Năm Thứ 4889


www.vietnamvanhien.org
www.vietnamvanhien.net
www.vietnamvanhien.info
www.vietnamvanhien.com



Hồi ký Võ Long Triều

 


 Giới Thiệu Võ Long Triều



Dân Biểu Võ Long Triều
(ảnh cuả
viendongdaily.com )

Vài hàng về tác giả: Ông Võ Long Triều sinh năm 1934 tại Bến Tre, nhưng lớn lên, học hành và sinh sống tại Saigon. Từ năm 1951 đến 1961, ông du học tại Pháp. Trở về nước, ông Võ Long Triều phục vụ tại Bộ Canh Nông VNCH và giảng dạy tại trường Đại Học Nông Lâm Súc. Dưới thời Nội Các Chiến Tranh của tướng Nguyễn Cao Kỳ, ông được tham khảo và mời giữ chức vụ Bộ Trưởng Thanh Niên.

Sau thời kỳ Nội Các Chiến Tranh, ông Võ Long Triều cho ra tờ Đại Dân Tộc và tranh cử vào ghế dân biểu Hạ Nghị Viện VNCH khóa sau cùng trước 30-4-1975.

 Sau biến cố này, ông Võ Long Triều cũng đã phải trả cái giá 11 năm tù trong các nhà tù Cộng Sản.



Võ Long Triều năm 2011
(ảnh cuả viettribune )

Mục Lục

1- Cái Mốc Lịch Sử
2- Lễ bàn giao tại Dinh Độc Lập
3- Vui buốn những ngày cải tạo ở Long Thành
4- Nghĩ lại phận mình
5- Vụ Ông Kỳ mưu toan lật Ông Thiệu
6- Du học tại Pháp
7- Hoạt động cuả Việt Cộng ở Paris thập niên 1950-1960
8- Những mối tình dưới thời sinh viên
9- Bước chân vào đời
10- Những niềm vui và nỗi buốn
11- Tranh chấp nội bộ
12- Xáo trộn chính trị sau cuộc đảo chánh 1963
15- Lạm bàn về chuyến đi Việt Nam cuà cựu Phó Tổng Thống Nguyễn Cao Ký
16- Những gì tôi biết về Nguyễn Cao Kỳ về nước
17- Tại sao cựu Đại Tưiớng Dương Văn Minh không về nước ?
18- Hồi Ức về chương trình phát triển quận 8
...

39- Ban Tay nào gây đỗ vỡ ?


ÐÔI LỜI VỚI MỘT SỐ ÐỘC GIẢ

Thưa quý độc giả,

Tôi chân thành cám ơn quý vị độc giả đã góp ý về những đoạn hồi ký của tôi đang được đăng tải trên báo Người Việt. Trước hết, xin trích một vài hàng tôi đã viết trong “Ðôi Lời Tâm Sự” ngay tại trang đầu: “Mặc dù nhiều bạn bè và thân hữu thúc giục tôi phải viết hồi ký, nhưng tôi không viết, bởi vì Pascal hay đại văn hào nào đó, tôi không nhớ rõ, viết rằng: “Cái tôi là đáng ghét” (Le moi est haissable). Và cũng tại vì đã có rất nhiều người viết về cái tôi đáng ghét đó một cách quá đáng, làm tôi mang mặc cảm.”à

“Ngày nay viết lại chuyện dài của cuộc đời như kể chuyện vui cho bạn bè, nghe qua rồi bỏ, đừng cho đó là quan trọng, càng không nên xem là tài liệu lịch sử bởi vì đó chẳng qua là diễn biến bình thường của xã hội con người mà thôi.”à

“Nếu nội dung có đề cập đến cái tôi và nếu có những lời thật mất lòng thì xin cho tôi cáo lỗi. Tác giả hứa sẽ trình bày chân thật, ngay tình, không tô son, không che dấu, bởi vì tôi quan niệm: “Thị phi thành bại chuyển đầu không.”

Một độc giả mỉa mai rằng nếu ông ấy là Việt Cộng thì sẽ mừng và sao chép hồi ký của tôi gởi cho giới trẻ để chứng minh rằng phe quốc gia cũng xấu như cộng sản, xin đừng ai chê ai. Xin thưa cùng vị độc giả: Tôi viết không phải để cho phe này hay nhóm kia đọc, người của Việt Nam Cộng Hòa hay người thuộc đảng Cộng Sản, mà tôi viết để cho mọi người đọc, bây giờ và sau này, thấy và hiểu được một số sự việc đã xảy ra trong khoảng thời gian của một đời người. Những suy nghĩ hay phê phán của tôi về con người hay sự việc sẽ được trình bày theo cách riêng, để phân biệt đâu là sự kiện, đâu là ý kiến. Tôi nghĩ, đây chính là quyền tự do ngôn luận của mỗi cá nhân.

Tôi đả hứa luôn luôn tôn trọng sự thật, nhưng cũng có thể nhiều lời nói hay sự việc kiểm chứng được, và cũng có nhiều sự việc không kiểm được, bởi vì mất liên lạc với nhân chứng. Và cũng có thể một nhân chứng nào đó được trích dẫn đã nói ra nhưng lại không lưu tâm đến lời mình nói trong bối cảnh đó nên có thể đã quên đi, như anh bạn Nguyễn Văn Trường. Anh cùng đi với tôi đến nhà Trung Tướng Nguyễn Văn Thiệu tại Bộ Tổng Tham Mưu, nhưng không nhớ nguyên văn câu ông Thiệu hỏi tôi: “Triều, toa biết Mỹ muốn gì không?” Phần tôi vì câu nói đó làm tôi bất bình, và cũng vì nhiều lời khác của Trung Tướng Thiệu trực tiếp nói với tôi đã ảnh hưởng sâu đậm đến nỗi về sau bào huynh của ông Thiệu đến tận nhà mời tôi tham gia hợp tác tôi đã từ chối. Hay là khi tôi hỏi một vài anh kỹ sư, cựu sinh viên khóa 2 và 3 nhập một tại Trường Cao Ðẳng Nông Lâm Súc Sài Gòn xem tên anh trưởng lớp Năm đó có phải là Thuận không? Không ai trả lời cho tôi chính xác. Cũng do sự việc vừa nêu trên, tôi thấy có những vụ việc người này biết toàn bộ, người khác chỉ biết một phần, cho nên cái nhìn của mỗi người có một góc độ khác nhau. Vì vậy tác giả dành quyền tái kiểm và sửa chữa khi xét thấy cần. Ngoài ra bá nhân bá tánh, kẻ ưa người ghét, kẻ thích người chê. Chuyện thế gian là vậy. Ai thích thì đọc, ai chê thì tránh. Tôi khó có thể làm vừa lòng tất cả mọi người, trong đó có người biết đúng sự thật, có người biết một phần, có người chỉ nghe lõm bõm qua lời đồn đãi. Ai muốn hiểu sao thì xin cứ theo ý kiến và suy nghĩ của chính mình.

