhu Erich von Marbot. Những
nhân viên này được phái sang Việt Nam để
có thể đích thân thị sát tình
hình và chuyển lời đề nghị viện trợ nếu đây quả
là vấn đề cấp thiết. Ngày 9-4 tôi đến gặp Tư Lệnh
Weyand ngay khi ông vừa trở lại. Mặc dầu bi quan,
tướng Weyand
vẫn cho rằng quân đội Việt Nam hãy còn cơ hội tập
trung để chỉnh đốn, kết hợp và chống đỡ. Nếu viện trợ
hãy
còn kịp thời, ông ta hoàn toàn đồng ý
việc quốc hội hỏa tốc chấp thuận viện trợ.
Vào lúc này tất cả các lực lượng Cộng Sản
Bắc Việt được trang bị với khối lượng chiến cụ khổng
lồ của Nga
và Tàu đang trải rộng dần ra, tiến theo đội hình
hàng dài dọc theo mọi ngã đường. Trong suốt cuộc
chiến chưa lúc nào những toán quân Cộng Sản
lại hành quân lộ liễu và có thể dễ bị
máy bay tiêu diệt bằng lúc này. Tại
Xuân Lộc, vòng đai tự vệ phía ngoài của
Sài Gòn, sư đoàn 18 của Việt Nam đang chống trả dữ
dội các cuộc tấn công ngày càng tăng của
cộng sản. Lúc này, chỉ cần các lực lượng
không quân Hoa Kỳ can thiệp - Một giải pháp can
thiệp mà cả tổng thống Nixon lẫn ông Kissinger đã
cam đoan thi hành hồi năm 1973- cũng đủ để phá tan
các lực lượng Cộng Sản Bắc Việt đang công khai hành
quân và làm giảm hiệu năng của quân đội cộng
sản trong nhiều năm kế tiếp. Rồi từ đó, nếu được tiếp
tế
quân nhu và quân cụ đầy đủ và được ủy lạo
tinh thần, quân đội Việt Nam sẽ có thể tái chiếm
những vùng đã mất.
Ngay cả khi tăm tối đã bao trùm, ông Phượng
và tôi vẫn cảm thấy điều này. Cả hai chúng
tôi đều biết rằng thời cơ hoàn toàn tùy
thuộc vào lần họp sắp tới. Tuy thế, quốc hội Hoa Kỳ
lúc
này lại là một quốc hội đã chán chường với
chiến tranh, đã mệt mỏi vì viện trợ cho một đồng minh
đang bị rất nhiều dân biểu xem là một chánh phủ của
những thành phần bất tài và tham nhũng. Sau nhiều
năm Hoa Kỳ đổ mồ hôi và nước mắt vào Việt Nam, giờ
đây chính những Dân Biểu và Thượng Nghị Sĩ
của Hoa Kỳ sẽ phải đi đến quyết định cuối cùng. Kinh
nghiệm thực
tế nghề nghiệp đã buộc tôi phải hiểu rằng quốc hội Mỹ
nhất
định sẽ phải quyết định bằng quan niệm của người Mỹ.
Trong quyết định
sắp tới về việc liệu có nên viện trợ cho Việt Nam
lúc này hay không, quốc hội Hoa Kỳ sẽ phải quyết
định một trường hợp thật là khó khăn. Những dân
biểu bị buộc phải cân đo những lỗ lã về uy tín cũng
như vị trí chiến lược của Hoa Kỳ để đánh đổi với tiền
của
và xương máu mà Hoa Kỳ đã đổ vào
Việt Nam trên hai mươi năm. Vào giờ phút đó
thì quốc hội Hoa Kỳ lý luận rằng, nếu họ có gia
tăng viện trợ cho Việt Nam đi chăng nữa thì vấn đề vẫn
chỉ
là tạm kéo dài cơn hấp hối, thống khổ của Việt Nam
mà thôi. Các Dân Biểu, Thượng Nghị Sĩ Hoa Kỳ
quyết định rằng quốc hội cần phải đưa ra một giải pháp
thiết
thực và rồi kết luận: Nếu cùng lắm thì cũng
đành phải kết thúc một chương sử Hoa Kỳ.
Tất cả kinh nghiệm chính trường đã dạy tôi chẳng
những phải chờ đón quyết định sắp tới của quốc hội Hoa
Kỳ
mà còn phải hiểu rõ lý do của quyết định
đó để nhận thấy quan niệm của những người đã tạo ra
luật
pháp ở Hoa Kỳ. Bởi thế nên tôi đã cố gắng để
hiểu rõ những lý do ảnh hưởng đến quyết định sắp tới
của
họ. Nhưng trong tận cùng tâm khảm tôi biết rằng
câu hỏi quan trọng nhất liên quan đến vấn đề viện trợ
thật
sự chẳng liên quan gì đến uy tín Hoa Kỳ hay sự xứng
đáng của các lãnh tụ Việt Nam. Câu hỏi quan
trọng nhất là câu hỏi về cuộc sống của 20 triệu nhân
dân Việt Nam. Sau khi quốc hội quyết định về vấn đề
viện trợ
thì cuộc sống của 20 triệu người dân Việt Nam, của con
họ
và cháu họ rồi sẽ ra sao? Đây mới là
câu hỏi quan trọng nhất. Nhưng câu hỏi này
không phải là một trong những yếu tố chính đưa đến
quyết định cuối cùng của quốc hội Mỹ. Vì lẽ đó
tôi không thể chịu đựng được những nỗi uất ức đè
nén khi Việt Nam phải chấp nhận một bản án bất công
như bản án mà quốc hội Hoa Kỳ đã quyết định. Ở căn
nhà riêng tại Hoa Thịnh Đốn tôi đã
không thể cầm được nước mắt.
Tia hy vọng phù du về vấn đề Hoa Kỳ sẽ viện trợ cho
Việt Nam tắt
phụt sau khi chuyến công du do Tư Lệnh quân sự Weyand
dẫn
đầu kết thúc vào ngày 11-4. Hai ngày sau
khi Tư Lệnh Weyand trở lại Hoa Kỳ thì đạo luật chấp
thuận viện
trợ đã bị phủ quyết. Những người thực tế đã nhận định
rằng đến lúc đó thì dù có phủ quyết
hay không việc cũng đã quá trễ. Nhưng đối với
ông Phượng và tôi thì quyết định phủ quyết
chính là một con dấu phũ phàng công khai
chấp nhận việc Hoa Kỳ bỏ rơi đồng minh. Những người
đang chiến đấu anh
dũng ở Xuân Lộc và hàng triệu người tản cư
vào Miền Nam vẫn không hề hay biết Quốc Hội Hoa Kỳ
đã tuyên bố bản án khai tử Việt Nam ở Capitol Hill
vào ngày 11-4-1975.
Kể từ khi tổng thống Johnson còn đương nhiệm tôi đã
giữ chức vụ đại sứ. Tôi cũng là người liên lạc
chính giữa chánh quyền Sài Gòn và
Hoa Thịnh Đốn. Sau 5 năm trải qua các hội nghị thượng
đỉnh, qua
Tết Mậu Thân, qua các trận đánh phối hợp quân
đội của Hoa Kỳ và Việt Nam ở Cam Bốt, qua trận tập
kích
mùa xuân cho tới tháng 4- 1975, công việc của
tôi lúc nào cũng đi đôi với những công
tác có liên quan đến quốc gia. Nhưng sau đạo luật
khai tử Việt Nam cuối cùng ở Hoa Thịnh Đốn thì vai
trò của tôi kể như đã chấm dứt. Chẳng còn
liên lạc được với chánh phủ, chẳng còn việc
gì để làm trong các sảnh đường quyền lực Hoa Kỳ,
tôi trở lại với gia đình ở căn nhà ngoại ô
Hoa Thịnh Đốn để cùng nhà tôi và các
con dán mắt vào máy truyền hình, trước
những tấn thảm kịch thôi miên trên màn ảnh.
Bỗng nhiên tôi nhớ lại một mùa nghỉ ngắn ngủi khoảng
một năm về trước, khi cả gia đình tôi có dịp
quây quần ở bãi biển Nha Trang bên con nước trong
xanh màu lục biếc và những bờ cát mịn long lanh.
Lần đó, khi nhìn bãi biển dịu dàng phơi
mình trên nắng tôi đã nghĩ rằng bất kể
vì lý do gì nếu mảnh giang sơn gấm vóc
này mất đi thì niềm đau quả vô cùng tận.
Những ký ức xa xăm khác tự dưng ồ ạt ùa về như một
cuốn phim quay chậm. Tôi thấy mình đứng trong ruộng
lúa gần căn nhà lúc ấu thời ở Miền Bắc vào
những năm đầu của thập niên 1940, chăm chú nhìn
theo chiếc máy bay P-38 hai đuôi của Hoa Kỳ dội bom
vào những vùng Nhật chiếm đóng gần Hà Nội.
Lần đó có lẽ là lần đầu tiên tôi mục
kích Hoa Kỳ can thiệp vào Việt Nam. Lúc
này, tôi lại là chứng nhân đứng ngoài
mục kích màn kết liễu của sự can thiệp tôi
đã mục kích lần đầu. Dầu muốn dầu không, cuộc đời
tôi cũng đã nối liền vào với những chuỗi biến cố
chập chồng đã chuyển hướng quê hương từ điểm ban đầu
đến
điểm hiện tại.
2. Thuở Ấu Thời
Ông thân tôi tên tục là Bùi Kỷ.
Ông vốn vừa là học giả, vừa là một nhà nho
phóng khoáng, phóng khoáng đến độ chẳng coi
gì là quan trọng cả. Đối với ông cụ thì trời
có sập cũng chẳng thành vấn đề. Sống trong truyền
thống
nho sĩ Việt Nam, ông đã chọn một bút hiệu để
nói lên nỗi lòng mình: Ưu Thiên,
có nghĩa là "Kẻ lo trời đổ," nhưng thường thì được
hiểu theo nghĩa bóng: "Kẻ chẳng chú ý gì
đến chuyện trời đổ." Ông thân tôi vẫn thường
nói: "Những kẻ lúc nào cũng để tâm lo
âu mọi chuyện là những kẻ dại." Trong một bài thơ
nhiều người biết đến ông đã viết rằng:
Lo như ai cũng là ngốc thật
Lo trời nghiêng, lo đất chông chênh
Lo chim bay lạc tổ nhầm cành
Lo cá lội xa ghềnh lạ nước
Hão huyền thế đố ai lo được
Đem gang tay đánh cuộc với cao dày!
Khi còn trẻ ông thân tôi đã khước từ
làm quan với triều đình dưới chánh quyền thực
dân. Ông đã sang Ba Lê để gặp cụ Phan Chu
Trinh và những lãnh tụ quốc gia thời đó. Nhưng sau
hai năm, thay vì làm cách mạng, ông lại trở
về Việt Nam mở trường dạy học. Đã có lần ông bảo
tôi: "Những lãnh tụ quốc gia đều có lý tưởng
tốt, những hoài bão của họ đều được đặt vào chiều
hướng đúng. Cha đứng về cùng hướng với họ." Nhưng mặc
dầu
ông cùng chung suy nghĩ với những người quốc gia, mặc
dầu
ông ghét Tây, bản tính khách quan cố
hữu đã ngăn ông hành động.
Tính khách quan là tính nết chung đã
ăn sâu thành cội rễ trong gia đình tôi từ
lâu. Ông Cố tôi vốn là quan trong triều.
Đã có lần ông được mời chọn lấy một cánh hoa
trong vườn Thượng Uyển và sau đó được vua ban cho một
cánh hoa đã chọn tạc lại bằng vàng để dùng
như biểu tượng chức tước. Mặc dù vậy, khi Pháp vào
Việt Nam ông đã bỏ triều đình về làng dạy
học. Ông nhất quyết không chịu bắt tay với Pháp.
Ông nội tôi cũng thế, tuy đã đậu tiến sĩ là
một bằng cấp cao nhất của nho sĩ thời bấy giờ, ông
cũng noi theo
ông cố, một lòng từ chối hàm tước triều
đình. Như thế, trước đời ông thân tôi
đã có nhiều khuôn mẫu để chính ông
có thể noi theo khi ông chối bỏ bổng lộc của Pháp
trong chính quyền thuộc địa để ra đi tìm gặp những
lãnh tụ quốc gia ở Pháp.
Ảnh hưởng từ những tổ tiên lâu đời và từ ông
thân đã khiến quan niệm của tôi đối với những người
làm việc với Pháp trở thành định kiến. Tôi
cũng đã thấm nhuần truyền thống khách quan của gia
đình, một không khí chán chường với thời
cuộc, một vị thế xa rời với những tạm bợ nhất thời của
thế gian.
Đã đành rằng nếu sống thì ai cũng phải phục vụ đời
sống. Chuyện này không ai có thể chối cãi.
Nhưng nếu vấn đề phục vụ vừa quá phiền toái lại vừa
đòi hỏi những đổi chác khó khăn thì sao lại
không về làng dạy học, viết văn, làm thơ mượn lấy
tư tưởng Lão, Trang, xem thường thế sự như chuyện
chiêm
bao thoắt biến?
Nhưng mặc dù đã thừa hưởng truyền thống khách quan
của ông thân, tôi cũng đã biết từ ngày
còn rất bé rằng mình không thể sống cuộc đời
học giả thanh đạm. Tôi cũng không thể sống một cuộc
đời
công chức nguyên là con đường độc nhất còn
lại dành cho những người như tôi. Thế giới Việt Nam
vào những thập niên 1920, 1930 quá nhỏ. Tôi
muốn bay nhảy, vượt ra ngoài thế giới đó. Luôn
luôn đầu óc tôi mơ tưởng chuyện đi xa, đến những chỗ
lạ, tìm hiểu về thế giới rộng lớn bên ngoài. Mặc
dù lòng ham muốn chỉ mới phôi thai, chưa cụ thể,
ý nghĩ viễn du đã dính liền với tôi từ thuở
ấu thời cho đến khi mới lớn. Tôi cũng bắt đầu có
khái niệm mù mờ rằng con đường dẫn đến giấc mơ
hoàn toàn phụ thuộc vào việc học. Mặc dù
mối dây liên lạc chưa hiện rõ, tôi biết chắc
rằng nhà trường sẽ cho tôi những khả năng cần thiết.
Chỉ
cần tôi cố gắng.
Ở tiểu học tôi đã giữ đúng vai trò con em
của những nhà nho. Tôi học xong tiểu học năm 13 tuổi
và rồi vào trung học ở trường Thăng Long, một trung
học
tư thục ông thân tôi đã góp phần
xây dựng và cũng là nơi ông giảng dạy. Khi
mới vào trường Thăng Long, tôi chưa biết rõ rằng đa
số những học sinh trong trường cũng đang mơ về một thế
giới tự do
bên ngoài khác hẳn với thế giới gò bó
của xã hội Việt Nam dưới thời thực dân Tây như
tôi. Chỉ khác là nếu ước mơ của tôi chỉ
là những ước mơ phiêu lưu ngoại quốc ngoạn mục thì
ước mơ của những học sinh khác là về những vấn đề bao
quát có thể thay đổi ngay đường hướng chính trị
và xã hội của quốc gia lúc đó.
Thật sự thì vào năm 1936, khi tôi ghi tên
nhập học, trường Thăng Long đã sôi sục với những ý
chí chống thực dân và những cuộc tranh cãi
về những chiều hướng tương lai của xã hội Việt Nam.
Giáo
Sư gồm những người như ông Phan Thanh, sau này là
sáng lập viên của đảng xã hội. Ông Đặng
Thái Mai, sau này là Bộ Trưởng Bộ Giáo Dục.
Ông Hoàng Minh Giám, sau này là Bộ
Trưởng Bộ Ngoại Giao miền Bắc. Ông Trần Văn Tuyên, sau
này là một trong những chính khách đối lập
trong chánh quyền Miền Nam. Giữa những nhân vật
đáng nhớ này, đặc biệt nhất là một nhà
giáo nhỏ con, đầy nhiệt tâm, dạy chúng tôi
môn Sử Ký -Ông Võ Nguyên Giáp.
Mặc dù chuyện ông Giáp trở nên nhân vật
lịch sử đánh bại Pháp ở Điện Biên Phủ và
đương đầu trực tiếp với Mỹ hãy còn là chuyện về
sau, nhưng lúc này vị đại tướng tương lai đã
là người hoàn toàn bị mê hoặc vì
tiếng gọi ma mị của cách mạng và đấu tranh.
Tuy trường đã ấn định rõ ràng là chương
trình sử phải bắt đầu từ năm 1789 cho tới khoảng giữa
thế kỷ thứ
19 mà phương pháp của ông Giáp lại
hoàn toàn khác hẳn. Ngay buổi đầu tiên
ông Giáp đã bước qua, bước lại trước bảng đen
và minh định: "Thật ra đã có rất nhiều sách
vở viết về những vấn đề trong giai đoạn này. Nếu muốn
biết tường
tận các anh chị có thể tự tìm hiểu. Tôi chỉ
đi vào chi tiết về hai vấn đề chính: Cuộc cách
mạng Pháp và Napoleon."
Cách dạy của ông Giáp đặc biệt cho đến nỗi
đã 45 năm sau mà tôi vẫn còn nhớ rõ
cách trình bày cùng các đề
tài ông đưa ra: Chi tiết diễn tả những cảnh sa đọa của
Marie Antoinette; quan niệm về nhân quả, công bằng của
xã hội; Công Xã Ba Lê; và số phận của
Danton cùng Robespierre. Trong khi giảng bài ông
Giáp tỏ ra hết sức ngưỡng mộ những lãnh tụ cách
mạng. Ông giảng sử không phải chỉ bằng giọng đơn thuần
của
một sử gia mà bằng những cung cách thiết tha của một
người nhiệt tâm bênh vực cách mạng.
Những bài giảng của ông Giáp về Napoleon còn
ly kỳ hơn nữa. Đứng trước bảng đen ông bước đi bước
lại theo từng
lời giảng tường tận về các chiến dịch do Napoleon đề
ra. -Từng
trận đánh, ngay cả những trận đụng độ thật nhỏ mà
ông vẫn giảng giải cực kỳ cặn kẽ toàn thể mọi biến
chuyển
dẫn đến các chiến thuật và chiến lược cuối cùng.
Ông Giáp nhớ như in tất cả. Ông đã học sử cho
đến nỗi sử biến thành một phần của chính con người
ông. Tất cả các vấn đề dính dáng đến sử đối
với ông đều phải khúc triết, rành mạch. Ông
Giáp nêu rõ tại sao đội vệ binh lại bắt buộc phải
đóng ở vị trí này vào thời điểm đó,
tại sao quân đội triều đình Pháp lại chọn
đúng giây phút đã chọn để tấn công.
Ông chợt tiến, chợt lùi, đắm chìm trong suy tưởng,
thôi miên lớp học bằng những chi tiết của sử. Sự
kích động của ông Giáp có tác dụng
lan truyền, cả lớp thường ngồi im lặng như tờ trong
giờ giảng.
Ông phục Danton và Robespierre. Ông ngưỡng mộ
Napoleon. Những bài giảng của ông về Napoleon cứ lan
man
dường như chẳng bao giờ dứt.
Song song với môn sử của ông Giáp, ông Phan
Thanh, một tư tưởng gia có khuynh hướng Xã Hội, là
người dạy chúng tôi văn chương Pháp. Trường
không hề đề cập gì đến văn chương Việt Nam mà thật
sự cũng chẳng học sinh nào để ý chuyện này. Tuy
đầu óc các giáo sư lúc nào cũng đầy
ắp tư tưởng quốc gia mà hễ cứ nói đến vấn đề giáo
dục thì ngôn ngữ chính của chúng tôi
là tiếng Pháp và tổ tiên chúng
tôi đích thực là người Gaulois.
Tuy thế, khi 16 tuổi tôi đã biết về những tư tưởng
chính trị đang luân lưu, vận chuyển ngấm ngầm dưới bề
mặt
phẳng lặng của đời sống học đường. Thỉnh thoảng sau
mỗi buổi học
tôi vẫn có ghé lại nhà ông
Giáp. Trong thư viện riêng của ông có quyển
Tư Bản Luận của Marx, và nhiều quyển khác nói về
Xã Hội Chủ Nghĩa viết bằng tiếng Pháp mà ông
Giáp thường khuyên tôi nên đọc. Ngoài
ra, tôi còn biết thêm về các tin tức
khác qua người bạn kèm toán cho tôi. Qua
người bạn này tôi đã được đọc cả những tờ tạp
chí có nhiều tranh ảnh chụp ở Nga. Trong tất cả những
người đi trước, tôi gần gũi ông Trần Văn Tuyên hơn
cả. Ông Tuyên vốn là người có tư tưởng độc
lập. Ông vẫn thường bảo tôi: "Sẽ có ngày
tình thế bắt buộc phải thay đổi và chính
chúng ta sẽ là những người thay đổi thời thế."
Tuy sống ngay giữa bầu không khí của những người
kháng Pháp, ông thân tôi vẫn mang tư
tưởng khách quan. Mặc dù bản thân ông
đã từ chối không theo Pháp và quan niệm
rõ ràng rằng phải có sự đổi mới, bản tính
trầm lặng, ít khích động đã khiến ông phản
kháng một cách nhẹ nhàng hơn. Ông luôn
luôn ủng hộ những giáo viên trẻ bằng những lời
khuyên và tinh thần thân hữu. Ông đối xử với
họ cũng như đã đối xử với những nhân vật quốc gia
ông đã gặp trước đây. Việc họ kết hợp, gây ảnh
hưởng và bắt đầu phát động đấu tranh là việc
ông hoàn toàn tán đồng. Ông
không tự mình dấn thân vào việc chẳng qua
là vì đã thấm nhuần tư tưởng khách quan.
Lúc này ông cụ tôi và ông
chú tôi là sử gia Trần Trọng Kim đang chú
tâm vào việc bắt đầu soạn bộ Việt Nam Sử Lược. Làm
việc cùng nhau mỗi ngày, cả hai thường tranh luận,
bàn cãi sôi nổi trong nhà về những vấn đề
liên quan đến Sử Ký, Văn Chương và Triết Học. Tuy
họ cũng yêu nước với tất cả lòng nhiệt thành như
những người khác cùng thời nhưng họ lại quan niệm rằng
sở
trường của mình nằm trong phạm vi giáo dục và học
đường. Họ cũng cho rằng vấn đề xây dựng lại Việt Nam
là
một vấn đề bao gồm cả văn hóa lẫn chính trị. Thì
giờ của họ hoàn toàn để vào việc viết lách
và giảng giải cho những học sinh cũng như các học giả
khác. Một trong những đề tài mà họ bàn đến
luôn là vấn đề Phật và Lão Giáo.
Tuy không biết là nguyên tố hỗn hợp nào
là nguyên tố chính đã tạo ra con người
tôi, tôi biết chắc rằng phần lớn nguyên tố đó
đã phát xuất từ cả gia đình lẫn học đường.
Tôi đã bị những lý tưởng cuồng nhiệt của các
giáo sư ảnh hưởng rất nhiều. Đa số giáo sư lúc
này đều cho rằng lúc này là lúc mọi
người phải tranh đấu để giải phóng Việt Nam thoát khỏi
ách đô hộ của bọn thực dân Pháp hống
hách và dành lại chủ quyền. Dầu vậy, những
khuôn mẫu Marxist do ông Giáp cùng người bạn
kèm toán đưa ra thật sự chẳng có gì
thú vị hoặc lôi cuốn. Có thể tôi đã
thật sự bị những suy nghĩ của ông thân và chú
ảnh hưởng rằng cuộc sống chỉ có ý nghĩa khi người ta
đã thực sự bước ra khỏi nếp sống hàng ngày
và đã thực sự tránh khỏi được những phiền
toái của cõi thế gian. Cách mạng dĩ nhiên
là một giải pháp khác biệt hơi xa với sự suy tưởng
của cả ông thân lẫn ông chú tôi. Dẫu sao
lòng khao khát thật sự của tôi lúc bấy giờ
là do vọng tưởng thôi thúc từ thế giới bên
ngoài chứ hoàn toàn không phải là do
những lời kêu gọi từ các thế giới đạm bạc, thanh cao
của
những học giả.
Khi mới lớn, đầu óc tôi thường hướng về phía những
chân trời xa lạ và về hướng những con người tôi chưa
bao giờ gặp. Lúc bấy giờ tuy hãy còn đang ở Trung
Học mà tôi đã mê đọc báo chí
ngoại quốc. Tôi đọc báo Pháp thật tường tận, bị
ám ảnh vì những tin tức của cuộc chiến tranh Nhật đang
reo rắc ở Trung Hoa. Hình ảnh cùng những bài tường
thuật từ Nam Kinh đã làm tôi bàng
hoàng. Cảm giác ghét thương lẫn lộn về sự kinh
hoàng cứ bám riết mãi. Một mặt sử sách
lúc nào cũng nói đến chuyện phải đề cao cảnh
giác đối với những ý đồ thôn tính Việt Nam
của người Tàu, nhưng mặt khác, vì đang học hỏi
thêm tiếng Hán từ một ông thày đồ trong mỗi
kỳ hè, tôi đã cảm thấy gần gũi với cổ văn và
truyền thống luân lý vốn dĩ là một phần ảnh hưởng
lớn rộng của Trung Hoa đối với Việt Nam. Tuy có thể đã
có lần những người Trung Hoa là kẻ thù trong lịch
sử nhưng những nạn nhân đang bị Nhật tàn sát
lúc này đều là những người tôi chưa hề biết
đến bao giờ.
Vào năm 1939 thì mọi người đều biết rằng chiến tranh
không chỉ giới hạn trong phạm vi Trung Hoa. "Phải
chăng
chúng ta đã hoàn toàn phòng vệ?"
Đây là nhan đề một cuốn phim Pháp về chiến lũy
Maginot đã thôi thúc hàng loạt câu hỏi
về khả năng đương đầu của Pháp với Đức. Mầm mống chiến
tranh
Âu Châu đã thúc đẩy dữ dội những nỗ lực
bành trướng tinh thần quốc gia tại Việt Nam. Những
cuộc thảo
luận về việc chống Pháp bắt đầu lan rộng trên một mức
tự
do hoàn toàn khác hẳn trước đây. Không
khí các khuôn viên học đường tràn đầy
những tin đồn về các hội kín và việc họ đang tuyển
mộ những thanh niên nhiệt thành yêu nước, sẵn
sàng hy sinh vì tổ quốc. Chẳng ai biết rõ
hành tung của các hội bí mật ra sao. Việc
liên lạc với họ là một việc hoàn toàn
bí mật. Tuy vậy, sự hiện diện của các hội bí mật
này là một sự thật hiển nhiên. Khi chiến tranh
Âu Châu bùng nổ vào năm 1939, tôi
cùng các bạn bè khác đều chứa chan hy vọng.
Tất cả đều cảm thấy những nền tảng đô hộ của thực dân
Pháp tại Việt Nam đang rung chuyển dưới chân.
Chẳng bao lâu sau, cơn rúng động trở thành trận địa
chấn kinh hoàng. Pháp, một nước khổng lồ, đầy quyền uy
đã khống chế Việt Nam bằng quyền lực từ bấy lâu nay
bất
thần ngã gục trước quân đội Đức vào ngày 25
tháng 7, 1940 sau một cuộc chiến ngắn ngủi, vẻn vẹn
trong
vòng sáu tuần. Thế giới của chúng tôi bỗng
thay đổi hẳn. Thế hệ chúng tôi là thế hệ thứ ba
trong suốt ba thế hệ đã nhìn cả vòm trời vũ trụ
là Pháp. Tiếng Pháp, văn hóa Pháp,
bộ máy thực dân lố bịch cũng của Pháp. Bỗng
nhiên một thế giới khác rộng lớn hơn thình
lình xen thẳng vào tầm nhìn chúng
tôi. Và chúng tôi phải tự mở mắt, lắng tai
ghi nhận những làn sóng tín hiệu từ bên
ngoài để có thể làm sáng tỏ được ý
nghĩa của tình thế lúc này.
3. Những Tổ Chức Chính Trị Bí Mật
Chúng tôi chẳng cần đợi lâu. Ngay sau khi
Pháp đầu hàng Đức quân đội Nhật bắt đầu đòi
hỏi chánh quyền thực dân Pháp phải nhượng quyền
kiểm soát ở miền biên giới Việt Nam và Trung Hoa.
Lúc này, vì thiếu phương tiện chống trả lại Nhật,
Toàn quyền Pháp cố tìm cách trì
hoãn và cầm chân Nhật càng lâu
càng tốt. Sau ba tháng đợi chờ, khi đã chán
trò trì hoãn, kéo dài thời gian của
Pháp, Nhật hạ lệnh biểu dương hai lực lượng quân sự để
nói rõ thực tâm với Pháp. Sau hai cuộc tấn
công của Nhật, một vào Lạng Sơn và một vào
Hải Phòng, Toàn quyền Pháp tuyên bố đầu
hàng. Pháp vẫn được quyền tiếp tục công việc nội
trị nhưng Nhật có quyền lập đồn và mang quân
vào Việt Nam. Mặc dầu chánh quyền thực dân
Pháp vẫn tiếp tục cai quản như thể hãy còn tiếp
tục đời đời với "Sứ Mệnh Văn Hóa" tại Việt Nam, lúc
này chẳng ai có thể làm ngơ trước sự hiện diện của
Nhật. Quân Nhật ồ ạt dựng trại, ung dung tự tung, tự
tác
trước đôi mắt căm hờn của Pháp. Vì đã phải
chịu đựng nhiều nhục nhã với các quan thày
Pháp, đây là lần đầu tiên chúng
tôi thấy rằng việc gạt bỏ chánh quyền Pháp
không còn là một công việc mơ hồ, xa xăm nữa.
Những hội kín bắt đầu mọc ra như nấm, vẫn bí mật hoặc
ngụy trang như những Hội Thể Thao hoặc Hội Du Ngoạn.
Một trong những
hàng ngũ mạnh mẽ nhất là hàng ngũ Cộng Sản,
lúc này chánh thức hoạt động với chiêu
bài "Giải Phóng Đất Nước." Cộng Sản đã thiết lập
những căn cứ mà họ gọi là "Chiến Khu" ở những vùng
núi non hiểm trở ở Cao Bằng và Lạng Sơn. Ông
Võ Nguyên Giáp không còn dạy học nữa.
Người ta đồn rằng ông đã vào bưng để tổ chức
các hoạt động du kích.
Các đảng phái chính trị khác cũng lần lượt
xuất hiện, trong số có Việt Nam Quốc Dân Đảng được tổ
chức
theo chiều hướng của Trung Hoa Quốc Dân Đảng. Chính
Việt
Nam Quốc Dân Đảng đã tổ chức cuộc khởi nghĩa chống
Pháp trong thập niên trước. Sau lần càn quét
dã man khi cuộc khởi nghĩa thất bại có nhiều đảng
viên đã trốn sang Trung Hoa. Một số đảng viên
khác lại lui vào vòng bí mật. Lúc
này lại có tin VNQĐD đang hoạt động trở lại và
những đảng viên lúc trước chạy qua Vân Nam đang
dàn xếp để xin Tưởng Giới Thạch yểm trợ.
Những đảng phái quốc gia như Hội Phục Quốc và một số
những nhóm nhỏ khác hoạt động dưới tên Đại Việt
cũng đang thành hình. Cũng theo lời đồn thì một số
nhóm nhỏ của Đại Việt có liên kết với Nhật. Mặc
dù không ai biết rõ đường lối hoạt động hoặc
tên tuổi của những người lãnh tụ các đảng
phái, chúng tôi vẫn đắm chìm trong hồi hộp.
Tất cả đều cảm thấy đã đến lúc quốc gia có thể
đòi hỏi và tranh đấu cho tự do. Ai cũng muốn đóng
góp một phần vào việc.
Khi các đảng phái đang triệt để củng cố lực lượng
thì Nhật cũng bắt đầu khuấy động. Nhật vốn dĩ là người
Á đầu tiên đứng ra đánh đuổi dân da trắng,
dành lại chủ quyền với khẩu hiệu "Đại Đông Á" cho
những vùng Nhật đang chiếm đóng. Tại Việt Nam đường
lối
của Nhật cũng không lấy gì làm lộ liễu. Ít
ra là cũng không có gì quá
khích vào lúc ban đầu. Vào thời gian
này Nhật gửi rất nhiều sinh viên và chuyên
viên văn hóa Nhật đến Hà Nội lập Hội Ái Hữu,
dạy tiếng Nhật miễn phí, lập Hội Thảo Luận và giao hảo
cùng tất cả các tầng lớp trí thức Việt Nam.
Chánh quyền Pháp cay cú đứng ngoài, bất lực
trước những hoạt động của Nhật, nhưng Nhật chẳng làm
gì
quá đáng. Vả lại dù mật thám Pháp
có muốn can thiệp cũng không đủ sức. Quân đội Nhật
đã dũng mãnh lại vô cùng kỷ luật. Lật đổ
Pháp đối với Nhật có lẽ là một việc rất dễ
dàng. Trong lúc đó lính Pháp thật
chẳng bõ làm trò cười cho dân chúng.
Vào thời gian này, vì cả các đảng
phái chính trị lẫn Nhật đều lấy sinh viên
làm mục tiêu hoạt động nên môi trường sinh
viên bỗng thình lình bị đảng phái chia cắt.
Vì bất cứ sinh viên nào cũng có thể
là người của các đảng chính trị và
các đảng phái lại tranh chấp với nhau nên tất cả
sinh viên đã cảm thấy nguy hiểm cận kề. Đa số sinh
viên đều cố quan sát, nhận định xem có ai theo
dõi hành động của mình không.
Lúc này tôi thường xuyên trú ngụ ở
nhà ông chú tôi, nơi ông cụ tôi
và ông chú tôi đang hợp sức viết sử.
Tôi thường ăn cơm cùng cả ông cụ lẫn ông
chú. Trong bữa cơm tối cả ba chúng tôi thường
bàn luận về hành động của Nhật. Theo ông cụ
và ông chú tôi thì người Nhật
không hề thật tâm muốn giúp đỡ người Việt.
Hành vi tàn ác của Nhật đã được các
báo chí Pháp đăng tải thật chi tiết. Hơn nữa mật
vụ Kempeitai của Nhật đã khét tiếng là tàn
ác. Người Nhật vốn có tinh thần kỷ luật cao. Khi họ
đã bước chân vào việc gì thì rất
ít khi chịu làm việc nửa vời. Ông cụ và
ông chú tôi cho rằng hợp tác với Nhật
lúc này hãy còn sớm quá.
Có thể liên kết với Nhật vào lúc này
vẫn còn quá sớm nhưng đây quả là việc chẳng
đặng đừng. Vào một buổi sáng tự dưng có một sinh
viên đứng tuổi người Nhật tên Yamaguchi đến nhà xin
được phép nói chuyện với ông chú tôi.
Yamaguchi diễn tả rất lưu loát bằng tiếng Pháp rằng
ông đang nghiên cứu sử Việt Nam và đến tìm
ông chú tôi để thỉnh cầu giúp đỡ. Yamaguchi
cho biết ông đang tìm hiểu về một giai đoạn đặc biệt
trong
triều đại Nhà Nguyễn.
Từ đó Yamaguchi thường xuyên lui tới. Ngoài mặt
thì ông đến để phỏng vấn ông chú tôi về
sử nhưng ý đồ thực sự của ông là gì
thì chẳng ai trong chúng tôi được rõ.
Có thể ông ta chỉ muốn giữ mối giao hảo với ông
chú tôi. Tuy chẳng làm cách nào
rõ được ý đồ của Yamaguchi, chúng tôi biết
rõ là ông đến với ý định khác. Bất kể
ý định riêng của Yamaguchi là gì,
chúng tôi vẫn biết rằng ý định đó chắc chắn
chẳng liên quan gì đến các triều đại Nhà
Nguyễn. Trong khi đó Yamaguchi cũng xuất hiện tại
nhiều nơi
khác. Dường như ông có mặt ở khắp mọi nơi.
Ông hoạt động, tổ chức các buổi họp lớn, nhỏ, động
viên bạn bè và sinh viên đến tham dự
các buổi thuyết trình. Ông liên lạc với
các giáo sư, nói về tình huynh đệ giữa
những người Á, về việc giúp đỡ lẫn nhau dành lại
chủ quyền. Ông cũng nhắc nhở, hô hào "Người
Á, đất Á" và cố đề cao vai trò của Nhật
trong các phong trào giúp đỡ, giao hảo với người
Việt. Tất cả những điều ông nói đều không có
gì nóng bỏng, sôi sục hoặc điển hình cụ thể.
Chỉ có những lời hứa hẹn xa xôi. Chẳng hạn như Nhật
và Việt Nam có cùng chung lý tưởng. Nhật
là người đáng tin cậy. Vì đã gặp ông
nhiều lần tại nhà ông chú tôi nên
có lẽ tôi biết ông rõ hơn những sinh
viên khác. Có lần Yamaguchi gián tiếp cho
tôi biết rằng ông là đảng viên của đảng Hắc
Long, một tông phái có tầm hoạt động khắp Á
Châu đã từng giúp Tôn Dật Tiên lật đổ
chế độ Mãn Thanh. Theo lời đồn thì đảng Hắc Long từng
có ảnh hưởng ngầm trong khắp Á Châu. Tôi cũng
chẳng biết liệu có nên tin hay không. Lúc
này quả thật chúng tôi không biết phải đối xử
với Người Nhật cách nào. Chúng tôi chỉ biết
rằng họ hoạt động rất mạnh mẽ, họ bàn cãi rất nhiều,
họ
có vẻ đứng đắn, thật tình và không hề hứa
hẹn điều gì cả.
Tuy rằng đang ở vào tuổi 17 và rất đam mê những
việc mạo hiểm náo nhiệt, tôi vẫn cố không để
chính trị xen vào những chuyện phải làm đang
tràn ngập, chờ đợi trước mắt. Công việc của những học
sinh
sắp sửa tốt nghiệp trung học như tôi là phải chiếm cho
được mảnh bằng tú tài. Đây là mảnh bằng học
vấn mà học sinh được cấp sau khi vượt qua một kỳ thi
vất vả bao
gồm tất cả các môn. Không có bằng tú
tài thì cuộc đời học sinh kể như vứt bỏ. Mảnh bằng
là bước tiến dẫn đến đại học và những gì cao xa
hơn ở bên trên. Tôi học ngày, học đêm
trong suốt nửa năm đầu của năm 1941 để chuẩn bị cho kỳ
thi tháng
7. Khi có tin tôi đậu ngay kỳ thi đầu tiên,
nhà tôi mở tiệc ăn khao ở quê làng Phủ
Lý. Tôi đã thật sự bước vào đời sống của một
thanh niên trên đường trưởng thành.
Bước thứ nhì là phải quyết định học ngành
gì ở Đại Học Hà Nội, một ngôi trường đại học độc
nhất Pháp dựng lên cho cả toàn cõi
Đông Dương. Tôi loại bỏ ngay dự định học Luật vì cho
rằng trông chờ vào những cơ hội cho phép một người
Việt Nam được quyền thực thi luật pháp dưới chánh
quyền
Pháp chỉ là việc hão huyền. Họa may chỉ còn
ngành Y Khoa.
Vì tò mò muốn tìm xem mình có
hợp với ngành Y hay không, tôi tìm đến buổi
hướng dẫn sinh viên Y Khoa. Chẳng hiểu người xếp đặt
chương
trình hướng dẫn là ai mà lại có thể
tàn nhẫn đến thế! Nhóm chúng tôi gồm 15
người hội đủ tiêu chuẩn khả năng theo học Y Khoa được
hướng dẫn
vào những khung cảnh khiếp đảm nhất ở bệnh viện Bạch
Mai. Đầu
tiên chúng tôi phải mục kích một số bệnh
nhân đang rên rỉ vì đau. Sau đó lại phải xem
cảnh một số khác đang kêu gào thảm thiết.
Chúng tôi còn phải xem cả cảnh bệnh nhân đang
quằn quại trong những vòng băng. Vì chẳng thể chịu
đựng
nổi những điều trông thấy, song song với Luật, Y Khoa
cũng bị
tôi gạt phắt sang bên.
Cuối cùng, tôi quyết định học toán. Tôi
đã thích toán từ lâu. Hơn nữa, ngành
này vừa khiến tôi tránh được tiếng cộng tác
với thực dân lại vừa khiến tôi thoát được cảnh bị
buộc phải mục kích những cảnh đau khổ của người khác.
Sau
khi đã quyết định, tôi được nhận vào một lớp
toán cao cấp cùng 14 sinh viên Pháp
và hai sinh viên Việt Nam khác. Vì chương
trình toán là chương trình cấp tốc
nên chúng tôi phải đến lớp 40 giờ mỗi tuần. Thời giờ
dành cho bài tập còn nhiều hơn vậy. Chương
trình toán đã chiếm hết tất cả thời giờ. Tôi
chẳng còn đủ thời giờ làm bất cứ chuyện gì
khác. Thế giới chính trị mới đầy dẫy thu hút
đã lại tan dần. Trong những lớp toán chuyên
ngành chỉ có toán, toán và
toàn toán...
Tôi mê toán vô độ: mê những phức tạp
huyền diệu của phương trình, những đan thanh tao nhã
của
các phương thức trừu tượng. Thế giới toán học là
một thế giới thanh tịnh có thể tóm thâu hoàn
toàn suy tư và năng lực của tôi. Trong suốt một
năm, tuy vẫn còn theo dõi tin tức chiến sự và
đã biết thêm rằng vận mệnh của Nhật tùy thuộc
hoàn toàn vào khả năng oanh tạc của không
lực của đồng minh qua bầu trời Việt Nam, tôi chẳng còn
biết được điều gì hơn vậy. Phi cơ Mỹ đã bắt đầu xuất
hiện
trên những mục tiêu Việt Nam.
Chiếc đầu tiên tôi thấy là một chiếc chiến đấu cơ
P-38 lộn vòng qua bầu trời xanh lơ, tấn công vào
đồn trại Nhật gần chỗ trạm hỏa xa ở quê tôi là Phủ
Lý. Khi chiến tranh lan tràn rộng hơn đến vùng đất
chính Á Châu thì máy bay đến
ngày càng nhiều. Tôi đã quen với tiếng
rú của máy bay oanh tạc, với tiếng xe cứu thương chạy
vút qua đường chở nạn nhân vào nhà thương.
Tuy thế những biến cố này tan ngay trong giây lát
và cơn đam mê toán học lại trở về đưa tôi đi
sâu vào thế giới trừu tượng bên trong.
Sau khóa toán, các sinh viên Pháp trở
lại Pháp để tiếp tục theo học các đại học danh tiếng
khác, còn tôi và các sinh viên
Việt Nam vì gia đình không đủ sức tài trợ
cho đi ngoại quốc và vì lúc đó chưa
có chương trình học bổng nên lại trở lại với chương
trình toán phổ thông ở Đại Học Hà Nội.
Chẳng bao lâu sau tôi chuyển từ nhà ông
thân đến Đông Dương Học Xá cách bệnh viện
Bạch Mai khoảng gần cây số. Việc tôi chuyển nhà
lúc này không hẳn chỉ giản dị như việc đơn thuần
thay đổi chỗ ở. Tình hình chính trị hỗn loạn
tôi tạm bỏ qua lúc trước không hề suy giảm. Ngược
lại, nếu ở Trung Học tôi chỉ biết về các đảng phái
bí mật qua lời đồn đãi hoặc qua tai người thứ hai
chẳng
hạn như anh người đó mới gia nhập; cha người đó mới bị
bắt vì là đảng viên thì hiện tại, mới khoảng
một năm sau thời kỳ kể trên, các đảng phái
đã thực sự gây được cả sức mạnh lẫn uy tín vượt xa
lúc trước. Đông Dương Học Xá đầy những sinh
viên Việt Minh, Đại Việt hoặc VNQĐD. Chuyện bàn cãi
chính trị và tuyển mộ đảng viên xảy ra hàng
ngày ngay phía sau bề mặt của Tổng Hội Sinh Viên.
Đây là một hội gồm đủ các thành phần từ rất
nhiều các tầng lớp có quá khứ khác biệt
nhưng thảy đều có tư tưởng quốc gia. Đây cũng chính
là Tổng Hội mà tôi đã tham gia từ lúc
đầu tiên.
Vì biết rằng nhân viên và những kẻ
sách động cho Pháp đang ở khắp mọi nơi nên Tổng Hội
Sinh Viên hành động rất cẩn trọng. Hội viên
tránh đương đầu trực tiếp bằng cách tổ chức những cuộc
đi
chơi ngoài mặt có vẻ hồn nhiên nhưng thật sự
là để khích động lòng yêu nước. Những cuộc
đạp xe hàng tuần luôn luôn có liên quan
hệ trọng đến lịch sử và tinh thần yêu nước ngấm ngầm.
Chúng tôi đi thăm Đền Hùng, Đền thờ Hai Bà
Trưng và các lăng tẩm của những anh hùng, liệt sĩ
đã từng đánh đuổi, đập tan giặc ngoại xâm. Những
trùng hợp về thời khắc đôi khi có phần lộ liễu
nhưng chánh quyền Pháp không thể làm
cách nào để ngăn cản được những cuộc du ngoạn có
trật tự như vậy. Chúng tôi cùng ngồi quanh lửa
hồng, bàn bạc về cách Hai Bà Trưng lật đổ quyền
cai trị của Trung Hoa vào thế kỷ đầu tiên, về Trần
Hưng
Đạo đập tan quân Mông Cổ 1200 năm sau đó. Sau
cùng chúng tôi ca hát vang rừng:
Này anh em ơi!
Đứng lên đáp lời sông núi
Đồng lòng cùng đi, hy sinh tiếc gì thân
sống...
Những cuộc họp này gây xúc động sâu xa trong
lòng tất cả chúng tôi. Nhìn Đền Hùng
mờ xa trong ánh đêm chúng tôi cảm thấy
mình chính là một phần của một giòng
liên tục luân lưu, nối tiếp truyền thống Việt Nam. Hai
Bà Trưng, Trần Hưng Đạo, Lê Lợi -Tất cả đều đã về
đây, tề tựu trong giây phút này để chứng kiến
đất nước lại một lần nữa vùng lên tranh đấu cho tự do.
Huyền nhiệm thay, sự việc này đang diễn ra ngay trong
thế hệ
chúng tôi. Thời cơ của chúng tôi đã
đến. Qua ánh lửa bập bùng, những khuôn mặt lung
linh, chập chờn nhảy múa. Một giây phút thanh cao,
thiêng liêng khi tất cả đều đồng lòng liên
kết, tranh đấu cho độc lập và sẵn sàng hy sinh
không hề nghĩ đến bản thân, không hề do dự. Một
phút giây hồn nhiên nhất. Có lẽ đây
là phút giây sau cùng trước khi hai khối
Cộng Sản và Quốc Gia bắt đầu mở cuộc tương tàn sát
hại lẫn nhau.
Tuy ngoài xã hội, tất cả sinh viên đều tỏ vẻ
đoàn kết, khi đi sâu vào lãnh vực
chính trị của từng sinh viên thì sự thật lại
hoàn toàn khác hẳn. Khối sinh viên lần lần
tản ra khi mỗi đứa chúng tôi tự tách ra, chia nhau
đi theo những lời hẹn hò của đảng về việc đáp lại
những
nguyện vọng chúng tôi cùng nhau ấp ủ. Vào
năm 1943 thì chỉ có một số rất nhỏ có được
tí khái niệm mù mờ về những khác biệt giữa
các đảng hoặc có thể nhận định chân thực được thế
nào là đảng phái. Mọi đảng đều tuyên bố
tranh đấu cho tự do. Thế là đủ. Chủ Trương Xã Hội của
VNQĐD thế nào chẳng ai được rõ. Có lẽ chẳng
có sinh viên nào có thể cắt nghĩa được
rành rọt những khác biệt nổi bật của Đại Việt và
Việt Minh. Chẳng hạn như lúc này tất cả đều không
biết Việt Minh là do Cộng Sản cầm đầu. Hơn nữa, chưa
ai nghe
nói đến tên Hồ Chí Minh bao giờ.
Vì thiếu hiểu biết về các đảng phái các
sinh viên thường cho là mọi đảng đều như nhau cả. Dĩ
nhiên tất cả đều nhận định được rằng có một số đảng
ngả
theo Trung Hoa trong khi một số đảng khác ngả theo
Nhật, nhưng
mục đích chung của mọi đảng đều chẳng có gì
khác hơn là đòi hỏi Độc Lập. Kết cục là gia
nhập vào các đảng phái hoàn toàn lệ
thuộc vào sự móc nối tình cờ của bạn bè
hoặc người thân. Người ta gia nhập vì rằng một người
bạn
hay người thân đã gia nhập rồi. Khi một người trong
gia
đình họ hàng đã là đảng viên của đảng
Đại Việt, VNQĐD hoặc Việt Minh thì những người còn lại
trong gia đình có khuynh hướng chính trị thường
gia nhập theo.
Vì ông thân và ông chú chẳng ngả
theo đảng phái nào, tôi gia nhập đảng Đại Việt
là do lời giới thiệu của một người bạn là ông Đặng
Văn Sung. Một trong những lý do khác đã khiến
tôi gia nhập Đại Việt là vì đa số các sinh
viên lúc này đều gia nhập Đại Việt. Khi tôi
thực sự gia nhập là khoảng năm 1944. Trong suốt cuộc
chiến
tôi đã theo dõi sát từng trận đánh ở
Thái Bình Dương, đọc tin tức qua tờ báo viết bằng
tiếng Pháp ở Hà Nội là tờ La Volonté
Indochinoise. Suốt thời gian đó vào khoảng 1942,
Pháp lấy làm thích thú tường thuật
liên tục việc Nhật thất trận. Lúc này tất cả đều
cho rằng chiến tranh sắp kết liễu. Bất kỳ kết cuộc ra
sao tất cả đều
cảm thấy đã đến lúc cùng nhau góp sức. Số
người gia nhập nhảy vọt. Ngay cả những người đang phân
vân
cũng xin gia nhập.
Trong ngày đầu gia nhập đảng Đại Việt ông Đặng Văn
Sung
dẫn tôi qua một khu dân cư bình dân trú
ngụ để đến một căn nhà cũng bình dân không
kém. Khi đã vào trong tôi được gặp người
tuyên thệ tôi vào đảng. Chính ông ta
cũng là thượng cấp của tôi về sau. Người tuyên thệ
tôi trông cũng chất phác chẳng khác
nào khu cư ngụ của ông. Khi đã nhận định rõ
rệt mọi việc tôi cảm thấy hơi khó chịu. Tôi thực
chẳng thể ngờ rằng mình lại có thể đi tuyên thệ
trung thành với một đảng phái mơ hồ trước mặt một
người
chơn chất, giản dị, như người tuyên thệ tôi vào đảng
lúc này.
Khó chịu hơn nữa là bên trên chỗ bàn
thờ tuyên thệ có dán một bức bản đồ với hai chữ ĐẠI
VIỆT. Tấm bản đồ này chẳng những chỉ bao gồm Việt Nam
thôi
mà còn bao gồm cả toàn cõi Đông Dương
và rất nhiều phần khác của Đông Nam Á. Hương
khói trên bàn thờ tỏa ra làm cho quang cảnh
có vẻ đượm phần tín ngưỡng. Trước ngọn nến người
tuyên thệ tôi vào đảng Đại Việt đặt một khẩu
súng đen. Người tuyên thệ tôi bắt đầu: "Khẩu
súng này là biểu tượng cho kỷ luật của đảng. Anh
phải thề trung thành với đảng và tổ quốc. Nếu anh phản
một trong hai..." Ông ta khẽ nhìn về phía khẩu
súng gật nhẹ.
Buổi tuyên thệ thật nghiêm trang, nhưng riêng
tôi lại chẳng xem mọi sự nghiêm trang đến thế. Không
khí có vẻ đượm màu thế kỷ thứ 19 đã qua
mang đầy tính chất bí mật lãng mạn. Tuy vậy
tôi vẫn giơ tay tuyên thệ, hứa sẽ trung thành. Với
hành động tự nguyện này tôi bước vào thế
giới của những người Việt Nam có tư tưởng quốc gia.
Thế giới
này đã ở cùng tôi trong suốt 40 năm
dài cho tới ngày nay.
4. Đảng Đại Việt
Sau khi tuyên thệ vào đảng tôi được giới thiệu với
hai đảng viên Đại Việt khác để hợp thành một tiểu
tổ. Ngoài mặt, tôi chỉ được biết những bạn cùng tổ
và thượng cấp của đảng qua bí danh của họ mà
thôi. Tôi chọn tên Kim cho chính mình,
Kim là tên một thiếu nữ đã đến xin tôi dạy
kèm toán khi tôi còn ở nhà ông
chú. Cô có nụ cười thật duyên dáng.
Lúc này chẳng hiểu sao khi chọn bí danh tự
nhiên tôi lại nghĩ đến tên cô.
Khi tiểu tổ đã được thiết lập, chúng tôi hội họp
thường xuyên, không bao giờ hai lần ở cùng một chỗ.
Vì tiểu tổ chúng tôi thuộc thành phần
"trí thức" của Đại Việt, công việc chính của
chúng tôi là tuyển mộ đảng viên. Chúng
tôi tự luyện mình thành những nhân viên
tuyển mộ chính cho đảng và luôn luôn
tìm cách thuận lợi để tuyển thêm những người mới.
Chúng tôi cố tìm cách để khêu gợi,
thúc đẩy lòng yêu nước của họ, làm họ mang
mặc cảm tội lỗi về việc phải "làm gì" cho đất nước.
Những
nhóm Đại Việt còn lại thì được phân
công để lo việc an ninh, tin tức và tài
chánh. Giờ đây lòng yêu nước không
còn trừu tượng như lúc ở với Tổng Hội Sinh Viên nữa
mà chuyển thành một phong trào cách mạng.
Việc bị cảnh sát Pháp bắt là chuyện bình
thường, thỉnh thoảng lại có người mất tích thình
lình. Thường thì không thể nào nói
được sự mất tích là do Pháp hoặc các hội
khác tiêu diệt. Tính cách bí mật về
hành động của chúng tôi làm gia tăng bầu
không khí hiểm nguy và đe dọa. Hung hiểm bỗng
nhiên ám ảnh đời sống. Tôi bắt đầu mang một khẩu
súng đút vừa vặn vào chiếc túi nhỏ sau
lưng.
Đảng Đại Việt tôi gia nhập gồm nhiều nhóm Đại Việt
liên lạc thật lỏng lẻo với nhau và với cả VNQĐD. Một
trong
những nhóm Đại Việt nhỏ là nhóm Đại Việt Quốc
Xã, một nhóm có liên hệ mật thiết với Nhật.
Một nhóm Đại Việt khác là Đại Việt Dân
Chính lại hoạt động theo đúng với chiều hướng cách
mạng Tam Dân của Tôn Dật Tiên. Nhóm Đại Việt
này vì vậy gần gũi nhất với VNQĐD. Mặc dù chưa
liên lạc được với chi nhánh chính của Quốc
Dân Đảng ở Trung Hoa nhóm này vẫn tự xưng là
Đại Việt Quốc Dân Đảng và cũng chính là
nhóm Đại Việt mà tôi đã gia nhập trước
bàn thờ với khẩu súng ngắn.
Những cương lĩnh dân chủ và tinh thần quốc gia cuồng
nhiệt
của Đại Việt Quốc Dân Đảng đã thu hút được một thế
hệ sinh viên Việt Nam. Rủi thay, ngoài việc cam kết
rằng
chủ trương của đảng có khuynh hướng Dân Tộc Sinh Tồn,
Đại
Việt Quốc Dân Đảng chỉ có một khái niệm mơ hồ về
những hoạt động thực tiễn trên các lãnh vực
xã hội và kinh tế. Xuất xứ của đảng Đại Việt Quốc
Dân thực sự là do nhiệt tâm tranh đấu cho Độc Lập,
do những tình cảm cuồng nhiệt đã được tinh thần tranh
đấu
âm ỉ hun đúc tích tụ suốt 60 năm dưới chánh
quyền thực dân. Những cảm xúc mãnh liệt ngấm ngầm
đó giờ đang tiến đến giai đoạn nổ bùng. Sự hiện hữu
của
đảng là một biểu tượng diễn tả tinh thần cương quyết
chống thực
dân. Lý do hiện hữu của đảng là sự đòi hỏi
tự do. Bởi thế cho nên đảng không có thời giờ hoặc
tâm trí để nhìn xa hơn những mục đích chủ
chốt lúc đó.
Thiếu lập trường chính trị là một nhược điểm mà
Đại Việt Quốc Dân Đảng và nhiều đảng phái
khác cùng có chung, ngoại trừ một đảng duy nhất
là đảng Việt Minh. Vốn được những thành phần Cộng Sản
nòng cốt, tháo vát và đầy nhiệt tâm
ra công tổ chức, Đảng Việt Minh có những ưu điểm mà
những đảng phái quốc gia hoàn toàn không
có. Một trong những ưu điểm tối quan trọng của Việt
Minh
là những kinh nghiệm lão luyện về chiến thuật và
chiến lược của chiến tranh phe phái.
Khoảng giữa thập niên 1940, ông Hồ Chí Minh
đã là nhân viên của đảng Cộng Sản thế giới
tròn một phần tư thế kỷ. Ông đã góp phần
thiết lập đảng Cộng Sản Pháp và đã theo học tại
Đông Phương Đấu Tranh Học Viện Stalin. Ngoài ra ông
còn là một trong những đảng viên của đảng
Nông Dân Quốc Tế (Peasant 's International) đã
cùng hoạt động với vị lãnh tụ khét tiếng Michael
Borodin trong sứ mạng giúp đỡ cách mạng Trung Hoa. Khi
đảng Đại Việt và các đảng phái khác
hãy còn trong thời kỳ phôi thai thì
ông Hồ Chí Minh đã hiểu rõ tường tận cả về
lề lối cách mạng lẫn cách tiêu diệt các đảng
phái chính trị đối lập khác. Cho đến khi
các nhân vật tăm tiếng như ông Võ
Nguyên Giáp, ông Lê Đức Thọ, ông Phạm
Văn Đồng và Lê Duẩn cùng về hợp tác
thì đảng Việt Minh đã liên kết tạo thành thế
răng cưa để nghiền nát các đảng phái quốc gia
khác yếu thế hơn.
Chẳng rõ trong lúc đó các lãnh tụ
Đại Việt có hình dung được rõ rệt những thế lực
khủng khiếp của các lực lượng đối nghịch hay không,
riêng phần tôi và các bạn bè vẫn
hoàn toàn không hề mảy may hay biết.
Vào cuối năm 1944, đầu năm 1945, tôi đã cảm thấy
vai trò của mình trong tiểu tổ thật quá hạn hẹp.
Khi nhận thấy khả năng mình có sức làm nhiều hơn
những công việc đã được ủy thác, tôi bắt đầu
tìm cách gặp ông Trương Tử Anh, lãnh tụ đảng
Đại Việt, người mà chúng tôi vẫn gọi là
Ông Cả Phương.
Lúc đầu công việc hoàn toàn thất bại. Người
liên lạc độc nhất giữa tôi và đảng cứ trì
hoãn bảo rằng chuyện đó không thể làm ngay
được và khuyên rằng nếu muốn gặp ông Trương Tử Anh
thì tôi phải kiên nhẫn hơn. Việc chẳng thể vượt qua
được đường dây liên lạc độc nhất để tiến xa hơn đã
khiến tôi vô cùng thất vọng. Tôi tự thấy
mình không thể chịu được đường lối ép buộc khắt khe
của đảng và cũng chưa hiểu rõ rồi đây những cảm
tưởng khó chịu lúc này sẽ ảnh hưởng đến mối
liên hệ giữa tôi và đảng nặng nề đến mức nào.
May thay chỉ một thời gian ngắn sau đó tôi lại tình
cờ được gặp ông Trương Tử Anh. Cuộc gặp gỡ giữa tôi
và ông Trương Tử Anh đã dẫn đến những liên hệ
mật thiết giữa tôi cùng ông Anh và những xung
đột chính trị về đường lối của đảng về lúc sau
này.
Cuộc gặp gỡ xảy ra trong một cuộc họp của đảng Đại
Việt tại nhà
một người bạn cùng lớp. Chuyện tôi không biết người
bạn cùng lớp cũng là đảng viên Đại Việt chẳng qua
cũng là một chuyện bình thường lúc bấy giờ. Tuy
vậy, trong lúc đến họp tôi đã nhận ra vài
người bạn có mặt tại đó cũng là đảng viên
Đại Việt. Mọi người hình như đang tựu quanh một người
trung
niên đầu hói phía trong một căn phòng ngủ.
Khi không nhận ra được người trung niên đầu hói
là ai, tôi đã hỏi Phúc. Phúc
thì thào: "Đó là ông Trương Tử Anh."
Vừa nghe xong tôi vội bắt Phúc giới thiệu. Phúc từ
chối trong kinh ngạc: "Không được đâu!!! Như vậy
không đúng với thông lệ của đảng. Anh phải
thông qua trưởng nhóm." Tuy vậy, tôi hết sức
nài nỉ. Tôi đã chờ cơ hội này từ lâu.
Hiện đang có dịp may, đời nào tôi bỏ lỡ? Sau
cùng, phần thì bối rối, phần thì vì cũng
chẳng còn cách nào khác, Phúc đồng
ý.
Ông Trương Tử Anh là người rất dễ dãi và
đáng mến. Dường như ông không hề bận tâm
chút nào về việc giới thiệu bất ngờ. Ông mỉm cười
thân thiện rồi nhìn tôi với đôi mắt
sáng long lanh gần như thu hút. Ông khuyên
tôi nên bỏ thì giờ tìm hiểu nguyên tắc
của đảng để có thể biết rõ đường lối của đảng đối với
quốc gia. Tôi trả lời ngay rằng đây đúng là
việc tôi đang thắc mắc muốn tìm hiểu thêm vì
quả thật tôi hoàn toàn chưa có căn bản vững
chắc về đường lối và quan niệm của đảng.
Ông Trương Tử Anh vừa ngước đầu về phía cửa chỗ
Phúc đi ra ngoài vừa tiếp lời tôi rằng: "Anh
có thể học hỏi anh Phúc thêm. Phúc là
một lý thuyết gia đứng đắn."
Tôi lấy làm ngạc nhiên: "Phúc? Tuy
Phúc quả là một người bạn tôi biết đã từ
lâu nhưng làm sao tôi có thể học Phúc
thêm về đường lối của đảng được? Khi còn là bạn
cùng lớp Phúc lúc nào cũng thua tôi
về Triết và gần như về tất cả mọi môn khác!!!"
Không rõ sự bạo dạn hay câu phê bình
thơ ngây của tôi đã khiến ông Anh bật cười.
Chúng tôi nói chuyện lâu hơn và
ít lâu sau ông Anh tỏ ý muốn gặp riêng
tôi. Khi ra về tôi cảm thấy có thể hoàn
toàn tin tưởng ông Trương Tử Anh. Hơn nữa tôi biết
mình đã gây được ấn tượng tốt với ông.
Trong lần gặp sau đó, ông Anh bảo rằng có rất nhiều
việc có thể giao phó cho tôi nhưng việc quan trọng
nhất hiện thời là dùng tôi để gây mối
liên lạc giữa đảng và ông chú tôi
là học giả Trần Trọng Kim. Tuy ông chú tôi
chỉ là một sử gia, tác phẩm của ông đã
chuyển ông thành một nhân vật quan trọng trọng việc
nhận định lại nền văn hóa Việt Nam. Vốn là người nổi
tiếng, được nhiều người kính nể, lại không hoàn
toàn đứng về bất cứ phe phái nào nên dầu
muốn dầu không ông chú tôi cũng đã trở
nên một nhân vật của dư luận. Hơn nữa, lúc
này ông còn được đa số quần chúng ủng hộ
nên dù gia nhập đảng nào ông cũng mang lại
cho đảng đó rất nhiều uy tín. Ông Trương Tử Anh cho
rằng có lẽ phương pháp hay nhất là để tôi
gần gũi với ông chú tôi, cho ông chú
tôi biết rõ rằng tôi đã gia nhập Đại Việt
Quốc Dân Đảng và rồi tự tìm cách thuận lợi
để biến mình thành một đường dây liên lạc
bí mật giữa Đại Việt và ông chú tôi.
Mặc dầu ông chú tôi vẫn chăm chỉ viết sách,
cuộc sống của ông thực sự đã thay đổi rất nhiều vào
năm vừa qua. Những biến chuyển chính trị dồn dập đã
đẩy
ông phần nào ra khỏi tư thế khách quan trong vấn đề
tranh đấu cho độc lập. Lúc này ông khách
sinh viên Yamaguchi đến thăm viếng ông chú tôi
thường xuyên hơn bao giờ hết. Hơn nữa, cả mật thám
Pháp cũng đã giám sát cẩn mật nơi cư ngụ
và các hành động của ông chú
tôi.
Tuy đã biết rành rọt mọi chuyện mà vào một
hôm đến chơi tôi vẫn bàng hoàng khi được
bà mợ cho biết tin chú tôi không còn ở
nhà nữa. "Chú phải lên đường đi xa," mợ tôi
tiếp tục cho thêm tin "vì mật vụ Pháp rình
rập và đã lên đường đi Singapore cùng
ông Yamaguchi rồi."
Vào mùa hạ năm 1944, quân đồng minh rầm rộ
kéo qua Pháp. Khoảng tháng 8, ngày 23, họ
đã chọc thủng tuyến phòng sông Seine. Hai
ngày sau tướng Jacques Philippe Leclerc và quân
Pháp dưới quyền chỉ huy của ông đã giải
phóng Ba Lê thoát ách bốn năm đô hộ
của Đức. Việc chánh phủ Vichy Pháp sụp đổ đã khiến
tình hình phức tạp nội địa Đông Dương suy yếu hơn
một tầng, nhất là khi quân Nhật tỏ ý lơ là
với những điều kiện khắt khe phải giữ với chánh quyền
thuộc địa
Pháp trước đây. Đã có lời đồn đãi
rằng Nhật đang mưu mô lật đổ Pháp. Do đó khi
có tin Nhật đảo chánh chẳng ai lấy làm ngạc
nhiên.
Vào trưa ngày 9, tháng 3 năm 1945. tôi nhận
được tin từ bà mợ rằng Yamaguchi mời tôi cùng ăn
cơm tối tại nhà bà ta. Nhưng tối đó, khi tôi
đến thì không hề thấy bóng Yamaguchi. Ngồi đợi một
chút, lúc trời vừa xâm xẩm tối bỗng có tiếng
súng nổ từ những khu phố kế cận. Rồi bất thần
Yamaguchi
tông cửa vào nhà, kéo tay tôi
vào một góc phòng. "Chúng tôi đang
tấn công Pháp," Yamaguchi nói, "cuộc tấn công
đã bắt đầu rồi. Anh phải giúp tôi. Xin anh đến
trường cùng tôi. Sẽ có nhiều tổn thất. Tôi
muốn nói cho các anh em sinh viên được rõ
rằng chúng tôi cần họ giúp đỡ, nhất là những
sinh viên y khoa. Xin anh giúp dùm cho."
Vừa khẩn khoản đốc thúc, Yamaguchi vừa bắt đầu kéo
tôi về phía cửa ra vào. Tuy vậy tôi
không hề cảm thấy nóng lòng như Yamaguchi.
Tôi không muốn những sinh viên khác nghĩ rằng
tôi là người hợp tác với Nhật. Bởi thế tôi gỡ
tay Yamaguchi, xoay người đối diện với ông trong tư
thế sửa soạn
tranh luận về tình thế hiên thời...
Nhưng tôi chẳng còn đủ cơ hội nữa! "Khổ quá!"
Yamaguchi nài nỉ, "Thật không còn thời giờ tranh
luận nữa mà. Anh thật tình không hiểu sao?
Chúng tôi đã tấn công rồi. Không phải
chỉ có người Pháp thương tổn không thôi
mà còn nhiều thường dân khác nữa! Xin anh
giúp dùm ngay cho!"
Theo lời ông ta thì thật chẳng còn gì để lựa
chọn. Tôi vẫn còn nửa tỉnh nửa mơ thì Yamaguchi
đã đẩy tôi vào xe chạy vòng vèo qua
đường phố đầy lửa đạn. Tôi cũng chẳng hiểu chúng tôi
đến được Đông Dương Học Xá bằng cách nào.
Khi đến nơi, tuy có giới thiệu Yamaguchi cùng những
sinh
viên đang tìm hiểu tin tức quanh đó, tôi vẫn
cố tránh xa ông ta. Nhiều sinh viên đã biết
sơ qua về Yamaguchi. Ông đã theo học nhiều năm tại đại
học
và đã hoạt động rất tích cực trong việc nối kết
tình hữu nghị Việt-Nhật. Do đó, tôi nói với
mọi người rằng tôi cũng như những sinh viên khác,
biết Yamaguchi và hiện ông ta đang ngỏ lời xin giúp
đỡ.
Ngay sau khi tôi giới thiệu, Yamaguchi đọc một bài
diễn
văn ngắn và mở lời nhờ sinh viên săn sóc những
người đang gặp hoạn nạn hoặc bị thương do súng ống
loạn lạc đang
bao trùm thành phố. Nói xong ông ta
lên đường. Khi tiếng súng gần kề, chúng tôi
cùng nhau bàn bạc về những chuyện phải làm. Như
tôi đã tiên đoán, có nhiều học sinh
nghĩ là tôi cùng hoạt động với Yamaguchi. Họ muốn
biết rõ ông ta yêu cầu gì. Tôi bảo với
họ rằng tôi cũng chỉ biết Yamaguchi như những sinh
viên
khác mà thôi. Tất cả chúng tôi đều
muốn tránh tiếng hợp tác với Nhật nhưng những tiếng
súng bên ngoài cho thấy rằng chắc chắn sẽ có
tổn thất lớn về phía dân sự. Chúng tôi chẳng
thể khoanh tay không giúp đỡ.
Sau cùng tất cả quyết định giữ tư thế trung lập. Sinh
viên
y khoa sẽ chia toán đổ ra đường phố, nhưng tất cả đều
đeo băng
thập tự đỏ cứu thương rõ rệt. Chúng tôi sẽ hết sức
giúp đỡ nạn nhân nhưng tất cả cùng cố tránh
càng ít liên lạc với người Nhật càng tốt.
Thật sự thì những dự đoán về chuyện đánh nhau hỗn
loạn và tổn thất nặng nề chỉ là chuyện lo xa. Quân
Nhật tổ chức đánh chiếm thiện nghệ cho đến nỗi chỉ mới
rạng
đông Hà Nội đã hoàn toàn ngưng hẳn
tiếng súng. Quân Pháp bị diệt sạch vào
lúc rạng ngày. Lính Nhật thay thế Pháp đi
tuần khắp các nẻo đường phố. Sau hơn sáu mươi năm
đô hộ, ách thống trị của Pháp bỗng dưng bị lật đổ.
Khi người Nhật đã nắm quyền thì câu hỏi chủ yếu
là: Họ sẽ làm gì? Qua suốt thời gian chiếm
đóng họ đã tránh né không nói
rõ chủ trương, không hứa hẹn, hoàn toàn nấp
mình sau sự điều khiển của những người lai lịch bí ẩn
và khôn khéo lợi dụng thời cơ như Yamaguchi.
Lúc này chúng tôi đã thấy rõ
là Nhật chỉ nắm quyền tạm thời mà thôi. Các
lực lượng khủng khiếp của Hoa Kỳ ở Thái Bình Dương
đang
tiến dần vào quần đảo Nhật và chương trình Đại
Đông Á đang chết dần. Bởi thế dù Nhật có an
bài Việt Nam bằng cách nào đi nữa thì cơ
hội lịch sử cũng đã đến.
Bầu không khí hồi hộp bao trùm khắp cả khuôn
viên đại học. Lòng yêu nước chứa chan pha lẫn với
những niềm tin vào vai trò sinh viên trong
xã hội tương lai đã khiến tất cả đều háo hức. Gần
như tất cả đều tin rằng dù gì đi nữa thì vai
trò của sinh viên chắc chắn sẽ là những vai
trò lớn rộng và phản ảnh rõ rệt được vai
trò những bông hoa của đất nước. Tất cả những xúc
cảm đè nén từ nhiều năm qua bỗng có dịp
bùng ra thành những hoạt động cuồng loạn. Tổng Hội
Sinh
Viên được thiết lập. Báo chí sinh viên
cùng những buổi chào mừng tung hô thống nhất nảy ra
khắp nơi. Những phong trào yêu nước ngấm ngầm bị cảnh
sát Pháp ngăn chận trước đây thình
lình bộc phát. Tuy chưa có gì bạo động xảy
ra, chưa có ai tỏ vẻ ra mặt chống đối Nhật nhưng mọi
người đều
đã có cảm giác là tương lai đã nằm
trọn trong tay.
Chẳng bao lâu sau, tất cả những cảm xúc cuồng nhiệt
được
chuyển dần thành những dự định chuẩn bị cho ngày Giỗ
Tổ
Hùng Vương. Lễ Giỗ Tổ Hùng Vương lúc nào
cũng là một trong những dịp để tỏ lòng yêu nước.
Trước đây vì sợ tinh thần yêu nước sẽ chuyển
thành bạo động, chánh quyền Pháp đã cấm
những buổi lễ lớn có tính cách cộng đồng.
Lúc này, vì chưa có lệnh chánh thức
cấm tụ họp cộng đồng trực tiếp từ Nhật, Tổng Hội sinh
viên
nô nức tổ chức những buổi gặp gỡ.
Tại Đông Dương Học Xá, những sinh viên kiến
trúc dựng đài kỷ niệm khổng lồ để tưởng nhớ Tổ
Hùng Vương. Tổng Hội Sinh Viên gởi người đến từng
vùng trong thành phố để nhắc nhở và kêu gọi
mọi người cùng đến tham gia ngày Giỗ Tổ.
Buổi sáng hôm Giỗ Tổ khoảng đất xung quanh đài kỷ
niệm bắt đầu dầy đặc những người đến dự. Hình như tất
cả
dân chúng Hà Nội đều tề tựu ở đó. Mỗi gia
đình mang một miếng bánh chưng đến đặt ở chân
đài thờ Tổ. Càng lúc số lượng người đến
càng tăng, chen chúc nhau vây quanh đài kỷ
niệm. Bánh chất đống thành núi, mỗi lúc mỗi
cao thêm. Có cả hàng loạt diễn văn, mỗi bài
đều khẳng định rằng tất cả đều là người Việt Nam, tất
cả đều
cùng chung tổ quốc và mọi người đều phải hy sinh
vì lợi ích quốc gia.
Có lẽ chỉ những người đã sinh trưởng trong một nước
thuộc
địa và đã từng bị người ngoại quốc đàn áp
dã man mới có thể hiểu được cảm giác của những
giây phút đó. Sau mỗi bài diễn văn
đám đông lại hô to: "Việt Nam muôn năm! Việt
Nam muôn năm!" Trong cùng khắp đám đông, cả
đàn ông lẫn phụ nữ đều tràn đầy cảm xúc.
Chẳng một ai để ý đến quân Nhật lảng vảng ở vòng
ngoài, đang "chụp hình tất cả." Chẳng một ai còn
tâm trí cho người Nhật hoặc bất cứ chuyện gì
khác. Đầu óc chúng tôi chỉ có một
ý nghĩ: Tổ quốc Việt Nam.
Khi diễn văn bế mạc, tất cả đám đông đổ xuống đường
phố
Hà Nội, phất cờ và tung hô: "Độc Lập! Độc Lập!"
Quân Nhật vẫn đứng im lìm dọc theo hai bên đường.
Mặt họ lạnh lùng khi đám đông tung hô đi qua.
Chẳng bên nào tỏ vẻ thù nghịch. Sau cùng
đám đông rã dần thành những đám nhỏ,
tản ra trên đường về, mệt mỏi vì những vui mừng,
khích động trong ngày.
Vài ngày sau, Yamaguchi lại xin gặp tôi. Ông
ta cho biết là chú tôi đã từ Singapore trở
về. Vua Bảo Đại đã mời ông chú tôi đứng ra
lập chính phủ mới.
5. Cách Mạng
Tháng 8
Hoàng
Đế
Bảo
Đại
là
ông vua cuối cùng của triều Nguyễn.
Ông là ông vua trị vì dưới thời Pháp
thuộc, nhưng trên thực tế vai trò của ông chẳng qua
chỉ là một vai trò nghi lễ. Kể từ năm 1932, ông chỉ
nắm quyền hành trên giấy tờ mà thôi. Con
người của ông rất phức tạp. Vừa thông minh, tinh tế lại
vừa
thụ động, ham săn bắn, mê đánh bài và
thích gần gũi đàn bà. Mặc dù đã cảm
thấy rõ ràng trách nhiệm của mình đối với
nền độc lập Việt Nam, ông vẫn chỉ tranh đấu bằng một
thái
độ thật nhu nhược và bất nhất. Từ khi lên ngôi,
ông Bảo Đại đã nhiều lần thúc đẩy Pháp cải
cách để tiến đến một chánh quyền quốc gia. Tuy vậy
ông vẫn luôn trùng trình và
không đủ can đảm giữ vững lập trường của mình.
Hiện thời, vì Nhật đốc thúc, ông
đã tuyên bố Việt Nam hoàn toàn độc lập
và đang xoay sở để tiến hành việc tạo dựng một
chánh phủ quốc gia. Mọi người đều ngạc nhiên khi ông
Bảo Đại cử học giả Trần Trọng Kim ra làm thủ tướng. Sự
ngạc
nhiên chính là vì ông đã bỏ qua
một chính trị gia thực tiễn khác đã sát
cánh với người Nhật từ nhiều năm về trước là ông
Ngô Đình Diệm, người sau này là tổng thống
đầu tiên của nền Đệ Nhất Cộng Hòa. Lúc này,
đa số những người hiểu rõ tình hình đều cho rằng
nếu Nhật đảo chánh Pháp chắc chắn ông Diệm sẽ
là người đứng ra nắm chánh quyền. Chẳng một ai nghi ngờ
gì về chuyện ông Diệm đang nóng lòng chờ đợi
biến cố đảo chánh của Nhật. Tuy vậy, vì lý do
riêng Nhật đã quyết định gạt bỏ ông Diệm.
Biến chuyển Bảo Đại đề cử cụ Trần Trọng Kim
đến vừa
lúc các đảng phái quốc gia đang sửa soạn mở cuộc
tranh quyền ồ ạt. Việt Minh đã củng cố được những căn cứ
du
kích ở Việt Bắc. Ông Trương Tử Anh đã thiết lập căn
cứ ở Bắc Giang và Thanh Hóa. Khi tin tức về việc đề cử
được truyền ra, tôi đã nhận được lệnh trình diện ở
căn cứ Thanh Hóa, nhưng lúc này ông Trương
Tử Anh lại có lệnh muốn tôi đến Huế, nơi chính
quyền của ông chú tôi sắp được thiết lập. Ở Huế
tôi vừa phải theo dõi chánh quyền mới, lại vừa phải
đứng ra làm đường dây liên lạc giữa ông
chú tôi và ông Trương Tử Anh.
Tự nhiên thế giới của tôi trở nên lớn rộng.
Mới đây tôi chỉ là một sinh viên ngành
toán, có hoạt động chính trị nhưng chắc chắn
không phải là một trong những nhân vật quan trọng.
Bỗng nhiên giờ đây tôi trở thành một yếu
nhân của chánh quyền Việt Nam với một công
tác rõ rệt. Tôi tự hỏi, chẳng hiểu đây
là sự thật? Hay sự thật chỉ là hình ảnh một
Bùi Diễm thúc thủ đang hiện diện ở đâu đây để
mỉm cười vì sự thay đổi chính trị "Lên Ông"
này? Chính cảm giác này rồi đây
còn đến với tôi qua rất nhiều lần khác về sau.
Cuộc viễn du xuống Huế thật là sởn tóc
gáy: Ba ngày, có lẽ đúng hơn là ba
đêm, lóc cóc qua những con lộ nhỏ hẹp trên
chiếc xe buýt chạy than cũ kỹ như cái bẫy chuột.
Lúc này Đệ Nhị Thế Chiến còn đang tiếp diễn,
và những căn cứ của Nhật ở Việt Nam vẫn bị đồng minh dội
bom
nên oanh tạc cơ của Hoa Kỳ đã biến đại lộ dẫn đến Huế
thành một tử lộ trong lúc ban ngày. Bởi thế
chúng tôi chỉ đi được từ hoàng hôn cho tới
khi rạng đông. Tôi không hiểu là đi đêm
trên một chiếc xe như vậy thì có gì
khác biệt với những nguy hiểm ban ngày khi Mỹ dội bom?