Một độc giả cho rằng không phải Tướng Nguyễn Ngọc Loan bắt ông Hoàng Kim Lân quì tại sàn nhảy của nhà Hàng Văn Cảnh. Sự việc này do Linh Mục Nguyễn Quang Lãm, Chủ Nhiệm Nhựt Báo Xây Dựng, tận mặt thuật cho tôi nghe và yêu cầu tôi với tư cách là Tổng Trưởng trong nội các phải ngăn cản những vụ bất công như vậy. Một độc giả khác cho tôi biết đích xác không phải Tướng Loan mà là một sĩ quan cấp tá tên là Lịch đã làm việc đó. Thành thật cám ơn độc giả đã có nhã ý tốt, giúp tôi điều chỉnh một sự việc có thật. Tôi hỏi trong khi xảy ra chuyện đó có sự hiện diện của Tướng Loan hay không? Ðộc giả này không chịu trả lời. Cho dù ông A, ông B hay một sĩ quan nào khác ỷ thế, lộng quyền hiếp đáp người một cách vô tội vạ như vậy, điều đó không thể chấp nhận được và cũng đáng được nói đến.

Một độc giả khác cho rằng đi học tập cải tạo không ai đem cà-vạt, vét-ton theo mà tôi nói có ông thẩm phát ăn mặc đồ lớn, đi cầu làm rớt bóp. Vị độc giả cho rằng đây là điều phi lý. Nhưng đó lại là sự thật phũ phàng nên mới tức cười. Tôi cũng xin thêm rằng anh La Thành Nghệ ở chung trong tổ với tôi cũng có áo vét-ton và thường mặc khi trời lạnh hay buổi chiều đi dạo quanh rào của trại tù. Anh Lê Văn Thu, Bùi xuân Bào thường ăn vận vét-ton khi trời lạnh. Ða số tin rằng đi học tập thật, có bài giảng, có hội họp thảo luận, nên các ông lớn mới đem theo đồ lớn, nào ngờ đâu là bị tù đày mà ít ai lường trước được. Mùa Ðông năm đó trời lạnh hơn bình thường, ai có ở Long Thành tất sẽ rõ tình hình này.

Có vị độc giả cho rằng tôi cường điệu, vì tôi là một sĩ quan được biệt phái về bộ canh nông và chỉ là dân biểu thì làm gì đủ tư cách để xưng hô “toa moa” với ông Phó Tổng Thống Kỳ, đừng tự đề cao, hãy xét lại mình đi. Xin thưa, với chừng này tuổi đời, thăng trầm vinh nhục, nghèo khó, giàu sang đều có nếm đủ, tôi như thế nào người ta biết rồi. Muốn đề cao cũng không được cao, muốn hạ thấp cũng sẽ không trở thành thấp. Cuộc đời và số mạng của tôi đã an bài rõ rệt. Có điều tôi phải xin lỗi độc giả là thói quen của những người cùng thế hệ tôi, thời Việt Nam mình còn bị Pháp đô hộ, và tôi lại được du học bên Tây đến 10 năm trời nên học lối xưng hô của người Pháp, “Toi” ... “Moi.” Ðó là cách xưng hô thân mật của người Tây, “Mày,” “Tao” giữa bạn bè. Vì vậy gọi “toa” xưng “moa” với Thiếu Tướng Kỳ vì tôi có nhiều liên hệ thân thiện, và cũng là cộng sự viên thân tín của ông trong thời gian tôi ngồi trong nội các chiến tranh. Tóm lại mỗi sự thật có một số người nhìn và hiểu theo chiều hướng suy nghĩ và hiểu biết của cá nhân mình. Phần tôi không có lý do để tự đề cao mình hay bêu xấu kẻ khác, mà chỉ sử dụng quyền phê phán, khi cần, theo lương tri và sự suy nghĩ của mình, bởi vì người xưa viết: “Thị phi chi tâm, trí chi đoan giả” ý muốn nói cái tâm coi thường sự thị phi, chỉ cần cái trí ngay thẳng.

Trân trọng

Võ Long Triều

         Nguồn: Nguời Việt On line


CÁI MỐC LỊCH SỬ: NGÀY 30 – 04 –1975


Đêm 21 tháng 4-1975, Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu xuất hiện trên đài truyền hình, tuyên bố từ chức giao quyền cho Phó Tổng Thống Trần Văn Hương. Ông Thiệu còn hứa sẽ trở về với quân đội, nhưng tôi hiểu ngay lúc đó là ông ta sắp bỏ chạy. Sự thật tôi được biết: sau khi bàn cãi với các cận thần như Thủ Tướng Trần Thiện Khiêm, Trung Tướng Đặng văn Quang, Đại Tướng Cao Văn Viên, Tổng Tham Mưu Trưởng, Thiếu Tướng Nguyễn Khắc Bình Tư Lệnh Cảnh Sát Quốc Gia, vào buổi sáng 21 tháng 4, kết thúc vào lúc 11giờ, ông Thiệu quyết định từ chức và bàn giao ngay cho Phó Tổng Thống Trần Văn Hương lúc 3 giờ chiều, có sự hiện diện của Đại Tướng Cao Văn Viên, Thủ Tướng Trần Thiện Khiêm và Thiếu Tướng Nguyễn Khắc Bình. Ông Thiệu còn yêu cầu Đại Tướng Cao Văn Viên và Thiếu Tướng Nguyễn Khắc Bình tuyên bố trên đài phát thanh quốc gia là sẽ cực lực hỗ trợ chính quyền chuyển tiếp.

Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu phải từ chức vì khắp nơi ai cũng đòi ông phải ra đi, mà nhứt là cộng sản Hà Nôi ra điều kiện chỉ thương thuyết với một chính phủ không có Thiệu mà thôi. Theo tôi, Mỹ dù đã quyết định bỏ Việt Nam nhưng cũng còn hy vọng một giải pháp chính trị nào đó có thể làm cho “sự sụp đổ nhẹ nhàng hơn”. Đặc biệt nước Pháp đã từng ủng hộ giải pháp chính trị 3 thành phần, bây giờ thấy có cơ hội đứng làm trung gian giải quyết nên Đại Sứ Mérillon không ngần ngại trực tiếp liên lạc với cả đôi bên. Sau đó, ngày 23 cả hai ông Thiệu và Khiêm rời khỏi Saigon. Trái với thông lệ và nguyên tắc thường khi tàu chìm, thuyền trưởng phải là người cuối cùng rời vị trí. Có người cho rằng ông Thiệu đi sớm là vì muốn để cho ông Hương một mình rộng đường hành động, và để cho Pháp, Mỹ rảnh tay sắp xếp một giải pháp nào đó có thể giảm hại cho miền Nam. Tôi cho rằng, điều đó cũng không đúng lắm bởi vì một khi đã từ chức, bàn giao rồi thì Phó Tổng Thống Trần Văn Hương có toàn quyền hành xử mọi việc. Cho nên có người nói rằng ông Thiệu nhát gan, không xứng đáng, vì đã tìm đường an hưởng giàu sang phú quí thời gian cuối đời với gia đình, kỳ dư sống chết mặc bay.