Tuy vậy, trái hẳn với sự dự liệu của tôi, sau ba
ngày chiếc xe cọc cạch đến Huế an toàn. Xe vượt qua
giòng sông Hương yêu kiều rồi cho chúng
tôi xuống ở một trạm xe buýt tỉnh lị.
Trạm xe buýt không phải là chỗ độc nhất
có vẻ tỉnh lị ở Huế. So sánh với Hà Nội,
thành phố Huế có vẻ yên lặng, u trầm. Những đền
đài lăng tẩm tao nhã của thế kỷ 19 bao quanh không
khí tĩnh mịch của Huế, nơi hoàng đế thiết triều.
Đây cũng là nơi thực dân dựng những dinh thự uy nghi
dành riêng cho những nhân vật cao cấp. Những dinh
thự này giờ là nơi cư ngụ của chánh quyền mới.
Quẳng gói lên vai tôi bước về mé
cầu Tràng Tiền tìm đường tới nơi cư ngụ. Vừa đi đầu
tôi vừa vang lên âm hưởng của hai chữ Độc Lập. Tổ
quốc đã thật sự tự do. -Ít ra lúc đó
tôi tin là vậy. Tôi đang ở đúng vào
nơi chánh quyền mới có được tự do suốt từ hồi năm 1884
cho đến nay. Khi đến nơi, tôi hãnh diện nói
cùng hai người gác cửa: "Tôi là Bùi
Diễm, cháu Thủ Tướng, xin phép được gặp Thủ Tướng." Nghe
xong một người chạy vào thông báo rồi lại trở ra
ngay dẫn lối cho tôi.
Bước vào phía trong tôi sững sờ vì
vẻ đẹp trước mắt. Những hàng hiên dài trang
trí tao nhã, những bậc tam cấp bóng loáng,
những trần nhà trạm trỗ. Tôi đang ngỡ ngàng
vì vẻ xa hoa diễm lệ thì ông chú tôi
đã đến sau lưng nhỏ nhẻ: "Đấy Diễm, cháu hãy xem
kỹ đi để hiểu vì sao Pháp lúc nào cũng cố
bám vào thuộc địa Việt Nam."
Uống trà xong, ông chú tôi ngỏ
ý mời tôi ở lại. Tôi cũng chẳng lấy gì
làm ngạc nhiên. Từ trước tới nay, ông vẫn
thích nói chuyện với tôi và lúc
nào ông cũng coi tôi là một đứa cháu
cưng. Thỉnh thoảng tôi vẫn ở chơi nhà ông
ngoài Hà Nội. Hơn nữa, tôi biết rằng vì hiếm
muộn con trai, vợ chồng ông vẫn coi tôi như con ruột.
Vì thế, tôi thay đổi quần áo, sửa soạn ở luôn
trong dinh thự.
Sau khi mọi chuyện lặt vặt đã hoàn toàn
ổn định, cụ Kim kể về chuyện đề cử. Chuyện cũng đã làm
cụ
ngạc nhiên không kém gì những người
khác. Liền ngay trước khi lật đổ Pháp, Nhật đã
mang cụ Kim từ Singapore về Sài Gòn. Tại Sài
Gòn, Nhật giữ cụ ở một căn nhà riêng chờ đợi biến
chuyển. Ông Ngô Đình Diệm cũng ở Sài
Gòn vào thời gian này và cũng liên
lạc thường xuyên với người Nhật trong niềm hy vọng rằng
biến
chuyển sẽ đưa thời cơ đến với ông.
Ngày nọ bỗng một người Nhật mời cụ Kim đến
nói
chuyện với Ban Tham Mưu của họ tại văn phòng trung ương.
Khi đến
nơi họ bảo rằng vua Bảo Đại yêu cầu được gặp cụ Kim và
cụ
Kim nên về Huế càng sớm càng tốt. Họ chẳng hề đề
cập bất cứ điều gì có liên quan đến chánh
quyền mới và chỉ nói vắn tắt với cụ Kim rằng Bảo Đại
yêu cầu được gặp. Khi tin được chuyển xong thì cụ Kim ra
về, suy nghĩ xem xét về lời nhắn. Lúc bước qua
hành lang, cụ Kim thình lình gặp ông Diệm,
một chính khách đang nôn nóng đợi chờ những
tin tức của Nhật. Thấy cụ Kim từ văn phòng bước ra, ông
Diệm chạy vội lại hỏi thăm ngay: "Có tin gì không?
Có tin gì không?" Chính ông Diệm cũng
chẳng biết gì hơn cụ Kim.
Trưa hôm sau cụ Kim đến Huế, lắng nghe lời
ông
Bảo Đại mời cụ ra giữ chức thủ tướng và thiết lập chánh
phủ. Nghe xong cụ Kim hỏi ngay. "Tại sao ngài lại chọn
tôi
mà không chọn ông Ngô Đình Diệm?"
ông Bảo Đại trả lời rằng: "Là vì tôi
đã cố liên lạc với ông Diệm gần hơn tuần nay, nhưng
người Nhật nói với tôi rằng họ không biết ông
ta ở đâu. Hiển nhiên là ông Diệm đang trốn
tránh và tôi chẳng thể chờ lâu hơn được."
Câu chuyện theo cụ Kim kể thì quả là Nhật
đã giữ cả hai, cả cụ Kim lẫn ông Diệm trong suốt thời
gian
họ tìm hiểu tình hình, để tiện việc khi cần. Dẫu
rằng ở vào lúc tuổi hãy còn nhỏ như thời
đó, tôi đã khâm phục những cách họ vận
động khéo léo để lợi dụng cả chánh quyền thực
dân Pháp lẫn chánh quyền Việt Nam. Tôi cũng
chẳng hiểu tại sao, nhưng rõ rệt là Nhật cho rằng
tình thế Việt Nam lúc này phải cần một học giả
trầm lặng như ông chú tôi làm thủ tướng hơn
là một chánh trị gia có nhiều ý chí
như ông Ngô Đình Diệm. Kết quả là cụ Trần
Trọng Kim đang ở dinh thự Huế trong khi ông Diệm vẫn ở
Sài
Gòn, hoàn toàn mù tịt về tình
hình chính trị.
Cụ Kim vẫn còn bị những khuynh hướng tổ chức
theo lối
cổ ngày xưa ảnh hưởng rất nhiều. Khi tìm người ra phục
vụ, cụ đã mời những người vừa xuất sắc về học vấn, vừa
chánh trực thanh liêm về cùng làm việc. Cụ
coi đây là những đức tính tiên quyết, bắt
buộc phải có ở những người phục vụ đất nước. Khi nhìn
lại
bằng con mắt hiện thời thì quả thật lúc loạn ly bấy giờ
chưa chắc đã phải là lúc của những đức tính
như vậy.
Khuynh hướng chính trị của cụ Kim phản ảnh rõ
rệt qua cách cụ mời những nhân viên vào
chánh phủ. Tất cả những người cụ mời đều là những phần
tử
ưu tú nhất. Họ là những tinh hoa của xã hội Việt
Nam. Trong số Bộ Trưởng, có vài người là
giáo sư cũ của tôi. Chẳng hạn như Bộ Trưởng Bộ Giáo
Dục Hoàng Xuân Hãn là thày dạy
tôi toán. Bộ Trưởng Bộ Thanh Niên Phan Anh là
thày dạy tôi văn chương Pháp. Vì
chánh quyền vừa được thiết lập nên các Bộ Trưởng
cùng gia đình đều cùng ở trong dinh thự và
đang cố gắng tìm nơi trú ngụ. Mọi người cùng sống
chung với nhau tạo ra một bầu không khí lẫn lộn nửa đại
gia đình, nửa khuôn viên đại học.
Khi ăn tối, tất cả tề tụ quanh chiếc bàn lớn
ở
phòng ăn, chuyện chính trị bàn cãi
sôi nổi. Tuy thế, hầu hết các nhân viên trong
cả chánh phủ đều thiếu kinh nghiệm chính trị thực tiễn.
Khi giải quyết các vấn đề chính trị, họ thường giải
quyết
dựa vào các quan niệm lý thuyết. Họ sẵn
sàng tán thành các giải pháp được đề
ra, miễn là những giải pháp đó có vẻ hợp
luận lý. Các nhân viên chánh phủ
lúc này thường cho rằng một khi họ đã suy nghĩ
thấu đáo vấn đề thì mọi việc còn lại đều
tùy thuộc vào những sắc lệnh của chánh phủ đưa ra.
Họ nghĩ là chỉ cần ra lệnh là lệnh của họ sẽ tự
nhiên hoàn thành. Tuy phần đông các
nhân viên trong chánh phủ đều giải quyết các
khó khăn dựa trên những quan niệm lý thuyết, chẳng
một ai trong họ là bù nhìn. Mặc dầu quyền lực đang
thực sự trong tay Nhật, họ chưa hề suy nghĩ đến bất cứ
điều gì
vi phạm đến bổn phận hoặc lương tâm.
Nhưng tuy không hề nghe lệnh, họ cũng chẳng
hề biết
rõ thấu đáo tình hình chính trị
và quân sự đang gây sóng gió chung
quanh. Chẳng hạn như việc chánh phủ không có lấy
một đại biểu ở Hà Nội. Chính phủ phải nhờ vào điện
tín để liên lạc. Họ chẳng biết tí gì về
người Mỹ, trong khi đó thì ông Hồ đang cố hết sức
dụ dỗ Hoa Kỳ. Theo tôi nhớ thì hình như các
Bộ Trưởng chưa bao giờ nói gì đến chuyện ông Hồ
Chí Minh hoặc Việt Minh. Có lẽ họ đang sống trong một
khoảng trống. Hoặc có lẽ vì theo khuôn mẫu của
các triều đình cũ khi trước, họ đã tự cho
mình là trung tâm của vũ trụ và vạn vật đều
quay quanh họ.
Ngay cả đến người Nhật, mà tôi nghĩ là họ
phải hiểu hơn cả, họ cũng chẳng biết rõ ý định của người
Nhật. Dường như họ cũng chẳng lo lắng mấy về vấn đề
người Nhật sắp sửa
thất bại. Tôi còn nhớ vào một buổi tối có
cuộc bàn cãi sôi động về vấn đề Nam Bộ. Lúc
đó Nam Bộ còn được gọi là CochinChine. Người Nhật
lúc này đang chống đối việc trả lại chủ quyền cho Việt
Nam. Trong khi bàn luận tìm cách lấy lại Nam Bộ,
ông chú tôi cho biết cụ đã thảo luận vấn đề
này với đại sứ Nhật là ông Yokahama. Ông
chú tôi cho biết đại sứ Yokahama đã hứa sẽ xin chỉ
thị của chánh phủ Nhật và hứa "sẽ hết mình." Như
vậy vấn đề tạm coi là được giải quyết. Trong khi đại sứ
Nhật
đang "cố hết mình" thì chánh phủ Việt Nam
lúc này cho rằng chẳng còn việc gì cần
làm thêm nữa.
Đây là lần đầu tiên cụ Kim và
các Bộ Trưởng mới bắt tay vào việc thiết lập chánh
phủ. Vì không có những khuôn mẫu kinh nghiệm
để noi theo họ đã phải tự tổ chức các cơ quan quân
sự quốc gia, tự cải tổ giáo dục và tự thiết lập gần như
toàn bộ các cơ quan cần thiết cho một chánh phủ
mới. Họ cố nhận định lần hồi những khó khăn chính
và cố tìm cách giải tỏa. Họ cho rằng sự hiện diện
của họ trong chánh quyền là vì bổn phận. Họ sẵn
sàng từ bỏ mọi sự khi có lý do chánh
đáng.
Tôi ở Huế khoảng 2 tháng, quan sát
các Bộ Trưởng, nghe họ kể chuyện và đi tham quan
thành phố cho tới khi tôi hoàn toàn quen
thuộc với tất cả những di tích lịch sử. Và sau khi
đã xem hết những cảnh ở Huế thì tự dưng tôi lại
thấy nhớ Hà Nội. May thay, ông chú tôi lại
vừa đề cử một đại biểu đại diện cho chính phủ ở Hà Nội.
(Người đại diện là Khâm sai Phan Kế Toại, một vị quan
già mà cả ông thân và ông
chú tôi đều biết.) Tôi mừng không thể tả khi
ông Toại ngỏ lời mời tôi cùng về Hà Nội.
Tôi sẽ là người liên lạc bán chánh
thức giữa vị đại biểu mới của Hà Nội và chánh phủ.
Tôi đã biết rõ công việc của một
người đưa tin chẳng lấy gì làm nặng nhọc. Tôi
đã từng làm người đưa tin riêng cho ông
Trương Tử Anh và ông chú tôi suốt 2
tháng mà chưa từng đưa tin gì cho cả hai
bên. Tuy vậy tôi cần có lý do để về Hà
Nội. Lý do này hoàn toàn tốt đẹp.
Ngược hẳn với Huế, Hà Nội vào cuối tháng
7 năm 1945 đang xôn xao, vì cả tin tức, tin đồn lẫn
những
vận động ngầm. Một điều ai cũng rõ là ngày
tàn của đế quốc Nhật đã gần kề. Trong khi ông
chú tôi nghĩ rằng còn có nhiều thời giờ để
thiết lập chính quyền và xếp đặt mọi việc đàng
hoàng với Nhật thì những người khác đang cố củng
cố một chỗ đứng vững vàng để có thể mưu mô sửa soạn
trước cho giai đoạn sắp tới.
Về đến Hà Nội, tôi liên lạc ngay với
ông Trương Tử Anh. Ông Anh bảo rằng lực lượng Đại Việt
đã thiết lập căn cứ hoàn toàn vững chắc, nhưng
thay vì đến một trong những nơi căn cứ, tôi nên ở
lại với ông tại Hà Nội. Ông cho rằng tại Hà
Nội tôi có thể làm các công tác
chính trị hữu hiệu hơn.
Càng gần ông Trương Tử Anh tôi lại
càng khâm phục tài tháo vát của
ông. Điều kỳ bí về ông Trương Tử Anh là chẳng
một ai biết chính xác ông quê quán từ
đâu hoặc quá khứ ra sao, nhưng ông có vẻ
là người có bản lãnh. Phía sau những cung
cách trầm tĩnh và nghiêm nghị bề ngoài,
ông Trương Tử Anh là một người vừa thông minh lại
vừa có lòng tin vô biên vào khả năng
của mình trong việc xây dựng tương lai cho đất nước.
Vào tháng 7, ông Anh lại gửi tôi về
nhà ông chú tôi ở Huế. Nhiệm vụ của tôi
là phải trình bày để ông chú
tôi rõ là ông phải tin vào sự hậu
thuẫn của Đại Việt nếu có chuyện gì trục trặc. Vì
vậy tôi lại vượt nguy hiểm trở về Hà Nội bằng đường lộ
dọc
ven biển vào ban đêm. Nếu so với chuyến đi lần trước,
khi
tôi đến Huế lần đầu thì lúc này Mỹ dội bom
thường xuyên hơn. Mới đây Bộ Trưởng Y Tế trong chánh
phủ đã tử nạn trên đường vào Hà Nội.
Ở Huế tình hình đã thay đổi rất nhiều.
Tôi có nói chuyện với ông chú
tôi về những lời dặn dò của ông Trương Tử Anh, nhưng
hình như tâm tư của ông hãy còn ở
những vấn đề nào khác. Theo tôi thấy thì
có lẽ ông không màng gì đến chuyện
tranh chấp quyền lực trong tương lai. Ngược lại, ông đã
nghe về Việt Minh và đang tự hỏi xem thật sự họ có phải
là nhóm người lãnh đạo hữu hiệu nhất cho quốc gia
vào những ngày khó khăn sắp tới hay không?
Ông bảo tôi rằng hình như đảng Việt Minh đã
được Hoa Kỳ ủng hộ. "Nếu đúng như vậy thật," ông
nói tiếp "thì ta vui lòng nhượng quyền cho họ."
Lẽ tất nhiên là ông chú tôi
đã nghe được những lời tuyên truyền của Việt Minh về
những
liên hệ giữa họ và Hoa Kỳ. Ông Hồ đang lợi dụng sự
liên lạc giữa ông và một đội nhân viên
của Văn Phòng Hoạt Vụ Chiến Lược (tiền thân của Cục
Tình Báo Trung Ương Hoa Kỳ) đã nhảy dù
xuống khu vực của Việt Minh vào tháng trước đây, để
thuyết phục cả bạn lẫn thù rằng ông đã được Hoa Kỳ
hậu thuẫn. Rõ ràng là Hoa Kỳ đã có
một tiếng nói rộng lớn ảnh hưởng đến tương lai Việt Nam.
Không phải chỉ riêng ông chú tôi
mà gần như tất cả các lãnh tụ khác cũng đều
tin rằng bất kỳ nhân vật nào được Hoa Kỳ hậu thuẫn cũng
sẽ
là người tốt nhất nên đứng vào cương vị hướng dẫn
quốc gia sau thời loạn lạc. Tuy các lãnh tụ khác
không hẳn cùng có tư tưởng Khổng giáo như
ông chú tôi nhưng vẫn cho rằng tất cả đều
cùng đặt quyền lợi quốc gia lên trên tất cả
vì dẫu sao họ cũng là người Việt.
Vào ngày mùng 6 tháng 8 năm 1945,
tôi vẫn ở Huế khi Hoa Kỳ dội quả bom nguyên tử đầu
tiên ở Hiroshima và ba ngày sau, một trái
khác ở Nagasaki. Tin tức tường thuật cho biết hàng trăm
ngàn người chết ngay tại trận. Một tuần sau thì có
tin Nhật đầu hàng đồng minh. Ở Huế tình hình chẳng
những đã cực kỳ sôi sục, mà còn rối ren
mù mịt. Vì chưa sửa soạn kỹ lưỡng để nắm quyền, khi định
mệnh xô ngã Nhật, chánh quyền của ông
chú tôi hoàn toàn bỡ ngỡ, không biết
phải hành động ra sao. Ngược lại, ông Hồ Chí Minh
vào lúc đó đã có chủ trương
rõ rệt trong vấn đề tiến lên nắm lấy chính quyền.
Chỉ trong vòng vài ngày, cụ Kim đã phải
đương đầu với cái mà, theo như sự lấp liếm khéo
léo của Việt Minh thì là "một sự đã rồi."
Khi Nhật đã hoàn toàn đầu hàng,
Hà Nội trở nên ồn ào vì biểu tình
và hội họp của các đám đông do Việt Minh tổ
chức. Mọi người đều đổ về thủ đô từ những vùng lân
cận, kéo về để hoan hô độc lập. Trong tình cảnh
Nhật chẳng đang rối ren, Pháp đang vắng mặt và chưa
có sự hiện diện của quân đồng minh, Hà Nội thực sự
là một khoảng trống chính trị. Khâm sai Phan Kế
Toại, đại biểu cho chánh quyền Trần Trọng Kim đã
nhìn đám đông với đôi mắt ơ hờ rồi nghe theo
lời con trai là một người vốn đã theo Việt Minh từ trước
tuyên bố từ chức. Lúc này những tiểu tổ của Đại
Việt và Việt Nam Quốc Dân Đảng vẫn còn thiếu tổ
chức, không đủ sức chống lại những đội tuyên truyền được
vũ
trang, những Hội Đồng Cách Mạng và hàng trăm
cán bộ chính trị mà Việt Minh đưa ra để tranh thủ
cảm tình của dân chúng.
Ngày 17 tháng 8, một đám đông tụ
tập tại Nhà Hát Lớn Hà Nội để cổ võ
chánh quyền Trần Trọng Kim. Nhưng những người tổ chức
biểu
tình hoàn toàn bất lực khi các đội vũ trang
của Việt Minh đứng ra chiếm lấy diễn đàn. Những toán vũ
trang đã tung cờ Việt Minh, hô hào đả đảo
"chánh phủ bù nhìn" và đồng thời kêu
gọi mọi người đứng lên "chống lại các lực lượng
Phát-Xít." Vào ngày 18, Việt Minh mang
thêm đảng viên vào thành phố. Khi chẳng
còn ai chống đối Việt Minh phát động chiến dịch
tuyên truyền tối đa để kêu gọi dân chúng.
Các đảng viên Việt Minh cố hướng dẫn, lợi dụng triệt để
những cảm tình phát xuất từ nhiệt tâm của
toàn dân. Giữa tiếng reo hò khắp các nẻo
đường, những người đọc diễn văn tuyên bố chính phủ Trần
Trọng Kim là những người nối giáo. Họ kêu gọi
liên tục rằng chính Việt Minh mới là đại biểu
chân chính của quốc gia đã giành lại được
chính quyền từ tay quân Phát-Xít Nhật, chỉ
có chánh quyền Việt Minh mới được Hoa Kỳ ủng hộ.
Tình hình căng thẳng gần đến độ nổ tung. Vào
ngày 19, đám đông tụ họp tại công trường Ba
Đình, rồi diễn hành đến chỗ cư ngụ của các
công chức chánh phủ gần chỗ Phủ Đại Biểu, nơi làm
việc của đại biểu cũ giờ đã từ chức. Chiều đó, Nhật
đã hứa không can thiệp và những người lính
tự vệ thành đã được lệnh giải tán. Lúc
này lại có tin rằng ông Bảo Đại đã nhận được
điện tín yêu cầu thoái vị.
Vào ngày 19, cụ Trần Trọng Kim từ chức thủ
tướng. Mới đầu, khi nghe tin các biến cố ở Hà Nội, cụ
Kim
có cảm giác vui buồn lẫn lộn. Cụ buồn vì
tình trạng của mình sau cuộc đảo chánh của Việt
Minh, nhất là khi cụ đã vui lòng giao lại
chính quyền trong một khuôn khổ hợp pháp, thứ tự.
Tuy vậy, cụ không muốn làm điều gì hại đến sự
giúp đỡ của Hoa Kỳ đối với Việt Nam, và ông tin
rằng Việt Minh thật sự được Hoa Kỳ ủng hộ. Cụ không hề
biết
tí gì về những hoạch định áp đặt ý thức hệ
cách mạng lớn lao của Việt Minh. Điều cụ không biết cũng
là điều mà hầu hết những người Việt Nam diễn hành
dưới lá cờ Việt Nam qua đường phố Hà Nội cũng chẳng hề
hay biết.
Tuy thế sau khi cụ Kim đã quyết định thì tất
cả
những cảm giác vui buồn lẫn lộn đều hoàn toàn biến
mất. Cụ đã nói với tôi rằng: "Giờ chú
hoàn toàn vui mừng như xưa, sẽ có người
khác phải gánh trách nhiệm. Thật là nhẹ
nhàng vô cùng. Giờ ta lên đường."
Vài ngày sau ông chú tôi
cùng một số Bộ Trưởng khác cùng về một làng
đánh cá nhỏ ở Vĩ Dạ để xem xét tình
hình. Tôi cũng đi cùng. Lúc này,
quyền hạn chánh phủ đã bị hủy bỏ hoàn toàn.
Ngoài Đại Việt và Việt Nam Quốc Dân Đảng, chẳng
còn thế lực nào khác có thể đương đầu với
đảng Việt Minh của ông Hồ Chí Minh.
Ngày 21 tháng 8, tại Hà Nội, từng loạt
hội thảo do Việt Minh cầm đầu đưa ra những giải pháp đòi
hỏi ông Bảo Đại phải thoái vị. Lời đòi hỏi quan
trọng nhất đến từ Tổng Hội Sinh Viên lúc này đang
chịu nhiều ảnh hưởng của những phần tử thân Việt Minh.
Một phần
là vì muốn đặt lợi ích của toàn thể quốc
dân lên trên hết, và một phần khác cũng
là vì chẳng còn cách nào khác
hơn, Bảo Đại đánh điện trả lời rằng ông đang sửa soạn từ
chức. Vào ngày 26 tháng 8, khi một phái
đoàn Việt Minh đã đến Huế thì Bảo Đại chánh
thức từ chức nơi điện vua ngay giữa cố đô. Ông tuyên
bố rằng: "Thà làm dân một nước tự do còn hơn
làm vua một nước nô lệ."
Ba ngày sau chánh phủ lâm thời của Việt
Nam Dân Chủ Cộng Hoà ra đời. Thành phần
chánh phủ lâm thời bao gồm nhiều cán bộ nòng
cốt của Việt Minh, nhiều Bộ Trưởng có quá khứ Cộng Sản
chưa lộ rõ và một số các đảng viên của những
đảng khác. Hiển nhiên lúc này các
lãnh tụ Việt Minh đang cố lợi dụng cảm xúc của
toàn dân trong ngày thống nhất, nhưng những hoạt
động của họ ở Vĩ Dạ vẫn khiến tôi cảm thấy khó chịu
vô cùng. Tất cả làng xóm lúc bấy giờ
đều được Ủy Ban Nhân Dân dẫn dắt. Ủy Ban Nhân
Dân đốc thúc hội họp liên miên và
đánh trống kêu gọi mọi người giúp đỡ chánh
quyền mới. Tôi cảm thấy khó chịu vì giọng kêu
gọi có vẻ bắt buộc và những cuộc biểu tình thường
có tính cách lợi dụng tình cảm của người
trong làng. Vào ngày 2 tháng 9, ông
Hồ đọc bản Tuyên Ngôn Độc Lập tại Hà Nội. Tuy
có đến xem dân làng tụ họp, ca hát,
tôi chẳng hề có cảm tình nồng nàn đối với
chánh phủ lâm thời cùng những Ủy Ban Nhân
Dân do chánh phủ lâm thời đề ra. Lúc
này tôi bỗng cảm thấy rằng dường như cơ hội ngàn
năm đã thực sự vuột mất và cũng ngay trong lúc
này tôi đã mơ hồ cảm thấy có điềm gì
đen tối đang giăng mắc trên không.
6. Anh, Tàu, và
Pháp
Vài ngày sau ông chú tôi cho
phép tôi về Hà Nội. Lúc tôi đến nơi
thì tình hình chính trị đã biến
thành rắc rối, phức tạp. Mặc dầu thế chiến thứ II đã
chấm
dứt, lúc này vẫn còn một lực lượng quân đội
Nhật rất hùng hậu đóng ở Việt Nam. Quân đội đồng
minh đã chỉ định Anh Quốc đứng ra tước vũ khí Nhật
và giữ gìn an ninh công cộng ở Miền Nam Việt Nam. Ở
Miền Bắc những công việc giải giới tương tự được giao
cho Trung
Hoa.
Đối với tôi và các đảng viên khác
trong đảng Đại Việt thì đây chính là
lúc củng cố, tổ chức, dự đoán và sửa soạn cho một
tương lai mà ai cũng phải thấy là đầy sóng
gió. Các đảng phái quốc gia thấy rằng họ phải đề
ra một chiến lược chung, để đối phó với chiến lược của
Việt
Minh. Lúc này Việt Minh đã biết vận động
khéo léo để nắm chính quyền. Nhưng ngay trước khi
các buổi thảo luận bắt đầu thì có tin đồn
là quân Anh đã cho phép một đạo quân
Pháp đổ bộ vào Sài Gòn. Khoảng giữa
tháng 9 đã có những trận đụng độ xảy ra giữa
Pháp và Việt Nam. Pháp đã đụng độ với cả
Việt Minh lẫn các đảng phái Quốc Gia. Trong khi đó
thì quân Trung Hoa sắp kéo sang Hà Nội.
Tình hình phức tạp của thế giới sau thế chiến thứ hai
đã khiến các đảng phái quốc gia ở vào thế
tấn thối lưỡng nan. Lúc này quân đội đồng minh bao
gồm Hoa Kỳ, Anh Quốc và Pháp đã đánh bại
quân đội Phát Xít của Đức, Ý và Nhật.
Họ đang cử những quốc gia khác chẳng hạn như Trung Hoa
sang Việt
Nam để giải giới quân đội Nhật. Vì Pháp là
đồng minh của Anh và Hoa Kỳ trong thế chiến thứ II nên
các phần tử quốc gia ở Việt Nam sợ rằng Hoa Kỳ và Anh sẽ
ủng hộ hoặc nhắm mắt làm lơ cho chính quyền thực
dân của Pháp được tự do hoạt động ở Việt Nam. Tuy thế,
khi
có tin rằng quân đội Tàu sẽ sang Việt Nam để giải
giới quân đội Nhật thì các phần tử quốc gia lại lo
rằng Tàu sẽ lợi dụng cơ hội này để đem quân sang
chiếm đóng ở Việt Nam. Đó là còn chưa
nói đến vấn đề các đảng phái quốc gia cần phải đề
phòng Việt Minh.
Chỉ mới sau hai tuần nắm chánh quyền, Việt Minh đã phải
động viên kêu gọi tất cả cùng giúp đỡ. Trong
hoàn cảnh lãnh đạo chưa hoàn toàn vững
chãi và đồng thời bắt buộc phải đương đầu với Nhật,
Tàu, Pháp và Anh Quốc, ông Hồ Chí
Minh đã nỗ lực kêu gọi tất cả các đồng minh
và cố giữ lòng dân ở một mức độ cực cao. Những cuộc
hội họp chống đối làm đường phố Hà Nội sôi sục.
Đã đành rằng biểu tình chống Pháp là
một cách để phát tiết những căm hờn sâu xa, nhưng
ông Hồ đã cố khích động dân chúng dưới
mọi hình thức. Những vận động của ông Hồ bất chấp cả mục
tiêu, chỉ cốt sao tạo được cơ hội vận động dân chúng
cùng đoàn kết cho một lý tưởng chung. Đã
có cả một cuộc biểu tình chống lại lãnh tụ độc
tài Francisco Franco của Tây Ban Nha, mặc dầu trong cả
trăm ngàn người Việt chưa chắc đã có lấy một người
nghe đến tên nhân vật này bao giờ.
Trong khi tất cả Pháp, Trung Hoa, Nhật và Anh Quốc đều
bị
Việt Nam nghi ngờ thì chỉ có một quốc gia được hoan
nghênh là Hoa Kỳ. Cảm tình nồng nhiệt của dân
chúng Việt Nam đối với người Hoa Kỳ lúc này
phát xuất là do một tia hy vọng mong manh rằng: May ra
người Mỹ có thể vãn hồi được tình thế. Kể từ
khoảng một năm về trước, mối cảm tình đầu tiên của Việt
Nam đối với Hoa Kỳ bắt đầu từ lúc có tin đồn rằng tổng
thống Roosevelt ủng hộ việc đặt Việt Nam dưới sự quản
trị của một ủy
ban của Liên Hiệp Quốc để tiến dần tới độc lập. Quan
niệm của
Tổng Thống Roosevelt truyền đi thật mau lẹ qua các tầng
lớp
trí thức, chính khách và để lại một ấn
tượng sâu xa.
Trong khi Pháp và Tàu đang tranh dành ảnh
hưởng ở Việt Nam, chỉ có Hoa Kỳ là một thế lực có
thể can thiệp. Sau Đệ Nhị Thế Chiến, Hoa Kỳ đã xuất hiện
như một
cường quốc giàu mạnh, được thế giới xem là một nước
yêu chuộng tự do và không ủng hộ chế độ thực
dân. Chúng tôi không hiểu tại sao Hoa Kỳ lại
để cho Pháp và Tàu vào Việt Nam. Nhưng
chính Hoa Kỳ lại cũng có đại biểu riêng của họ ở
Việt Nam. Vì vậy sự hiện diện của họ đã mang lại niềm hy
vọng lớn lao là Hoa Kỳ có chú ý đến vấn đề
Việt Nam. Và một khi họ đã để ý đến vấn đề
thì họ có thể bị lôi kéo vào cuộc.
Tuy đây quả là một nguồn hy vọng vô căn cứ nhưng tin
đồn lúc này vẫn có đủ vẻ thực tế để thu hút
những kẻ đang cố bám vào hy vọng. Quả tình
chính tôi cũng không hiểu rõ liệu ông
Hồ và những đồng chí của ông có thật sự cho
rằng họ có thể cộng tác với Mỹ hay không, nhưng
chắc chắn là lúc đó ông Hồ rất muốn cộng
tác với Mỹ thay vì với Tàu hoặc Pháp. Vả
chăng, nếu Việt Minh không thể cộng tác với Hoa Kỳ
thì ít ra ông Hồ cũng có thể dùng sự
hiện diện của Mỹ để gây uy tín trong nước. Lẽ tất
nhiên là cơ quan tuyên truyền của Việt Minh
đã lợi dụng tối đa tất cả những thiện cảm phái
đoàn Mỹ dành cho họ. Hai vị sĩ quan Mỹ được nhiều người
biết đến là Thiếu Tá Archimedes Patti và Tướng
Phillip Gallagher lúc này chẳng những đã được
toàn thể dân chúng Hà Nội ngưỡng mộ
mà còn được chánh quyền ông Hồ tâng
bốc không tiếc lời. Oái ăm thay, trong một thành
phố đầy dẫy những bích chương và khẩu hiệu chống đế
quốc,
hình ảnh chiếc xe díp của Thiếu Tá Patti cắm ngọn
cờ Mỹ thường xuyên được những đám người ngưỡng mộ hoan
hô. Dân chúng Hà Nội chỉ muốn gặp và
chiêm ngưỡng hai vị đại biểu Hoa Kỳ.
Những cán bộ tuyên truyền cho Việt Minh lúc
đó tuyên truyền rằng ông Hồ và Võ
Nguyên Giáp đang điều đình với người Mỹ, cốt để
được chánh phủ Mỹ chánh thức công nhận. Hội Hữu
Nghị Việt-Mỹ được thiết lập và nhiều buổi tiếp tân của
Hội
Hữu Nghị đã biến thành những dịp tung hô hai
ông Patti và Gallagher. Tôi vẫn còn nhớ những
lá cờ đỏ, trắng và xanh dùng làm màn
cho sảnh đường của Hội Hữu Nghị. Hy vọng tỏa ra qua các
buổi họp
chỉ nhờ sự hiện diện của hai vị sĩ quan Hoa Kỳ. Trong bộ
đồng phục cả
hai trông thật đẹp trai và lịch sự. Mọi người, trong số
có cả tôi đều nô nức đến bắt tay. Trong những buổi
họp luôn luôn có những cuộc đàm thoại
vây quanh vấn đề thiết lập một Ủy Ban Quản Trị cho Việt
Nam. Mặc
dầu cả Thiếu Tá Patti lẫn tướng Gallagher đều chẳng nói
gì thiết thực, chuyện đó vẫn không thành vấn
đề. Chỉ cần sự hiện diện của họ cũng đã đủ để mọi người
lên tinh thần.
Trong những ngày này, Việt Nam thật chẳng khác
nào một cô gái quê mùa bị những người
chủ gian ác, bất cần liên tục hà hiếp. Pháp,
Nhật và Tàu đều ngược đãi cô ta. Rồi trong
lúc đang đau khổ tuyệt vọng, bỗng một hoàng tử hào
hoa và đẹp trai hiện ra. Đối với Việt Nam thì Hoa Kỳ quả
là một tiếng sét ái tình.
Chẳng may, tình yêu này lại không bao giờ
được đền đáp. Mặc dù thiếu tá Patti rất ngưỡng mộ
các lãnh tụ Việt Minh, và mặc dầu những
lãnh tụ này cố khoa trương sự chú tâm của
Hoa Kỳ, rõ ràng sự móc nối với Hoa Kỳ vẫn
hoàn toàn chẳng đi đến đâu. Vì lý do
này hay lý do khác, Hoa Thịnh Đốn đã khoanh
tay nhất định không làm bất cứ điều gì có
thể thay đổi các biến cố đang ngày càng biến
hóa và phức tạp tại Việt Nam. Ông Hồ Chí
Minh và Võ Nguyên Giáp chỉ phải bận
tâm đương đầu với Tàu và Pháp, trong khi
đó các đảng phái còn lại phải lo âu
về những toan tính của cả Pháp, lẫn Tàu và
Việt Minh.
Vào cuối tháng 9, quân đội Trung Hoa kéo
vào Hà Nội. Trông họ thật là thê thảm
-bệnh hoạn, rách rưới và đói kém vì
thiếu ăn. Nếu quân Nhật trông gọn gàng, sạch sẽ bao
nhiêu thì quân đội Tàu trông
càng giống một đội quân ăn cắp bấy nhiêu. Lúc
nào những binh sĩ Tàu cũng sẵn sàng vồ vập kể từ
cả những thứ vặt vãnh nhất trở đi. Chẳng bao lâu sau,
đúng như mọi người tiên liệu, quân đội Tàu
ùa vào Việt Nam như thể một bầy châu chấu
đói và ăn cắp bất kỳ thứ gì để hở.
Quân Tàu đến ồ ạt, làm gia tăng nạn đói
đã hoành hành ở miền Bắc kể từ năm trước. Nạn Nhật
tịch thu lúa gạo cộng thêm với những vụ mất mùa
liên tiếp đã khiến nạn đói hoành hành
dữ dội ở những vùng đồng bằng Bắc Việt. Vào mùa
thu năm 1945, nạn đói trở thành trầm trọng. Ở Hà
Nội, nông dân từ những vùng mất mùa lang
thang khắp các nẻo đường phố. Xác người chết đói
nằm đầy dẫy hai bên vỉa hè và ở các
ngã tư. Tại Đông Dương Học Xá, chúng
tôi chia thành từng toán ra thành phố mỗi
sáng phụ giúp dọn dẹp những xác chết còn
sót lại từ ngày hôm trước.
Tuy hoành hành ở khắp mọi nơi khốc liệt là thế
mà nạn đói vẫn chẳng hề làm giảm bớt các
hoạt động chính trị chút nào. Mỗi ngày Việt
Minh vẫn dục trống kêu gọi hội họp vì chuyện này
hay chuyện khác. Khi ngân khố hoàn toàn kiệt
quệ, Việt Minh tổ chức chiến dịch Tuần Lễ Vàng, thúc dục
mọi người đóng góp nhẫn, đồ trang sức và
vàng cho nhà nước. Chỉ một thời gian ngắn ngay sau khi
Tuần Lễ Vàng phát động, ông Hồ Chí Minh
đã xoa dịu tướng Lư Hán của Tàu bằng cách
biếu vị tướng nghiện thuốc phiện này một bộ ống điếu
vàng. Số tiền còn lại Việt Minh dùng để mua
súng ống.
Song song với việc xoa dịu quân đội Trung Hoa, ông Hồ
tiếp
tục nỗ lực hô hào dân chúng giúp đỡ
Việt Minh. Đối với ông Hồ và Võ Nguyên
Giáp thì sinh viên đứng vào thành
phần ưu tiên. Cả hai đều dành thời giờ thăm viếng
Đông Dương Học Xá để vận động lấy lòng sinh
viên. Một buổi tối, khoảng đầu tháng 10-1945, tôi
gặp ông Võ Nguyên Giáp khi ông
vào khuôn viên nói chuyện về cách mạng
và các biến cố tháng tám. Vì
đã biết chuyện Việt Minh lật lọng đối với chính quyền
Trần Trọng Kim và còn nhớ những Ủy Ban Nhân
Dân ở thôn Vĩ Dạ, tôi không hề để tâm
lắng nghe. Mặc dầu vậy, tôi rất hân hoan khi gặp lại
ông Giáp. Sau khi ông Giáp đã
nói chuyện, tôi có đến chào hỏi.
Chúng tôi chưa hề gặp nhau đã năm năm qua kể từ
ngày ông Giáp bỏ lớp vào bưng.
Sau đó không bao lâu, chính ông Hồ lại
đích thân đến thăm Đông Dương Học Xá.
Đây là lần đầu mà cũng là lần cuối tôi
gặp ông Hồ. Cũng như ông Giáp, ông Hồ đến
Đông Dương Học Xá vì các sinh viên
đã không hoàn toàn ủng hộ việc Việt Minh
cướp chính quyền. Trong số người hoan nghênh ông Hồ
dĩ nhiên cũng có vài lãnh tụ sinh viên
vốn đã là đảng viên Việt Minh. Tuy vậy cũng
có rất nhiều sinh viên khác không tán
thành hẳn những chủ trương cùng hành động của
ông Hồ.
Khi ông Hồ đến thăm Đông Dương Học Xá thì
hành trình thăm viếng của ông có ghé
ngang nhiều tòa nhà, kể cả tòa nhà nội
trú. Một học sinh ở cùng một dãy hành lang
với tôi, tôi còn nhớ tên là Hoan,
là người không có cảm tình với đảng
phái ông Hồ, đã cố tâm làm nhục
ông Hồ. Tôi cứ nhớ mãi câu chuyện khó
quên. Khi ông Hồ vừa bước vào căn nội trú của
chúng tôi thì Hoan vào phòng tắm.
Và khi vị chủ tịch của nền dân chủ mới bước vào
hành lang thì cửa phòng tắm bỗng sịch mở. Hoan
đứng ngay chỗ cửa, người hoàn toàn trần truồng và
ướt nhẹp. Giả vờ vừa xấu hổ, vừa ngạc nhiên Hoan làm như
bối rối, xoay qua xoay lại, cố gắng vừa đắp điếm một
cách
thô kệch vừa xin lỗi.
Nhưng Hoan hoàn toàn thất bại. Ông Hồ nhìn
thẳng vào Hoan cười tủm tỉm: "Các chú thì
lúc nào cũng đùa cợt được!" Tôi cũng đứng
đó, chỉ cách ông Hồ vài bước, quan
sát thật kỹ lưỡng. Trước mắt tôi, ông Hồ, vị chủ
tịch của một nước không hề có vẻ giả dối chút
nào. Sau đó, ông đến tận từng phòng, tự giới
thiệu, bắt tay mọi người bằng cử chỉ thân mật quen
thuộc. Gặp ai
ông cũng có vài câu chuyện hỏi thăm. Chẳng
có chuyện nào đặc biệt hoặc đáng nhớ cả. Nhưng
tôi có cảm tưởng là ông là một người
đóng kịch có tài. Quả thực ông là một
chính trị gia và đặc biệt hôm ấy ông
đã đóng kịch rất giỏi.
Vào khoảng tháng 11, chẳng bao lâu sau khi
quân Tàu kéo đến, tôi từ giã bạn
bè ở Hà Nội và ngược lên mạn Bắc về
phía Lào Kay để gia nhập trại huấn luyện quân sự
của Đại Việt. Việc mà tôi đã phải hoãn lại
trước đây khi tôi vào Huế. Lúc này,
khi nhận thấy cùng bị Việt Minh đe dọa, các đảng
phái quốc gia đã bắt đầu biết đâu lưng để củng cố
lực lượng. Đại Việt và Việt Nam Quốc Dân Đảng cùng
liên kết quân sự và đã thiết lập trường huấn
luyện quân sự chung tại Chapa ở Lào Kay.
Lạ lùng thay, những huấn luyện viên quân sự lại
là người Nhật. Bị quân đội Trung Hoa tước vũ khí,
đã có vài quân nhân Nhật đến
làm việc cho các đảng phái quốc gia. Khi đi họ
mang theo cả vũ khí. Tất cả những vũ khí dùng ở
Lào Kay đều là của Nhật. Đây là một trong
những lúc mà tôi phải gạt phắt mọi sự để thật sự
khép mình vào quân kỷ của Nhật.
Những sĩ quan Nhật trông coi việc tổ chức trại đều mặc
đồng phục
Nhật, nhưng không hiểu vì lý do gì đã
lấy tên hoàn toàn Việt Nam. (Không có
sĩ quan Nhật nào nói được tiếng Việt. Mọi mệnh lệnh đều
được truyền qua thông dịch viên.) Vị Đại Tá chỉ huy
người Nhật có bí danh là Hùng. Ông ta
ngỏ lời chào 300 sinh viên quân sự như sau:
"Chúng tôi đến đây để giúp người Việt
các anh trở thành những người lãnh đạo nước Việt.
Tuy rằng chúng tôi đã mất tất cả, chúng
tôi sẽ huấn luyện các anh. Sau khi tốt nghiệp khóa
huấn luyện các anh sẽ trở thành những võ sĩ đạo
Việt Nam."
Cuộc huấn luyện võ sĩ đạo bắt đầu vào ngày
hôm sau. Kể từ sáng đó, chúng tôi bị
gọi dậy bằng tiếng còi xé tai xuyên qua không
khí núi rừng lạnh lẽo. Trên thao trường
chúng tôi đứng nghiêm, chăm chú nhìn
lá cờ hai màu trắng, xanh của VNQĐD được kéo
lên cao. Sau đó, quay về hướng mặt trời đang lên,
chúng tôi cúi đầu thầm ôn lại những điều
tâm niệm đối với quốc gia.
Mặc niệm xong, chúng tôi ráo riết tập luyện thể dục
trong nửa giờ, bắt đầu một ngày dài diễn hành, tập
luyện xử dụng vũ khí rồi cuối cùng học tập chiến thuật
và chiến lược. Chương trình tập luyện kéo
dài sáu tháng. Khi chương trình tập luyện
hoàn thành Đại Việt và VNQĐD sẽ có một
nhóm cán bộ để thiết lập và dìu dắt
quân đội chung cho cả hai đảng. Tuy vậy, chẳng có bao
nhiêu người trong chúng tôi học hết được chương
trình huấn luyện. Biến cố đã không cho phép
những người quốc gia có đủ thời gian rảnh rỗi để đào
luyện những người lãnh đạo cần thiết. Riêng tôi phải
về lại Hà Nội vào tháng hai năm ấy, ngay sau Tết
Nguyên Đán.
Ông Trương Tử Anh gọi tôi về để giao phó một nhiệm
vụ đặc biệt trước khi về Hà Nội. Tôi đoán được rằng
thế nào việc cũng sẽ liên quan đến chú tôi.
Quả nhiên những tiên đoán của tôi hoàn
toàn đúng hẳn. Khoảng ba, bốn tuần sau khi từ chức,
chú tôi đã trở về căn nhà trước kia tại
Hà Nội. Mặc dầu kể từ khi từ chức, chú tôi chưa hề
tham gia chính trị một cách lộ liễu, nhưng vì
là cựu Thủ Tướng nên ông đã trở thành
hấp lực của phong trào chống cộng. Về phía Việt Minh
thì vì đang cần có sự hợp tác của
các phần tử quốc gia trong giai đoạn đó nên họ
đã nhắm mắt làm ngơ và chưa có hành
động gì để đối phó với ông chú tôi.
Ông chú tôi lúc này đã thay đổi
nhiều và về phương diện chính trị có lẽ đã
bắt đầu hiểu cộng sản rõ hơn lúc trước. Khoảng
tháng 7, có lúc ông đã nghĩ rằng Việt
Minh có thể giúp được nhiều vào việc lấy lại độc
lập cho đất nước. Tháng tám, ông từ chức sau cuộc
nổi dậy chớp nhoáng của Việt Minh. Rồi đến tháng
chín thì gần như ở vào một tình trạng
không còn ảo vọng gì về Việt Minh nữa. Ông
dần dần để ý đến những lời thuyết phục của ông Trương Tử
Anh, nhất là về vấn đề phải gây một lực lượng để đối
phó với Việt Minh Cộng Sản. Ông đã để ý lắng
nghe kỹ lưỡng dự tính đối lập Việt Minh của ông Trương
Tử
Anh. Nhất là khi ông Anh đề cập đến vấn đề phải mượn
thêm thế lực hậu thuẫn từ bên ngoài.
Chiến lược của ông Trương Tử Anh lúc đó có
thể gồm trong hai điểm cơ bản. Một mặt ở trong nước, ông
và các đồng minh bên trong VNQĐD sẽ nỗ lực thiết
lập một hệ thống quân sự vững mạnh (Như trại huấn luyện
quân sự Lào Kay). Còn ở ngoài nước
thì ông cố gắng tìm thêm sự ủng hộ từ
phía bên ngoài. Việc này ông
chú tôi có thể giúp sức. Vì đã
từng đứng đầu chính phủ, ông chú tôi được
nhiều nhân vật quốc tế biết đến. Ông lại còn
có tiếng là người liêm khiết. Những lợi điểm vừa kể
sẽ khiến ông chú tôi trở thành một nhân
vật có thể đứng ra kêu gọi đồng minh nước ngoài ủng
hộ. Vì đã hiểu rõ được những mánh
khoé cách mạng của ông Hồ, ông chú
tôi cảm thấy lãnh tụ Đại Việt có thể là một
đồng minh đáng tin cậy. Và cũng vì vậy, ông
Trương Tử Anh gọi tôi về để nhờ tôi tìm đường để đưa
ông chú tôi sang Hồng Kông.
Trong khi đó thì ông Bảo Đại cũng trải qua một giai
đoạn trưởng thành chính trị tương đương. Chính
ông Bảo Đại cũng đã từ chức vì áp lực của
Việt Minh, từ bỏ ngôi vua để trở thành một thường
dân. Câu tuyên bố: "Thà là dân
một nước tự do còn hơn làm vua một nước nô lệ."
là một hành động cao thượng và đáng nhớ.
Liền ngay sau khi ông Bảo Đại từ chức ông Hồ đã
chứng tỏ kinh nghiệm lão luyện chính trị bằng cách
đích thân mời ông Bảo Đại về Hà Nội
làm "cố vấn tối cao" cho chánh quyền Việt Minh. Khi mời
cố vấn Vĩnh Thụy về cùng hợp tác, ông Hồ đã
lợi dụng được triệt để tất cả những gì mà ông
có thể lợi dụng. Khi mời ông Bảo Đại chẳng những đã
mang lại cho ông Hồ hình ảnh tốt đẹp của một lãnh
tụ không mang tâm hiềm khích mà còn
khiến cho dân chúng tin tưởng rằng chánh quyền của
ông đã được Cựu Hoàng ủng hộ. Nhưng có lẽ
quan trọng hơn cả là một khi ông Bảo Đại đã chấp
thuận về cùng thì việc giám sát và
quản cố Cựu Hoàng trở nên dễ dàng như trở
bàn tay. Một khi đã về Hà Nội chắc chắn Cựu
Hoàng không còn cơ hội để ủy thác quyền
hành cho bất kỳ đảng phái nào khác.
Khi về Hà Nội ông Bảo Đại được các lãnh tụ
Việt Minh tiếp đãi thập phần kính trọng. Tuy thế sự
kính trọng vẫn chẳng thể làm cho ông Bảo Đại
quên được rằng ông đã bị Việt Minh lợi dụng.
Khoảng đầu năm 1946, ông Bảo Đại đã dần dần tìm
cách cắt đứt mọi liên lạc với Việt Minh và đang cố
tìm một lối thoát thân. Ngay trong lúc
này ông Hồ cũng có vẻ chấp thuận sự ra đi của Cựu
Hoàng. Có lẽ một phần là do Cựu Hoàng
đã đóng hết vai trò chính là Hợp
Thức Hóa chánh phủ Việt Minh. Chẳng hiểu ông Hồ suy
nghĩ thế nào mà lại để cho ông Bảo Đại có cơ
hội dẫn đầu một phái đoàn đại biểu đến Trung Hoa.
Có thể ông Hồ đã nghĩ rằng ông Bảo Đại sẽ ở
lại Trùng Khánh, (lúc bấy giờ là thủ
đô Trung Hoa.) Một khi ông Bảo Đại đã ở lại
thì ông Hồ chẳng cần phải lo toan gì nữa.
Khi có lời đồn về việc ông Bảo Đại sắp sang Trung Hoa
thì ông Trương Tử Anh quyết định đã đến lúc
thời cơ chín mùi để đưa ông chú tôi
sang Trung Hoa. Đây là nhiệm vụ tôi được ông
Anh giao phó khi ông cho lệnh vời tôi từ trên
Chapa trở về.
Mặc dầu ông chú tôi chưa bị Việt Minh đe dọa, cuộc
chiến tranh ngấm ngầm giữa Việt Minh và các đảng
phái quốc gia đã trở thành những cuộc tàn
sát. Vào khoảng cuối năm, Việt Minh đã tổ chức
ám sát nhiều người mang khuynh hướng chính trị đối
lập. Trong số những người đối lập đã bị Việt Minh ám
sát lúc này có lãnh tụ Huỳnh
Phú Sổ của Hòa Hảo ở Miền Nam; lãnh tụ Đệ Tứ Cộng
Sản Tạ Thu Thâu, ông Ngô Đình Khôi, anh
của tổng thống Ngô Đình Diệm và học giả Phạm Quỳnh,
Thượng Thư của Triều Đình cũ. Trong số những bạn thân
của
tôi nhiều người cũng lần lượt mất tích. Quản Trọng Ưng
và Đặng Vũ Chu ở trường thuốc bị Việt Minh bắt rồi sau
đó
biệt vô âm tín. Nhiều người bạn của tôi ở
trường đại học, trong đó có hai anh em là Đặng Văn
Bút và Đặng Văn Nghiên và nhiều người
khác bị bắn gục ở Yên Bái. Người bạn giới thiệu
tôi với ông Trương Tử Anh là Phúc cũng bị hạ
sát tại Hà Nội. Hàng loạt đảng viên Đại Việt
lần lượt bị tàn sát. Một đôi khi còn
tìm được thi thể. Phần nhiều hoàn toàn mất
tích.
Trong khi khủng bố bí mật lan rộng thì ông Hồ vẫn
liên tiếp thương thảo mềm dẻo với Pháp và
Tàu. Đã nhiều tháng qua toàn bộ Miền Nam
đắm chìm trong chiến tranh du kích. Quân đội Anh
với quân số nhỏ nhen chiếm đóng trong nước đã cho
Pháp mang quân đội vào Việt Nam. Lúc
này đã có rất nhiều thành phố và
các tỉnh lớn nằm trong tay Pháp, trong khi các lực
lượng chống cự Việt Nam bị đẩy lui về các miền đồng bằng
và các căn cứ hiểm trở. Ở phân nửa miền Bắc Việt
Nam, 200,000 quân Trung Hoa đang chiếm đóng đã ngăn
chận mưu toan trở lại của Pháp. Nhưng vào khoảng cuối
tháng hai, có tin rằng đại biểu của Pháp và
Tàu đang đàm phán việc cho phép Pháp
trở lại miền Bắc để đổi lại việc Pháp sẽ hủy bỏ các điều
khoản nhượng bộ ở Tàu trước chiến tranh.
Ông Hồ hiểu rằng tình thế sẽ bắt buộc ông phải trực
tiếp đương đầu với Pháp. Quân đội chiếm đóng Trung
Hoa đã góp phần tiếp trợ ông Hồ, cho Việt Minh gần
6 tháng để củng cố lực lượng. Sự hiện diện của quân đội
Trung Hoa đã buộc Pháp không thể vào Miền
Bắc. -Đây là một việc mà tại Miền Nam người Anh
đã thất bại hoàn toàn. Nhưng thực sự thì sự
liên hệ giữa ông Hồ và người Tàu chẳng
khác nào con dao hai lưỡi. Nói chung thì
vì Việt Nam đã từng bị Tàu đô hộ suốt 1000
năm nên những mưu đồ tối hậu của Tàu không thể che
mắt được bất cứ người Việt Nam nào. Và nói
riêng thì vì những quân đội Tàu sang
giải giới Nhật là quân đội của Tưởng Giới Thạch nên
họ đã cấp dưỡng viện trợ và khích lệ những đối thủ
của ông Hồ như VNQĐD và Đại Việt.
Kết quả là vào tháng 2 năm 1946, ông Hồ mở
cuộc đàm phán với đại biểu Jean Sainteny của Pháp.
Về phía những người quốc gia, mặc dầu không mấy ai hiểu
tường tận những chi tiết của vấn đề nhưng tất cả đều
biết đàm
phán hiện đang tiến hành. Tất cả đều căm phẫn ông
Hồ vì việc đàm phán và đồng cảm thấy cực kỳ
phẫn khích khi biết Pháp sẽ lại một lần nữa quay lại
Việt
Nam. Tuy các đảng phái quốc gia không thể
trách móc việc Tàu rút quân, việc
rút quân của Tàu vào giữa lúc
các đảng quốc gia hãy còn đang củng cố lực lượng
đã làm tất cả rúng động. Nguyên khi
quân đội Tàu đóng ở Hà Nội để giải giới Nhật
thì cả Việt Minh lẫn Pháp đều phải e dè sự hiện
diện của họ. Lúc này, khi quân đội Tàu
rút đi thì hàng rào chống đỡ vô
hình đó bỗng bi rút đi và các đảng
quốc gia bỗng nhiên thấy họ phải trực diện với các lực
lượng của Việt Minh và Pháp.
Khoảng tháng 6, ông Hồ và Sainteny cùng
ký một thỏa ước. Trong bản hòa ước ký kết,
Pháp công nhận Việt Nam là một nước tự do độc lập
"nằm trong khối liên hiệp Pháp" để đổi lại, Việt Nam
đồng
ý để cho người Pháp chiếm đóng có sự hiện
diện quân sự tại một vài nơi trong vòng 5 năm. Mọi
người đều biết lập luận của ông Hồ và Việt Minh về việc
ký kết thỏa ước là "Thà ngửi cứt Tây 5 năm
còn hơn ăn cứt Tàu 1000 năm." Tuy vậy, trong mọi tầng
lớp, việc Việt Minh cho phép Pháp trở lại vẫn gây
ra ấn tượng sâu xa. Hai tuần sau khi ký kết, lúc
tôi đang ở ban công nhà thương Phủ Doãn tại
Hà Nội với một nhóm bạn là bác sĩ, trong số
có một vài người là đảng viên Đại Việt,
thì ngay phía dưới 15 ngàn quân Pháp
đang diễn hành dưới sự thống lãnh của tướng Jacques
Philippe Leclerc. Nhìn họ, bọn tôi cảm thấy cay đắng
dâng trào. Quang cảnh chẳng khác nào Việt
Nam đang trở lại thời kỳ nô lệ. Hai bên đường các
Pháp kiều ngụ tại Hà Nội đứng tung hô. Trên
ban công chúng tôi cố gắng gạt những giọt lệ căm
phẫn và tủi nhục.
7. Khủng Bố
Khi quân Pháp vào Việt Nam thì quân
đội chiếm đóng của Tàu đang rút lui. Tất cả những
quang cảnh ồn ào, hỗn độn đã cho tôi một cơ hội
thuận tiện để đưa ông chú tôi lên đường để vận
động ở nước ngoài theo kế hoạch của ông Trương Tử Anh.
Đầu
tiên tôi liên lạc với người của VNQĐD và định
dùng đường dây móc nối sang Tàu của họ. Qua
họ tôi sắp xếp để ông chú tôi có thể đi
bằng đường hàng không. Khi mọi sự đã xong,
tôi cùng ông chú tôi về nhà chờ
tin. Nhưng một tuần, rồi 10 ngày nối tiếp trôi qua
mà vẫn không thấy động tĩnh gì. Sau đó,
chúng tôi quyết định không thể đợi lâu hơn
được nữa vì có thể sẽ bị công an Việt Minh
phát giác.
Vì vậy, tôi quyết định thử liên lạc trực tiếp với
người Tàu. Trong khi Tàu đóng quân đã
có nhiều thiếu phụ Việt Nam "thành hôn" với
các sĩ quan Tàu. Tôi có quen một thiếu phụ
lập gia đình với một vị tướng Tàu và bà ta
hứa sẽ cố dùng ảnh hưởng riêng để xin giấy thông
hành cho ông chú tôi.
Mọi việc đều tiến hành như dự liệu. Vào một hôm
đã hẹn trước, một chiếc xe Citroen ngưng ngay trước cổng
nhà ông chú tôi. Phía trong là
tài xế, viên tướng Tàu và một vị bác
sĩ nguyên là người của đảng Đại Việt đã được
phái đi cùng với ông chú tôi.
Chúng tôi nhét hai cái va li vào sau
xe rồi ngồi chặt trong xe để bắt đầu một chuyến hành
trình dài đến biên giới Tàu. Phía
ngoài Hà Nội, lính Tàu tụ họp thành
hàng chật cả đường phố đang lếch thếch mang trên lưng
nào là gà, nồi và những vật dụng lỉnh kỉnh
khác. Những toán quân Tàu rút lui về
Trung Hoa đem theo gần như tất cả mọi thứ họ đã vơ vét
được từ Hà Nội.
Giữa đám đông ồn ào, vô trật tự chẳng ai để
ý đến chiếc xe Citroen đen của chúng tôi.
Vào lúc chạng vạng chúng tôi đã đến
Lạng Sơn. Tại đó, tôi từ giã ông chú
tôi và hứa sẽ cố tìm chỗ sắp đặt để gia đình
có thể cùng ông xum họp tại Hồng Kông, nơi
ông dự định đứng ra vận động.
Sau đó tôi trở lại Hà Nội bàng xe
buýt, tìm cách cố đưa mợ tôi và gia
đình của con gái mợ tôi ra khỏi nước. Giao
thông lúc này ngày càng khó
khăn. Mặc dù Việt Minh đang ở giai đoạn đàm phán
hòa bình với Pháp, họ vẫn nỗ lực tàn
sát các phe phái quốc gia. Khoảng tháng tư
và tháng năm, mức độ khủng bố nhảy vọt. Những căn cứ
quốc
gia vững mạnh ở dọc sông Hồng đều chuẩn bị phòng thủ
chống
lại các cuộc càn quét của Việt Minh.
Trong tình trạng cuộc chiến giữa Việt Minh và Quốc Gia
sắp sửa bùng nổ, chuyện đưa gia đình ông chú
tôi ra nước ngoài đã trở thành thập phần cấp
bách. Thỏa hiệp hòa bình ngắn ngủi với Pháp
đã đủ để ông Hồ có một phút giây thảnh
thơi tiêu diệt triệt để những đảng phái đối lập, để
làm chủ tình hình trong nước.
Vào tháng 4, cuộc đàm phán giữa Pháp
và Việt Minh đã bắt đầu đi vào đường thất bại. Một
viên chức cao cấp của Pháp là Thủy sư Đô Đốc
George Thierry d' Argenlieu có vẻ có ý muốn giữ
Miền Nam Việt Nam làm thuộc địa. Ông ta từ chối việc
định
nghĩa cụ thể hiện trạng Việt Nam như "một quốc gia tự
do". Sau cuộc
đàm phán Đà Lạt, ông Hồ đã hiểu
rõ là Pháp chẳng hề có ý chấp
hành nghiêm chỉnh những điều khoản mà ông
và Sainteny đã cùng thỏa thuận trong cuộc thương
thảo. Tuy vậy, vào tháng 5 ông vẫn lên đường
đi Pháp để bắt đầu một cuộc đàm phán kéo
dài liên tiếp năm tháng. Ông Hồ hy vọng rằng
khi đích thân đến Pháp ông sẽ kêu gọi
được những người Pháp đã rời Việt Nam góp phần ủng
hộ. Mặt khác, ông cố gắng kéo dài thời giờ.
Hầu hết các thành phần lãnh đạo đều cùng đi
với ông Hồ ngoại trừ ông Võ Nguyên
Giáp. Khi ông Hồ ở Pháp thì chính
ông Giáp là người đương đầu với những vấn đề
liên quan tới các lực lượng đối lập.
Phương pháp của ông Võ Nguyên Giáp
thật là tàn bạo. Ông cho lệnh các lực lượng
Việt Minh tập kích thẳng vào căn cứ của các đảng
quốc gia ở các vùng sông Hồng. Cùng
lúc đó những công an Việt Minh khác thắt
chặt mạng lưới phòng vệ ở Hà Nội và Hải
Phòng. Những phần tử quốc gia bị buộc phải lui vào
vòng bí mật hoặc phải cố tìm cách trốn
tránh thoát khỏi mạng lưới Việt Minh. Nhiều đảng
viên quốc gia đã bị bắt và cầm tù, nhiều
người khác mất tích. Cơn kinh hoàng bao
trùm các đảng phái khi chiến dịch khủng bố của
ông Giáp mang một tầm vóc khổng lồ so với
các chiến dịch tiểu trừ lẻ tẻ giữa các đảng phái
trước đây. Trong khi ông Hồ và các Bộ Trưởng
trong chánh quyền thực dân Pháp thong thả
dìu nhau trong điệu Minuet ở Fontainebleau trên sàn
đàm phán theo một nhịp độ điều đình ngày
càng bế tắc thì tại Việt Nam hàng ngàn phần
tử quốc gia âm thầm ngã gục.
Số phận của tôi may mắn hơn những người đã bị hạ
sát. Trên bến Hải Phòng, tôi bí mật
liên lạc được với một người thuyền trưởng của một chuyến
tàu chở hàng Thụy Điển. Tôi đã dùng
cả tiếng Anh lẫn tiếng Pháp để thuyết phục ông ta. Cuối
cùng, ông ta cho tôi mang cả gia đình
bà cô đến Hồng Kông không hề hỏi han,
không hề khai báo, không cả giấy thông
hành. -Hễ có tiền là đi. Tiền bạc được dùng
để đổi lại một chỗ trống trên bong và chúng
tôi có quyền dựng một tấm mái bạt để che mưa
tránh nắng.
Chuyến tàu hàng lướt ra khỏi Hải Phòng giữa
lúc trăng tròn đang giữa độ. Chưa bao giờ đi tàu,
tôi có cảm giác đây là lần đầu
tiên mình mới làm một chuyến du ngoạn thần kỳ
và mơ mộng. Tuy vậy, vừa qua khỏi trạm gác ở bến,
tôi đã say sóng ngất ngư. Trên biển Nam Hải,
ánh sáng quang đãng của vầng trăng bỗng dưng tan
biến rồi một cơn bão theo sát chúng tôi
trên cả cuộc hành trình.
Vì phải tránh những quả mìn gài ngầm
còn sót lại sau Đệ Nhị Thế Chiến, chuyến tàu
hàng buộc phải đi về hướng Phi Luật Tân thay vì đến
thẳng Hồng Kông. Chuyến đi đáng nhẽ chỉ ba ngày
bỗng kéo dài thành một hành trình
gian khổ dài suốt 7 ngày trên biển. Cuối
cùng khi tàu cặp bến, tôi vui mừng chẳng
khác nào bắt được vàng.
Khi đã thuê phòng ngủ cho gia đình người mợ,
con gái và người con rể ông chú tôi ở
một khách sạn tại Hồng Kông, tôi bắt đầu tự
mình đi tìm ông chú tôi và
ông Bảo Đại. Vì không giữ liên lạc mà
lại cũng chẳng tính toán gì trước nên phải
rất lâu sau tôi mới biết rõ được rằng họ không
phải ở Hồng Kông mà thật sự đang ở Trùng
Khánh, kinh đô của Tưởng Giới Thạch. Lúc
này, việc thiếu liên lạc chỉ là chuyện thông
thường. Hồng Kông đã trở thành một trung tâm
tụ tập của những phần tử quốc gia, những người đã thoát
ra từ Miền Bắc, nơi Việt Minh đang làm chủ tình
hình. Tuy rằng những phần tử quốc gia có ý muốn
lập một trung tâm hoạt động ở ngoại quốc, họ vẫn chưa hề
có được tổ chức nào hoàn toàn hiệu lực.
Đây là một điểm khởi đầu thật bất lợi.
Về phần mợ tôi thì thất vọng ê chề. Khi một tuần lễ
đã qua mà không có tin tức gì về
ông chú tôi, chúng tôi chỉ còn
một ít tiền và cũng không quen biết ai để có
thể xin giúp đỡ. Tôi nói với mợ tôi rằng
"Cách hay nhất là mợ hãy giữ hết chỗ tiền
còn lại trong khi cháu quay về Hà Nội tìm
cách kiếm thêm tiền. Chắc chẳng còn bao lâu
nữa chú sẽ trở lại. Cháu tin mọi chuyện rồi sẽ đâu
vào đấy."
Chuyến về cũng chỉ đỡ hơn chuyến đi chút đỉnh. Khi còn
lênh đênh giữa biển, tôi đã tự thề sẽ chẩng
bao giờ đặt chân lên tàu biển lần thứ hai nữa. Khi
tàu đáp bến Hải Phòng, tôi lẩn qua
các trạm gác tuần tiễu rồi lẻn về Hà Nội để gặp
ông Trương Tử Anh. Tôi tường trình việc thiếu tổ
chức ở Hồng Kông và nhấn mạnh việc cần phải thiết lập
một
đường dây tiếp tế thường xuyên. Nhưng việc khẩn cấp hiện
thời là phải có tiền bạc để chu cấp cho mợ và
chú tôi.
Ông Trương Tử Anh giải quyết vấn đề này bằng cách
giới thiệu tôi với đường dây hoạt động làm bạc giả
của Đại Việt. Nhờ vào đường giây này, Đại Việt
đã cung cấp được một phần tài chánh cho các
hoạt động của đảng. Những đồng tiền làm giả tuy chưa
hoàn
toàn giống hệt nhưng cũng đủ để có thể bán rẻ lại
cho những người có được thị trường trong chốn chợ đen.
Một tờ
giấy bạc giả 100 đồng có thể đánh đổi lấy được khoảng 60
đồng tiền thật.
Tạm thời thì tiền trợ cấp cho mợ và chú tôi
sẽ được trích ra từ số tiền này. Tôi sẽ phải tự
mình đến lấy bạc giả, tự mình đem đi bán lại
và tìm cách mang tiền sang Hồng Kông. Chẳng
mấy chốc tôi trở nên lanh lợi về cách đổi
chác trong nghề. Tôi và một đảng viên
khác cùng tới một địa điểm đã được ông Anh
cho sẵn. Nhưng khi nhìn thấy xấp bạc giả tôi kinh
hãi rụng rời. Xấp bạc hoàn toàn mới toanh,
trông thật lòe loẹt. Đến một đứa bé cũng phải nhận
ra là xấp bạc giả vừa mới in xong. Không có
cách nào tôi có thể bán được
dù là bán cho những người chợ đen dễ dãi
nhất.
Trưa đó, tôi và người bạn đi cùng đã
bỏ ra rất nhiều thời giờ cố làm cho xấp giấy bạc trông
giống thật hơn. Chúng tôi lý luận rằng vấn đề
chính là vì trông nó mới quá
và rồi kết luận phải làm thế nào cho nó cũ
bớt đi. Cuối cùng chúng tôi nghĩ ra được
cách trải những tấm giấy bạc ra sàn rồi dùng gạo
chà lên như chà giấy nhám, để biến những tấm
giấy bạc thành cũ kỹ, giống thật hơn.
Việc làm bạc giả của chúng tôi kể ra cũng
không đến nỗi tệ. Khi giấy bạc đã được chà xong,
những tờ hai chục trông gần như thật. Tuy vậy, những tờ
100,
dù rằng qua những con mắt không lành nghề như
chúng tôi vẫn chẳng trông giống thật tí
nào. Cuối cùng, chúng tôi bán số tiền
20 đồng và thâu lại được 80 phần trăm tổng số giá,
trong khi tự cho là may mắn đã đổi được chỗ giấy bạc 100
đồng để lấy lại được 50 phần trăm tổng số. Tôi thành
công hơn trong vấn đề thiết lập đường dây tiếp tế đến
Hồng
Kông qua một hãng du lịch Thái Lan có
các chi nhánh ở khắp mọi miền.
Chẳng bao lâu sau, khi đã xếp đặt xong việc chuyển tiền,
tôi lại được lệnh của ông Trương Tử Anh tổ chức một cuộc
đưa người khác sang Hồng Kông. Lần này chuyến đi
được tổ chức cho Tư Lệnh Đệ Tam Quân Đỗ Đình Đạo, người
đã cầm đầu đoàn quân xấu số của Đại Việt và
VNQĐD ở dọc theo sông Hồng. Vì không đủ sức chống
trả với ông Võ Nguyên Giáp, khi lực lượng tan
rã, ông Đạo đã được dời về một chỗ ẩn nấp an
toàn để có thể củng cố lực lượng. Lần này
đã rành rọt về chuyện đưa người, tôi thu xếp thật
chu đáo cho chuyến đi của ông Đạo bắt đầu từ Hải
Phòng. Nhưng chuyến này vì đã nếm đủ
mùi vị say sóng trên biển, tôi không đi
cùng ông Đạo nữa.
Hè 1946 là một trong những mùa hè khốn khổ
của các đảng phái quốc gia. Tuy tại Ba Lê,
các cuộc đàm phán của ông Hồ hoàn
toàn bế tắc, nhưng ở Việt Nam người thay thế ông Hồ
là ông Võ Nguyên Giáp đã
thành công rực rỡ trong việc tiêu diệt các
lực lượng đối kháng. Trên chiến trường các lực
lượng quốc gia đã bị ông Giáp đập tan hoặc bị
ông đàn áp phải rút lui vào những
miền rừng núi. Ở thành phố những đội công an Việt
Minh đã khiến đời sống trốn tránh trở thành vạn
phần khó khăn. Tôi chưa bao giờ ngủ cùng một chỗ
hai đêm liên tục. Lúc nào tôi cũng phải
cẩn trọng xem xét động tĩnh của mọi người, mọi vật. Tôi
đã quen thuộc với cảm giác đưa tay sờ vào
báng súng phía sau.
Cuộc sống của ông Trương Tử Anh cũng vậy. Ông bị truy
nã gắt gao và cũng phải ẩn nấp mỗi đêm ở một chỗ
hoàn toàn khác biệt. Mỗi cuộc họp lúc
này gần như chỉ với một hai người. Qua những cuộc gặp gỡ
và những lần gần gũi trong suốt mùa hè, tôi
ngày càng thân thiết và kính trọng
ông Trương Tử Anh.
Vào khoảng đầu tháng 9, sự thất bại của cuộc đàm
phán giữa ông Hồ và Pháp tại Fontainebleau
đã quá rõ ràng. Kết cục, ông Hồ
và Ngoại Trưởng Pháp Marius Moutet đã ký
kết một nghị định gọi là tạm ước. Lúc này việc bất
đồng ý kiến giữa Pháp và Việt Minh đã
rõ rành rành. Bản tạm ước ký kết giữa hai
bên chẳng qua chỉ là một thỏa hiệp được đề ra để
kéo dài thời gian trước khi động lực chiến tranh
có đà phát động toàn độ. Theo những lời đồn
đãi đã được thêu dệt thành lịch sử về sau
thì khi ký tên vào thỏa hiệp ông Hồ
đã nói rằng ông đang tự tay ký kết bản
án tử hình của chính ông.
Nếu ông Hồ thật sự đã bình luận như vậy thì
đây lại là một biến cố điển hình khác chứng
tỏ tài lèo lái con thuyền chính trị của
ông hơn là sự lo lắng của ông. Thật sự thì
ngay cả khi thỏa hiệp đã được ký kết, ông Hồ cũng
chẳng thấy cần phải vội vã quay về Hà Nội. Thay vì
đi đường hàng không, ông Hồ lại trở về trên
chuyến tàu Pháp trong một hành trình thong
thả từ Toulon đến Hải Phòng, kéo dài hơn một
tháng ròng. Đây không phải là
hành động của một vị nguyên thủ đang bị lúng
túng vì áp lực của những nhân viên cấp
dưới. Thực ra thì lúc nào ông Hồ cũng
làm chủ được tình hình. Tuy rằng mục đích
thứ nhất của ông Hồ -Đòi hỏi Pháp phải ký
kết một thỏa hiệp công nhận Việt Nam độc lập- đã
không mang lại kết quả thiết thực, mục đích quan trọng
thứ
hai -Tìm cách hòa hoãn để ông
Giáp rảnh tay tiêu diệt các lực lượng quốc gia đối
kháng và củng cố các lực lượng Việt Minh để
làm chủ tình hình Miền Bắc- đã thành
công mỹ mãn.
Tuy không hề được biết rõ tường tận các diễn biến ở
Fontainebleau, tôi đã được mục kích Việt Minh
tiêu diệt các đảng phái quốc gia bằng con mắt của
một nạn nhân. Vào mùa thu năm 1946, khi Việt Minh
chuẩn bị ráo riết để bắt đầu cuộc chiến chống Pháp
thì những đảng viên Đại Việt còn sống sót
như chúng tôi hoàn toàn không
dám lộ mặt. Đây quả là một thời gian bối rối
và tuyệt vọng cho tất cả. Vì áp lực mạnh của
công an Việt Minh, chúng tôi không đủ thời giờ
tổ chức những buổi họp an toàn để có thể liên lạc
với nhau hữu hiệu hơn. Đường lối hoạt động của đảng bỗng
chốc trở
nên những cuộc đếm người. Tổng số còn lại là bao
nhiêu? Bao nhiêu người còn sống? Bao nhiêu
người còn sống nhưng không dám lộ mặt? Những đường
dây nào hãy còn hoạt động trong các
tỉnh lị? Trong khi ông Hồ vắng mặt, ông Giáp
đã làm việc thật kỹ lưỡng. Ông đã tận lực
tảo thanh các lực lượng quân sự kết hợp của Đại Việt
và VNQĐD và thiết lập một hệ thống an toàn ở khắp
nơi trong phạm vi Bắc Việt. Ngay cả trước khi chiến
tranh giành
độc lập bắt đầu, Bắc Việt đã được chuyển thành một mạng
lưới công an vô cùng hữu hiệu.
Giữa tình thế khốn cùng, ông Trương Tử Anh
đã cố gắng không để lộ sự thất vọng đang ngày
càng trào dâng. Ít nhất là
ngoài mặt ông ta vẫn tỏ ra rất bình tĩnh, -gần như
quá bình tĩnh- ông thường giữ kín những dự
định của mình. Tuy đã đến bước đường cùng,
chúng tôi vẫn tin tưởng rằng ông sẽ có
cách kết hợp chúng tôi lại với nhau và củng
cố để đảng có thể hoạt động lại như xưa. Một trong những
giải
pháp lúc này là cố gắng củng cố lực lượng ở
Miền Nam khi lực lượng Việt Minh chưa hoàn toàn
làm chủ tình hình. Giải pháp thứ hai
là tạm thời chuyển các hoạt động ra ngoại quốc, tới một
chi nhánh nhỏ của đảng ở Hồng Kông nơi ông
chú tôi đang vận động. Đã có lần ông
Trương Tử Anh hỏi tôi liệu có thể về Hồng Kông
giúp sức hay không, nhưng tôi vẫn cứ trì
hoãn. Ông chú tôi đã có hai
người khác đang ở cùng là ông Đặng Văn Sung,
người đã giới thiệu tôi vào Đại Việt khi trước
và thày học cũ của tôi là ông Trần Văn
Tuyên. Tôi cho rằng sự hiện diện của mình ở
đó chỉ thêm thừa thãi. Mặc dù lúc
này áp lực tại Hà Nội đang nặng nề, tôi vẫn
không biết mình phải nên rời ông Trương Tử Anh
để làm gì.
Vào một ngày đầu tháng 12-1946, cũng như những lần
họp trước đây, tôi đến gặp ông Trương Tử Anh
mà mãi không thấy bóng dáng ông
đâu. Đã có vài lần như vậy trước đây
nhưng lần nào cũng có tin nhắn lại. Lần này
hoàn toàn chẳng có gì cả. Tôi
đã đợi suốt ba tiếng, càng đợi càng sốt ruột, sợ
rằng sẽ lọt vào tay công an Việt Minh. Hôm sau, một
người bạn nói với tôi rằng chính anh ta cũng
có hẹn với ông Anh và cũng chẳng thấy bóng
dáng ông Anh đâu cả. Ông Trương Tử Anh
hoàn toàn tuyệt tích. Tuy vậy có lẽ mọi
người đều biết rõ số mệnh ông sẽ ra sao một khi ông
bị lọt vào tay Việt Minh.
8. Trong
Vòng
Trốn Tránh
Cái chết của ông Trương Tử Anh là một nhát
giáng kinh hoàng. Có lẽ tôi nên
nói là "việc ông mất tích" thì
đúng hơn vì không có bằng chứng gì
hiển nhiên chứng tỏ rằng ông đã chết. Tôi
cùng những đảng viên khác cố nuôi hy vọng
là ông vẫn còn sống và đang trốn
tránh ở đâu đó. Nhưng sau nhiều tuần nuôi hy
vọng, tất cả những ảo ảnh đã dần dần tiêu tan. Lúc
này rất nhiều bạn bè của tôi đã bị ám
sát, một số tại sông Hồng, một số tại Hà Nội. Những
người còn lại đều trốn sang Trung Hoa, sang Hồng Kông
như
ông chú tôi hoặc lui vào vòng ẩn nấp.
Tôi sống cuộc đời trốn lánh rất ít liên lạc
với thế giới bên ngoài, không bạn bè,
không gia đình và tệ hơn nữa là bấp
bênh và hoàn toàn vô định. Lúc
này tôi là một linh hồn hoàn toàn lạc
lõng.