Sau khi bàn giao, Tổng Thống Trần Văn Hương ký liền một số sắc lệnh cắt cử một số viên chức để điều hành công lực và hành chánh. Ngày 26-4-1975, ông cử Đại Tá Lâm Văn Nghĩa làm Giám Đốc Cảnh Sát Đô Thành, thay ông Trang Sĩ Tấn. Trong khi đó Việt Cộng lại thay đổi chiến lược, tuyên bố chỉ thương thuyết với chính phủ của ông Dương Văn Minh mà thôi. Trước đó, ngày 25-4 tôi nhận thơ mời họp lưỡng viện Quốc Hội. Các nhà lập pháp thảo luận vấn đề chuyển quyền Tổng Thống cho Đại Tướng Dương Văn Minh. Có lẽ chúng ta nên đề cập đến một vài sự việc khác liên quan, có thể giải thích rõ hơn việc chuyển quyền nầy.

Một tháng trước khi vội vã thoát thân, Tổng Thống Thiệu còn hy vọng mỏng manh vào viện trợ Hoa Kỳ. Vì vậy ông đã ra lệnh cho Đại Sứ Bùi Diễm vận động với quốc hội Mỹ xin viện trợ 700 triệu US đô-la, đồng thời ông cũng toan tính bán vàng sở hữu của Ngân Hàng Quốc Gia Việt Nam để mua đạn dược cho lính tiếp tục chiến đấu. Khi Đại Sứ Bùi Diễm từ Mỹ trở về báo cáo thì ông Thiệu không chịu tiếp. Đại Tá Võ Văn Cầm, Chánh Văn Phòng Phủ Tổng Thống cho biết ông Thiệu bận về vụ mất thành phố Phan Rang là quê nhà của ông nên không tiếp ông Đại Sứ được và nhờ tân Thủ Tướng Nguyễn Bá Cẩn tiếp giùm. Đại Sứ Bùi Diễm cảm thấy bất bình vì chuyện quốc gia đại sự mà Tổng Thống bỏ để lo mồ mả ông cha ở Phang Rang, nên ông Đại Sứ không chịu gặp Thủ Tướng Nguyễn Bá Cẩn.

Về phần Đại Sứ Hoa Kỳ Graham Martin, ông ta đã hối thúc Đại Sứ Bùi Diễm phải gặp Tổng Thống Thiệu để báo cáo rõ về khoản tiền viện trợ và ông Diễm trả lời rằng Tổng Thống Thiệu không chịu tiếp ông. Đại sứ Martin đành phải đích thân thông báo tin nầy cho TT Thiệu biết. Ông Thiệu không nói không rằng, nôm na là không thèm trả lời. Phải chăng vì bất bình khi đã lỡ tin lời hứa hẹn bằng giấy trắng mực đen của vị tổng thống Mỹ rồi mà nay thấy Hoa Kỳ ngoảnh mặt làm ngơ, tính thay ngựa giữa đường nên ông Thiệu mới có thái độ ấy? Trong khi đó, Trung Tướng Trần Văn Đôn lúc đó đang là Phó Thủ Tướng, phải đến nhà ông Bùi Diễm nài nỉ yêu cầu ông đi gặp ông Nguyễn Bá Cẩn. Dĩ nhiên ba nhân vật nầy không còn gì để nói với nhau ngoài việc thông báo Mỹ dứt khoát quyết định bỏ rơi Việt Nam.

Thế rồi, việc bán vàng mua đạn cũng không thành như lời ông Nguyễn Tiến Hưng tiết lộ trong hồi ký của ông. Bên ngoài, có tin đồn Thiếu Tướng Nguyễn Cao Kỳ chuẩn bị đảo chánh. Sự thật về vụ nầy chính ông Kỳ cho tôi biết thời gian sau nầy là ông có yêu cầu ông Trần Văn Hương ủy quyền cho ông điều khiển quân đội, vì ông tướng này nghĩ cụ Hương không hiểu biết về quân sự và cũng không đủ uy tín để điều khiển quân nhân các cấp. Ông Nguyễn Cao Kỳ chủ trương di chuyển quân, cán, chính về vùng IV ( đồng bằng sông Cửu Long) để tiếp tục chiến đấu. Ông Kỳ than với tôi rằng “ông già Hương cố chấp”, trong tình thế dầu sôi lữa bổng mà không biết “túng thế tùy thời” cứ khăng khăng nói chuyện pháp lý và sự thật có lẽ ông ấy sợ “moa” đảo Chánh nắm quyền. Theo tôi, tin ông Kỳ muốn đảo chánh có lẽ do Phủ Phó Tổng Thống phao ra. Cũng trong thời gian đó ông Nguyễn Cao Kỳ nhờ Dân Biểu Nguyễn Văn Cử, cựu thiếu tá không quân, người đã từng dội bom Dinh Độc Lập thời đệ nhứt Cộng Hòa với đồng đội là Phạm Phú Quốc, mời tôi gặp ông để bàn thảo. Tôi đoán biết trước ông sẽ nói gì nên tôi nhờ Dân Biểu Cử trả lời: “Mọi chuyện hết rồi!”. Ông Kỳ lại hối thúc Cử làm sao cho ông gặp được tôi. Dĩ nhiên tôi lại từ chối. Sở dĩ Thiếu Tướng Kỳ muốn gặp tôi lúc đó là vì trước kia vào năm 1967, khi tôi còn là Tổng Trưởng Thanh Niên của nội các chiến tranh do ông lãnh đạo, có lần ông Kỳ và tôi bàn về chuyện quân Mỹ tham chiến. Tôi có gợi ý với ông có lẽ ta phải phòng ngừa có ngày Mỹ sẽ rút bỏ như đạo quân viễn chinh Pháp rút về năm 1954. Tôi và ông Kỳ có nêu ra trường hợp Tưởng Giới Thạch rút quân về Đài Loan và sau đó tôi co nói “chúng mình còn Đảo Phú Quốc và các quần đảo lân cận. Hải quân của mình rất mạnh một trong nhiều nước đứng vào hàng đầu của thế giới, dĩ nhiên là toàn bộ do Hoa Kỳ viện trợ. Tàu bè và quân lính mình vẫn còn y đó”. Chúng tôi cũng nhắc đến trường hợp của lực lương vũ trang Hòa Hảo do Bẩy Đởm chỉ huy. Họ rút vào núi Thất Sơn không chịu đầu hàng chính phủ Đệ Nhứt Cộng Hòa. Trong rừng gặp Việt Cộng thì đánh Việt Cộng, gặp quốc gia thì đánh quốc gia, thế mà Bẩy Đởm chỉ có vài trăm quân lính! Chúng ta thừa sức lập chiến khu ở đó. Việt cộng đã từng lập chiến khu trong rừng đánh Pháp bằng tầm vong vạt nhọn và một ít súng trường của Nhựt Bổn huống chi là mình bây giờ. Cho tới mãi về sau Bảy Đởm mới bằng lòng qui thuận chính phủ đệ nhị Cộng Hòa với điều kiện là ông phải được giữ nguyên quân số Hòa Hảo của ông còn lại và phải được vinh thăng Trung Tá. Lực lượng Bảy Đởm sẽ hành quân tiễu trừ cộng sản theo lệnh của Trung Tá Tỉnh Trưởng Châu Đốc, nếu tôi nhớ không lầm là thời của Trung tá Nguyễn Văn Huệ. Chuyện lo xa, phòng ngừa viển vông nầy tôi có đem ra nói với Thiếu Tướng Nguyễn Bảo Trị đương kim Tư Lệnh Quân Đòan III thời đó. Tôi còn nhớ Trung Tướng Nguyễn Bảo Trị còn đưa ra ý kiến là vùng Hố Bò cũng hiểm trở có thể lập chiến khu được. Nhiều lần Tướng Nguyễn Cao Kỳ và tôi tưởng tượng đến những giải pháp không tưởng nầy. Nhưng với tình thế hiện tại muốn tổ chức kháng chiến, điều kiện tiên quyết là mình phải nắm vững chính quyền và phải có thời gian chuẩn bị. Thực tế bây giờ tất cả đang là hỗn loạn nên tôi từ chối không muốn gặp ông Kỳ, vì tôi nghĩ giải pháp này là vô ích.

Nay tôi đã có thể kể lại một chuyện có thật kể lại câu chuyện về một sĩ quan anh dũng của quân lực Việt Nam Công Hòa, Thiếu Úy Phước nếu tôi còn nhớ đúng tên anh, sĩ quan trường tốt nghiệp khóa 26 trường Bộ Binh Thủ Đức, cùng khóa với tôi. Anh là con của ông Trưởng Ty Học Vụ Châu Đốc, chỉ huy trưởng một Đại Đội Địa Phương Quân thuộc tỉnh Châu Đốc cho đến ngày 30-4-75. Anh không đầu hàng, dẫn quân vào Thất Sơn. Từ đó anh còn liên lạc và gom góp được cả ngàn quân sĩ tan hàng trong vùng. Tôi gặp anh trong nhà tù Chí Hoà năm 1977, khu BC phòng 14. Anh kể lại cuộc đời của anh và hành động hào hùng cuối cùng trong những ngày đó. Để nuôi quân sĩ trong núi rừng, anh chỉ thị cho thuộc cấp ban đêm lén ra ven rừng, gặt lúa của đồng bào, nhiều chỗ đồng bào còn gặt sẵn để đó cho, anh còn khuyên đồng đội lén về gia đình xin tiền bạc, thức ăn. Anh sung suớng thuật cho tôi nghe cuộc sống đầy kiêu trong rừng. Nhưng anh không biết phải làm điều gì kế tiếp? Lập chính phủ chăng? Anh tự xét không có khả năng và uy tín. Vì vậy anh cho người liên lạc với cựu Dân Biểu Huỳnh Công Minh, nhờ Dân Biểu Minh liên lạc với học giả, cựu Dân Biểu Hồ Hữu Tường và đề nghị ông nầy đứng ra thành lập nội các. Trong khi đó để chứng tỏ khả năng quân sự của những người Quốc Gia chưa chịu đầu hàng và để gây tiếng vang đối với quốc tế, anh chủ trương đánh lấy tỉnh Châu Đốc, chiếm vài giờ rồi rút vào Thất Sơn trở lại. Thực tế anh đã làm và đã thành công . Anh còn cười nói với tôi: “Xác chết của tụi nó còn nằm rải rác trên đường tụi em rút về núi. Sau đó do không đủ dè dặt kỹ lưỡng, Huỳnh Công Minh bị bắt rồi đến Hồ Hữu Tường, sau cùng là tất cả nhóm đầu não của anh Phước. Phước bị kết án tử hình, Bảo và một người nữa trong nhóm đầu não, tôi quên tên, bị án chung thân khổ sai, họ không được phép về phòng lấy đồ đạc cá nhân và từ giã anh em. Cùng ngày xử án đó có ông Khánh, đầu đàn của một tổ chức phản động Công Giáo ở Hố Nai, cũng bị tử hình. Dĩ nhiên những người anh em nầy đã bị hành quyết! Cùng ở trong phòng 14 với tôi có Trung úy biệt kích Nguyễn Văn Quí, một ngưới hùng khác, từng kể những chuyện ly kỳ cho tôi nghe khi anh công tác trong rừng Trường Sơn. Anh cũng có chứng kiến những chuyện tôi vừa kể trên và cũng biết hai người anh hùng Phước và Khánh vắn số nầy.

Nói đến dân biểu Huỳnh Công Minh, thiết tưởng cũng nên nhắc lại một bi hài kịch do chính anh Minh gây ra. Có một lần, Quốc Hội đang họp, anh Huỳnh công Minh từ ngoài cửa bước vào, tay cầm một trái lựu đạn đã rút chốt, la lớn: “Nguyễn Văn Thiệu đã ra lệnh cảnh sát bắt con tôi, ngồi trong xe, đậu trong vòng thành Quốc Hội. Nếu cảnh sát không thả con tôi ra ngay, tôi sẽ quăng liền trái lựu đạn nầy tại đây”. Chủ Tịch Nguyễn Bá Cẩn và toàn ban chủ tọa vụt chạy biến mất liền. Tuyệt đại đa số dân biểu cũng biến luôn. Tôi ngồi ở những hàng ghế cuối cùng ngay lúc anh Minh đi ngang qua, tôi nói:

-Anh Minh, chuyện đâu còn có đó, đừng làm bậy, đút chốt lựu đạn vô.

-Ông Tổng Trưởng, ông phải ủng hộ tôi.

-Tôi ủng hộ anh. Tôi hứa chắc, nhưng anh không được làm bậy.