Tôi đến ở tạm với một người bạn cùng đảng ngoài
ngoại thành Hà Nội và ít khi bước ra khỏi
cửa. Có hai ba đảng viên Đại Việt khác cũng ở
đó và chỗ ở biến thành một nơi tụ họp nho nhỏ của
đảng. Tất cả đều cảm thấy gò bó tâm thần. Chẳng
có gì để làm, chúng tôi ngồi quanh
bàn luận suông những chuyện phải làm trong tương
lai. Chẳng có người nào trong chúng tôi
có được một đường hướng gọi là đứng đắn. Khi nhìn
lại thì có vẻ như tất cả đều cực kỳ kinh hãi.
Thỉnh thoảng một hoặc hai chúng tôi lại lén ra khỏi
nhà mua thức ăn hoặc thăm viếng các đồng chí
khác cũng đang ở trong tình trạng trốn tránh.
Nhưng phần lớn chúng tôi đều yên lặng đợi chờ. Khung
cảnh tù túng đã khiến ý nghĩ của
chúng tôi càng ngày càng thêm
gò bó.
Rồi một hôm, bỗng dưng tôi và một người bạn quyết
định đập tan không khí nhàm chán bằng
cách đi thăm một người em họ của anh ta ở một khu làng
nhỏ ngoại ô. Cuộc hành trình có thể
có vài nguy hiểm nhưng cả hai chúng tôi đều
đã dày kinh nghiệm tránh tuần tiễu và
thông thạo cách thức vượt qua các trạm gác.
Lúc này khung cảnh tù túng khó chịu
đã ảnh hưởng đến tâm thần và khiến chúng
tôi trở nên một phần tự kỷ ám thị.
Hôm ấy là một ngày đẹp trời. Chỉ cần ra
ngoài thôi cũng đủ làm tôi sảng khoái.
Tại nhà cô em họ người bạn, chúng tôi
dùng trà, nói chuyện và đi dạo với nhau
trong vườn. Đây quả thật là một phút nghỉ ngơi
mà cả hai chúng tôi đều cùng trông
đợi. Tuy thế chuyến về lại không hoàn toàn êm
xuôi như dự liệu.
Trên đường quay về tối đó, chúng tôi phải
ngừng ở nhiều trạm kiểm soát. Lần nào những đội "tự vệ
phố" cũng đều cho chúng tôi qua sau khi xem xét
giấy tờ. Tuy nhiên ở trạm cuối, một thiếu niên tự vệ
đã nhìn thấy có điều gì khả nghi trong giấy
tờ và cả hai chúng tôi đều bị điệu về một chỗ đồn
địa phương gần đó. Người bạn đi cùng tôi giả vờ
giận dữ tột độ. Anh quát to lên cho mọi người xung quanh
cùng nghe rằng chính anh là một thẩm phán
đến từ Vinh. Tôi là người phụ tá anh ta. Tại sao
chánh quyền địa phương lại có thể bắt chúng
tôi? Vì không thể chứng minh được lời khai và
cũng sợ trách nhiệm khi nghe người bạn tôi đe dọa
không chút dấu diếm, sau cùng chánh quyền
địa phương quyết định để cho chúng tôi đi.
Vừa về đến nhà chúng tôi vội vơ vét
hành trang và trốn ngay sang nhà một đảng
viên Đại Việt khác. Sáng sau chúng tôi
nghe rằng công an đã đến truy nã chỗ chúng
tôi ở. Biết chắc rằng mình đã bị truy nã,
tôi cùng người bạn chia tay. Tôi bắt đầu đi từ chỗ
này qua chỗ khác trốn tránh trong những căn
phòng chật hẹp hoặc những chỗ ở tối tăm, cùng với họ
hàng hoặc bạn bè.
Đúng vào lúc tôi đang bị truy nã gắt
gao thì chiến tranh bùng nổ. Vào mùa thu
1946, khi đàm phán thất bại tình hình căng
thẳng ở Việt Nam đã gia tăng. Hàng loạt biến động ở Hải
Phòng dẫn đến những cuộc đụng độ giữa quân đội Pháp
và Việt Minh vào ngày 23 tháng 10 trong khi
máy bay Pháp thả bom thành phố và một chiến
hạm Pháp đậu ngay tại bến quay súng bắn thẳng vào
các làng xóm chung quanh. Vào ngày
19-12, ông Hồ lên tiếng kêu gọi: "Hỡi đồng
bào," ông thúc dục, "Hãy đứng lên!...
Chúng ta thà hy sinh tất cả chứ không chịu mất tổ
quốc!" Gần như toàn thể dân chúng Việt Nam hưởng
ứng đáp lời. Mâu thuẫn thay, vào lúc
ông Hồ kêu gọi thì những người đã đứng ra
hưởng ứng việc chống Pháp trước đây đã bị Việt Minh
tiêu diệt gần như trọn bộ. Trong số những người không
thể
"đứng lên chiến đấu cho đất nước" như lời ông Hồ kêu
gọi là những đảng viên Đại Việt và VNQĐD đã
bị ông Võ Nguyên Giáp truy nã
tàn sát dọc theo sông Hồng hoặc đã bị
công an Việt Minh ruồng bố ở Hà Nội và Hải
Phòng.
Tin tức của cuộc chiến tranh Pháp Việt đến với tôi bằng
một tiếng nổ long trời mà tôi đã tưởng lầm
là tiếng sét. Tôi đang cùng bạn bè tụ
họp ngồi quanh chiếc bàn bên trong một căn nhà
chúng tôi cùng trốn và đang sửa soạn để ăn
tô mì thì bỗng có một tiếng nổ rung chuyển
mặt đất làm ngọn đèn lóe lên rồi phụt tắt.
Phải khoảng một phút sau đó chúng tôi mới
đoán ra là tiếng nổ đã phá hủy trạm điện
và một phút sau nữa để hiểu rằng chiến tranh đã
thực sự bắt đầu. Cuộc chiến tranh giữa Pháp và Việt Minh
lúc này đã cho tôi cơ hội thoát khỏi
tấm mạng ruồng bố của Việt Minh để tản về quê theo hàng
chục ngàn người tản cư. Khi chiến tranh chuyển thành
khốc
liệt thì dân chúng Hà Nội túa ra
thành một giòng tản cư kéo nhau ra khỏi
thành phố. Từng đoàn người kéo lê trong
ánh đêm, bỏ lại Hà Nội như một vùng đen thẫm
phía sau đã hoàn toàn mất hẳn ánh
đèn. Bầu không khí sợ hãi, nghi ngờ tỏa ra
ám ảnh đám đông. Thỉnh thoảng lại có tiếng
thì thào "Việt Gian, Việt Gian," (những người Việt Nam
phản bội hoặc tiếp tay dẫn đường cho Pháp.) Giữa đường
tản cư,
tôi gặp được một người bạn. Hai chúng tôi
cùng quyết định đi chung mặc dù chưa biết rõ
là phải đi đâu.
Tuy tôi rất muốn về Phủ Lý, chỗ gia đình tôi
đang còn trú ngụ, nhưng tôi biết rõ
là tôi đang bị Việt Minh truy nã và nếu về
nhà chắc chắn sẽ bị bắt. Vì không biết phải về
đâu, chúng tôi cứ lang thang từ làng
này qua làng khác đi theo từng giòng người
di tản. Sau cùng khi đã cạn hết cả tiền, tôi đổi
chiếc áo sơ mi dư lấy tiền đi đò ngang qua sông
và mua được hai củ khoai để cùng người bạn chia nhau ăn
tối. Chúng tôi cũng chẳng biết bữa cơm lần tới là
vào lúc nào. Trời đêm trên sông
thật là lặng lẽ và ảm đạm. Đây là đêm
đầu tiên trong những chuỗi ngày tôi chung sống với
người bạn. Tôi vẫn sống như thế nhiều đêm về sau và
sau này khi chia tay bạn, tôi đã sống như thế một
mình.
Con đò lênh đênh trên sông Đáy
là một loại đò thông thường dùng để
chuyên chở, chuyển vận trên sông ngòi Bắc
Phần. Đò dài khoảng 6 thước, phần giữa được che
mái đơn sơ, phía dưới là hành khách
co ro, ngồi sát vào nhau giữ lấy hơi ấm mặc dầu họ
là những kẻ lạ nhau hoàn toàn. Khi đò lướt
dần qua làng xóm, tâm sự của tôi cũng cay
đắng như mùa đông gió lạnh bên ngoài.
Người Việt Nam vào lúc này đang anh dũng chiến đấu
chống Pháp trong một cuộc chiến mà chính tôi
vẫn khao khát được góp phần. Nhưng "họ" đã
ép tôi phải đứng ngoài. Chính Việt Minh
là những người đã tàn sát bạn bè
tôi và buộc tôi phải xuôi đò về Nam
thay vì được quyền đứng vào cương vị chiến đấu như
tôi vẫn hằng ấp ủ.
Cơn thất vọng cứ ngấu nghiến làm tôi lắm lúc bứt
rứt gần như không chịu nổi. Tôi lại suy nghĩ về những
người
xung quanh, người này đang trở về cùng gia đình,
người kia sắp về chỗ cũ để tiếp tục buôn bán. Có lẽ
chẳng có ai là người phải âm thầm chịu đựng khổ sở
như tôi. Tự nhiên tôi nhớ lại cuốn phim Je Suis un
Évadé (Kẻ bị Tầm Nã) của Paul Muni. Tôi cảm
thấy mình cũng cô đơn và đang bị truy nã
chẳng khác nào nhân vật của Paul Muni. Lúc
này có lẽ chỉ có những thanh niên đã
sống qua cảnh tôi mới có thể cảm thấy hết được những cảm
giác mỉa mai của một người phải đứng nhìn lý tưởng
của mình đang trôi xa dần mà vẫn đành
thúc thủ vì tình thế cấm đoán.
Giữa những người tản cư trên đò và giữa những
làng ở hai bên bờ sông chỗ chúng tôi
ngừng cơn sợ hãi Việt Gian ngày càng lan
tràn. Lúc này Tự Vệ Địa Phương đang ở khắp mọi nơi
và bắt tất cả những người bị tình nghi. Giữ một tấm
gương
con cũng đủ để bị bắt vì tấm gương có thể dùng ra
hiệu cho máy bay. Mặc quần áo màu đỏ, trắng
và xanh (màu quốc kỳ Pháp) chắc chắn là dấu
hiệu chứng tỏ người mặc có cảm tình với thực dân
Pháp. Những người bị bắt bị tra hỏi không ngừng về gốc
gác quá khứ để kẻ tra hỏi biết rõ đích thực
họ là ai. Tôi sống trong những cơn sợ hãi chập
chùng, lo rằng mình sẽ bị bắt và sẽ bị tra hỏi cho
đến khi lộ rõ tông tích. Lắm lúc trong cơn
dằn vặt, tôi đã tự hỏi: "Phải chăng tôi là kẻ
phản quốc?"
Có lần đò đậu chỉ ở khoảng một ki-lô-mét
trong phạm vi Phủ Lý. Tôi cảm thấy vừa thống khổ, vừa
giận
dữ lại vừa cô đơn. Có lẽ những cảm giác này
phát xuất một phần cũng là vì tôi đã
cố hết sức đè nén những quyến rũ ngọt ngào đang
thúc đẩy tôi rời thuyền trở lại với gia đình bất
chấp hậu hoạn. Mặc dầu vậy, tôi vẫn cố tiếp tục xuôi
đò đến bến đò Gián Khuất. Khi tàu đang đậu
ở bến, tôi chợt nhớ rằng tôi có một người bạn học
cũ. Quê anh ta ở Gián Khuất. Lúc này
đò đã qua khỏi khu vực chiến tranh. Hơn nữa, tôi
đã cạn sạch tiền và cũng chẳng còn gì để
có thể đánh đổi. Tình cảnh gian nan lúc
này khiến tôi quyết định liều vào làng xem
thử họa may có thể tìm gặp được người bạn hoặc gia
đình anh ta hay không?
Chẳng bao lâu sau tôi tìm ra chỗ người bạn
còn đang cư ngụ. Gia đình anh ta vốn giàu
có trong làng, làm chủ một căn nhà lớn
và giao hảo mật thiết với chánh quyền Việt Minh địa
phương. Như vậy là tạm yên cho tôi.
Tôi ở lại Gián Khuất khoảng một tháng. Mặc dầu
Pháp đã bắt đầu từ Hà Nội đánh tỏa ra, dồn
quân đội vũ trang thô sơ của ông Giáp về
phía trước và quân Pháp đang từ từ
làm chủ tình hình. Khi quân Pháp
vào gần đến làng, tôi thấy rằng đã đến
lúc phải đi. Tôi mượn tiền anh bạn rồi tiếp tục theo
đò dọc trên sông Đáy. Mục đích của
tôi là tới Bái Thượng, trên biên giới
Lào, nơi tôi có một vài người bà con,
họ hàng xa cũng là những người ủng hộ Đại Việt. Tôi
dự định về đó tạm thời ẩn náu một thời gian.
Ngày nối tiếp đêm, tôi xuôi về hướng Nam, trở
lại những ngày lạnh lẽo và cô đơn đã tưởng
vĩnh viễn bỏ được sau tháng vừa qua. Nhiều ngày sau
tôi đến Phát Diệm là nơi trung tâm công
giáo Bắc Việt và cũng là một địa phương
không mấy có cảm tình với cộng sản. Tại Phát
Diệm mạng lưới Việt Minh thưa thớt trông thấy. Tôi thở
phào nhẹ nhõm. Đã từ bao lâu nay tôi
mới lại có dịp bỏ hẳn được việc phải nơm nớp tự phòng
vệ,
canh chừng.
Từ Phát Diệm tôi đi Thanh Hóa bằng xe đò.
Chiếc xe đò lần này cũng là loại xe Ô
Tô chạy bằng than tôi đã có dịp đi từ
Hà Nội vào Huế khi trước. Xe chở chúng tôi
đi qua những vùng đồng bằng phẳng lặng. Làng mạc
và ruộng lúa lộ ra qua những cánh cửa sổ đen nhờ
nhợ của xe hàng. Giữa phong cảnh phẳng lặng, dấu hiệu mù
mờ duy nhất chứng tỏ đất nước đang có chiến tranh là
cảnh
thỉnh thoảng lại có những nhóm nông dân tụ
tập, diễn hành xa xa dưới bóng cờ Việt Minh. Khi qua
Thanh Hóa, vùng đồng bằng chuyển thành đồi
và chẳng bao lâu sau những ngọn đồi xoai xoải bỗng nối
liền thành những núi non cao nguyên ở ranh giới
Lào. Ở Bái Thượng, tôi tìm đến nhà
những người họ hàng. Khi đến nơi cả người anh họ lẫn gia
đình ông đều ngạc nhiên và chào
đón tôi nồng hậu.
Chiến tranh chưa lan tràn đến ngôi làng hẻo
lánh này. Ngôi làng nằm trải dọc theo miền
đồi thưa thớt dân cư, mỗi nhà cách nhau khoảng ba,
bốn ki-lô-mét. Nông dân trồng khoai lang,
khoai mì và nuôi lợn, nuôi gà. Ở những
vùng biên giới quanh đây, các gia đình
phần đông sống cuộc sống tự túc. Khung cảnh đời sống đối
với hoàn cảnh tôi thật là thuận lợi. Sống với
ông anh họ, tôi có thể vừa biết rõ
tình hình làng xóm lại vừa tránh
được những cặp mắt tò mò. Tôi sống cùng
phòng với hai người con của người anh, rẫy ruộng trồng
khoai
và đọc sách vào những lúc rảnh rỗi.
Trong khung cảnh đời sống của gia đình ông anh họ,
tôi đã có dịp quan sát cách Việt Minh
làm chủ Bái Thượng. Tôi đã phải ngạc
nhiên trước tài tổ chức của Việt Minh dù là
ngay ở những vùng xa xôi hẻo lánh như vùng
này. Làng được một Ủy Ban Hành Chánh
kháng chiến mới thiết lập điều động. Ủy Ban giữ việc hội
họp,
giảng giải tin tức và tuyên truyền. Ngoài ra Ủy Ban
còn giữ trách nhiệm trông coi các vấn đề
kiểm soát chẳng hạn như tìm hiểu đời sống trong
làng xem ai đã đi đâu, người nào đang
liên lạc với người nào hoặc gia đình nào
có khuynh hướng chính trị ra sao. Đối với những người
như
anh họ tôi là những người ủng hộ một đảng phái
khác thì Ủy Ban theo dõi kỹ lưỡng. Lâu
lâu lại có người từ Ủy Ban đến nhà "ghé
thăm." Cứ mỗi lần nghe tiếng "cán bộ, cán bộ" từ dưới
đường vọng lên là tôi lại lẻn ra vườn ẩn nấp cho đến
khi họ về. Thường thì họ ngồi hàng giờ, uống trà,
thăm hỏi anh tôi về việc con cái, họ hàng trong
vùng. Họ hỏi anh tôi nghĩ thế nào về chiến tranh.
Những người ghé thăm chẳng có vẻ gì thù
nghịch rõ rệt trong khi nói chuyện. Ngược lại, anh
tôi cũng giữ mối giao hảo với cán bộ. Nhưng phía
sau bề mặt của tình xóm giềng, Ủy Ban Nhân
Dân đang cố kiểm soát đời sống riêng tư của những
gia đình ở vùng Bái Thượng.
Tôi ẩn nấp trong làng từ tháng 2-1946 cho đến
tháng 1-1947, gần một năm bị buộc phải tù túng
nhàn cư. Lúc này tôi chưa biết rõ
tương lai rồi sẽ ra sao. Tôi cũng không hiểu rõ liệu
có còn liên lạc được với Đại Việt hay không
hoặc liệu Đại Việt có thật sự còn hay đã
hoàn toàn chết hẳn. Việc ông Trương Tử Anh mất
tích đã khiến Đại Việt kiệt quệ và chính
tôi cũng đã mất liên lạc với đảng quá
lâu. Lúc này tôi thấy mình đã
nhúng tay quá sâu vào các hoạt động
chính trị. Nhưng với những tư tưởng quốc gia và đã
chống đối Việt Minh như tôi thì làm gì
còn có tương lai chính trị? Hoặc nói rộng
ra thì làm gì còn có bất cứ loại
tương lai nào khác? Tình cờ tôi tìm
được quyển The Razor 's Edge (Lưỡi Dao Cạo) của Somerset
Maugham. Cho
đến bây giờ tôi cũng không hiểu tại sao lại có
một quyển sách như quyển The Razor 's Edge ở một vùng
như
vùng Bái Thượng vào lúc đó. Chuyện
viết về một thanh niên Mỹ đi tìm chân lý.
Hành trình dẫn thành niên này đi qua
Đức, Pháp, Hy Lạp và sau cùng đến Ấn Độ để truy
nguyên ý nghĩa của những bí ẩn tiềm tàng
trong sự sinh và sự diệt. Sau cùng, ở đoạn cuối câu
chuyện, nhân vật chính đã tìm được những
yên tĩnh cần thiết cho nội tâm, nếu không muốn
nói là câu trả lời cho mục đích truy
nguyên ban đầu. Tôi đã đọc đi đọc lại quyển Lưỡi Dao
Cạo trong ấn bản tiếng Pháp tìm được lúc
này và đã thông cảm tột cùng những
suy tư của nhân vật chính. Có thể hành
trình của tôi chưa hẳn đúng là đi tìm
chân lý. Có lẽ tôi vẫn đang lần mò cố
tìm lấy vai trò đích thực của mình trong
công cuộc giải phóng đất nước. Nhưng dù sao đi nữa
thì đây là vẫn là một chuyến hành
trình vô định và tôi vẫn chưa hề tìm
được giải pháp.
Vào năm 1947 cuộc chiến ở vào vị thế dằng co. Các
lực lượng Pháp vẫn chiếm đóng tại các thành
phố trong khi quân Việt Minh dồn về phía đồng bằng.
Tôi đã liên lạc bằng thư được với ông
thân, lúc này đang là một nhân vật phụ
trách về vấn đề văn hóa cho chính quyền Việt Minh
tại "Khu 3" thuộc vùng Phủ Lý. Ông thân
tôi viết rằng ông sẽ lo liệu cho tôi trở về
bình an miễn là tôi tìm cách để
"phụng sự tốt cho quốc gia." Những tranh chấp giữa Việt
Minh và
Quốc Gia lúc này đã tạm yên. Tôi dời
đi Yên Mô, một tỉnh nhỏ gần Trung Tâm Công
Giáo của Phát Diệm.
Tại đây tôi mở một lớp học tư nho nhỏ dạy toán vừa
đủ để kiếm sống. Rồi có tin ông thân cho biết
tôi có thể hợp thức hóa tình trạng hiện
thời. Theo ông thân thì tôi chỉ cần tham gia
vào Ủy Ban Kháng Chiến của Việt Minh tại địa phương. Ủy
Ban này đang chờ tiếp nhận tôi. Đây có lẽ
là một cách lựa chọn hợp lý nhất. Gia nhập Ủy Ban
sẽ cho tôi đủ uy tín thoát khỏi mạng lưới
công an và có đủ thời giờ để dò hỏi,
tìm cách liên lạc lại với bạn cũ.
Ông thân tôi đã hoạch định mọi sự rất chu
đáo. Chẳng bao lâu sau tôi được giới thiệu với Việt
Minh tại Yên Mô là con trai của nhà nho
Bùi Kỷ, một học giả trọng tuổi đang phục vụ trong Ủy Ban
Hành Chánh Kháng Chiến Liên Khu 3. Tôi
cũng chẳng rõ liệu những người trong ban văn hóa địa
phương có biết rõ lai lịch quá khứ của tôi
hay không. Nhưng dù có biết hoặc có nghi ngờ
thì hiển nhiên là họ vẫn chịu đựng tôi.
Khi làm các công tác trong Ủy Ban
Kháng Chiến Việt Minh, trách nhiệm của tôi
có liên quan đến những vấn đề hoạch định những chương
trình giải trí, những chương trình tường thuật
thời sự và những chương trình tuyên truyền.
Tôi đi quanh làng xóm cùng với một số
cán bộ để đọc diễn văn, tổ chức triển lãm và cổ
động những bài hát yêu nước. Chúng tôi
triển lãm hình ảnh những cuộc chiến đang tiếp diễn,
hình ảnh những vùng giải phóng đang tiến triển.
Chúng tôi tường thuật những trận đánh, những
phát triển kinh tế mới nhất và thảo luận việc "Bác
Hồ đang anh dũng dẫn dắt quốc gia tiến đến Độc Lập."
Nhưng ngay cả
những khi đang tuyên truyền cho Việt Minh, tôi vẫn cố
tìm cách thoát thân. Tôi thấy
rõ mình đang hoàn toàn giả dối, bịa đặt
và tự kết luận rằng mình chẳng thể cứ nhắm mắt múa
may như thế mãi.
Cách Yên Mô khoảng hơn 10 cây số, Phát
Diệm có vẻ là nơi tôi có cơ hội tốt nhất để
liên lạc với những phần tử quốc gia chống Cộng khác.
Dân cư Phát Diệm gồm khoảng 30,000 người, phần đông
là Công Giáo. Bên trong Phát Diệm
toàn là Nhà Thờ, những trường học địa phương
và các lớp học đạo. Ngoài ra còn khoảng
100,000 người công giáo khác sống bao quanh
Phát Diệm. Mức độ cư ngụ đông đảo của các
tín đồ công giáo tại Phát Diệm đã
biến nơi này thành chỗ tụ họp công giáo
đông đảo nhất trong toàn thể lãnh thổ quốc gia.
Người lãnh đạo Phát Diệm là Đức Giám Mục
Lê Hữu Từ, một người nổi tiếng chống cộng. Ảnh hưởng và
quyền lực của Đức Giám Mục Từ đối với Phát Diệm và
những vùng lân cận được coi như tối thượng. Việt Minh
đã có thái độ hòa hoãn với Đức
Giám Mục Từ để tránh những sự đụng độ trực tiếp. Những
dễ
dãi của Việt Minh đã khiến Phát Diệm ngầm ngầm
có được quyền lực gần như tự trị.
Tôi hay lui tới Phát Diệm để tìm kiếm bạn bè
trong các đảng quốc gia và tìm hiểu tin tức về
những tình hình chiến sự. Đầu tiên thì khu
Công Giáo có vẻ là một nơi lạ lùng
đầy những thày đạo mặc áo the đen, quần trắng cùng
những nhà tu mặc áo dòng. Nhưng sau khi đã
đến Phát Diệm vài lần, cảm giác lạ tan lần
và tôi bắt đầu suy nghĩ về việc định cư tại đây thay
vì sống với những giả dối múa may ở Yên Mô.
Tôi cho rằng nếu liên lạc được đúng chỗ thì
cuộc sống ở Phát Diệm chắc chắn sẽ thoải mái và
tôi sẽ thoát được cảnh lúc nào cũng phải
canh chừng công an Việt Minh.
Tuy thế khi đã nhiều lần đến Phát Diệm mà
không hề liên lạc được với bạn bè cũ tôi lại
bắt đầu thất vọng. Ngày kia, khi lang thang trên đường
phố
chợ, tôi bỗng thấy một thiếu nữ đứng sau quầy hàng
bán các vật dụng linh tinh trông rất quen thuộc.
Hỏi thăm tôi biết được đây là em của người thiếu nữ
mà sau này là nhà tôi. Rồi tôi
còn được biết thêm rằng vì hoàn cảnh chiến
tranh xua đuổi, nên cả toàn thể gia đình cô
cũng đã rời Hà Nội xuôi về Phát Diệm sinh
sống. Cả gia đình cô lúc này đang còn
cư ngụ ở Phát Diệm. Theo như tôi nhớ thì bà
cụ nhạc tương lai của tôi không thích tôi lắm.
Bà cho là tôi mạo hiểm nhiều quá và
có vẻ là người thích phiêu lưu. Nhưng chuyện
này chẳng hề làm tôi giảm bớt hân hoan. Chỉ
ít lâu sau tôi đã làm quen trở lại với
gia đình bà nhạc tương lai.
Từ đó, bất kỳ lúc nào có dịp rảnh rỗi
tôi cũng đi bộ gần 20 cây số để tới Phát Diệm. Khi
đã gần gũi hơn với khu công giáo tôi
đã bắt đầu tìm được những đường giây liên lạc
mong mỏi. Lúc gặp được hai người bạn thân nhất ở đại học
lúc này cũng đang trốn tránh như tôi
vì đảng đã tan rã tôi hết sức vui mừng. Gặp
được tôi họ cũng vui mừng không kém. Chính họ
cũng đã từng sống cuộc đời bấp bênh vô định chẳng
khác gì tôi khi bị Việt Minh ruồng bố. Tìm
được hai người bạn tôi thu xếp rời ngay Yên Mô
và trốn về Phát Diệm.
Hòa hợp với người Phát Diệm cũng không lấy
gì làm khó khăn. Trong khu công giáo
tất cả tu sĩ, các vị thày và học sinh mặc
áo nhà dòng hoặc những đồng phục tương tự đều được
đối xử như huynh đệ trong tinh thần tôn giáo. Tôi
cũng mình mặc áo dài và quần trắng để
chuyển vào nhà nơi các bạn tôi đang sống
cùng các thày đạo và hòa hợp được
ngay.
Một trong những nhóm chính trị trong khu là một
nhóm thuộc ảnh hưởng của ông Ngô Đình Diệm.
Ông Diệm là một người công giáo và
là một chính trị gia có nhiều tham vọng. Ông
cũng chính là người mà ông chú
tôi đã đề nghị ông Bảo Đại nên tuyển
làm thủ tướng năm 1945. Anh ông Diệm là giám
mục địa phận Vĩnh Long và chính bản thân ông
Diệm cũng sống một cuộc đời kham khổ. (Nhiều năm sau ông
Diệm
đã đến một tu viện Mỹ sống cuộc đời Nhà Tu và
làm bạn với Đức Hồng Y vùng New York là Hồng Y
Spellman.)
Ít lâu sau, tôi và hai người bạn là
Lê Quang Luật và Nghiêm Xuân Hồng bắt đầu hội
họp với những người ủng hộ ông Diệm. Chúng tôi bắt
đầu thảo luận việc tụ họp thành một mặt trận quốc gia.
Cả ba
chúng tôi đều đã mất liên lạc với đảng Đại
Việt khá lâu và đang nóng lòng tiếp
tục công việc. Tất cả đều không muốn khoanh tay nhìn
Việt Minh làm chủ tình thế. Lúc này ở
Phát Diệm đã có rất nhiều người chống đối Việt
Minh và chúng tôi cho rằng phải tìm
cách hướng dẫn những khuynh hướng này.
Công việc đầu tiên của chúng tôi là
tuyển mộ và huấn luyện cán bộ. Nhờ được những người theo
ông Diệm ủng hộ, chúng tôi đã thu hút
được khoảng 15 đến 20 thày đạo và học sinh rồi bắt đầu
mở
lớp huấn luyện cho họ. Chương trình của chúng tôi
bao gồm cả lý thuyết lẫn thực hành của việc cần thiết
phải chống lại chủ nghĩa cộng sản. Cả hai ông Luật và
ông Hồng đều ra công đặt hết tâm trí
vào việc giảng dạy. Trong lúc giảng, chính
chúng tôi cũng cố sức vận dụng luận lý để có
thể tạo ra những nguyên tắc căn bản có thể dùng
làm cương lĩnh cho một chủ nghĩa quốc gia. Chẳng những
chúng tôi chỉ chống đối những áp đặt quyền lực sai
lầm của chủ nghĩa cộng sản tại Việt Nam mà chúng
tôi còn đưa ra cả những khuyết điểm của các
chính sách kinh tế và chính trị của Cộng
Sản khi đem áp dụng vào một nước nhỏ và chưa
phát triển hoàn toàn như Việt Nam. Trong khi
đó thì chủ nghĩa tư bản lại thiếu những nề nếp luân
lý căn bản thiết yếu cần phải có trong xã hội Việt
Nam. Tuy đã cố gắng tột độ mà cả ba chúng
tôi vẫn cảm thấy hình như giải pháp kiện
toàn lúc nào cũng chỉ ở vừa khỏi tầm tay.
Khi đã chán bàn luận chính trị,
chúng tôi bàn luận văn chương và khi
đã chán bàn luận văn chương chúng tôi
lại đọc thơ hoặc ngâm to cho tất cả cùng nghe vào
những giờ rảnh rỗi. Thời gian còn lại chỉ vừa đủ cho
chúng tôi có thời giờ giảng dạy các lớp.
Công việc giảng dạy kích thích thần trí
và đòi hỏi suy tư rất nhiều nên chúng
tôi có cảm giác là mình chẳng bao giờ
cần ngủ. Thỉnh thoảng, khi rảnh rỗi tôi lại xuống thăm
gia
đình bà nhạc. Lúc này tôi là
một thanh niên vừa bận bịu với công việc, vừa bận bịu
với
những tình cảm yêu đương lần đầu. Đây quả là
một thời gian đáng nhớ của tuổi trẻ.
Rất ít người công giáo trong lớp hoặc những người
công giáo giao tiếp với chúng tôi biết
rõ tôi là không phải là người đạo
công giáo. Thấy tôi mặc áo dài the
đen, phần đông những học viên đều cho rằng tôi
là một vị thày đạo và chắc chắn là một
người sắp sửa được phong làm linh mục. Họ gọi tôi
là "thày già" và đã có lần
xin tôi cầu nguyện trong một buổi lễ hành xác.
Vì chẳng nhớ gì ngoài câu "Lạy Cha"
đã được nghe nhiều lần trong các buổi cầu kinh, tôi
điếng người vì sợ. Suốt buổi cầu nguyện hôm đó
tôi ê a bằng một giọng đọc kinh nửa mơ hồ, thì
thào nửa lùng bùng không thành chữ
chỉ có những câu "Lạy Cha" ở những đoạn cuối cùng
thì đã vừa to lại vừa rõ.
Vào cuối năm 1948, tin tức lan truyền qua Phát Diệm rằng
Pháp tuyên bố sẽ thừa nhận Việt Nam độc lập nhưng
không chấp thuận việc để cộng sản cầm đầu. Chi tiết hơn
nữa
thì Pháp muốn ông Bảo Đại tiếp tục nắm quyền
và hình như đã yêu cầu ông Bảo Đại
đứng ra thiết lập chánh phủ mới. Tin tức còn nói
rằng ông Bảo Đại đã nhận lời. Ông Bảo Đại
không ủng hộ Việt Minh nhưng cũng tuyên bố rằng ông
chỉ chịu đứng ra lập chính phủ nếu Pháp thực sự trao trả
độc lập cho Việt Nam.
Trong khi đó những tin tức khác cũng lan truyền khắp
nơi.
Ông chú tôi cũng đã từ Hồng Kông về lại
Việt Nam và đang ở Sài Gòn nơi Pháp
hãy còn chiếm đóng. Ông Ngô
Đình Diệm cũng ở Sài Gòn nhưng vẫn cẩn thận
tránh xa những gì Pháp chủ trương, ít nhất
là ông đang cố tránh xa những điều Pháp chủ
trương vào lúc này. Sau hai năm chiến tranh dằng
co mà vẫn chưa có giải pháp quân sự thỏa
đáng lúc này Pháp đang cố tìm một
giải pháp chính trị khác. Nhưng họ sẽ chịu nhượng
bộ đến mức nào?
Trong khung cảnh tương đối yên tĩnh của khu công
giáo, Hồng, Luật và tôi đều chăm chú lắng
nghe tình hình. Chúng tôi có đủ
thông minh để hiểu rằng dự định tổ chức một phòng
trào chính trị do chính chúng tôi
phát động chẳng qua chỉ là một chuyện thiếu thực tế
phát xuất phần nhiều do thất vọng thúc đẩy. Tuy
chúng tôi chẳng thể tự mình đưa ra giải pháp
cho các phần tử quốc gia nhưng có thể những dự định của
ông Bảo Đại sẽ làm được chuyện đó. Mặc dầu từ trước
đến nay, ông Bảo Đại chưa hề có hành động
nào chứng tỏ ông có đủ năng lực hoặc quyết
tâm và đã hẳn ông quả không phải
là một chính khách quả quyết, nhưng ông vẫn
được mọi người ủng hộ. Việc ông thoái vị đã chứng
tỏ rằng ít ra ông cũng có thể đặt quyền lợi của
quốc gia lên trên quyền lợi cá nhân. Tất cả
đều còn nhớ câu tuyên bố thà làm
công dân của một quốc gia tự do còn hơn làm
vua một nước nô lệ.
Lúc này một vài người trong nhóm
chúng tôi trở về Hà Nội, Hải Phòng để
tìm hiểu tin tức. Họ đã gửi đại biểu đến cả Sài
Gòn và đến cả chỗ ông Ngô Đình Diệm để
tham khảo những nhận xét của ông về tình
hình lúc này. Thật ra vấn đề nan giải nhất của
những phần tử quốc gia, những người ủng hộ ông Diệm,
những đảng
viên Đại Việt và những đảng viên VNQĐD là cần
phải tìm người lãnh đạo.
Chúng tôi biết rằng mình đang bị đặt vào một
tình thế khó xử. Một mặt chúng tôi muốn độc
lập cho quốc gia; Đây vốn là mục đích của tất cả
mọi hành động. Mặt khác chúng tôi lại sợ
rằng rồi đây mình sẽ bị cô lập trong cuộc chiến
chống Pháp. Tất cả những phần tử quốc gia đều biết rõ
rằng nếu để Việt Minh làm chủ tình hình thì
sau khi độc lập cộng sản sẽ diệt trừ họ đầu tiên. Bất kể
họ bất
đồng ý kiến ra sao, tất cả các phần tử quốc gia đều
cùng đồng quan điểm trên vấn đề này. Tất cả đều
đã mục kích rõ ràng các thủ đoạn của
Việt Minh chẳng hạn như những Ủy Ban Nhân Dân, những bộ
máy công an, những đội ám sát và
những ruồng bố, áp đặt để thỏa mãn tham vọng nắm trọn
quyền hành của họ trước đây. Một khi Việt Minh đã
làm chủ tình hình thì chẳng bao giờ họ lại
để các phần tử quốc gia sống sót.
Trong tình thế này chúng tôi có thể
miễn cưỡng chấp thuận giải pháp Bảo Đại. Tuy rằng hợp
tác
với Pháp dù là bằng cách nào cũng
làm chúng tôi ghê sợ nhưng nếu chấp nhận đưa
tương lai quốc gia và số mệnh của tất cả vào tay những
nhân vật như ông Hồ và Võ Nguyên
Giáp thì sự thể cũng chẳng khác nhau bao
nhiêu.
Trong rất nhiều tháng cả Hồng, Luật lẫn tôi đều phân
vân, bối rối không hiểu phải nên theo giải
pháp nào. Chúng tôi để hết tâm
trí vào những tiếng rè rè của chiếc radio
cổ lỗ cố gắng tìm hiểu tin tức. Chúng tôi nghe rằng
Pháp đã tuyên bố rõ ràng, hứa sẽ
nhìn nhận độc lập của Việt Nam. Đây là một điều
mà họ chưa bao giờ đề cập đến khi đàm phán với
Việt Minh. Sau cùng chúng tôi cho rằng chẳng thể
tin được lời tường thuật của những người khác và
đã kết luận tự mình phải tìm hiểu rõ rệt
mọi chuyện trước khi có thể quyết định bất cứ điều gì.
Tự
mình tìm hiểu tin tức có nghĩa là phải vượt
ra khỏi vùng Việt Minh chiếm đóng. Nhưng tôi quyết
định phải gặp ông thân trước đã.
Vào mùa xuân năm 1949, cả gia đình tôi
gồm ông thân, mẹ tôi và các anh chị đều
chung sống ở một ngôi làng nhỏ gần Phủ Lý. Phủ
Lý không còn nữa. Ngôi làng đã
bị chính dân làng thiêu hủy sau một cuộc
chiến tranh tiêu thổ kháng chiến. Lúc này
ông thân tôi đã được nhiều người biết đến
trong khu Việt Minh. Anh tôi -lớn hơn tôi 7 tuổi đang
là giáo sư văn chương- cũng đã làm việc với
Việt Minh. Tuy thế chính trị chưa phải là một vấn đề ảnh
hưởng đến sinh hoạt và đời sống tình cảm trong gia
đình chúng tôi.
Khoảng cuối tháng 4 tôi lẻn ra khỏi khu Công
Giáo trên một chiếc thuyền con đi ngược dòng về Phủ
Lý. Tôi ở lại nhà ba ngày quây quần
bên gia đình. Nỗi hân hoan chỉ bị mất đi phần
nào khi chúng tôi biết rằng rồi đây chiến
tranh sẽ lại chia cắt chúng tôi và thời gian chia
cắt lần tới có thể còn lâu hơn nữa. Tôi
trình bày với ông thân những lý do
tôi cần về Hà Nội và nói thêm rằng
tôi đang sửa soạn về Hà Nội, không hiểu ông cụ
nghĩ sao? Tôi bảo rằng tôi không thể ở lại bên
cạnh gia đình để giả dối rằng mình đang nhiệt tâm
ủng hộ một cuộc cách mạng mà trong tâm tôi
hoàn toàn chống đối.
Khi nghe nói đến cảnh chia cắt gia đình thì
ông cụ tôi cũng băn khoăn bứt rứt chẳng khác
gì tôi. Một khi chúng tôi đã ở hai
bên của làn ranh giới Pháp-Việt Minh thì
chẳng ai còn có thể cả quyết được ngày gặp lại.
Tuy vậy, ông thân đã hiểu và hoàn
toàn thông cảm cho tôi. Thay vì cản ngăn
ông đã tiễn tôi trên quãng đường đầu
của chuyến đi thuyền trở về Phát Diệm. Ông cốt cố
kéo dài cuộc đưa tiễn càng lâu càng
tốt. Khi chia tay giã từ ông thân tại bến sông
Đáy thì cả tôi lẫn ông thân đều
có cảm giác rằng đây là lần chót. Đau
buồn thay vì rồi đây cảm giác này lại chuyển
dần thành sự thực. Những biến cố cắt lìa quê hương
chẳng hề bỏ qua hoàn cảnh của chúng tôi cũng như
đã chẳng hề bỏ qua cho bao nhiêu trăm ngàn gia
đình Việt Nam khác.
Sau khi chia tay ông thân, tôi trở lại khu công
giáo để cùng Hồng và Luật hoạch định chương
trình hoạt động. Từ Phát Diệm chúng tôi sẽ
phải tìm đường vượt qua một khu vực bờ biển nơi Việt
Minh canh
gác kỹ lưỡng rồi đi thuyền tới Hải Phòng. Vì khu
vực này nằm dưới sự kiểm soát của Việt Minh, chúng
tôi quyết định sẽ đi riêng rẽ. Chúng tôi cố đi
thành những nhóm thật nhỏ để tránh bị phát
giác. Hơn nữa, chúng tôi còn chia nhau tản
ra để khỏi bị bắt cùng một lúc.
Đến đầu tháng 5 thì tới phiên tôi lên
đường. Trong một đêm mưa âm u, tôi đi theo một
cán bộ công giáo mang súng Sten đi về
mé bờ biển. Trong bóng tối dày đặc, tôi
không nhìn thấy gì. Bỗng người dẫn đường dừng bước
chăm chú nghe ngóng. Rồi không hề ra hiệu cho
tôi, anh thình lình nhảy vọt về phía bờ
biển. Trong bóng tối tôi nghe giọng anh ta trầm và
thật sắc: "Nhân danh phong trào quốc gia Việt Nam,
tôi kêu gọi các anh giúp đỡ." Một giây
sau tôi đến cạnh anh để cùng phụ đẩy một chiếc thuyền
chài do hai người thuyền chài đầy vẻ sợ sệt đang điều
khiển. Dưới trời mưa tầm tã, chúng tôi phải mất ba
giờ để đến nơi một chiếc thuyền con đang đậu ngoài khơi
chờ đợi.
Ngay cả sau khi đã lên thuyền tôi vẫn chẳng thể gạt
bỏ được những ám ảnh khốn khổ đã trải qua khi lênh
đênh trên biển vào lần trước đây. Sau một
ngày đầu tương đối êm dịu, cơn sợ hãi lại chuyển
thành sự thật. Mưa làm chiếc thuyền con tròng
trành và biển động dữ dội, xô những con sóng
cao đập bổ vào bong. Vào ngày thứ hai, cột buồm
chính đã bị sóng đánh gãy và
thuyền cứ lênh đênh tự trôi dạt vào bờ.
Trên thuyền hành khách hoàn toàn
náo động. Tất cả hành khách đều sợ tàu sẽ
trôi quanh và lọt vào khu vực tuần tiễu của Việt
Minh. Nhưng sau đó đội thủy thủ trên thuyền đã cố
gắng dựng tạm một cột buồm nhỏ hơn và lại đưa thuyền một
lần nữa
hướng ra biển.
Nhờ vào buồm phụ, ba ngày sau chúng tôi đến
Hải Phòng. Lúc thuyền cặp bến nỗi vui mừng thoát
hiểm bỗng nhiên tắt ngấm khi tôi chợt nhớ rằng mình
đang đứng trong một vùng lãnh thổ do chính
Pháp kiểm soát. Đây quả là một cảm
giác khó chịu vô tả.
9.
Giải
Pháp
Bảo
Đại
Khi tàu cặp bến Hải Phòng và thuyền đi vào
vòng kiểm soát của Pháp, cảnh sát đã
giữ tôi lại để tra vấn. Cuộc tra vấn chỉ rất qua loa.
Tôi
vốn đã đến từ Phát Diệm, trên một chiếc thuyền chở
đầy những người công giáo tản cư nên cảnh sát
đã tin tôi không phải là Việt Minh. Mặc
dù vậy, đương lúc điều tra những cảnh sát Việt Nam
đang làm việc cho người Pháp đã bắt đầu làm
tôi cảm thấy khó chịu. Nhìn những sĩ quan
Pháp đi quanh trạm cảnh sát ra lệnh cho mọi người
tôi không nén nổi căm giận. Quả là một sự
nhục nhã khó tưởng! Trước mắt tôi guồng máy
thực dân mặc nhiên hoành hành, như thể chưa
từng có ngày độc lập trước đây bao giờ. Lúc
này vì mới từ Phát Diệm trốn vào, khi chứng
kiến những điều đang xảy ra trước mắt, tôi tự hỏi:
"Phải chăng từ
giờ trở đi mình sẽ phải chấp nhận những điều trông
thấy?"
Khung cảnh trước mắt còn khiến tôi phân vân tự
hỏi chẳng hiểu quyết định rời Phát Diệm của chúng
tôi có đúng hay không? Sau nhiều ngày
chịu đựng thống khổ với những cảnh khó chịu ở Hải
Phòng
tôi rời Hải Phòng để về Hà Nội.
May mắn thay tại Hà Nội những điều tôi trông thấy
lại hoàn toàn khác hẳn. Tôi được gặp
ông Phan Huy Quát gần như lập tức. Ông Quát
là vị bác sĩ làm Đổng Lý Văn Phòng
trong chánh phủ của chú tôi lúc trước.
Lúc này tuy vẫn đang bận bịu về nghề nghiệp ông vẫn
theo sát tình hình chính trị. Sau khi
nói chuyện với ông Quát được giây lát
thì ông thú thực với tôi rằng chính
ông cũng là cảm tình viên của đảng Đại Việt.
Đảng hiện đã chỉnh đốn lại tuy rằng không hẳn thực sự
như
ngày xưa nữa. Lúc này vẫn chưa ai có đủ khả
năng để chấn chỉnh lại guồng máy của đảng hoặc thay
thế được
ông Trương Tử Anh. Mặc dù vậy, lúc này một
chủ trương khác đang được nhiều người ủng hộ là chủ
trương hòa hợp những nguyên tắc Dân Tộc Sinh Tồn của
Đại Việt với những nguyên tắc dân chủ. Chủ trương
này đang thu hút được nhiều người khác, trong số
có cả những người đã từng trải và có quan
niệm chính trị sắc bén chẳng hạn như bác sĩ
Quát.
Khi bắt đầu gặp những người mới trong đảng Đại Việt,
tôi thấy
rằng họ ít có khuynh hướng cách mạng so với những
sinh viên vốn là thành phần nòng cốt của
đảng trước đây trong những ngày đảng hãy còn
toan tính đương đầu với Pháp bằng bạo lực. Những đảng
viên Đại Việt tôi gặp lúc này đều lớn tuổi
và có vẻ nghiêm trang hơn các đảng
viên sinh viên khi trước. Trông họ có vẻ giống
những nhà nho trong nội các của chú tôi hơn
là những người mang súng vận động hăng say, nhiệt
tâm làm việc dưới sự lãnh đạo của ông Trương
Tử Anh. Tuy vậy, những đảng viên cũ của Đại Việt cũng
chưa
hoàn toàn mất hẳn. Vào mùa thu năm 1949
đã có rất nhiều đảng viên sống sót từ Trung
Hoa hoặc những nơi ẩn nấp xa xăm trở về Hà Nội. Họ
cũng bị những
tin tức về việc Giải Pháp Bảo Đại có thể dành lại
độc lập thu hút chẳng khác gì tôi. Và
cũng như tôi, họ hy vọng có thể tìm được một lối
thoát cho họ nói riêng và cho cả tổ quốc
nói chung.
Bác sĩ Quát cho tôi biết rằng chú tôi
đã từ Hồng Kông về Sài Gòn trở lại nhưng
lúc này ông đang ở Nam Vang, thủ đô của Cam
Bốt. Lần cuối tôi gặp chú tôi là lần gặp
cách đây đã ba năm về trước ở biên giới Trung
Hoa, khi tôi thu xếp cho ông thoát khỏi Việt Minh.
Vì lúc này hãy còn chưa làm
gì nên tôi rất muốn gặp ông. Qua nhiều năm
chung sống, những liên hệ tình cảm của hai chúng
tôi đã tiến đến mức gần như cha con. Lúc
này, tôi cảm thấy chuyện gặp ông thật cần thiết.
Tôi muốn biết rõ những việc đã xảy ra sau khi
chúng tôi chia tay. Hơn nữa, tôi muốn nghe ông
nhận xét những biến chuyển lúc này. Tôi cũng
muốn tìm hiểu xem ông định sẽ làm gì.
Vì thế tôi đã mượn tiền của một số bạn bè để
sửa soạn cho chuyến hành trình sang Cam Bốt. Tôi
bắt đầu bay từ Hà Nội vào Sài Gòn rồi từ
đó đáp một chuyến bay khác trên chiếc Dakota
cổ lỗ của hãng Air France để đến thẳng Nam Vang. Nam
Vang
là một chỗ yên tĩnh nhất trong tất cả các chỗ
mà tôi đã từng đi qua. Đây là một chỗ
lý tưởng cho những người muốn tìm yên tĩnh.
Chú tôi đã chọn Nam Vang chính vì
lý do này. Ở Nam Vang chẳng ai có thể quấy rối
ông trong khi ông đang cần nghỉ ngơi và lượng định
tình hình Việt Nam.
Lúc đến nơi, tôi đến ngay căn nhà nhỏ chú
tôi mướn ở ngoại ô. Buổi sáng sau khi đã điểm
tâm bằng sầu riêng, chúng tôi cùng nhau
tản bộ trong bầu không khí ấm áp và
nhàn tản của Nam Vang, đến bên giòng Mê
Kông rộng lớn đang lặng lẽ chảy qua thủ đô. Tôi
cùng chú tôi ngồi trên bờ sông kể cho
nhau nghe chuyện từ ba năm về trước. Tôi kể chuyện ông
Trương Tử Anh, chuyện những công việc tôi làm với
Việt Minh và những dự định riêng trong việc tổ chức
một
phong trào tại Phát Diệm trong khi chú tôi
kể lại những khó khăn mà ông đã phải trải
qua ở Trung Hoa.
Chú tôi cho biết rằng ông đã phải khốn khổ ở
Hồng Kông. Đường dây tiếp tế của tôi chỉ hoạt động
chập chờn lúc có lúc không đến khi ông
Trương Tử Anh mất tích thì cả đường dây này
cũng bị cắt đứt hoàn toàn. Chú tôi
hoàn toàn kiệt quệ tài chánh. Đôi
lúc ông Bảo Đại có giúp đỡ ông, nhưng
nhiều khi chính ông Bảo Đại cũng không có
tiền. Cuối cùng khi đã rõ ràng rằng ở Trung
Hoa chẳng làm được gì, ông chú tôi lại
về Sài Gòn để sống chung với gia đình. Nhưng ở
Sài Gòn người Pháp nhất định không để
ông yên. Họ thúc đẩy làm áp lực buộc
ông giữ một vai trò chính trị. Tuy đã biết
rõ thái độ của ông đối với chánh quyền thực
dân, Pháp vẫn cho rằng nếu có thể thuyết phục được
ông ủng hộ Giải Pháp Bảo Đại thì giải pháp
này chắc chắn sẽ có nhiều hy vọng thành
công.
Vì Pháp nhất định không để ông yên,
ông đã phải tìm cách lẩn tránh sang
Cam Bốt. Ông có vẻ bi quan khi nhìn tình
hình lúc đó vì đã thấy rõ cả
những lợi điểm của Việt Minh lẫn những nhược điểm của
các đảng
phái quốc gia. Ông tin rằng Giải Pháp Bảo Đại
khó có thể thành công. Nếu thật sự thỏa
thuận giữa ông Bảo Đại và Pháp có thể xảy ra
thì ông cho rằng việc đó cũng là việc
hãy còn xa. Vì quan niệm như vậy nên
chú tôi không đặt hết tin tưởng vào giải
pháp Bảo Đại.
Mặc dầu đồng quan điểm với chú tôi, tôi vẫn
bác bỏ những nhận xét bi quan của ông. Càng
ngày tôi càng tin rằng chỉ có hai
cách để lựa chọn: Một là bỏ tất cả, hai là hy vọng
Giải Pháp Bảo Đại thành công. Sau hai tuần
bàn cãi những chuyện này với chú tôi
ở Nam Vang, tôi bay về Hà Nội chờ xem diễn biến và
mong mỏi rằng sự nhượng bộ của Pháp về vấn đề độc lập
sẽ ở
vào một mức độ đủ để các phần tử quốc gia có thể
có lý do ủng hộ ông Bảo Đại.
Qua năm 1948, ông Bảo Đại và Pháp đã
trên đà thỏa thuận. Vào tháng 6, họ
ký kết một thỏa hiệp gọi là thỏa hiệp Vịnh Hạ Long.
Trong
thỏa hiệp này Pháp thực sự đồng ý "long trọng
nhìn nhận Việt Nam độc lập."
Đây là điểm then chốt và cũng chính
là điểm mà tôi cũng như nhiều người khác
đã cùng mong mỏi. Trước đây, chưa bao giờ
Pháp chánh thức đặt hai chữ "độc lập" vào bất cứ
một tài liệu nào. Chẳng hạn như hiệp định giữa ông
Hồ và Sainteny vào năm 1946, khi Pháp không
chịu ký kết, đã đề cập đến Việt Nam như "một quốc gia
tự
do... nằm trong khối Liên Hiệp Pháp." Lúc
này chúng tôi đã bỏ ra rất nhiều thì
giờ cố xem xét và bàn luận thấu đáo về
những ý nghĩa của bản thỏa hiệp. Việc Pháp tuyên bố
long trọng nhìn nhận Việt Nam độc lập đã khiến đa số
các thành phần quốc gia cho rằng ông Bảo Đại
đã dành được bằng đàm phán những điều
mà Việt Minh vẫn chưa đoạt được trong suốt cả hai năm
chiến
tranh, tuy rằng đây mới chỉ là trên giấy tờ.
Chứng cớ ngày một rõ ràng rằng ông Bảo Đại
đã thực sự đạt được vài thắng lợi căn bản. Chỉ có
một điểm bất lợi duy nhất của sự thỏa thuận giữa ông
Bảo Đại
và Pháp là: Nam phần, lúc bấy giờ
còn gọi là CochinChine vẫn lệ thuộc vào
Pháp, cho đến khi Hội Đồng Địa Phương của Nam Phần
chánh
thức bỏ phiếu chấp thuận việc sát nhập Nam Phần vào
lãnh thổ Việt Nam. Và vì đa số nhân
viên của Hội Đồng Địa Phương của Nam Phần đều là những
người thân Pháp, thể thức bầu cử chỉ là một thủ tục
mang vẻ hình thức và qui tắc mà thôi. Tuy
Pháp đã gây áp lực bắt ông Bảo Đại
phải về Việt Nam, (Trong khi đàm phán ông Bảo Đại
vẫn ở Pháp) ông Bảo Đại vẫn nhất định đợi chờ cho đến
khi
Hội Đồng Địa Phương chánh thức bỏ phiếu sát nhập
CochinChine vào lãnh thổ Việt Nam.
Sau cùng Hội Đồng Địa Phương đã bỏ phiếu vào
tháng chạp. Ông Bảo Đại chỉ chịu trở lại chức vụ Quốc
Trưởng sau khi ông đã ký kết thỏa hiệp
Élysée chính thức công nhận Việt Nam hợp
nhất. Sau khi trở lại làm Quốc Trưởng, ông Bảo Đại trở
về
Việt Nam vào tháng giêng năm 1949 để thiết lập một
chánh phủ với nhiệm vụ là đàm phán với
Pháp để thực hiện những điều đã ký kết.
Khoảng một thời gian ngắn sau đó, ông Bảo Đại trở về
Đà Lạt. Từ Đà Lạt ông Bảo Đại gửi thư cho tất cả
các thành phần quốc gia để mời họ cùng về
Đà Lạt tham khảo ý kiến. Hưởng ứng lời mời của ông
Bảo Đại, tôi cùng bác sĩ Phan Huy Quát
và người bạn giới thiệu tôi vào Đại Việt khi trước
là bác sĩ Đặng Văn Sung cùng rời Hà Nội bay
về Đà Lạt.
Vào buổi sáng ngày hẹn, cả ba chúng
tôi cùng đến biệt điện. Khi đến nơi chúng tôi
được dẫn vào phòng khách để chờ cuộc họp. Mặc dầu
đã có lần cùng sống với chú tôi ở Huế
vào khi ông Bảo Đại còn ở hoàng cung,
tôi vẫn chưa có dịp chính thức gặp gỡ ông Bảo
Đại và cũng rất tò mò không hiểu ông
ta thực sự ra sao.
Lúc chúng tôi bước vào căn phòng
bày biện trang nhã thì ông Bảo Đại cũng vừa
từ một phòng khác bước ra. Ông ta mặc âu phục
trắng. Ngay từ lúc ông Bảo Đại bước vào, tôi
đã chú ý đến phong cách nhàn
nhã của ông. ông có vẻ thân thiện,
hòa nhã và vô cùng thong thả trong
câu chuyện. Ông không hề bỏ qua những câu
chào hỏi thông thường để tiến vào vấn đề
chính. Trong khi đó thì chúng tôi lại
hết sức nóng lòng, không biết phải làm thế
nào để tìm hiểu ngay về những điều ký kết giữa
ông và người Pháp. Chẳng những vậy, chúng
tôi còn muốn biết rõ thêm ông đang chờ
đợi ở chúng tôi những gì?
Cuối cùng việc gì phải đến đã đến. Ông Bảo
Đại đi vào vấn đề. Ông nói: "Chúng ta
đã dành được phần nào độc lập. Tuy tôi chưa
thể đòi hỏi Pháp phải chấp nhận tất cả những điều
tôi muốn, nhưng ít ra chúng ta cũng có một
cái khuôn. Chúng ta đã có một
chánh phủ Việt Nam. Kể từ bước này dĩ nhiên vấn đề
vẫn còn tùy thuộc vào họ nhiều vì họ phải
thực hiện những điều đã ký kết, nhưng một phần của vấn
đề
cũng tùy thuộc vào chúng ta nữa... Các
ông nghĩ là các ông có thể giúp
tôi thành lập chánh phủ được không?"
Đây chính là câu hỏi chúng tôi
đã tự hỏi nhiều lần, nhưng ông Bảo Đại cũng không
đòi hỏi chúng tôi phải trả lời ngay. Ông tiếp
lời rằng: "Chúng ta sẽ liên lạc với nhau sau về vấn đề
này." Ông Bảo Đại cũng không quên gửi lời hỏi
thăm chú tôi. Ông còn dặn thêm rằng
"Nhớ bảo với cụ Kim là lần này chúng ta phải thận
trọng nếu không lại sẽ bị lừa như lần trước đây." Tôi
biết ông Bảo Đại đang nói đến vấn đề Việt Minh cướp
chính quyền, khi ông vô tình bị dụ
chánh thức công nhận Việt Minh trong vai trò "Cố
Vấn Tối Cao" của ông Hồ trước đây. Có lẽ ông
muốn ám chỉ rằng chẳng phải chỉ riêng ông mà
còn rất nhiều các đảng viên quốc gia khác
cũng cùng đồng cảnh ngộ. Sau đó ông gián
tiếp đề nghị rằng vì đã cùng bị sa bẫy Việt Minh
lúc trước, ông và các phần tử quốc gia
lúc này nên cùng nhau hợp tác. Cảm
tưởng của tôi lúc bấy giờ là: "Ông vua
này có vẻ hờ hững với việc quốc gia, nhưng lập luận
của
ông cũng không phải là lập luận của người
không hiểu biết thời cuộc và nhân tình thế
thái." Mặc dầu qua lần gặp gỡ đầu tiên ông Bảo Đại
có vẻ dễ dãi và thân thiện, trong các
cuộc nói chuyện về sau ông có vẻ cương quyết hơn.
ông Bảo Đại nói với chúng tôi rằng "Thật ra,
chính là vì những người như các ông
và bạn bè các ông mà tôi
đã quyết định cùng Pháp điều đình. Việc
các ông muốn tôi điều đình là việc
đã rõ rành rành. Giờ tôi đã
làm xong việc thì các ông phải giúp
tôi. Dù rằng tôi chưa hoàn toàn
đòi hỏi được tất cả mọi điều như ý muốn nhưng tôi
cũng đã làm được một phần! Nếu các ông
không chịu giúp tôi thì tôi phải
làm gì bây giờ?"
Đây quả là một vấn đề nan giải chẳng những chỉ cho
chúng tôi mà còn cho cả những người quốc gia
khác đã được ông Bảo Đại mời tới Đà Lạt.
Chúng tôi thật là ngần ngại với những lời hứa mong
manh của Pháp. Tất cả đều biết rõ người Pháp sẽ
làm tất cả mọi việc trong phạm vi quyền lực của họ để
trì
hoãn, kéo dài thì giờ hoặc chối bỏ thỏa
hiệp nếu tình thế cho phép. Nếu Pháp tráo
trở hẳn nhiên tất cả những người cộng tác lúc
này sẽ bị coi là tay sai của Pháp.
Mặt khác, Anh Quốc và Hoa Kỳ đã chánh thức
công nhận chánh quyền Bảo Đại và chúng
tôi đã biết chắc rằng ít nhất Hoa Kỳ cũng là
một trong những quốc gia sẽ đứng ra buộc Pháp phải từ
từ trả lại
chủ quyền cho Việt Nam. Lúc này Hoa Kỳ đã mở
tòa đại sứ ở Sài Gòn và đang đề cử một đại
sứ để phục vụ ở Việt Nam. Dĩ nhiên Hoa Kỳ không ủng hộ
Pháp. Hơn nữa, vì Hoa Kỳ chính là nguồn
tài trợ cho quân đội Pháp, tiếng nói của họ
sẽ có rất nhiều ảnh hưởng. Chúng tôi cho rằng Hoa
Kỳ lúc nào cũng ủng hộ việc Pháp trả chủ quyền cho
Việt Nam và luôn tin tưởng vào những hậu thuẫn ủng
hộ của Hoa Kỳ. Chẳng những vậy chúng tôi còn tin
rằng sở dĩ Hoa Kỳ từ chối không chịu can thiệp vào năm
1945 chỉ vì lúc đó họ chưa có quan hệ ngoại
giao chính thức với Việt Nam. Lúc này, vì
quan hệ ngoại giao đã được thiết lập, họ đã khẳng định
rằng họ ủng hộ việc trao trả lại độc lập cho Việt Nam.
Hơn nữa, ông Bảo Đại cũng đang dự định điều đình với
Pháp, nếu chúng tôi không chịu nhúng
tay vào việc thì còn ai nữa? Lẽ nào
chúng tôi có thể không bị lương tâm cắn
rứt và khoanh tay chờ đợi người Pháp dâng
cái khay Độc Lập lên cho chúng tôi? Đó
là chưa nói đến việc nếu chấp nhận việc hợp tác
vào lúc này, chúng tôi còn
có thể đòi hỏi thêm về sau. Chánh phủ tương
lai có thể làm áp lực bắt Pháp nhường lại
quyền lãnh đạo của các lực lượng quân sự Việt Nam
trong quân đội Pháp. Khi đó, chúng tôi
sẽ có thể có một thế đứng vững vàng để đàm
phán với Việt Minh. Chúng tôi cũng tin rằng
đã đến ngày Pháp phải rời Việt Nam. Đây
là một điều khiến chúng tôi bớt đi phần nào
ngần ngại khi phải chấp nhận Giải Pháp Bảo Đại.
Cuối cùng khi xem xét rõ tình hình,
chúng tôi nghĩ rằng, một bên là Pháp,
một bên là Cộng Sản Việt Minh thì Giải Pháp
Bảo Đại là cơ hội độc nhất còn lại. Chúng
tôi cùng kết luận rằng lúc này là
lúc phải đứng ra chịu đựng tất cả nguy hiểm của một
thái
độ hợp tác với người Pháp. Tuy đã quyết định liều,
chúng tôi vẫn hành động vô cùng cẩn
trọng. Sau nhiều ngày bàn luận tôi và
ông Sung nói với ông Bảo Đại rằng: "Chúng
tôi ủng hộ việc thành lập chánh phủ và
bác sĩ Quát sẽ đại diện chúng tôi tham gia
chánh phủ."
Mặc dù cả ba chúng tôi đều đồng ý về việc
cần hợp tác, bác sĩ Quát vẫn cảm thấy khó
chịu chẳng khác gì chúng tôi khi phải chấp
nhận một chính sách hợp tác với người Pháp.
Khi bắt tay vào việc tất cả chúng tôi đều hiểu
rõ những nguy hiểm đang chờ đợi chúng tôi. Cả ba
chúng tôi đều biết mình đang mang những gánh
nặng trên vai và sẽ khó tránh được những
tiếng tăm về sau này. Đây là một tấn thảm kịch cho
những phần tử quốc gia. Đang giữa lúc cả nước đều
chống đối việc
hợp tác với người ngoại quốc mà chính chúng
tôi lại phải ra mặt hợp tác với Pháp. Đây
cũng chẳng phải là tấn thảm kịch duy nhất trong cuộc
đời hoạt
động của những phần tử quốc gia lúc này. Rồi đây,
trong những thế khó xử họ lại dần dà bị dồn vào
thế phải cộng tác với người Ngoại Quốc thêm một lần
nữa.
Nhưng chúng tôi đã biết quá rõ cộng
sản và một khi đã biết rõ về họ thì hẳn
nhiên chúng tôi chẳng còn đường chọn lựa.
Đây quả là một tấn thảm kịch bắt buộc và
không còn lối thoát.
Trong tất cả những nhân vật quốc gia có tiếng thời bấy
giờ
chỉ có ông Ngô Đình Diệm là người duy
nhất vẫn giữ khoảng cách với chánh phủ Bảo Đại. Có
thể vì hiểu tình thế rõ hơn chúng tôi
nên sau vài lần gặp gỡ ông Bảo Đại, ông Diệm
đã rời Việt Nam và đi Hoa Kỳ để vận động. Đây
là một cuộc vận động giúp đỡ ông rất nhiều sau
này.
Chỉ có một biến cố có thể khiến Giải Pháp Bảo Đại
gặt hái được đa số ủng hộ và đồng thời mang lại
chí phấn đấu cho các phần tử quốc gia là: Độc Lập
thật sự. Nếu Pháp có thể bị buộc phải nhượng quyền lập
tức thì tình hình Việt Nam có thể sẽ thay
đổi khác hẳn. Nếu chúng tôi có thể buộc được
Pháp giao trả độc lập thật sự thì những phần tử quốc
gia
như chúng tôi đã thành công và
đạt được bằng đàm phán từ Pháp những gì
Việt Minh vẫn chưa thể đoạt được sau bốn năm đeo đuổi
bằng chiến tranh
và xương máu.
Hiển nhiên, Pháp sẽ chỉ chuyển giao chánh quyền khi
họ không còn chịu nổi áp lực liên kết của cả
ông Bảo Đại, lẫn Hoa Kỳ. Tuy thế, khi đã xem xét kỹ
tình hình, chúng tôi nhận ra có một
cách để bẻ gãy thế khóa của Pháp là
để ông Bảo Đại làm áp lực với họ. Thay vì
xin xỏ, Cựu Hoàng có thể lập tức đòi hỏi những
điều Pháp đã hứa và dồn chánh quyền thực
dân vào thế nguy hiểm. Lúc này có hai
lý do khiến Pháp phải cần có một chánh phủ
như Giải Pháp Bảo Đại đã đề ra. Thứ nhất, họ cần
chánh phủ Bảo Đại để thay thế chánh quyền Việt Minh.
Thứ
hai, họ cần chánh phủ Bảo Đại để thuyết phục Hoa Kỳ
rằng họ thực
tâm muốn trao trả độc lập cho Việt Nam.
Pháp đã cố tình lợi dụng ông Bảo Đại
thì chẳng có lý do gì khiến ông Bảo
Đại phải ngồi yên mà không lợi dụng họ. Nếu
Pháp đã có thể tạo ra được một Quốc Trưởng với bề
mặt uy quyền thì tại sao ông Bảo Đại lại không thể
làm áp lực bằng cách tuyên bố từ chức nếu
những yêu cầu của ông không được thoả mãn?
Đây quả là một giải pháp hấp dẫn và
có hiệu lực. Nếu ông Bảo Đại có thể làm lớn
chuyện thì Pháp sẽ phải nhượng bộ hoặc Pháp sẽ
phải bỏ tất cả những công trình đã đầu tư
vào một giải pháp quốc gia. Chẳng những đã vậy,
nếu không nhượng bộ, Pháp còn để lộ cả dã
tâm dùng chiêu bài độc lập để che mắt Hoa Kỳ.
Dĩ nhiên mấu chốt của mọi sự hoàn toàn phụ thuộc
vào ông Bảo Đại. Cựu hoàng có chịu
đóng vai trò này hay không?
Càng bàn cãi thì tôi, ông Sung
và bác sĩ Quát lại càng đắc ý về
giải pháp này. Cuối cùng chính tôi
được ủy nhiệm đưa ý kiến đến Bảo Đại. Nhưng trước khi
đến gặp
ông Bảo Đại tôi muốn gặp chú tôi, lúc
này vừa từ Cam Bốt trở về Sài Gòn.
Tôi nói với ông chú tôi rằng: "Thật ra,
ai cũng thiếu kiên nhẫn. Ai cũng sợ lâm vào
tình trạng mất tiếng tăm khi phải hợp tác với
Pháp. Ngay trong lúc này thì ông Bảo
Đại lại ung dung ở Đà Lạt nhàn cư, chỉ lo săn bắn
và bà nọ, bà kia. Lúc nào ông
ta cũng chỉ lo việc vui thú. Lúc này bạn bè
đang nhờ cháu tới đó thức tỉnh ông ta. Chú
nghĩ sao?"
Chú tôi vẫn chưa bỏ hẳn những nhận xét bi quan, hay
nói đúng hơn thì là chưa bỏ hẳn những nhận
xét thực tế. Ông mỉm cười nhìn tôi rồi
kiên nhẫn trả lời: "Diễm à, cháu vẫn không
hiểu ông Bảo Đại. Ông Bảo Đại là một ông vua
chứ nào phải là một con người cách mạng? Từ
bé ông ta đã được nuôi nấng để trở
thành một người không bao giờ có chủ trương
hành động. Cả cuộc đời ông ta là vậy. -Không
bao giờ có đủ quyết tâm hành động. Cháu
không thay đổi ông ta được đâu!"
Lời chú tôi chẳng khác nào một gáo
nước lạnh tạt thẳng vào mặt. Tôi biết là ông
chú tôi hiểu rất rõ về ông Bảo Đại và
chú tôi dĩ nhiên có đủ lý do
chính đáng để nghi ngờ. Tuy thế tôi đã quyết
định thử.
Phải sau một tháng xếp đặt tôi mới có thể gặp
riêng ông Bảo Đại. Một hôm, khi tôi đang ở
Đà Lạt ngồi đợi điện thoại thì bỗng có một
tùy viên quân sự của ông Bảo Đại ghé
vào chỗ tôi đang trú ngụ báo rằng: "Đức
Ngài sẽ đi săn vào ngày mai và có
ý muốn ông cùng đi." Sáng sau, tôi đi
theo đoàn tùy tùng của ông Bảo Đại đi về
mé những khu rừng cao nguyên.
Thú săn bắn là một đam mê của ông Bảo Đại. Ở
vùng cao nguyên có những chỗ ẩn nấp được ngụy trang
bằng cây bao quanh, chính là những chỗ ông
Bảo Đại cùng đoàn tùy tùng ngồi cả
ngày trời, đợi con mồi xuất hiện. Trải quanh chu vi
hai hoặc ba
ki-lô-mét, những người Thượng ở các bộ lạc trong
khu vực xung quanh bắt đầu đánh trống để đuổi dần
những con
thú hoang về mé giữa, nơi cựu hoàng đang chờ đợi
và mong rằng sẽ có cọp xuất hiện. Khi tiếng trống ở
hai
bên khép dần vào tôi cũng chờ đợi ở một chỗ
gần ông Bảo Đại. Mặc dù những người đi săn lúc
này đều đã thủ thế đứng nhắm mà tôi vẫn
ngước về phía ông Bảo Đại cố suy nghĩ tìm
cách gặp riêng ông ta.
Tuy đã có nhiều pha náo động trong ngày
nhưng ngày đó ông Bảo Đại vẫn không săn được
gì. Khi đợt săn kết thúc mọi người lại quay về nơi ẩn
nấp. Lúc trở lại tôi thấy ông Bảo Đại đang ngồi một
mình ngoài hiên uống nước. Mặc dầu đã biết
rằng tình thế lúc này bất lợi vì cuộc săn
không kết quả trong ngày, tôi thấy rằng chỉ
có cơ hội duy nhất này thôi và thu hết can
đảm bước ngay đến chỗ ông Bảo Đại. Tôi chuyện gẫu một
lúc rồi đi thẳng vào vấn đề rằng: "Thưa Ngài,
tôi mới từ Sài Gòn đến đây hôm qua.
Tôi phải thưa với ngài rằng có nhiều người than
phiền về vấn đề người Pháp không chịu giữ lời. Nếu
chúng ta cứ thúc thủ không hành động
thì rồi đây tình thế sẽ khó khăn vô
cùng."
Ông Bảo Đại trả lời lập tức không chút do dự rằng:
"Trong việc chính trị chúng ta phải kiên nhẫn."
Rõ ràng là chính ông cũng đã
suy nghĩ về vấn đề cần đối phó cho thích nghi. Có
thể ông cũng đã đoán ra mục đích
chính của tôi khi đến đây là gì. Sau
một lúc im lặng Bảo Đại lại nói tiếp: "Ừ, tôi cũng
thấy rằng người Pháp không thực thi nghiêm chỉnh mọi
việc nhưng tôi chỉ có một mình... Theo ông
thì Hoa Kỳ sẽ hành động ra sao?"
Tôi trả lời rằng: "Thưa Ngài, bác sĩ Quát
vẫn liên lạc với họ nhưng vẫn chưa có điều gì
rõ rệt."
"Ừ, tôi cũng nghĩ vậy," Ông Bảo Đại tiếp lời.
Tôi đưa đẩy: "Nhưng mà... thưa ngài, chúng
ta sẽ phải bó tay chờ đợi bao lâu nữa?"
"Tôi cũng không rõ," Ông Bảo Đại trả lời,
"Có lẽ tốt hơn là ông nên gặp tôi
khoảng vài tháng sau. Chúng ta sẽ bàn luận
thêm vào lúc đó."
Lúc này tôi đã thấy chẳng thể đẩy cuộc đối
thoại đi xa thêm. Có bàn luận thế nào
thì mọi sự cũng chỉ đến thế. Những nghi ngờ của chú
tôi quả nhiên không hề sai trệch. Tôi trở về
Sài Gòn lòng thất vọng sâu xa và biết
rõ rằng chúng tôi đã bị dồn vào
ngõ bí không còn lối thoát.
Vài ngày sau tin tức đã làm rõ hẳn
mọi sự. Tin đồn bên trong chánh phủ Bảo Đại cho biết
Pháp đã chuyển một số tiền khổng lồ vào trương mục
của ông Bảo Đại ở Ngoại Quốc. Vài ngày sau nữa một
tạp chí Cộng Sản đăng tải tin đồn về việc Pháp chuyển
tiền. Câu chuyện gần như đã rõ rành
rành.
Tin tức đã xác nhận toàn thể chiến lược của
Pháp đối với Việt Nam lúc này. Rõ
ràng là Pháp không chấp nhận việc trao trả
chủ quyền cho Việt Nam. Trên lãnh vực chính trị
thì họ ngăn chận, trì hoãn các cuộc tranh
đấu. Về phương diện cá nhân thì họ nỗ lực
làm mọi chuyện để xoa dịu các đòi hỏi của
ông Bảo Đại. Nhược điểm trùng trình của ông
Bảo Đại đã khiến Pháp có thể lợi dụng ông
thật hữu hiệu. Khôn ngoan như ông Bảo Đại mà cũng
không thoát khỏi đòn phép của Pháp.
Lúc đó, vào lúc 27 tuổi, tôi lại học
hỏi được thêm một bài học nữa. Trong cuộc đời chính
trị của riêng tôi, tuy một khuôn mẫu rõ rệt
đang dần dà lên khuôn thành đậm nét
mà tôi vẫn chưa hề hay biết. Tôi biết rõ
ông Trương Tử Anh là người tôi có thể về
cùng làm việc nhưng sự nghiệp của ông đã bị
Việt Minh cắt đứt. Trong một thời gian ngắn, tôi cũng
đã
tin ông Bảo Đại có thể ngoi lên hàng
lãnh tụ Việt Nam, nhưng sau khi gặp ông trong cuộc săn
bắn, những hy vọng của tôi cũng đã biến thành
hão huyền. Từ nay cho đến suốt hai mươi lăm năm sau,
tôi
đã từng làm việc với nhiều nhà lãnh đạo
Việt Nam và vẫn luôn luôn đỏ mất chẳng hề tìm
thấy một người đáp ứng đúng nguyện vọng quốc gia. May
thay, vào năm 1950 tôi không hề thấy trước như vậy.
Cũng nhờ đó tôi chưa hề biết rằng cuộc tìm
tòi của chính tôi cũng như nhiều nhân vật
quốc gia khác chỉ là những cuộc tìm tòi do
định mệnh nghiệt ngã xô đẩy.
10.
Mùa
Nghỉ
Alpine
Kể từ năm 1951, cuộc sống tương lai của tôi vẫn hoàn
toàn bấp bênh. Tuy đã biết ông Bảo Đại
là người thụ động, tôi vẫn gạt bỏ những suy nghĩ bi
quan
của ông chú tôi và những quan niệm
khách quan của ông thân để lao hết mình
vào các hoạt động chính trị.
Đầu tiên chúng tôi nỗ lực hoạt động để thiết lập một
tổ chức chính trị mới. Tuy lúc này phần lớn tinh
thần và nhiệt tâm của Đại Việt đã phục hồi nhưng
dường như guồng máy điều hành đã chết hẳn.
Chúng tôi cố kết hợp để tìm cách chấn chỉnh
lại những tổ chức của đảng Đại Việt ở miền Bắc trước
kia. Nỗ lực của
chúng tôi đưa đến việc thiết lập một mặt trận quốc gia
dân chủ lấy tên là Quốc Gia Bình Dân.
Tờ báo của mặt trận lúc này là tờ Quốc
Dân do tôi làm chủ bút.
Đối với tôi đây quả là giai đoạn bận rộn vô
kể. Tôi phải tìm người cộng tác cho tờ báo,
phải viết bài bình luận, phải trông coi việc xuất
bản, phải sắp xếp những cuộc hội họp, bàn luận, và
phải
trông coi đến cả việc quảng cáo. Tờ báo là
cơ quan ngôn luận của đảng. Tôi hãnh diện vì
có dịp được đứng vào vị trí bênh vực đường
lối của đảng, chống lại chủ nghĩa cộng sản và cổ võ
những
cuộc tranh đấu đòi hỏi Pháp phải giao trả độc lập. Tuy
thỉnh thoảng chính phủ cũng có buộc chúng
tôi phải dùng những danh từ nhẹ nhàng hơn nhưng
chẳng hiểu sao phần nhiều những cuộc kiểm duyệt của
chính phủ
lại chẳng bao giờ đả động gì đến việc chúng tôi
lúc nào cũng đòi hỏi "tự do lập tức."
Trong khi tờ báo xuất bản những mục bình luận và
đòi hỏi dữ dội việc trao trả độc lập, tôi còn
có cơ hội mục kích những thủ đoạn chính trị của
ông Bảo Đại. Ngay lúc tôi đang loay hoay xoay sở cho
tờ Quốc Dân thì ông Bảo Đại cũng đang âm thầm
vận động để đòi độc lập. Tuy tôi đã nhìn
thấy những khuyết điểm của ông Bảo Đại qua những lần
gặp trước,
đây mới là lúc tôi bắt đầu nhận chân
được khả năng của ông. Cách vận động của ông Bảo Đại
cho thấy ông chẳng những là một ông vua Á
Châu đã hiểu biết chính trị thấu triệt mà
còn có tài điều động người khác rất tự
nhiên. Lúc này ông Bảo Đại đang tận dụng sở
trường của mình để đương đầu với Pháp. Khả năng
thiên phú của ông là tài vận động
chính quyền, hoặc có lẽ đúng hơn là
tài vận động các tổ chức của chánh quyền.
Cách vận động của ông phần lớn dựa trên những nhận
xét chính trị sắc bén cùng những nhận
xét tinh tế của bản thân ông. Bất kỳ lúc
nào ông Bảo Đại cũng có thể nhận rõ
đích xác được tầm mức giới hạn của việc thúc đẩy
Pháp. Ông là quốc trưởng do đó ông
có quyền lựa chọn thủ tướng. Theo quan niệm của ông
Bảo
Đại thì cách chọn thủ tướng phải ăn khớp với các
giai đoạn đàm phán.