Sự thật bụng tôi đang đánh lô tô, nhưng cố dằn sợ hãi, bước theo anh Minh đi dần đến bục diễn đàn của Quốc Hội, miệng tôi vẫn tự động láp nháp:

-Anh Minh, không nên làm bậy…

Tất cả Quốc Hội chỉ còn lại một ít người mà cho đến ngày nay tôi còn giữ sự kính nể. Đó là DB Trần Văn Tuyên, trưởng khối Dân Tộc Xã Hội, DB Út, trưởng khối Dân Biểu thân chính, DB Nhan Minh Trang, trưởng khối Cấp Tiến, DB Nguyễn Văn Binh và người bạn thân của tôi là DB Đặng Văn Tiếp, nguời bị cộng sản giết hại trong tù. DBTiếp la lớn:

-Nguyễn Bá Cẩn không được chạy trốn. Phải ra mặt bảo vệ quyền bất khả xâm phạm của tòa nhà Quốc Hội, nếu không chúng tôi sẽ phóng hỏa đốt cái nhà vô chủ nầy. Trong khi đó thì hai anh DB Út và Trang đeo theo anh Minh nói liên hồi:

-Minh đưa cái đó cho anh…

-Minh đưa cái đó cho anh…

Còn Dân Biểu Trần Văn Tuyên thì dùng máy vi âm, bị ông Cẩn cúp điện, nên anh không ngớt la lớn yêu cầu Chủ Tịch Quốc Hội phải lập tức can thiệp với chính quyền. Cuối cùng Huỳnh Công Minh bằng lòng đút chốt vào trái lựu đạn và bỏ vào túi. Không đầy nửa giờ sau cảnh sát thả con anh Minh ra và Quốc Hội lại tiếp tục họp.

Trong sự nguy hiểm bất ngờ như vậy mới thấy đởm lượng của con người, những ai còn giữ được bình tĩnh và danh dự. Thú thật tôi không thuộc vào hạng can đảm phi thường nhưng chưa đến nổi nhát gan bỏ chạy. Suy cho cùng mới thấy Huỳnh Công Minh chỉ hù dọa thôi chớ nếu anh muốn cho nổ thật sự thì cứ quăng thẳng trái lựu đạn vào ban chủ tọa hay quăng vào một góc trống nào đó của Quốc Hội để thị uy. Cũng giống như đã có lần Dân Biểu Nhử Văn Úy móc súng “rouleau” bắn rầm rầm vào hình nộm trước cửa Quốc Hội bên dưới có viết mấy chữ “kẻ nào muốn sửa đổi Hiến Pháp sẽ chịu số phận như thế nầy”. Khi anh Úy bước vào khỏi cửa bị Dân Biểu Đặng Văn Tiếp túm cổ áo mắng:

-Thằng gia nô, mầy vào xó ngồi của chúng bây đi.

-Anh làm gì kỳ vậy? Đây là Quốc Hội, tôi có quyền đi, ngồi bất cứ chỗ nào.

Không nói không rằng, Đặng Văn Tiếp móc túi lấy ra một khẩu súng lục nhỏ Browning 6.35 chỉa vào Dân Biểu Úy hét: “Đ.M. nếu mầy không về chỗ của gia nô liền thì ông ‘feu’ (tiếng Pháp là bắn) mầy nát đầu.

Nhữ Văn Úy riu ríu đi về phía trái của Quốc Hội !


***


Trở về với các biến chuyển dồn dập những ngày cuối 30 tháng 4-1975, Đại Sứ Pháp Mérillon cũng tìm cách môi giới giữa Hà Nội và chính quyền Saigon để tìm giải pháp 3 thành phần. Trong khi đó việt cộng đưa điều kiện là phải trao quyền cho Dương Văn Minh. Saigon còn dằng co, Mérillon cho biết bên kia hăm sẽ pháo kích nát thành phố, nếu ông Hương không chịu trao quyền. Để thị uy và cảnh cáo, quân cộng sản thông báo sẽ bắn 3 hỏa tiễn vào dinh Độc Lập. Thật sự, họ có bắn 3 quả nhưng không trúng Phủ Tổng Thống mà rớt một trái trên đường Công Lý gần đó, một trái trúng khách sạn Majestic và một trái rơi vào vườn Tao Đàn, phía sau Dinh Độc Lập.

Trong phiên họp lưỡng viện Quốc hội, các nhà lập pháp thân chính, viện dẫn lý do chính đáng là Tổng Thống từ chức thì Phó Tổng Thống thay quyền, nếu phó Tổng Thống từ chức hoặc mất đi thì Chủ Tịch Thượng Nghị Viện thay thế. Không có lý do để trao quyền. Những vị nầy cho đó là âm mưu gian trá. Phía Dân Biểu và Nghị sĩ thân Dương Văn Minh yêu cầu tạm ngưng để các Trưởng Khối thảo luận trước khi đưa đề nghị ra biểu quyết. Yêu cầu nầy được chấp thuận. Các Trưởng khối được thông báo về sự hăm dọa của Cộng Sản do Mérillon chuyển lời. Sau phiên họp, khi được thông báo lời dọa nạt của Việt cộng sẽ pháo nát Saigon, vài vị dân biểu, nghị sĩ thân chính nhát gan, trơ trẻn trách rằng sao không nói trước! Kết quả đề nghị trao quyền được 2/3 dân biểu, nghị sĩ chấp thuận. Tôi không bỏ phiếu bởi vì tôi không muốn có tên mình lưu lại trong một cuộc sắp xếp phiêu lưu, bất hợp hiến.

Cộng sản Hà Nội lại biểu lộ bộ mặt gian trá của họ Khi Đại Tướng Dương văn Minh gởi một phái đoàn đi gặp phái đoàn Việt Cộng ở Tân Sơn Nhứt, Võ Đông Giang trả lời đã quá muộn. Hà Nội đổi chiến lược. Trước kia họ đòi thương thuyết với một chính phủ không có Thiệu. Kế đó họ tuyên bố chỉ nói chuyện với Dương Văn Minh, bây giờ lại trở cờ khi ông Minh đưa người đến tiếp xúc.

Phiên họp lưỡng viện Quốc Hội có tính lịch sử chấm dứt. Tôi ra về, tại hành lang Thượng Nghị Viện tôi thấy Tướng Nguyễn Khắc Bình, Tư Lệnh Cảnh Sát Quốc Gia đang đứng đó, tôi hỏi bằng giọng gay gắt:

-Tại sao Thiếu Tướng còn ở đây? Không chạy mau lát nữa chạy không kịp à!

-Ông Dân Biểu đừng nói vậy, tôi rất kính nể ông Dân Biểu.

-Phải rồi, nhờ Thiếu Tướng kính nể chớ không thì tôi đã tan xương rồi.

Ông Bình lặng thinh không trả lời. Ai cũng biết con người ông nhỏ nhẹ khéo léo trong cung cách của bàn tay sắt bọc nhung.

Cũng tại hành lang Thượng Viện có mặt Nguyễn Xuân Phong, thương thuyết gia từ Paris về đứng cùng với Phó Thủ Tướng Nguyễn Văn Hảo. Ông Phong là đồng sự của tôi trong nội các chiến tranh với tư cách Tổng Trưởng Xã Hội. Tôi hỏi:

- Tại sao toa không ở Paris mà về làm gì, coi chừng chạy không kịp đấy.