Nói chung thì cách vận động của ông Bảo Đại
là tìm mọi cách để gia tăng áp lực với
Pháp. Trong giai đoạn đầu, ông Bảo Đại muốn chọn một
thủ
tướng có thể hợp tác gần gũi với Pháp. Nhiệm vụ
của vị thủ tướng đầu tiên là thiết lập những quan hệ
hợp
tác giữa Pháp và chánh quyền Việt Nam sao
cho tất cả mọi việc đều hướng theo ý muốn của ông. Sau
đó giai đoạn đàm phán thứ hai lại phải cần những
thay đổi khác trong chính phủ. Chẳng hạn như khi
đàm phán những vấn đề khó khăn như vấn đề độc lập
thì phải có những thủ tướng cứng rắn, cương quyết. Mặt
khác, nếu cần phải rút lui để đổi chiến thuật thì
lại phải tìm những thủ tướng mềm dẻo, uyển chuyển cho
phù
hợp hơn với chiến thuật. Càng quan sát cách
ông Bảo Đại chọn thủ tướng, tôi lại càng tin chắc
ông đã soạn sẵn danh sách của một số thủ tướng nhằm
đưa ra đúng lúc những nhân vật có thể
đáp ứng được những đòi hỏi của ông ở những giai
đoạn sau. Chẳng những thế, ông Bảo Đại lại còn chọn
thủ
tướng dựa trên một nguyên tắc khác nữa: Ông
thường sắp xếp Nội Các để các thủ tướng không thể
dùng uy quyền bản thân chế ngự được Nội Các.
Ngoài thủ tướng, lúc nào ông Bảo Đại cũng cố
ý đặt thêm một nhân vật quốc gia khác
có cả thực quyền lẫn óc tự chủ trong chánh phủ.
Nhân vật này sẽ hoạt động cho hai mục đích: Thứ
nhất, vì có óc tự chủ ông ta khó thể
nhắm mắt tuân theo mọi mệnh lệnh của thủ tướng. Thứ
hai,
vì có thực tài, ông ta có thể tiếp
tục điều hành chính phủ mỗi khi thủ tướng bị thay đổi
và như thế sẽ giữ cho các chánh sách của
chánh phủ được liên tục.
Mỗi lần ông Bảo Đại thay đổi chánh quyền là mỗi lần
các đảng phái quốc gia lại bàn cãi
sôi sục. Những câu hỏi chính thường là: "Liệu
có nên theo về với chính quyền mới hay không?
Liệu chánh phủ mới có đủ cơ sở cho họ hợp tác
không, hay hợp tác sẽ chỉ làm hư hao uy tín
của đảng? Liệu có nên để người vào tham gia trong
mọi chánh phủ không? Liệu ông Bảo Đại đang có
dự định gì khi thay đổi chính trị trong lần này?"
Nhưng bất kể họ quyết định ra sao thì các đảng viên
vẫn cứ bị thay đổi liền liền trong chính phủ Bảo Đại.
Trong
những chính khách quốc gia bị thay đổi lúc bấy giờ
có cả Bác Sĩ Quát và ông Trần Văn
Tuyên là giáo sư đã dạy tôi trước
đây.
Trong chánh quyền đầu tiên của ông Bảo Đại
thì Bác sĩ Quát, người nổi bật nhất trong
nhóm chúng tôi, được cử làm Bộ Trưởng Bộ
Giáo Dục. Trong chánh phủ thứ hai, ông lại được cử
làm Tổng Trưởng Quốc Phòng. Có lẽ vì vấn đề
chính cần đàm phán lần này là vấn đề
phải có một quân đội Việt Nam hoàn toàn
không phụ thuộc quân đội Pháp nên cương vị của
Bác Sĩ Quát thật là quan trọng. Vấn đề đàm
phán lần này quả là nan giải. Một mặt thì
người Pháp biết rõ chánh phủ Miền Nam cần phải
có một quân đội riêng. Mặt khác, họ lại tin
rằng nếu Việt Nam có quân đội riêng thì
chính quân đội Việt Nam sẽ là một mối đe dọa đối
với chính quyền thực dân Pháp. Về phía Việt
Nam thì đương nhiên chánh phủ Bảo Đại cố hết sức
làm áp lực để có thể tự thiết lập quân đội
riêng. Giữa lúc đàm phán Pháp-Việt
đang dằng co thì một biến cố khác lại kéo
tôi ra hẳn bên ngoài những hoạt động chính
trị Việt Nam.
* * * * *
Khoảng
một
năm về trước, tôi đã thành hôn với người
thiếu nữ tôi gặp trước đây khi tôi còn ở
nhà ông chú và rồi lại có dịp gặp
vào lúc sau này ở Phát Diệm. Khi tôi
về Hà Nội thì gia đình cô cũng đã
chuyển từ khu công giáo Phát Diệm về Hà Nội.
Ở Hà Nội chúng tôi lại tiếp tục gặp gỡ tuy rằng cả
hai chúng tôi vẫn chưa hề nghĩ gì đến vấn đề
thành hôn. Ngày nọ, bỗng nhiên chẳng
rõ vì lý do gì, ông chú
tôi bỗng hỏi riêng tôi rằng: "Tôi đã để
ý đến thiếu nữ nào chưa?" Ông muốn biết xem ai
là người tôi nghĩ có thể là nhà
tôi sau này? Mới đầu tôi trả lời rằng: "Chưa
có ai cả," nhưng chỉ vài ngày sau ông
chú tôi lại nhắc đi nhắc lại vấn đề. Tuy tôi chưa
rõ ông chú tôi suy nghĩ ra sao nhưng những
điều ông nài nỉ đã bắt đầu làm tôi
chú ý. Tôi cho rằng có thể có vấn đề
gì đó và biết đâu đã đến lúc
tôi nên suy nghĩ đến chuyện lập gia đình? Dầu
gì đi nữa tôi cũng đã 28 tuổi và nếu đời
sống tôi chưa hoàn toàn bình thường hẳn
thì ít ra tôi cũng chẳng còn phải trốn
tránh ở những nơi hẻo lánh hoặc lúc nào
cũng phải lăm lăm thủ thế với khẩu súng lục sát lưng
nữa.
Cuối cùng tôi thú thực rằng tôi có
nghĩ đến một người là cô Kim Ngọc, một thiếu nữ tôi
đã gặp nhiều năm trước đây. Nếu tôi có lập
gia đình thì cô ta sẽ là người tôi
chọn.
Khi nghe tin chú tôi vô cùng hân hoan.
Ông có quen với gia đình cô và
hoàn toàn đồng ý sự lựa chọn của tôi. Trước
khi tôi biết rõ mọi sự cô tôi đã
lên đường qua nhà cô Kim Ngọc để chánh thức
dạm hỏi. Ít lâu sau, chú tôi sắp xếp
và giữ kín mọi sự.
Nếu biết rõ câu chuyện thật đã thúc đẩy
ông chú tôi chú ý đến việc hôn
nhân của tôi có lẽ tôi còn ngạc
nhiên hơn. Cũng như nhiều người Việt Nam khác, ông
chú tôi cũng để ý đến vấn đề số mệnh. Ngày
nọ có ông thày tướng nổi danh ghé thăm
nhà ông chú tôi. Hôm đó
tôi có đến nhà ông chơi nhưng không hề
biết thày tướng đã xem xét kỹ mặt tôi. Khi
xem tướng tôi xong, ông có thấy vài điều
khác thường và có kể lại cho chú tôi
nghe. Nhà tướng số bảo với chú tôi rằng cuộc sống
mai hậu của tôi sẽ đầy trắc trở và nguy hiểm. Có
thể tôi sẽ không sống quá một năm nữa. Chỉ
còn một cách là lập gia đình cho tôi.
Nếu lập gia đình thì đường số mệnh của nhà
tôi sẽ quyện vào đường số mệnh của tôi khiến
nó phải chuyển hướng đi và như vậy tôi sẽ
thoát khỏi chuyện dữ. Ngay ngày hôm sau chú
tôi bắt đầu hỏi tôi về chuyện lập gia đình.
Không hiểu lời tiên đoán của ông thày
tướng số có thật sự đúng hay không nhưng ít
nhất chuyện thành hôn của chúng tôi
vào lúc đó thật là may mắn. Chẳng bao
lâu sau khi chúng tôi thành hôn,
tôi nhận được lời nhắn của ông thân rằng mẹ và
chị tôi đang từ vùng Việt Minh tản cư lên Hà
Nội. Ông thân tôi muốn biết liệu tôi có
thể đón hai người được không? Mẹ tôi dường như
đã đâm chứng sợ hãi kinh niên vì tiếng
bom rền khi Pháp dội bom ráo riết xuống khu Việt Minh.
Vì vậy ông thân đã sắp xếp chuyển mẹ
tôi về Hà Nội. Ông hỏi liệu tôi có đủ
sức lo nổi cho mẹ và chị tôi hay không? Tôi
thư ngay lại rằng ông nên để hai người qua ngay. Như
thế
gia đình chúng tôi mới hai người bỗng biến ra
thành bốn.
Một năm sau, vào tháng 5 - 1952, nhà tôi hạ
sinh con gái đầu lòng là Ngọc Lưu. Tuy việc sinh
nở rất bình thường và đứa bé thật là khỏe
mạnh, chẳng bao lâu sau bỗng nhà tôi nhiễm chứng ho
lao. Lúc này, tuy bác sĩ Quát đã
bước sâu vào chính trường nhiều năm, ông vẫn
là bác sĩ gia đình của chúng tôi. Sau
khi xem xét kết quả các cuộc thí nghiệm và
chụp hình quang tuyến X, bác sĩ Quát bảo rằng bệnh
nhà tôi có thể dễ dàng biến thành
"Bệnh Lao Cấp Tính." Vì thiếu thốn dụng cụ, chứng lao
cấp
tính không thể chữa trị tại Việt Nam. Ông
khuyên rằng nếu tôi nghĩ đến nhà tôi
thì nên qua Pháp để tìm bác sĩ
chuyên khoa điều trị ngay.
Lời bác sĩ Quát làm cả hai chúng tôi
dao động dữ dội. Tệ hơn nữa, bác sĩ Quát còn nhấn
mạnh rằng chúng tôi không nên mang theo con.
Nhà tôi không thể tự tay săn sóc đứa
bé được. Sau nhiều phen khóc lóc, bàn
cãi chúng tôi đành chịu. Con chúng
tôi là Lưu phải ở lại với mẹ, chị tôi cùng
với chú và mợ tôi tạm thời trông coi.
Sau khi đã quyết định, chúng tôi bắt đầu sắp xếp
cuộc hành trình. Chú tôi giúp một
ít tiền, tôi bán chiếc đồng hồ vàng của
mình, mượn thêm tiền bạn bè và xoay sở để
tìm giấy thông hành. Chúng tôi ra đi
thật gấp trên chiếc Skymaster của hãng Air France
và ba ngày sau thì đến Pháp. Cuối
cùng tôi đã thỏa mộng đi xa của buổi ấu thời tuy
rằng tình cảnh lúc này thật không
đúng hẳn như những ước mơ phiêu lưu tôi vẫn hằng ước
ao khi trước.
Dẫu sao đi nữa thì mùa thu 1952 ở Ba Lê đối với
tôi vẫn là một điều hoàn toàn mới mẻ. Một
mặt, vì đã thấm nhuần văn hóa Pháp,
tôi cảm thấy khung cảnh Ba Lê thật là quen thuộc.
Mặt khác, thì đây quả là lần đầu tôi
thực sự ở Ba Lê. Tôi nhìn quanh tháp Eiffel
sừng sững, đại lộ Champs Élysée và bảo tàng
viện Louvre. Tôi quan sát Ba Lê với một cảm
giác vừa lạ vừa quen chẳng khác nào một người
đã gần gũi với văn hóa Pháp nhưng lại đang
nhìn vào thủ đô qua con mắt của một người dân
quê.
Ngay sau khi đến, tôi vào một khách sạn hạng
xoàng gần Mont Parnasse và liên lạc với một người
anh họ là một bác sĩ đã cư ngụ tại Ba Lê rất
nhiều năm. Người anh họ tôi tự chẩn bệnh cho nhà tôi
và sau đó sắp xếp cho nhà tôi đến gặp
bác sĩ chuyên khoa. Vị bác sĩ này tiến
hành ép phổi. Trong khi giải phẫu, buồng phổi yếu
đã được chích thuốc mê. Giải phẫu xong, bác
sĩ đề nghị đề nghị nhà tôi đến điều dưỡng ở bệnh xá
Chamonix.
Chỗ bệnh xá nơi vị bác sĩ giới thiệu là một bệnh
xá không những chỉ nhận bệnh nhân mà
còn nhận cả gia đình bệnh nhân nữa. Chỉ trong một
thời gian ngắn, cả hai chúng tôi đều nhập viện. Nhà
tôi nhập viện như một bệnh nhân đang cần điều dưỡng
bệnh
phổi và tôi nhập viện như người đi theo săn sóc.
Khung cảnh bệnh xá được thiết lập cốt để giúp bệnh
nhân giảm thiểu các hoạt động hàng ngày
càng ít càng tốt. Không khí trong
bệnh xá lúc nào cũng yên lặng. Tôi đi
quanh khu núi non hùng vĩ, quan sát ngọn Mont
Blanc sừng sững vươn cao. Tất cả tin tức đều bị cắt
đứt. Thế giới
bên ngoài bỗng chợt chìm vào quên
lãng. Việt Nam mới đó đang sôi sục vì những
hoạt động chính trị nóng bỏng và các cuộc
đụng độ dữ dội đã lại xa dần.
Chẳng còn việc gì để làm, tôi quyết định đi
học toán lại. Trường đại học Grenoble chỉ xa khoảng
một tiếng
rưỡi đồng hồ và ban giáo sư tại đó nhận dạy một
lớp tự học. Sinh viên chỉ cần thỉnh thoảng ghé vào
trường và có mặt trong các kỳ thi là đủ.
Tôi theo học và lại một lần nữa đưa mình vào
thế giới trừu tượng của toán học. Đền đài và khung
cảnh yên tĩnh của Chamonix đã khiến tôi cảm thấy dễ
dàng, thoải mái hơn.
Tại bệnh xá, chúng tôi gặp một đôi vợ chồng
khác cũng tới đó trong một hoàn cảnh tương tự.
Người vợ đang điều dưỡng bệnh lao được người chồng là
giáo sư dạy Anh Văn tại Đại Học Berne săn sóc. Chẳng
bao
lâu sau, tôi cùng nhà tôi đã trở
thành bạn thân với vợ chồng giáo sư Jacques
Savarit. Ông Savarit đồng ý dạy thêm Anh Văn cho
tôi. Trước đây tôi đã học Anh Văn ở Trung Học
nhưng rất ít khi dùng tới. Lúc này gặp dịp
rảnh rỗi, khi vợ chúng tôi nằm tắm nắng, hít thở
không khí trong lành của núi, tôi
cùng ông Savarit đi bộ và trèo những ngọn
núi ở quanh. Chúng tôi nói tiếng Anh trong
suốt cuộc đi.
Khi dạy Anh Văn cho tôi, ông Savarit đòi hỏi
tôi phải nói tiếng Anh thật đúng. Đối với
ông, Anh Văn có nghĩa là tiếng Anh của những
khuôn mẫu thuần túy chứ không phải là một thứ
"thổ âm Hoa Kỳ." Ông vừa cố sửa giọng cho tôi, vừa
bảo tôi: "Anh phải nói tiếng Anh cho đúng."
Tôi cũng viết những bài luận ngắn cho ông. Đầu
tiên là những bài luận về tình thế ở Việt
Nam là một vấn đề ông ta hoàn toàn mù
tịt, rồi đến những bài luận về Somerset Maugham và
cuối
cùng là những màn kịch cổ như Hamlet và
MacBeth mà ông ta đã bắt tôi phải đọc.
Tôi cố gắng nỗ lực, vượt xa những mẫu câu khuôn thước
ê a "My tailor is rich" trong quyển Assimil mà tôi
đã học khi còn cắp sách đến trường ngày
trước.
Sau khoảng 3, 4 tháng ở bệnh xá, tôi cùng
nhà tôi chuyển tới một chỗ cho mướn phòng ở một căn
nhà kế cận. Vì nhà tôi không thể
làm bất cứ việc gì ngoại trừ nghỉ ngơi, tôi trở
thành người đàn ông nội trợ, nấu nướng, quét
dọn, giặt dũ và đi chợ. Cuộc sống thật là phẳng lặng.
Trừ
một vài chuyến đi Grenoble để học toán, chúng
tôi ở ngay căn phòng mướn, nhìn tuyết rơi
vào đầu mồng một tháng 11 (cả hai chúng tôi
đều chưa hề thấy tuyết rơi bao giờ) và hoàn toàn
ngạc nhiên khi mùa đông đến mang theo từng đợt tuyết
chất đống dần dà cao đến ngang tận cửa sổ.
Dầu hoàn toàn cách biệt, tôi vẫn không
mất hẳn liên lạc với Việt Nam. Vào đầu mùa
đông, tôi giữ liên lạc với chú tôi
hàng tuần. Theo những bức thư nhận được tôi chắc chẳng
có biến cố gì quan trọng. Ít ra là chẳng
có chuyện gì quan trọng qua những lá thư
chú tôi gửi cho tôi. Phần nhiều chú tôi
viết trấn an rằng chẳng có vấn đề gì đáng lo, rồi
nhắc nhở chúng tôi phải ở lại cho đủ thời gian tĩnh
dưỡng
để nhà tôi có thể hoàn toàn
bình phục.
Vào mùa thu 1953, nhà tôi đang trên
đà bình phục trông thấy. Khi chẩn bệnh không
thấy gì, khoảng đầu tháng 5 nhà tôi theo
tôi đi Grenoble, nơi tôi đến thi lần thi cuối. Về chỗ
ăn
cơm trọ được một lát thì tôi nhận được điện
tín của bác sĩ Quát ở Việt Nam. Bức điện cho hay
Bảo Đại lại vừa mới thay đổi chính phủ và bác sĩ
Quát lại được cử làm Tổng Trưởng Quốc Phòng. Hiển
nhiên là giai đoạn đàm phán quan trọng
đã bắt đầu. Bác sĩ Quát hỏi tôi liệu
có thể về được không?
Tôi suy nghĩ suốt đêm. Nếu nhà tôi thấy cần
phải ở lâu hơn tôi sẽ phải quyết định một vấn đề thật
khó khăn. Mặc dầu chú tôi vẫn quả quyết đều đều
rằng không có chuyện gì quan trọng, chắc chắn diễn
biến ở Việt Nam đã đến hồi quyết liệt. Bác sĩ Quát
không bao giờ đánh điện tín nếu không phải
vậy. Nhưng làm sao tôi có thể về được khi
nhà tôi vẫn còn cần tôi ở lại?
Đúng ra, tôi không cần khổ tâm suy nghĩ suốt
đêm. Sáng sau, khi uống Cà Phê nhà
tôi bỗng nhìn tôi nói rằng nhà
tôi biết tôi đang rất mong mỏi muốn về. Nghe nhà
tôi nói, tôi biết là nhà tôi
đã quyết định cùng về với tôi. Tôi hết sức
vui mừng và quên hẳn cả chuyện cần phải lấy chứng chỉ
toán cho lớp học tôi đã cố gắng đeo đuổi suốt năm.
Chúng tôi trả lại chỗ ăn cơm trọ và trở về căn
gác mướn để sửa soạn hành lý cho cuộc hành
trình. Vài ngày sau, chúng tôi
đã dành được vé trên chiếc Skymaster quen
thuộc cho chuyến bay 3 ngày về Sài Gòn.
11.
Lập
Trường
Ngoan
Cố
Của Pháp
Khi từ Pháp trở về, tôi lại một lần nữa trở lại với
những
khung cảnh chính trị đang biến đổi ở Việt Nam. Cảm
giác
bỡ ngỡ của tôi khi về Việt Nam lần này thật chẳng
khác nào cảm giác bỡ ngỡ khi tôi từ Việt Nam
sang Pháp lúc trước. Ngày về Sài Gòn
tôi được cử làm Tham Mưu Phó cho Bộ Quốc
Phòng của ông Quát. Lúc này, với tư
cách Bộ Trưởng Quốc Phòng, bác sĩ Quát đang
là một trong những nhân vật chính trong
chánh quyền Việt Nam. Tình hình cho thấy những
nhận định của ông về vấn đề liệu người Pháp có thật
tâm đàm phán hay không hoàn
toàn chuẩn xác. Vẫn như bao giờ, những cuộc đàm
phán quân sự luôn chiếm phần chủ yếu. Câu hỏi
chính bao xung quanh vấn đề liệu Pháp có thể
nhượng bộ cho chánh phủ Việt Nam thiết lập một quân
đội
riêng biệt hay không? Nếu có, tất cả những vấn đề
khác sẽ được giải quyết dễ dàng.
Ông Quát lập ra một phái đoàn nhỏ do
tôi và đại tá Lê Văn Kim cầm đầu để thương
thuyết với Pháp về vấn đề quân sự. (Ông Kim về sau
là tướng và cũng chính là một trong ba vị
tướng thâm niên đã đảo chánh lật đổ ông
Diệm vào năm 1963.) Vào tháng 9 năm 1953,
chúng tôi bắt đầu chánh thức thương thảo vấn đề
thiết lập những đơn vị độc lập Việt Nam để dần dần trở
thành một
quân đội riêng biệt của Việt Nam về sau này. Người
đại diện thương thảo cho Pháp lúc đó là tư
lệnh Henre Navarre. Trước khi cùng tư lệnh Navarre
thương thảo,
chúng tôi đã đặt rất nhiều hy vọng vào cuộc
đàm phán, nhưng càng ngày những phức tạp
khó khăn lại trổ ra càng nhiều. Tuy Pháp đã
long trọng tuyên bố rằng họ sẽ thương thảo một cách
nghiêm chỉnh, mà họ vẫn phân vân cân
nhắc khi phải quyết định một vấn đề quan trọng như vấn
đề quân
sự. Trong trường hợp này, vấn đề chi tiết là việc huấn
luyện và chỉ huy các lực lượng cấp tiểu đoàn Việt
Nam. Cuối cùng cán cân thắng lợi đã ngả về
chúng tôi: Chúng tôi được phép trực
tiếp chỉ huy các tiểu đoàn nhưng người Pháp vẫn
đòi quyền chỉ huy tất cả toàn thể quân đội.
Tuy rằng đây là giai đoạn Pháp đang phải đối
phó với những khó khăn của nội bộ sau Đệ Nhị Thế Chiến
và chế độ thực dân đã mất gần hết ảnh hưởng
Pháp vẫn cố bám vào những mảnh vụn uy quyền
còn sót lại. Mặc dù chiến tranh giữa Việt Minh
và Pháp đã gần ngày kết thúc
mà Pháp vẫn còn bàn luận rất nhiều. Chẳng
hạn như Pháp vẫn đưa ra giải pháp của một nước Việt
Nam
độc lập nằm trong "khối liên hiệp Pháp," tuy rằng
chẳng ai
hiểu đích xác ý nghĩa của Khối Liên Hiệp
này là gì. Trong giai đoạn đàm phán
của năm 1954, chánh quyền Pháp đã phạm phải nhiều
lỗi lầm đáng tiếc. Họ không hề có ý
rút lui hoặc nhượng quyền cho các phần tử quốc gia
và họ cũng chưa hề định nghĩa rõ rệt vai trò hoặc
quyền hạn của các phần tử quốc gia đã đứng ra tham gia
vào chính phủ Bảo Đại. Vì chẳng bao giờ
đoái hoài đến việc định nghĩa rõ ràng vấn
đề, chánh quyền Pháp đã khiến các phần tử
quốc gia nghi ngờ sự thực tâm của họ. Trong khi Pháp
tỏ
ý muốn đưa Việt Nam vào khối Liên Hiệp Pháp
thì tôi và các bạn bè khác lại
nhất định bác bỏ ý kiến đó. Cuộc đàm
phán của chúng tôi với Pháp trong năm 1954
thật là chán nản. Chúng tôi đã
nhìn rõ được sự ngoan cố của Pháp qua thái
độ của Navarre. Nếu đứng trên quan điểm quốc tế mà
luận
thì lúc này Pháp nên giao trả lại độc
lập cho các quốc gia nằm trong khối thực dân vì
nhiều lý do. Thứ nhất, nếu Pháp không phải lo lắng
về vấn đề thực dân thì họ có thể dồn hết tất cả
các nỗ lực vào việc đối phó với các
khó khăn nội bộ của chính nước Pháp sau Đệ Nhị Thế
Chiến. Thứ hai, nếu Pháp tự ý giao trả lại độc lập cho
các quốc gia trong khối thực dân thì họ có
thể gầy dựng được những mối quan hệ ngoại giao tốt đẹp
và bảo
tồn được uy tín trên trường ngoại giao quốc tế. Và
riêng đối với những quốc gia trong nằm trong khối thực
dân
bị trị chẳng hạn như Việt Nam thì đã hẳn việc Pháp
giao trả lại độc lập là một cơ hội cho phép các
thành phần quốc gia có thể đóng góp một
cách thiết thực vào việc xây dựng đất nước. Tuy
thế, thay vì giao trả độc lập lại cho Việt Nam thì
Pháp lại chọn giải pháp bắt buộc Việt Nam phải nằm
trong
khối Liên Hiệp Pháp. Đây quả là một giải
pháp thiển cận và có hại cho cả hai bên.
Lúc này, vì đang phải chống trả với Việt Minh,
chúng tôi cần có một nền độc lập thực thụ.
Chúng tôi phải chứng tỏ rằng chúng tôi
đã chánh thức dành được độc lập để có thể
đương đầu với ông Hồ một cách hữu hiệu. Tuy vậy, lập
trường ngoan cố của Pháp đã dồn các phần tử quốc
gia của Việt Nam vào thế yếu và bắt buộc các tư
lệnh Pháp phải bám víu một cách mù
quáng vào những uy quyền còn sót lại. Dường
như Pháp đã tối mắt vì những nỗ lực đòi hỏi
bướng bỉnh nhất thời và bất chấp tất cả những hậu hoạn
to
tát về sau. Cũng vào thời gian này, ông Bảo
Đại bắt dầu làm áp lực nặng nề hơn với Pháp để
đòi hỏi độc lập cho Việt Nam và với mục đích
đó, ông chủ trương tổ chức cuộc Hội Nghị Toàn Quốc.
Trong cuộc họp Hội Nghị Toàn Quốc, ngoại trừ những
người Cộng
Sản, tất cả các đại biểu từ những nhóm chính trị
và tôn giáo quan trọng ở trong nước đều được mời
tham dự. Ông Bảo Đại tỏ ý muốn cụ Kim chủ tọa buổi
họp.
Ông cho rằng nếu để cụ Kim đứng ở cương vị chủ tọa thì
cụ
sẽ có thể dùng cương vị đó để phát động,
nâng cao tinh thần quốc gia và khuyến khích, cổ
động được ý kiến dân chúng trong cuộc tranh đấu
dành lại độc lập.
Lúc cuộc họp mở đầu, tất cả đều phấn khởi vì lòng
nhiệt thành tranh đấu đòi hỏi độc lập của các
thành phần tham dự. Vào lúc phiên họp gần
kết thúc cuộc bàn luận bao quanh vấn đề Việt Nam gia
nhập
khối Liên Hiệp Pháp trở nên sôi sục. Những
người chống đối Giải Pháp Liên Hiệp yêu cầu
ông Bảo Đại phải đòi hỏi trọn vẹn chủ quyền. Họ nhất
định
không chấp thuận để Việt Nam gia nhập vào khối Liên
Hiệp Pháp dù là dưới bất cứ hình thức
nào. Vì cuộc bàn cãi quyết liệt diễn ra
công khai trước toàn quốc, nên dư luận trong nước
đã chú ý rất nhiều đến các điểm thảo luận.
Tuy vậy, có lẽ một trong những yếu tố phức tạp nhất
của cuộc
tranh luận đã vượt khỏi sự chú ý của toàn
thể dân chúng. Yếu tố đó là yếu tố Hoa Kỳ.
Lúc này, vì tôi đang cộng tác với
chánh phủ nên theo luật lệ thì tôi
không được phép trực tiếp tham gia hội nghị, nhưng
vì cụ Kim cũng là người nhà nên tôi
vẫn ngấm ngầm điều hành tổ chức để giúp cụ. Trong thời
gian này tôi vẫn thường có sự liên lạc với
Hoa Kỳ qua những nhân viên của tòa đại sứ Hoa Kỳ ở
Sài Gòn và Hoa Kỳ lúc này đã
bắt đầu thực sự để ý đến Hội Nghị Toàn Quốc. Trong khi
tôi đang tổ chức giúp cụ Kim và những cuộc
bàn luận tại Hội Nghị Toàn Quốc đã sắp đến hồi kết
thúc, thì bỗng nhiên Giám Đốc phòng
thông tin Hoa Kỳ (USIA) tại Sài Gòn là
ông George Hellyer lại mời tôi đến gặp ông ta. Tại tư
thất, ông muốn hỏi tôi liệu những người đến dự hội
nghị
toàn quốc suy nghĩ thế nào về giải pháp Khối
Liên Hiệp Pháp? Tôi trình bày
thái độ và những cảm xúc cuồng nhiệt của những
thành phần tham dự Hội Nghị rồi nói rằng theo tôi
thấy thì đa số những người đến dự Hội Nghị Toàn Quốc
đều
chống đối giải pháp Khối Liên Hiệp Pháp. Sau khi
nghe tôi tường thuật, ông Hellyer cho biết rằng nếu
chúng tôi cần tìm hiểu thái độ của Hoa Kỳ
thì ông có thể dàn xếp cho chúng
tôi đến gặp đại sứ Donald Heath. Vì lúc này
tất cả đều đang muốn biết rõ thái độ của Hoa Kỳ nên
chúng tôi lại hẹn gặp nhau tối hôm đó tại
nhà ông Heath.
Sau khi nói chuyện với ông Hellyer, tôi vội
tìm bác sĩ Quát và cụ Kim để cố gắng chuẩn
bị cuộc họp. Lúc này, cuộc họp giữa chúng
tôi và đại sứ Heath chỉ là một cuộc gặp riêng
giữa hai bên chứ không hẳn là một cuộc họp
chánh thức giữa hai chánh phủ. Tuy thế, tất cả
chúng tôi đều biết rõ rằng những điều ông
tiết lộ sẽ là yếu tố quan trọng có ảnh hưởng rất nhiều
đến các quyết định của các thành phần quốc gia
trong tương lai. Đã từ lâu, ông Quát, cụ Kim,
tôi cùng nhiều chính trị gia khác đều coi
Hoa Kỳ như một nguồn tiếp trợ tinh thần và theo sự tin
tưởng của
chúng tôi thì đồng thời cũng sẽ là một nguồn
cấp dưỡng viện trợ trong tương lai. Tuy chúng tôi
không rõ chính sách của Hoa Kỳ ra sao nhưng
khuynh hướng chống thực dân và yêu chuộng dân
chủ của Hoa Kỳ đã khiến chúng tôi xem họ là
một đồng minh hiển nhiên trong cuộc tranh đấu thiết
lập một đường
lối rõ rệt khác với đường lối của thực dân
Pháp và đường lối của cộng sản Việt Nam.
Bất kỳ là đúng hay sai, chúng tôi cũng
đã đặt một niềm hy vọng lớn lao vào sự móc nối với
Hoa Kỳ. Tuy chưa được Hoa Kỳ chánh thức khích lệ, niềm
hy
vọng của chúng tôi đã manh nha qua những lần gặp gỡ
với phòng thông tin USIA, và với các
nhân viên ở toà đại sứ. Những buổi tiếp tân,
những cuộc gặp gỡ riêng và những lần thăm viếng xã
giao trong quá khứ đã dẫn đến nhiều cuộc tiếp xúc
tốt đẹp giữa các nhân viên Hoa Kỳ và Việt
Nam. Mặc dù chưa có gì là chánh thức
trên giấy tờ cả, chúng tôi đã tự nhìn
những cuộc gặp gỡ, móc nối chẳng khác nào một
chứng cớ về thái độ ủng hộ của họ. Khi nhận định lại
vấn đề bằng
những nhận xét hiện thời thì những cảm giác mơ
tưởng tự tạo của chúng tôi lúc này nếu
không phải thực sự phát sinh từ những ước ao, mong mỏi
sự
tiếp trợ ấp ủ đã từ lâu thì cũng là sản phẩm
của sự nhạy cảm đặc biệt của người Việt Nam khi đương
đầu với những đề
nghị gián tiếp. Quả tình, kể từ lúc đó cho
đến bây giờ, chúng tôi vẫn cảm thấy rằng
chính sách của Hoa Kỳ, ít ra là ở một mức
độ tối thiểu nào đó, nhằm vào mục đích
thuyết phục những phần tử quốc gia khiến họ tin rằng
Hoa Kỳ sẽ ủng hộ
họ trong việc tranh đấu dành độc lập. Tuy thế, trên
một
bình diện khác, như tôi đã tìm ra tối
đó tại nhà đại sứ Heath, chính sách của Hoa
Kỳ hãy còn rất nhiều khía cạnh phức tạp.
Cứ theo tình hình quốc tế mà luận thì Hoa
Kỳ và Pháp vẫn là đồng minh. Pháp là
một quốc gia trong khối đồng minh đã cùng Hoa Kỳ
đánh bại Đức trong Đệ Nhị Thế Chiến. Vì sự liên kết
của khối đồng minh vẫn còn mạnh và Đệ Nhị Thế Chiến
cũng
chỉ mới vừa kết thúc nên Hoa Kỳ vẫn cố tránh đẩy
Pháp vào thế bí. Một mặt thì Hoa Kỳ vẫn
tuyên bố rằng họ không ủng hộ chế độ thực dân, nhưng
mặt khác thì họ lại cần duy trì các mối
liên hệ Ngoại Giao với Pháp và khối đồng minh.
Vì sự liên hệ của Hoa Kỳ đối với Pháp phức tạp
là thế nên tất cả chúng tôi đều chưa
đoán trước được liệu Hoa Kỳ có ủng hộ các phần tử
quốc gia Việt Nam khi họ làm áp lực bắt Pháp phải
giao trả độc lập cho Việt Nam hay không? Lúc này,
cả Bác Sĩ Quát, cụ Kim lẫn tôi đều kết luận rằng
cuộc tiếp xúc giữa ông Hellyer và chúng
tôi chính là để nhấn mạnh tầm quan trọng của vấn đề
Liên Hiệp Pháp đối với Hoa Kỳ. Tầm mức quan trọng của
vấn
đề Liên Hiệp đã buộc họ phải khẳng định những đường
lối cơ
bản của họ về Việt Nam. Trong buổi họp, đại sứ Heath
đã
trình bày vô cùng minh bạch những suy nghĩ
kín đáo của Hoa Kỳ bằng những phương pháp ngoại
giao hết sức khéo léo. Ông nói rằng Hoa Kỳ
ủng hộ Việt Nam, ủng hộ những tranh đấu dành chủ quyền
của Việt
Nam, nhưng đồng thời Hoa Kỳ cũng là đồng minh của
Pháp.
Theo đại sứ Heath thì Hoa Kỳ muốn sự hợp tác
Pháp-Việt phải là một sự hợp tác tốt đẹp.
Ông cho rằng những người chống đối Giải Pháp Liên
Hiệp đã đi quá xa. Ông tiếp tục nói
thêm rằng mối liên hệ giữa Hoa Kỳ và Pháp
là một " mối liên hệ đa diện." Ông đề cập đến vấn đề
đồng minh Âu Châu và khuyên rằng chúng
tôi nên "mềm dẻo" hơn là "quá khích."
Những tiết lộ của ông Heath làm chúng tôi
vô cùng thất vọng. Tôi trình bày với
ông Heath rằng chúng tôi khó thể thực hiện
được những chủ trương của ông vào lúc này
vì rằng cuộc họp quốc hội đã đi đến giai đoạn
chót. Khi cuộc họp với đại sứ Heath kết thúc,
chúng tôi cảm thấy chán ngán đến tột
cùng. Tôi còn nhớ Bác Sĩ Quát
đã hầm hừ tức tối: "Vậy mà lúc đầu họ không
chịu nói thẳng." Một gánh nặng đã thực sự
đè lên tất cả.
Tất cả chúng tôi đều biết rõ tầm quan trọng qua
những lời phát biểu của ông Heath. Tầm quan trọng của
sự
tiết lộ vượt xa phạm vi nhỏ hẹp của cuộc bàn luận về
vấn đề
Liên Hiệp với Pháp. Mặc dù chưa tuyên bố trực
tiếp, khi nói đến Âu Châu và mối "liên
hệ đa diện" giữa Hoa Kỳ và Pháp, đại sứ Heath đã
đề cập rõ ràng đến giải pháp của toàn Khối
Liên Minh Tự Vệ Âu Châu. Nếu áp lực của Hoa Kỳ
với các phần tử quốc gia về vấn đề giữa Pháp và
Việt Nam quả có ảnh hưởng đến sự hợp tác của Pháp
trong việc đoàn kết liên minh thì Hoa Kỳ nhất định
sẽ phải dùng đến áp lực này. Nói một
cách khác, thì những vấn đề sinh tử của
chúng tôi chẳng qua chỉ là những vấn đề trả
giá của Hoa Kỳ trong quá trình thực thi
chánh sách toàn cầu của họ. Vào mùa
thu năm 1953, việc phải đối diện trực tiếp với thực tế
là một
bài học hoàn toàn bất ngờ cho chúng
tôi. Sự lầm lạc chẳng qua là vì chúng
tôi đã đặt quá nặng hy vọng vào những
chánh sách lý tưởng mà chúng
tôi cho rằng Hoa Kỳ sẽ thực thi. Đây là một
bài học mà chúng tôi sẽ còn phải học
lại sau này cùng với một sự mất mát lớn lao hơn
gấp bội.
Áp lực của Hoa Kỳ đã khiến các thành
viên đến họp cuộc Hội Nghị Toàn Quốc vào
ngày hôm sau chấp nhận một giải pháp mềm mỏng hơn.
Qua thể thức giơ tay bầu cử, tôi biết rõ rằng ngoài
tôi, cụ Kim và bác sĩ Quát Hoa Kỳ cũng
đã gặp riêng nhiều người khác. Hoa Kỳ đã
chọn đúng thời điểm quan trọng để tiết lộ rõ thái
độ của họ. Những điều Hoa Kỳ minh xác ngay trong thời
điểm
này đã làm các thành viên
trong buổi họp mất hẳn tinh thần và thất vọng sâu xa.
Lúc này ai cũng cho rằng Hoa Kỳ có thể hành
động khác. Hoa Kỳ có thể làm tăng uy tín
của các phần tử quốc gia cũng như buộc Pháp phải
nhượng
bộ thâu hẹp những lập trường bướng bỉnh bằng cách ủng
hộ
chánh phủ Bảo Đại. Nếu đàm phán Pháp-Việt
không đạt được những điểm khả quan đáng kể thì rất
ít người Việt Nam chống cộng dám nhận định rằng giải
pháp Bảo Đại khó thể là một giải pháp hữu
hiệu mà các phần tử quốc gia có thể dùng để
đối phó với Cộng Sản và ông Hồ Chí Minh.
Trong cuộc đàm phán để đòi hỏi độc lập cho Việt
Nam, sự nhu nhược của Bảo Đại và sự bướng bỉnh của
Pháp
hòa hợp tạo thành một sự thất bại kéo dài
từng bước. Vào những năm đầu của thập niên 1950,
chìa khóa của các diễn biến khác nằm trong
tay Hoa Kỳ. Tuy vậy, chính sách của Hoa Kỳ, ở cả
lúc đó cũng như về sau này, đều đóng vai
trò đầy mâu thuẫn, lúc thì làm cho
mọi người tin tưởng rồi có lúc lại làm cho mọi
người phải thất vọng hoàn toàn. Ngay sau khi Hội Nghị
Toàn Quốc chấm dứt thì tôi lại phải trở về Ba
Lê để tiếp tục tham gia những cuộc đàm phán
quân sự. Vào một mùa thu ảm đạm, tôi
và đại tá Lê Văn Kim cùng đến Pháp để
thương thảo với những nhóm tướng Pháp già nua lẩm
cẩm qua những cuộc bàn cãi dai dẳng nhàm
chán. Trải qua không biết đã bao nhiêu cuộc
tranh luận mà hai bên vẫn chưa đi đến một mục tiêu
nào đáng kể. Rồi trong tháng 11-1953, vào
một ngày rét mướt, những cuộc họp triền miên dai
dẳng hốt nhiên bị cắt đứt. Tôi nhận được một bức điện
từ
Sài Gòn báo tin cụ Kim đã từ trần. Cụ qua
đời bất ngờ vì bệnh tim. Cuộc họp Hội Nghị toàn quốc
sôi nổi với kết quả thất vọng vừa qua là hoạt động
chính trị cuối cùng của cụ.
Tôi về Việt Nam vừa đúng lúc để kịp thời có
mặt trên chuyến bay đưa linh cửu ông chú tôi
từ Đà Lạt về Hà Nội làm quốc táng.
Đám tang cụ Kim được cử hành tại Hà Nội. Theo sau
các vị tăng sĩ và gia quyến, số người đưa tang từ
nhà cụ tới nghĩa trang kéo dài nửa dặm. Những
người đưa tang đến đọc điếu liên tục trước ngôi mộ
chưa lấp
và dưới vòm trời hạ thấp dần. Tất cả những bài
phúng điếu đều đề cập đến cụ Kim như một triết gia, sử
gia
và một người có lòng ái quốc hơn là
một chánh trị gia. Mọi chuyện liên hệ đến chánh
quyền ngắn ngủi của cụ dường như đã biến thành những
biến
cố hoàn toàn xa mờ trong quá khứ khi cụ từ trần.
Nhưng những tác phẩm của cụ lúc đó đã được
xem là những tác phẩm hàng đầu trong tầng lớp
trí thức của quốc gia. Sự liên hệ giữa tôi và
cụ Trần Trọng Kim vượt xa sự liên hệ bình thường của
chú cháu. Chúng tôi đã chia xẻ rất
nhiều trong đời sống kể cả về mặt chính trị cũng như
về những
riêng tư cuộc đời. Đã rất nhiều năm, vì hoàn
cảnh chiến tranh, tôi nghĩ về cụ như người cha tinh
thần
đã gần gũi tôi còn nhiều hơn là chính
ông thân sinh ra tôi. Ở một mức độ nào
đó, cụ đã bị ảnh hưởng của ông cụ thân
tôi trong vấn đề xem thường những thay đổi của cõi đời
tạm
bợ. Chính ảnh hưởng này đã khiến cụ khó thể
trở thành một chính khách vẹn toàn. Trong
tận cùng thâm tâm, cụ là một người ngay thẳng
khuôn mẫu, cương quyết chối từ những việc cụ cho là
không đáp ứng với bổn phận của cụ trong việc phụng sự
quốc
gia. Vài sử gia cho rằng cụ đã không nắm giữ quyền
chủ động cả vào lúc đầu tiên khi tiếp xúc
với Nhật lẫn lúc về sau khi cụ tiếp xúc với đảng Đại
Việt. Họ cũng đúng về một phương tiện nào đó. Cụ
không phải là người lãnh đạo cuồng nhiệt của
dân chúng hay các phong trào. Chính
bản thân cụ cũng không hề nghĩ cụ là người như vậy.
Ưu điểm của cụ nằm ở chỗ khác, ở một đời sống thầm kín
bên trong, tạo thành do ảnh hưởng sâu đậm bởi truyền
thống văn hóa Việt Nam và một tinh thần phục vụ đất
nước.
Có lẽ cụ đúng là một nhà nho kiểu mẫu cuối
cùng của Việt Nam, một mẫu người tượng trưng cho những
giá trị cổ truyền đẹp đẽ nhất. Những diễn biến nằm
trong phần
sau của lịch sử đã chứng tỏ sự thiếu thốn vô hạn của
những
phẩm chất này.
Sau khi tang lễ xong xuôi, tôi trở lại Ba-Lê để tiếp
tục những cuộc đàm phán vô vị với các tướng
Pháp. Một lần nữa tôi lại phải tự mình ngồi
vào những chiếc bàn dài, nặng nề, bàn
cãi hàng giờ về những vấn đề tiểu tiết lẩm cẩm.
Càng ngày câu chuyện càng biến thành
xa vời. Quanh bàn đàm phán người Pháp đang
cố kềm hãm tinh thần quốc gia của Việt Nam trong khi ở
10,000
dặm xa cộng sản đã bắt đầu xiết chặt ngọn dây thòng
lọng tại Điện Biên Phủ. Sự thất bại của giải pháp Bảo
Đại
đã đưa chúng tôi vào những cuộc đàm
phán mông lung, trừu tượng, trong khi thực tế chánh
trị và quân sự hoàn toàn nằm ở chỗ
khác.
12.
Sự
Lựa
Chọn
của
Cựu Hoàng
Vào đầu năm 1954, mặc dầu cuộc chiến Điện Biên Phủ
đang
trên đà bất lợi cho Pháp, vẫn chưa ai suy nghĩ
gì đến vấn đề tan rã quân sự của Pháp (thật
sự thì chưa hề có sự tan rã quân sự
nào cả, kể cả sau khi Pháp thất trận ở Điện Biên
Phủ.) Tuy vậy, những hy vọng thành công bằng đàm
phán giữa Pháp và chánh phủ Bảo Đại
đã thật sự tiêu tan. Dư luận đã bàn bạc về
việc triệu tập một Hội Nghị Quốc Tế tại Geneva để thảo
luận về vấn đề
Đông Dương. Một hội nghị như vậy sẽ chánh thức nhìn
nhận rằng tình hình đang đòi hỏi những giải
pháp khác tổng quát hơn. Chẳng những vậy, Hội Nghị
còn nhìn nhận hiện trạng Việt Nam đã trở
thành một vấn đề phức tạp vượt hẳn ra ngoài phạm vi
của
những cuộc đàm phán giữa Pháp với ông Bảo
Đại hoặc Pháp và Việt Minh.
Khi hội nghị Geneva được chánh thức công bố vào
tháng 2, chúng tôi không biết nên phản
ứng ra sao. Một mặt thì kiến thức ít ỏi về chánh
trị quốc tế đã khiến chúng tôi cảm thấy khó
chịu khi phải đương đầu với một diễn đàn lớn rộng. Mặt
khác, Hội Nghị Geneva sẽ cho chúng tôi một cơ hội
tốt để thoát khỏi vòng kềm tỏa của Pháp. Kinh
nghiệm điều đình vào năm trước cho thấy đàm
phán với Pháp là một việc đầy thất vọng và
chán nản. Giai đoạn vừa qua là một giai đoạn thập phần
quan trọng và theo chủ quan của chúng tôi
thì Pháp đã bỏ lỡ rất nhiều cơ hội. Nếu chấp nhận
đàm phán tại Hội Nghị Geneva, chúng tôi sẽ
là những thành viên chánh thức. Sau khi giải
pháp Bảo Đại thất bại, hội nghị Geneva có thể sẽ cho
chúng tôi một cơ hội khác. Chúng tôi
có thể có cơ hội để tạo được một chánh phủ quốc
gia được cả quốc tế công nhận.
Vì suy nghĩ như tế nên chúng tôi chấp thuận
tham gia đàm phán ở Geneva. Cuộc đàm phán
lần này ở Geneva đã đưa vấn đề Việt Nam vào trường
chánh trị quốc tế nên bản thỏa hiệp mới giữa chúng
tôi và Pháp bỗng trở thành quan trọng. Sau
khi Pháp và Việt Nam đã đồng ý thỏa thuận
tất cả những chi tiết về vấn đề độc lập thì ông Bảo
Đại
trở thành quốc trưởng chánh thức đứng đầu chánh
phủ. Chúng tôi đến đàm phán tại Geneva cũng
với tư cách này.
Vì là quốc trưởng, ông Bảo Đại không tự
mình đứng ra điều đình. Ông chọn ông Nguyễn
Quốc Định, lúc bấy giờ đang là Ngoại Trưởng và
đã từng là giáo sư dạy luật pháp quốc tế ở
đại học Ba Lê làm trưởng phái đoàn.
Ông Bảo Đại thiết lập căn cứ ở thành phố Evian, một
thành phố gần biên giới Pháp. Vì đây
là một thành phố cũng gần nơi đàm phán,
ông có thể vừa quan sát kỹ lưỡng các thủ tục
từ lúc ban đầu lại vừa có thể đồng thời gặp gỡ các
đại biểu của nhiều quốc gia. Một trong những nhân vật
nổi bật
mà ông Bảo Đại đã tiếp xúc tại đây
là tướng Bedell Smith, đại biểu của Hoa Kỳ. Tuy từ
trước tới nay
ông Bảo Đại vẫn chọn các thủ tướng theo từng giai
đoạn,
lần này chánh phủ mới phải được thiết lập trên một
căn bản khác hẳn lúc trước. Lúc này Việt
Nam đang cần một chánh phủ quốc gia thực thụ, không
những
chỉ để điều hành những công việc ở trong nước mà
còn để chánh thức hoạt động trong môi trường quốc
tế. Dù là bằng cách này hay cách
khác thì sau Hội Nghị Geneva Việt Nam cũng phải bước
vào một giai đoạn chính trị hoàn toàn mới
mẻ.
Vào tháng 7, ông Bảo Đại rời Evian và trở về
Cannes, một thành phố ở phía Nam nước Pháp. Theo
lời yêu cầu của bác sĩ Quát, tôi cũng theo
cựu hoàng về đó để có thể cùng ông
thảo luận những vấn đề liên quan đến chánh phủ sau hội
nghị. Đương nhiên ông Bảo Đại đã biết rất rõ
dự định của tôi về việc vận động cho Bác Sĩ Quát.
Ông Quát đã hai lần làm Bộ Trưởng Quốc
Phòng và đã tiếp xúc nhiều với các
giới Hoa Kỳ. Uy tín của bác sĩ Quát còn
quan trọng hơn nữa. Vì là một nhân vật quốc gia
có tiếng, ông có thể cùng làm việc
với tất cả các phần tử quốc gia nằm trong nhiều nhóm
khác biệt để cùng lập một chánh phủ có
tính cách đại diện thực thụ. Trong thâm tâm
tôi cho rằng bác sĩ Quát là một người xứng
đáng có thể làm Thủ Tướng được và tôi
nghĩ rằng tôi có nhiều phần có thể thuyết phục được
ông Bảo Đại.
Đầu tiên cụ Trần Văn Đỗ cùng đến Cannes để vận động
với
tôi. Cụ Đỗ vốn là một người hòa nhã
và vô cùng kiên nhẫn. Trong giai đoạn
đàm phán giữa Việt Nam và Pháp trước
đây, lúc tôi và đại tá Kim thương thảo
việc đàm phán quân sự thì cụ Đỗ chính
là người đã tham gia các cuộc đàm
phán chính trị với Pháp . Chỉ nội nói
riêng về tính tình, cụ Đỗ cũng đã kiên
nhẫn gấp bội tôi. Trong các cuộc đàm phán cụ
đã nhẫn nại chịu đựng việc Pháp dùng dằng trả
giá về phương diện chánh trị để có thể giải quyết
vấn đề một cách ôn hòa. Lần này cụ Đỗ đến
Cannes để giúp sức và cho tôi thêm ý
kiến về việc thuyết phục ông Bảo Đại.
Một hôm, khi cụ Đỗ và tôi đang cùng ăn trưa,
chúng tôi bỗng nhìn thấy một người Việt Nam nhỏ
thó bước vào quán ăn. Cụ Đỗ kéo tay
áo tôi, nói nhỏ: "Anh coi kìa, ông
Ngô Đình Luyện kìa. Không biết anh ta
làm gì ở đây vậy?" Ông Luyện nguyên
là em út của ông Ngô Đình Diệm
và là người tôi chưa hề gặp gỡ bao giờ. Việc
ông Luyện hiện diện ở Cannes vào lúc này
đã hẳn không phải là việc tình cờ. Trong khi
tôi ngồi tại bàn chờ đợi thì cụ Đỗ bước lại
nói chuyện cùng ông Luyện và sau đó
quay lại giới thiệu hai chúng tôi với nhau. Ông
Luyện đến Cannes hiển nhiên là để cố gắng tìm hiểu
các kế hoạch của ông Bảo Đại và nếu có thể
thì thuyết phục ông Bảo Đại đề cử ông Diệm
làm thủ tướng cho chánh phủ kế tiếp.
Tôi bắt đầu gặp ông Luyện vào hai tuần lễ sau
đó. Tuy chúng tôi vẫn thường xuyên đàm
luận, cả hai đều không hề đề cập đến vấn đề tranh đua
giữa
ông Diệm và bác sĩ Quát. Tất nhiên
trong thâm tâm tôi vẫn ủng hộ bác sĩ
Quát. Nhưng nếu tôi và ông Luyện chỉ tranh
cãi về vấn đề này thì cả hai đều chẳng được lợi
ích gì. Do đó, thay vì tranh luận về
ông Diệm và ông Quát, chúng tôi
dành tất cả thời giờ bàn bạc kế hoạch đoàn kết tất
cả các phần tử quốc gia để cùng chống cự với cộng sản
Việt Minh. Tôi đã thực sự ấp ủ ý định này kể
từ những ngày còn ở Phát Diệm. Bởi vậy, tôi
mở đầu câu chuyện với ông Luyện bằng cách đưa ra
ý kiến đã từ lâu ấp ủ: Thật ra, chúng ta cần
có một sự đoàn kết giữa các phần tử quốc gia.
Chúng ta phải cùng nhau thỏa thuận, ít nhất
là về những vấn đề cơ bản trong những dự định cải cách
về
xã hội và kinh tế. Nếu không có một
chánh phủ quốc gia liên hiệp, chúng ta sẽ
không đủ sức chống lại kẻ thù chung. Vấn đề quan trọng
nhất đối với tôi là vấn đề đoàn kết.
Chẳng bao lâu sau tôi biết rằng ý kiến của ông
Luyện hoàn toàn khác biệt. Lần đầu tiên, khi
tôi mang vấn đề liên hiệp ra bàn bạc thì
ông có vẻ thờ ơ. Đối với ông, nếu nói về
những người quốc gia khác mà ông không hạ
thấp phẩm giá của họ quả là việc khó khăn.
Ông gọi họ là "Ce sont des intellectuels à la
noix," "Những người trí thức vô dụng." Thái độ của
ông Luyện thật là cao ngạo. Dưới mắt ông ngoại trừ
gia đình cao quí của nhà Ngô ra thì
tất cả mọi người khác đều tầm thường và đáng khinh
miệt. Đây là một cá tính mà sau
này tôi có dịp biết rõ rằng ông Luyện,
ông Diệm và ông Nhu đều có cả.
Nhưng bất kể ông Luyện suy nghĩ thế nào, vấn đề phải
đoàn kết các thành phần Quốc Gia là một vấn
đề tôi nhất định theo đuổi. Tôi đã mục kích
quá đủ để hiểu rõ Việt Minh là những người đối lập
khiếp khủng và tàn khốc đến độ nào. Vì
đã tận mắt chứng kiến cả thủ đoạn của ông Hồ và
Võ Nguyên Giáp lẫn những cách tổ chức
khéo léo của họ, tôi chẳng còn nghi ngờ về
khả năng, tinh thần phục vụ sức mạnh và sự tàn ác
của Việt Minh. Tôi cũng đã thấy rõ sự ủng hộ của
dân chúng đối với Việt Minh ở các vùng
thôn quê nơi họ đã đánh đuổi Pháp
ròng rã 8 năm vừa qua. Hơn nữa, tôi còn
rõ cả nhược điểm của những người quốc gia khi họ bị
coi
là những người hợp tác với thực dân, trong khi Việt
Minh lại được cho là những người hoàn toàn
yêu nước đang hoạt động để chống ngoại xâm. Đối với
tôi thì tổng kết tất cả các yếu tố cho thấy bất kể
kết cục của hội nghị Geneva ngã ngũ ra sao thì cơ hội
chống chỏi trường kỳ với Cộng Sản của chúng tôi vẫn ở
cương vị bất lợi. Chỉ có một chính phủ liên hiệp,
kêu gọi được sự ủng hộ từ mọi tầng lớp dân chúng mới
có thể thành công. Bất đồng ý kiến giữa
những người quốc gia là một nhược điểm lớn lao ảnh
hưởng đến vấn
đề sinh tồn cuả tất cả.
Đây là những vấn đề mà bất cứ lúc nào
có dịp tôi cũng cố mang ra bàn luận cùng
ông Luyện. Dần dà ông Luyện mềm mỏng hơn. Khi đến
giai đoạn chót của khoảng thời gian tôi ở đó
thì chúng tôi đã cùng đồng ý
về một vài vấn đề. Mặc dầu giữa hai chúng tôi vẫn
chưa ai đề cập đến vấn đề người nào sẽ là Thủ Tướng,
cả
hai đều đã đồng ý rằng việc thiết lập chánh phủ
đoàn kết quả là vấn đề cần thiết. Chúng tôi
cũng đã đồng ý về những nguyên tắc cơ bản của một
chương trình xã hội và kinh tế mà
chính phủ đoàn kết tương lai cần phải thực hiện. Trước
khi tôi rời Pháp về Việt Nam, ông Luyện có
đưa cho tôi một bì thơ niêm phong về cho ông
Diệm. Bì thơ này, nếu tôi không lầm
thì là để nói rõ với ông Diệm về
những vấn đề hai chúng tôi đã cùng thảo
luận.
Trong khi chúng tôi bàn luận thì cả
tôi lẫn ông Luyện đều đã có tiếp xúc
với ông Bảo Đại. Tôi không hề biết ông Luyện
thuyết phục ông Bảo Đại ra sao, nhưng có một điều
tôi biết rõ là ông Luyện và ông
Bảo Đại là bạn học cũ. Hơn nữa, cả hai có vẻ rất hợp
nhau.
Riêng phần tôi thì những câu chuyện giữa
tôi và ông Bảo Đại rất đơn giản và ôn
hòa. Vốn tính kín đáo do cả từ tính
nết bẩm sinh lẫn môi trường dạy dỗ, tôi không đi
thẳng vào vấn đề và không hề nói rõ
tôi ủng hộ Bác sĩ Quát. Hơn nữa, tôi
đã biết sơ qua về cách suy nghĩ của ông Bảo Đại.
Tôi biết ông là người né tránh
tài tình những cách đặt vấn đề trực tiếp.
Vì vậy, thay vì đặt vấn đề, tôi cố tìm
cách trình bày cho ông Bảo Đại một
cách gián tiếp. Chúng tôi nói chuyện
chung chung về tình hình Việt Nam sau hội nghị Geneva
và bàn bạc liệu xem ai sẽ là người lãnh đạo
tốt nhất. "Theo như ngài thấy thì ông Diệm
là người thế nào?" Tôi hỏi.
Ông Bảo Đại trả lời, "À, ông Diệm cũng có thể
là người lãnh đạo. Anh thấy ông Diệm ra sao?
Và theo anh thì ông Diệm có được Hoa Kỳ ủng
hộ không?"
Tôi đưa đẩy: "Tại sao chúng ta không thử tìm
hiểu thêm từ Hoa Kỳ?"
Ông Bảo Đại đáp lời: "Có chứ, tôi sẽ
làm việc đó, tôi đang làm. Ông
có thể cố gắng tìm cách cho tôi biết
rõ họ đang suy nghĩ thế nào chăng?"
Những cuộc bàn luận của chúng tôi đại loại thường
là như vậy. -Dò dẫm, gián tiếp. Chỉ mãi đến
sau khi ông Bảo Đại đã chọn ông Ngô
Đình Diệm làm thủ tướng tôi mới thực sự trực tiếp
đương đầu cùng ông. Nhưng cuộc tranh cãi lại
không phải về vấn đề chọn lựa. Tuy rất thất vọng vì sự
chọn lựa của ông Bảo Đại, tôi vẫn chưa hề có bất cứ
thành kiến nào về ông Diệm. Hơn nữa, tôi cảm
thấy một phần hài lòng vì đã đồng ý
được với ông Luyện về một vài điều quan trọng trong
vấn đề
thành lập một chánh phủ đoàn kết. Lúc
đó, việc ông Bảo Đại chọn ông Diệm làm Thủ
Tướng chỉ có nghĩa là những người còn lại như
chúng tôi sẽ phải cố gắng hơn mới có thể thực hiện
được những điều ấp ủ. Bản thân tôi, cũng như bạn bè
và những phần tử quốc gia khác đều không hề
có chút nghi ngờ gì về chuyện chúng
tôi sẽ hợp tác với chánh phủ nếu không bằng
cách này thì cũng bằng cách khác.
Chuyện tranh luận giữa tôi và ông Bảo Đại là
về một vấn đề khác hẳn. Sau khi ông Bảo Đại đã chọn
Thủ Tướng, tôi có ghé chào ông trước
khi lên đường trở về Việt Nam và hỏi rằng bao giờ
thì ông định trở về Việt Nam. Ông Bảo Đại trả lời
có vẻ xa xăm: "Khi rời Trung Hoa vào năm 1948, tôi
hứa rằng sẽ mang độc lập và thống nhất cho nhân dân.
Nhưng theo tôi thấy thì dường như đất nước đang bị
chia
đôi. (Hội nghị Geneva lúc đó đã tiến
hành để chia đôi hai miền Nam Bắc.) Và ngày
nào đất nước còn bị chia cắt thì ngày
đó tôi vẫn chưa nghĩ đến chuyện trở lại."
Lời tuyên bố của ông Bảo Đại làm tôi vô
cùng khó chịu. Đối với tôi, ông Bảo Đại giữ
một vai trò quan trọng vì cương vị của ông
là một cương vị môi giới để làm mối nối kết
và dung hòa các đoàn thể chính trị
quốc gia. Vai trò của ông Bảo Đại lúc này
là một vai trò thiết yếu trong việc thúc đẩy
chánh quyền ông Diệm đón tiếp và hoan
nghênh cả những phần tử quốc gia khác. Nếu ông Bảo
Đại không chịu về nước thì chắc chắn tình
hình nội bộ trong nước sẽ có nhiều rắc rối. Không
có ông, vai trò "Quyền Lực Tối Cao" bên
trên dùng phán xét, quyết định những rắc rối
trong giai đoạn sắp tới sẽ mất hẳn hiệu lực.
Tôi nghĩ thầm rằng ông Bảo Đại thật sự là một người
lười biếng. Ông ta chỉ muốn ở Pháp để khỏi phải đương
đầu
với những việc khó khăn. Và lần này là lần
đầu tiên tôi tự cho phép mình thẳng thắn
phát biểu cảm nghĩ riêng tư.
"Thưa ngài," tôi nói với ông Bảo Đại,
"tôi xin được phép nói lên ý nghĩ
riêng của tôi rằng ngài đang cố tránh
trách nhiệm của ngài. Chuyện ngài vừa nói
đó chẳng qua chỉ là một cái cớ mà
thôi. Xin lỗi ngài nếu tôi quá nặng lời nhưng
nếu ngài không trở lại bây giờ, tôi tin rằng
ngài sẽ chẳng bao giờ trở lại." Tôi không ngờ
là những lời nói liều của tôi trong một lúc
bực tức đó về sau lại có thể trở thành sự thật.
Nghe tôi nói xong, ông Bảo Đại quay mặt qua hướng
khác và rồi ngồi thừ người trong im lặng. Khoảng 2, 3
phút sau, tôi nói tiếp để đập tan sự im lặng. "Dầu
sao, tôi cũng hy vọng là ngài sẽ trở lại. Vì
như vậy thì ít ra tôi cũng còn có dịp
gặp ngài." Quyết định của ông Bảo Đại khi chọn ông
Ngô Đình Diệm thay vì chọn bác sĩ Phan Huy
Quát là một trong những biến cố lớn lao trong lịch sử
hiện đại Việt Nam. Tuy vào năm 1954 vẫn chưa ai biết
ông
Diệm về sau sẽ là một người lãnh đạo độc tài
và đố kỵ, vẫn chưa ai biết sau này những quan niệm sai
lệch về quyền lực của ông sẽ là nguyên nhân
chính phá hủy cả chánh phủ lẫn bản thân
ông ta, nhưng vào lúc này, những quan niệm
tổng quát về chánh phủ của ông Diệm và
Bác Sĩ Quát thật khác biệt đến độ gần như
không có lấy một điểm chung.
Yếu tố nào đã khiến ông Bảo Đại quyết định lưạ chọn
ông Diệm? Đây quả là một câu hỏi hấp dẫn của
lịch sử. Hẳn nhiên chẳng ai nghi ngờ gì về áp lực
từ phía Hoa Kỳ. Ông Diệm đã từng sống ở Hoa Kỳ. Tại
nơi này ông ông đã nỗ lực tạo dựng, kêu
gọi sự ủng hộ của nhiều nghị viên và một nhóm nhỏ
gồm những nhân vật tăm tiếng của Hoa Kỳ, trong nhóm
người
ủng hộ ông có cả Đức Hồng Y Francis Spellman. Thái
độ khinh miệt người Pháp của ông Diệm cũng đã
giúp ông một phần trong việc vận động ủng hộ. Nhưng
dầu
là ảnh hưởng của Hoa Kỳ quan trọng thế nào đi nữa,
tôi vẫn cảm thấy ông Bảo Đại chưa làm điều gì
khác hơn những tiêu chuẩn chọn thủ tướng của ông từ
trước đến nay: Dùng một người lãnh đạo tạm thời cho
một
giai đoạn nhất định. Tôi biết ông Bảo Đại vẫn xem
mình là một cựu hoàng, một nhân vật
có kinh nghiệm khéo léo trong việc dùng
người cho đúng với thời cơ. Vốn dĩ sinh trưởng trong
văn
hóa Pháp, ông Bảo Đại đã biết tường tận về
người Pháp. Tuy vậy, ông hoàn toàn mù
mờ về Hoa Kỳ. Lúc này, mặc dù đã đến giai
đoạn của người Hoa Kỳ, ông vẫn chưa hoàn toàn thấy
rõ vai trò của họ. Trong giai đoạn tối tăm này,
ông cần một người hiểu rõ và có thể đương
đầu với Hoa Kỳ. Theo ý tôi thì ông Bảo Đại
cho rằng ông Ngô Đình Diệm là người có
thể đảm đương việc này -và như thế- ông Diệm
đích thực là nhân vật chính của giai đoạn
đó.
Những diễn biến về sau đã cho thấy việc ông Bảo Đại đề
cử
ông Diệm làm thủ tướng là việc đào hố để
chôn chính mình. Tuy vậy, chính bản
thân ông Bảo Đại lúc bấy giờ cũng chưa hề để
tâm ngờ vực ông Diệm. Ông Bảo Đại vẫn cho rằng nếu
ông Diệm là một người đã phục vụ trong nội
các triều đình vào những năm đầu của thập
niên 1930 thì theo cách cư xử vua tôi
ông Diệm chẳng thể nào lại nghĩ đến việc lật đổ ông.
Trái lại, ông Bảo Đại lại cho rằng vị tân thủ tướng
cũng sẽ chỉ đóng một vai trò tạm thời và vai
trò này rồi đây sẽ được ông thay thế.
Đây là việc ông Bảo Đại đã làm nhiều
lần. Và chính tôi lúc đó cũng
không hề biết gì hơn ông Bảo Đại về ông Diệm
hoặc những ảnh hưởng của ông Diệm trong chính trường
Miền
Nam về sau.
Một trong những việc đề cử đầu tiên của ông Diệm là
đề cử cụ Trần Văn Đỗ làm Ngoại Trưởng. Đối với tôi
việc
này chứng tỏ rằng những điểm đại cương trong chính
sách do tôi và ông Luyện soạn thảo khi trước
đang được thi hành. Cụ Đỗ vốn có họ hàng
thông gia với ông Diệm, (Ông là chú của
em dâu ông Diệm.) nhưng cụ cũng chính là một
nhân vật trong nhóm của bác sĩ Quát.
Tôi cũng mong gặp ông Diệm, chuyển cho ông lá
thư của ông Luyện và cùng ông xem xét
những điểm thỏa thuận giữa em ông và tôi.
Trước khi đến gặp ông Diệm, tôi chưa hề để tâm dự
đoán bất cứ điều gì. Bản thân tôi đã
dành cho vị tân thủ tướng rất nhiều kính trọng
và tin tưởng rằng ông là một chính
khách thật sự có tài. Tôi đoán rằng
trong cuộc gặp gỡ có lẽ ông Diệm sẽ bàn luận chi
tiết về những vấn đề mà tôi đã cùng
ông Luyện soạn thảo để có thể tìm những phương
pháp đoàn kết lực lượng hữu hiệu nhất.
Nhưng trong cuộc gặp gỡ ngắn ngủi giữa tôi và ông
Diệm ở dinh Gia Long vào cuối tháng 7, những mong mỏi
ngây thơ của tôi hoàn toàn tiêu tan.
Lúc vừa mới bước vào văn phòng của ông Diệm,
tôi đã biết ông Diệm không hề có
ý định cùng tôi bàn luận hoặc trao đổi tư
tưởng gì cả. Tuy ông vẫn đối xử với tôi đúng
theo lễ của một người khách, ông Diệm chẳng chút
dấu diếm rằng ông đang vô cùng bận rộn. Ông
Ngô Đình Nhu là em và cố vấn chính
của ông Diệm ra vào liền liền, chốc lại cắt đứt câu
chuyện của chúng tôi để thì thào bàn
bạc với ông Diệm hoặc lưu ý ông về những giấy tờ
mà ông cần ký. Khi tôi chuyển cho ông
Diệm lá thư của ông Luyện, ông chỉ xem qua loa rồi
đưa ngay cho ông Nhu đọc vội đọc vàng. Tuy thế, cả hai
đều
không muốn thảo luận gì cả. Khi ra về, tôi nhắn rằng
Ngoại Trưởng Trần Văn Đỗ đang chờ tôi ở Geneva để tiếp
tục
các cuộc đàm phán giữa Việt Nam và
Pháp nên tôi hy vọng cuộc gặp gỡ lần sau được sắp
xếp càng sớm càng tốt.
Khoảng 3, 4 ngày sau, tôi về đợi tin, nhưng khi có
tin thì tin tức không hề đả động gì đến việc gặp
gỡ. Hơn nữa, một tùy viên của ông Diệm còn
nhắn rằng tôi không nên đi Geneva mà phải ở
Sài Gòn chờ thêm chỉ thị. Chuyến đi Âu
Châu của tôi vì vậy đã bị hủy bỏ và
tôi tiếp tục ở lại đợi chờ. Chẳng bao lâu sau, tôi tự
nhận thấy rằng chẳng còn lệnh gì nữa. Chính cả
hai, ông Diệm và ông Nhu đã không muốn
tôi trở về Geneva, lại cũng chẳng muốn bàn bạc gì
thêm với tôi ở Sài Gòn.
Việc những biến chuyển này đã làm tôi dao
động đến thế nào thiết tưởng là việc không cần phải
nói. Tuy rằng tôi rất buồn bã khi những vận động
ủng hộ cho bác sĩ Quát thất bại, tôi đã dấu
diếm thất vọng bằng cách núp sau chiếc mặt nạ hy vọng
rằng chúng tôi dầu sao cũng có thể hợp tác
với chánh quyền ông Diệm. Lúc này, ngay đến
cả ảo ảnh đó cũng bị tước đi khiến những nhược điểm
của bản
thân tôi bỗng nhiên lộ rõ. Tôi suy ngẫm
và tự thấy rằng tuy đã 31 tuổi mà tôi vẫn
còn là người mới bắt đầu bắt tay vào nghề,
tôi hãy còn quá chơn chất và
lý tưởng. Trong thế giới chính trị, mọi việc luôn
luôn biến chuyển khác hẳn với những điều tôi suy
đoán. Tuy rằng lúc này mọi người đều thấy
rõ rằng Miền Nam cần phải thiết lập một chánh phủ
đoàn kết và cần phải có những cải cách
xã hội cũng như kinh tế để kêu gọi dân chúng
ủng hộ. Nhưng những quan niệm về mục tiêu chính trị
và những tham vọng cá nhân của những nhân vật
lãnh đạo là hai vấn đề hoàn toàn
khác nhau. Tôi bắt đầu suy nghĩ rằng có lẽ việc
phụng sự đất nước chỉ là một nghệ thuật đòi hỏi người
tham gia phải vận động bằng cách này hay cách
khác để chuyển dần ý kiến vào đầu óc của
những nhân vật do định mệnh sắp xếp giữ phần quyền
thế. Đây
là một nghệ thuật mà tôi sẽ có nhiều dịp
thực tập sau này khi ông Thiệu và ông Kỳ bước
dần lên những nấc thang uy quyền. Sau trận Điện Biên
Phủ
thì hiệp định Geneva được ký kết, Việt Nam chánh
thức bị chia làm hai phần, một do Việt Minh lãnh đạo,
một
do Pháp cầm đầu gọi là quốc gia Việt Nam dưới quyền
Bảo
Đại. Có lẽ sau trận Điện Biên Phủ thì hầu hết
các phần tử quốc gia đều mang một cảm giác nửa vui
mừng,
nửa đắn đo, ngần ngại. Đây là một trong những trận
chiến
đáng kể mà Pháp bị bại trận hoàn
toàn và theo lẽ thì tất cả những người tham gia
vào các phong trào chống Pháp phải lấy
làm hãnh diện. Tuy thế các phần tử quốc gia lại
biết rõ rằng kẻ thắng cuộc chính là đối thủ của
tất cả. Nhưng nếu chỉ nói riêng về vấn đề đất nước bị
phân đôi thì vấn đề phân cách hai miền
Nam Bắc đối với những người quốc gia là một cơ hội
nhiều hơn
là một sự mất mát. Đây là cơ hội Miền Nam
có thể lợi dụng để thiết lập một chánh quyền không
cộng sản được quốc tế ủng hộ. Phân đôi đất nước đã
cho những phần tử quốc gia một cơ hội mà trước đây khi
Việt Minh nắm quyền, họ vẫn chưa bao giờ đạt được.
Mặc dù vậy, cơ hội này vẫn hoàn toàn
tùy thuộc vào thiện chí và tài
lãnh đạo của ông Ngô Đình Diệm. Buồn thay,
kinh nghiệm đầu tiên của tôi với ông Diệm và
ông Nhu lại là một kinh nghiệm điển hình thể hiện
tất cả những hành động hợp tác giữa họ với bất kỳ ai
mà họ cho là người ngoài. Và người
ngoài, nói tóm lại, là bất cứ ai
không thuộc gia đình nhà Ngô. Sau một thời
gian, tôi thấy rằng những phương pháp gia đình trị,
loại trừ tất cả người ngoài được thể hiện rõ ràng
nhất qua ông Nhu mặc dầu chính bản thân ông
Diệm cũng không hề tỏ ý bác bỏ những đường lối
này. Tất cả những phần tử quốc gia có đầu óc tự
lập đều cảm thấy áp lực của một sự khinh miệt nặng nề.
Vì
vậy, vào những năm 1954, 1955, đáng nhẽ ông Diệm
phải cố tìm cách để tận dụng tất cả những ủng hộ của
các phần tử quốc gia và gây thêm thiện cảm
thì chính ông và gia đình ông
lại tìm cách gạt bỏ các phần tử quốc gia và
gây thêm thù nghịch.
Đối với Miền Nam Việt Nam thì đây là một tấn thảm
kịch, một cơ hội bị lãng phí hoàn toàn
vì sự thất bại của các thành phần lãnh đạo.
Nếu những nhược điểm bẩm sinh của ông Bảo Đại đã
phá hủy cơ hội thành công của những phần tử quốc
gia trong công cuộc chống Pháp thì những lỗi lầm
của ông Diệm và ông Nhu đã chặn đứng cơ hội
xây đắp một nền quốc gia dân chủ để có thể
kháng cự hữu hiệu với các lực lượng của Cộng Sản Việt
Nam. Hậu quả là Miền Nam Việt Nam bắt đầu khai nguyên
một
giai đoạn độc tài chỉ có mỗi một điểm son duy nhất
đáng kể là khuynh hướng chống Cộng. Rồi đây trong
suốt hai thập niên lịch sử dai dẳng, diễn biến ngày
càng tỏ rõ rằng nếu muốn đoàn kết tất cả mọi tầng
lớp mà lại chỉ có một yếu tố duy nhất là khuynh
hướng chống Cộng thì tự yếu tố này không thể
nào hội đủ tất cả các điều kiện cần thiết.
Kể từ khi ông Diệm mới bắt đầu nắm quyền, Hoa Kỳ đã
nhận
thấy rằng những quan niệm gia đình trị của ông Diệm
là nguyên nhân chính khiến việc thiết lập
chính quyền biến thành phức tạp. Vì vậy, trong khi
giúp đỡ ông thiết lập chính quyền họ đã
làm áp lực bắt ông phải mở rộng chánh phủ.
Ông Edward Lansdale, cố vấn riêng của ông Diệm
đã cẩn thận mở rộng liên lạc với các nhân vật
quốc gia khác. Cố vấn Lansdale và đặc sứ Joseph
Collins,
đại biểu đặc biệt của tổng thống Eisenhower vẫn thỉnh
thoảng liên
lạc với Bác Sĩ Quát. Tôi cũng thường có mặt
trong các buổi gặp gỡ. Theo tôi thấy thì cả hai
viên chức Hoa Kỳ đều tỏ vẻ quan tâm đến những ý kiến
hoặc lời phê bình của chúng tôi. Mặc
dù họ chưa hề đề cập trực tiếp với ông Diệm, cả hai
viên chức Hoa Kỳ vẫn cố gắng tìm cách bắt ông
Diệm mang thêm những đại biểu bên ngoài vào
chánh phủ.
Vào năm 1956, cả cố vấn Lansdale lẫn đặc sứ Collins
đều
đã toan tính giảng hòa những mâu thuẫn giữa
ông Diệm và bác sĩ Quát. Họ cố thuyết phục
ông Diệm bổ nhiệm bác sĩ Quát vào chức vụ Bộ
Trưởng Quốc Phòng. Bác sĩ Quát đã từng
làm Bộ Trưởng Quốc Phòng cả hai nhiệm kỳ dưới thời Bảo
Đại và đã từng tổ chức thiết lập quân đội Việt Nam
chánh qui. Ông là một người có nhiều kinh
nghiệm trong việc thiết lập lực lượng quân sự. Việc bổ
nhiệm
bác sĩ Quát làm Bộ Trưởng Quốc Phòng
là một việc lưỡng toàn, vừa có thể mang lại những
kinh nghiệm cần thiết đang thiếu thốn trong chánh phủ
lúc
này, lại vừa có thể khởi đầu việc hàn gắn lại sự
liên hệ giữa ông Diệm và những nhân vật quốc
gia khác. Đã có lúc cố vấn Lansdale viết
cho tôi rằng mọi việc đều tiến triển êm xuôi "theo
như chúng tôi đã hoạch định." Nhưng cuối
cùng, tất cả những nỗ lực của cố vấn Lansdale và đặc
sứ
Collins đều sụp đổ. Nếu chúng tôi không lầm
thì sự thất bại của cả hai đều do áp lực của ông
Ngô Đình Nhu.
Những thất bại lần này đã khiến hy vọng của riêng
tôi trong việc tham gia đóng góp vào
chánh quyền Miền Nam hoàn toàn chết hẳn. Tôi
đã cố gắng ngồi yên đợi chờ, mong mỏi các diễn biến
chuyển hướng cho phép tôi đóng góp một phần
nào. Nhưng quyết định của ông Diệm về việc gạt bỏ
bác sĩ Quát đã khiến tôi thấy rõ rằng
những biến chuyển tôi đang đợi chờ thực sự chỉ là ảo
ảnh.
Tuy tôi đã từng cộng tác với chính quyền
nhiều năm, giờ đây sự nghiệp chính trị của tôi bỗng
bị cắt đứt. Việc này có nghĩa là tôi phải
tìm cách mưu sinh trong những môi trường
hoàn toàn khác hẳn môi trường chính
trị. Trong khi xoay sở, cố tìm cách mưu sinh, tôi
đã có dịp quan sát ông Ngô Đình
Diệm cùng gia đình tóm thâu dần guồng
máy chính quyền.
13.