Phong trả lời :

-“Toa biết con khỉ gì. C’est une affaire politique, ce n’est pas une affire militaire”. (Đây là vấn đề chính trị chớ không phải vấn đề quân sự).

Tôi cười bỏ đi. Khi vào trại cải tạo ở Long Thành, tôi gặp Nguyễn Xuân Phong khiêng phân người tưới cải, tôi lại đùa:

“Ê Phong, c’est une affaire politique”? (Đây là vấn đề chính trị)?

Anh trả lời:

-“Il faut payer comme tout le monde”! (Phải trả giá như mọi người)


Lễ bàn giao tại Dinh Ðộc Lập

Chiều ngày 28 Tháng Tư tôi được mời đến dinh Ðộc Lập dự buổi lễ bàn giao chức vụ tổng thống vào lúc 4 giờ. Tôi đến đúng giờ, nhìn thấy quan khách lưa thưa, những hàng ghế trống còn nhiều. Tôi ngồi gần Trung Tướng Tư lệnh Không Quân Nguyễn Văn Minh, phía bên trái ông là Thiếu Tướng Nguyễn Văn Chức, Tổng Cục Trưởng Cục Công Binh. Dân Biểu Nguyễn Văn Binh ngồi cạnh tôi. Trước mặt tôi cách vài hàng ghế là cựu Tổng Trưởng Kinh Tế Nguyễn Duy Xuân, ông sẽ là Tổng Trưởng Giáo Dục của nội các Vũ Văn Mẫu. Sau lưng tôi cách hai hàng ghế là cựu Thứ Trưởng Giáo Dục Nguyễn Thanh Liêm còn bao nhiêu là người trong bộ tham mưu của ông Dương Văn Minh, số người cũng không nhiều. Ấn tượng tôi còn giữ được, ngày bàn giao đó là lạnh nhạt, buồn tẻ, gượng ép.

Trong lúc ngồi chờ buổi lễ khởi sự, trong phòng kiếng nhìn ra bên ngoài bỗng nhiên tôi thấy trời nổi cơn giông, mưa ít mà gió nhiều, gió thổi mạnh, cành cây quằn quại, đột nhiên một nhánh to của cây thông gãy đổ, rồi một nhánh nhỏ gãy theo. Tôi chợt nghĩ đến chuyện viết trong Tam Quốc Chí, trước khi xuất quân cờ soái lệnh bị gãy là điềm không may! Mặc dù tôi là người công giáo, không chấp nhận mê tín dị đoan, nhưng điều trông thấy trước mắt cũng làm tôi suy nghĩ khá nhiều. Càng thắc mắc hơn nữa là vài chục phút sau, lễ bàn giao chấm dứt, chúng tôi ra ngoài vẫn thấy trời quang mây tạnh, gần như không có mưa. Sự kiện này in sâu trong đầu, làm tôi nhớ mãi. Giờ hành lễ đã đến, Tổng Thống Trần Văn Hương xuất hiện nói ngắn gọn: Ông nói chỉ trao quyền cho Ðại Tướng Dương Văn Minh mà thôi và vào giờ phút nghiêm trọng này ông chỉ tin tưởng một người duy nhứt là Ðại Tướng. Ông mỉa mai hay là nói thật? Chỉ có ông và Trời biết. Ông Dương Văn Minh dù không có học một ngày nào với cụ Hương nhưng vẫn gọi cụ là “thầy.” Ông hứa hẹn sẽ tận lực cứu vãn tình thế đưa quốc gia đến bến hòa bình. Hai bài diễn văn ngắn gọn, buổi lễ chấm dứt vào khoảng 5 giờ 20.

Bước xuống bậc tam cấp dinh Ðộc Lập, Dân Biểu Nguyễn Văn Binh và tôi tâm sự nhiều về thời cuộc, tiên đoán lung tung, không có gì trúng cả, trước tình hình rối loạn như tơ vò của phía quốc gia. Chúng tôi rủ nhau đi ăn cơm chiều. Lý Chánh Trung, người sẽ là Bộ Trưởng Phủ Thủ Tướng, chạy theo xin cho đi cùng, tôi từ chối. Binh và tôi đến quán ăn. Quán vắng tanh. Ngồi vào bàn, anh chiêu đãi viên chạy đến, vừa ghi xong những món ăn bỏ đi chưa đầy 10 phút chúng tôi nghe hai tiếng nổ ầm ầm. Chuyện không lành. Gọi ông chủ nhà hàng đến xin lỗi chúng tôi phải về gấp. Về đến nhà tôi, Nguyễn Văn Binh gọi điện thoại vô dinh Ðộc Lập, được trả lời là có máy bay địch giội bom vào dinh, không có thiệt hại gì cả ngoài sự lo sợ. Chúng tôi nghe bom nổ ì ầm ở xa, bèn lên sân thượng nhà tôi đứng xem về hướng Biên Hòa thấy khói mù mịt. Tôi đoán là sân bay Biên Hòa bị đánh bom, mà sao chờ mãi không thấy máy bay của mình lên nghênh chiến? Về sau, tôi mới biết rằng lần giội bom đó là do Trung Úy Nguyễn Thành Trung, một phi công trong không lực VNCH vốn là một đảng viên Cộng Sản nằm vùng được lệnh trở mặt. Còn quân ta thì vào giờ thứ 25 rồi, chắc không còn ai muốn thí mạng mình một cách oan uổng, nên không cần phải cất cánh đánh nhau làm gì nữa!

Dân Biểu Binh từ giã tôi, anh nói sẽ vào dinh Ðộc Lập theo dõi tình hình, có gì anh cho tôi biết sau. Ðêm đó, Cộng quân pháo kích ầm ầm, đều đều, tôi miên man suy nghĩ thì ít, lo sợ thì nhiều. Bốn đứa con nheo nhóc, phải chi tôi để cho chúng nó theo mẹ di tản sang Mỹ thì bây giờ đỡ lo. Tôi không tài nào ngủ được mà chắc cả Sài Gòn cũng không ai ngủ trọn giấc.

Khoảng 11 giờ đêm, điện thoại reo, Nguyễn Văn Binh ở đầu dây bên kia cho biết Việt Cộng tuyên bố với phái đoàn Vũ Văn Mẫu: Không thương thuyết gì nữa cả mà buộc VNCH phải đầu hàng. Chiến thuật gian trá, thay đổi kể từ ngày 27 Tháng Tư. Sự lừa đảo của cộng sản lộ hình, sau khi họ đạt được hết nhượng bộ này đến nhượng bộ khác. Ðiều đó chứng tỏ Sài Gòn bối rối sợ hãi, vô tổ chức, không còn lực đối kháng. Hà Nội mặc tình khai thác và ra lệnh quân lính đánh thẳng, chiếm lấy miền Nam. Trước tình thế đó, tân Tổng Tham Mưu Trưởng, Tướng Vĩnh Lộc cũng thừa cơ bỏ chạy. Hai giờ đêm, Nguyễn Văn Binh, bây giờ là Thứ Trưởng Quốc Phòng điện thoại cho tôi biết anh kiểm điểm lại, mọi ngõ ngách tiến vào Sài Gòn đều bỏ trống, quân binh của ta mất gần hết.

Sáng hôm sau ngày 29, tân Thủ Tướng Vũ Văn Mẫu thông cáo: Tất cả người Mỹ phải rời khỏi Việt Nam trong vòng 24 giờ. Trực thăng lên xuống không ngừng trên nóc nhà tòa Ðại Sứ Mỹ để chuyên chở những người di tản, may mắn lọt được vào trong đó. Trực thăng cũng đáp nơi này, nơi khác trên sân thượng, nóc nhà tư nhân, đó là những phi công Việt Nam đón người nhà, bà con hay bạn bè. Ðứng trên sân thượng của nhà tôi, có thể nhìn thấy 2 chiếc trực thăng bị hư hại nằm tại chỗ trên 2 nóc nhà khá xa. Cả ngày nay hỗn loạn không thể tả. Tôi muốn thử chạy một vòng Sài Gòn để xem tình thế ra sao. Vừa ra khỏi cửa một anh cán bộ nhân dân tự vệ của mình cầm M16 chửi thề “ÐM mấy thằng Mỹ nó bỏ mình rồi ông ơi!” Vài chiếc trực thăng bay vòng trên trời anh ta chĩa súng đòi bắn, tôi can anh: “Ðừng hành động nông nổi, cái đó không giải quyết được vấn đề của mình trong hiện tại đâu. Anh nên lo cho an ninh phường mình là tốt hơn cả.”

Tôi đánh một vòng quanh đường phố Sài Gòn, một xe bus của Mỹ chạy trên đường, bỗng nhiên tôi thấy một chiếc xe ở phía trước gài số lui, rồi đến gần ngang xe bus, một người Mỹ mở cửa nhảy ra đeo xe bus đang chạy. Chiếc xe của anh này lui ngay về phía xe của tôi. Tôi bèn leo lề vọt tránh, thế mà xe tôi cũng bị đụng rầm, làm xẹp cánh cửa sau bên trái. Tôi tiếp tục xuống bến tàu Sài Gòn, người ta đông nghẹt, xe cộ ngổn ngang, có nhiều chiếc máy còn chạy mà không có người. Muốn biết sự tình, thì hình như tôi đã thấy đủ rồi mà lòng hiếu kỳ còn muốn đi vòng Chợ Lớn xem sao? Nhưng bụng bảo dạ, hỗn loạn quá có thể không an toàn. Tôi đành trở về lòng càng bất an.

Tôi quyết định đưa hết gia đình sang nhà ở đường Mạc Ðĩnh Chi, nơi này an toàn vì là khu hành chánh, ít dân cư hơn khu chợ Trương Minh Giảng. Xe Fiat 125 của tôi vừa ra khỏi cửa có người chạy theo bấm nút mở cóp sau để giựt va-li. Anh vệ sĩ của tôi mở cửa xe nhảy ra giựt lại. Thật là khôi hài đến chảy nước mắt. Lại một đêm thức sáng chờ biến cố. Biến cố gì đây? Thật khó hình dung. Ðiều đó làm cho mình vừa lo sợ, vừa hồi hộp, vừa tính toán, rồi đến kết luận là liều mạng chấp nhận tất cả. Sáng ngày 30 Tháng Tư 1975, súng nổ ran tứ phía. Ðiện thoại reo, lại Nguyễn Văn Binh: “Thôi hết rồi anh Triều ơi! Ông Minh tuyên bố đầu hàng. Nhưng ông nói với tôi sẽ còn thương lượng với họ để cho những ai muốn rời khỏi Việt Nam thi đi, còn ai muốn ở lại thì ở. Mà anh Triều ơi, tôi không hiểu tại sao trước lúc ông Minh sắp tuyên bố lệnh buông súng, có Thiếu Tướng Vanuxem, người Pháp, đứng bên cạnh, ông này thúc giục Ðại Tướng Minh: Faites un appel à la Chine (Hãy kêu cứu với Trung Quốc). Tại sao kỳ vậy?”

Thiết tưởng cũng nên mở dấu ngoặc để nói vài câu về Tướng Vanuxem. Ông thuộc quân đội viễn chinh Pháp, đã dạy qua các trường quân sự Nam Ðịnh, Thủ Ðức, là thầy của nhiều tướng lãnh Việt Nam trong đó có Nguyễn Văn Thiệu, Cao Văn Viên. Trước năm 1975, ông có trở lại viếng thăm Việt Nam nhiều lần và đều có tiếp xúc với tôi. Năm 1967 ông viết quyển sách tựa đề “L'espoir à Sài Gòn” (Sài Gòn Còn Hy Vọng) trong đó ông ca ngợi Chương Trình Phát Triển Quận 8 do tôi chủ trương như một sự kêu gọi tuổi trẻ dấn thân hành động đem lại công bằng và no ấm thật sự cho dân nghèo. Tôi trả lời Nguyễn Văn Binh: “Tôi cũng không hiểu tại sao?” Phải chăng là Vanuxem đã có tin tức gì, đã đánh hơi được sự rạn nứt giữa Trung Quốc và Việt Nam 3 năm sau này chăng? Hay là Vanuxem nghĩ rằng ông thầy Trung Quốc có thể ảnh hưởng được nước đồng chí nhỏ bé của mình là Bắc Việt Nam. Vanuxem chết trước năm 1991, năm tôi trở lại Pháp, nên tôi không gặp lại ông được để hỏi tại sao? Thật tiếc.

Lệnh buông súng được ông Dương Văn Minh đưa ra khoảng hơn 10 giờ sáng. Sau đó, tôi nghe tiếng xe tăng vang rền trên đường Thống Nhứt, đứng từ bao lơn nhà ở đường Mạc Ðĩnh Chi, tôi nhìn từng chiếc chạy ngang.Không có tiếng súng nào kháng cự. Mọi chuyện đã thật sự chấm dứt.