Ông
Diệm
và
Các
Thành Phần Đối Lập
Khi chánh quyền ông Diệm thực sự củng cố chánh
quyền thì những phần tử quốc gia như chúng tôi ở
bên ngoài thường vẫn thảo luận với nhau. Tất cả đều cố
tìm cách mở rộng các hoạt động chính trị,
hoặc tìm cách thúc đẩy Hoa Kỳ lay chuyển ông
Diệm đi vào một khuynh hướng nào đó tốt đẹp hơn.
Chúng tôi đã tiếp xúc với các
nhân viên Hoa Kỳ và ngay cả sau khi những cố gắng
Lansdale-Collins đã thất bại, những cuộc tiếp xúc giữa
những phần tử quốc gia Việt Nam và Hoa Kỳ vẫn liên tục
nối
tiếp. Chúng tôi hy vọng có được một quốc hội tự do,
một cuộc tổng tuyển cử tự do, hoặc là những phương
pháp
khác cho phép chúng tôi thỏa mãn
những mong mỏi xây dựng và bảo vệ đất nước. Lúc
này, tất cả các thành phần quốc gia đứng
ngoài chánh phủ đều bị dồn vào một tư thế thụ động
bất đắc dĩ. Kể từ sau đệ nhị thế chiến, họ là những
người
lúc nào cũng ấp ủ hoài bão xây dựng
độc lập cho Việt Nam. Nhưng giờ đây, khi đất nước vừa
mới
dành được phần nào độc lập thì chính
chánh phủ lại ngăn chận, không cho họ đóng
góp.
Tuy tất cả các phần tử quốc gia đều cố gắng thực hiện
những điều
ấp ủ, chúng tôi vẫn chẳng tìm được kẽ hở nào
cả. Ông Diệm đã lấp tất cả mọi cơ hội trong khi ông
Nhu thiết lập một guồng máy chính trị cá
nhân nhằm chánh thức gạt bỏ tất cả những người có
tinh thần tự chủ. Lúc này, tôi đã thật sự
là một kẻ bàng quan hơn là một người trong cuộc.
Tôi đã chánh thức bị loại khỏi chánh trường
từ thời gian này cho đến tận năm 1963. Bởi thế, tôi
đã có dịp quan sát giai đoạn phôi thai của
chính quyền ông Diệm qua đôi mắt của một kẻ thất
vọng đứng ngoài.
Đầu tiên thì vấn đề chống đối chánh phủ Ngô
Đình Diệm khởi thủy từ nhóm Bình Xuyên
và các giáo phái vũ trang của Cao
Đài, Hòa Hảo. Những nhóm này bị lực lượng
của ông Diệm tấn công đè bẹp. Sau đó những
đòi hỏi tự trị của họ bị tiêu diệt tận gốc. Tôi vốn
không ưa những tổ chức với lực lượng quân sự. Đối với
tôi thì việc các lực lượng quân sự
riêng rẽ chỉ trung thành với cấp chỉ huy của họ
không phải là một việc mà chính quyền
có thể chịu đựng được. Tuy vậy, phương pháp đàn
áp của ông Diệm đã khiến vấn đề biến thành
phức tạp. Theo ý tôi, thì đàm phán
và thuyết phục vẫn là một giải pháp tốt hơn. Nếu
biết áp dụng đàm phán đúng mức,
chính quyền sẽ đạt được những thỏa thuận tốt đẹp và
thu
hút được những nhóm đối lập vào guồng máy
của chánh phủ. Khi có người nói với tôi rằng
phương pháp đàn áp bằng quân sự của
ông Diệm rất hữu hiệu thì tôi trả lời rằng:
Có thể ông Diệm đã thành công trong
nhất thời nhưng rồi đây những phẫn khích của các
đoàn thể bị đàn áp sẽ khiến công cuộc tranh
đấu chống cộng, một cuộc tranh đấu lâu dài và
đáng kể nhất, phải chịu nhiều bất lợi lớn lao.
Vào mùa hè năm 1955, ông Diệm quyết định lật
đổ ông Bảo Đại. Ông Diệm dùng cuộc trưng cầu
dân ý để thực thi ý định. Mục đích
chính của cuộc trưng cầu dân ý là để chuyển
hướng chính trị Việt Nam từ một thể chế quân chủ sang
một
thể chế dân chủ, nhưng một mục đích khác là
để lật đổ ông Bảo Đại. Lúc đó, nhiều nhân vật
quốc gia đã cho là chính ông Nhu hoàn
toàn chủ động. Chúng tôi đã nhìn
rõ người em ông Diệm là một con người thật sự
tâm cơ. Có thể chính ông Nhu đã thấy
rõ sự đe dọa của ông Bảo Đại hơn là ông Diệm.
Vì rằng dù có nghĩ thế nào về Bảo Đại đi
nữa thì chính bản thân ông Diệm cũng
đã từng có tiếng là người tôn trọng đạo đức
cổ truyền. Nhưng chính người liên lạc giữa ông Diệm
và Hoa Kỳ là cố vấn Lansdale cũng đã góp
phần quan trọng vào việc vận động cho cuộc trưng cầu
dân
ý. Lúc này, Hoa Kỳ cho rằng cuộc trưng cầu
dân ý là một việc tất yếu (như Lansdale đã
tiết lộ với tôi về sau) để củng cố những bước đầu tiên
của
chính quyền dân chủ Miền Nam. Vào ngày 23
tháng 10, sau cuộc trưng cầu dân ý, 98.2% bầu cho
ông Diệm và nền dân chủ mới. Chỉ riêng con số
98.2% cũng khiến người ta thấy rõ dân chúng Miền
Nam đã thực sự bỏ phiếu ra sao.
Trong năm đầu tiên của chánh quyền ông Diệm
còn một biến cố lớn lao khác là một chiến dịch
được gọi là "Chiến Dịch Tố Cộng." Đây là một chiến
dịch toàn quốc nhằm tiêu diệt những thành phần Việt
Minh còn sót lại tại Miền Nam sau hiệp định Geneva.
Tuy
rằng khi Việt Minh quay về Miền Bắc củng cố lực lượng,
họ quả có
để lại những căn cứ tại Miền Nam, nhưng trong khi tiêu
diệt
các căn cứ này, ông Diệm đã đàn
áp một cách không cần thiết và gây ra
những chống đối lớn lao. Chẳng những chiến dịch đàn áp
đã ráo riết mà ngay cả các thể thức
hành động của các chiến dịch tố cộng cũng làm
nhiều người chán ngán. Áp lực tố cộng đã
đưa đến nhiều trường hợp hàng xóm và người quen bị
buộc phải tố cáo lẫn nhau. Khung cảnh chẳng khác
nào những cảnh tuyên truyền và khủng bố mà
cộng sản đã phát động trước đây.
Tuy chính sách của ông Diệm là thế mà
ông vẫn thành công rực rỡ trong những năm đầu ở
nhiều bước quan trọng. Ông đã đập tan các lực lượng
quân sự của các đoàn thể đối lập, đã lật đổ
được ông Bảo Đại và gạt bỏ được tất cả những người
không đồng quan điểm ra ngoài chánh phủ. Trong khi
đó ông Nhu thiết lập đảng Cần Lao, một đảng phái
chính trị độc quyền trong các hoạt động chính trị
và chỉ trung thành với chính cá nhân
anh em nhà họ Ngô mà thôi.
Mục kích mọi sự qua đôi mắt của một người ngoài
cuộc quả là một kinh nghiệm đặc biệt. Theo tôi thấy
thì những chính sách của ông Diệm lúc
này đang chuyển đất nước về một hướng có thể đưa tới
nhiều chia rẽ trong hàng ngũ quốc gia. Thay vì
đoàn kết, mỗi bước ông đi là một bước đưa đến chia
rẽ. Thay vì hỗ trợ lẫn nhau bằng những liên hệ tương
quan,
mỗi chính sách ông đề ra là một chánh
sách nhằm chia cắt mọi đoàn thể. Vào lúc
này, việc tự tạo ra những kẻ thù bên trong
là việc tự tạo cho mình nhược điểm, nhất là
vào khi những kẻ thù bên ngoài lại
hoàn toàn hung hiểm và tàn độc. Những
chính sách liên tục tiếp liền của ông Diệm
ngày càng đem lại sự thất vọng cho những người bị buộc
phải bàng quan thúc thủ như chúng tôi, những
người vốn dĩ đang ở cương vị hành động bỗng bị chuyển
thành những attentistes -những kẻ chùm chăn đợi chờ-
Mặc
dù đợi chờ được tới mức nào thì cũng không
ai được rõ.
Vào năm 1951, tôi đã không còn đủ khả
năng để đợi chờ. Lúc này, tôi cùng
nhà tôi đã tiêu hết không còn
lấy một xu để dành. Dù là bằng cách
này hay cách khác, tôi cũng phải tìm
kế mưu sinh. Trong khi tôi lần mò tìm việc
thì một người bạn tôi đề nghị rằng tôi nên
làm một cuốn phim. Theo ý người bạn này thì
một cuốn phim về chiến tranh mang nội dung thông điệp
chính trị sẽ có nhiều hy vọng thành công,
nhất là khi cuộn phim có phẩm chất cao và
là kết tinh của một nỗ lực đáng kể. Phim ảnh Việt Nam
lúc đó chưa đạt đến mức độ hội đủ tiêu chuẩn của
các sản phẩm quốc tế. Nếu có thể hòa hợp được kỹ
thuật tinh vi cùng những nhiều diễn biến và một câu
chuyện tình tiết biết đâu chúng tôi có
thể tạo ra một tác phẩm hấp dẫn đáp ứng đúng với
thị trường. Tất cả mọi ý kiến đều đi đôi với sáng
kiến của người bạn, rồi thì những suy tưởng về công
việc
làm phim đã khiến tôi thích thú.
Trước tiên, hẳn nhiên là tôi phải tìm
cách xoay tiền.
Tôi vô cùng ngạc nhiên khi thấy mình
có thể mượn tiền rất dễ dàng từ bạn bè và
những người đầu tư riêng để tiến hành công việc
làm phim. Khi nhìn vào danh sách những
người hậu thuẫn ủng hộ, tôi thấy mình dường như đã
mượn được tiền của cả nửa thành phố Sài Gòn. Nợ
tiền của dân Việt Nam không cũng chưa đủ, vì vững
tin vào những kinh nghiệm kỹ thuật điện ảnh hiện đại
của người
Phi, tôi còn mướn thêm một đạo diễn và một
toán chuyên viên Phi Luật Tân để lo liệu về
vấn đề kỹ thuật. Hơn nữa, khi mướn các chuyên viên
Phi, chúng tôi có thể làm một ấn bản đồng
thời bằng tiếng Phi và cuộn phim do đó sẽ có một
thị trường rộng rãi hơn.
Việc làm phim mất hết một năm rưỡi. Chúng tôi được
quân đội Miền Nam hợp tác trong việc dàn cảnh những
cuộc đụng độ. Tuy rằng phải đối đầu với những khốn khó
trong
việc làm một cuốn phim thương mại, cuối cùng chúng
tôi vẫn cho rằng mình đã tạo nên một sản phẩm
có giá trị: Một cuốn phim đầu tiên của Việt Nam qua
kỹ thuật điện ảnh hiện đại, tân kỳ nhất vào lúc bấy
giờ.
Cuốn phim mang nhan đề là: Chúng Tôi Muốn Sống. Mặc
dù cứ theo những hoàn cảnh thô sơ của điện ảnh thời
bấy giờ thì phẩm chất của cuốn phim rất cao, nhưng
việc mang
cuốn phim vào thị trường thương mãi đã thất bại
nặng nề. Do rất nhiều lý do (có vài lý do
mà cho đến nay tôi vẫn hoàn toàn chưa hiểu
rõ) ấn bản tiếng Phi không hề đem lại bất kỳ lợi tức
nào cả. Trong thị trường Việt Nam thì mặc dầu cuốn
phim
được hoan nghênh như là một thành công, nhưng
số tiền thâu được ở thị trường Việt Nam kém xa số tiền
chi
dùng vào việc sản xuất. Khi mọi sự đã đâu
vào đấy, tôi thấy mình lại tự quàng
vào người một món nợ cao đến hàng triệu.
Đây không còn là lúc để thử
thách những cơ hội mới. Vì phải đương đầu với mọi nợ
nần
khó khăn, cả nhà tôi lẫn tôi đều phải đi
làm. Nhà tôi xoay sở được chân đứng
bán thuốc cho một cửa hiệu thuốc tây và tôi
tìm được chỗ dạy toán ở một trường tư thục Sài
Gòn. Những khổ sở tinh thần thật muôn vàn
khó nhọc, nhưng ít ra chúng tôi cũng
có một nguồn tài chánh đều đặn. Lần hồi
chúng tôi lại tìm đường thoát ra khỏi
đáy vực hố sâu mà tôi đã tự đào
cho gia đình.
Vào cuối thập niên 1950, vì những chánh
sách độc tài và đố kỵ của ông Diệm, gần như
tất cả hoạt động của mọi đoàn thể trong nước đều có
dính dáng đến chính trị. Ngay cả ngôi trường
trung học tôi dạy cũng không tránh khỏi ngoại lệ
này. Mọi người trong ban giảng huấn, kể từ hiệu trưởng
trở đi
đều chống đối chế độ nếu không ở phương diện này
thì cũng ở phương diện khác. Hoàn toàn do
sự tình cờ, tôi lại tới dạy tại một nơi với toàn
những người chống đối chính phủ. Một trong những giáo
sư
mà tôi quen biết khá thân là người
chống đối ông Diệm dữ dội. Chính anh đã tổ chức một
mạng lưới bạo động rất hiệu lực và đã tuyển mộ được
nhiều
người trong khắp cả Miền Nam gia nhập. Tên anh là Phan
Châu và anh phụ trách dạy môn Văn Chương. Tuy
vậy, nghề giáo chỉ là một lớp mặt nạ phía
ngoài.
Anh Phan Châu trở thành một nhà cách mạng
mà nhiều người trong các đoàn thể chống đối biết
rõ. Anh đứng đầu một tổ chức hoạt động ở Nha Trang.
Anh rất căm
hờn ông Diệm và cố tạo mọi cơ hội để có thể tấn
công chánh quyền ông Diệm về mọi mặt. Đầu óc
anh Châu lúc nào cũng đầy ắp những chuyện
cách mạng. Sau khi chúng tôi biết nhau, anh vẫn
thỉnh thoảng ghé vào chỗ tôi vào ban
đêm, đôi khi anh mang đến một bao đầy mìn plastique.
Mỗi lần anh đến là mỗi lần nhà tôi kinh hãi.
-Câu chuyện của anh Châu kết thúc cũng bất ngờ như
những câu chuyện tương tự vào lúc đó. Một
hôm, chúng tôi không thấy anh đến dạy
mà cũng không thấy anh nhắn lại. Đây là một
việc chưa hề xảy ra bao giờ. Cả ban giảng huấn đều sợ
đã xảy ra
chuyện gì rồi. Từ đó, chúng tôi chẳng
còn nghe tin tức gì về anh nữa. Ít lâu sau,
người ta phát hiện chiếc xe của anh bỏ rơi tại một
vùng
ruộng dưới miền Lục Tỉnh. Dần dà cảnh sát chìm
ngấm ngầm thừa nhận rằng chính họ đã thủ tiêu anh
Châu, một lời đe dọa không chút dấu diếm với những
người đối lập khác.
Đối với những người không quen thuộc với tình cảnh
Việt
Nam lúc này thì câu chuyện Phan Châu
có vẻ là một hiện tượng lạ, nhưng thật sự thì anh
ta là một trường hợp điển hình cho một lớp người trong
xã hội Việt Nam lúc bấy giờ. Vừa là trí
thức, cách mạng, vừa hoạt động bất hợp pháp, lại vừa
yêu nước, anh Châu chính là một người
đã hiến dâng tâm hồn cho lý tưởng và
đất nước. Trong một giai đoạn hòa bình nào
khác có lẽ anh đã sống một cuộc sống thật
bình thường, nhưng trong giai đoạn hiện tại tình thế
đã ngăn cản, không cho phép anh được sống
bình thường như vậy. Sự bất công làm anh phẫn
khích tột độ -và vì vậy- anh đã tận dụng
tất cả khả năng vào những toan tính lật đổ chế độ
ông Diệm. Mặc dù một phần đời sống của anh -đời sống
của
một nhà giáo luôn luôn vắng mặt- đã
gắn bó anh với đời sống của xã hội, cơn phẫn khích
đã chuyển anh thành một người yêu nước mạo hiểm
có thể làm bất cứ chuyện gì. Phan Châu
là người có lý tưởng hoàn toàn trong
sạch, có thể so sánh với những nhân vật của
Dostoevski. Tuy trường hợp của anh được nhiều người
biết nhất, anh Phan
Châu không phải là một người duy nhất sống cuộc đời
bạo động. Trong những ngày nhiễu nhương lúc đó,
những người sống trong những tình trạng tương tự đầy
dẫy khắp
nơi, trộn lẫn ngay trong đời sống hàng ngày của mọi
người.
* * * Vào năm 1960, các chính sách của
ông Diệm đã đưa đất nước vào những khó khăn
mà các phần tử quốc gia đã tiên đoán
trước. Trong khi tuyển mộ các nhân viên chính
phủ thì một trong những điều kiện tiên quyết là
người được tuyển phải trung thành với gia đình ông
Diệm. Vì thế chánh quyền chuyển hướng trở thành
một chánh thể gia đình trị. Cả hai guồng máy điều
hành dân sự và quân sự đều bị lũng đoạn
vì các nạn hối lộ, đố kỵ và thiếu khả năng. Đời
sống kinh tế của đất nước ngày càng tụ tập vào tay
chân, bạn bè và những người ủng hộ ông Diệm.
Tình trạng này đã khơi thêm hố sâu
ngăn cách giữa hai tầng lớp kinh tế nghèo giàu
rõ rệt. Tuy rằng ở các miền quê chánh phủ
vẫn có cải cách nhưng những cải cách lúc
đó đã chẳng hiệu lực mà còn bị dân
chúng ghét cay ghét đắng. Phong trào cải
cách thường buộc các nông dân phải tập họp
lại thành những toán tự vệ để thiết lập "Khu Trù
Mật." Đây là tên gọi của những khu vực nông
thôn an toàn mà nông dân bị cưỡng
bách phải cư ngụ. Trong khi đó, cảnh sát,
công an xuất hiện ở khắp mọi nơi khiến cho bầu không
khi
trở nên căng thẳng. Nhà tù luôn đầy ắp người
và những người đối lập lúc nào cũng bị đàn
áp triệt để. Đã vậy, tình trạng lại còn
nghiêm trọng hơn. Chiến tranh du kích do Việt Minh
phát động ngày càng lan rộng và Cộng Sản
đang mượn dịp thuyết phục tất cả các nhóm chống đối.
Vì không còn cách nào khác khả
dĩ có thể ảnh hưởng đến chính sách của
chính quyền vào tháng 4 năm 1960, một nhóm
những chính khách quốc gia có tiếng quyết định
cùng tụ họp để kêu gọi ông Diệm. Bác Sĩ
Quát, cụ Trần Văn Đỗ (đã từ chức Ngoại Trưởng một thời
gian ngắn sau khi được đề cử), ông Trần Văn Tuyên,
thày giáo cũ của tôi và khoảng 20 người
khác cùng viết một lá thư cho tổng thống. Bức thư
được viết thật hòa nhã, và đã liệt kê
tất cả những nhận xét của chúng tôi về tình
hình quốc gia lúc này, những sai lầm trong đường
hướng của chính phủ và sau cùng đề nghị với
chánh quyền một số biện pháp để cải thiện tình
hình. Tôi đã góp phần soạn thảo lá
thơ. Một trong những lời đề nghị bắt đầu như sau: Tổng
thống nên
mở rộng chánh phủ, thực thi tinh thần dân chủ, bảo đảm
một
số quyền công dân căn bản, nhìn nhận những
thành phần đối lập, giúp nhân dân mạnh dạn
trình bày ý kiến để có thể giải tỏa những
phàn nàn, phẫn khích... Một khi người dân
được hưởng những quyền lợi đó, họ sẽ tự so sánh đời
sống
của họ với đời sống của những người sống dưới chế độ
Cộng Sản Bắc Việt.
Họ sẽ nỗ lực để bảo vệ chánh phủ Miền Nam vì họ thấy
rõ rằng họ đang tranh đấu để bảo vệ cho một chánh phủ
dân chủ và cho những quyền lợi tự do thật sự của họ.
Lá thư đã được 18 nhân vật có tiếng trong
nhóm chúng tôi ký và được gửi
riêng cho ông Diệm. Ý kiến của tất cả là cố
tạo ra một bầu không khí có thể cho họ gặp
riêng tổng thống, để tạo cơ hội đối thoại giữa chính
quyền
và đối lập. Tuy thế, lá thư được gửi đi không hề
có đến một lời đáp ứng. Mọi việc diễn ra chẳng
khác nào chúng tôi chưa từng gửi lá
thư đi bao giờ. Khi đã rõ rằng ông Diệm nhất định
từ chối, lá thư được chuyển đến giới báo chí.
Câu chuyện lập tức biến thành sôi động. Một
ký giả phụ trách tin tức chính trị gọi những người
ký kết là nhóm Caravelle, tên của một
khách sạn tại Sài Gòn, nơi những người ký
kết đã tụ họp. Lá thư được gọi là Bản Tuyên
Ngôn Caravelle. Vì những chính khách
ký tên vào bản tuyên ngôn đều có
uy tín, và vì những đề nghị xây dựng của họ
lại được trình bày rất ôn hòa nên đa
số nhân dân đều ủng hộ họ.
Ông Diệm phản ứng kịch liệt. Công an ruồng bố, cầm
tù tất cả, bất chấp uy tín của những người đã
ký vào bản kêu gọi. Ngay cả cụ Trần Văn Đỗ ,
chú của bà Nhu cũng bị cầm tù. Bác sĩ
Quát đã phải trốn tránh tại nơi tôi cư ngụ
hơn một tuần lễ trước khi tình hình lắng dịu để ông
có thể về nhà riêng. Vì không
ký tên vào bản kêu gọi nên tôi
tránh khỏi những ruồng bố nhất thời. Khi những chính
khách Miền Nam còn đang bị cầm tù thì một
trong những nhân vật quốc gia lớn tuổi là nhà văn
nổi tiếng Nguyễn Tường Tam đã tự vẫn, để lại một lá
thư
nói rằng ông không thể sống trong một chế độ như chế
độ độc tài của Miền Nam. Hành động của ông
làm chấn động toàn quốc. Khi đám táng
ông cử hành đã có hàng ngàn
người theo sau tiễn đưa, tỏ ý thương tiếc.
Lá thư Caravelle chỉ là một trong những dấu hiệu phản
ảnh
một quan niệm chung rằng chế độ ông Diệm đang đến ngày
suy
sụp. Trước đây, khi nền Đệ Nhất Cộng Hòa mới bắt đầu
dưới
quyền ông Diệm thì phần đông dân chúng
đều ủng hộ ông, nhưng những chánh sách gia
đình trị của ông Diệm đã khiến những người ủng hộ
ông ngày càng ít đi. Cho tới khi các
chính khách quốc gia dưa ra bản kêu gọi thì
gần như chẳng còn ai ủng hộ chánh quyền ông Diệm
nữa. Lúc này phương tiện đáng kể của ông
Diệm chỉ còn là võ lực đàn áp
mà thôi. Thay vì mang lại sự thống nhất và
tinh thần tranh đấu giữ vững đất nước, ông Diệm và gia
đình đã tạo ra những nhóm chánh trị chỉ
hoạt động ở hai thái độ cực đoan: Nếu không phải
thúc thủ thất vọng thì cũng là đương đầu chống
đối. Ngoài hai môi trường vừa kể dường như không hề
có bất cứ môi trường nào khác có thể
giải tỏa được những hoài bão của những người sống
vào lúc này.
Vào ngày 11 tháng 11, năm 1960 nhiều đơn vị
dù ở Sài Gòn đã tự đứng ra giải quyết vấn
đề. Họ bao vây anh em ông Diệm ở Phủ Tổng Thống và
bắt đầu nói chuyện với ông Diệm qua điện thoại. Cũng
như
nhóm Caravelle, họ thúc đẩy ông Diệm phải cải
cách mở rộng chánh phủ và thay đổi các
chánh sách. Ông Diệm nói chuyện với những
người đang làm đảo chánh hàng giờ qua điện thoại.
Ông đồng ý chịu nhìn nhận những sự đòi hỏi
của họ và còn bàn luận cả những chi tiết về
cách cải tổ chánh phủ. Nhưng những lời lẽ đàm
phán dài dòng chỉ là một chiếc bẫy
khéo léo của ông Diệm nhằm duy trì
hòa hoãn với các tướng lãnh và
kéo dài thời gian để cho những lực lượng ở xa có
đủ thời giờ kéo về đàn áp các lực lượng
phản loạn. Khi mọi sự đã qua, ông Diệm phớt lờ tất cả
những lời đã hứa.
Mặc dầu đảo chánh thất bại, những hậu quả tối quan
trọng của
cuộc đảo chánh quân sự vẫn có ảnh hưởng quan trọng
đến sự tồn tại của chánh quyền ông Diệm và
ông Nhu. Cho dù những người đảo chánh có tổ
chức thiếu khéo léo đến độ nào đi nữa thì
họ cũng đã bao vây được dinh tổng thống suốt 36 tiếng
đồng
hồ. Tự nhiên những người mưu toan đảo chánh đều thấy
được
rằng họ có thể thay đổi chánh phủ dễ dàng bằng
những đơn vị nhỏ đóng ở thành phố. Vì biết
ông Diệm không bao giờ chịu cải tổ chánh phủ, những
người chống đối nằm trong các đoàn thể dân sự cũng
như quân sự đã bắt đầu bàn bạc không ngớt về
những cuộc đảo chánh trong tương lai. Vào tháng
10, 1960 thì gần như khắp nơi đều bàn luận vấn đề đảo
chánh.
Cũng vừa vặn vào thời gian này, những người trong
nhóm đối lập đã bắt đầu nghe dư luận đồn đãi về
một tổ chức chống chánh phủ gọi là Mặt Trận Giải
Phóng Miền Nam. MTGP do ông Nguyễn Hữu Thọ là một
luật sư Sài Gòn cầm đầu. Tổ chức này qui tụ những
người chống đối tại Miền Nam muốn lật đổ ông Diệm. Đối
với những
người đã từng trốn chạy từ Miền Bắc Việt Nam thì MTGP
rõ ràng là một tác phẩm của Cộng Sản Bắc
Việt, một guồng máy chính trị nhằm kêu gọi những
người Miền Nam chất phác đang chống đối ông Diệm tham
gia
vào một tổ chức do đảng Cộng Sản điều động và ngấm
ngầm
lãnh đạo.
Mặt Trận Giải Phóng có tất cả những nét chấm
phá huyền thoại do sự tổ chức lão luyện của ông Hồ
và đảng Cộng Sản Việt Nam. Bất kỳ ai đã từng chứng
kiến
những kỹ thuật này chắc chắn đều khó thể quên nổi.
Tất cả những người di cư từ Miền Bắc đều đã trải qua
những kinh
nghiệm đau thương. Vì chính bản thân đã qua
nhiều màn điêu đứng khi còn ngoài Bắc,
chúng tôi đã nhận ra ngay bản chất và mục
đích thực sự của MTGPMN. Ngay chỉ cái tên Mặt Trận
Giải Phóng cũng đã gợi lại quá rõ ký
ức về những mặt trận khác mà ông Hồ đã tổ
chức trong thập niên 1940 để thu hút các phần tử
quốc gia. Tuy vậy, chúng tôi không làm
cách nào thuyết phục được những bạn bè Miền Nam
tin theo. Theo tôi thấy thì những người Miền Nam chưa
hề
biết rõ về cả lai lịch ông Hồ lẫn những chủ trương
sách động hô hào cổ điển của Cộng Sản với chiến
thuật "Sách Động tất cả những người có thể bị sách
động." Họ chỉ biết đóng góp những tình cảm cuồng
nhiệt của mình vào một phong trào mới mẻ, một
phong trào cổ động sức mạnh của tập thể chống lại
chính
quyền áp bức của ông Diệm.
Rủi thay, những cuộc tranh luận về MTGP lại xảy ra
trong một khung cảnh
nghi kỵ giữa hai miền Nam, Bắc. Một mặt thì người Nam
cho rằng
thái độ chống đối MTGP của người Bắc khởi xuất từ
những bản
tính luôn luôn bi quan và đa nghi bẩm sinh.
Mặt khác đối với người Bắc thì những người Nam lại một
lần nữa đặt tất cả hành động trên một lý tưởng
hoàn toàn ngây thơ. Thật ra, lý do đã
khiến chúng tôi không thể thuyết phục được những
người Miền Nam còn vượt xa hơn những khác biệt đơn
thuần
của vị trí địa lý. Nhưng bất kể nguyên nhân
khó khăn thực sự là gì thì cũng phải mất
một thời gian khá lâu những người Miền Nam mới thấy
rõ được mối liên hệ giữa MTGP và đảng Cộng Sản Việt
Nam. Trong khi đó chúng tôi đã cố gắng
thuyết phục ông Diệm qua trung gian rằng những chính
sách do ông đề ra đã khiến những phần tử quốc gia
không đồng ý với ông phải chọn những thái độ
cực đoan và nhiều người đang chọn cả những phương pháp
chống đối bất hợp pháp. Thiết tưởng cũng không cần
nói thêm rằng, cũng như những lần trước, lời cảnh
cáo này vẫn chẳng hề được ông Diệm hưởng ứng.
Mặt Trận Giải Phóng chánh thức phát động
vào tháng 12 năm 1960. Khoảng một năm về trước,
quân đội Việt Minh đã xâm nhập Miền Nam, vượt qua
những vùng Phi quân sự và xuôi xuống theo
những đường mòn mà sau này được gọi là
đường mòn Hồ Chí Minh. Vì là người đứng
ngoài, tôi không hề biết rõ những chi tiết về
các biến chuyển cũng như những tầm mức quan trọng thực
sự của
các cuộc chuyển quân. Tôi chỉ biết rằng khoảng cuối
năm 1960, đầu năm 1961, quân đội du kích đã mở
những cuộc tấn công trầm trọng vào đời sống thôn
quê. Trước đây, việc đi lại giữa những vùng
thôn quê thật là dễ dàng. Vấn đề chuyển vận
từ chỗ này đến chỗ khác không hề bị những cuộc tấn
công đe dọa. Nhưng khoảng năm 1961, những cuộc đánh
úp và giật mìn là chuyện xảy ra hàng
ngày. Những chuyện chuyển vận lúc này nếu
tránh được thì tốt, hoặc nếu cần kíp bắt buộc phải
đi thì cũng phải xem xét rất là cẩn trọng. Biểu
tình diễn ra thường xuyên. Ở khắp mọi nơi bầu không
khí đều căng thẳng.
Tuy rằng bầu không khí Miền Nam ngày càng
căng thẳng và chính phủ ông Diệm đã gần đến
ngày sụp đổ mà chẳng hiểu vì lý do
gì Hoa Kỳ vẫn chẳng hề thay đổi chính sách ngoại
giao của họ. Tuy chứng cớ đã rõ rành rành
rằng chánh quyền ông Diệm không được dân
chúng ủng hộ mà tòa đại sứ Hoa Kỳ trải qua hết đại
sứ Frederick Reinhardt, Elbridge Durbrow và rồi
Fredrick Nolting
vẫn chịu đứng làm hậu thuẫn cho ông Diệm. (Tuy rằng
đại sứ
Durbrow thỉnh thoảng cũng có vẻ khó chịu và
không đồng ý với những chánh sách thiếu thực
tế của Hoa Kỳ lúc đó) Nếu trước đây, cố vấn
Landsdale và những nhân viên cao cấp Hoa Kỳ
đã công khai giữ liên lạc với bác sĩ
Quát và các phần tử quốc gia khác
thì giờ đây Hoa Kỳ lại tránh né tất cả
các phần tử quốc gia. Lúc này tòa đại sứ
Hoa Kỳ chỉ muốn giao thiệp với chánh phủ "hợp pháp."
của
Việt Nam. Họ cho rằng giao thiệp với những người đối
lập ở Việt Nam
lúc này "không tiện". (Nguyên văn: "not
appropriate", một danh từ phổ thông của giới Ngoại
Giao Hoa Kỳ
tại Việt Nam lúc đó.) Hiển nhiên là mật vụ
của ông Diệm luôn luôn trông chừng kỹ lưỡng
những liên lạc giữa bất kỳ người nào trong nhóm
chúng tôi với người Hoa Kỳ. Họ canh gác, thăm
dò ráo riết quanh khu cư ngụ của bác sĩ
Quát, khu cư ngụ của ông Trần Văn Tuyên và
nhiều chính khách khác.
Chúng tôi có thể hiểu được hành động của
ông Diệm nhưng chúng tôi rất bực bội về việc Hoa Kỳ
đã buông thõng, đi đôi cùng với
chánh quyền Miền Nam. Tất cả chúng tôi đều hiểu
rõ Hoa Kỳ ủng hộ một chế độ dân chủ, ủng hộ những cải
cách về mặt xã hội, kinh tế, quân sự. Chúng
tôi có thể thông cảm với Hoa Kỳ vào những
lúc đầu tiên khi họ giúp đỡ ông Diệm
là vì họ chưa hề biết rõ chánh sách
của ông ta. Qua hành động của hai ông Lansdale
và Collins, chúng tôi cũng đã biết sơ về
những chủ trương của Hoa Kỳ. Họ đã cố gắng thúc đẩy
ông Diệm về việc mở rộng chánh phủ. Nhưng giờ việc
ông Diệm khăng khăng nhất định theo đuổi những chánh
sách gia đình trị, cũng như việc những phương pháp
đàn áp của ông đã dẫn đến những khủng hoảng
nội bộ trong nước và những kết quả yếu kém về quân
sự là việc đã rõ rành rành.
Ở vào tình trạng hiện tại, chúng tôi
không thể hiểu được tại sao Hoa Kỳ lại ủng hộ anh em
ông
Diệm mà không hề đả động gì đến những người
cùng chung lý tưởng dân chủ đang ở ngay sát
bên họ. Lúc đó, và cho đến hiện giờ,
tôi vẫn nghĩ là Hoa Kỳ, tại thời điểm này nên
nói thẳng cho ông Diệm rõ những sự mong đợi của họ.
Và nếu những điều này không được đáp ứng, họ
nên rút ra ngay, cho dù sự rút lui có
mang lại ít nhiều cơ hội thắng lợi cho Cộng Sản. Việc
ông
Diệm thất bại khi điều hành chánh quyền bằng những
phương
pháp độc tài là việc đã quá
rõ ràng. Chúng tôi không tài
nào hiểu được sự vô lý khi Hoa Kỳ vẫn vui
lòng đặt ảnh hưởng và uy tín của mình để
ủng hộ một nhân vật như ông Diệm. Khi bàn bạc với
nhau chúng tôi đã cho rằng người Mỹ lúc
này quả thật mù quáng chẳng khác nào
con đà điểu chui đầu trong cát. Mặc dầu có sức
mạnh vô biên, họ vẫn bị dụ vào những thế thụ động
bất lợi cho chính sách của họ.
Nguyên do phẫn uất của chúng tôi là do
tình cảnh bất lực. Tất cả chúng tôi đều nhìn
thấy những việc phải làm mà không có
cách gì để xoay sở cả. Biến cố Caravelle đã khiến
mọi tầng lớp chống đối phải chịu đựng những áp lực đàn
áp nặng nề. Lúc này rất nhiều người bị cầm
tù và tất cả những chống đối về mặt chính trị hoặc
ngôn luận đều bị kềm kẹp. Dân chúng thận trọng hơn
trong lời ăn tiếng nói. Mọi người đều biết họ đang bị
canh chừng
và hơn nữa họ còn biết mật vụ của ông Diệm
có thể tùy ý suy diễn những hành động của
họ. Bầu không khí căng thẳng đã khiến chúng
tôi bắt đầu lý luận rằng nếu muốn làm thay đổi
tình thế thì chúng tôi chẳng còn
cách nào khác hơn là phải dùng những
biện pháp quân sự.
Những ý nghĩ về một cuộc đảo chánh khác lại bắt
đầu xâm nhập bầu không khí chính trị của Việt
Nam. Những người đang phục vụ trong quân đội cũng đã
cảm
thấy rõ điều này và tự họ cũng bàn bạc để
có thể hành động kịp thời khi có đảo chánh.
Đây chính là điểm khởi đầu đã đưa đến những
mầm mống chống đối Phật Giáo, và thúc đẩy tất cả
các hoạt động chống đối chuyển thành bạo động và
chống lại chính quyền ông Diệm.
14.
Đảo
Chánh
Những cuộc chống đối của Phật Giáo khắp nơi tại Việt
Nam
vào tháng 6 năm 1963 một phần là do chánh
sách có vẻ thiên lệch của ông Diệm đối với
công giáo. Gia đình ông Diệm là một
gia đình công giáo, và trong thời gian cư
ngụ tại Mỹ, ông đã vào tu ở một chủng viện Hoa Kỳ.
Vì thế, ông cảm thấy dễ gần gũi cũng như dễ tin tưởng
những người theo đạo công giáo hơn. Nếu việc chỉ đơn
thuần
có vậy thì lại chẳng có gì phức tạp. Thật
ra thì chính ông Thục, nguyên là anh
cả ông Diệm là giám mục tỉnh Vĩnh Long và
Tổng giám mục của Huế mới đúng là người phải chịu
trách nhiệm về việc thúc đẩy khiến các đoàn
thể Phật Giáo đã đứng ra chống đối vào mùa
hè năm 1963.
Vì là người lớn tuổi nhất trong gia đình ông
Diệm nên ông Thục vừa được kính nể rất mực lại vừa
có ảnh hưởng vô cùng lớn lao đối với những
công chức cao cấp chánh quyền trong cả hai ngành
dân và quân sự. Những người dù theo đạo Phật
hoặc không theo tôn giáo nào cũng đều cảm
thấy bị buộc phải tham gia các lễ nghi cũng như chứng
tỏ sự nể
vì Thiên Chúa Giáo. Trái lại, khi
bàn bạc về vấn đề Phật Giáo thì mọi đòi
hỏi, dù chỉ là những đòi hỏi cơ bản nhất cũng
không hề được ông Thục nhượng bộ. Những hành động
thiên lệch của ông Thục đã vô hình
chung làm tổn thương đến bầu không khí giữa
các tôn giáo trong nước. Nếu không vì
những kiêu ngạo và thách thức đương đầu của
ông Thục, có lẽ vấn đề Phật Giáo chống đối
đã không xảy ra. Tuy nhiên, tình hình
đã khiến những diễn biến chuyển hướng cho phép bạo
động
có dịp phát động.
Ngày 7 tháng 5, Lễ Phật Đản, cũng là ngày
mở màn cho cuộc bạo động. Tại Huế, một trung tâm Phật
Giáo của Miền Nam Việt Nam, ngày lễ đã thu
hút hàng trăm ngàn người đến nghe các vị sư
nổi danh thuyết pháp. Tuy vậy, bầu không khí
lúc đó thật là căng thẳng vì chính
quyền địa phương đã cấm không cho phép các
phật tử treo cờ phật giáo. Trong khi đó, chỉ mới
có một vài tuần trước, các đoàn thể
công giáo đã được phép tự do treo cờ ăn mừng
kỷ niệm lần thứ 25 lễ thụ phong Tổng Giám Mục của ông
Thục. Sự phân biệt rõ rệt đã gây công
phẫn cho các đoàn thể phật giáo. Một đám
đông đã tụ tập trước đài truyền thanh khi
chính quyền địa phương ngăn cấm không cho phép
phát thanh những bài thuyết pháp. Chẳng bao
lâu sau, quân đội chánh phủ đến theo từng loạt xe
Jeep cùng những xe vũ trang khác và bắt đầu
đàn áp ráo riết những người biểu tình.
Trong cơn hỗn loạn đã có 8 nạn nhân, kể cả một số
trẻ em thiệt mạng. Ngày sau đó, bầu không
khí bạo động do những cuộc đụng độ giữa cảnh sát
và những đám biểu tình bao trùm lấy Huế.
Chùa Từ Đàm bỗng biến thành một tiền đồn cố thủ,
nơi quân đội bao vây những nhà sư và
các vị lãnh đạo tôn giáo.
Trong khi những cuộc đụng độ ở Huế đang sôi sục thì
những
lãnh đạo tôn giáo ở Sài Gòn bắt đầu
phát động chiến dịch thuyết pháp công khai,
thôi thúc biểu tình và xuống đường để ủng hộ
những đoàn thể phật giáo ở Huế. Vào đầu
tháng 7, Sài Gòn lúc nào cũng
xôn xao vì những cuộc biểu tình. Ngày 11,
cuộc diễn hành Phật Giáo bắt đầu từ chùa Ấn Quang
bỗng ngưng lại ở đường Lê Văn Duyệt gần tòa đại sứ Cam
Bốt. Một vị sư lớn tuổi là Thượng Tọa Thích Quảng Đức
bước ra khỏi đám đông, ngồi thụp xuống đường. Ông đổ
xăng khắp người rồi châm lửa tự thiêu. Đây là
biến cố đầu tiên đánh dấu sự hy sinh của Phật Giáo.
Hành động của Thượng Tọa Quảng Đức đã làm dao động
tất cả những người nghe tin hoặc được xem những bức
hình chụp
lại. Chính hành động này đã mở màn
cho giai đoạn khốc liệt đầu tiên của cuộc đương đầu
giữa
chánh quyền và Phật Giáo.
Giữa lúc các diễn biến xuống đường đang ào ạt
thì những cuộc bàn bạc dè dặt về đảo chánh
lúc trước bỗng nhiên lan tràn và ngày
càng sôi sục. Tin tức đầu tiên về những kế hoạch đảo
chánh mà tôi được biết là do tướng Lê
Văn Kim tiết lộ. Tôi đã biết tướng Kim rất nhiều năm
vì bà Kim vốn là bạn thân của nhà
tôi. Khi ông còn là đại tá, tướng Kim
đã cùng tôi làm việc trong phái
đoàn đàm phán hồi 1953 và 1954. Tuy vậy,
vì không phải là người nịnh hót ông
Diệm, lúc nào ông cũng bị gạt ra ngoài.
Ông bị chánh quyền ông Diệm gạt ra có lẽ
là do -hoặc có thể chính là vì-
ông rất thành thật và thông minh.
Vào một ngày đầu tháng 7, vẫn như một trong những
chuyến viếng thăm thường lệ, tôi và nhà tôi
đến dùng bữa tại nhà tướng Kim. Tuy là người rất
kín đáo mà tối đó tướng Kim vẫn có
vẻ âu lo trông thấy. Khi chúng tôi đang
bàn luận thì, tướng Kim bỗng nhìn thẳng tôi
hỏi: "Anh Diễm, anh hiểu người Hoa Kỳ rõ hơn tôi. Anh
có thể đoán là họ đang suy nghĩ gì về những
biến cố hiện thời chăng?" Những ý tưởng ngấm ngầm
trong
câu hỏi của tướng Kim lập tức làm tôi sửng sốt. Tuy
dư luận lúc đó đang xôn xao vì hàng
trăm tin đồn bao quanh, chỉ có một điều mọi người sẵn
sàng đồng ý: Bất kỳ tổ chức nào toan tính
việc đảo chánh thực sự cũng đều cần sự hưởng ứng của
Hoa Kỳ. Bởi
vậy, theo lẽ khôn ngoan tự nhiên, bất cứ tổ chức nào
mưu toan đảo chánh cũng sẽ phải thăm dò thái độ
của tòa đại sứ Hoa Kỳ trước tiên. Trong tình trạng
này, câu hỏi đơn giản của tướng Kim chắc chắn phải đi
xa
hơn là chỉ nhằm vào việc thỏa mãn những sự
tò mò ngây thơ. Lúc này tôi
đã bắt đầu tự mình dò xét đường đi nước
bước. Tôi vốn có quen ông Rufus Phillips đã
rất nhiều năm. Lúc này ông Phillips đang là
Giám Đốc Viện Trợ Mỹ đặc trách Xây Dựng Nông
Thôn và đang điều hành những chính
sách xây dựng nông thôn của chương
trình U.S. Operation Mission. Ông đến Việt Nam cùng
lúc với cố vấn Edward Lansdale lúc trước. Vì coi
nhau như bạn, chúng tôi vẫn thường trao đổi ý kiến
về những vấn đề thời sự. Câu chuyện bàn luận lúc
này của chúng tôi thường xoay quanh các vấn
đề về Phật Giáo, về tình hình nguy ngập ở
nông thôn và về thái độ ương ngạnh bướng bỉnh
đến gần như tự vẫn của ông Diệm. Vì tôi đã
biết ông Phillips không ủng hộ những chủ trương của
Hoa Kỳ
lúc đó nên việc dò hỏi của tôi dễ
dàng hơn. Qua ông Phillips, tôi biết Hoa kỳ
lúc này đang phân vân về khả năng tồn tại của
chính quyền ông Diệm. Hiển nhiên những chánh
sách đàn áp của ông Diệm đã gây
ra rất nhiều điểm bất lợi. Vì lúc này, Hoa Kỳ vẫn
chủ trương không can thiệp nên những chính
sách của ông Diệm đã làm giảm uy tín
của Hoa Kỳ và Hoa Kỳ đã cảm thấy chủ trương "hợp
pháp" của họ có phần không ổn.
Khi gặp gỡ tướng Kim vào những tuần lễ sau, tôi đã
hiểu ngay là ông thuộc vào nhóm những người
đang mưu toan đảo chánh. Hơn nữa, nhóm này
còn cho rằng đã đến lúc lật đổ ông Diệm.
Cuộc đảo chánh đã manh nha bắt đầu mặc dù theo lời
tướng Kim thì tổ chức của ông vẫn chưa có kế hoạch
nào vững chắc. Họ vẫn đang tìm hiểu thêm về phản
ứng của Hoa Kỳ nếu có cuộc đảo chánh và
thái độ của Hoa Kỳ đối với tình trạng Việt Nam sau
cuộc
đảo chánh.
Lúc đó tướng Kim đã biết rằng tôi đã
tiếp xúc với giới báo chí và quen thuộc
nhiều với các ký giả Hoa Kỳ. Số người tôi biết bao
gồm cả ký giả Neil Sheehan của UPI, ký giả Malcolm
Browne
của Associated Press và ký giả David Halberstam của
New
York Times. Qua họ, ít nhất tôi có thể dự
đoán được phần nào bầu không khí Hoa Thịnh
Đốn và từ đó suy ra những suy nghĩ của tòa đại sứ
Hoa Kỳ. Lúc đầu tôi cho rằng tòa đại sứ Hoa Kỳ vẫn
còn ủng hộ ông Diệm và tôi đã cẩn thận
tránh xa các nhân viên ở tòa đại sứ.
Nhưng vào ngày 20 tháng 8 năm 1963 thì
có lẽ tất cả những sự ủng hộ ông Diệm còn
sót lại trong tòa đại sứ Hoa Kỳ cũng đều tiêu tan.
Đêm đó, cảnh sát đặc biệt tấn công vào
chùa Xá Lợi nằm phía trong thành phố
Sài Gòn. Vốn là ngôi chùa lớn nhất
thành phố, chùa Xá Lợi là nơi tụ họp của
các đầu não chống đối. Lúc cảnh sát của
ông Nhu bất thần bủa vây, phần đông những người
lãnh đạo chống đối đều còn tụ tập bên trong. Sau
khi xịt lựu đạn cay, cảnh sát ập vào chùa
và tấn công thẳng vào chánh điện. Tại
đây, họ thấy khoảng 400 vị sư đang ngồi tham thiền bên
cạnh
bức tượng Phật khổng lồ. Sát ngay phía trước bức tượng
Phật là vị sư trụ trì trọng tuổi đang nhắm mắt tham
thiền. Cảnh sát đặc biệt bắt hết những người tại đó.
Trong những cuộc ruồng bố đồng loạt ở những ngôi chùa
khác, nơi các phật tử tụ họp, số người bị bắt đông
đến hàng ngàn.
Có lẽ vấn đề ly gián quân đội của ông Nhu
trong hành động này còn quan trọng hơn là
vấn đề ông cố tình khiêu khích các
đoàn thể Phật Giáo. Trong lúc đàn
áp, cảnh sát đã mặc đồng phục quân đội nhằm
mục đích đổ tội những hành vi đàn áp cho
quân đội. Hành động ly gián của ông Nhu
đã khiến những người mưu đồ đảo chánh gạt phắt hết
những
đắn đo ngần ngại. Những kế hoạch cuối cùng được soạn
thảo
và phối hợp một cách gián tiếp với Hoa Kỳ.
Vào lúc này thì chính bản thân
những người Hoa Kỳ cũng đã hoàn toàn thất vọng
vì các chánh sách của ông Diệm.
Vào tháng 9, cuộc xô xát giữa cảnh
sát và các nhóm đối lập diễn ra hàng
ngày ngoài phố. Những cuộc biểu tình bày tỏ
sự phẫn khích trước đây đã chuyển thành
những cuộc bạo động đả đảo chánh phủ. Phật Giáo biểu
tình, học sinh xuống đường và những vụ tự thiêu
liên tục đã làm cho đời sống hàng
ngày của thành phố trở thành hỗn loạn. Một số lớn
dư luận cho rằng cách mạng sắp sửa thành hình. Một
số khác lại cho rằng cách mạng đã thật sự
phát động và tình hình hỗn loạn lúc
đó chính là giai đoạn phát động đã
bắt đầu.
Cứ theo tình hình mà nói thì
có lẽ quả thật giai đoạn đầu của cuộc cách mạng đã
thực sự phát động. Khi những kế hoạch tiến triển rõ
rệt
tôi cho rằng đã đến lúc tướng Kim nên gặp
ông Rufe Phillips. Tôi sắp đặt cho cuộc gặp gỡ tay ba
tại
nhà tướng Kim mà trong tâm lo lắng không
cùng. Nơi cư ngụ của tướng Kim nằm ngay trung tâm
thành phố. Đây là một vị trí nằm gần như
sát bên Phủ Tổng Thống. Có lẽ vì không
ngờ những tổ chức đảo chánh lại sắp đặt kế hoạch ngay
sát
Phủ Tổng Thống nên đa số cảnh sát đều chẳng để ý
gì đến những vị trí gần Phủ Tổng Thống. Tôi cho
rằng tại vị trí này việc lục soát đã giảm
đến mức tối thiểu. Hơn nữa, theo chúng tôi biết thì
tướng Kim vẫn còn trong bóng tối và chưa hề bị ngờ
vực gì cả. Mặt khác, tôi cũng tự biết tôi
là một thành viên điển hình của các
đoàn thể chống đối và vì vậy, công việc sắp
xếp đối với tôi thập phần nguy hiểm. Vào giờ phút
này, tôi biết mình đã bị theo dõi.
Hôm chúng tôi hẹn gặp, cả thành phố đều
náo động vì những vụ biểu tình. Đường phố đầy
nghẹt toàn những nhà sư chống đối, học sinh xuống
đường,
cảnh sát đàn áp và hàng ngàn
người tụ tập đứng coi. Tôi đến nhà tướng Kim một giờ
trước
giờ hẹn để tránh khỏi bị phát giác đi cùng
với ông Phillips. Trên đường đi tôi đã cẩn
thận xem xét kỹ lưỡng để tránh khỏi bị theo dõi.
Khi ông Phillips đến, chúng tôi bắt đầu duyệt lại
tình hình. Tướng Kim trình bày những nhận
xét của ông và hỏi ông Phillips về
thái độ của tòa đại sứ. Đối với cả hai chúng
tôi thì ông Phillips không phải là mối
dây liên lạc giữa những người âm mưu đảo chánh
và Hoa Kỳ. Chắc chắn là những liên hệ của
chúng tôi với ông Phillips khác hẳn những mối
liên hệ giữa tướng Trần Văn Đôn và nhân
viên tình báo Lucien Conein, người đã đứng
ra làm liên lạc giữa tướng Đôn với đại sứ Henry
Cabot Lodge. Tuy vậy, ông Phillips vẫn là người cho
chúng tôi biết tin tức về thái độ của Hoa Kỳ. Qua
ông tin tức Hoa Kỳ phản ảnh rõ rệt. Hơn nữa, ông
Phillips vốn tính thành thật và lại là bạn
riêng của chúng tôi. Cả hai chúng tôi
đều biết ông rất thực lòng và không bao giờ
nghĩ rằng ông có thể phản chúng tôi.
Sau khi ông Phillips ra về, tôi đợi thêm khoảng 15,
20 phút nữa rồi đi bộ ra khỏi nhà tướng Kim. Những
điều
ghi chú tôi chép trong lúc họp mặt vẫn
còn dồn chặt ở túi sau. Lúc đi ngang qua
phía sau Phủ Tổng Thống, khoảng 100 thước dưới phố,
tôi
vừa dừng lại bật lửa mồi ống điếu hút thì bỗng nghe
tiếng
gọi giật: "Này!" Tôi điếng người. Hai người mật vụ mặc
thường phục đang bước nhanh lại phía tôi. Thôi chết
rồi, họ đã theo dõi rồi! Họ đã biết tất cả! Phải
thu hết can đảm tôi mới dám ngước lên nhìn
hai người lính gác lúc này đang chìa
những điếu thuốc chỉ về phía chiếc bật lửa Zippo tôi
đang
cầm ngỏ ý xin lửa. Lúc họ quay đi tôi vẫy chiếc
taxi đầu tiên chạy qua, sụm vật mình vào ghế sau,
hoàn toàn kiệt lực.
Lúc này tôi đã nhúng tay rất
sâu vào việc. Ông Kim đã nhờ tôi tiếp
tục lượng định các chính sách khác của Hoa
Kỳ. Hơn nữa, ông còn muốn tôi hoạch định những
chính sách của chánh phủ sau cuộc đảo
chánh. -Làm thế nào để thiết lập chánh phủ
và những mục đích chính của chánh phủ
là gì? Tuy đã đồng ý với tướng Kim rằng
tôi không cần biết rõ tường tận chi tiết kế hoạch
đảo chánh, cách suy xét vấn đề của ông
đã làm tôi nể vì. Tướng Kim suy luận rằng
nếu sau khi lật đổ chánh phủ mà cuộc đảo chánh
không đem lại được ưu điểm nào cho chánh quyền mới
thì cuộc đảo chánh chỉ là một cuộc đảo
chánh thất bại mà thôi. Trong chiều hướng lý
tưởng thì cuộc đảo chánh ông Diệm sẽ cho
phép chúng tôi thiết lập lại từ đầu một
chánh phủ mà quốc gia đã mong mỏi suốt chín
năm trường.
Những điều cần thiết hiện thời chẳng lấy gì làm bí
mật. Bác sĩ Quát, Cựu Ngoại Trưởng Trần Văn Đỗ, ông
Đặng Văn Sung, và tôi bắt đầu bàn luận về một
chánh phủ quốc gia hợp pháp và đoàn kết.
Đây là một hệ thống chánh phủ dân chủ
có thể thay thế cho chánh quyền của ông Diệm. Quan
niệm chính trị của tôi rất là đơn giản. Tôi
tin là không ai có thể bắt buộc người khác
phải nghe theo ý mình. Không hiểu vì do
tính tình hay lý do gì khác
mà hễ cứ ai ép buộc tôi, thì tôi lại
chẳng bao giờ để ý gì đến ý kiến của họ.
Chính tính nết này là điểm đầu tiên
khiến tôi không thích Cộng Sản. Tôi đã
nhận chân rằng sau lưng ông Hồ là những sợi cương
kềm kẹp Ủy Ban Nhân Dân và gọng kềm thép của
Võ Nguyên Giáp. Tính nết này cũng
đã khiến tôi không thể nào cùng hợp
tác làm việc với ông Diệm. Thái độ độc
tài của ông Diệm là một thái độ tôi
không thể nào chịu được.
Có lẽ khi bị gạt ra khỏi chính trường tôi đã
suy tư nhiều hơn về tính tình bẩm sinh của chính
bản thân tôi và về những ảnh hưởng bất lợi của những
tính nết đó đối với sự nghiệp chính trị.
Nguyên tính tôi vẫn thích suy luận,
thích thuyết phục và rất ghét cưỡng bức. Tôi
tin rằng quan niệm dân chủ sẽ cho phép mọi người được
quyền tự do phát biểu ý kiến và hiến pháp
sẽ bảo vệ những khuynh hướng này trên lãnh vực
chính trị. Từ trước đến nay tôi vẫn ủng hộ giải
pháp đoàn kết các phần tử quốc gia vì
tôi nghĩ rằng nếu sự sinh tồn của Miền Nam bị đe dọa
thì
những người biết suy luận sẽ thấy phần lớn họ cùng
đồng quan
điểm và những điểm khác biệt của họ chẳng qua chỉ
là những điểm khác biệt nhỏ nhoi trong nội bộ.
Rủi thay, Bác Sĩ Quát cùng tôi và
những người khác đã không đủ thời giờ soạn thảo
những kế hoạch cụ thể và nêu rõ chủ trương trước
trước thời gian đảo chánh. Khi kế hoạch đảo chánh tiến
hành thì những cuộc hẹn gặp giữa tôi và
tướng Kim trở thành quá nguy hiểm. Tôi bắt đầu
liên lạc với ông bằng một thứ mật mã riêng do
tôi soạn thảo rồi chuyển cho vợ ông. Đây không
phải là một phương pháp hữu hiệu có thể
dùng để phối hợp các hoạt động một cách hữu hiệu
được. Đến cuối tháng 9 năm 1963, khi tôi bị buộc phải
lui
vào vòng trốn tránh thì ngay cả sự
liên lạc mong manh này cũng bị cắt đứt.
Tôi đã biết mình bị theo dõi từ lâu.
Tôi đã là đảng viên của đảng Đại Việt,
tôi cũng lại là một thành viên của
nhóm Caravelle, hơn nữa tôi lại còn kết thân
với nhiều người Hoa Kỳ. Hiển nhiên là chỉ cần nhìn
vào những hoạt động của tôi trong quá khứ tôi
cũng biết là đối với chính quyền tôi đã trở
thành một nhân vật chính cần được theo dõi.
Nhưng điều làm tôi quan tâm nhất là những lời
báo trước của ông Trần Kim Tuyến, lúc đó
đang là trưởng phòng cảnh sát bí mật trong
chánh phủ ông Diệm. Theo ông Tuyến thì mặc
dù hiện thời tôi đang được khoan dung, tôi vẫn
nên cẩn thận đề phòng. Ông Tuyến không hẳn
là bạn nhưng chúng tôi đã biết nhau từ
lâu. Ông là một người Bắc công giáo
và cũng chính là một trong những sinh viên ở
Phát Diệm đã đến dự khóa học của chúng
tôi trong thời gian tôi vào Phát Diệm để
tránh Việt Minh. Ông Tuyến là một trong những người
đầu tiên đã theo học những khóa học mà
tôi cùng hai người bạn đảng viên quốc gia đã
tổ chức.
Nhưng vào tháng 7, ông Tuyến không còn
giữ chức vụ cũ. Ông đã lên đường hình như để
nhận chức Tổng Lãnh Sự Miền Nam Việt Nam tại Cairo.
Theo những
lời đồn trong dư luận thì có lẽ vì nghi ngờ
ông Tuyến có dính líu đến một âm mưu
đảo chánh nên ông Diệm và ông Nhu
đã trục xuất ông ra ngoại quốc. Khi ông Tuyến
không còn giữ chức vụ cũ, tôi cảm thấy tôi ở
vào một tình trạng hết sức nguy hiểm. Nếu ông Tuyến
còn là trưởng phòng thì ít nhất
là dù có chuyện nguy hiểm tôi cũng
còn được báo trước.
Nhưng mặc dù ông Tuyến đã lên đường, khi việc
xảy đến cũng vẫn có người báo trước cho tôi.
Vào cuối tháng 9, một người bạn có móc nối
với cơ quan mật vụ cho biết rằng viên trưởng phòng mới
đang sửa soạn một cuốn sổ đen liệt kê danh sách những
người chống đối cần phải diệt trừ, trong số có tên
tôi. Được tin, tôi lập tức tìm cách trốn
tránh. Người đầu tiên mà tôi cầu cứu
là ông Ogden Williams, lúc đó, đang cư ngụ ở
một căn gác thuê phía đối diện chỗ tôi.
Ông Williams đang làm việc cho chương trình kinh tế
của Hoa Kỳ. Ông hiểu rõ những vấn đề cần thiết đối với
một
nước đang trên đà phát triển và riêng
bản thân ông cũng rất trọng người Việt. Hơn nữa, những
ý kiến của ông về chánh quyền ông Diệm
hoàn toàn giống tôi. Khi tôi hỏi có vẻ
ngại ngùng rằng ông có thể giúp đỡ hay
không, ông Williams đã trả lời ngay rằng: "Anh
có thể đến ở với tôi được mà!"
Tối đó, tôi lẻn ra khỏi chỗ cư ngụ cố vượt qua chỗ
ông Williams. Hình ảnh của người thày giáo
cách mạng Phan Châu chập chờn hiện rõ trong đầu
óc, tôi vẫn còn nhớ những lần anh Châu
đã ở nhà tôi suốt đêm và lại suy nghĩ
về số phận của anh ta. Sáng sớm hôm sau, tôi
nhìn qua cửa sổ từ phòng khách của ông
Williams vào lúc nhà tôi đi chợ. Nhà
tôi mang khăng quàng đỏ. Đây là dấu hiệu
mà chúng tôi định trước là không
có chuyện gì lạ xảy ra. Liên tục suốt một tuần lễ
rưỡi sau, nhà tôi vẫn mang khăn quàng đỏ lúc
đi chợ. Trong khi đó thì ông Williams đi làm
mỗi sáng và trở lại lúc ban tối cho tôi biết
những tin tức mới nhất về tình hình lúc
này. Tôi vẫn tiếp tục yên lặng, những cơn
kích động ban đầu tan đi, chuyển dần thành những nỗi
chán chường ngấu nghiến và những trận bồn chồn, sốt
ruột.
Sau 10 ngày, hai con gái tôi, lúc đó
một lên 8 và một đã 12 tuổi cùng đến
nhà ông Williams để báo tin. Cả hai đã
tìm đường đến nơi bằng cách đi vòng, len lỏi qua
các ngõ ngách và trèo lên cả
những mái nhà lân cận để vào bằng ngõ
sau nơi tôi trú ẩn. Nhà tôi nhắn rằng chẳng
có gì khác lạ và có lẽ tôi
nên về nhà thì hơn. Tôi cũng không ham
ở lại làm bạn với những khoảng thời gian rỗng tuếch
triền
miên tại đây. Vì vậy, tối đó tôi lại
lẻn ra ngõ sau, cẩn thận tránh khỏi ánh đèn
đường và tìm lối về nhà.
Tôi đã trốn trong căn gác mướn từ lúc
này cho tới khi đảo chánh thực sự vào khoảng hai
tuần lễ sau. Vào buổi trưa ngày 31-10 năm 1963,
lúc 1:30 tướng Kim và các đồng nghiệp là
tướng Trần Văn Đôn và tướng Dương Văn Minh mở cuộc tấn
công. Tôi nghe tiếng súng máy và những
tiếng gầm rú của phi cơ. Tôi còn nhớ là
lúc đó tôi nhìn về phía nhà
tôi và thở phào: "Đúng rồi!" Tôi biết
chắc rằng đảo chánh sẽ thành công và trong
thâm tâm tôi vô cùng kích động.
Tôi cho rằng lúc này chúng tôi sẽ
có một cơ hội để làm việc một cách đứng đắn.
Khoảng 3:00 giờ chiều, radio đã tràn đầy tin tức.
Dường
như tất cả mọi tướng tá nếu không góp phần
thì cũng ủng hộ nhiệt liệt cho cuộc đảo chánh. Giọng
nói của nhiều tướng oang oang trên đài phát
thanh. Họ đã đảo chánh để "đem lại tự do cho đất
nước,"
để mang quốc gia ra khỏi tình trạng ngày càng bi
đát. Họ đã cùng nhau hợp thành một ủy ban
quân sự tạm thời thay thế chính quyền.
Sáng hôm sau mọi sự hoàn toàn kết
thúc. Chỉ có một điều làm mọi người dao động
là tin ông Diệm và ông Nhu đã bị hạ
sát và chưa ai rõ việc xảy ra thế nào.
(Theo tin đồn thì họ tự đầu hàng và sau đó
bị ám sát.) Trưa hôm sau, tướng Kim gọi điện thoại
ngỏ lời mời tôi cùng ăn cơm tối. Ông Kim cho biết
phi cơ đã được gửi đi để đón bác sĩ Quát ở
dưới vùng lục tỉnh và chính ông Quát
cũng sẽ đến ăn cơm tối với chúng tôi. Sau đó
ông Kim tiếp tục nói thêm với tôi: "Anh thấy
đó, mọi việc giờ đã tạm xong. Lúc này
chúng ta bắt tay vào việc. Chúng ta có thể
tiếp tục bàn bạc những kế hoạch chúng ta đã
bàn bạc trước đây."
15.
Tình
Hình
Sau
Đảo
Chánh
Vào thời gian đảo chánh thì tôi đã
đứng ngoài chính trường được 9 năm. Tôi đã
mục kích ông Ngô Đình Diệm cùng gia
đình giết chết dần những hoài bão của các
phần tử quốc gia về việc mang lại đoàn kết và dân
chủ cho Miền Nam. Khi đảo chánh thành công
tôi cảm thấy hy vọng tràn trề. Tôi nghĩ rằng biết
đâu những năm tháng lãng phí vừa qua vẫn
chưa làm tiêu tan mọi sự. Lúc này
chúng tôi vẫn có thể bắt đầu những kế hoạch dự định
như đầu năm 1954. Việc tướng Kim tham khảo chúng tôi
đã mang lại cho tôi nhiều khích lệ. Nếu
chánh phủ mới được thiết lập thì bác sĩ
Quát và những phần tử quốc gia khác sẽ có
một môi trường căn bản để dựa vào đó mà hoạt
động. Mặc dầu chúng tôi chưa có đủ thời giờ để
chánh thức sắp đặt các kế hoạch cho giai đoạn sau đảo
chánh, chúng tôi đã dành nhiều thời
giờ suy nghĩ kỹ lưỡng về những vấn đề này. Theo chúng
tôi được biết thì vào lúc này
có lẽ chưa có ai thực sự chú tâm suy
xét những kế hoạch tương tự. Hơn nữa, khi bác sĩ
Quát còn là Tổng Trưởng Quốc Phòng,
tôi và tướng Kim đã có tham dự những buổi
đàm phán với Pháp ở Élysée.
Lúc đó, đề tài của những cuộc đàm
phán với Pháp cũng là những vấn đề thiết lập
chánh phủ dân chủ cho Việt Nam chẳng khác gì
lúc này. Tôi tin rằng tướng Kim khó thể
quên được những đề tài mà chúng tôi
đã cùng nhau bàn bạc trong các cuộc
đàm phán khi trước.
Khi đến gặp tướng Kim vào buổi ăn tối trong ngày đảo
chánh tôi đã ôm ấp rất nhiều hy vọng. Theo
lời tướng Kim thì máy bay đặc biệt đã được gửi đi
Vĩnh Long để đón bác sĩ Quát. Tôi đã
nghĩ rằng đây là lúc chúng tôi
có thể bắt đầu nghĩ đến những kế hoạch đã bàn
trước đây. Tuy nhiên, lúc gặp tướng Kim thì
việc xảy ra lại khác hẳn những điều tôi dự định trước.
Tôi hỏi ai là người mà các tướng lãnh
nghĩ sẽ đứng vào cương vị thủ tướng? Tướng Kim trả lời
rằng
các tướng định đề cử ông Nguyễn Ngọc Thơ phó tổng
thống dưới thời ông Diệm làm người đứng ra chấp chưởng
quyền hành. Nghe xong tôi không khỏi sững sờ.
Tôi hỏi tướng Kim: "Chúng ta đang có một cơ hội
lịch sử. Nhưng chúng ta cần những người hoàn toàn
phù hợp với tình trạng mới. Tại sao ông lại
có thể nghĩ đến chuyện mang ông Thơ trở lại?" "À,"
tướng Kim trả lời, "Theo tôi biết thì tướng Minh đã
đề nghị. Ông Thơ chắc sẽ phải nhận lãnh."
Câu trả lời làm tôi mất cả bình tĩnh.
Tôi lớn tiếng với tướng Kim: Nếu họ đảo chánh chỉ để
mang
những người trong nhóm họ vào thì cả cuộc
cách mạng còn có ích lợi gì chứ?
Tướng Kim cố gắng khuyên tôi bình tĩnh. Ông
trình bày những vấn đề phức tạp của nội tình hiện
tại và nhắc thêm rằng chính bác sĩ
Quát cũng sẽ được mời vào làm Bộ Trưởng Y Tế.
Tôi nói với tướng Kim rằng đây là chuyện
không tưởng: Mời ông Quát -với kiến thức và
kinh nghiệm đó,- làm Bộ Trưởng Y Tế thì có
khác gì là ném cho chó một
khúc xương thừa? Tôi cũng nói thêm rằng chẳng
cần phải bàn luận gì nữa. Đương nhiên ông
Quát sẽ khước từ không chút đắn đo.
Tuần lễ sau đó tôi đã nhiều lần gặp tướng Kim. Theo
tôi nhận định thì tướng Kim đã quyết tâm cộng
tác với bác sĩ Quát, tôi và những
phần tử quốc gia khác để cùng thiết lập guồng máy
chính trị. Đây là việc đã quá
rõ ràng, bất kể các tướng tá khác
có dự định gì khác. Tôi cho rằng nếu
chúng tôi không thể chánh thức tham dự
vào chánh phủ thì có thể chúng
tôi sẽ tham dự dưới nhiều hình thức khác. Chẳng hạn
như tham gia các cơ quan nghiên cứu các phương
pháp thành lập những cơ cấu dân chủ.
Tuy rất thất vọng về những quyết định của các tướng
tá,
nhất là về vấn đề bè đảng hiển lộ rõ rệt trong
cung cách của họ, tôi vẫn cho rằng việc soạn thảo một
hiến
pháp mới là một trong những bước tối quan trọng của
chế
độ mới. Tôi nghĩ rằng dù có ngờ vực chánh
quyền tới mức độ nào đi chăng nữa thì việc hoạch định
hiến pháp vẫn không phải là vấn đề chúng
tôi có quyền lựa chọn.
Kể từ đó, trong những buổi gặp gỡ với tướng Kim, chúng
tôi bàn luận tìm cách mở rộng chánh
phủ để mời những người từ mọi phía tham gia chánh phủ.
Lúc này bản Hiến Pháp thời ông Diệm
đã bị phế bỏ, hội đồng tướng lãnh đang điều hành
chánh phủ bằng luật nhà binh. Tôi hiểu rằng cuộc
đảo chánh đã bắt buộc các tướng lãnh phải
tạm dùng thể thức này, và việc tổ chức bầu cử
là việc không thể làm ngay vì chẳng
có nguyên tắc nào khả dĩ có thể áp
dụng được tức thời. (Tự do bầu cử là việc chưa từng có
trong lịch sử Việt Nam từ trước tới nay.) Tuy vậy, tôi
chủ trương
rằng phải có một diễn đàn cho phép mọi người tự do
tranh luận về tất cả các vấn đề và cũng để chánh
phủ thể hiện những quyết tâm đeo đuổi đường lối dân
chủ.
Những cuộc tranh cãi dẫn đến việc thiết lập Hội Đồng
Nhân
Sĩ bao gồm vào khoảng 70 chánh trị gia danh tiếng ở
trong
gần như mọi đoàn thể quốc gia. Gần như tất cả mọi
người trong
nhóm Caravelle cũng như những người Phật Giáo, Công
Giáo, Cao Đài, Hòa Hảo và những người
mà ông Diệm đã đàn áp đều gia nhập.
Mặc dù Hội Đồng Nhân Sĩ không có quyền
hành gì, nhưng đây là một cơ quan có
tính cách dân chủ nhất từ trước đến nay ở Việt Nam.
(Đương nhiên khỏi cần nhắc đến Miền Bắc.) Dưới chánh
quyền
ông Diệm Quốc Hội thật sự chỉ là bù nhìn.
Hội Đồng Nhân Sĩ, ngược lại, đầy những thành viên
bộc trực, những người có quan niệm chánh trị hoàn
toàn khác biệt. Họ không hề có chút
đắn đo về việc phê bình chánh phủ bằng những lời lẽ
thẳng thắn nhất. Họ cũng có thễ tìm đến những cơ quan
ngôn luận và báo chí lúc này
đã hoạt động trên những diễn đàn có tầm
vóc quốc gia. Chẳng bao lâu sau các tướng
lãnh hiểu rõ việc gạt bỏ tư tưởng của họ không phải
là một việc dễ dàng.
Riêng cá nhân thì tôi rất hài
lòng về việc đã đóng góp thiết lập Hội Đồng
Nhân Sĩ. Đối với tôi Hội Đồng Nhân Sĩ là một
phương tiện ngăn cản các tướng lãnh khỏi lạm dụng
quyền
thế. Tuy tôi hết sức sốt sắng làm mọi việc để bảo vệ
hội
đồng, nhưng tôi cũng rất ngần ngại khi thu hút tất cả
sự
chú ý về phía riêng mình.
Chính bản thân tôi vốn là một người Bắc sống
tại Miền Nam và những người tôi gần gũi trong lãnh
vực chính trị phần nhiều lại là người Nam. Gia tăng
những
đụng chạm ngấm ngầm giữa Bắc Nam là một việc hoàn
toàn bất lợi. Nhất là khi tôi lại đang cố thiết lập
một chánh phủ liên hiệp. Sau cùng tôi quyết
định ứng cử chức phó tổng thư ký Hội Đồng và
cùng làm việc với ông Trần Văn Văn, một người Miền
Nam giữ chức Tổng Thư Ký. Nước cờ này đã loại trừ
tất cả những nghi ngờ về bè cánh các miền.
Đây là một trong những lần tôi thành
công trong việc xóa bỏ những nghi kỵ Bắc Nam. Tuy thế,
về
sau này, những nỗ lực của tôi không phải lúc
nào cũng hoàn toàn như ý.
Khi Hội Đồng bắt đầu hoạt động, tôi vẫn thúc đẩy tướng
Kim
về việc cần thiết phải đề cử những người từ phía ngoài
vào những chức vụ quan trọng cũng như việc cần phải
tiến đến một
chánh phủ hợp hiến càng nhanh càng tốt. Tuy cuộc
đảo chánh ông Diệm đã mang lại nhiều phấn khởi,
những khó khăn trong chánh phủ vẫn còn đầy dẫy.
Lúc này, cách hữu hiệu nhất để giải tán
những khó khăn là thiết lập một chánh phủ
dân sự.
Thật sự thì uy thế của các tướng tá đang
ngày càng giảm dần vì nhiều lý do. Thứ
nhất: Việc giết ông Diệm và ông Nhu đã khiến
họ phải gặp nhiều điều bất lợi. Hai anh em ông Diệm và
ông Nhu đã cầm đầu chính phủ suốt 9 năm và
đã bổ nhiệm rất nhiều chân tay cốt cán vào
chánh quyền. Việc ám sát hai ông đã
tạo ra những chống đối sâu xa và dai dẳng giữa những
người
cũ và những người mới. Những sự chống đối của các
nhân viên chính quyền đã làm tê
liệt một phần guồng máy chính phủ trung ương và
địa phương. Lúc này, ngoài các cơ quan
quân sự, dường như toàn thể guồng máy chính
quyền đều tê liệt.
Thứ hai: Cuộc đảo chánh đã vô tình gia tăng
cuộc xung đột tôn giáo. Cuộc cách mạng vốn dĩ khởi
đầu do thái độ đàn áp Phật Giáo. Hơn nữa,
vì các tướng Lê Văn Kim và Trần Văn
Đôn đều là những người theo phật giáo, cuộc
cách mạng có vẻ là một hành động để giải
cứu các phật tử cũng như để trả thù sự phân biệt
tôn giáo dưới chính quyền ông Diệm. Chuyện
những người công giáo cảm thấy thù nghịch những vị
tướng lãnh cũng là chuyện dễ hiểu, nhất là khi họ
mục kích sự đối đãi bất nhẫn của những người này
đối với ông Diệm và ông Nhu.
Tuy vậy, những khó khăn căn bản là do từ chính
các vị tướng lãnh mà ra. Những quân
nhân trong Hội Đồng tướng lãnh chẳng những đã
không có quan niệm rõ rệt về chính phủ hoặc
xã hội, mà cũng chẳng hề có những suy nghĩ thiết
thực về việc xây dựng lại quốc gia. Khung cảnh của các
vị
tướng lãnh lúc này thật đúng như lời tục
ngữ: "Đồng Sàng Dị Mộng", họ quả thật là những người
cùng chung giường nhưng lại chẳng cùng giấc mơ. Và
ngay cả đến những giấc mơ của họ cũng không rõ ràng
cụ thể. Kết quả là các vị tướng tá đã đồng
ý bỏ mặc guồng máy chính quyền.
Tướng Lê Văn Kim lúc nào cũng phẫn nộ về
tình trạng buông lơi của các tướng lãnh. Vốn
dĩ là một người cương quyết và có khả năng;
ông không thể chịu được sự lười biếng của tướng Dương
Văn
Minh. Tướng Kim nói với tôi rằng: Trong Hội Đồng có
nhiều phe nhóm quá mà lại thiếu đường lối tổng
quát cho nên vẫn chưa có gì đáng gọi
là thành quả. Lúc này, việc cần thiết
là phải tìm những người đứng ra để lãnh đạo. Mọi
việc đều qua tướng Minh, người đã đặt tay chân của
riêng mình vào những cương vị chủ chốt. Tuy thế,
chính cướng Minh lại không hề có một chút
khả năng nào dù là khả năng thúc đẩy những
người do chính ông đưa vào.
Sau cùng, vì đã quá chán nản, tướng
Kim xin từ bỏ những trách nhiệm chính trị để có
thể trở về phục vụ quân đội. Kết quả là vào giữa
tháng giêng ông được cử làm Tổng Tham Mưu
Trưởng Quân Đội. Khốn thay, ngay cả việc này cũng
làm gia tăng nhiều sự ngờ vực. Đã có vài
người cho rằng ông Kim đang cố gắng củng cố quyền lực.
Hơn nữa,
chỉ ít lâu sau đó, tướng Trần Thiện Khiêm,
Tổng Tham Mưu Trưởng trước khi ông Kim nhậm quyền, lại
còn
tạo ra một hiềm khích làm vấn đề càng thêm
phức tạp. Mặc dầu Hội Đồng Nhân Sĩ vẫn là một điểm
sáng, nhưng khung cảnh đất nước lúc này thật
là tăm tối và cho đến cuối năm 1963 thì mọi sự
đã rõ ràng rằng những tiến triển trong giai đoạn
đầu của cuộc đảo chánh chẳng có gì đáng gọi
là cách mạng. Tất cả chẳng qua chỉ là việc giao
chuyển quyền hành mà thôi. Lại thêm một cơ
hội nữa bị lãng phí. Đây có lẽ là cơ
hội cuối cùng của chúng tôi.
Sau cuộc đảo chánh, ba tháng trôi qua tay
các vị tướng tá hững hờ như nước. Lúc này,
những hy vọng của các phần tử quốc gia vào lúc đầu
đảo chánh mới thành công đã chuyển
thành những nghi ngờ, lãnh đạm. Tuần trăng mật của
chánh phủ mới trôi qua thật là ngắn ngủi và
chưa ai tiên đoán được đất nước sẽ phải chấp nhận cuộc
lênh đênh buông thả trong bao lâu nữa. Sự thiếu
sáng kiến của giới lãnh đạo trong ba tháng cầm
quyền đầu tiên đã đủ để mọi người có linh cảm rằng
hiểm họa sắp xuất hiện.
Vào ngày 30-11-1964, tai họa mở màn bằng
hành động của tướng Khánh. Sáng sớm hôm
đó, tướng Nguyễn Khánh và một nhóm tướng
lãnh khác -kể cả tướng Trần Thiện Khiêm, cựu Tổng
Tham Mưu Trưởng- đứng ra làm một cuộc chỉnh lý lật đổ
nhóm tướng lãnh đã đảo chánh ông Diệm
không cần đến một phát súng. Tuy không
làm gì hại đến nhóm tướng lãnh, sau khi
chỉnh lý ông Khánh đã cầm tù họ rồi
tự mình đứng ra nắm quyền lãnh đạo.
Cuộc chỉnh lý lần này đã thay thế luật nhà
binh của nhóm tướng lãnh lúc trước bằng những
hành động hài hước của một nhân vật hoàn
toàn thiếu đứng đắn. Nếu các tướng tá trước
ông Khánh chỉ là những người thiếu kiến thức
chính trị và thiếu tháo vát thì
tướng Khánh lại chính là một người lãnh đạo
với khả năng không quá khuôn khổ của những việc toa
rập. Theo tôi nhận xét thì Tướng Khánh
là một nhân vật len lỏi vào cuộc đời chính
trường phức tạp Miền Nam với những quan niệm bấp bênh
đã
làm bẽ mặt cả đất nước. Khi ông Khánh ra cầm quyền,
tôi nghĩ có lẽ đã đến lúc tôi
nên rời chính trường để trở lại với cuộc sống bình
thường. Trong thời ông Diệm, ở Sài Gòn đã
có một tờ báo Anh Ngữ là tờ Times of Vietnam. Tờ
Times được coi là cơ quan ngôn luận của chính phủ
và thường xuyên đăng những mục chửi bới chống Hoa Kỳ.
Tờ
báo này lúc trước vẫn được ông bà
Ngô Đình Nhu đứng sau làm hậu thuẫn. Sau khi
các tướng tá đảo chánh, những văn phòng của
nhà xuất bản bị lục soát và tờ báo phải
đóng cửa.
Lúc này tôi cảm thấy dường như thị trường
Sài Gòn vẫn còn đủ chỗ cho một tờ báo Anh
Ngữ. Tôi có biết sơ về công việc báo
chí vì đã có lần làm chủ bút
cho một tờ báo ở Hà Nội năm 1951, và đã gom
đủ tiền để bắt đầu một tờ báo mới là tờ Saigon Post.
Bắt
đầy xây dựng một tờ báo từ phút ban đầu là
một việc vô cùng khó nhọc. Việc đã
thâu hết tất cả công sức của tôi trong nhiều
tháng trời. May thay, đây cũng là một sự khó
nhọc tôi chẳng nề hà. Thời giờ của tôi được chia đều
để viết bài bình luận, chọn các tiết mục, xem
xét vấn đề thương mãi và trông coi cả đến
việc sắp chữ. Thông thường thì khoảng 3 hoặc 4 giờ
đêm mỗi ngày tôi bắt đầu duyệt lại lần chót
tờ báo trước khi cho lên khuôn để xuất bản
vào ngày hôm sau, rồi sau đó về nhà
vật ra ngủ vùi một giấc ngắn trước khi một ngày mới
bắt
đầu.
Tuy lại một lần nữa tôi xa rời chính trường, tôi vẫn
chưa bỏ hẳn được mọi hoạt động chính trị. Có lẽ chỉ
ngoại
trừ việc bị buộc phải nghỉ mát bất đắc dĩ như lần đưa
nhà
tôi sang Pháp dưỡng bệnh lúc trước thì chẳng
còn việc gì khác có thể khiến tôi từ
bỏ được tất cả những hoạt động chính trị. Chính trị
chính là mạch sống của những người mang nghiệp chủ
bút hoặc viết bình luận như nghề mới chọn của tôi.
Cơ nghiệp điện ảnh ngắn ngủi của tôi trước đây cũng
có liên quan một phần đến chính trị trong phần chủ
đề. Ngay cả khi tôi đi dạy, thì thời gian đó cũng
là vào giữa lúc những phong trào chống đối
đang hoạt động mạnh trong giới các giáo sư và rồi
nghề giáo của tôi cũng bị những biến cố chính trị
làm cho khuất lấp mất đi. Vào thời gian này
tôi đã gia nhập chính trường được 20 năm và
có lẽ chẳng còn bất cứ cách nào có
thể làm tôi dứt bỏ được nghiệp chính trị. Về
riêng phương diện này, cuộc sống của tôi cũng chẳng
khác gì cuộc sống của nhiều người Việt Nam khác.
Từ khoảng giữa thập niên 1940 về sau, lịch sử đất nước
không hề để bất kỳ ai an hưởng trọng vẹn hòa bình
hoặc bất kỳ gia đình nào an nhiên không bị
đụng chạm. Tất cả chúng tôi đã trở thành
những nạn nhân chính trị bằng cách này hay
cách khác. Có lẽ vào lúc này,
ấn tượng đó còn phù hợp với hoàn cảnh hơn
là vào năm 1964. Nếu nhìn lại với những biến cố
lịch sử đã trôi qua, thì chính chánh
quyền Nguyễn Khánh đã xóa tan những hoài
bão của các phần tử quốc gia khi họ cố tìm
cách xây dựng một Miền Nam Dân Chủ mạnh mẽ để
có thể đương đầu hữu hiệu với Cộng Sản. Theo tôi thấy
thì cho đến giai đoạn này đã có rất nhiều
cơ hội có thể cho phép Việt Nam thiết lập một
chánh phủ dân chủ như những phần tử quốc gia đã
từng ước mơ. Cơ hội đầu tiên là năm 1948, khi Pháp
đưa ra "Giải Pháp Bảo Đại." Cơ hội thứ hai là năm
1954,
khi hiệp định Geneva tạo thành một Miền Nam Việt Nam
độc lập. Cơ
hội thứ ba là năm 1963, khi các tướng lãnh đảo
chánh ông Diệm. Nhưng trong cả ba cơ hội vừa kể, giới
lãnh đạo Miền Nam đã phá hủy tất cả mọi triển vọng
của các phần tử quốc gia và không đáp ứng
được nguyện vọng của người dân Việt Nam. Nếu ân sủng
may
mắn đã đến cho giới lãnh đạo Miền Bắc bao nhiêu
thì nghịch cảnh đã khiến giới lãnh đạo quốc gia
phải chịu đựng khốn khó bấy nhiêu.
Khi suy luận dựa trên quan điểm này thì
chính người Việt Nam đã tự chuốc lấy những khốn
khó cho cuộc sống của mình. Chẳng có gì
khó hiểu về những người như Bảo Đại, Ngô Đình Diệm,
Big Minh và Nguyễn Khánh. Điều khó hiểu có
chăng là ở vào câu hỏi: Tại sao Hoa Kỳ khởi đầu
vào Việt Nam với mục đích xây dựng một Miền Nam
Dân Chủ và vững mạnh mà lại có thể khiến
Việt Nam đi đến những thất bại sâu xa đến thế? Vì rằng
mỗi
cơ hội dành cho những phần tử quốc gia cũng là một cơ
hội
dành cho Hoa Kỳ. Nuôi dưỡng ý thức dân chủ
tại Việt Nam không phải chỉ là một vấn đề liên hệ
đơn thuần đến Việt Nam, mà cũng là vấn đề liên hệ
đến Hoa Kỳ. Vì vậy, một khi Việt Nam đã thất bại
thì Hoa Kỳ cũng đã thất bại.
Nếu những thất bại của Việt Nam là do thiếu lãnh đạo
thì những thất bại của Hoa Kỳ, theo tôi, là do
thiếu chính sách. Qua con mắt những người Việt Nam
thì chính sách của Hoa Kỳ lúc nào
cũng đầy mâu thuẫn. Nói một cách chi tiết hơn
thì Hoa Kỳ lúc nào cũng đi dây giữa hai vấn
đề can thiệp và không can thiệp. Chính phủ Hoa Kỳ
dường như vĩnh viễn chẳng bao giờ có thể khẳng định
vấn đề liệu
có nên can thiệp hay không. Hậu quả của thái
độ đi dây là Hoa Kỳ đã đưa cả mình lẫn đồng
minh Việt Nam vào một tư thế bất lợi hơn cả.
Cuộc đảo chánh ông Diệm là một phần thất bại điển
hình đã ám ảnh cả Hoa Thịnh Đốn lẫn Sài
Gòn. Các tướng lãnh đảo chánh ông
Diệm đã cố hết sức thận trọng tránh để cho cuộc đảo
chánh có vẻ không phải là "do người Mỹ tổ
chức." Nhưng dù các tướng lãnh có cố gắng
đến mức nào đi nữa thì biến cố đảo chánh vẫn
khó thể xảy ra nếu không có sự đồng ý của
Hoa Kỳ. Trong nhiều tháng trước khi họ dự định đảo
chánh,
các tướng lãnh đã hết sức thận trọng dò dẫn
thái độ của Hoa Kỳ. Các tướng tá cần -hoặc
ít ra là cảm thấy cần- được Hoa Kỳ nói rõ
với họ rằng dù cho ông Diệm có bị lật đổ,
thì Hoa Kỳ cũng vẫn tiếp tục viện trợ kinh tế và
quân sự cho Việt Nam. Sau cùng Hoa Kỳ đã bật
đèn xanh cho họ. Mới đầu là những dấu hiệu ngầm từ Hoa
Thịnh Đốn và rồi rõ ràng hơn qua trung gian Lucien
Conein, người của CIA.
Mặc dầu những người âm mưu và Hoa Kỳ đã cẩn trọng
che dấu tất cả mọi việc, khi biến cố đảo chánh xảy ra,
tất cả
những người Việt Nam có để ý đến vấn đề chính trị
đều nhận định rằng sự dính líu của Hoa Kỳ là
chuyện nghiễm nhiên. Do vậy, khi đảo chánh thành
công và cả Việt Nam đều vui mừng khi chánh phủ
ông Diệm bị lật đổ thì Hoa Kỳ đã được xem là
đồng minh của dân chủ. Đối với Việt Nam, chuyện Hoa Kỳ
can thiệp
là chuyện hoàn toàn có tính
cách tự nhiên. Sự can thiệp được ủng hộ là
vì hành động này đi đôi với mong mỏi chung
của dân chúng.
Cuộc đảo chánh của các tướng lãnh là việc
can thiệp trực tiếp đầu tiên của Hoa Kỳ vào nội bộ
Việt
Nam. Tuy vậy, như tôi đã trình bày,
chính sách của Hoa Kỳ đã ảnh hưởng đến tình
hình chính trị Việt Nam qua rất nhiều năm. Sự can
thiệp
của Hoa Kỳ bắt đầu từ khi Pháp còn đô hộ Việt Nam
cho đến khi ông Diệm bị lật đổ. Ở mọi thời điểm, Hoa
Kỳ đều
không lộ rõ vai trò. Tuy thế, tất cả các
phần tử quốc gia Việt Nam đều xem Hoa Kỳ là đồng minh.
Kể từ
ngày thế chiến thứ hai kết liễu Hoa Kỳ đã giúp đỡ,
cố vấn và cũng đã nhiều phen cản trở hành động của
các phần tử quốc gia.
Vào thời Bảo Đại, Hoa Kỳ đã liên tiếp chối bỏ một
giải pháp quốc gia cũng như đã ủng hộ trò chơi của
Pháp khi Pháp cố trì hoãn việc nhượng quyền
cho các phần tử quốc gia và như thế Hoa Kỳ đã
vô tình làm giảm uy tín các phần tử
quốc gia rất nhiều. Trong thời ông Diệm, Hoa Kỳ đã ủng
hộ
nhân vật độc tài này suốt một thập niên cho
tới khi ông Diệm công khai chống đối việc mở rộng
chính phủ. Hơn nữa, khi chánh phủ ông Diệm đang
ráo riết đàn áp các phần tử quốc gia Hoa Kỳ
còn dùng chiêu bài "Hợp Pháp" để cắt
đứt liên lạc với họ. Những chánh sách của Hoa Kỳ
chẳng khác nào những nhát giáng đã
cướp đi cả những khích lệ lẫn các điểm tựa mà
các phần tử quốc gia có thể dựa vào để hoạt động.
Kể từ lúc đó cho đến nay, tôi vẫn nhận xét
rằng chánh sách "đi dây" của Hoa Kỳ chứng tỏ họ
hoàn toàn không hiểu rõ chủ định của
chính mình. Một mặt thì thực tế về sách
lược toàn cầu đòi hỏi Hoa Kỳ phải ủng hộ chánh
sách thực dân của Pháp và giúp đỡ
ông Diệm củng cố chánh quyền. Nhưng mặt khác,
lý tưởng lại đòi hỏi Hoa Kỳ phải chống lại thực dân
và bồi đắp cho một nền quốc gia dân chủ. Giữa hai
sách lược phải chọn, Hoa Kỳ dường như không thể cả
quyết
được rằng họ sẽ phải đi theo sách lược nào.
Tôi tự hỏi liệu vào lúc đó hoặc về sau
này, Hoa Kỳ có thể nhận thức được rằng bất kỳ chọn lựa
cách nào thì họ cũng vẫn phải can thiệp trực tiếp
hay chăng? Vấn đề phải can thiệp là một vấn đề Hoa Kỳ
khó
thể tránh khỏi! Sau thế chiến thứ hai, cương vị nổi
bật của Hoa
Kỳ đã khiến họ ảnh hưởng trầm trọng đến chính trị nội
bộ
Việt Nam bất kể họ hành động ra sao. Chính vì
lý do này nên trong giai đoạn ông Diệm nắm
quyền, khi Hoa Kỳ cắt đứt liên lạc với chúng tôi
dưới chiêu bài "hợp pháp" và "không
can thiệp" tôi vẫn thấy rằng hành động của họ cũng
có phần đúng. Ngoài cách bịt mắt
không can thiệp, Hoa Kỳ chẳng còn cách nào
khác để tránh khỏi đương đầu với vấn đề Việt Nam.
Vì bất cứ khi nào những người có trách
nhiệm trong chánh phủ Hoa Kỳ còn tin rằng số phận của
các quốc gia tùy thuộc lẫn nhau, bất cứ khi nào họ
còn tin rằng những quyền lợi quan trọng của Hoa Kỳ
luôn
luôn phải đi đôi với một thế giới quân bằng ổn định
thì lúc đó dù muốn dù không,
Hoa Kỳ vẫn phải vương mình vào cuộc. Một khi đã
chấp nhận điều này thì điều quyết định còn lại
là phải can thiệp như thế nào. Câu hỏi
chính, vì vậy, chính là: "Phải can thiệp
như thế nào?" Chứ không phải, "Liệu có nên
can thiệp hay không?"
Mãi cho đến khi các tướng tá đảo chánh, Hoa
Kỳ vẫn giữ vững chủ trương "không can thiệp." Tuy vậy,
vào
mùa hè 1963, chủ trương không can thiệp đã
khiến Miền Nam rơi vào tình trạng tai hại đến nỗi
dường
như Hoa Kỳ bị buộc phải đi ngược lại các chính
sách về trước và trực tiếp can thiệp. Nhưng dù bị
buộc phải can thiệp, Hoa Kỳ vẫn vào cuộc đầy vẻ ngần
ngại, đắn
đo. Sau khi đồng ý để cho những người mưu mô đảo
chánh bắt tay vào việc, họ coi như việc can thiệp
đã kết liễu. Hoa Kỳ hành động như thể cố nói
lên tâm tư ngần ngại của họ rằng: "Tình thế
đã bắt buộc chúng tôi can thiệp, nhưng chúng
tôi sẽ cố giảm thiểu mức độ can thiệp và nếu cần
chúng tôi sẵn sàng chối bỏ sự can thiệp."
Nhưng vấn đề can thiệp, thật chẳng khác nào vấn đề thụ
thai. Một khi đã thụ thai thì dĩ nhiên chẳng thể
có vấn đề thụ thai nửa chừng. Khi Hoa Kỳ nỗ lực giới
hạn
các hành động can thiệp thì chánh phủ Hoa
Kỳ nói chung -và ông Henry Cabot Lodge nói
riêng- đã không chú ý đến vấn đề
lãnh đạo sau khi ông Diệm bị lật đổ. Họ chẳng hề
chú tâm đến những vấn đề khó khăn của tương lai.
Hoa Kỳ quyết định đổi ngựa mà không cần biết rõ con
ngựa mới như thế nào. Hậu quả là một nhóm
quân nhân đã đứng ra đảo chánh và rồi
tiếp sau đó là một nhân vật hài hước Nguyễn
Khánh lên thay. Cuối cùng chính Hoa Kỳ phải
lãnh nhận mọi hậu quả của cuộc đảo chánh. Hậu quả
này bao gồm cả những thành công lẫn những thất bại
của các nhân vật thiếu khả năng đã nắm quyền tại
Việt Nam. Cách vào cuộc của Hoa Kỳ thật là vụng về
vô kể.
Thật ra những diễn biến kể trên không phải là những
vấn đề chẳng thể tránh khỏi. Nếu Hoa Kỳ có đủ can đảm
nêu rõ lý tưởng dân chủ thì những
người có trách nhiệm trong chánh phủ Hoa Kỳ
có thể sẽ có những giải pháp khác. Hoa Kỳ
có thể dùng thời giờ để tìm hiểu kỹ xem mục
đích thực sự của họ đối với Việt Nam là gì
và tìm những giải pháp thiết thực để chuyển Việt
Nam về một hướng thuận lợi hơn thay vì chỉ dùng thời
giờ
tranh luận về vấn đề làm thế nào để trực tiếp can
thiệp
vào Việt Nam mà vẫn tránh được vẻ lộ liễu.
Trong diễn biến đảo chánh, đại sứ Lodge đã nhờ nhân
viên Conein của CIA chuyển lời với những người âm mưu
đảo
chánh rằng Hoa Kỳ "không hề toan tính ngăn cản"
cuộc đảo chánh. Nhưng ông Lodge cũng có thể
nói khác. Ông có thể bàn luận với
những người mưu mô qua những lời kín đáo
khác chẳng hạn như: "Thực sự, chúng tôi không
ủng hộ ông Diệm. Nhưng ủng hộ các ông có thật
là một giải pháp hoàn hảo hơn chăng? Chúng
tôi không muốn biết rõ chi tiết về việc đảo
chánh của các ông. Nhưng các ông sẽ
làm gì sau đó? Các ông đang
bàn luận về tương lai đất nước các ông. Tất
nhiên sự việc cũng có liên hệ đến chúng
tôi." Các tướng lãnh không phải là
những người không thông hiểu vấn đề. Họ sẽ phải nghe
theo
giải pháp hòa nhã và trực tiếp này.
Vì rằng họ chẳng thể lựa chọn.
Cho dù lịch sử đã trôi qua và chúng
tôi đang nhìn lại vấn đề, việc phán xét liệu
có nên đảo chánh ông Diệm hay không vẫn
là việc khó nói. Tuy chẳng ai có thể
tiên đoán được những diễn biến tại Việt Nam nếu ông
Diệm và gia đình vẫn tiếp tục nắm quyền, nhưng bất kỳ
ai
cũng có thể nhận định rằng nếu không nỗ lực tiến
hành những nhu cầu thiết thực của Miền Nam sau đảo
chánh
thì những thành công của cuộc đảo chánh quả
không đáng kể. Khi nhóm tướng tá nắm quyền
thì lại có một sự mâu thuẫn tương tự hệt như trước
đây giữa họ và Hoa Kỳ. Một mặt, đại sứ Lodge đã
tiếp tục thái độ không can thiệp khi các tướng
lãnh đi từ sự vụng về này qua sự vụng về khác. Mặt
khác, tuy đã quyết không can thiệp, Hoa Kỳ vẫn tỏ
vẻ phẫn nộ vì kém nhẫn nại. Họ có cảm giác
như một người anh lớn lúc đứng nhìn em mình
hành động một cách hoàn toàn vô
trách nhiệm. Những tướng lãnh chẳng những đã
không có chính sách và kế hoạch
rõ rệt mà còn thiếu cả người lãnh đạo chủ
chốt. Vào tháng 12 năm 1963, McNamara trong cơn giận
dữ
đã bước vào phòng họp với các tướng
lãnh đạo nhìn quanh từng người và đặt câu
hỏi: "Ai trong nhóm các ông đây là
người lãnh đạo?" Các tướng tá đều ngậm miệng căm
hờn. Hành động của McNammara biểu hiện rõ rệt khuynh
hướng của Hoa Kỳ là dùng sức mạnh áp chế thay
vì giúp đỡ các đồng minh bằng những phương
pháp tốt đẹp khác.
Đã không chịu đưa ra những chủ trương hướng dẫn rõ
rệt mà lại tức giận và thất vọng về những hành
động vụng về và thiếu kế hoạch của giới lãnh đạo Việt
Nam, những người lập chính sách Hoa Kỳ quả thật đã
chơi trò phù thủy đầy bí hiểm. Những xung khắc
rõ rệt của Miền Nam khi đi đôi với những chủ trương
thật
mơ hồ của Hoa Kỳ đã dẫn đến cuộc chỉnh lý của Nguyễn
Khánh . Mặc dầu chính bản thân đại sứ Lodge
không hề có dính líu gì đến cuộc đảo
chánh, khi nhóm tướng lãnh bị lật đổ, ông
đã phát biểu: "Thế là thoát nợ!"
Có thể điều đại sứ Lodge phát biểu đã chứng tỏ
ông cảm thấy ngờ vực, bất an khi phải gắn liền uy tín
của
Hoa Kỳ vào những nhân vật lãnh đạo Miền Nam. Nhưng
chẳng những đại sứ Lodge mà ngay cả đến ông Johnson
cũng
chưa hề chú tâm đến vấn đề tìm tòi những
người lãnh đạo. Vì chính sách của Hoa Kỳ
lúc nào cũng mong mỏi sự ổn định ở Việt Nam nên họ
sẵn lòng chấp nhận bất kỳ ai trông có vẻ hứa hẹn.
Họ chẳng cần đoái hoài gì tới vấn đề phải cải
cách để biến chánh quyền Miền Nam thành một
chính quyền mà họ thực sự muốn ủng hộ. Lại một lần nữa
họ
quyết định đổi ngựa mà chưa hề biết rõ tính nết
của một con ngựa lạ.
Những hành động vô ý của Hoa Kỳ dẫn đến hậu quả
là ngay từ phút đầu, ông Khánh đã
được tiếp đón như một người hùng được Hoa Kỳ ủng hộ
triệt
để. Để chứng tỏ sự ủng hộ của Hoa Kỳ với vị lãnh tụ
mới, Hoa Kỳ
đã gửi cả Bộ Trưởng Quốc Phòng sang Việt Nam để vận
động
ủng hộ ông Khánh. (Cách vận động này vốn
không phải là một sách lược tự nhiên đối với
McNamara. Có lần ông nắm tay ông Khánh tung
hô: "Việt Nam Muôn Năm." Khốn thay, người dạy McNamara
khẩu
hiệu tung hô lại quên không dạy ông phải đặt
dấu nhấn cho đúng nên thay vì tung hô: "Việt
Nam Muôn Năm," ông ta lại hô trệch đi thành
"Việt Nam Muốn Nằm!") Thật ra, bề mặt mạnh mẽ của
tướng Khánh
chỉ có thể che dấu được những nhược điểm to lớn của
chánh
phủ Miền Nam được nhất thời. Những nhược điểm của
chánh quyền
tướng Khánh bao gồm nhiều điểm. Nhược điểm thứ nhất là
chánh phủ không có một chánh sách
tổng quát rõ rệt. Nhược điểm thứ hai là
chính bản thân tướng Khánh cũng không đủ khả
năng để nhận thấy tầm mức cần thiết của vấn đề này.
Khi McNamara
giơ tay cùng Nguyễn Khánh, mọi người đều thấy rõ
cả Tổng Trưởng Hoa Kỳ lẫn tướng Khánh đều khép chặt
những
ngón tay xen kẽ. Hình ảnh này có thể được
xem như một biểu tượng đánh dấu mối liên hệ chặt chẽ
giữa
Hoa Kỳ và Việt Nam. Nhưng nếu quả những người có
trách nhiệm trong chánh phủ Hoa Kỳ lúc đó
đã nhận định được vấn đề một cách tường tận thì họ
phải kết luận khác. Họ chẳng thể kết luận rằng chỉ cần
hình ảnh của biểu tượng liên kết là đủ để giải tỏa
mọi khó khăn.
16.
Chánh
Quyền
Tướng
Khánh
Vào mùa xuân năm 1964, tướng Khánh vẫn chưa
hề hoàn thành được điều gì đáng kể.
Ông chỉ hô hào những câu vô nghĩa về mục
đích của mình và thay đổi vòng vòng
các bộ trưởng, chẳng theo một phương sách hoặc thứ tự
nào cả. Một trong những hành động khác của
ông là giải tán Hội Đồng Nhân Sĩ vào
tháng sáu. Một hôm, Hội trưởng Trần Văn Văn
cùng tôi được triệu vào gặp ông Khánh
để nghe ông tuyên bố: "Hội Đồng Nhân Sĩ thực sự chẳng
có ích lợi gì. Tôi đã có những
ý kiến khác." Sau đó chúng tôi được
mời ra. Sự việc gần như thể chúng tôi chánh thức
được báo cáo rằng chính mình đã
chết.
Một trong những điểm sáng sủa hơn là tờ Saigon Post
đã đi qua giai đoạn lục đục bấp bênh ban đầu và
chuyển thành một tờ báo khá vững. Dù rằng
đam mê báo chí vẫn còn, những ngày tờ
báo đòi hỏi tôi phải chú tâm đã
thật sự đi qua.
Lúc này, gia đình chúng tôi đã
giải quyết được những khó khăn về vấn đề tài
chánh. Hơn nữa, ở Sài Gòn cũng chẳng có
điểm hy vọng nào đáng gọi là sáng sủa trong
tình hình chính trị. Tình trạng thật
là bế tắc và tôi cho rằng có lẽ phải rời bỏ
quốc gia, thì đầu óc mới có thể nghỉ ngơi
và nhận định được tình hình Việt Nam rõ hơn
qua một lăng kính khác. Qua ông Barry Zorthian,
người điều khiển, hướng dẫn các dịch vụ tin tức, tôi
biết
rằng thỉnh thoảng phòng thông tin Hoa Kỳ USIS có
mời người ngoại quốc đến viếng thăm Hoa Kỳ dưới một
chương trình
gọi là Leadership Program. Tôi đã hỏi ý kiến
ông Zorthian thử xem mình có thể đủ tiêu
chuẩn được tuyển hay không. Ông Zorthian trả lời rằng
chẳng
có vấn đề gì khó khăn cả. Tôi chỉ cần nộp
đơn là xong.
Mọi việc được sắp xếp thật nhanh chóng. Chỉ trong một
thời gian
ngắn sau đó, tôi nhận được hai bức thư, một của Đại sứ
Lodge mời sang Hoa Kỳ và một của British Council mời
sang thăm
Anh Quốc. Khi chương trình hoạch định xuất dương đã
thành tựu, tôi mới thực sự nhận ra mình đã
nôn nóng đến độ nào. Tôi chưa hề có
dịp du lịch kể từ năm 1954, khi tôi bị buộc phải hủy
bỏ chuyến
trở lại Thụy Sĩ và kể từ năm đó cho đến nay cuộc sống
của
tôi lúc nào cũng đầy ắp những chuyện khó
khăn và những thất vọng chính trị. Đây sẽ là
chuyến du lịch lý thú. Hơn nữa, tôi còn
có thể quan sát tận mắt đất nước và cuộc sống của
Hoa Kỳ.
Nhìn từ một khía cạnh nào đó thì
đây là một điều mong ước đang biến thành sự thực.
Thực sự thì chẳng phải tôi mong được du lịch Hoa Kỳ,
nhưng
cuộc sống và lý tưởng của người dân Hoa Kỳ
đã xâm chiếm tâm hồn tôi từ lâu rồi. Từ
khi còn cắp sách đến trường tôi đã say
mê đọc tiểu sử của Tổng Thống Franklin Delano
Roosevelt và
những chánh sách ông đề ra để bảo vệ các
đồng minh của Hoa Kỳ trong Đệ Nhị Thế Chiến. Tổng
thống John F. Kennedy
cũng là một nhân vật khác đã khích lệ
rất nhiều những điều tôi ấp ủ. Tôi đã theo
dõi cuộc bầu cử khi ông ra ứng cử và rất ngưỡng mộ
bài diễn văn ông đọc trong buổi lễ nhậm chức. Trong
bài diễn văn đó, Tổng Thống Kennedy tuyên bố Hoa Kỳ
sẽ là một quốc gia "mang bất cứ gánh nặng nào, trả
bất cứ giá nào để bảo vệ tự do dân chủ ..."
câu nói đó tôi vẫn còn nhớ mãi.
Tôi cho rằng bài diễn văn nhậm chức của tổng thống
Kennedy
là một bài diễn văn đã diễn tả trọn vẹn được cả
vai trò quả cảm lẫn lý tưởng của Hoa Kỳ. Có lẽ
bài diễn văn của tổng thống Kennedy đã khích lệ
những hoài bão của tất cả các phần tử quốc gia ở
những nước hãy còn kém phát triển và
đầy đe dọa vào thời đó.
Bởi thế, tuy ấn tượng tốt đẹp của tôi về Hoa Kỳ trong
quá
khứ đã bắt đầu bị lu mờ khi tôi mục kích những thực
tế chính trị tại Việt Nam, tôi vẫn bị những lý
tưởng của Hoa Kỳ thu hút. Tôi hồi hộp mong mỏi cho đến
nỗi
khi máy bay bay qua California, về hướng Cựu Kim Sơn,
tôi
đã cảm thấy thất vọng. Khi nhìn xuống thấy những ngọn
đồi, những cánh đồng và những thảm cỏ, tôi
đã nhủ thầm: "Ừ, dường như cũng chẳng có gì
khác, quang cảnh nói chung cũng không lấy gì
làm ly kỳ cho lắm."
Tại Cựu Kim Sơn, tôi lập tức thay đổi máy bay và
bay thẳng về Hoa Thịnh Đốn. Tôi xin được đi thăm Nghĩa
Trang Quốc
Gia tại Arlington trước tiên. Khi đứng trước mộ cố
tổng thống
Kennedy trong cái nóng mùa hè vùng
Hoa Thịnh Đốn tôi cho rằng ông chính là người
đã thể hiện những lý tưởng sáng suốt và
những khuôn mẫu đạo đức của Hoa Kỳ. Ngay khi đó, tôi
cũng suy nghĩ về một khuôn mặt khác của Hoa Kỳ, một
khuôn mặt mà tôi mục kích đã
quá nhiều lần tại quê nhà.
Trong những tuần lễ sau đó tôi ở lại thủ đô, thăm
viếng các nhà báo và bạn bè
tôi đã quen biết tại Việt Nam, rồi mướn xe cùng với
một người bạn Việt Nam khác chu du băng ngang nước Mỹ.
Tôi
được mời đến dự đại hội của đảng Cộng Hòa tại Cow
Palace ở Cựu
Kim Sơn. Đây quả là một cơ hội lưỡng toàn.
Tôi sẽ có cơ hội vừa được xem xét, gần gũi
toàn thể nhân dân lại vừa được chính mắt quan
sát những hoạt động chính trị của Hoa Kỳ.
Chúng tôi cùng lái chiếc Chevrolet mướn đi
ngược lên phía Bắc Hoa Thịnh Đốn, đến thác Niagara
rồi quay ngang trở về hướng Tây, trực chỉ Detroit,
băng ngang
những vùng đồng bằng bát ngát. Những tia nắng
ngày hè lấp loáng trên những cánh
đồng tạo thành những ảo ảnh trông chẳng khác
nào nước trên những mặt đường trải nhựa. Hai bên
là cảnh những ruộng ngô và lúa mạch trải
dài tít tắp đến tận chân trời. Khung cảnh thật
là bao la. Thời tiết vào thời gian này vô
cùng nóng nực. Chúng tôi đã đi suốt
cả 12, 13 ngày đường, chỉ ngừng lại để ngắm cảnh và
trú ngụ qua đêm ở những khách sạn nhỏ bé.
Nhưng vấn đề thực phẩm còn quan trọng hơn là vấn đề
thời
tiết. Vì ăn liên tục toàn Hamburger và
Hotdog ở các quầy dọc đường, bụng cả hai chúng tôi
đều cồn cào, quặn thắt. Chúng tôi tự hỏi
không hiểu làm cách nào để có thể
tìm lấy một bát cơm trong suốt một vùng bao la,
gần như chỉ gồm toàn những khuôn mặt Mỹ và thực
phẩm Mỹ này. Chẳng bao lâu sau, chúng tôi
tìm ra một cách hữu hiệu có thể dùng trong
mọi trường hợp. Không cần biết là đang ở đâu, hễ cứ
bắt đầu nghỉ tối là chúng tôi đến ngay chỗ điện
thoại công cộng, lật những trang màu vàng trong
quyển điện thoại niên giám ra tìm các
quán ăn Tàu. Đôi khi chỉ có một quán
độc nhất ở vùng kế cận. Nhưng gần như lúc nào
chúng tôi cũng tìm được một chỗ trong vùng.
Tuy đã theo phương pháp thập toàn này
mà khi đến phía Tây Denver chúng tôi
vẫn gặp khó khăn. Vùng này vốn là một
vùng xa xôi hẻo lánh. Quyển điện thoại niên
giám đã không có tên các
quán ăn Tàu mà cũng chẳng có bất kỳ
tên họ người Tàu nào trú ngụ trong
các vùng lân cận. Chẳng có họ Tchang,
không có họ Fong mà cũng không có cả
họ Lee. Một lần, sau khi đã nhiều ngày vất vả với
Hamburger, bột khoai tây và nước sốt, sau khi đã
thất vọng vì quyển điện thoại niên giám và
đang lủi thủi đi bộ về khách sạn bỗng chúng tôi
trông thấy một chú bé Tàu chạy ngang qua
đường. Chúng tôi vội đi theo cậu bé vào đến
một tiệm giặt ủi. Khi nghe tình cảnh của chúng tôi,
cha mẹ cậu bé lập tức làm ngay hai dĩa cơm chiên
và chúng tôi sung sướng thưởng thức hương vị thơm
ngon của bữa cơm chiên chẳng khác nào hai kẻ lỡ
đường bỗng vớ được một thứ thức ăn hiếm có. Chúng
tôi đến California trước tiên qua ngả Bakersfield rồi
đi
ngược bờ biển qua Carmel, Big Sur và đến Cựu Kim Sơn
vừa
đúng lúc Đại Hội Đảng Cộng Hòa bắt đầu. Đây
chính là nơi tôi học hỏi những kinh nghiệm đầu
tiên về các hoạt động thực tiễn của nền dân chủ Hoa
Kỳ. Nếu bảo rằng quá trình bầu cử của Hoa Kỳ rất phức
tạp
thì đây chỉ là nói một cách nhẹ
nhàng nhất. Ngay chính tôi cũng không biết
rõ mình đang mong đợi gì khi nhìn những
đảng viên Cộng Hòa đi quanh đang đề cử ứng cử viên
Barry Goldwater ra ứng cử tổng thống. Theo như tôi suy
nghĩ
thì đây chắc hẳn phải là một buổi bầu cử thật
nghiêm trọng. Nhưng sự việc lại hoàn toàn
khác hẳn. Tôi vô cùng bỡ ngỡ giữa cảnh những
đám đông mang mũ, cầm cờ, tụ họp ở các sảnh đường
Hoa Kỳ, cứ chốc chốc lại cuồng nhiệt cổ võ những thiếu
nữ nhảy
múa thoắt biến, thoắt hiện chẳng hiểu từ đâu. Khi
tôi nói với người hướng dẫn viên rằng dường như
khung cảnh có vẻ thiếu nghiêm trang ông đã
trả lời rằng khung cảnh lúc này chẳng qua chỉ là
những màn kịch bao gồm những phần bên ngoài
có thể trông thấy được mà thôi. Những quyết
định thực thụ vào thời gian này đang diễn ra sau những
cánh cửa đóng kín và những việc đó
tất nhiên là tôi chẳng thể nào xem được.
Tôi rời cuộc họp thầm nhủ rằng cho dù những đảng
viên Cộng Hòa có thực sự chọn ứng cử viên của
họ bằng cách nào đi nữa thì những điều tôi
vừa được mục kích thấy vẫn là những hoạt động
chính trị rất lạ lùng.
Khi tôi trở lại Hoa Thịnh Đốn thì trời đã
vào tháng 8. Đài truyền hình và
báo chí đang rầm rộ về việc Bắc Việt tấn công hai
chiến hạm Mađox và Turner Joy tại vịnh Bắc Việt. Lúc
này quốc hội đang vội vã soạn thảo một nghị quyết gọi
là Nghị Quyết Vịnh Bắc Việt (Tonkin Resolution) và
đang
gia tăng quyền hạn chiến tranh Đông Dương cho Tổng
Thống Lyndon
Johnson. Tôi đã lắng nghe bài diễn thuyết của Tổng
Thống Johnson khi ông diễn tả những biến cố và
trình bày vấn đề cần thiết phải trả đủa. Tại Cựu Kim
Sơn
tôi cũng đã lắng nghe ứng cử viên Barry Goldwater
tuyên bố lập trường của ông đối với Cộng Sản. Ngay sau
khi
nghe xong bài diễn thuyết, tôi đã gửi một mục tường
thuật về tòa soạn tờ Saigon Post và tự phong cho
mình chức phóng viên đặc biệt. Tôi viết rằng:
"Dường như toàn thể Hoa Kỳ, kể cả những đảng viên
Dân Chủ lẫn những đảng viên Cộng Hòa đều chấp thuận
một chính sách chống cộng sản ở Việt Nam."
Vào cuối tháng 8, tôi rời Hoa Kỳ sang Anh Quốc
lòng tin tưởng mãnh liệt vào nghị quyết Vịnh Bắc
Việt. (Nghị quyết Vịnh Bắc Việt thông qua Hạ Viện với
trọn vẹn số
phiếu và thông qua Thượng Viện chỉ với vẻn vẹn 2 phiếu
bất
đồng ý kiến.) Rõ ràng là chánh quyền
Johnson đã quyết tâm đi sâu vào cuộc. Hơn
nữa, về riêng vấn đề này họ còn được đảng cộng
hòa ủng hộ.
Khi tôi đến Luân Đôn thì British Council
đã sắp đặt sẵn một chương trình viếng thăm đầy đủ cho
tôi. Tuy vậy, chỉ sau một hai ngày đầu tôi đã
cảm thấy rằng những thời khắc du lịch sắp sẵn trong
thời khóa
biểu có phần quá khắt khe. Cảm giác này lại
còn có phần mạnh mẽ hơn nhất là khi tôi vừa
mới được phép chu du tự do ở Hoa Kỳ. Kết cục, người
hướng dẫn
phải nới rộng thời gian trong chương trình đã sắp để
tôi được dịp viếng thăm Anh Quốc như một du khách thực
thụ.
Nhưng chẳng bao lâu sau, khi tôi mới ở Luân Đôn
vừa được 4 ngày, thì đã có một bức điện
tín khẩn của tờ Saigon Post báo rằng tôi nên
về Sài Gòn gấp. Tờ báo đã đăng một loạt
bài bình luận chỉ trích chính phủ Nguyễn
Khánh. Những người viết không hề nhẹ tay và tướng
Nguyễn Khánh đang sửa soạn đóng cửa tòa
báo.
Lúc trở lại Việt Nam tôi thấy mình đang nằm trong
thế phải đấu tranh toàn lực để giữ tờ Post khỏi bị
đóng
cửa. Ông Khánh không chút ủng hộ những
bài bình luận. Hơn nữa, việc ông biết rõ
tôi suy nghĩ về ông ra sao lại còn khiến mọi việc
thêm phần phức tạp. Tuy tôi đã cố gắng hết
mình mà tờ báo vẫn phải tạm thời đình bản.
May thay lúc này ông Khánh đang tối tăm mặt
mũi vì phải đối phó với những khủng hoảng khác
trong chánh quyền. Nếu không thì có lẽ
tòa soạn tờ Post đã phải đóng cửa vĩnh viễn.
Tuy chính tờ Post đang gặp khó khăn dữ dội, nhưng
những
khó khăn của tờ Post vẫn chỉ là những cơn gió so
với những cơn lốc xoáy đang xoay chuyển làm hỗn loạn
Sài Gòn. Suốt từ tháng 9 cho đến tháng 11
chánh phủ tướng Khánh theo nhau thay đổi vùn vụt
trong khi biểu tình làm xáo trộn đường phố
Sài Gòn mỗi ngày. Biểu tình của gần như tất
cả mọi tổ chức thay nhau bùng ra khắp nơi. Công
giáo, Phật giáo, Học sinh, Hòa Hảo, Cao
Đài, các Hội Lao Động. -Ông Khánh đã
gây mối bất hòa với mọi đoàn thể và tất cả
đang phẫn nộ đòi ông phải thỏa thuận theo những điều
họ
yêu cầu. Tình cảnh hỗn loạn lúc này
còn dữ dội hơn cả tình hình những tháng
cuối lúc ông Diệm còn tại chức. Tình cảnh
xáo trộn của Sài Gòn đã khiến ông
Khánh phải khốn đốn, lúc thì ông phải trốn
tránh đương đầu với nhóm này, khi thì
ông phải cố giữ vững lập trường với nhóm nọ. Ông
Khánh vừa phải ngăn ngừa, đề phòng Hoa Kỳ, lại vừa
phải
cố gắng chống chỏi với những mưu mô đảo chánh đang
làm rung chuyển chánh quyền.
Toàn thể Miền Nam hầu như đắm chìm trong khủng hoảng
-Khủng hoảng dân sự, hỗn loạn chính trị và nguy
hiểm hơn cả là hỗn loạn quân sự. Trong thời gian
này các lực lượng cộng sản đã lợi dụng nhược điểm
của Sài Gòn để tung ra những cuộc tấn công ăn khớp
nhằm mục đích làm chủ lãnh thổ, cũng như
làm chủ các trung tâm dân cư và chia
rẽ đất nước. Vào năm 1964, vốn đã gặt hái được một
số kết quả, du kích cộng sản ở Miền Nam lại được tăng
cường
thêm bằng quân đội chính qui Bắc Việt đổ xuống theo
những đường mòn Hồ Chí Minh đã được sửa sang kể từ
năm 1959.
Tại nhiều vùng, quân đội Việt Nam Cộng Hòa đang anh
dũng chiến đấu nhưng những hỗn loạn chính trị và những
rối ren ở cấp chỉ huy đã biến những chiến sĩ thành
những
người chiến đấu trong những tình cảnh bấp bênh khó
khăn. Lúc này nếu quân đội du kích Bắc Việt
biết lợi dụng khó khăn thì có lẽ cộng sản
có thể làm đảo loạn quân bằng của quân đội
Miền Nam.
Những mâu thuẫn xung khắc của tình cảnh trái ngược
đã khiến tôi phải bàng hoàng. Khi Hoa Thịnh
Đốn vừa chuẩn bị sẵn sàng nhập cuộc thì Sài
Gòn lại hoàn toàn hỗn loạn. Ngay khi tổng thống
Lyndon Johnson vừa quyết định đứng ra vận động để ủng
hộ Việt Nam
thì ông Nguyễn Khánh lại đưa chánh phủ Việt
Nam vào vòng đình trệ và hỗn loạn.
Những mâu thuẫn lúc này đã hẳn chẳng phải
hoàn toàn do sự tình cờ. Nếu Việt Nam không
đủ khả năng điều động chiến cuộc thì dĩ nhiên Hoa Kỳ
bị
buộc phải hứng lấy gánh nặng. Nhưng nếu nhìn kỹ
nguyên nhân của những biến chuyển tai hại đã
làm xáo trộn Việt Nam, tôi qui trách nhiệm
một phần về phía Hoa Kỳ. Nếu nhìn từ một phương diện
nào đó thì cũng có thể nói rằng
chính Hoa Kỳ đã gây ra mọi chuyện. Kể từ khi họ bắt
đầu can thiệp, Hoa Kỳ đã không hoàn toàn ủng
hộ những lý tưởng dân chủ. Họ chưa bao giờ đặt nặng
vấn đề
cần phải xây dựng một chánh phủ đoàn kết các
thành phần quốc gia ở Việt Nam. Họ cũng chẳng ủng hộ
những mục
tiêu của một chánh thể dân chủ trên những
phương diện khác chẳng hạn như cải cách xã hội,
kinh tế. Trái lại, dường như họ chỉ vui lòng ủng hộ
những
nhân vật độc tài và các tướng lãnh để
đổi lấy những ổn định giả tạo nhất thời. Hậu quả là
thay
vì đưa ra chính sách để giúp Việt Nam đạt
được những quân bằng như họ mong muốn, Hoa Kỳ lại vô
tình đưa ra những chính sách khiến chánh
phủ Việt Nam ngày càng chia rẽ và yếu đuối
thêm.
Quá trình dẫn đến sự thất bại của chánh phủ Việt
Nam kéo dài suốt một thập niên -Ông Diệm đắc
cử vào năm 1954. Lúc này là mùa thu
1964- nhưng tình hình Việt Nam lại vẫn ở vào một
trong những giai đoạn tồi tệ nhất. Khung cảnh rối ren
và hỗn
loạn tại Việt Nam đã khiến Hoa Kỳ thất vọng. Rồi thì
những nhân viên lãnh đạo Hoa Kỳ bắt đầu đặt
câu hỏi: Liệu có nên can thiệp hay không? Một
trong những nguyên nhân chính khiến Hoa Kỳ phải đặt
lại câu hỏi về vấn đề can thiệp là do Bắc Việt đã
tăng cường áp lực quân sự, nhưng một lý do
khác sâu xa hơn chính là do chánh phủ
Sài Gòn lúc này đã hoàn
toàn rối ren. Mâu thuẫn thay, tình trạng hỗn loạn
của Việt Nam phát sinh lại chính là do các
chính sách ngoại giao của Hoa Kỳ (hoặc do sự thiếu
thốn
các chánh sách ngoại giao của Hoa Kỳ.) Trong suốt
một thập niên Hoa Kỳ chỉ ủng hộ những nhân vật độc
tài và quân phiệt. Họ đã vui lòng ủng
hộ bất kỳ nhân vật nào tình cờ nắm được
chánh quyền để đổi lại những quân bằng nhất thời tại
Việt
Nam. Giờ đây chính họ phải gánh chịu những hậu quả
của việc đánh đổi đó. Vào mùa thu năm 1964
sau những cơn bão làm xáo trộn nội bộ Việt Nam,
nếu quả có một chiều hướng nào đó rõ rệt
thì chiều hướng đó chính là sự xuất hiện
của một nhóm tướng tá trẻ gọi là Tướng Trẻ. Trong
nhóm Tướng Trẻ, nổi bật nhất là ông Nguyễn Cao Kỳ,
một tư lệnh không quân mới 35 tuổi. Nhưng tướng Nguyễn
Văn
Thiệu cũng là một nhân vật nổi bật khác được cho
là trầm tĩnh và già dặn hơn. Vì là
người gần gũi với chính trị nên cũng như các bạn
khác tôi cũng có nghe về nhóm các
tướng trẻ. Tuy vậy, tôi không hề quen biết thân thiết
với riêng bất kỳ người nào trong nhóm các
Tướng Trẻ cả. Nhóm Tướng Trẻ nguyên là một lực
lượng mới xuất hiện. Tuy thế, vào lúc này những
thế hệ tướng tá đàn anh như tướng Kim, tướng Trần Văn
Đôn, tướng Dương Văn Minh và những người khác
đã lui dần vào phía sau, và tôi nghe
rằng những tướng trẻ đang làm áp lực bắt ông
Khánh loại trừ tất cả những tướng lãnh già để đưa
vào những lớp lãnh đạo có tính cách
đại diện cho thế hệ mới của họ.
Tuy những Tướng Trẻ không trực tiếp đương đầu với
tướng
Khánh, nhưng sự hiện diện của họ vẫn là một trong
những
yếu tố chính tạo nên khó khăn cho chánh
quyền tướng Khánh. Vào tháng 12, các tướng
trẻ đã gây ra một biến cố trực tiếp làm tiêu
tan sự nghiệp chính trị của tướng Khánh. Biến cố bắt
nguồn từ vấn đề mất uy tín đã từ lâu qua các
hành động tùy hứng, không thể nào tiên
liệu trước được của tướng Khánh đối với Hoa Kỳ. Lúc
này đại sứ của Hoa Kỳ tại Việt Nam là tướng Maxwell
Taylor. Ông là đại sứ đến để thay thế đại sứ Henry
Cabot
Lodge. Đại sứ Taylor nguyên là người lúc nào
cũng quan tâm rất nhiều đến vấn đề cần phải thúc đẩy
tướng
Khánh thiết lập một chính phủ dân sự. Khi đã
thúc đẩy trong một thời gian rất lâu mà vẫn chẳng
có tiến triển nào đáng kể, đại sứ Taylor
ngày càng nóng nảy và đòi hỏi
liên tục. Cuối cùng, vào tháng 9, ông
đã nói thẳng với tướng Khánh rằng Việt Nam cần
phải soạn thảo một bản hiến pháp để làm căn bản
pháp lý cho việc điều hành chính phủ. Cảm
thấy cùng đường, ông Khánh đưa ra một hội đồng
mà ông gọi là Thượng Hội Đồng gồm một nhóm
nhỏ bao gồm những chánh khách già nua được triệu
tập để soạn thảo một bản hiến pháp. Một đảng viên quốc
gia
trọng tuổi đã tham gia hoạt động trong nhóm Caravelle
lúc trước là ông Phan Khắc Sửu được cử làm
quốc trưởng.
Chẳng bao lâu sau, khi hội đồng đã được thiết lập,
nhóm tướng tá trẻ bắt đầu làm áp lực với
tướng Khánh. Họ bắt ông chánh thức ra lệnh buộc
các tướng lãnh lớn tuổi hơn đang làm họ khó
chịu phải về hưu. Tuy tướng Khánh đồng ý, theo thủ tục
thì mệnh lệnh phải được ông Phan Khắc Sửu, nguyên
là quốc trưởng lúc này phê chuẩn. Khốn thay,
ông Sửu lại khước từ, không chịu phê chuẩn.
Vì sợ rằng ông Khánh chưa hoàn toàn
làm chủ được tình hình khó khăn, đại sứ
Maxwell Taylor đã mời các tướng trẻ đến dùng bữa
tối ở tư thất của tướng Westmoreland, tư lệnh điều
hành
toàn thể lực lượng Hoa Kỳ tại Việt Nam. Trong buổi họp
đó, đại sứ Taylor cố trình bày với các
tướng trẻ rằng Hoa Kỳ sẽ tìm cách thuyết phục
chánh phủ Việt Nam thỏa mãn những điều yêu cầu của
các tướng trẻ, nhưng dù sao đi nữa thì Việt Nam
vẫn cần phải duy trì được một mức độ ổn định tối thiểu
nào đó. Trước sự hiện diện của cả tướng Westmoreland
và Phó Đại Sứ Alexis Johnson, đại sứ Taylor đã
ngấm ngầm đe dọa các tướng trẻ rằng nếu chính phủ Việt
Nam không hoàn toàn ổn định thì Hoa Kỳ
khó có thể tiếp tục ủng hộ Việt Nam.
Nhưng những lời can gián trước của đại sứ Taylor hoàn
toàn vô hiệu. Hành động ngoan cố của ông Sửu
đã khiến những tướng trẻ quyết định thực thi một giải
pháp quyết liệt. Vào ngày 20 tháng 12, họ
bắt cóc các nhân viên của Thượng Hội Đồng
và áp giải họ cùng một số chính
khách dân sự khác về giam lỏng ở Pleiku.
Được tin đại sứ Taylor vô cùng phẫn nộ. Ông triệu
tập ông Kỳ, ông Thiệu và các tướng trẻ
khác đến tòa đại sứ để than phiền về việc làm
loạn. Ông mở đầu buổi họp bằng cách hỏi các tướng
tá có hiểu tiếng Anh hay không? (Trước đây, ở
tư thất tướng Westmoreland ông đã nói chuyện với họ
bằng tiếng Pháp.) Khi ông Kỳ chua chát trả lời rằng
tiếng Anh của họ cũng đủ để hiểu, ông Taylor nói tiếp
rằng
buổi ăn tối tại nhà tướng Westmoreland khi trước thực
là
lãng phí. (Sau đó ông Kỳ có
nói lại với tôi rằng khi ông Taylor phát biểu
như vậy, ông và ông Thiệu đã tưởng rằng
ông Taylor có ý nói rằng họ đã
lãng phí thực phẩm trong bữa ăn tối đó.) Đại sứ
Taylor than thở: Hành động của các ông thật
đã quá tầm mức chịu đựng! Các ông hãy
tự xem các ông đã gây ra những hỗn loạn trong
chánh phủ nặng đến độ nào? Trong cơn giận dữ và
thất vọng đại sứ Taylor đã nhiều lần lớn tiếng.
Chẳng biết đại sứ Taylor đã hy vọng gặt hái được
gì sau khi than phiền, nhưng một hậu quả tức thời là
hành động của ông đã làm nhục ông Kỳ,
ông Thiệu và các tướng lãnh khác
cùng hiện diện nơi đó. Tướng Nguyễn Khánh
lúc này đang ngập đầu với những khó khăn vì
phải đối phó với các nhóm quân nhân
khác đã chụp ngay lấy cơ hội. Tướng Khánh lợi dụng
ngay cách đối xử của đại sứ Taylor với các tướng trẻ
để
hô hào cảm tình của các phần tử quốc gia.
Ông Khánh ra mặt bảo vệ các tướng trẻ. Ông
công khai chống đối việc Hoa Kỳ đã can thiệp vào
nội bộ của Việt Nam. Ông đã đi xa đến mức độ lên
tiếng đòi hỏi Hoa Kỳ phải triệu hồi đại sứ Taylor vì
đại
sứ Taylor đã xen vào nội bộ của Việt Nam.
Khi nghe tin, đại sứ Taylor, Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ và
Tòa
Bạch Ốc đều vẫn giữ lập trường cũ. Những điều ông
Khánh
phát biểu công khai đã vượt sức tưởng tượng của họ.
Tuy việc ông Khánh thiếu khả năng điều hành
các chính sách Việt Nam để giữ vững mối bang giao
giữa hai nước đã là một việc bất lợi, việc ông
tuyên bố lần này quả là việc họ chưa hề nghĩ tới.
Hoa Kỳ thông báo với ông Khánh rằng nếu đại
sứ Taylor nhất định phải bị triệu hồi thì sự ủng hộ
của họ cũng
lập tức chấm dứt. Bằng vào thực tế chính trị thì
việc này có nghĩa là chánh quyền Nguyễn
Khánh phải sụp đổ lập tức. Trong khi tấn bi hài kịch
Nguyễn Khánh tiếp diễn thì một cuộc chiến tranh khủng
khiếp đang lan dần ra khắp cả Việt Nam và các lực
lượng
Cộng Sản càng ngày càng trở nên một mối đe
dọa trầm trọng.
Cho tới giữa tháng 2 năm 1965 mà tướng Khánh vẫn
chưa hề bị đẩy khỏi cương vị quyền hành. Sau khi những
cố gắng
vận động cảm tình của các tướng trẻ đã thất bại
hoàn toàn, ông Khánh lại mưu toan cố gắng
củng cố quyền hành thêm một lần cuối. Vào
ngày 14 tháng 2, ông giải tán chánh
phủ đương thời và nhờ bác sĩ Quát thành lập
một chánh phủ mới mà trong đó ông sẽ
là người nắm giữ quyền hành quân đội. Đây
là nước cờ cuối cùng của ông Khánh. Nếu
ông Quát có thể thành lập được một
chánh phủ uy tín thì có thể chính
phủ này sẽ giúp ông Khánh thoát khỏi
những chống đối của Hoa Kỳ, của Phật giáo, Công
giáo và những người Việt Nam khác đang hô
hào đả đảo ông ta.
Nhưng vào lúc này, những hành động của
ông Khánh đã quá trễ. Một ngày sau
khi bác sĩ Quát nhậm chức thủ tướng thì một cuộc
đảo chánh quân sự chống lại tướng Khánh được
phát động. Những đơn vị do tướng Lâm Văn Phát
và đại tá Phạm Ngọc Thảo đã bao vây cả tư
thất ông Khánh, những cơ quan tổng hành doanh, lẫn
đài phát thanh. Trong lúc hỗn loạn ông
Khánh chạy thoát đến được tổng hành doanh
không quân của ông Nguyễn Cao Kỳ và được
ông Kỳ nhận lời bảo vệ.
Dưới sự hòa giải của Hoa Kỳ, ông Kỳ và những
lãnh tụ nổi loạn cùng đến gặp gỡ trong một cuộc họp
mặt.
Sau cuộc họp mặt, tướng Phát và đại tá Thảo
đã đồng ý hủy bỏ cuộc đảo chánh để đổi lại việc
trục xuất tướng Khánh ra nước ngoài. Những điều kiện
mà Hoa Kỳ đề nghị dĩ nhiên đối với ông Kỳ rất hấp
dẫn vì những tướng trẻ phục vụ dưới quyền ông lúc
này đang là nhóm quân nhân mạnh mẽ
nhất trong chánh quyền mới của ông Quát. Về
phía Hoa Kỳ thì việc trục xuất ông Khánh
đã khiến tất cả hoàn toàn nhẹ nhõm.
Lúc này, đại sứ Taylor và nhiều người khác,
Việt cũng như Mỹ, đều không chịu nổi sự hiện diện của
tướng
Khánh.
Ngay buổi sáng hôm đảo chánh -đây cũng
là ngày đầu tiên mà bác sĩ
Quát làm thủ tướng- ông Quát đã mời
tôi gặp ông ở văn phòng và cả hai
chúng tôi đều đã bỏ ra rất nhiều thời giờ
bàn bạc kế hoạch. Trưa đó, ông Quát được mời
về tổng hành doanh không quân để gia nhập buổi họp
đang diễn ra bên trong. Khi ông trở lại, vào
lúc khoảng 8 giờ tối, thì tin tức về việc ông
Khánh được cử đi ngoại quốc được loan ra.
Ngày hôm sau, tướng Khánh đến Phủ Thủ Tướng để
chánh thức từ giã Ông Quát. -Ông
Khánh đòi hỏi một nghi lễ tiễn biệt. Bác sĩ
Quát đã tổ chức nghi lễ nhưng lại từ chối không
chịu đi cùng tướng Khánh xuống phía trước văn
phòng thủ tướng để duyệt hàng lính bồng
súng chào. Tôi được lệnh đảm đương việc này
thay ông. Sau khi xem xét, tôi dẫn ông
Khánh lên lầu chào sơ bác sĩ Quát rồi
trở xuống xem xét binh lính lần cuối. Lúc nghi lễ
hoàn tất, ông Khánh đã nhìn tôi
nói: "Maintenant les carted c'est a vous de jouer" -
"Hiện thời
thì cả cỗ bài đều hoàn toàn tùy
ông sắp xếp." Cho đến giây phút chót,
ông Khánh vẫn xem chuyện điều hành chính phủ
như một trò chơi. Tôi chỉ trút bớt được phần
nào cơn giận ngùn ngụt lúc ông Khánh
đã xoay người đi khuất. Tuy việc ông Khánh ra đi
đã khiến tất cả nhẹ nhõm, vẫn chưa ai dám quả
quyết rằng những khó khăn do ông Khánh gây ra
có thể được giải quyết trong một thời gian ngắn ngủi.
17.
Sự
Can
Thiệp
của
Hoa Kỳ
Bác sĩ Quát là một chính khách
có kinh nghiệm chánh trị kỳ cựu, có chí
quyết tâm, có những xét đoán sâu sắc
và những suy nghĩ mẫu mực, đứng đắn. Ông đã
là từng là Đổng Lý Văn Phòng Phủ Thủ Tướng
trong chánh phủ Trần Trọng Kim và đã hai lần
làm Bộ Trưởng Quốc Phòng. Nếu Nguyễn Khánh thiếu
lập trường và kinh nghiệm chính trị bao nhiêu
thì bác sĩ Quát lại tháo vát
và vững chắc bấy nhiêu.
Bác sĩ Quát có lẽ là người có thể
đảm đương được trách nhiệm khi Nguyễn Khánh bị trục
xuất.
Nhưng dù ông có khả năng mấy chăng nữa thì
tình hình lúc đó cũng hết sức khó
khăn và khả năng của ông chưa chắc đã làm
thay đổi được tình hình.
Dĩ nhiên chính bác sĩ Quát không hề
cảm thấy điều này. Ông là một chính trị gia
hết sức tự tin. Trong suốt những năm dài dằng dặc, kể
cả những
năm bị gạt ra khỏi chính trường, bác sĩ Quát vẫn
không hề thối chí trong việc cố gắng tranh đấu để
có thể phục vụ ở một cương vị nào đó trong
chính quyền. Lúc này, cơ hội đã đến
ông nhất định không chịu bỏ lỡ. Hơn nữa, ông tin rằng
ông có thể củng cố chính phủ và tạo được cho
đất nước một sự ổn định cần thiết cho việc kiến tạo
dân chủ
và độc lập. Bác sĩ Quát nhận định rằng: Vấn đề
chính là tìm cách giải quyết hết những
khó khăn quân sự, nhất là vấn đề của các
tướng trẻ. Ông cho rằng ông có thể khắc phục được
họ.
Nhưng lần này những khó khăn đang chờ đợi bác sĩ
Quát thật là khủng khiếp. Nếu vấn đề bắt đầu làm
lại từ đầu là việc dễ dàng vào năm 1954 và
năm 1963 thì vào năm 1965 các biến cố đã
thay đổi hoàn toàn khung cảnh chính trị của đất
nước. Cơ hội dung hòa những khác biệt giữa các
đoàn thể tôn giáo và chính trị bằng
một chánh sách đoàn kết trước đây đã
hoàn toàn mất hẳn. Đất nước lúc này đang
chìm đắm trong tình trạng chia rẽ và xáo
trộn. Những tư lệnh cao cấp của quân đội, nguyên là
những nhân viên nhận lệnh trực tiếp từ chánh phủ,
giờ đây đã xem chánh trường như một vùng
chiến địa đòi hỏi những nỗ lực đấu tranh chẳng khác
nào những đấu tranh ngoài chiến trường. Lúc
này, những tướng tá đã tự chia bè, kết
phái chống đối lẫn nhau. Dù họ đồng lòng khinh
miệt những nhân viên dân sự, chính bản
thân các tướng tá cũng nghi kỵ lẫn nhau. Mặt
khác, chính những nhân viên dân sự cũng
khinh miệt các tướng tá và các nhân
viên quân đội. Công giáo nghi ngờ phật
giáo. Phật giáo nghi ngờ công giáo. Những
người Miền Nam không còn tin tưởng những người miền
Bắc
đang chung sống với họ. Có lẽ tệ hơn cả là trong
khoảng
một năm rưỡi kể từ khi ông Diệm bị lật đổ thì ý
kiến thiết lập một chánh phủ đoàn kết các tầng lớp
quốc gia đã bị bôi nhọ hoàn tòan.
Bác sĩ Quát bắt tay vào việc giữa bầu không
khí chính trị phức tạp của năm 1965 trong một môi
trường không hề có lấy một điểm sáng nào để
có thể hy vọng thành công. Tuy ông là
một nhà chính trị có nhiều kinh nghiệm, bác
sĩ Quát vẫn không có uy quyền gì thiết thực
để làm hậu thuẫn. Về điểm này, trường hợp của ông
cũng giống như trường hợp của những phần tử quốc gia
khác. Tất
cả đều phải gánh chịu những hậu quả tai hại của một
thập
niên độc tài ở Việt Nam. Trong suốt thời gian ông
Diệm cầm quyền, chưa có bất kỳ nhân vật quốc gia
nào có được cơ hội cho phép họ đóng
góp hoặc cổ động dân chúng ủng hộ cho các
chương trình của họ. Thực ra, vì cố tránh việc
các đảng viên quốc gia có thể vận động ủng hộ,
ông Diệm đã ra lệnh cấm nhóm họp đảng phái.
Còn các tướng lãnh thì dĩ nhiên chẳng
bao giờ lại có mảy may suy nghĩ về những vấn đề dân
chủ
như vậy. Kết quả là mặc dù đã nỗ lực nhưng
vì không có uy quyền thiết thực để hành động
nên bác sĩ Quát vẫn không giải quyết được
khó khăn. Ảnh hưởng thực sự của ông chỉ hoàn
toàn nằm trong phạm vi kinh nghiệm và một số người ủng
hộ
ông.
Trong số những người ủng hộ ông, tôi là người
đã từng làm việc với ông lâu nhất. Vì
mối liên hệ chặt chẽ từ lâu giữa hai chúng
tôi, tôi sẵn lòng đóng góp mọi đề nghị
và ý kiến riêng của tôi với bác sĩ
Quát. Nhưng vào ngày 14 tháng 2, khi
bác sĩ Quát ngỏ lời mời tôi cộng tác với
ông trong chính phủ mà ông đang thành
lập, tôi đã cảm thấy vô cùng ngần ngại.
Tôi đã thấy rõ những yếu đuối thực thụ của
chánh quyền ông Quát, nhưng tôi lại bị lương
tâm thúc đẩy và cho rằng mình nên nỗ
lực hết sức bất kể thành đạt hay không.
Biết rõ những ý nghĩ của tôi về những sự khó
khăn và phức tạp của tình hình lúc
đó, bác sĩ Quát cố thuyết phục tôi.
Ông Quát nói rằng ông đã có
nhiều kinh nghiệm về việc giải quyết các vấn đề khó
khăn
trong quân đội vì ông đã hai lần làm
Bộ Trưởng Quốc Phòng. Khi giải quyết xong các khó
khăn trong quân đội, ông sẽ đứng ra đương đầu với
những
khó khăn đang xâu xé các đoàn thể
tôn giáo và các đoàn thể chính
trị. Hơn nữa, chúng tôi còn có thể soạn thảo
một bản hiến pháp phản ảnh những lý tưởng mà
chúng tôi đã từng ôm ấp, hoài
bão từ lâu.
Tuy rằng lý luận của bác sĩ Quát vô
cùng hấp dẫn, những linh tính của tôi lại
hoàn toàn khác hẳn. Mặc dầu vậy, khi ông
Quát đã đi đến mức tận cùng, tôi biết
mình chẳng còn đường chọn lựa. Ông Quát than
rằng: "Vào giờ phút này mà anh còn
bỏ tôi à?" Hết phương lựa chọn, tôi đành chấp
nhận cộng tác với chánh phủ của bác sĩ
Quát. Chiếu theo chức vụ lúc này thì
tôi là Bộ Trưởng tại Phủ Thủ Tướng trong chánh phủ
ông Quát.
Chính quyết định tham gia chánh phủ của tôi
lúc này đã khiến hàng loạt biến cố dồn dập
đẩy tôi bước vào một thập niên sôi động nhất
trong đời tôi. Đây là một giai đoạn mà
tôi phải tiếp xúc với những nhân vật trong cả
chánh trường Việt Nam lẫn chánh trường quốc tế. Đây
cũng là giai đoạn tôi có dịp mục kích vấn đề
bè phái ở Việt Nam, cũng như vấn đề bè phái
trong những đoàn thể Hoa Kỳ phục vụ ở Việt Nam. Lúc
tôi nhậm chức thì chánh phủ của bác sĩ
Quát đã vô cùng bấp bênh, không
chút hy vọng có thể thành công hoặc trường
tồn lâu dài. Cùng những đồng nghiệp khác
tôi chia xẻ một cảm giác quyết tâm "cắn răng"
làm hết sức mình. Lúc này, tôi chưa
hề đoán trước được rằng rồi đây tôi sẽ có dịp
mục kích những biến cố lịch sử to tát và bi thảm
của Việt Nam và Hoa Kỳ. Tôi chưa hề biết rằng tôi sẽ
có dịp mục kích tấn thảm kịch Việt Nam-Hoa Kỳ, và
mục kích gần như trọn vẹn từ buổi đầu, từ lúc hy vọng
còn manh nha, cho đến tận những màn bi kịch rụng rời
lúc cuối. Khi nhậm chức tôi cũng chưa biết trước được
rằng
quyết định mấu chốt nhất, quyết định đáng được đặt vấn
đề nhất
đã được đưa ra ở Hoa Thịnh Đốn rồi. Tôi lại càng
không biết trước rằng sau này, vì tôi
là mối dây liên lạc giữa bác sĩ Quát
với người Hoa Kỳ, nên chính tôi lại được mời
vào để chánh thức hóa những quyết định đã
được Hoa Thịnh Đốn đưa ra từ trước.
Đối với Hoa Kỳ thì vấn đề can thiệp vào Việt Nam
có thể được xem là biến cố quan trọng nhất của họ sau
Đệ
Nhị Thế Chiến. Đối với Việt Nam thì đây quả là một
trong những biến cố quan trọng nhất cho toàn thể Việt
Nam. Tuy
vấn đề Hoa Kỳ can thiệp vào Việt Nam quan trọng, lớn
lao
là thế mà chính sách đó lại được
thực thi trong một khung cảnh thật hỗn loạn và vào
giữa
lúc cả hai chánh phủ gần như hoàn toàn
không hiểu nhau. Khoảng thời gian giữa tháng 12 năm
1964
và tháng 6 năm 1965 là một giai đoạn của những
quyết định phức tạp và khó hiểu. Trong giai đoạn
này, cả Hoa Kỳ lẫn Việt Nam đều quyết định thỏa thuận
những
chính sách gần như mâu thuẫn hẳn với những mục
tiêu về lợi ích quốc gia và uy tín cho cả
hai. Về phía Hoa Kỳ, tuy đã có những bài
học kinh nghiệm rút ra từ chiến tranh Đại Hàn, Hoa Kỳ
vẫn
quyết định lao mình vào chiến tranh lục địa ở Á
Châu. Về phía Việt Nam, mặc dù việc đổ quân
vào Miền Nam hoàn toàn đi ngược những suy
xét của các nhà lãnh đạo Việt Nam,
và mặc dù mới chỉ thoát ách 100 năm
đô hộ của người ngoại quốc, mà Việt Nam vẫn chấp nhận
để
một quốc gia ngoại quốc đổ quân trấn đóng ngay trên
lãnh thổ. Tại sao những quyết định mâu thuẫn như vậy
lại
có thể xảy ra?
Đây là một câu hỏi phức tạp có thể được trả
lời bằng nhiều cách giải thích hợp lý khác
nhau. Một trong những lời giải thích minh bạch nhất từ
phía Hoa Kỳ là những tài liệu chưa in của
ông William Bundy. Ông Bundy nguyên là Phụ
Tá Ngoại Trưởng Đặc Trách Đông Nam Á
và Thái Bình Dương Sự Vụ và cũng
chính là người đã tham dự vào tất cả những
cuộc thảo luận đã dẫn đến những quyết định can thiệp
của Hoa Kỳ
vào cuối năm 1964 ở cả Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ lẫn tòa
Bạch
Ốc. Hơn nữa, ông đã tham dự phần lớn các cuộc thảo
luận được tổ chức trong giai đoạn Hoa Kỳ sắp đưa ra
quyết định can
thiệp. Về phía Việt Nam, kể từ khi những cuộc tấn công
không lực vừa mới bắt đầu, nhân vật chính là
bác sĩ Quát và tôi. Ông Quát
không hề để lại bất cứ tài liệu nào nói về
các biến cố can thiệp (Bác sĩ Quát chết trong
nhà tù thành phố Hồ Chí Minh năm 1981.)
Vào thời gian này tôi đang giữ chức bộ trưởng tại
phủ thủ tướng và cũng là mối dây liên lạc
chánh phủ của bác sĩ Quát với tòa đại sứ
Hoa Kỳ. Những tài liệu chánh thức dùng giải
thích những sự kiện sau đây phần nhiều trích ra từ
những tài liệu của ông Bundy và tài liệu của
riêng tôi tích trữ từ các giấy tờ điện
tín, nhật ký, chú thích... cũng như từ
những tài liệu riêng do chính tôi thu thập.
Những tài liệu khác cũng phần nhiều được trích từ
những tài liệu đã được xuất bản như Hồ Sơ Ngũ Giác
Đài (Pentagon Papers), tài liệu của Gareth Porter, hồi
ký của tổng thống Lyndon Johnson, của đại sứ Maxwell
Taylor
và Phó đại sứ Alexis Johnson và của các
nhân vật khác của Hoa Kỳ. Thêm vào đó,
tôi đã phỏng vấn hầu hết những người Hoa Kỳ tham gia
cũng
như những người Việt Nam đã ở vào những cương vị hiểu
biết trong quá khứ.
Những diễn biến lịch sử dẫn đến việc Hoa Kỳ quyết định
can thiệp tường
thuật dưới đây phản ảnh suy tư của cả những người có
trách nhiệm trong chánh phủ Hoa Kỳ lẫn những nhân
viên trong chánh phủ Việt Nam. Khung cảnh toàn cuộc
được dựng lại bằng nhiều nguồn tin khác biệt từ nhiều
khía cạnh. Khi tổng kết những khung cảnh so le và
nhìn rõ được sự thiển cận của các chính
sách can thiệp, chẳng hạn như thái độ quá tự tin
của Hoa Kỳ, như tình trạng hiểu lầm giữa hai chánh phủ
Hoa Kỳ và Việt Nam, hoặc tình cảnh bất lực của
chánh phủ Việt Nam, khung cảnh có lẽ khó thể khiến
người quan sát tránh khỏi sững sờ. Nếu đem so sánh
tầm mức quan trọng của quyết định can thiệp và cách
thức
Hoa Kỳ can thiệp thì khung cảnh quả là một tấn thảm
kịch
hãi hùng. Biến cố đánh dấu sự can thiệp của Hoa Kỳ
ở Việt Nam bắt đầu khi các cố vấn Hoa Kỳ được gửi sang
để
giúp đỡ quân đội mới thành hình của
ông Diệm vào năm 1954. Giữa năm 1961 và năm 1964,
số lượng nhân viên của Hoa Kỳ ở Việt Nam đã nhảy vọt
từ 900 lên đến 23,000. Nhưng mặc dầu sự giúp đỡ có
phần đáng kể, các huấn luyện viên và
các cố vấn Hoa Kỳ chỉ đóng một vai trò giảng dạy
nhỏ hẹp trong các hoạt động quân sự của Miền Nam.
Vì Hoa Kỳ chỉ đóng vai cố vấn nên bất kỳ lúc
nào con số nhân viên của Hoa Kỳ ở Việt Nam cũng
có thể tăng hoặc giảm. Sự hiện diện của các nhân
viên Hoa Kỳ chỉ đáp ứng đơn thuần những đòi hỏi "cố
vấn và giúp đỡ," hoàn toàn khác hẳn
với những can thiệp quân sự trực tiếp của Hoa Kỳ về
sau.
Nếu không kể những cuộc oanh tạc trả đủa của Hoa Kỳ
đối với
Hà Nội sau biến cố vịnh Bắc Việt thì hành động can
thiệp trực tiếp bằng quân sự của Hoa Kỳ ở Việt Nam bắt
đầu
vào tháng 2 năm 1965. Nếu chỉ nói riêng về
các kế hoạch quân sự của Hoa Kỳ thì ngay cả từ
trước năm 1964 Hoa Kỳ đã có sẵn những kế hoạch để đối
phó với trường hợp leo thang chiến tranh ở Việt Nam.
Tuy thế,
những kế hoạch của Hoa Kỳ lại chỉ là những kế hoạch
soạn sẵn để
đề phòng những trường hợp bất trắc khẩn cấp chứ không
phải
là những kế hoạch được soạn thảo để áp dụng ngay trong
thực tế nếu chiến cuộc kéo dài. Trong khi Hoa Kỳ vẫn
chưa
có lập trường rõ rệt về vấn đề liệu có nên
can thiệp bằng quân sự hay không thì Bắc Việt lại
gia tăng những cuộc khủng bố ở Miền Nam Việt Nam nhằm
thẳng vào
các nhân viên và quân đội của Hoa Kỳ.
Trong một cuộc khủng bố ở khách sạn Brink trong Lễ
Giáng
Sinh năm 1964, Việt Cộng đã đặt chất nổ khiến hai nhân
viên của Hoa Kỳ bị thiệt mạng và 58 nhân viên
khác bị thương. Rồi vào tháng 2, năm 1965 Việt
Cộng lại đặt chất nổ ở một trại lính Hoa Kỳ là trại
Holloway khiến 8 binh sĩ Hoa Kỳ bị thiệt mạng và 100
binh sĩ
khác bị thương. Cuộc khủng bố xảy ra ngay giữa lúc cố
vấn
an ninh của Hoa Kỳ là ông McGeorge Bundy đang ở Việt
Nam
quan sát tình hình. Để trả đủa lại những sự
khiêu khích trắng trợn của Việt Cộng, Hoa Kỳ bắt đầu
phát động chiến dịch oanh tạc Rolling Thunder . Chiến
dịch
này chánh thức mở màn sự can thiệp bằng quân
sự của Hoa Kỳ ở Việt Nam. Lúc bác sĩ Quát bước
vào nhậm chức thì chiến dịch Rolling Thunder đang
trên đà phát động. Máy bay của Hoa Kỳ đang
dội bom vào những mục tiêu của Bắc Việt ở những đường
mòn Hồ Chí Minh chạy dọc theo biên giới Lào
và Cam Bốt từ Bắc vào Nam.
Hoa Kỳ bắt đầu phát động chiến dịch oanh tạc Rolling
Thunder
vào khoảng tháng 12-1965, khi chánh quyền Nguyễn
Khánh đang đi vào giai đoạn khủng hoảng cuối cùng.
Mục tiêu chính của chiến dịch oanh tạc là cắt đứt
những đường giao thông của cộng sản và tiêu diệt
những căn cứ Bắc Việt đã thiết lập khi chuyển quân
vào Miền Nam Việt Nam. Vào lúc này, vẫn
chưa ai có thể tiên đoán được rằng chiến dịch oanh
tạc chính thật là bước đầu tiên của một kế hoạch
đang biến dần thành kế hoạch can thiệp quân sự lớn lao
của
Hoa Kỳ ở Việt Nam.
Riêng về phương diện ngoại giao thì những nhân
viên ở Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ cũng đã thảo luận vấn đề
dùng không lực của Hoa Kỳ để đối phó với Bắc Việt
từ trước cả khi có biến cố vịnh Bắc Việt. Khi cân nhắc
những ưu và khuyết điểm của kế hoạch can thiệp bằng
không
lực, những người trong nhóm soạn thảo chính sách
của Hoa Kỳ vẫn phân vân chẳng hiểu họ có nên
can thiệp hay không? Sở dĩ nhóm soạn thảo chính
sách của Hoa Kỳ phân vân là vì họ vẫn
chưa cân nhắc được ảnh hưởng của những yếu tố phức tạp
khác trên trường chính trị quốc tế.
Nếu đứng trên phương diện chiến lược mà luận thì
Việt Nam quả thật là một sự thử thách của chính
sách ngăn chận thế lực cộng sản và bảo vệ tự do dân
chủ ở tất cả các quốc gia trong khối đồng minh trên
thế
giới (containment policy). Dĩ nhiên, khi Việt Nam
không thể
chống chọi được với Bắc Việt mà Hoa Kỳ vẫn muốn chính
sách containment thành công thì họ phải can
thiệp bằng quân sự ở Việt Nam. Mặt khác, Hoa Kỳ vẫn sợ
rằng sự can thiệp của họ có thể bị Nga và Tàu cho
rằng họ có ý muốn khiêu khích các thế
lực cộng sản. Nói rõ hơn thì họ sợ rằng sự can
thiệp của họ ở Việt Nam có thể khiến cuộc chiến Việt
Nam
bành trướng thành một cuộc thế chiến.
Vì đã thấy rõ những yếu tố phức tạp của sự can
thiệp nên Hoa Kỳ muốn giảm thiểu sự can thiệp của họ
đến mức tối
đa. Có lẽ họ cho rằng giải pháp vẹn toàn nhất
là giúp chánh phủ Việt Nam cải thiện và
củng cố quân đội Việt Nam để Miền Nam Việt Nam có thể
tự
đối phó với Bắc Việt thì họ có thể vẫn áp
dụng được chính sách containment mà không
cần phải can thiệp bằng quân sự. Chính vì thế
nên lúc nào Hoa Kỳ cũng muốn tình
hình chánh phủ của Việt Nam ổn định để họ có thể
áp dụng được giải pháp can thiệp nửa vời như một giải
pháp vẹn toàn.
Mặc dầu trong năm 1964, nhóm soạn thảo kế hoạch do ông
Bundy đứng đầu có đề ra nhiều giải pháp khác nhau,
cho tới hạ tuần tháng 11 năm 1964 vẫn chưa hề có giải
pháp nào đáng được gọi là quyết định.
Lúc đó, đại sứ Taylor Maxwell vừa từ Sài
Gòn trở về Hoa Thịnh Đốn. Ông đã trở lại để thuyết
trình cho nhóm soạn thảo kế hoạch làm việc dưới
quyền ông Bundy. Lúc này nhóm soạn thảo đang
làm việc trong giai đoạn cuối và những giải pháp
của họ sắp được đệ trình lên tổng thống.
Vì đại sứ Taylor vừa mới từ Sài Gòn trở về
và nhóm soạn thảo kế hoạch lại đang ở vào giao
đoạn chót, tình hình đã khiến đại sứ Taylor
đứng vào cương vị chủ chốt và tại thời điểm này,
quan niệm của ông thật vô cùng quan trọng.
Vào ngày 27 tháng 11, bản báo cáo
của ông vừa thành thật lại vừa vô cùng bi
quan. Đại sứ Taylor viết rằng tình trạng xáo trộn ở
Việt
Nam có thể được coi như một "chứng bệnh kinh niên" của
chánh phủ. Ông cho rằng đây là một "yếu điểm
trầm trọng." "Nếu chánh phủ Việt Nam không đủ khả năng
để
tiếp tay với những nỗ lực của Hoa Kỳ thì những nỗ lực
tiếp trợ
của Hoa Kỳ chẳng qua chỉ là những nỗ lực vô ích,
chẳng khác nào những nguồn năng lực có thể khiến
một chiếc bánh xe quay tròn, nhưng lại không thể
truyền đi được sức mạnh của những vòng quay." Đại sứ
Taylor cho
rằng "Nếu muốn thúc đẩy tình hình biến chuyển
thì phải thiết lập ngay một chánh phủ vững chãi ở
Việt Nam."
Khi Ngoại Trưởng Dean Rusk trực tiếp hỏi phải theo
phương pháp
cụ thể nào để chánh phủ Việt Nam có thể hoạt động
khả quan hơn thì đại sứ Taylor trả lời rằng giới lãnh
đạo
Việt Nam phải được loan báo những "tin tức thiết
thực," họ cần
phải biết rõ giải pháp của Hoa Kỳ cùng với những
dấu hiệu cho thấy Hoa Kỳ sẵn sàng "nói chuyện
nghiêm chỉnh về vấn đề thực sự đương đầu với Miền
Bắc."
(Ông nhấn mạnh điều này.) Đại sứ Taylor cho rằng những
tin
tức thiết thực có thể khích lệ chánh phủ Việt Nam
điều hành hữu hiệu hơn. Giữa lúc đại sứ Taylor đang
trình bày ý kiến thì Bộ Trưởng Quốc
Phòng McNamara lại nêu câu hỏi: Nếu ngay cả khi
những tin tức cần thiết đã được loan báo rồi mà
chánh quyền Sài Gòn vẫn không thay đổi
thì liệu Hoa Kỳ có đủ lập luận để oanh tạc miền Bắc
hay
không? Rồi chính ông McNamara đã trả lời rằng
Hoa Kỳ sẽ có đủ lập luận để oanh tạc. Đại sứ Taylor
cũng đồng
ý với ông McNamara và cho rằng khi tình thế
đã tuyệt vọng thì những hành động mạnh mẽ
có thể sẽ khiến Việt Nam đoàn kết lại với nhau.
Khi rút tỉa từ những ý kiến phát biểu trong cuộc
trao đổi giữa hai ông McNamara và ông Taylor,
ông William Bundy đã diễn tả những hành động mạnh
mẽ kêu gọi Việt Nam đoàn kết có thể ví như
một hiện tượng "chạm điện." Theo ông Taylor thì "ý
kiến về nỗ lực cuối cùng -chữa trị bằng phương pháp
'giật
dây,' tương tự như phương pháp giật dây một động cơ
cho nổ máy có thể là một giải pháp
thích nghi."
Bốn ngày sau, vào ngày 1 tháng 12, Tổng
Thống Lyndon Johnson chánh thức chấp nhận đề nghị của
nhóm soạn thảo chính sách. Chủ trương của
chính sách mới đòi hỏi Hoa Kỳ phải gia tăng
áp lực với Bắc Việt. Nếu cần, cách gia tăng áp lực
sẽ bao gồm cả việc tấn công bằng không lực vào những
căn cứ quân sự quan trọng của Bắc Việt. Nhưng theo ý
tổng
thống Johnson thì trước tiên đại sứ Taylor nên cố
gắng dùng hết sức tạo sự đoàn kết giữa những người
quốc
gia Việt Nam. Tổng thống Johnson nhắn nhủ đại sứ
Taylor: "Nếu muốn thực
thi chánh sách oanh tạc không lực thì
ông phải tìm cách nối kết toàn thể
các lãnh tụ chánh trị hiện thời." Đây
là những lời nhắn nhủ đại sứ Taylor vẫn ghi nhớ khi
trở về
Sài Gòn, nhưng chỉ một tháng sau ông
đã gửi một bức điện tín rất dài về Hoa Thịnh Đốn,
báo cáo rằng những cố gắng của ông đã
hoàn toàn thất bại. Đại sứ Taylor quay lại Việt Nam để
thực thi chỉ định của tổng thống Johnson vào giữa lúc
chánh quyền tướng Khánh đang ở trong tình trạng
khủng hoảng. Lúc này các tướng trẻ đang nổi loạn
và vụ bắt cóc các nhân viên Thượng Hội
Đồng vừa xảy ra. Tuy đã cố hết sức hàn gắn và
hô hào đoàn kết, những nỗ lực của đại sứ Taylor vẫn
hoàn toàn vô hiệu. Việt Nam chẳng hề có bất
kỳ ý niệm nào về việc cần phải đoàn kết cả.
Trái lại, thái độ mạnh ai nấy sống lộ rõ ở khắp
các nẻo đường Sài Gòn. Đại sứ Taylor cho rằng Việt
Nam có thái độ này vì họ đã
có một cảm giác chung rằng đất nước đã đến hồi bỉ
vận và Hoa Kỳ có lẽ cũng chỉ đến khoanh tay đứng
nhìn mà thôi. Ông Bundy còn nhớ đại sứ
Taylor đã phát biểu: "Kể cả những thang thuốc mạnh
nhất
cũng không đủ hiệu lực. Giờ đây chẳng còn
cách nào khác hơn là phải giải phẫu con
bệnh." Những suy luận của đại sứ Taylor đã khiến ông
Bundy
nhận định: "Nếu theo chủ kiến của đại sứ Taylor thì cả
vấn đề
củng cố tinh thần lẫn vấn đề củng cố những hoạt động
chính trị
của Việt Nam đều lệ thuộc rất nhiều vào việc thực thi
những
chương trình oanh tạc không lực."
Vào ngày 1, tháng 12-1964, ngoài những yếu
tố vừa kể, những yếu tố khác còn lại có ảnh hưởng
đến việc tổng thống Johnson chấp thuận quyết định thực
thi chương
trình oanh tạc là: Vấn đề cần phải trả đủa những cuộc
tấn
công của Việt Cộng và thể hiện sự quyết tâm của Hoa
Kỳ, nhất là vấn đề cần phải gia tăng áp lực để buộc
Bắc
Việt phải thu nhỏ tầm hoạt động. Tài liệu cho thấy
quyết định
oanh tạc cũng lệ thuộc rất nhiều vào lập luận "hà hơi
tiếp sức" của đại sứ Taylor vào cuối tháng 11, khi
ông đưa ý kiến lần đầu và rồi sau đó vẫn
tiếp tục giữ vững quan điểm trong những buổi thuyết
trình tương
tự kế tiếp vào đầu tháng giêng. Tất cả những buổi
thuyết trình đều nhấn mạnh vào vấn đề cần phải có
một động cơ cấp thiết thúc đẩy những người Việt Nam
đoàn
kết lại với nhau.
Điều cuối cùng đáng chú ý trong lập luận
của đại sứ Taylor về việc đề nghị chương trình oanh
tạc Bắc Việt
là: Tuy ủng hộ chính sách tấn công bằng
không lực, đại sứ Taylor đã chấp thuận một phần cũng
là vì đây còn là một phương
sách giữ cho Hoa Kỳ khỏi phải đi sâu vào những vấn
đề quân sự phức tạp. Phó Đại Sứ Alexis Johnson đã
phát biểu: "Thật ra, vì là những người làm
việc ở tòa đại sứ, chúng tôi còn mong mỏi
một điều khác. Chúng tôi hy vọng rằng chiến dịch
oanh tạc Rolling Thunder sẽ xoa dịu những yêu cầu, đòi
hỏi
các lực lượng bộ binh Hoa Kỳ phải trực tiếp can
thiệp." Họ nghĩ
rằng chương trình oanh tạc sẽ khiến những người hiếu
chiến giảm
bớt áp lực đòi hỏi Hoa Kỳ phải đổ quân. Vào
tháng 2, cả đại sứ Taylor lẫn các phụ tá của
ông đều bị áp lực về vấn đề phải đổ quân Hoa Kỳ
vào Việt Nam.
Tuy thế, những suy nghĩ cẩn trọng của Hoa Kỳ lại chẳng
hề đi đôi
với bất kỳ nỗ lực nào của chính quyền Việt Nam. Vì
nằm trong trạng huống của một chánh phủ đầy những rối
ren trong
nội bộ, ông Nguyễn Khánh làm gì còn
có thời giờ suy nghĩ về biến chuyển của những chương
trình oanh tạc. Ông Khánh không hề ở
vào cương vị có thể đồng ý hoặc chối từ -Ở
vào thời điểm này, ông Khánh gần như
không còn nói chuyện được với đại sứ Taylor. Hơn
nữa, các tướng lãnh lại suy nghĩ ngược hẳn với ý
kiến của đại sứ Taylor. Họ không hề thấy việc đâu lưng
đoàn kết là cần thiết. Thật ra, vào những
ngày tàn tạ của chánh quyền Nguyễn Khánh,
các tướng lãnh chia rẽ chẳng phải do những nguyên
nhân xuất phát từ thái độ mạnh ai nấy sống như đại
sứ Taylor đã xét đoán mà là do những
mâu thuẫn và xung khắc phát xuất từ những đố kỵ
và tham vọng cá nhân. Đối với các
nhóm quân nhân đang chú tâm vào
việc tranh quyền thì chương trình oanh tạc chỉ là
một chuyện tự nhiên Hoa Kỳ phải làm và chẳng ai cần
thắc mắc cả. Do đó, nỗ lực tiếp sức mạnh mẽ của Hoa Kỳ
vào lúc này là một việc làm đơn
phương, không thể nào có thể gọi là quyết
định hỗn hợp của cả hai chánh phủ Hoa Kỳ và Việt Nam.
Tuy quyết định oanh tạc ảnh hưởng đến vấn đề can thiệp
trầm trọng
là thế mà khi bắt đầu nắm quyền vào ngày 18
tháng 2-1965, chánh phủ Việt Nam vẫn chẳng duyệt lại
tình hình. Tôi tin chắc rằng ông Khánh
cũng chẳng quan tâm gì đến việc báo cáo với
bác sĩ Quát về những kế hoạch của Hoa Kỳ. Tôi
còn nhớ một cuộc đàm thoại ngắn ngủi trong tuần đầu
lúc tôi bắt đầu làm việc, khi bác sĩ
Quát lưu ý rằng đại sứ Taylor sẽ ghé qua tường
trình với chúng tôi về những chương trình
oanh tạc. Sau đó, cứ hai tuần một lần, đại sứ Maxwell
Taylor
và ông Alexis Johnson lại đến phủ thủ tướng mang theo
một
xấp bản đồ để chỉ cho chúng tôi những mục tiêu đang
bị oanh tạc. Vai trò hoạt động quân sự đơn phương của
Hoa
Kỳ được coi là chuyện tự nhiên cho đến nỗi chính
phủ Việt Nam không thèm đưa cả vấn đề vào chương
trình nghị sự ở mỗi kỳ họp hàng tuần. Vấn đề can thiệp
chẳng những đã không nằm trong chương trình nghị sự
của chính phủ Việt Nam mà cũng chẳng hề được nhắc nhở
gì đến trong bất kỳ chương trình nghị sự hỗn hợp
Mỹ-Việt
nào của tôi và cố vấn tòa đại sứ Melvin
Manfull. Lúc này, tôi và ông Melvin
Manfull là hai nhân viên cùng nhận
lãnh trách nhiệm soạn thảo các chương trình
nghị sự cho bác sĩ Quát, đại sứ Taylor và
các phụ tá chính của họ.
Quyết định về việc xử dụng không lực Hoa Kỳ trên
lãnh thổ Việt Nam (khác với quyết định oanh tạc) cũng
được tiến hành rập khuôn như trường hợp trước, không
hề có sự thỏa thuận hoặc thảo luận đặc biệt nào trước
với
chánh phủ Việt Nam. Thực thi một chính sách
có ảnh hưởng hệ trọng đến toàn thể dân chúng
mà lại không cần đếm xỉa gì đến vấn đề thương thảo,
nhận định chung của cả hai chánh phủ thật là một việc
ngoài mức tưởng tượng. Tuy thế, áp lực của tình
hình đã khiến những người lãnh đạo của cả hai quốc
gia cùng đồng ý rằng: Thực ra, vấn đề vẫn chưa
nghiêm trọng đến mức cần phải thảo luận với chính phủ
Sài Gòn chứ đừng nói tới việc phải liệu xem mức độ
cần thiết thực sự đã đến độ nào! Một bên thì
các nhà chức trách quân sự Hoa Kỳ, dưới
áp lực của tình hình chiến sự, có lẽ
đã nghĩ rằng vấn đề không quan trọng và chưa cần
phải thảo luận với chánh phủ Việt Nam. Và một bên
thì còn đang lặn ngụp, trăn trở với những vấn đề cấp
bách, không có đủ thời giờ mà nghĩ
quá xa đến những vấn đề phức tạp. Lúc này,
chánh phủ Việt Nam đang xoay sở khốn đốn vì thiếu thốn
phương tiện chỉnh đốn lại các hỗn loạn di lại từ
trước. Tư thế
lặn hụp, trăn trở, cố ngoi đầu lên khỏi mặt nước đã
khiến
Việt Nam phải để các tổ chức quân sự tự đương đầu với
chiến cuộc trong mọi vấn đề.
Dù rằng việc quyết định dùng các lực lượng
không quân Hoa Kỳ đã là một vấn đề
đáng lưu tâm, việc đổ bộ của Hải Quân Hoa Kỳ
vào ngày 8 tháng 3-1965 lại còn đáng
chú tâm hơn. Đối với Hoa Kỳ thì quyết định đổ bộ
hải quân là một quyết định đánh dấu giai đoạn khởi
đầu nhập cuộc chiến tranh lục địa Á Châu. Đối với
dân chúng Việt Nam thì vấn đề đổ bộ cho thấy
quân đội ngoại quốc lại chiếm đóng ở Việt Nam thêm
một lần nữa. Vào thời gian này, mối liên hệ giữa
tôi và bác sĩ Quát đã vượt xa quan hệ
đơn thuần giữa cấp trên và cấp dưới. Mười lăm năm
tình nghĩa đã biến chúng tôi thành
thân thiết gần như "anh em." Chúng tôi vẫn thường
bàn luận với nhau về những vấn đề khúc mắc, khó
xử. Riêng về vấn đề hiện diện của quân đội ngoại quốc
ở
Việt Nam thì chúng tôi cùng đồng quan điểm
đã từ lâu. Bất kể tầm mức cần thiết về vấn đề quân
sự có quan trọng tới mức nào, cả hai chúng
tôi đều dứt khoát cho rằng để quân đội ngoại quốc
nhập cuộc là tự chuốc lấy một vấn đề khó khăn vô
tả. Vào năm 1953, chúng tôi đã từng ở
vào một tình trạng hết sức khó xử khi tham gia
vào chánh quyền của ông Bảo Đại. Chính kinh
nghiệm của những việc khó xử đó đã khiến
chúng tôi phải ngần ngại. Chúng tôi sợ rằng
rồi đây những người không ở trong tình trạng của
chúng tôi sẽ lại rơi vào bộ máy tuyên
truyền của cộng sản để kết án chúng tôi là
bù nhìn. Nếu bị kết án bù nhìn chẳng
những cá nhân chúng tôi phải chịu đựng chỉ
trích mà cả chính nghĩa của Miền Nam Việt Nam cũng
vì thế mà bị suy tổn. Chúng tôi cho rằng chỉ
có thể để Hoa Kỳ can thiệp bằng quân sự nếu quả thật
đã đến đường cùng và chẳng còn biện
pháp nào khác hơn.
Vào tháng 3 năm 1965, tuy trong bụng lo lắng nhưng
tôi vẫn nghĩ rằng Hoa Kỳ có lẽ sẽ chánh thức
yêu cầu chánh phủ Việt Nam thỏa thuận cho họ đổ quân
vào Việt Nam. Lúc này, có thể việc Hoa Kỳ
yêu cầu đổ quân là một việc hợp lý vì
họ có thể xin chánh phủ Việt Nam chánh thức cho
phép họ bảo vệ các căn cứ của Hoa Kỳ đã được thiết
lập ở phía bắc bờ biển Đà Nẵng. Tuy đã biết trước
vấn đề yêu cầu, nhưng thời khóa biểu chất chồng đã
khiến tôi chẳng thể dành hết mọi thì giờ mà
nghĩ tới chuyện này. Tôi chỉ tự nhủ thầm rằng sẽ có
lúc tôi tìm cách đưa vấn đề này
vào chương trình nghị sự của các buổi họp hỗn hợp
hàng tuần giữa đại sứ Taylor và bác sĩ
Quát. Như tôi đã trình bày khi trước,
phần lớn các chương trình nghị sự đều do tôi
và ông Manfull soạn thảo.
Nhưng biến cố đã đi ra ngoài sự tiên liệu của
tôi. Rạng ngày mùng 8 tháng 3, tôi
bỗng nhận được điện thoại của bác sĩ Quát mời đến
nhà ông lập tức vì có việc cần. Khi
tôi đến nơi thì ông Melvin Manfull đã
có mặt. Nhà ngoại giao Hoa Kỳ trông có vẻ
bình thản nhưng bác sĩ Quát thì có
vẻ căng thẳng trông thấy. Chưa mời tôi ngồi, bác sĩ
Quát đã nói rằng Thủy Quân Lục Chiến Hoa Kỳ
đã đổ bộ vào Đà Nẵng. Tình hình
đòi hỏi tôi và ông Manfull phải viết một bản
báo cáo hỗn hợp để xác nhận là chánh
phủ Việt Nam đồng ý cho phép Thủy Quân Lục Chiến
của Hoa Kỳ đổ bộ vào Việt Nam. Bác sĩ Quát nhắn
tôi: "Biên càng ngắn càng tốt. Chỉ mô
tả sự kiện rồi khẳng định rằng chúng ta đã đồng ý
mà thôi."
Vì tôi đã đoán trước việc tướng Westmoreland
sẽ yêu cầu đổ quân, nên những tin tức mới nhất
này không hề làm tôi ngạc nhiên, nhưng
khung cảnh bất ngờ và thiếu chuẩn bị đã làm
tôi bực mình. Tôi nắm tay bác sĩ Quát,
dẫn ông vào phòng kế cận, hỏi: "Có việc
gì đặc biệt xảy ra mà chúng ta chưa biết
không? Tại sao họ lại hành động bất ngờ như vậy?"
Bác sĩ Quát cố giữ bình tĩnh, nhưng giọng
ông vẫn thật căng thẳng: "Anh ơi, họ đang đổ bộ vào bờ
biển. Họ đã lên bờ rồi. Anh hãy thảo ngay bản
thông cáo rồi chúng ta sẽ bàn luận chuyện
này sau!"
Trong vòng nửa tiếng đồng hồ, tôi và ông
Manfull đã soạn thảo xong bản thông cáo hỗn hợp
thông báo việc hai tiểu đoàn Thủy Quân Lục
Chiến Hoa Kỳ đã đổ bộ "với sự thỏa thuận của chánh phủ
Việt Nam." Khi nhà ngoại giao Hoa Kỳ vừa đi khỏi, tôi
lại
trở lại ngay vấn đề và hỏi bác sĩ Quát. Ông
Quát cho biết nhiều ngày trước đây, ông
và đại sứ Taylor có "trao đổi ý kiến" về vấn đề
cần phải gia tăng việc phòng thủ Việt Nam. Trong cuộc
trao đổi
ý kiến sơ khởi, đại sứ Taylor có đề cập đến vấn đề
Thủy
Quân Lục Chiến Hoa Kỳ đổ bộ. Theo lời bác sĩ Quát
thì đây chỉ mới là vấn đề trao đổi ý kiến
tổng quát. Ông cũng cho biết rằng lúc thảo luận
ông đã đưa ý kiến rằng ông rất ngần ngại nếu
người Mỹ phải trực tiếp can thiệp vào chiến tranh Việt
Nam.
Trong cuộc thảo luận tuy bác sĩ Quát chưa yêu cầu
Hoa Kỳ đổ quân nhưng ông cũng chưa tỏ ý chống đối.
Bác sĩ Quát cho biết đại sứ Taylor đã "đồng
ý với phần lớn các quan điểm của ông."
Khi tôi hỏi tại sao chúng tôi lại phải đương đầu với
một biến chuyển đột xuất như vừa rồi thì bác sĩ
Quát trả lời rằng: "Tôi nghĩ chính đại sứ Taylor
cũng phải ngạc nhiên. Khi sáng ông ta có viện
lẽ rằng đây chẳng qua chỉ là một vấn đề do tình
hình ở các căn cứ không lực bắt buộc vào
lúc này."
Hôm sau, các tờ báo Sài Gòn đã
đăng tải những hình ảnh khác hẳn những biến động bất
ngờ
đã đến với chúng tôi ngày hôm trước.
Hình ảnh các binh sĩ Thủy Quân Lục Chiến Hoa Kỳ
được các thiếu nữ mặc áo dài mang vòng hoa
đón tiếp nồng nhiệt được đăng ngay trong những trang
đầu. Theo
các hình ảnh đăng tải thì đây có vẻ
là một cuộc đón tiếp chánh thức và trọng
thể. Mấy ai biết rõ sự thật ẩn sau những vòng tay
chào đón rộng mở và những khuôn mặt hớn hở
tươi vui? Theo tài liệu của ông Bundy, và hồi
ký của các ông Alexis Johnson, Taylor và
Westmoreland thì chính bản thân đại sứ Taylor cũng
"vô cùng ngần ngại" khi đồng ý việc đổ quân.
Vào ngày 22 tháng 2-1965, ông Taylor cũng
đã trình bày quan điểm "dè dặt" của
ông Quát với bộ ngoại giao. Ông Bundy viết rằng:
"Đại sứ Taylor dứt khoát khước từ vấn đề Hoa Kỳ đổ
quân.
Ông chống đối tất cả mọi cuộc đổ quân bất kể quân số
và chỉ đồng ý có thể để một lực lượng an ninh
[dùng vào việc phòng thủ các căn cứ
Không Lực ở Đà Nẵng.]"
Theo lời tường thuật của ông Bundy thì đại sứ Taylor
đã suy luận rất minh bạch về những bất lợi gây ra khi
quân đội Hoa Kỳ nhập cuộc. Tuy nhiên, vào
ngày 24 tháng 2, chỉ 2 ngày sau, tướng
Westmoreland đã gửi riêng một đề nghị về Hoa Thịnh Đốn
đòi hỏi 2 tiểu đoàn thủy quân lục chiến phải đổ bộ
cấp tốc vào Đà Nẵng để bảo vệ các căn cứ
không lực. Tướng Westmoreland cũng nhắn thêm rằng đại
sứ
Taylor đã đồng ý với ông về việc này.
Đề nghị của tướng Westmoreland được chuyển đến Bộ Tổng
Tham Mưu rồi Bộ
Tổng Tham Mưu lại nhân cơ hội yêu cầu một lữ đoàn
viễn chinh gần 5000 binh sĩ bao gồm cả pháo binh và
chiến
đấu cơ yểm trợ. Theo lời Phó đại sứ Johnson thì khi
nghe
tin cả đại sứ Taylor cùng ông đều "kinh ngạc." Kế
hoạch đổ
quân của Bộ Tổng Tham Mưu lần này vượt xa tầm mức
quân sự cần thiết và là điều họ chưa hề tưởng đến
bao giờ. Họ nhất định bác bỏ đề nghị đổ quân. Đêm
đó, một giải pháp dung hòa được thông qua.
Trong giải pháp này, cả Phó đại sứ Johnson lẫn đại
sứ Taylor đều đồng ý cho phép 3500 Thủy Quân Lục
Chiến được đổ bộ vào Việt Nam. Họ quyết định thật
"lưỡng lự"
và chỉ thỏa thuận với điều kiện đây là con số tối
đa. Hơn nữa, họ còn nhấn mạnh khi những đội quân Việt
Nam
đã đủ sức thay thế thì những đội quân Hoa Kỳ phải
rút lui ngay. Vào ngày 26 tháng 2 Bộ Quốc
Phòng chuyển lời đề nghị lên tổng thống trong một bữa
ăn
trưa. Trong bữa ăn trưa, tổng thống Johnson đã đồng ý
chấp thuận lời yêu cầu. Theo ông Bundy thì
vào lúc này chánh phủ Hoa Kỳ chưa hề tham
khảo ý kiến Bộ Ngoại Giao.
Diễn biến cho thấy ngay trong nội bộ Hoa Kỳ đã có một
hố
ngăn cách lớn lao. Những cơ quan quân sự không hề
ngần ngại khi cần hành động ngược lại với quan niệm
của
các cơ quan dân sự hoặc tự ý liên lạc với
tổng thống. Việc đổ bộ hiển nhiên là việc đại sứ
Taylor
không hề hay biết. Các nhân viên tham mưu
chẳng thèm đoái hoài gì đến việc
thông báo trước với ông. Khi việc đổ quân xảy
ra bất ngờ, đại sứ Taylor vô cùng phẫn nộ. Cuộc cãi
vã giữa ông và tướng Westmoreland găng cho đến mức
ông đã nhắc nhở tướng Westmoreland về vấn đề ai giữ
chức
vụ quan trọng hơn ai. Đại sứ Taylor còn phẫn khích hơn
khi khám phá được rằng lúc đổ quân, những
đội quân Thủy Quân Lục Chiến đã mang theo cả xe
tăng, đại pháo lưu động và nhiều khí cụ nặng
khác mà nếu đem dùng vào việc "phòng
thủ căn cứ" thì quả là một điều hoàn toàn
vô lý.
Có lẽ đại sứ Taylor đã cảm thấy mình bị qua mặt.
Ông đã bác bỏ giải pháp quân sự, rồi
lại gượng gạo đồng ý cho phép một tiểu đoàn Thủy
Quân Lục Chiến phòng vệ đóng ở Đà Nẵng
vào lúc đầu. Sau đó lại cho phép một tiểu
đoàn thứ hai đổ vào để bảo vệ tiểu đoàn thứ nhất.
Chỉ mới thoáng một cái mà quân số hai tiểu
đoàn đã lên đến 3500. Chẳng những thế, cả đại sứ
Taylor lẫn Phó đại sứ Alexis Johnson đều cho là
mình hãy còn may mắn đã giới hạn được con
số quân nhỏ như vậy. Chỉ vẻn vẹn hai ngày sau, tin tức
về
việc đổ quân lại lan ra khiến cho các đồng nghiệp của
đại
sứ Taylor ở Bộ Ngoại Giao không tài nào có
đủ thời giờ hoặc cơ hội xem xét lại những đề nghị của
các
viên chức tham mưu quân sự. Để kết thúc quá
trình, các tham mưu trưởng đã không
báo trước với ông về việc đổ bộ. Hơn nữa, khi các
đội binh thủy quân lục chiến đổ bộ, họ đã ào ạt
ùa vào chẳng khác nào cuộc đổ bộ vào
bãi biển Iwo Jima hồi Đệ Nhị Thế Chiến thay vì chỉ đổ
bộ
một cách kín đáo như đại sứ Taylor đã nghĩ.
Theo các tài liệu thì dù rằng ở giai đoạn
nào, đại sứ Taylor cũng rất ngần ngại khi phải để Hoa
Kỳ đổ
quân chánh thức tham dự chiến cuộc. Tuy vậy, ý kiến
của ông đã bị Hoa Thịnh Đốn bác bỏ và cuối
cùng, vì không còn đường chọn lựa, đại sứ
Taylor đành phải miễn cưỡng đi theo. Việc đại sứ
Taylor đột ngột
thay đổi quan niệm chính là vì ý kiến của
ông đã bị bác bỏ. Và cũng vì vậy
mà ông đã phải yêu cầu bác sĩ
Quát chấp thuận quyết định của Hoa Kỳ, trong khi trên
thực
tế thì quyết định đã được chấp hành trước cả
lúc ông bắt đầu ngỏ lời yêu cầu. Hậu quả tai hại của
những biến cố bất ngờ ngày càng lộ rõ. Vấn đề liệu
bác sĩ Quát có thể trì hoãn hoặc
bác bỏ được cuộc đổ quân hay không lại là một
vấn đề khác. Bản thân bác sĩ Quát cũng
là người mới nắm quyền và quyền lực của ông
còn phụ thuộc rất nhiều vào quân đội. Thực sự
thì tuy bác sĩ Quát chưa chính thức
bác bỏ việc đổ quân mà đã bị đặt vào
một tình trạng của sự đã rồi. Đại sứ Taylor đã
trình bày thành thực rằng quân Hoa Kỳ sẽ chỉ
đóng một vai trò phòng vệ hạn hẹp. Hơn nữa, vấn đề
đóng quân chẳng qua chỉ là một vấn đề tạm thời.
Bác sĩ Quát đã đồng ý thỏa thuận việc đổ
quân. -Ít ra cũng là đồng ý thỏa thuận
vào giai đoạn này. Có lẽ bác sĩ Quát
nên hành động khác, nhưng nhìn lại
tình hình lúc đó, tôi không thể
tự dối mình mà bảo rằng nếu bác sĩ Quát
có hỏi thì tôi đã cho ý kiến
khác. Trong tình cảnh chánh phủ mới lúc
đó vừa nắm quyền và hãy còn mơ hồ, hẳn
nhiên việc chúng tôi có thể chống đối khi Hoa
Kỳ tự ý hành động đã hẳn là một việc
không hề thực tế.
Tuy nhiên một khi quyết định can thiệp đã được thực
thi
thì những diễn biến tuần tự kế tiếp chỉ là những bước
cố
định nằm trong một tiến trình bắt buộc. Vấn đề can
thiệp
quân sự và can thiệp chính trị thật chẳng
khác nào việc thụ thai. Vấn đề có "thụ thai nửa
chừng" chỉ là một vấn đề lệch lạc và ảo tưởng. Chỉ mới
hai tuần sau khi 3500 Thủy Quân Lục Chiến đổ bộ vào
Đà Nẵng thì Tư Lệnh quân đội Harold K. Johnson
đã gửi lời yêu cầu tổng thống Johnson xin phép cho
thêm ba sư đoàn bao gồm hai sư đoàn Hoa Kỳ
và một sư đoàn Đại Hàn đổ vào Việt Nam để
tăng viện. Đại sứ Taylor lại bác bỏ. Khi trót thỏa
thuận
việc cho phép Thủy Quân Lục Chiến Đổ Bộ, đại sứ Taylor
đã bị viễn ảnh can thiệp lớn rộng của Hoa Kỳ ám ảnh
dằn
vặt và phải chịu đựng rất nhiều đau khổ. Tuy tôi
không rõ đích thực bác sĩ Quát
cùng ông Taylor bàn luận ra sao nhưng bác sĩ
Quát đã nhiều lần cho biết rằng ông và đại
sứ Taylor cùng đồng quan điểm về vấn đề phải giới hạn
vai
trò của Thủy Quân Lục Chiến ở Đà Nẵng.
Đại sứ Taylor đã trả lời những yêu cầu của tướng
Harold
Johnson bằng cách đánh điện tín về Tòa Bạch
Ốc rằng ông nhất định không đi xa hơn con số Thủy
Quân đang đóng ở Đà Nẵng. Vào tháng
ba, khi được triệu hồi về Hoa Thịnh Đốn, ông vẫn khăng
khăng, một
mực quyết định giữ vững lập trường. Hiển nhiên là
lúc này đại sứ Taylor đanh tranh luận kịch liệt
cùng tướng Westmoreland và các nhân
viên tham mưu quân sự về vấn đề đổ quân bành
trướng các lực lượng quân sự của Hoa Kỳ ở Việt Nam.
Tuy
thế, đại sứ Taylor không phải là người duy nhất ra mặt
chống đối. Gần như tất cả những nhân viên dân sự ở
Hoa Thịnh Đốn cũng đều chống đối như ông.
Vào ngày 1, tháng 4, trong một cuộc họp hội đồng
an ninh quốc gia, tổng thống Johnson đã cho cả hai
bên,
các cố vấn quân sự cũng như các cố vấn dân sự
một phần những điều họ đòi hỏi. Thay vì 2 sư đoàn
như những sĩ quan tham mưu đã yêu cầu, tổng thống chỉ
thỏa
thuận cho phép hai tiểu đoàn Thủy Quân Lục Chiến
được đổ bộ vào Việt Nam mà thôi. Theo ông
Bundy thì việc giới hạn quân số là do đại sứ Taylor
cùng nhiều nhân viên dân sự khác
đã hết lòng can gián. Tuy thế, để đổi lại vấn đề
cắt giảm quân số, những đội quân Hoa Kỳ đóng ở
Đà Nẵng lại được phép nới rộng hoạt động thay vì
chỉ được phép "phòng vệ căn cứ" như đã đề ra
lúc đầu. Lúc này các đội quân được
phép đóng một vai trò "chủ động hơn" trong cuộc
chiến. Hơn nữa, những đội thủy quân lục chiến mới sẽ
được hai
mươi ngàn nhân viên binh nhu và quân cụ
đi theo yểm trợ. Đây tuy là giải pháp dung
hòa nhưng đại sứ Taylor vẫn giữ được thế thượng phong.
Ít
nhất ông cũng đã trì hoãn được phần
nào các cuộc đổ quân khổng lồ của Hoa Kỳ vào
Việt Nam. Trong tất cả các quyết định kể trên, quyết
định
quan trọng nhất là quyết định cho phép các đội
quân Thủy Quân Lục Chiến nới rộng và bành
trướng phạm vi hoạt động. Quyết định này đã khiến quan
niệm "phòng vệ căn cứ," nguyên là yếu tố
chính của cuộc đổ quân lúc đầu chuyển thành
"chiến lược bao bọc," một chiến thuật cho phép các đội
quân Thủy Quân Lục Chiến được phép chiến đấu trong
phạm vi 80 cây số quanh căn cứ. Hơn nữa, khi tình
hình khẩn cấp, các đội quân của Hoa Kỳ còn
có thể chiến đấu nếu có lời yêu cầu của
chính phủ Việt Nam. Đây là lần đầu tiên
các lực lượng Hoa Kỳ được phép đóng một vai
trò chủ động trên chiến trường Việt Nam.
Vào thượng tuần tháng 4, đại sứ Taylor trở lại Sài
Gòn để yêu cầu bác sĩ Quát "cùng thỏa
thuận" với quyết định của Hội Đồng An Ninh Quốc Gia
của Hoa Kỳ về việc
gia tăng các đội quân tiếp tế và tăng cường
trách nhiệm của các đội quân Hoa Kỳ. Đầu tiên
bác sĩ Quát chưa hiểu rõ được tình
hình. Lúc này chúng tôi hoàn
toàn mù tịt về việc Hoa Kỳ sắp mang thêm 20,000
quân yểm trợ và sắp bành trướng cả quân số
lẫn nhiệm vụ của các đội quân Hoa Kỳ. -Chỉ mới hai
tuần lễ
trước, chúng tôi đã ngạc nhiên về việc hai
tiểu đoàn Hoa Kỳ đổ bộ và đã biết rất rõ
đại sứ Taylor không hề hưởng ứng vấn đề đổ quân, thế
mà giờ đây chính ông lại đưa ra những
chính sách hoàn toàn đi ngược lại với những
quan niệm khi trước.
Đại sứ Taylor là người già giặn kinh nghiệm ngoại
giao,
nhưng dĩ nhiên ông vẫn không cho chúng
tôi biết những mâu thuẫn đã đưa đến giải pháp
dung hòa của Hội Đồng An Ninh Quốc Gia Hoa Kỳ. Hơn
nữa,
chính chúng tôi cũng chẳng biết đây là
giải pháp dung hòa. Tất nhiên đại sứ Taylor
khó thể tiết lộ rằng: "Thật ra, chúng tôi cũng bối
rối như các ông về việc lo liệu cho tình
hình được khả quan hơn. Chúng tôi cũng chẳng biết
nên làm gì và cũng đang bàn
cãi sôi nổi. Đây có lẽ là giải
pháp hoàn hảo nhất của chúng tôi tuy rằng
riêng tôi vẫn không ủng hộ giải pháp
này." Vì vừa mù tịt về những quá
trình dẫn đến kế hoạch của Hoa Kỳ, lại vừa chẳng biết
gì
về những dự định, toan tính thực tiễn của giải pháp
cuối
cùng nên chúng tôi khó thể lượng định
đúng mức hoặc hợp lý được giá trị của những kế
hoạch do Hoa Kỳ đưa ra.
Tuy vậy, chúng tôi vẫn nghĩ rằng có lẽ Hoa Kỳ đang
hành động theo một kế hoạch khéo léo kiện
toàn nào đó mà họ không muốn thố lộ.
Chúng tôi đã chẳng biết rõ chi tiết việc Hoa
Kỳ lượng định tình hình ra sao mà cũng chẳng
rõ những nhóm cố vấn đã xét đoán tầm
mức cần thiết của chúng tôi là thế nào mặc
dù hơn ai hết chúng tôi biết rất rõ những
nhu cầu của chính mình. Điều chúng tôi cần
nhất là ổn định tình hình chính trị nội bộ
để có thể có cơ hội đóng góp vào
những cố gắng chiến tranh. Đây là điều kiện tiên
quyết căn bản dẫn đến việc giải quyết những vấn đề
khác như kinh
tế, chính trị, xã hội và quân sự trong việc
xây dựng tương lai lâu dài của đất nước.
Chúng tôi phải tìm cách vượt qua những vấn
đề đang đe dọa bao trùm lấy tất cả chúng tôi, chẳng
hạn như những lủng củng, hỗn loạn nội bộ, do ông Ngô
Đình Diệm và các tướng tá đã
gây ra. Dĩ nhiên chúng tôi rất cần những
giúp đỡ quân sự. Nhưng vào tháng 3 và
tháng 4 năm 1965, câu hỏi liệu Hoa Kỳ nên thực thi
những chánh sách giúp đỡ ra sao chính
là câu hỏi mà chúng tôi vẫn chưa thể
tự mình trả lời. Cả tôi lẫn bác sĩ Quát đều
không đồng ý việc phải Mỹ Hóa chiến tranh Việt Nam
nhưng vấn đề phải làm thế nào để có thể xử dụng
đúng cách những nỗ lực giúp đỡ của một đồng minh
khổng lồ là quả là vấn đề mà cho đến lúc
này chúng tôi mới bắt đầu suy nghĩ. Vào giữa
lúc đang suy xét vấn đề thì chúng tôi
đã phải đương đầu với những quyết định chuyển quân
ào ạt của Hoa kỳ.
Lúc đó chúng tôi không tài
nào hiểu được trọn vẹn mục đích thực thụ của những
yêu cầu do Hoa Kỳ đưa ra. Mặc dầu tin tưởng vô biên
vào khả năng của đồng minh Hoa Kỳ, chúng tôi vẫn
muốn biết họ đang suy nghĩ thế nào, nhất là trong việc
tìm hiểu cho rõ ràng, mạch lạc những lời yêu
cầu đổ quân ăn khớp ra sao với những kế hoạch lớn lao
của
toàn cuộc. Bác sĩ Quát cũng đã khổ
tâm không kém gì đại sứ Taylor vì việc
phải cùng lúc đối phó với cả những rối ren của
việc đổ quân lẫn những khó khăn xuất phát từ việc
Hoa Kỳ thiếu thành thật. Trong cơn bối rối, ông đã
nhờ tôi tìm hiểu dự định của Hoa Kỳ.
Lúc này tuy Việt Nam đã có đại sứ ở Hoa Kỳ,
đại sứ lại là tướng Trần Thiện Khiêm, người đã
giúp tướng Khánh đảo chánh và cũng
chính là người đã đưa ông Khánh sang
Hoa Kỳ sau khi chánh quyền tướng Khánh bị lật đổ.
Tướng
Khiêm nguyên là một nhân vật có nhiều
thủ đoạn nhưng lúc đó ông vừa mới tới Hoa Kỳ
và lại là một quân nhân nên sự hiểu
biết của ông về chính trị Hoa Kỳ thật là giới hạn.
Bởi thế, tôi bị buộc phải tìm hiểu từ những nguồn tin
phía trong Sài Gòn. Tôi liên lạc với
tất cả. Từ các nhân viên Ngoại Giao như đại sứ
Taylor, phó đại sứ Alexis Johnson, những bạn bè đang
phục
vụ trong các chương trình Hoa Kỳ cho đến những nguồn
tin
từ phía báo chí, nhất là những phóng
viên am hiểu tình hình của cả hai phía Mỹ
Việt chẳng hạn như phóng viên Jerry Rose của báo
The Saturday Evening Post. Tuy vậy tôi vẫn thấy mình
chẳng
khác nào một con ếch ngồi đáy giếng trong chuyện
ngụ ngôn, chỉ nhìn thấy một phần phiến diện, nhỏ bé
của thế giới bên ngoài và đến ngay cả những phần
này cũng bị méo mó, thiên lệch.
Dù sao đi nữa thì ngay khi tôi còn đang dự
định mở cuộc thăm dò rộng rãi thì tòa đại
sứ Hoa Kỳ ngỏ ý muốn chánh phủ Việt Nam trả lời về lời
yêu cầu đổ bộ thêm quân. Hậu quả là vào
ngày 6 tháng 4 năm 1965, vì chẳng còn
làm cách nào khác hơn được, bác sĩ
Quát đã bị buộc phải đồng ý thỏa thuận việc để Hoa
Kỳ đổ quân thêm và mở rộng tầm hoạt động của
các đội quân đã trấn đóng. Khi chánh
phủ hai bên đã đồng ý thỏa thuận thì quyết
định tối quan trọng được thông qua: Quân đội Hoa Kỳ sẽ
đóng một vai trò độc lập trong cuộc chiến Việt Nam.
Đây chính là quyết định mà ông William
Bundy gọi là "một bước ngoặt" của toàn cuộc. Trong nội
bộ
Hoa Kỳ thì yếu tố chính dẫn đến quyết định này
là do cả thất vọng lẫn bối rối. Thất vọng vì không
biết phải làm gì và bối rối vì chẳng thể để
mặc tình hình bấp bênh như hiện tại. Lúc
này Hoa Kỳ đang phải đương đầu với những đòi hỏi phải
có hành động thiết thực và giới lãnh đạo
quân sự -Các tướng William Westmoreland, Harold
Johnson
và các tư lệnh tham mưu- đã cho rằng vấn đề phải
can thiệp quân sự là việc dĩ nhiên. Ngược lại,
các lãnh đạo dân sự lại cho rằng để quân đội
Hoa Kỳ can thiệp không phải là một giải pháp
đúng để giải quyết vấn đề. Tuy thế các nhà
lãnh đạo dân sự lại chẳng biết làm gì hơn
là tự nhủ thầm phải canh chừng hết sức thận trọng để
khi cần
thì đánh đổi những nguyên tắc căn bản ban đầu
mà chọn lấy những giải pháp dung hòa. Trong khi
đó thì chánh phủ Việt Nam lại là một
chánh phủ mới vừa nắm quyền, chưa thể củng cố được nội
bộ
và chẳng thể làm gì khác hơn là nhắm
mắt đi theo. Chánh phủ Việt Nam là một chánh phủ
thiếu thốn cả từ quyết tâm cho đến khả năng để có thể
chịu
đựng được áp lực của Hoa Kỳ. Đối với Hoa Kỳ thì vấn đề
cần phải có sự hiểu biết song phương có lẽ là
chuyện không cần thiết, trong khi đối với chúng tôi
là những đồng minh nhỏ bé thì việc đòi hỏi
phải có sự thông cảm và hiểu biết song phương lại
là việc hoàn toàn nằm ngoài tầm với.
Những tiến trình của các kế hoạch do Hoa Kỳ đặt ra cứ
nối
tiếp theo nhau trong một khung cảnh gần như áp đặt,
Hết "Oanh
Tạc Không Lực," rồi "Tấn Công Để Phòng Thủ,"
và rồi cuối cùng "Trực Tiếp Can Thiệp Bằng Quân
Sự." Chỉ khoảng chín tháng sau, các đội quân
Thủy Quân Lục Chiến ban đầu đã chuyển thành một
quân đội với tổng số 200,000 quân bao gồm cả các
binh lính Hoa Kỳ lẫn những binh lính từ những đồng
minh
khác. Tất cả đều đến Việt Nam vì những lý do tương
tự như những lý do vừa kể. Mục đích chính của
quyết định do tổng thống Lyndon Johnson đưa ra vào
ngày 1
tháng 4 là tiếp trợ quân nhu, khí cụ, gia
tăng quân số và phạm vi hoạt động của những đội quân
Thủy Quân Lục Chiến để yểm trợ Việt Nam. Nếu đây quả
là một giải pháp dung hòa thì cách
giải quyết này cũng vẫn không phải là một giải
pháp vĩnh cửu. Vào ngày 11 tháng 4,
vì không bằng lòng với lời yêu cầu của Bộ
Tổng Tham Mưu, tướng Westmoreland đã điện thoại cho
Thủy Sư
Đô Đốc Ulysses Grant Sharp, Jr., tổng tư lệnh của hạm
đội
Thái Bình Dương, nói rằng ông vẫn cần
thêm ít ra là một lực lượng vào cỡ sư
đoàn không lực 173 của quân đội Hoa Kỳ lúc
đó. Sau những cuộc bàn bạc giữa những nhân vật
lãnh đạo quân sự cao cấp, vào ngày 14
tháng 4, Bộ Tổng Tham Mưu đã ra lệnh cho sư đoàn
không lực 173 đóng quân ở Việt Nam.
Khi trở lại Sài Gòn sau những cuộc tranh cãi quyết
liệt ở Hoa Thịnh Đốn, đại sứ Taylor cho rằng tổng
thống Johnson
đã đồng ý giảm thiểu và giới hạn những can thiệp
quân sự. Tuy thế, khi nhìn thấy rõ rằng trong thực
tế vấn đề lại khác hẳn, đại sứ Taylor cảm thấy vô
cùng khó chịu. Trong một bức điện gửi đến Ngoại Trưởng
Dean Rusk tuy với lời lẽ nhẹ nhàng, đại sứ Taylor vẫn
không dấu hết được cảm giác bực tức. Ông điện rằng:
"Gần đây, những hành động liên quan đến việc đổ
quân đã khiến tôi có ấn tượng về thái
độ nóng nảy của một vài cơ quan về vấn đề cần phải đổ
quân vào Việt Nam. Đây quả là một thái
độ thật là khó hiểu... Hành động của các cơ
quan này hoàn toàn tương phản với những
chính sách Hoa Thịnh Đốn đã đề ra [vào
ngày 1 tháng 4]."
Hôm sau, đại sứ Taylor nhận được điện tín trả lời của
Phụ
Tá Bộ Trưởng Quốc Phòng John McNaughton. Lời lẽ của
bức
điện chẳng hề làm ông suy giảm phẫn nộ: "Giới lãnh
đạo tối cao tin rằng tình hình Miền Nam Việt Nam đang
tan
rã. Để hỗ trợ cho những cuộc tấn công Miền Bắc,
chúng ta phải có một hoạt động nào đó
giúp Việt Nam đạt được thắng lợi. Ngoài những đề nghị
khác bản điện tín còn có kèm theo cả
những lời đề nghị yêu cầu đại sứ Taylor thỏa thuận
việc chuyển
quân nhanh chóng của sư đoàn không lực 173.
Sau này phó Đại Sứ Alexis Johnson đã viết
thêm rằng: "Chúng tôi hoàn toàn tối
tăm mặt mũi vì những hồ sơ đề nghị. Cuộc đổ quân ồ ạt,
gần
như thể một con đê đã vỡ toang hoác khiến những
người 'chậm chạp' như chúng tôi chẳng thể sửa chữa
hoặc
ngăn chận kịp thời."
Vào ngày 17 tháng 4, để đối phó với những
biến chuyển không hoàn toàn như ý, đại sứ
Taylor đã gửi một bức thư dài cho cả hai ông Dean
Rusk ở Bộ Ngoại Giao và ông McGeorge Bundy ở tòa
Bạch Ốc. Trong bức điện tín, ông tường trình những
biến chuyển nhanh chóng và phức tạp của tình trạng
lúc này. Một trong những vấn đề ông Taylor
đã đề cập đến là việc bác sĩ Quát có
thể phản đối việc đóng quân. Ông đã viết
rằng: "Việc minh xác tầm mức cần thiết trong vấn đề đổ
quân thật vô cùng quan trọng. Trước khi đặt vấn đề
của chúng ta ra với chánh phủ Việt Nam, tôi phải
biết rõ ràng vấn đề là gì và
lý do ra sao. Việc thuyết phục chánh phủ Việt Nam thỏa
thuận cho phép một lực lượng với quân số lớn lao đến
đóng ngay trong lãnh thổ Việt Nam nhất định sẽ phải
gặp
nhiều khó khăn trừ khi lý do cần thiết đã trở
nên rõ ràng và minh bạch."
Những khác biệt trong quan niệm của đại sứ Taylor và
bộ
tham mưu đã đưa đến một cuộc họp căng thẳng vào
ngày 19 tháng 4 ở Honolulu. Cuộc họp do Bộ Trưởng Quốc
Phòng Robert McNamara chủ tọa và bao gồm nhiều nhân
vật lãnh đạo như đại sứ Taylor, ông William Bundy
và ông McNaughton. Sau hai ngày bàn
cãi "quyết liệt", đại sứ Taylor đã bị thuyết phục ngả
theo ý kiến chung về việc đề nghị gia tăng quân số
(tới
82,000) và về sự thỏa thuận đề nghị một số quân khoảng
7250 binh sĩ từ "một đệ tam quốc gia." Theo ông Alexis
Johnson
thì đây là một sự "đồng ý miễn cưỡng." Lại
thêm một lần nữa đại sứ Taylor đã nhượng bộ những ý
kiến riêng của ông để đổi lại một giải pháp dung
hòa. Theo như sự thỏa thuận thì những lực lượng Hoa Kỳ
không được phép tự do tấn công và chỉ
có thể hoạt động trong những vùng ven biển quanh căn
cứ.
Lúc này theo ông Bundy thì những quân
nhân Hoa Kỳ tin rằng việc giới hạn tầm hoạt động của
các
đội quân sẽ được chấp hành nghiêm chỉnh. Nhưng
ông Bundy cũng nói thêm: "Những giới hạn bắt buộc
quân đội phải tự khống chế các hoạt động có thể sẽ
khiến những viên chức quân sự phục vụ trong quân đội
[Hoa Kỳ] mang một quan niệm bi quan hơn (và thực tiễn
hơn) về
những gì có thể xảy ra." Đối với những người Việt Nam
thì tháng 4 là tháng của những yêu
cầu liên tiếp từ phía Hoa Kỳ. Theo như nghị định do
Hội
Đồng An Ninh Quốc Gia Hoa Kỳ đưa ra, bác sĩ Quát
đã chấp thuận việc đóng quân của những tiểu
đoàn Thủy Quân Lục Chiến và 20,000 quân tiếp
trợ. Một tuần lễ sau đó, dư luận lại đồn đãi về việc
đòi hỏi các đồng minh khác phải thêm
quân tiếp trợ. Trong khi đại sứ Taylor nỗ lực giới hạn
những kế
hoạch lớn lao đang lũ lượt gởi đến từ Hoa Thịnh Đốn
thì
tâm trạng bác sĩ Quát ngày càng lo
âu. Cho tới lúc này, tuy vẫn vô cùng
ngần ngại, ông vẫn bị buộc phải ngả theo tình thế.
Theo
tôi thấy thì bác sĩ Quát cũng đã biết
rõ ràng sự can thiệp của những đội quân Thủy
Quân Lục Chiến là một sự can thiệp chỉ có
tính cách tạm thời. Tuy chỉ có rất ít binh
sĩ Hoa Kỳ hiện diện ở Việt Nam vào lúc này, việc
đòi hỏi gia tăng thêm quân lực hiển nhiên
là việc sắp đến. Nhưng ngoài cách thỏa thuận ra
chúng tôi còn có thể phản ứng bằng
cách nào khác hơn chăng? Trước tiên
thì câu trả lời dường như phụ thuộc vào việc lượng
định tình hình quân sự của các giới chức
quân sự Việt Nam. Nếu vòng đai phòng vệ của Việt
Nam đang tan vỡ vì những cuộc tấn công của cộng sản
Bắc
Việt thì hẳn nhiên chúng tôi không
còn đường chọn lựa. Mặt khác, nếu các giới chức
quân sự nghĩ rằng tình thế vẫn còn khả quan hơn vậy
thì chúng tôi sẽ có cơ hội chống trả lại
áp lực của Hoa Kỳ một cách hữu hiệu hơn.
Khi đại sứ Taylor từ Honolulu trở về Việt Nam thì tôi
đã bắt đầu tham khảo ý kiến của các tướng
lãnh Việt Nam. Vào ngày 24 tháng 4, đại sứ
Taylor tường thuật cho bác sĩ Quát những ý kiến
chung rút ra từ những cuộc tranh cãi ở Hawaii. Lúc
này bác sĩ Quát đã hiểu rõ sự
nghiêm trọng của những biến chuyển sắp tới. Thật sự
thì từ
nhiều tuần trước đây, ông đã dành rất nhiều
thời giờ để suy nghĩ. Khi đại sứ Taylor đến gặp ông
Quát
để nâng số quân Hoa Kỳ ở Việt Nam lên đến 82,000,
bác sĩ Quát đã trả lời rằng ông cần thời giờ
để đo lường những ảnh hưởng chính trị và quân sự
nếu Hoa Kỳ gia tăng quân số ở Việt Nam. Ngay sau khi
đại sứ
Taylor vừa đi khỏi, ông Quát chạy ngay đến văn
phòng tôi. Lúc gặp tôi, dường như ông
không còn dấu được vẻ hốt hoảng. Ông hỏi ngay như
thể cố trút cả nỗi lo âu vào câu hỏi:
"Có chuyện gì ngoài chiến trường mà
chúng ta không biết rồi sao?" Vào lúc
này, bác sĩ Quát không còn tìm
được bất cứ lý do nào khác để giải thích
lời yêu cầu đổ quân của Hoa Kỳ với quân số to lớn như
vậy vào Việt Nam.
Những suy nghĩ của tôi cũng chẳng lấy gì làm
khác bác sĩ Quát. Mặc dù vừa mới hội họp
với các sĩ quan trước đấy mấy hôm, hiển nhiên
chúng tôi lại phải tham khảo với họ chi tiết hơn
thêm một lần nữa trước khi có thể quyết định bất cứ
chuyện
gì.
Cuối tuần đó, tôi và bác sĩ Quát liền
bắt đầu ngay những buổi họp liên tục với tất cả các vị
chỉ
huy cao cấp của Việt Nam. Chúng tôi đã tham khảo
ý kiến của riêng từng người về việc lượng định tình
hình quân sự về cả các giai đoạn ngắn hạn cũng như
dài hạn. Ngoài ra chúng tôi còn
trình bày thêm những nghi ngờ của riêng
chúng tôi cũng như tham khảo ý kiến của các
tướng lãnh về vấn đề này. Vì chánh quyền
Việt Nam lúc này vẫn chưa có cơ quan nào
có thể ví như Hội Đồng An Ninh Quốc Gia để xem xét
những vấn đề quan trọng nên những những cuộc thảo luận
của
chúng tôi không mang tính cách
chánh thức. Nhưng dù sao đi nữa thì những quan
niệm của chúng tôi vẫn phản ảnh trung thực ý kiến
chung của các chính trị gia và các tư lệnh
Việt Nam lúc này. Tuy chẳng có gì
đáng gọi là thủ tục chánh thức về những cuộc tham
khảo, cả tôi lẫn bác sĩ Quát đều đã biết
rằng dù có nhìn tình hình bằng một
nhãn quan chánh trị hoặc quân sự đi chăng nữa
thì việc gạt bỏ những quan niệm của các tướng lãnh
vẫn không phải là việc dễ dàng. Hơn nữa,
chính bản thân chúng tôi cũng có những
sự ngần ngại riêng đối với vấn đề để cho Hoa Kỳ đổ
quân
vào Việt Nam. Với tư cách là Bộ Trưởng Phủ Thủ
Tướng, tôi thường phải đối phó với những vụ khiếu nại
và kiện tụng mỗi khi có những vụ rắc rối hoặc tai nạn
xe
cộ liên quan đến quân đội Hoa Kỳ. Vì thế, tôi
đã biết rất rõ những khó khăn đi đôi với vấn
đề gia tăng quân đội Hoa Kỳ. Tầm hiểu biết của tôi bao
gồm
từ những vụ tai nạn đơn giản như những tai nạn do xe
nhà binh
cán người cho đến những vụ vi phạm luật lệ xảy ra hàng
ngày. Hơn nữa, từ khi Pháp còn chiếm đóng,
tôi đã từng phải đối phó với những khó khăn
cũng liên quan đến những vấn đề tương tự như vấn đề
phàn
nàn Mỹ-Việt lúc này. Trước đây, trong những
cuộc đàm phán ở Élysée với Pháp
vào đầu thập niên 1950, trách nhiệm của tôi
lúc đó là tìm cách giải quyết những
vấn đề khó khăn khi phải thiết lập một lực lượng Việt
Nam để
Pháp có thể giao trả dần độc lập. Những cuộc thảo luận
lúc đó cũng là những phàn nàn
Pháp-Việt gần giống như vấn đề của quân đội Hoa Kỳ
và Việt Nam lúc này. Mặt khác, bác
sĩ Quát vốn vừa là Bộ Trưởng Quốc Phòng, vừa
là thượng cấp của tôi lúc trước nên cũng nhạy
cảm không kém gì tôi. Theo sự suy nghĩ của
chúng tôi thì có lẽ cả hai chúng
tôi đều quá nhạy cảm, có thể việc chúng
tôi ráo riết tham khảo ý kiến chẳng qua cũng chỉ
là do những kích động của sự nhạy cảm mà
thôi.
Việc tìm hiểu những câu trả lời của các giới chức
quân sự là việc mà chúng tôi có
thể đoán trước được phần nào. Theo tình
hình lúc này thì những giới chức quân
sự nhận định rằng: Tuy những trận chiến lớn sắp sửa mở
màn, Việt
Nam không hề ở vào bất kỳ tình cảnh ngặt
nghèo nào đáng kể. Nhưng những nhận định của họ về
tình hình lâu dài của chiến cuộc lại
hoàn toàn khác hẳn. Lúc này
đã có những đơn vị của ít nhất là hai sư
đoàn (sư đoàn 324 và 304) chính qui Bắc
Việt đang tấn công ráo riết vào Miền Nam và
mức độ xâm nhập đang ngày càng tăng. Hơn nữa,
vì thiếu thốn nhân lực và thời gian để huấn luyện
các binh sĩ, việc tăng cường quân đội để chống lại
những
lực lượng mới của Việt Cộng là một việc vô cùng
khó khăn. Sau khi thẩm định tình hình các
tướng lãnh đã kết luận rằng: Bất kể sự hiện diện của
những đội quân Hoa Kỳ có tạo ra khó khăn gì
đi nữa thì việc gia tăng quân đội Hoa Kỳ vẫn là một
lợi điểm lớn lao đối với Việt Nam.
Lạ lùng thay, phản ứng của các chính trị gia cũng
không khác các tư lệnh quân sự là mấy.
Một vài người quá khích đã lấy làm
thích thú về viễn ảnh của một cuộc chiến tranh chống
cộng
quốc tế. Vài người khác lại dễ dãi bỏ qua tất cả
những vấn đề thuộc mặt trái của cuộc đổ quân.
Khi lượng định những vấn đề khó khăn bác sĩ Quát
đã cho rằng những sĩ quan cao cấp đều chịu ảnh hưởng
của
các cố vấn quân sự Hoa Kỳ. Và vì vậy
nên nếu ý kiến của họ có trùng hợp với
ý kiến chung của các viên chức quân sự Hoa Kỳ
thì cũng là một việc dễ hiểu. Chẳng khác gì
những đồng nghiệp Hoa Kỳ, các tướng lãnh Việt Nam cũng
chỉ quan sát mọi việc qua ống kính quân sự hạn hẹp.
Sự huấn luyện và kinh nghiệm quân sự nghề nghiệp đã
làm giảm khả năng suy nghĩ của họ về những vấn đề
khác,
chẳng hạn như ảnh hưởng xã hội hoặc tâm lý của việc
gia tăng quân số Hoa Kỳ ở Việt Nam. Nhưng nếu lấy tiêu
chuẩn an ninh quốc gia làm chuẩn để suy xét thì
việc bác bỏ quan niệm của họ là một việc vô
cùng khó khăn. Và nếu lấy những suy xét
chính trị làm chuẩn thì việc bác bỏ những
suy xét của họ lại còn là việc viễn vông hơn
nữa.
Khi phải đương đầu với quyết định cuối cùng, bác sĩ
Quát hoàn toàn đơn độc. Vì là thủ
tướng của một quốc gia đang giữa lúc chiến tranh, ông
đã phải xử dụng uy quyền từ một chỗ đứng mong manh và
đầy
đe dọa. Đã có lúc bác sĩ Quát
nói với tôi rằng ở vào những giây phút
hiểm họa, ông chỉ còn biết trông chờ vào
"lương tâm cùng những linh tính chánh trị
của riêng bản thân ông." Có thể ông
đã bác bỏ những đề nghị của Hoa Kỳ trên phương diện
lý thuyết, nhưng những thực tế chính trường đã
khiến ông chẳng thể thoát khỏi những áp lực khủng
khiếp của Hoa Kỳ. -Đây là một điều mà những giới
chức quân sự phục vụ dưới quyền ông cũng cùng đồng
quan điểm.
Ở những giai đoạn cuối, bác sĩ Quát đã thực sự
hành động theo linh tính. Ông vẫn ôm ấp hy
vọng rằng rồi đây tình hình sẽ khả quan hơn
và lúc đó ông sẽ có khả năng để thay
đổi. Lúc đó, ông sẽ có một khả năng
khác hẳn trường hợp yếu thế lúc này. Vì suy
nghĩ như thế nên vào ngày 28 tháng 4,
bác sĩ Quát thông báo với đại sứ Taylor rằng
Việt Nam đã thỏa thuận lời yêu cầu mới của Hoa Kỳ.
Những
cánh cửa ngăn chận giờ đây đã được mở rộng.
Công bằng mà luận thì ngay cả cho đến lúc
những gia tăng quân sự đã khởi đầu, Tổng Thống Lyndon
Johnson và chánh phủ Hoa Kỳ vẫn muốn đàm
phán với Bắc Việt. Nhưng đối với chánh quyền Việt Nam
thì vấn đề bàn bạc những giải pháp hòa
bình cũng mờ mịt chẳng kém gì những ý định
của Hoa Kỳ về phương diện quân sự. Nếu nhìn từ một
cương
vị nhất định nào đó thì quyết định không
tham khảo ý kiến Việt Nam của Hoa Kỳ chẳng qua cũng dễ
hiểu.
Những quá khứ hỗn loạn và những tương lai mờ mịt của
Việt
Nam đã khiến chánh phủ Sài Gòn chẳng thể
đóng trọn vai trò của một đồng minh mà Hoa Kỳ
có thể tham khảo ý kiến về phương diện ngoại giao. Tuy
rằng những chánh sách của Hoa Kỳ có liên hệ
chặt chẽ đến vấn đề sinh tử của Việt Nam mà vì
hoàn toàn mù tịt về mọi vấn đề, nên
chánh quyền Việt Nam vẫn không đóng góp được
gì nhiều vào việc soạn thảo những giải pháp
chính trị cũng như quân sự.
Dĩ nhiên là chúng tôi vẫn thông
báo về những tiến triển của các giải pháp
hòa bình đang diễn ra công khai ở Hoa Kỳ. Chẳng hạn
như tin tức về những bài diễn văn của tổng thống
Johnson ở đại
học John Hopkins vào ngày 7 tháng 4, hoặc những
tin tức về quyết định ngưng dội bom vào ngày 10
tháng 5. Ngay cả vào những lúc sớm hơn, như
vào khoảng tháng ba, ông Alexis Johnson cũng
đã thông báo cho Ngoại Trưởng Trần Văn Đỗ về những
dự định trong việc kêu gọi một cuộc hội nghị khác ở
Geneva
do Anh Quốc và Liên Xô đứng ra làm chủ tọa.
Nhưng chúng tôi chỉ biết rất ít về những việc
bí mật quan trọng, chẳng hạn như những vụ thăm dò Bắc
Việt, những điều mà Hoa Kỳ đã ngầm đưa ra với đại sứ
J.
Blair Seaborn của Gia Nã Đại, nguyên là nhân
viên của phái đoàn kiểm soát quốc tế, hoặc
những tiếp xúc của Hoa Kỳ với đại sứ Trung Hoa ở
Warsaw,
và Mai Văn Bộ, đại diện của Bắc Việt ở Ba Lê. Chúng
tôi biết rằng Hoa Kỳ vẫn còn cố gắng tìm
tòi, dọ dẫm qua nhiều sự móc nối khác nhau, nhưng
chúng tôi chỉ có thể cho rằng những móc nối
bí mật chẳng qua chỉ là một trong những giải pháp
vận động thông thường mà thôi. Tuy chúng
tôi chẳng nghi ngờ gì Hoa Kỳ nhưng vấn đề thiếu hiểu
biết
dường như lúc nào cũng dẫn đến sự nghi kỵ.
Trong những diễn biến vừa kể, mặc cho Hoa Kỳ hết sức
dùng cả
những biện pháp công khai lẫn các biện pháp
bí mật, Hà Nội vẫn lạnh lùng ngoảnh mặt. Rốt cuộc,
vì chẳng thể ảnh hưởng gì được Hà Nội nên dư
luận lại trở về các đề tài chính trị hoặc
quân sự của chánh phủ Sài Gòn. Vào
mùa thu 1965, khi Hoa Kỳ đã quyết định Mỹ Hóa
Chiến Tranh Việt Nam thì họ trực tiếp vào cuộc bằng
cách áp đặt chính sách can thiệp dưới một
khung cảnh đột xuất và cao ngạo. Cách can thiệp
khác thường của họ đã khởi nguồn một câu chuyện
lịch sử thật dài và vô cùng quan trọng. Họ
vào cuộc với những mục tiêu rõ rệt: Giúp đỡ
đồng minh và cố gắng nuôi dưỡng, phát triển một nền
dân chủ độc lập ở Việt Nam. Giúp Việt Nam ổn định
và củng cố để chống lại cộng sản. Nhưng một khi những
chánh sách mang mục đích cao đẹp của họ thất bại
thì hậu quả đã di lại những tổn thương trầm trọng
và vĩnh cửu. Tôi không có ý kết
án rằng Hoa Kỳ phải một mình chịu nhận tất cả mọi
trách nhiệm và hậu quả. Đúng ra thì những
người lãnh đạo Việt Nam phải chịu phần lớn trách
nhiệm.
Ngoài những nhân vật lãnh đạo ra, trách
nhiệm thất bại có thể được qui một phần về những phần
tử quốc
gia đã chia rẽ quá mức trong thời gian chiến tranh.
Hậu
quả của sự chia rẽ đã khiến các đoàn thể quốc gia
suy nhược đến độ họ chẳng còn có thể tiếp tục tự vệ
khi
họ bị buộc phải tự mình đối phó với cuộc chiến.
Nhưng qua suốt 11 năm Hoa Kỳ can thiệp, nếu đứng trên
phương diện
ngoại giao mà luận thì những chính sách của
Hoa Kỳ quả đã gây ra rất nhiều hậu quả đáng tiếc.
Đầu tiên, trong thời gian vào khoảng đầu thập niên
1950, thì người Hoa Kỳ nhất định nhắm mắt không can
thiệp.
Họ đã an nhiên mục kích số phận thăng trầm của cả
hai giới độc tài dân cũng như quân sự của Việt Nam.
Khi ông Diệm nắm quyền thì tòa đại sứ Hoa Kỳ
đã đưa ra những chiêu bài "hợp pháp", "chưa
hợp thời" và cố tình để mặc những phần tử quốc gia tự
mình xoay sở trong khung cảnh bất lực. Rồi vào năm
1963,
khi các tướng lãnh đảo chánh ông Diệm
thì Hoa Kỳ gần như vẫn nhắm mắt làm ngơ và tuy
đã chấp thuận với đề nghị đảo chánh của các tướng
lãnh, nhưng nếu cần, Hoa Kỳ vẫn vui lòng chối bỏ sự
can
thiệp. Trong suốt cả một thập niên dường như họ đã cố
tình bưng mắt đứng ngoài, hoặc chỉ can thiệp nhẹ
nhàng cho có lệ. Cuối cùng, vào năm 1965,
ngay giữa khi Việt Nam đang gặp những khủng hoảng
chính trị
và đang ở vào lúc xáo trộn thì họ
lại quyết định rằng đó là lúc họ cần can thiệp
trực tiếp. Họ ào ạt đổ quân. Họ ra sức thiết lập
các căn cứ và tự đưa ra những chiến dịch oanh tạc. Họ
hành động một cách bất chợt và đơn phương,
không thèm đếm xỉa gì đến việc tham khảo ý
kiến của chánh phủ Việt Nam. Những hành động quyết
đoán và chủ quan của họ đã khiến họ tự dồn
mình vào một phương vị bế tắc. Rồi họ tự đi đến kết
luận:
Phải Mỹ Hóa chiến tranh Việt Nam. Và khi chính
sách của họ thất bại thì họ lại tháo lui thật phũ
phàng. Họ tự tìm lấy những giải pháp hòa
bình dễ dàng cho họ và bỏ mặc đồng minh -bất kể
đồng minh của họ là quốc gia nào- phải tiếp tục ở lại
chịu trận.
Vốn đã tình cờ hiện diện vào lúc Hoa Kỳ cố
tự tròng lấy trách nhiệm vào người, tôi cũng
lại tình cờ hiện diện vào lúc Hoa Kỳ cố cởi bỏ
những trách nhiệm họ đã tự tròng vào khi
trước. Có lẽ ngoại trừ phương pháp can thiệp khác
thường này, Hoa Kỳ chẳng thể còn bất cứ cách thức
can thiệp nào khác có thể hủy hoại đồng minh khốc
liệt hơn!
18.
Bác
Sĩ
Quát
và
Các Tướng Lãnh
Vào mùa xuân 1965 tuy những biến chuyển
chính trị đã chuyển chiến cuộc Việt Nam nguyên
là một cuộc nội chiến, thành một mâu thuẫn
có tính cách quốc tế, đây vẫn không
phải là biến cố độc nhất chiếm lĩnh tất cả những chú
ý của bác sĩ Quát. Khi bác sĩ Quát
bắt đầu nhậm chức thì ảnh hưởng của các tướng lãnh
và các hội đồng quân sự hãy còn rất
mạnh do đó ông đã chủ trương rằng phải nỗ lực cầm
cự vào lúc ban đầu. Ông đã cố ổn định
tình hình quân sự, cố đương đầu với những vấn đề
chia rẽ đảng phái ở Sài Gòn, cố bắt đầu những cuộc
ứng cử địa phương và soạn thảo hiến pháp. Tuy bác
sĩ Quát đã cố chuyển những nỗ lực đầu tiên về những
điều cơ bản trên, tình hình phức tạp và hỗn
loạn của chánh phủ dân-quân sự lúc đó
đã rối ren đến mức mọi chuyện gần như xảy ra cùng một
lúc. Tầm mức lớn lao của diễn biến đã vượt khỏi cả
phạm
vi chiến cuộc lẫn phạm vi của những hoạt động mà Hoa
Kỳ
đã tính toán lúc đó.
Những biến chuyển lúc này dập dồn chẳng khác
nào như tất cả mọi chuyện đều xảy ra cùng một lúc.
Bác sĩ Quát nhậm chức đã được bốn tháng
mà tôi vẫn có cảm tưởng như ông vừa mới nhậm
chức chỉ có vài ngày trước. Có lẽ ông
Henry Kissinger đã diễn tả đúng hệt tâm trạng
chúng tôi khi nói rằng chính trị gia
là những người luôn luôn bị buộc phải lựa chọn
vào những lúc họ không những chỉ mù tịt về
tương lai mà còn mù tịt cả về tình trạng
hiện tại nữa." Vào thời gian này, gần như tôi chưa
bao giờ có dịp để nhận định cho rõ được những phương
hướng tổng quát để làm việc cho hữu hiệu. Gần như
tôi chẳng bao giờ có đủ thời giờ, dù chỉ là
những khoảng thời giờ thật ngắn cho phép tôi suy nghĩ
thấu
đáo về căn nguyên của những vấn đề khó khăn.
Tuy tình cảnh rối ren, bận rộn và khó nhọc
là thế mà bác sĩ Quát vẫn quyết tâm
giữ vững những chủ định ban đầu. Ông Quát nhận định
rằng
vấn đề khó khăn chính của chính phủ trong thời
gian này là vấn đề của các tướng lãnh trẻ.
Nếu ông có thể thuyết phục các tướng trẻ chú
tâm vào tình hình chiến cuộc thay vì
chính trị thì ông cho rằng đã tiến được nửa
bước. Và nếu ông có thể hô hào khiến
họ làm hậu thuẫn thì đây quả là một bước vẹn
toàn. Tuy thế, vấn đề đối phó với các tướng trẻ
chẳng phải là nỗi lo âu duy nhất của bác sĩ
Quát. Ngoài vấn đề này ra ông còn
phải tìm cách xoa dịu những lực lượng chánh trị
đang hăm he gạt phắt chính phủ của ông ra ngoài.
Khi đương đầu với các tướng lãnh, bác sĩ
Quát đã có rất nhiều lợi điểm. Lợi điểm đầu
tiên của bác sĩ Quát là uy tín của
chính ông. Vì đã từng là Bộ Trưởng
Quốc Phòng, ông đã giữ được mối giao hảo với nhiều
sĩ quan chủ chốt và rất quen thuộc với những vấn đề
quân
sự khó khăn. Những kinh nghiệm đặc biệt về quân sự của
bác sĩ Quát đã khiến các tướng lãnh
coi ông khác hẳn các thành viên
dân sự khác. Họ xem ông là một người
đáng tin cậy và họ sẵn lòng cộng tác. Lợi
điểm thứ hai của bác sĩ Quát là kể từ tháng
2 năm 1965, đại sứ Taylor và ông Alexis Johnson đã
nói thẳng với các tướng lãnh rằng các tướng
lãnh chẳng thể vừa phục vụ quân đội, vừa hoạt động
chính trị được. Họ chỉ có thể chọn một trong hai, nếu
họ
muốn làm chính khách thì cũng chẳng
có gì khó khăn, chỉ cần họ cởi bỏ quân phục
và gia nhập hàng ngũ của những chính khách
là xong. Lợi điểm thứ ba và có lẽ cũng là
lợi điểm quan trọng nhất của bác sĩ Quát là việc
các tướng lãnh vẫn chống đối lẫn nhau. Bất kỳ họ suy
nghĩ
về một chánh phủ dân sự ra sao, các tướng
lãnh cũng nhất định không để những nhóm quân
sự khác nắm được thực quyền. Vì muốn tránh vấn đề
phải để một nhóm quân sự khác nắm quyền, họ
đã đồng ý để bác sĩ Quát đứng ra điều
hành mọi chuyện.
Với ba lợi điểm vừa kể, vào đầu tháng 5 bác sĩ
Quát cùng tôi đã hội họp với những sĩ quan
cao cấp để thuyết phục họ giải tán Hội Đồng Quân Lực.
Hội
Đồng Quân Lực nguyên là một tổ chức mà những
quân nhân đã dùng làm khí cụ
nhằm gây áp lực từ khi tướng Nguyễn Khánh nắm
quyền. Tuy giải tán Hội Đồng chưa hẳn đã là chấm
dứt hoàn toàn những ảnh hưởng của quân sự
vào chính trị nhưng việc này cũng có thể
xem là một bước trong tiến trình đó.
Khi đương đầu với những khó khăn trong các đoàn
thể dân sự thì bác sĩ Quát ít
thành công hơn. Có thể vì ông
đã giải tán được Hội Đồng Quân Lực và
thành công phần nào khi giải quyết những khó
khăn quân sự nên bác sĩ Quát đã trở
nên lạc quan và do đó thiếu thận trọng. Tuy chẳng
ai chỉ trích bác sĩ Quát khi ông đặt trọng
tâm vào vấn đề quân sự, nhưng lúc đó
có vài người cho rằng bác sĩ Quát có
ý xem thường các đoàn thể dân sự đối lập
có ảnh hưởng đáng kể. Họ cho rằng bác sĩ
Quát cần phải để ý ông Phan Khắc Sửu nhiều hơn.
Trước đây, ông Sửu chính là vị quốc trưởng
già đã từ chối không chịu ký sắc lệnh chấm
dứt nhiệm vụ một vài vị tướng và vì vậy đã
góp phần thúc dục, đẩy mạnh cuộc bắt cóc
các thành viên của Thượng Hội Đồng hồi tháng
11, 1964.
Vào tháng 5, ông Sửu già nua vẫn là
quốc trưởng và vẫn khó tính giống hệt trước
đây. Khoảng cuối tháng 5, ông Sửu lại bắt đầu khởi
sự một cuộc khủng hoảng chánh phủ thứ hai. Lúc này
nạn thiếu gạo đang bắt đầu hoành hành. Nạn khan hiếm
gạo
phát sinh là do Việt Cộng đã làm
gián đoạn đường liên lạc giữa Sài Gòn
và các tỉnh. Giá gạo tại thủ đô bỗng
nhiên nhảy vọt và nhiều ngày sau, chánh phủ
đã bị buộc phải can thiệp. Tuy thế, trong suốt một
tuần
và rồi hai tuần mà chánh phủ vẫn không đưa
ra được giải pháp nào thiết thực. Vào lúc
này những người có trách nhiệm trực tiếp là
Tổng Trưởng Nội Vụ và Tổng Trưởng Kinh Tế vẫn chẳng hề
quan
tâm đến bổn phận của mình. Vào tuần lễ thứ ba,
tình trạng thiếu khả năng của họ đã khiến bác sĩ
Quát vô cùng phẫn nộ khi ông lại phải bắt tay
vào việc. Bác sĩ Quát hành động dứt
khoát bằng cách thay thế một lúc hai Bộ Trưởng.
Đây là một sự chọn lựa có tính cách
quyết định ảnh hưởng đến sự sống còn của chính phủ của
ông.
Nhưng không may, trong những tháng trước đây,
ông Quát lại chưa có dịp nào để xoa dịu
các chính khách đối lập khác. Những
chính khách đối lập với ông Quát đa số
là những chính khách của các phe
nhóm địa phương, một trong những người đối lập nguy
hiểm nhất
là những chính khách Miền Nam. Thường thì
những chính khách người Nam vẫn cảm thấy rất khó
chịu khi phải để những chính khách người Bắc nắm quyền
và lúc nào họ cũng cố tìm cách đảo
ngược tình hình. Việc bác sĩ Quát yêu
cầu hai bộ trưởng từ chức đã đem lại cho họ một dịp
may hiếm
có và con người khó tính của ông Sửu
đã khiến họ có được một khí cụ tuyệt vời. Theo
nguyên tắc thì sắc lệnh chỉ có hiệu lực sau khi
đã được ông Sửu ký. Nhưng lúc này,
vì ông đang được những đoàn thể "Người Nam"
cùng những đoàn thể công giáo ngấm ngầm
khuyến khích nên ông Sửu lại không chịu
ký. Chẳng bao lâu sau hành động của ông Sửu
đã khiến chánh phủ ông Quát sa vào
một cuộc khủng hoảng chính trị không có đường giải
quyết.
Khi chánh quyền bị rơi vào tình thế tiến thối
lưỡng nan, bác sĩ Quát đã cố xoay sở để giải quyết
vấn đề, nhưng vì không có hiến pháp
nên ông chẳng thể vận động cách nào
khác hơn. Còn ông Sửu thì lại một mực khăng
khăng nhất định không chịu ký. Trước đây ông
đã chẳng để Nguyễn Khánh lay chuyển, lúc
này ông Sửu cũng nhất định chẳng để ai lay chuyển.
Đã thế, sau lưng ông Sửu, những chính khách
Miền Nam còn mượn dịp để triệt hạ bác sĩ Quát bằng
mọi giá. Ông Quát đã phải tìm đến
Ngoại Trưởng Trần Văn Đỗ là một người Nam để nhờ giảng
hòa. Tuy cụ Đỗ đã cố gắng thuyết phục nhưng vì cụ
đã từng sống tại Miền Bắc khá lâu nên lại bị
coi như người thân Bắc và những lời cụ đưa ra hoàn
toàn bị bỏ ngoài tai.
Có lẽ khi cuộc khủng hoảng tiếp diễn và tình
hình chuyển thành tấn thối lưỡng nan thì việc
các tướng lãnh tự bước vào giải quyết vấn đề
là việc khó thể tránh khỏi. Thật ra thì
trong khi cố gắng xoay sở tháo gỡ tình hình,
bác sĩ Quát cũng có nói chuyện với
vài tướng tá nhưng ông vẫn không thuyết phục
được họ ủng hộ. Các tướng tá đã lập luận rất
rõ ràng: "Đấy, các ông xem, chúng
tôi đã rời bỏ chính trường rồi. Vậy mà một
khi chúng tôi đi khỏi thì các ông lại
không thể điều hành được mọi chuyện." Có thể
bác sĩ Quát cũng có khả năng thuyết phục một
vài tướng tá và vận động họ cùng về phe với
ông nhưng sau lưng các tướng tá trẻ lại còn
các tướng tá khác trẻ hơn. Họ là những cấp
tá đầy tham vọng và những tư lệnh trẻ chưa hoàn
toàn hài lòng với những chân trời nhỏ hẹp
của mình. Đối với họ thì đây quả là
lúc thời cơ hành động đã chín mùi.
Những tướng tá trẻ hẳn nhiên là một đoàn thể
mà các tướng lãnh khác khó thể bỏ
qua.
Vào ngày 11 tháng 6, trong một buổi họp kéo
dài tại Phủ Thủ Tướng, tình trạng tấn thối lưỡng nan
chấm
dứt. Độ khoảng 40, 50 các tướng lãnh, ông Sửu,
bác sĩ Quát và các phụ tá đều hiện
diện tại cuộc họp. Tất cả chen chúc trong một căn
phòng
nhỏ hẹp ở Phủ Thủ Tướng. Tuy bác sĩ Quát vẫn cố toan
tính thay đổi hai vị Bộ Trưởng vào lúc cuối,
các tướng tá đã đòi hỏi chánh phủ
phải giải quyết tình trạng khó xử ngay tại phòng
họp. Họ tuyên bố sẽ không khoanh tay nhìn
chính phủ bế tắc. Biết rằng việc gì phải đến đã
đến, giữa những lời phát biểu ý kiến sôi động,
bác sĩ Quát tuyên bố sẽ từ chức và giải
tán chánh phủ. Quyết định từ chức của bác sĩ
Quát đã buộc ông Sửu cũng phải từ chức theo.
Chính trường lúc này đã được dọn sạch để
cho các tướng lãnh và các quân
nhân bắt đầu nhập cuộc. Chẳng bao lâu họ đã thiết
lập hai ủy ban quân sự: Ủy Ban Lãnh Đạo Quốc Gia do
tướng
Nguyễn Văn Thiệu làm chủ tịch và quốc trưởng và Ủy
Ban Hành Pháp Trung Ương do tướng Nguyễn Cao Kỳ
làm chủ tịch và Thủ Tướng. Đây quả là một
màn kết thúc cay đắng cho cuộc thí nghiệm
chính phủ dân sự ở Miền Nam Việt Nam. Ngay sau khi
chánh phủ sụp đổ, ông Alexis Johnson đã than rằng
ông thật "vô cùng thất vọng!" Vào lúc
này Hoa Kỳ đã đặt rất nhiều hy vọng vào bác
sĩ Quát. Họ bắt đầu tin rằng ông Quát là
người có khả năng ổn định những khó khăn chính trị
tại Việt Nam. Khi ông Quát thất bại, Hoa Kỳ đã thất
vọng sâu xa. Nỗi thất vọng của họ dường như bao gồm
thêm cả
cảm giác khó chịu khi họ thấy mình hoàn
toàn bất lực. Họ giống như những người phải đứng ngoài
nhìn tận mắt những việc ngang tai trái ý mà
chẳng thể làm gì khác hơn. Lúc này
họ lại phải đương đầu với một tầng lớp lãnh đạo quân
nhân mới. Trước đây, khi tiếp xúc với các
tướng trẻ, đại sứ Taylor đã gặp nhiều khó khăn.
Chính ông Taylor cũng chưa bao giờ nghĩ đến việc phải
đương đầu với các tướng tá trẻ khi họ đứng vào
cương vị lãnh đạo quốc gia. Trong hồi ký ông
đã ghi lại một cách khô khan rằng: "[Hoa Kỳ] chẳng
có lý do gì đáng để chào mừng việc
[ông Kỳ] nhậm chức thủ tướng cả."
Nhưng cho dù là tương lai đang chờ đón những
nhóm người mới nhậm chức có là gì đi nữa
thì lúc đó tôi cũng đã sắp sửa kiệt
sức. Tôi đã trải qua suốt bốn tháng khủng hoảng
và căng thẳng liên tục. Tuy lúc này, cả thể
xác lẫn tâm thần đều kiệt quệ, tôi vẫn cảm thấy an
ủi là đã trút được gánh nặng. Đã đến
lúc tôi cần một thời gian nghỉ ngơi dài hạn
và xa rời mọi chuyện.
Nhân dịp niên học của các con tôi sắp hết,
tôi quyết định cùng toàn thể gia đình ra
nghỉ tại bãi biển Nha Trang. Lúc nhìn những bờ
cát Nha Trang trắng mịn, tôi thầm nghĩ có lẽ
đây cũng là một dịp tốt để nghỉ ngơi cùng gia
đình và tạm thời quên đi cả chiến tranh lẫn
chính trị.
Khung cảnh Nha Trang lúc này thật tuyệt vời hơn tất
cả.
Buổi sáng chúng tôi thư thả băng qua con vịnh dẫn
đến một hòn đảo ngoài khơi, nơi cư ngụ của những
dân chài. Khi đến nơi, chúng tôi lang thang
dọc theo bờ biển, thả bộ dưới những hàng dừa đong đưa,
nhìn những người thợ chài đi lưới vào lúc
rạng đông khi mặt trời nhẹ tỏa ra những tia sáng linh
động, lấp loáng trên mặt biển. Lúc này
tôi sống hoàn toàn tự do, chẳng khác
nào một kẻ đang thung dung an hưởng những vẻ đẹp tao
nhã
của đất trời. Niềm phấn khởi dào dạt dâng cao đến mức
tôi quên hết mọi sự và chỉ nghĩ đến việc tổ chức lại
Ban Điều Hành của tờ Saigon Post. Tôi đã có
ý tổ chức lại tờ báo từ hồi tháng 2, trước cả khi
bác sĩ Quát ngỏ lời mời tôi vào làm
việc với chánh phủ của ông.
Lúc này có lẽ tôi chẳng bao gìờ
có thể ngờ là mình sẽ lại được mời cộng tác
với chính quyền mới. Tuy thế chỉ một, hai ngày sau khi
đang cùng gia đình nghỉ mát tại Nha Trang,
tôi lại nhận được lời yêu cầu của chính quyền mới.
Đây là lời yêu cầu của thủ tướng mới là tướng
Nguyễn Cao Kỳ, yêu cầu tôi lập tức trở về thủ đô.
Vì đã quá gần gũi bác sĩ Quát -gần
gũi đến mức nhiều người đã cho rằng tôi với ông
chẳng khác gì hình với bóng- nên việc
ông Kỳ đứng ra mời tôi cùng về làm việc
là chuyện tôi chẳng thể nào tin được. Thật sự
thì tôi vô cùng ngờ vực. Trong quá khứ
tôi đã từng gặp ông Kỳ và cũng có thảo
luận đôi lần về các vấn đề quân sự nhưng mối
liên hệ giữa tôi và ông Kỳ thật chẳng
khác gì mối liên hệ giữa tôi và đồng
nghiệp của ông là ông Nguyễn Văn Thiệu; một mối
liên hệ tuy thân mật và đứng đắn nhưng vẫn chẳng thể
gọi là gần gũi. Hơn nữa, theo những biến cố vừa xảy ra
thì sự hiện diện của tôi đối với chánh phủ
lúc này có thể coi như một bất lợi chính
trị rõ rệt. Thứ nhất, tôi không phải là người
trong nhóm quân nhân. Thứ hai, tôi đã
phục vụ trong một chính quyền dân sự vừa mới sụp đổ.
Theo
lẽ, thì tôi nên được "cho phép" chìm
vào quên lãng trong cuộc sống của một cá
nhân với đời sống an bình.
Vì vậy, khi trở về Sài Gòn tôi đã
sững sờ khi nghe ông Kỳ ngỏ lời mời tôi cộng tác.
Ông đề nghị tôi làm Phụ Tá Đặc Biệt đặc
trách các vấn đề kế hoạch có liên quan đến
ngoại viện. Ông Kỳ đã "nói chuyện" với bác
sĩ Quát và theo lời ông thì chắc chắn
bác sĩ Quát cũng sẽ liên lạc với tôi về việc
này. Ông Kỳ bàn luận về tình hình
chính trị đang căng thẳng và nhấn mạnh vấn đề cần tiếp
tục giữ vững mối giao hảo với Hoa Kỳ. Đây vốn là việc
mà tôi vẫn làm trước đây. Ông Kỳ cho
biết ông muốn tôi tiếp tục nhiệm vụ giữ vững mối giao
hảo
với Hoa Kỳ. Ông cũng chẳng đoái hoài hỏi xem
tôi có nhận lời hay không.
Tôi dùng khoảng thời gian còn lại trong ngày
để liên lạc với bạn bè trong chính giới và
bàn bạc với bác sĩ Quát. Đúng như ông
Kỳ đã nói trước. Bác sĩ Quát khuyên
tôi nhận lời. Cũng như ông Kỳ, bác sĩ Quát
nêu ra những vấn đề cần thiết trong việc giữ vững liên
lạc
với Hoa Kỳ "vững chừng nào tốt chừng đó." Ông cho
rằng việc các tướng lãnh tỏ ra chú tâm
vào vấn đề này là một điều khả quan. Theo ý
kiến riêng ông thì: "Mọi việc sẽ khả quan hơn nếu
chúng tôi có thể theo dõi hành động
của các tướng lãnh." Lời phát biểu của bác
sĩ Quát cho thấy ông vẫn chưa hoàn toàn
buông bỏ tất cả sự nghiệp chính trị. Tuy bác sĩ
Quát chưa hề phát biểu rõ ràng, tôi
cũng đã mơ hồ cảm thấy ông vẫn muốn giữ vững mối dây
liên lạc với quân đội. Đây chính là một
trong những lý do khiến ông muốn tôi nhận lời.
Tôi biết rằng trong thâm tâm các biến cố
đã làm ông cay đắng. Có lẽ ông vẫn
không thật sự muốn tôi hợp tác với chính phủ
mới. Dầu sao đi nữa thì ông cũng đã quyết định tự
rút lui cho các ông Thiệu, Kỳ; ông cũng
đã từ chức và giữ được mối giao hảo tốt đẹp với cả
hai.
Nếu ông còn có bất kỳ tia hy vọng nào về vấn
đề trở lại chính trường thì tia hy vọng đó cũng
phụ thuộc một phần vào mối dây liên hệ giữa
ông và hai ông Thiệu, Kỳ. Vào lúc
này, kinh nghiệm cho thấy rằng chính phủ mới có
thể sẽ không đứng vững được lâu. Và ai có thể
đoán trước được những việc xảy ra về sau? Bác sĩ
Quát nói thêm: "Hơn nữa, sau khi gia nhập
chính phủ, nếu anh cảm thấy không thể phục vụ được
thì vài tháng sau lúc nào cần anh
cũng có thể từ chức với lý do sức khỏe."
Tuy cho rằng mình hiểu bác sĩ Quát, tôi cũng
đã tự suy xét kỹ lưỡng. Trước hết, tôi vô
cùng ngần ngại về việc phải đứng ra hợp tác cùng
với các tướng lãnh không hề có chút
quan niệm cơ bản thế nào là chính phủ. Thứ hai,
tôi biết rằng dù bác sĩ Quát có
nói gì đi nữa thì sự kiện người cộng tác
gần với ông nhất trong chánh phủ cũ, nay lại làm
việc cùng chánh quyền mới vẫn là một việc
khó thể chấp nhận. Sự việc này sẽ khiến dư luận
hành lang Sài Gòn bàn bạc phê
bình suốt một đời và tôi sẽ phải chịu đựng rất
nhiều điều tiếng vì những lời nói ra, nói
vào của các giới chính trị tại Sài
Gòn. Mặt khác, tôi vừa mới lấy lại được phần
nào sức lực khi được nghỉ mấy ngày vừa qua ở Nha
Trang.
Tham gia chánh phủ mới là một ý kiến vô
cùng hấp dẫn. Tôi mới 42 tuổi, còn quá trẻ
để tự nguyện rút lui vào bóng tối của quên
lãng. Sau khi trằn trọc thâu đêm về việc lựa chọn,
sáng hôm sau tôi đến văn phòng ông Kỳ
chấp nhận lời mời hợp tác. Những tuần đầu làm việc với
ông Kỳ thật là khó chịu. Tuy ông và
tất cả những người trong nhóm của ông đều cố đối xử
thân thiện với tôi, nhưng việc tôi là một
"người ngoài," là một "kẻ xâm nhập" vào
vòng thân hữu của họ là việc đã rõ
rành rành. Giữa bầu không khí khó
chịu này, tôi cố chú tâm vào những
trách nhiệm nằm trong lãnh vực riêng của công
việc, cố soạn thảo những vấn đề có tính cách cấp
thiết trong lãnh vực ngoại giao. Tôi chỉ gặp ông Kỳ
khi có lời yêu cầu.
Nhưng tình trạng này không kéo dài
được lâu. Tôi được mời hợp tác chính
là vì kinh nghiệm nghề nghiệp trong việc giao dịch với
Hoa Kỳ. Vì quen thuộc nên những nhân viên Hoa
Kỳ vẫn muốn tìm hiểu mọi việc qua tôi trong lúc
tình hình đang lộn xộn. Do đó, những vấn đề
tòa đại sứ Hoa Kỳ trình bày với tôi
toàn là những vấn đề hệ trọng cần được thủ tướng lưu
tâm. Mặt khác, ông Kỳ cũng cảm thấy thuận tiện khi
dùng tôi làm mối dây liên lạc để
dò dẫm, tìm hiểu phản ứng của Hoa Kỳ đối với những
chính sách do ông đề ra. Ở giữa tình thế
lúc này, vị tân thủ tướng vốn dĩ chẳng hề quen
thuộc với cả những cách điều hành chánh phủ lẫn
những phương pháp ngoại giao bắt đầu tham khảo ý kiến
tôi. Khi vấn đề hợp tác đã khiến chúng
tôi gần gũi nhau hơn thì vào những lúc
tôi phải thuyết trình, ông Kỳ thường mời tôi
cùng ăn trưa tại Phủ Thủ Tướng.
Thật trái hẳn với sự dự liệu của tôi, ông Kỳ hiểu
vấn đề rất nhanh và cũng rất chịu khó lắng nghe. Mặc
dù ông chưa có kiến thức chính trị sâu
sắc và vẫn chưa hẳn là một chính khách
chững chạc, ông Kỳ rất có duyên và có
tính chân thật tự nhiên bẩm sinh dễ gây thiện
cảm. Tuy ông Kỳ có một cái tật là hay
phát biểu ẩu tả và tuy lối sống đặc biệt của ông
hoàn toàn đi ngược với quan niệm riêng của
tôi về tư cách của một nhà chính trị cầm đầu
chính phủ, tôi vẫn cảm thấy ông Kỳ, dù
có tật bộp chộp và thiếu thận trọng, nhưng nói
chung thì vẫn là người có tâm địa tốt
và thật thà.
Tôi đã tường trình với ông Kỳ về những biến
cố của việc Hoa Kỳ đổ quân trong những tháng về trước.
Tôi cũng đã trình bày những quan niệm của
bác sĩ Quát về việc đổ quân của Hoa Kỳ vào
Việt Nam. Một mặt ông Kỳ tỏ vẻ nhận biết những nghi
ngờ của
bác sĩ Quát. Mặt khác, ông lại bị áp
lực nặng nề vì những loạt tấn công của các đơn vị
Bắc Việt to lớn vào tháng 7 năm 1965 và những tổn
thất do các vụ nổ bom gây ra, chẳng hạn như vụ nổ bom
ở
nhà hàng Mỹ Cảnh trên bến Sài Gòn.
Ông Kỳ lập luận rằng việc quan trọng nhất là việc ổn
định
tình hình quân sự và một khi muốn chu tất
việc này thì chúng tôi phải cần những lực
lượng bộ binh của Hoa Kỳ.
Chúng tôi không hề biết rằng ngay trước cả khi thay
đổi chánh phủ, tướng Westmoreland đã yêu cầu tiếp
viện thêm một số quân vượt xa con số mà cả hai
chánh phủ đã thỏa thuận vào tháng 4. Vẫn
như thường lệ, chúng tôi hoàn toàn mù
tịt về những cuộc tranh luận ở Hoa Thịnh Đốn lúc này.
Cuộc bàn cãi chia làm ba phe gồm những người ủng
hộ việc leo thang quân sự như Bộ Trưởng McNamara,
những người
muốn tiếp tục chánh sách trung dung và Thứ Trưởng
Ngoại Giao George Ball. Tuy đơn độc một mình, Thứ
Trưởng George
Ball là một nhân vật có ảnh hưởng rất mạnh.
Ông đã khởi xướng những cuộc thảo luận về vấn đề cần
phải
giảm dần những can thiệp quân sự và từ từ rút ra
khỏi Việt Nam. Từ trước tới nay, cả chánh quyền của
ông
Thiệu, ông Kỳ lẫn chánh quyền của bác sĩ
Quát đều cho rằng Hoa Kỳ biết rất rõ những chính
sách của họ và đang hoạch định kế hoạch để chu
toàn mục đích. Dĩ nhiên đây là một
quan niệm hoàn toàn sai lầm. Quan niệm này
đã trở thành yếu tố nổi bật trong mối bang giao giữa
hai
quốc gia và dần dà chuyễn thành một yếu tố chủ
chốt dẫn đến những hậu quả vô cùng tai hại đối với
chiến
cuộc.
Trong khi đó, quân đội Hoa Kỳ đã thực sự thay đổi
tất cả bộ mặt cuộc chiến Việt Nam. Trong những ngày
cuối
tháng 7, chúng tôi biết rằng sư đoàn
không lực 173 của Hoa Kỳ đã tấn công vào
những căn cứ của Việt Cộng ở chiến khu Đ, một vùng
rừng
núi rậm rạp phía Tây Bắc, Sài Gòn.
Đây là cuộc tấn công đầu tiên của các
lực lượng bộ binh Hoa Kỳ. Ngoài ra còn một vấn đề
khác quan trọng không kém là cuộc tấn
công đã được những phi đoàn B-52 cất cánh từ
Guam oanh tạc trước dọn đường. Những quyết định quan
trọng về việc Hoa
Kỳ đổ quân trong nhiều tháng trước giờ đây đang được
thi hành. Nếu nhìn từ một phương vị nào đó
thì những hoạt động tấn công có vẻ thiếu phần hứng
khởi. Những đội quân Hoa Kỳ rất ít khi có dịp đụng
độ với đối phương. Hơn nữa, vì chiến khu Đ chỉ là nơi
dân cư thưa thớt nên chẳng ai để ý đến những cuộc
oanh tạc chiến lược khổng lồ. Tuy vậy, một khi đã biết
về những
hoạt động của Hoa Kỳ thì tất cả Miền Nam đều cảm thấy
vững
tâm. Chiến dịch oanh tạc cho thấy đồng minh Hoa Kỳ đã
chánh thức tham dự chiến cuộc và chúng tôi
có thể tin tưởng vào họ. Sự vững tâm đã
làm trôi tất cả mọi e dè về việc cho phép
người Ngoại Quốc đổ quân vào Việt Nam. Chiến dịch oanh
tạc
đã phá tan những viễn tượng đe dọa thất bại quân sự
do các cuộc tấn công lớn rộng và ráo riết
của Bắc Việt trước đây.
Mặt khác, các vấn đề khó khăn đi đôi với
việc đổ quân Hoa Kỳ bắt đầu xuất hiện. Những đồ tiếp
tế và
vật dụng lũ lượt đổ vào Việt Nam làm ứ nghẽn các
hệ thống phân phối trong nước. Cảng Sài Gòn đầy dẫy
những tàu đợi chờ rỡ hàng trong khi các thuyền
trưởng xôn xao tranh cãi về quyền ưu tiên. Những
công trình xây cất vĩ đại dường như mọc ra khắp nơi
đi liền với những khó khăn không thể nào
tránh được chẳng hạn như vấn đề khó khăn luật pháp
giữa Hoa Kỳ và Việt Nam khi cùng hợp tác.
Trong hạ tuần tháng 7, trong khung cảnh những hoạt
động nhộn
nhịp để sửa soạn cho chiến tranh thì có tin rằng Bộ
Trưởng Quốc Phòng McNamara sẽ ghé Sài Gòn
vào ngày 16. Để chuẩn bị cho cuộc thăm viếng, ông
Kỳ nhờ tôi soạn thảo một bản ghi chú bao gồm những
câu hỏi cần thiết để ông có thể đưa ra khi gặp Bộ
Trưởng McNamara. Đây là một công việc tôi
chú hết tâm sức để làm ngay. Theo tôi
thì Bộ Trưởng McNamara là một trong những ngôi sao
sáng của chánh phủ Hoa Kỳ. Ông có lẽ
là cố vấn quan trọng nhất của tổng thống Johnson. Khi
suy nghĩ
đến bộ trưởng McNamara và những ấn tượng sắp đến của
ông
về chúng tôi, tôi cảm thấy hơi căng thẳng. Chuyến
thăm viếng của bộ trưởng McNamara là một dịp quan
trọng để
ông Kỳ có thể xem xét toàn thể chánh
sách chiến lược của Hoa Kỳ đối với chiến tranh Việt
Nam. Đương
nhiên chúng tôi biết rõ rằng lúc
này đang có gần 80,000 binh sĩ Hoa Kỳ đóng tại
Việt Nam và ít nhất thì Hoa Kỳ cũng đang dò
dẫm thử nghiệm các chiến thuật tấn công. Nhưng thực sự
mục
đích quân sự của họ là gì? Họ muốn chiếm
được những gì và họ có thể hài lòng
khi đoạt được những kết quả nào? Họ toan tính chiến
lược
ra sao? Rút tỉa từ những kinh nghiệm từ tháng 3 và
tháng 4 -Từ cuộc đổ quân gia tăng tiếp liền sau đó-
Tôi đã soạn thảo một bản ghi chú cho ông Kỳ
vào ngày 14, bao gồm những câu hỏi về chính
sách như sau: * Mục đích chung của Hoa Kỳ về cuộc
chiến
là gì: Thắng lợi quân sự? Đốc thúc
đàm phán? * Nếu là đốc thúc đàm
phán thì cương vị và mục đích của cuộc
đàm phán là gì? * Nếu mục đích
là thắng lợi quân sự thì thắng lợi này được
định nghĩa ra sao? Chánh thức bắt Việt Cộng đầu hàng?
Chánh thức bắt Miền Bắc phải đầu hàng? Tấn công
chiếm Miền Bắc? Hay chỉ ngăn chận những cuộc xâm lăng
của Việt
Cộng và Miền Bắc? * Mục đích của Hoa Kỳ về vấn đề chỉ
huy
quân sự hỗn hợp hoặc chỉ huy quân đội hợp nhất là
gì? * Hoa Kỳ sẽ đổ bao nhiêu quân vào Việt
Nam? Thời hạn chiếm đóng là bao lâu?
Những câu hỏi trên và những câu hỏi
khác liên quan đến vấn đề liên hệ tới những dự định
của Hoa Kỳ, nhất là những dự định có ảnh hưởng đến
những
biến chuyển kinh tế và chính trị Việt Nam ra sao được
soạn thảo nhằm mục đích tạo dịp cho ông Kỳ có thể
duyệt xét một cách tổng quát tình
hình chung với vị Bộ Trưởng Quốc Phòng Hoa Kỳ. Nếu
nhìn bằng quan điểm lịch sử thì có lẽ điểm ly kỳ
nhất là chính những câu hỏi mà tôi
soạn thảo cho ông Kỳ đã tự diễn tả rõ rệt chiều
hướng chính của những nỗ lực quân sự liên hiệp.
Vào mùa hạ năm 1965, Việt Nam hoàn toàn
mù tịt về những chiều hướng này. Tôi đề nghị
ông Kỳ nên thúc dục mạnh mẽ để tìm những
câu trả lời mà tôi cho là tối cần thiết trong
việc hoạch định đường hướng cho những hoạt động của
chúng
tôi lúc bấy giờ.
Trong chuyến viếng thăm, Bộ Trưởng McNamara đã sang
Sài
Gòn cùng ông Henry Cabot Lodge, vị đại sứ mới đến
để thay thế đại sứ Taylor. Chúng tôi đã biết
ông Lodge từ khi ông bắt đầu cầm quyền tại Sài
Gòn vào năm 1963-1964. Bộ Trưởng McNamara cũng đã
từng đến Việt Nam năm 1964 khi tổng thống Johnson yêu
cầu
ông cùng vận động với tướng Khánh. Tuy vậy,
vào lúc này uy danh của Bộ Trưởng McNamara
đã lừng lẫy đến độ gần như khuất lấp cả con người ông.
Ông nổi tiếng là người thông minh xuất chúng
với một bộ óc gần như bộ óc của máy điện
toán và được xem là nhân vật có ảnh
hưởng nhất trong chánh quyền Hoa Kỳ. Vì vậy, lúc
đến văn phòng ông Kỳ để bàn bạc, tôi
đã ra công chuẩn bị, tiên liệu rất nhiều.
Khi cuộc họp với phái đoàn Hoa Kỳ bắt đầu, chúng
tôi ngồi thành hai phía đối diện: Bên Hoa Kỳ
là Bộ Trưởng McNamara, Phó đại sứ Alexis Johnson,
ông Lodge và các viên chức phụ tá
khác. Phía Việt Nam là ông Kỳ, ông
Thiệu, tôi và những tư lệnh quân sự. Tôi được
xếp ngồi ở một vị trí thuận lợi để có thể đưa những
bản
ghi chú cho ông Kỳ khi cuộc họp tiếp diễn.
Tuy vừa mới trải qua một cuộc hành trình dài
mà tổng trưởng McNamara dường như vẫn vô cùng
sáng suốt. Mới mở màn ông đã chuyển trọng
tâm cuộc họp cuộc họp về những điều chính do ông
soạn thảo. Những lập luận của tổng trưởng McNamara vừa
thân thiện
lại vừa rất chính xác. Khi cuộc họp bắt đầu kéo
dài, ông luôn luôn ghi chép vào
những tờ giấy ghi chú vàng nho nhỏ. Ông đã
đưa ra hàng loạt câu hỏi về những con số, tổ chức,
chánh trị, quân nhu, quân cụ... như thể ông
đang cố thâu thập dữ kiện và yếu tố cho một phương
trình toán học khổng lồ. Hiển nhiên vì đắm
chìm trong những suy nghĩ riêng tư, bộ trưởng McNamara
chẳng hề để ý gì đến những người xung quanh. Theo
tôi thấy thì dường như ông không hề cảm thấy
cần phải lượng định nhân vật đang ngồi đối diện thẳng
với
ông là ông Nguyễn Cao Kỳ. Tôi tự hỏi phải
chăng ông Kỳ đối với ông cũng chẳng có gì
khác lạ?
Khi cuộc họp kết thúc, tuy đã có đề cập đại cương
đến các kế hoạch phòng vệ, xây dựng nông
thôn, tuy đã có khẳng định phần nào rằng Hoa
Kỳ sẽ tiếp tục giúp đỡ, tổng trưởng McNamara vẫn không
đả
động gì đến những câu hỏi tôi đã ra
công soạn thảo. Có lẽ ông Kỳ còn quá
nhút nhát và thiếu kinh nghiệm về cách đưa
ra câu hỏi. Theo như diễn biến thì có lẽ bộ trưởng
McNamara và phái đoàn của ông chỉ có
ý muốn thâu thập dữ kiện hơn là trình
bày rõ hơn về những chánh sách và kế
hoạch của họ. Sau buổi họp, tôi đã đề nghị rằng ông
Kỳ nên gặp riêng Bộ Trưởng McNamara để khung cảnh
nói chuyện được thuận lợi hơn. Tuy ông Kỳ có ngồi
lại với Bộ Trưởng McNamara, những câu hỏi trong bản
ghi
chú của tôi vẫn chẳng có giải đáp nào
rõ rệt cả. Khi Bộ Trưởng McNamara rời Việt Nam, chúng
tôi gần như chẳng biết gì hơn thêm trước khi
ông đến.
Tuy vậy, sau này chúng tôi được biết thêm
rằng ngay khi ông còn ở Việt Nam, Bộ Trưởng McNamara
đã nhận được một bức điện tín do phụ tá của
ông là ông Cyrus Vance từ Hoa Thịnh Đốn gửi sang,
báo rằng Tổng Thống Johnson đã đồng ý thỏa thuận
lời yêu cầu của tướng Westmoreland về vấn đề nâng
quân số lên đến 125,000. Vào ngày 28
tháng 7, trong một cuộc họp báo tại tòa Bạch Ốc,
Tổng Thống Hoa Kỳ thông báo quyết định gia tăng quân
số Hoa Kỳ tại Việt Nam. Và Đây cũng là một
hình thức thông báo chánh thức đối với
chúng tôi.
19. Con
Đường
Dẫn Đến Hiến Pháp
Ngày 28 tháng 7, tổng thống Johnson mở cuộc họp
báo. Đúng hai ngày sau thì Bộ Tổng Tham Mưu
yêu cầu đổ quân với số quân 193,300. Con số yêu
cầu vượt quá con số tổng thống đã đồng ý hồi
tháng 4 gần 70,000. Chẳng bao lâu sau, lời yêu cầu
này lại được chấp thuận. Thế là đà đổ quân
ào ạt như thác tích tụ từ tháng 2
không còn chuyển hướng được nữa. Kể từ lúc
này, tại Hoa Thịnh Đốn, cuộc xung đột dữ dội giữa phe
chủ trương
ôn hòa và phe chủ trương trực tiếp can thiệp
đã bắt đầu ngã ngũ. Trong cuộc xung đột ý kiến
đó, những người ủng hộ chính sách "hòa
hoãn, trung dung" và "từng bước thận trọng" ở Hoa
Thịnh
Đốn đã hoàn toàn rớt vào thế hạ phong.
Khi nhìn lại vấn đề lúc đó thì quả thật
những quyết định đổ quân của Hoa Kỳ cũng không lấy
gì làm khó hiểu. Vào tháng 6, Hoa Kỳ
đã bắt đầu thất vọng. Họ đã đầu tư rất nhiều vào
Việt Nam và vào rồi khi những khó khăn
chính trị vừa mới được giải quyết thì những khó
khăn khác lại bùng ra. Chánh phủ mới của những
"Tướng Trẻ" lại xuất hiện. Đây là một chánh phủ của
những người không có gì bảo đảm cả. Sau này,
ông Bill Bundy đã nhận xét rằng: "Tình thế
thật là đen tối và ảm đạm. Nếu vấn đề [Việt Nam]
lúc này đơn thuần chỉ là vấn đề bảo vệ một đồng
minh mà thôi, thì tôi cam đoan Hoa Kỳ sẽ
rút lui vì cho rằng họ 'đã chịu đựng hết sức
rồi.'" Tuy thế những cân nhắc về vấn đề chiến lược đã
loại
bỏ cách lựa chọn này. Về sau Phụ Tá Bộ Trưởng Quốc
Phòng McNaughton có cho tôi biết rằng khi Hoa Kỳ
quyết định can thiệp vào Việt Nam thì 90% của quyết
định
đó được đặt căn bản trên vấn đề chiến lược. Nếu quả
thật
90% của quyết định can thiệp được đặt trên vấn đề
chiến lược của
Hoa Kỳ thì rõ ràng là chiến cuộc Việt Nam
đã chuyển thành một vấn đề của riêng Hoa Kỳ.
Vào tháng 7, chánh phủ Sài Gòn
đã đóng một vai trò gần như thụ động trong những
biến động đổ quân lớn lao. Hoa Kỳ mang quân ồ ạt vào
Việt Nam như thể vào chỗ không người. (Vào
lúc sau này ông Dean Rusk nói với tôi:
"Hễ chúng tôi muốn làm điều gì, chắc chắn
chúng tôi sẽ làm được điều đó!"), và
Việt Nam đã để Hoa Kỳ mặc nhiên dìu dắt không
một lời phản kháng. Đến sau tháng 7 năm 1965 thì
những cuộc đổ quân của Hoa Kỳ đã ồ ạt và nhanh
chóng đến mức chẳng ai còn đủ thời giờ để đặt vấn đề
hoặc
suy nghĩ sâu xa gì thêm.
Cuộc biểu dương lực lượng của một cường quốc lớn nhất
thế giới quả
là một khung cảnh đặc biệt gây nhiều ấn tượng cho
người
mục kích. Cảnh tượng đổ quân đã khiến Việt Nam
hoàn toàn vững tâm. Mới vài tuần trước
đây thì cuộc tấn công phối hợp của Việt Cộng
và quân đội chính qui Bắc Việt vào
lúc giao mùa Xuân Hạ vẫn còn đe dọa. Nhưng
giờ đây, trước ấn tượng của cuộc đổ quân, những lo âu
đó bỗng nhiên tan biến. Một cảm giác tự tin mới mẻ
khác thường thình lình bùng ra và
rồi đất nước lại chuyển mình để đối phó với những
khó khăn khi phải tiếp nhận cuộc đổ quân đó.
Những trại lính thiết lập bằng lều cho quân nhân Hoa
Kỳ mọc ra khắp nơi chẳng khác gì những khu phố nhỏ.
Xung
quanh những khu trại là những người Việt Nam trong
giới kinh
doanh và tiểu thương cạnh tranh lẫn nhau lập những
dịch vụ
thương mãi và lợi dụng hàng ngàn cơ hội do
tình hình đưa đến. Công trình xây cất
bùng ra khắp nơi. Dường như Hoa Kỳ muốn làm tất cả
cùng một lúc. -Nhà kho, trại, đường, cầu,
bãi đáp trực thăng, hải cảng, phi trường. Họ muốn thay
đổi cả bộ mặt Việt Nam. Các công ty thầu khoán Hoa
Kỳ đến Việt Nam giữa lúc quân đội Hoa Kỳ đổ quân
đã tuyển mộ một lúc cả hàng ngàn nhân
công, thu hút hết tất cả năng lực của giới lao động.
Xe cộ
lũ lượt như thắt nút trên đường phố, đĩ điếm tràn
ngập ở khắp mọi nơi. Phi cơ vận tải và phản lực cơ
chiến đấu rầm
rĩ đáp xuống phi trường với một nhịp độ đinh tai nhức
óc.
Mâu thuẫn thay, nếu tất cả những hoạt động náo nhiệt
đã làm phấn khởi toàn dân Sài
Gòn thì chính những hành động này
cũng là những hành động đã chuyển hướng
nhìn của họ ra khỏi khung cảnh chiến cuộc. Ngoại trừ
những tiếng
phản lực tại phi trường Tân Sơn Nhất và những binh
lính mang đồng phục xanh ngoài đường phố, không
còn dấu hiệu nào khác có thể chứng tỏ rằng
Việt Nam đang giữa lúc chiến tranh. Sài Gòn
lúc này giống như một thành phố đang tràn
ngập các vật dụng trợ cấp và đang mất phần chủ động.
Những dự trình xây cất liên tục còn được tăng
cường thêm bằng những chuyến hàng hóa ồ ạt, trong
số có nhiều thứ mà người dân Sài Gòn
chưa hề thấy qua bao giờ. Họ nhìn những kho hàng PX
khổng
lồ chứa đầy những vật liệu mà họ chưa hiểu cả cách
dùng và rồi tự hỏi không hiểu đây là
những quân đội thế nào mà lại có thể
kéo theo những thứ xa hoa đến vậy? Dĩ nhiên người
dân vẫn được nhắc nhở về chiến cuộc. -Bằng những bảng
cáo
phó đóng khung viền đen đăng tải thường xuyên
trên báo chí và bằng những đám tang
thỉnh thoảng lại diễn hành quanh co trên những nẻo
đường
lưu thông của phố thị. Nhưng chẳng hiểu bằng cách
nào đó, người ta vẫn có cảm tưởng rằng chẳng
có sự liên hệ nào giữa những cuộc đụng độ dữ dội ở
nông thôn và những đời sống thịnh vượng tại thủ
đô thành thị.
Trong khung cảnh đó, có lẽ chánh phủ Sài
Gòn đã được hưởng lợi lộc nhiều nhất. Cả ông Thiệu
lẫn ông Kỳ đều cảm thấy vững tâm ẩn sau tấm khiên
chống đỡ của Hoa Kỳ. Khi nhìn thấy tương lai trước
mặt, họ cảm
thấy phấn khởi và vô cùng tự tin. Đây
là lần đầu tiên họ cảm thấy chánh phủ của họ thật
là vững chãi. Ông Thiệu và ông Kỳ
nguyên là những nhân vật lãnh đaọ đứng trong
một chính thể bấp bênh. Trong vòng chỉ mới hai năm
chính thể này đã sáu lần thay đổi
chính phủ. Thế mà giờ đây họ lại biến thành
những người lãnh đạo đã giải tỏa được những khó
khăn quân sự và có uy tín đối với quốc tế.
Bỗng dưng họ trở nên có uy tín đối với quốc
dân, bỗng dưng họ trở thành những người có thể
nhìn thấy tương lai Việt Nam qua những cuộc viện trợ
binh nhu
của Hoa Kỳ.
Nhờ vào những thời gian rảnh tay hiện tại, khi các lực
lượng quân sự của Việt Cộng đang bị đẩy lui, ông Thiệu
và ông Kỳ bắt đầu bắt tay vào một chương
trình tăng cường và cải tổ các lực lượng
quân đội Việt Nam. Những viện trợ về khí cụ và
tài chánh đã đưa đến việc thiết lập những trung
tâm đào tạo khổng lồ tại Nha Trang và Vũng
Tàu. Những trung tâm này đã tuyển mộ
hàng ngàn người để huấn luyện. Quân đội Việt Nam
bắt đầu tiến tới một quân số gần bằng quân số Bắc
Việt.
Trong khi đó, Hoa Kỳ tự đảm nhận lấy tất cả các
trách nhiệm điều hành trận chiến. Họ tuần tự đổ
quân và phối trí các lực lượng, tấn
công vào các lực lượng chính qui của Cộng
Sản và dành cho quân đội Việt Nam nhiệm vụ
bình định và xây dựng lại nông thôn.
Trong nhiều trận đụng độ lớn, các lực lượng Hoa Kỳ đã
cắt
tỉa các lực lượng Việt Cộng, buộc đối phương phải
chuyển đổi
chiến lược và rút lui về quanh biên giới Cam Bốt
và những vùng rừng già rậm rạp, hiểm trở. Tướng
Westmoreland, tổng tư lệnh chiến trường Hoa Kỳ đã soạn
thảo một
chiến thuật gồm ba điểm "truy nã, tiểu trừ" rồi "quét
sạch, giữ vững" và cuối cùng là "bình định
nông thôn," nhằm mục đích dành cho quân
đội Sài Gòn cơ hội thiết lập chánh quyền địa
phương cho những khu vực an toàn.
Nếu đứng trên quan điểm chiến thuật mà luận thì gần
như mọi hoạt động trong giai đoạn đầu do những vị tư
lệnh cao cấp Hoa
Kỳ chủ trương có thể được coi là chiến thắng. Họ đụng
độ,
gây thương vong và buộc địch quân phải rút
lui về căn cứ. Tuy nhiên những thành công này
vẫn chưa phải toàn diện. Thường thường, những đội quân
chính qui của địch quân vẫn tránh né được
những cuộc đụng độ và ngay cả khi phải thực sự đụng
độ, những
đội quân Bắc Việt vẫn có một khả năng lẩn tránh hữu
hiệu. Hơn nữa, vì chính sách của Hoa Kỳ
không cho phép quân đội Hoa Kỳ hoạt động
ngoài ranh giới Việt Nam nên quân đội của tướng
Westmoreland bị cấm không được phép truy kích
vào những căn cứ của quân đội Bắc Việt tại Lào
và Cam Bốt. Đây là những nơi các đội
quân Bắc Việt có thể nghỉ ngơi, tụ họp lại và nhận
thêm tăng cường từ Miền Bắc.
Vì vậy, tính cách lưu động và hỏa lực khổng
lồ của quân đội Hoa Kỳ chưa bao giờ nắm phần quyết
định chủ chốt.
Vì quân đội Bắc Việt vẫn có thể vượt khỏi tầm
phát hiện, vẫn có thể tản mác vào rừng rậm,
vẫn còn có những căn cứ bất khả xâm phạm dọc theo
biên giới nên chính họ -chứ không phải
là những người Hoa Kỳ- mới là những người có khả
năng điều khiển nhịp độ và cường độ của những cuộc
chiến tranh.
Đối với Cộng Sản thì cả bán đảo Đông Dương đều
là chiến trận, trong khi các lực lượng bộ binh Hoa Kỳ
chỉ
được phép loay hoay trong phạm vi Miền Nam Việt Nam.
Nhược điểm lớn lao và tự tạo của Hoa Kỳ đã cho
phép kẻ thù giữ thế tiên cơ chiến lược. Nhìn
lại 20 năm vừa qua, những chiến lược gia Hoa Kỳ hiện
thời cho rằng
vào năm 1965 quân đội Hoa Kỳ không nên đổ
hàng trăm ngàn quân vào Việt Nam để chiếm
lấy chiến trường. Thay vào đó, theo ý những người
như đại tá Harry Summers, tác giả quyển Chiến Lược
Luận
(On Strategy), một tác phẩm được xem như một công
trình nghiên cứu chiến tranh thì những lực lượng
Hoa Kỳ nên giới hạn tầm hoạt động của họ trong phạm vi
giúp đỡ Việt Nam trước hết trong việc ổn định quân sự
và rồi sau đó trong việc thiết lập một hàng
rào hữu hiệu để cắt đứt những cuộc đổ quân và
khí cụ từ Miền Bắc vào.
Những cách làm việc quyết đoán của Hoa Kỳ
đã khiến các tư lệnh cao cấp Việt Nam vô
cùng hoài nghi. Nhưng trên lãnh vực
này, cũng hệt như trên mặt trận chính trị, người
Việt Nam hoàn toàn chẳng làm gì cả, hoặc
nói đúng hơn thì chẳng thể làm gì
cả. Riêng về phía Việt Nam thì tướng Cao Văn
Viên, Tổng Tham Mưu Trưởng, là một trong những người
độc
nhất ủng hộ việc chặt đứt đường mòn Hồ Chí Minh. Vốn
là người có kinh nghiệm đã tham gia các
hoạt động tại Lào trong chiến tranh Pháp, ông
đã hiểu tường tận các lực lượng Cộng Sản có thể
lợi dụng những căn cứ địa hữu hiệu đến mức độ nào. Sau
cuộc
chiến tôi hỏi tướng Viên tại sao những viên chức
quân sự Việt Nam không đẩy mạnh quan điểm của họ với
Hoa
Kỳ? Câu trả lời của ông đã phản ảnh rõ rệt sự
suy nghĩ của các tư lệnh Việt Nam lúc đó. Tướng
Viên trả lời rằng: "Chúng tôi không đủ sức
mạnh để có thể tự mình quét sạch các căn cứ
địa và lời nói của chúng tôi dĩ nhiên
chẳng hề có chút ảnh hưởng nào vào việc
điều động các lực lượng Hoa Kỳ." Đã vậy, chúng
tôi còn lệ thuộc nặng nề vào Hoa Kỳ trên mọi
phương diện. Ý kiến của chúng tôi đối với Hoa Kỳ
gần như không đáng kể."
Thật ra thì mặc dù cuộc chiến là cuộc chiến của
chính chúng tôi và đất nước là đất
nước của chính chúng tôi mà khi đất nước
lâm vào vòng nguy hiểm thì chúng
tôi chỉ được phép đóng một vai trò thụ động
nhỏ nhoi đến nỗi tiếng nói của chúng tôi
hoàn toàn vô hiệu lực. Dĩ nhiên, một trong
những lý do khiến vấn đề này có thể xảy ra
là do mặc cảm của chúng tôi với đồng minh. Một
lý do khác nữa là do chúng tôi
đã tin tưởng vào Hoa Kỳ một cách mù
quáng. Lúc nào chúng tôi cũng cho
rằng dù chánh sách của Hoa Kỳ có thế
nào chăng nữa thì khi nhìn từ phương vị
toàn cuộc, những kế hoạch thực thi nhất định cũng sẽ
ăn khớp
khít khao. Đối với chúng tôi thì Hoa Kỳ nắm
giữ những tài nguyên và uy quyền to lớn đến mức họ
có thể làm bất cứ điều gì họ muốn. Bất chấp mọi
sự, chúng tôi tin rằng họ sẽ thành công.
Sự thật thì tuy chiến thuật của tướng Westmoreland có
bị
hoài nghi, nhưng chiến thuật đó vẫn mang lại chút
ít thành công. Cứ mỗi khi bị buộc phải đụng trận,
địch quân lại bị tổn thất nặng nề và bị buộc phải
tháo lui. Diễn biến này cho phép chúng
tôi có được những giây phút quý
giá để tăng cường các lực lượng và mở rộng ảnh
hưởng của chánh phủ Việt Nam vào những vùng
ngoài tầm với trước đây. Tầm mức hiệu quả tuy không
lớn lao nhưng thật là đều đặn. Và khi tình
hình quân sự đã khả quan hơn thì tình
hình chính trị cũng chuyển hướng khả quan theo.
Đúng vào giữa lúc tình hình khả quan
và đã có một vài thành công
rõ rệt thì Tổng Thống Johnson quyết định mời các
tướng Thiệu, Kỳ đến tham dự một cuộc họp thượng đỉnh ở
Honolulu.
Đây là cuộc họp đầu tiên giữa những vị lãnh
đạo Hoa Kỳ và Việt Nam. Lúc đó các cơ quan
ngôn luận và giới báo chí đã tỏ vẻ
nghi ngờ thiện chí của chánh phủ Hoa Kỳ. Nhiều cơ quan
ngôn luận Hoa Kỳ cho rằng cuộc họp thượng đỉnh chỉ là
một
ngón đòn của tổng thống Johnson nhằm đánh lạc
hướng và khiến dân chúng ít chú
tâm đến cuộc hội thảo sắp được truyền hình của Ủy Ban
Ngoại Giao ở Thượng viện Hoa Kỳ. Ủy Ban Ngoại Giao
nguyên
là một ủy ban có tầm ảnh hưởng rất rộng lớn do Thượng
Nghị Sĩ phản chiến William Fullbright lãnh đạo. Những
thông báo về cuộc họp thượng đỉnh được chánh phủ
Johnson đưa ra chỉ vẻn vẹn một tuần trước khi buổi hội
thảo bắt đầu
đã cho thấy đây là một sự ngẫu nhiên
đáng ngờ. Nhưng dù là do động lực nào
thúc đẩy đi chăng nữa thì đối với chánh quyền
Sài Gòn và nhất là đối với hai ông
Thiệu, Kỳ có lẽ thời điểm của cuộc họp thượng đỉnh
chẳng thể đến
vào một thời điểm nào khác tốt hơn được.
Vào tháng 2, năm 1966, ông Nguyễn Văn Thiệu
và ông Nguyễn Cao Kỳ chỉ mới nắm quyền có 6
tháng. Trước sáu tháng này vẫn chưa ai biết
rõ về họ. Họ nguyên là những lãnh đạo của
nhóm Tướng Trẻ và là những người đã
đóng góp một phần vào việc đẩy tướng Nguyễn
Khánh ra khỏi chính trường. Rồi sau đó họ lại
là người thừa hưởng chính quyền từ chính phủ
dân sự của bác sĩ Phan Huy Quát. Mặc dù
ông Thiệu và ông Kỳ đã có một số uy
tín quân sự, nhưng họ vẫn chưa chứng tỏ được khả năng
lãnh đạo chính trị. Vậy mà chỉ mới sau nửa năm nắm
chính quyền, họ đã thành công đáng
kể, nhất là trong việc củng cố vững mạnh quân đội
và thiết lập những chương trình bình định
nông thôn. Hơn nữa, vào lúc này tuy
các đoàn thể chánh trị và tôn
giáo vẫn chưa bỏ hẳn những ý định chống đối nhưng
ít ra họ cũng không còn biểu tình
ngoài đường phố hoặc tổ chức bạo động để chống chánh
phủ.
Đối với Việt Nam thì đây quả là một thành
công đáng kể. Kết quả là sự nghiệp của ông
Thiệu và ông Kỳ bỗng tiến sang một bước ngoặt mới. Họ
là những tướng lãnh nhà binh đang trở thành
những nhân vật lãnh đạo chính trị chánh
thức. Bởi vậy, cuộc họp thượng đỉnh đối với họ thật sự
là một
biến cố quan trọng đặc biệt. Cuộc họp đã khiến hai ông
Thiệu, Kỳ có cơ hội trực tiếp tìm hiểu ý muốn của
Hoa Kỳ qua giới lãnh đạo cao nhất. Đây là một cơ
hội hiếm hoi từ trước đến nay Việt Nam vẫn chưa bao
giờ có được.
Cuộc họp thượng đỉnh đã khiến cương vị của hai ông
Thiệu,
Kỳ trở nên vững vàng. Chính cuộc họp cũng đã
góp phần tạo nên hình ảnh của họ như những
nhân vật lãnh đạo của đất nước.
Dĩ nhiên, phản ứng của họ đối với biến chuyển này
hoàn toàn khác biệt. Mặc dù từ trước đến
nay, ông Thiệu và ông Kỳ vẫn là hai người
thông minh và xuất sắc nhất trong nhóm các
tướng trẻ, họ vẫn gần như hai nhân vật không có điểm
gì chung. Vào năm 1966 thì ông Thiệu, người
Nam, mới có 42 tuổi và ông Kỳ, người Bắc, mới
có 35 tuổi. Họ đã không phải là bạn
cùng học lại cũng chẳng phải là bạn thân thiết với
nhau. Từ nhân cách, tính tình cho đến
cách suy luận vấn đề, họ đều hoàn toàn khác
biệt. Những người Việt Nam thường kháo nhau rằng: Nếu
có
thể bỏ hai ông Thiệu, Kỳ vào cái cối mà
giã thì có lẽ chất hỗn hợp này sẽ
hoàn hảo hơn tính tình riêng của hai người
cộng lại rất nhiều.
Vì bị buộc phải đấu lưng hợp sức, chánh phủ của hai
ông Thiệu, Kỳ và các tướng tá đồng nghiệp
đã thiếu luật bầu cử mà lại cũng chẳng có hiến
pháp. Trong chánh phủ thì ông Kỳ đóng
một vai trò nổi bật. Ông là thủ tướng, người đứng
đầu Ủy Ban Hành Pháp Trung Ương và là người
điều hành công việc hàng ngày trong nước.
Tuy vậy, quyền lực thật sự lại thuộc về một nhóm quân
sự
gọi là Ủy Ban Lãnh Đạo Quốc Gia do ông Thiệu
làm chủ tịch.
Vốn là người trầm lặng và từng trải hơn ông Kỳ,
ông Thiệu đã phục vụ lâu năm hơn và có
nhiều kinh nghiệm chính trị hơn. Vì đã mục
kích nhiều cuộc thay đổi chính phủ, ông Thiệu cảm
thấy rõ ràng hơn ông Kỳ những nguy hiểm của một
cương vị nổi bật quá sớm khi tình hình chưa được
hoàn toàn ổn định. Ngược lại, ông Kỳ lại thiếu thận
trọng. Ông không chút e dè khi thu hút
tất cả những sự chú tâm về phía mình. Chẳng
hạn như việc ông Kỳ đã đi làm bằng trực thăng, mặc
dù chỉ sống cách Phủ Thủ Tướng có 3
ki-lô-mét. Mỗi sáng khi ông đến thì cả
Phủ Thủ Tướng đều bị chấn động vì tiếng trực thăng.
Đến nơi
ông Kỳ lập tức nói chuyện ngay với bất kỳ nhà
báo nào đang có mặt tại đó, không hề
sửa soạn gì trước. Trong khi ông Kỳ điều hành
chánh phủ và được đa số quần chúng chú
tâm thì ông Thiệu lại vận động ở hậu trường, củng cố
thực quyền và nỗ lực cố đem những ảnh hưởng của mình
vào việc hoạch định chính sách. Việc liên
minh giữa ông Thiệu và ông Kỳ đã hẳn chỉ
là một việc liên minh tạm thời. Ngay từ lúc đầu, họ
đã xem nhau như đối thủ và luôn luôn vận động
để tranh đoạt ngôi thứ. Tuy vậy, khi tranh ngôi đoạt
thứ,
họ cũng ngấm ngầm đồng ý rằng ngày nào chiến cuộc
còn khốc liệt thì ngày đó họ còn cần
phải cùng nhau giữ vững chính phủ. Đối với cả hai
nhân vật vừa mới bước chân vào cương vị lãnh
đạo thì Honolulu là một biến cố trọng đại. Vào
ngày nhận được giấy mời, họ đã huy động toàn thể
chánh quyền để chuẩn bị cho cuộc họp. Bộ Tổng Tham Mưu
được ủy
nhiệm phân tích tình hình quân đội
và liệt kê những nhu cầu cấp thiết cần viện trợ. Tướng
Nguyễn Đức Thắng, Bộ Trưởng đặc trách xây dựng nông
thôn, được lệnh thảo một bản báo cáo tường tận về
những chương trình bình định nông thôn.
Riêng tôi phải lao mình vào việc xếp đặt
toàn thể chương trình. Khó khăn hơn nữa, tôi
còn được ủy nhiệm thảo một bản diễn văn chánh thức để
Thủ
Tuớng Kỳ đọc tại hội nghị thượng đỉnh.
Trong một thời gian ngắn ngủi, và đang trong hoàn cảnh
phải xếp đặt những việc cần phải làm khác thì việc
soạn diễn văn cho ông Kỳ quả là một thử thách lớn
lao. Tuy thế, tôi vẫn cho đây là một cơ hội.
Lúc này, tôi đã hoàn toàn
hòa mình vào làm việc với một chánh
phủ quân nhân. Trong những tháng vừa qua, tôi
đã nhận thấy ông Thiệu và ông Kỳ có lẽ
là những người có thiện chí. Tuy có đố kỵ
và theo đuổi những tham vọng cá nhân, họ vẫn chưa
tệ đến nỗi quên cả chánh phủ. Hơn nữa, nhờ có Hoa
Kỳ can thiệp, họ đang thành công rực rỡ. Lúc
này, họ đang lợi dụng cơ hội. Nhất là những cơ hội để
củng cố quân đội quốc gia.
Tuy nhiên, mặc dù đang có nhiều lợi điểm,
chánh phủ vẫn thiếu một đường hướng chính trị rõ
rệt. Họ vốn là những quân nhân chưa hề suy nghĩ
sâu xa về các vấn đề chính trị hoặc xã hội.
Nhưng theo tôi thấy thì họ cũng rất cởi mở và
ít nhất là ở một mức độ nào đó, họ cũng
là những người còn có thể sửa đổi được. Và
về riêng phương diện này thì ông Kỳ có
vẻ dễ dàng thay đổi hơn ông Thiệu. Thật sự thì
tôi đã âm thầm bắt đầu làm những việc trong
phạm vi khả năng để chuyển hướng chú ý của ông Kỳ
vào những quan niệm cải cách xã hội, kinh tế
và những vấn đề của một chánh phủ hợp hiến. Tôi
đã cố xoay chuyển sự chú tâm của ông về những
vấn đề liên quan đến hoài bão của bác sĩ
Quát và hoài bão của những người trong
nhóm chúng tôi trong suốt gần hai thập niên
khi trước. Trong những bài diễn văn soạn thảo cho ông
Kỳ,
tôi đã nhấn mạnh những chủ đề như cố mang lại công
bằng trong xã hội, cố tạo ra những cơ hội phát triển
giáo dục, kinh tế, tự do tín ngưỡng và các
quyền lợi bất khả xâm phạm của người dân. Tôi cũng
đã mạnh dạn đưa ra vấn đề cần phải chuyển hướng chánh
phủ
để dẫn đến một chánh phủ dân chủ hợp hiến. Đứng vào
cương vị của một người soạn thảo diễn văn, tôi đã cố
không che đậy những sự thật ác nghiệt rằng chế độ Việt
Nam
lúc này là một chế độ chưa được gọi là
dân chủ. Tôi đã cố không phủ nhận rằng cải
cách đang ở một mức độ quá chậm và những căn bệnh
quá khứ quả đã gần như nan y. Nhưng theo như một trong
những lời viết của bài diễn văn thì tiền đề quan trọng
hơn cả là: "[Chúng tôi đã] có một mục
tiêu xứng đáng để tranh đấu không những chỉ để chống
lại Cộng Sản mà còn để phát triển một quốc gia
yêu chuộng tự do cá nhân và đang ở vào
một tình trạng đang cần phải cải tiến."
Đối với tôi thì đây không phải chỉ là
vấn đề ngôn từ mà chính là những mục
tiêu thực thụ cần phải đạt được nếu Việt Nam muốn có
những
nỗ lực đoàn kết cần thiết để chống cự lại cuộc tàn
sát của các kẻ thù hung hiểm giáo điều.
Phần lớn ý kiến của tôi vẫn chưa được chuyển thành
những chương trình có kế hoạch hẳn hòi, nhưng
đây chẳng qua chỉ vì ông Thiệu và ông
Kỳ cũng vừa mới bắt đầu chú tâm đến các vấn đề
mà thôi.
Lạ lùng thay, ông Kỳ lại có vẻ hưởng ứng những cuộc
thảo luận về vấn đề cải cách. Có lẽ ở một mức độ
nào đó, ông đã bị những quan niệm dân
chủ ảnh hưởng. Tầm mức ảnh hưởng có lẽ vừa đủ để ông
có thể đề cập thẳng thắn và tự dấn thân dần
vào việc. Mỗi lần ông đưa vấn đề ra trước công luận
là mỗi bước ông xa rời cương vị độc đoán và
tiến gần đến những mục tiêu dân chủ hơn. Những gì
ông đưa ra trước công luận không phải là những
điều có thể dễ dàng rút lại hoặc có thể dễ
dàng xem thường.
Trong tình trạng vừa kể, tôi bắt đầu thảo bài diễn
văn mà ông Kỳ sẽ đọc tại Honolulu. Mặc dù ông
Kỳ rất cởi mở với những quan niệm cách mạng xã hội, cả
tôi lẫn các cộng sự viên của tôi đều
không rõ ông sẽ vui lòng tranh đấu đẩy mạnh
việc thực thi những quan niệm đó đến mức độ nào với
các tướng trẻ. Vả chăng nếu Việt Nam công khai hứa sẽ
cải
cách và công khai đưa ra một thời hạn nhất định với
các nhà lãnh đạo Hoa Kỳ tại cuộc họp thượng đỉnh
thì hẳn nhiên các biến chuyển về sau không dễ
gì thay đổi được.
Vì trong tâm suy nghĩ như thế nên tôi
đã thảo một bài diễn văn hết sức đầy đủ và thiết
tha đưa vấn đề cải cách đi xa đến mức tột cùng cởi mở
của
ông Kỳ. Trong những vấn đề đưa ra, song song với vấn
đề cần thiết
phải đạt được chiến thắng trong chiến cuộc tôi cũng đề
cập đến
những lý tưởng xây dựng quốc gia, thiết lập hiến
pháp và quay về với chánh phủ dân sự.
Tôi đã hòa hợp rất khéo những điều tôi
muốn nói và những điều ông Kỳ nghĩ là
ông có thể sẽ theo. Bài diễn văn vừa đưa ra những
khuynh hướng mạnh dạn của ông Kỳ, vừa nêu lên tầm mức
cần thiết của những dự định đã được đưa ra. Trong khi
đó
tôi cũng tránh liên lạc với những người trong
nhóm ông Thiệu, những người mà tôi biết sẽ
quan niệm lệch lạc khi nhìn thấy những hoạt động của
tôi
vào lúc này.
Nỗ lực của tôi quả thật mong manh vô độ. Trước đây,
ông Thiệu đã nhiều lần xem xét cẩn thận những
bài diễn văn tôi soạn thảo cho ông Kỳ. Vốn là
người thận trọng, ông Thiệu lúc nào cũng
tránh những việc hứa hẹn. Trước đây, trong những
bài diễn văn tôi soạn, ông đã không
hài lòng với rất nhiều đoạn. Thường thường, phụ tá
của ông gọi tôi để bàn luận nếu không về vấn
đề này thì cũng về vấn đề khác. Họ nêu
rõ cả những thay đổi và những đoạn cần phải cắt bỏ.
Những
lúc như vậy tôi thường tìm đến ông Kỳ, nhờ
ông thảo luận lại với ông Thiệu để chúng tôi
có thể giữ được những điểm chính. Đôi khi ông
Kỳ chấp nhận, có lúc ông chối từ, và một khi
ông Kỳ đã khước từ thì tôi đành phải
nhượng bộ. Phần lớn những điều tôi đưa ra đều tùy
thuộc
vào những liên hệ phức tạp giữa ông Kỳ và
ông Thiệu, vì thế kết quả thường rất khó
đoán. Nhưng kết cục thì trong bài trình
bày ở Honolulu, những vấn đề mấu chốt chẳng hạn như
vấn đề kinh
tế và vấn đề cần phải có một chánh phủ dân
sự đã được giữ lại y nguyên.
Ngoài những bản diễn văn, tôi còn sửa soạn
thêm một bản ghi chú và đã liệt kê tất
cả những câu hỏi quan trọng mà tôi nghĩ ông Kỳ
nên đưa ra khi nói chuyện với Tổng Thống Johnson.
Tương tự
như bản ghi chú tôi đã viết cho chuyến thăm viếng
Bộ Trưởng McNamara trước đây, bản ghi chú tôi viết
cho ông Kỳ lại nhấn mạnh một lần nữa vấn đề chúng
tôi cần phải hiểu rõ những chiến lược trường kỳ cũng
như
phải hiểu rõ những vấn đề Hoa Kỳ cho là hệ trọng.
Nói chung thì sau một tuần lễ tích cực chuẩn bị,
tôi đã cảm thấy hài lòng và tự tin
rằng những nỗ lực của chúng tôi sẽ giúp Việt Nam
ứng đối trôi chảy trong cuộc họp sắp đến tại Honolulu.
Tôi
cũng hài lòng và hồi hộp vì trong cuộc hội
thảo chung bàn luận về những diễn tiến của cuộc họp
thượng đỉnh
, tòa đại sứ Hoa Kỳ đã không làm áp
lực gì mạnh với chúng tôi. Tôi đã cho
cả hai người bạn thân tại tòa đại sứ là ông
Edward Lansdale và vị cố vấn chính trị mới là
ông Philip Habib rõ về nội dung của những bài diễn
văn. Tuy cả hai đều rất hài lòng vì những hứa hẹn
dự định dân chủ của chúng tôi, họ vẫn có vẻ
chú tâm vào các chương trình
bình định nông thôn. Họ khuyên rằng
chúng tôi nên chuẩn bị kỹ lưỡng để đương đầu với
các cơ quan báo chí quốc tế tại cuộc họp thượng
đỉnh.
Giám đốc phòng thông tin Hoa Kỳ là ông
Barry Zorthian đã bỏ ra rất nhiều thời giờ bàn luận
với
tôi về cách chuẩn bị trả lời những câu hỏi của
các phóng viên báo chí. Ông
nhấn mạnh sự bạo dạn của họ khi săn tin và nhắc nhở
chúng
tôi phải chuẩn bị. Vấn đề phải hội kiến với toàn thể
các cơ quan báo chí tại cuộc họp thượng đỉnh
là một trong những điều làm tôi hồi hộp.
Ngoài những trường hợp tiếp xúc cá nhân với
riêng từng ký giả, từ trước tới nay tôi chưa hề phải
đương đầu với các ký giả của Hoa Kỳ. Tôi vẫn chưa
tin tưởng hoàn toàn vào khả năng Anh Ngữ của
mình. Khả năng Anh Ngữ của ông Kỳ lại còn tệ hơn.
Tôi đã nhắc đi nhắc lại ông Kỳ rằng nếu bất cứ khi
nào gặp khó khăn, ông nên hỏi để tôi
có thể nhảy vào sửa chữa hoặc bổ sung chi tiết. Tuy
thế,
tôi biết ông Kỳ không hề sợ hãi. Nhất
là đối với phóng viên báo chí
thì lúc nào ông cũng phát biểu thẳng
thừng.
Vào ngày 6 tháng 2, chúng tôi rời
sân bay Tân Sơn Nhất trên chiếc máy bay đặc
biệt của Tổng Thống Johnson. Tất cả chúng tôi đều
cùng nửa hồi hộp, nửa hy vọng. Cùng đi với chúng
tôi là đại sứ Henry Cabot Lodge và những nhân
viên của tòa đại sứ. Chúng tôi cho đây
là một cuộc hội kiến lịch sử. Vì là người mới bắt
tay vào việc, tôi rất thán phục cách dự liệu
kỹ lưỡng của Hoa Kỳ. Tôi còn hồi hộp hơn khi xem bản
liệt
kê danh sách những nhân vật trong phái
đoàn Hoa Kỳ. Ngoài Tổng Thống Johnson, danh sách
bao gồm cả Ngoại Trưởng Rusk, Bộ Trưởng McNamara, các
ông
Rostow, Harriman, Wheeler và những nhân vật lừng danh
khác. Đây là một cuộc hội tụ của gần hết những
người mà về sau ký giả David Halberstam đã gọi
là: Những nhân vật kiệt xuất và lừng danh nhất (The
Best and The Brightest). Khi đọc qua tên tuổi các đại
biểu
Hoa Kỳ, bạn thân của tôi là Ngoại Trưởng Trần văn Đỗ
đã nửa đùa nửa thật nói rằng: "Tụi mình
là những đám người tí hon đang phiêu lưu
vào vùng đất Guilliver huyền thoại đây!"
Ấn tượng của chúng tôi còn mạnh hơn khi máy
bay đáp xuống phi trường quân sự ở Honolulu. Ngay giữa
con
đường trải nhựa mênh mông là một khán
đài chào mừng sừng sững cắm đầy quốc kỳ. Quang cảnh
phía hông cho thấy vị Tổng Thống Hoa Kỳ khổ người to
lớn
vượt hẳn lên khỏi hai vị tướng Việt Nam đứng cạnh
trông lồ
lộ chẳng khác nào biểu tượng rõ rệt về vai
trò thực thụ của hai chánh phủ. Nhưng nếu khổ người
của
tổng thống Johnson vượt khổ bao nhiêu thì diễn văn
chào mừng của ông lại thân mật và hiền
hòa bấy nhiêu. Chẳng những ông nói về "chiến
thắng chống xâm lược" và ông còn nói
đến "khắc phục đói kém, bệnh hoạn và thất vọng."
Ông đề cập đến vấn đề "y tế, giáo dục, nông nghiệp
và kinh tế," và về "một cuộc sống tốt đẹp hơn cho mọi
người dân." Hẳn nhiên đây là một bài
diễn văn chính trị, nhưng những cảm quan diễn tả dường
như
phát ra tự đáy lòng và lời lẽ bài
diễn văn đã khích lệ tất cả những người mang tâm
hoài bão việc tạo dựng một tương lai tốt đẹp cho Việt
Nam
sau chiến cuộc.
Thực sự thì vào lúc này tôi chẳng
có bao nhiêu thời giờ để suy nghĩ sâu thêm.
Vì là người giữ vai trò phối hợp phái
đoàn, tôi phải xem xét kỹ lưỡng mọi vấn đề
đâu vào đấy cho phiên họp ngày hôm sau.
Trời mới vừa chớm tối tôi đã nhập bọn cùng những
đồng nghiệp người Hoa Kỳ để cùng soạn thảo một bản
thông
cáo chung nhằm đưa ra khi cuộc họp thượng đỉnh kết
thúc
vào ngày hôm sau. Bất cứ ai đã là
người tham gia vào những cuộc họp có tính chất
quốc tế cũng đều biết việc soạn thảo là một công việc
đã đòi hỏi rất nhiều công phu và lại chỉ
mang lại những kết quả thật nhỏ nhoi. Tuy thế đây là
việc
những người tổ chức bắt buộc phải làm. Nhất là vì
bản thông cáo phải được soạn ngay trước khi buổi họp
bắt
đầu, nhưng vì trước đây tôi chưa bao giờ có
dịp tham gia những công việc soạn thảo tương tự nên
lúc này chẳng những tôi đã lao hết
mình vào cuộc với tất cả nhiệt huyết mà còn
thực sự tin tưởng rằng tôi quả đang đóng góp
vào việc tạo dựng lịch sử.
Không có điều gì trong bản tin có thể khiến
tôi suy nghĩ khác hơn. Khi việc hoàn tất thì
một bản thảo được gọi là bản tuyên ngôn Honolulu
đã bao gồm rất nhiều điều tổng quát. Trong bản
tuyên ngôn Hoa Kỳ và Việt Nam cùng cam kết
"sẽ bảo vệ Việt Nam chống xâm lược, tranh đấu cải cách
xã hội, tạo dựng một chánh phủ tự do, độc lập và
xây dựng hòa bình." Đối với Việt Nam thì vấn
đề khó nhất là vấn đề phải cam kết "soạn thảo một bản
hiến pháp dân chủ vào những tháng sắp tới,
đưa ra cho dân chúng Việt Nam thảo luận và bổ
túc rồi hợp thức hóa bản hiến pháp đó bằng
phương pháp bỏ phiếu kín và thiết lập chánh
phủ dân chủ qua thể thức bầu cử." Việc phải mang bản
soạn thảo về
cho ông Thiệu và ông Kỳ ký kết đối với
tôi quả là một việc ngại ngùng. Những phát
biểu hỗn hợp Mỹ-Việt về việc bảo vệ đất nước thoát
khỏi
ách xâm lược và ngay cả những đề nghị cải
cách xã hội có lẽ cũng chẳng gặp khó khăn
gì, nhưng đòi hỏi ông Thiệu và ông Kỳ
phải công khai hứa hẹn soạn thảo hiến pháp và chuẩn
bị bầu cử lại là một vấn đề hoàn toàn khác
hẳn.
Tuy thế thật là ngạc nhiên và sung sướng cho
tôi, việc lại diễn ra khác hẳn như tôi dự liệu. Cả
ông Thiệu lẫn ông Kỳ đều chẳng để ý gì đến
nội dung của bản soạn thảo mặc dù lời lẽ các điều kiện
trong bản soạn thảo thật là chi tiết. Họ đã quá
hân hoan vì các biến cố trong ngày. Việc họ
hứa rõ sẽ cải tổ trên giấy trắng mực đen trong một
tài liệu quốc tế mà chính họ không thể
nào từ bỏ được đã khiến tôi cảm thấy vui mừng
vô hạn.
Cuộc họp chánh thức mở màn vào ngày kế
tiếp, trong một hội trường tại nơi đặt bản doanh Tư
Lệnh Thái
Bình Dương. Hai phái đoàn tản ra quanh một chiếc
bàn bầu dục khổng lồ, nhưng đối với những người trong
phòng thì rõ ràng chỉ có một
nhân vật đáng kể. Tổng thống Johnson hoàn
toàn chế ngự buổi họp. Phong thái lãnh đạo
rõ rệt của ông nổi bật qua khổ người to lớn và sự
chú tâm nhất loạt của các cố vấn của ông. Mỗi
lần ông nghiêng người về phía đối diện để nhấn mạnh
những điều muốn nói là mỗi lần ông tạo ra những ấn
tượng khó quên cho những đại biểu Việt Nam.
Tổng thống Johnson chú tâm lắng nghe bài diễn văn
của ông Kỳ và rồi lại chú tâm nghe tướng
Thắng trình bày các chương trình
bình định nông thôn. Thỉnh thoảng ông lại ngắt
lời tướng Thắng để đưa ra câu hỏi hoặc ra lệnh cho
những phụ
tá ngồi phía sau. Những lời ông nghị luận vừa mạch
lạc lại vừa đi rất sát vấn đề. Đôi khi cũng có
vài câu văn vẻ. Có lúc ông ngỏ
ý "muốn xem Bộ Da Chồn treo trên tường." Đây
là một thành ngữ mà cả phái đoàn đều
mù mờ. Lúc đó, vì coi tôi như một
chuyên viên Anh ngữ nên nhiều người đã quay
lại hỏi tôi rằng: "Ông ấy nói cái gì
thế?"
Nhưng việc Tổng Thống Johnson dùng chữ thế nào để diễn
tả
tư tưởng không phải là vấn đề chính. Đại ý
toàn thể bản thông cáo đã được trình
bày quá rõ ràng. Ông muốn nhìn
thấy những kết quả thực tiễn từ cả hai phiá Mỹ Việt.
Qua
thái độ quả quyết của tổng thống Johnson chẳng ai có
thể
nhầm lẫn những điều ông mong mỏi. Về phía phái
đoàn Việt Nam thì ông Thiệu có lẽ vì
lý do gì riêng muốn ông Kỳ đóng vai
trò lãnh đạo nên đã phát biểu rất
ít. Ông Rusk cũng ngồi yên lặng với khuôn mặt
nghiêm trang như Phật trong khi Tổng Trưởng McNamara
vẫn
hí hoáy ghi chép trên những mảnh giấy
vàng như bao giờ.
Khi chúng tôi nghỉ trưa, tất cả đều cảm thấy mình
đã bắt đầu một hội nghị hết sức hứng khởi. Chiều đó,
lúc hai phái đoàn chia thành từng
nhóm để tiến hành công việc thì ông
Thiệu và ông Kỳ đến họp riêng cùng tổng thống
Johnson.
Theo tôi nhận định thì dường như vị tổng thống Hoa Kỳ
vừa
mới tái đắc cử và đang đứng trên đỉnh cao uy quyền
gần như chẳng có điểm nào giống với hai vị tướng
lãnh Việt Nam -ngoại trừ một điểm hiển nhiên là cả
ba đều cùng cam kết chống lại một kẻ thù chung.- Tuy
thế,
những phù hợp cá nhân đã khiến cả ba đều mỉm
cười tươi vui, mãn nguyện sau suốt hai giờ gặp gỡ.
Những cử chỉ
thật tâm và thân thiện của tổng thống Johnson
đã hoàn toàn thuyết phục được hai nhân vật
lãnh đạo của Việt Nam. Ông đã gây được thiện
cảm của cả ông Thiệu lẫn ông Kỳ. Có lúc tổng
thống Johnson và ông Kỳ cùng châu đầu
bên những tách cà phê như thể họ là
đôi bạn thân đã từ lâu.
Mặc dầu các vấn đề tại cuộc họp vẫn chưa được duyệt
lại kỹ
lưỡng, tất cả chúng tôi đều cho đây là một
cuộc họp thành công. Buổi họp ở Honolulu đã cho
Tổng Thống Johnson cơ hội gặp gỡ các tư lệnh quân sự
cùng các cố vấn cao cấp của ông và nhấn mạnh
với họ về tầm quan trọng của vấn đề bình định nông
thôn. Ông đã có dịp gặp gỡ và thẩm
định các tướng tá lãnh đạo Việt Nam. Ông
còn được họ hứa sẽ soạn thảo hiến pháp và tiến
hành bầu cử.
Có lẽ yếu tố quan trọng nhất là cuộc họp Honolulu
đã giúp tổng thống Johnson tránh được những lời
chỉ trích rằng ông chỉ dựa vào bạo lực quân
sự để giải quyết vấn đề. Để trả lời cho những chỉ
trích của giới
phản chiến lên án ông đã dựa vào bạo
lực quân sự để giải quyết vấn đề chính trị, tổng thống
Johnson đã nhấn mạnh y tế, giáo dục, sách vở,
phân bón và điện hóa những vùng
thôn quê. Cuộc thảo luận đã khẳng định những cam kết
xây dựng nông thôn và đã nhận định lại
rằng: Nếu không có những chương trình hữu hiệu để
dân chúng có thể ủng hộ thì dù
có tất cả sức mạnh uy quyền trên thế giới cũng chẳng
thể
nào thành công.
Cả ông Thiệu lẫn ông Kỳ đều hân hoan tột độ. Họ
đã được chánh quyền Hoa Kỳ tận lực ủng hộ. Hoa Kỳ
chẳng
những chỉ giúp đỡ họ bằng viện trợ quân sự mà
còn giúp đỡ cả đến việc củng cố chính phủ của Việt
Nam. Ông Kỳ đã vui mừng vượt mức. Ông đã
làm bạn được với tổng thống Hoa Kỳ và được giới
báo chí triệt để chú ý. Nỗi vui mừng
dào dạt đến nỗi ông Kỳ chẳng còn để ý đến
chuyện đặt câu hỏi với những đề tài tôi đã
soạn thảo trong bản ghi chú. Khi tôi hỏi ông về
các vấn đề trong bản ghi chú thì ông gạt
phắt đi rằng: "Ông xem đấy, lão già ấy đã
thật thà quá mức rồi, làm sao mà
mình còn nghi ngờ gì lão ta được nữa?"
Mặc dù ông Kỳ chưa hỏi đến những vấn đề tôi
đã liệt kê, tôi cũng vẫn cảm thấy có đủ
lý do để hài lòng. Không những bài
diễn văn đưa ra đã buộc chặt chánh phủ của hai ông
Thiệu, Kỳ phải giữ lời hứa thực hiện những cải cách xã
hội như tôi mong mỏi mà cả tổng thống Johnson cũng đặc
biệt chú tâm đến nội dung của bản trình bày.
Khi gặp riêng ông Kỳ, ông đã ngỏ lời hỏi
ông Kỳ cho biết rõ chi tiết hơn về "cuộc cách mạng
xã hội" mà ông Kỳ đã đề cập đến trong
bài diễn văn. Vì bản diễn văn trùng đúng
với ý tổng thống Johnson, ông Kỳ còn nhận ra rằng
thực sự chính tôi là nhân vật chính
đã giúp ông nâng cao uy tín với vị
tổng thống Hoa Kỳ. Từ nay trở đi, giữa những nhóm cộng
sự của
ông Kỳ, tôi không còn là người
ngoài nữa. Những biến chuyển khả quan đã khiến tôi
cảm thấy lâng lâng trên đường trở lại. Lúc
này tôi không còn phải bận tâm với
những nỗi lo lúc nào cũng canh cánh về việc
chánh phủ Việt Nam có thể lại xáo trộn như những
năm 1963-1964 trước đây. Sau các cơn biến động của
những
năm về trước, giờ đây tôi đã tình cờ bước
vào một khúc giao lưu của lịch sử. Đây là
một thời điểm hết sức đặc biệt vì mục tiêu của Hoa Kỳ
và những tiến trình của một nền dân chủ đang được
cả hai dân tộc ủng hộ. Cuối cùng các biến cố
đã chuyển theo khuynh hướng qui tụ và ổn định thay
vì suy sụp và tan rã.

Trang
mạng
Việt
Nam
Văn
Hiến
Trang : Gọng Kềm Lịch Sử
www.vietnamvanhien.net
www.vietnamvanhien.org
www.vietnamvanhien.info
www.vietnamvanhien.com
Email:
thuky@vietnamvanhien.net
Trang
mạng Việt Nam Văn Hiến là nơi bảo tồn di sản văn hóa
của
Việt tộc. Thắp sáng niềm tin Diên Hồng và nếp sống
Văn Hiến hầu phục hồi nền "An Lạc
& Tự Chủ" ngàn đời cuả Việt tộc.
|