Cảm giác lúc đó thật lạ lùng, khó tả quá. Bực tức nhục nhã? Có! Tiếc nuối như người thân yêu nhứt đời đang rời bỏ mình sang thế giới khác? Ðúng! Lo sợ cho tương lai? Phải! Toan tính thái độ của mình cho ngày mai? Bàn thảo với ai? Tất cả mọi thứ cảm giác này ngập đầy trí óc, ngay trong khoảnh khắc đó. Thật là khó mô tả cho rõ ràng. Ðiều rõ nhứt là chua xót tiếc thương, tủi nhục! Thơi gian sau này, khi qua Pháp có dịp tâm sự nhiều với Tướng Dương Văn Minh, tôi có hỏi ông về quyết định đầu hàng, một quyết định làm ông mang tiếng suốt đời, thì ông nói rằng “Tôi là Phật tử, tôi không muốn quyết định của tôi làm tổn hại nhiều sinh mạng con người quá, thà tôi chịu mang tai tiếng cả đời.”

Tôi bí cửa không dám ra đường, chờ xem việc gì sẽ xảy ra cho mình. Ðứng trên bao lơn nhìn xuống, xe ba gác chở đủ thứ đồ đạc, nào bàn ghế, tủ giường, khăn áo, vật dụng giấy tờ, sách vở, đủ loại, của hôi... của cướp... của lượm từ các nơi khác chở ngang qua đường Mạc Ðĩnh Chi. Ðứng ngoài bao lơn nhà nhìn Tòa Ðại Sứ Mỹ ở xa, tôi thấy người ta khuân vác ra quá nhiều đồ đạc, bàn ghế tủ giường, vật dụng giấy tờ, sách vở... Vụ hôi của đó có lẽ vĩ đại nhứt Sài Gòn kéo dài đôi ba ngày liên tiếp mà thấy của vẫn còn. Tôi lo sợ không biết ở khu chợ Trương Minh Giảng có người tràn vào nhà mình không? Tôi điện thoại về đó, người giúp việc nói nhà vẫn bình yên. Lính Việt cộng, mặc quân phục xanh, đội nón tai bèo, vai mang AK, từng nhóm đi ngoài đường.

Xế chiều, tôi đánh liều, lái xe chạy vòng quanh thấy cảnh hôi của, chở đồ còn nhiều hơn nữa, có cả xe ba gác chở hàng chục bao gạo. Quần áo, giày vớ, nón sắt, súng đạn M16 của lính Việt Nam Cộng Hòa rải rác khắp nơi, thật là ngậm ngùi, buồn tủi. Tôi thầm nghĩ những bộ quân phục đó, tôi cũng đã từng mặc nó trong nhiều năm, những vũ khí đó tôi cũng đã từng sử dụng nó, lòng tôi quặn thắt, nước mắt lưng tròng, vì cái nhục thất trận!

Vòng qua ngã Thị Nghè ra xa lộ, chạy ngang một xác chết nằm trên vũng máu khô với bộ quần áo biệt động quân hay cảnh sát dã chiến? Nhìn không rõ, vì tôi cố tình cho xe chạy nhanh. Thêm một chiến sĩ vô danh tử trận vào giờ chót. Lạy Chúa xin cho linh hồn người anh em đó được nghỉ an trên nước thiên đàng! Vòng sang chợ Bà Chiểu cảnh tượng ở đâu cũng giống nhau vậy thôi. Có lẽ phía Thị Nghè và tỉnh Gia Ðịnh, quân phục, súng ống của phe ta rải dài la liệt nhiều hơn ở Sài Gòn. Trở về nhà, bơ phờ, chẳng nói chẳng rằng, không ai buồn nói gì với ai. Ðến giờ cơm thì ăn, đến tối thì ngủ. Ðứa con lớn 16 tuổi, lân la gần tôi hỏi:

- Ba, người ta sẽ làm gì ba không?

- Chưa biết.

Cả ngày 1 Tháng Năm 1975 xem truyền hình, thấy Hà Nội diễn binh mừng lễ lao động và mừng hơn tất cả là ngày chiến thắng. Trưa hôm sau chuông điện thoại reo, điện thoại đầu tiên sau 30 Tháng Tư 1975. Tôi bắt ống nghe, chờ đợi tiếng người lạ, nhưng không ngờ đó vẫn là tiếng của cựu Dân Biểu Nguyễn Văn Binh, bây giờ là phải thêm chữ cựu rồi vì chế độ Việt Nam Cộng Hòa đã chết!

Binh đã về nhà an toàn, anh thuật cho tôi nghe những gì đã xảy ra trong hai ngày qua tại dinh Ðộc Lập: Lính cộng sản tràn vào, Nguyễn Văn Hảo nhạy miệng nói:

- Các em từ từ chuyện đâu còn có đó, cho gặp cấp chỉ huy của em đi.

Tên lính tay cầm cờ Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam, nạt nộ: “Ai là em anh?” Tên lính chĩa súng AK vào tất cả mọi người, bắt ngồi xuống hết, hàng dọc, tay gác lên đầu. Một số lính tiếp tục chĩa súng canh chừng. Tên cầm cờ hét, Nguyễn Văn Hảo phải dẫn đường lên sân thượng để hạ cờ quốc gia màu vàng ba sọc đỏ thay vào đó cờ nửa xanh nửa đỏ có điểm ngôi sao vàng.

Lính thiết giáp cộng sản chiếm Dinh Ðộc Lập sớm quá, cấp chỉ huy của họ chưa có mặt để tiếp thu, báo chí truyền hình đến không kịp để quay phim. Những tên lính này lùa hết từ Tổng Thống Dương Văn Minh đến Thủ Tướng Vũ Văn Mẫu và tất cả tùy tùng xuống hầm nhốt trong một căn phòng chật hẹp trong đó có Nguyễn Văn Binh. Họ nằm, ngồi chờ chết hay sẽ bị tù đày, tra tấn gì đây? Tất cả hồi hộp lo âu. Theo lời Binh kể lại thì Ðại Tướng Minh có lúc trầm ngâm than thở: “Ðến từng tuổi này có chết cũng vừa!” Chiều tối, nhóm người thuộc chính quyền Việt Nam Cộng Hòa cuối cùng, đói lả, một tên lính vào hỏi có ai biết lương thực cất giấu chỗ nào không. Một trong các tùy viên của ông Minh xin ra để tìm kiếm. Anh nầy lục ra được ít gạo của lính phòng vệ phủ Tổng Thống, nhưng lại không có nồi to, đành dùng cái lớn nhứt nấu cơm đem vào chia nhau ăn, dĩ nhiên là không đủ no. Ðợi đến ngày hôm sau, chỉ huy cao cấp cộng sản mới đến, thả những người này ra, đối xử lịch sự, nhã nhặn yêu cầu diễn lại tuồng đầu hàng, bàn giao để cho báo chí chụp hình quay phim phổ biến khắp xứ và ngoại quốc.

 

Ði cải tạo

Trung tuần Tháng Năm, công an thành phố thông cáo: Tất cả nhân viên chính quyền cũ, từ cấp Chánh Sở, Trưởng Ty trở lên và quân nhân thuộc Việt Nam Cộng Hòa từ cấp Thiếu Úy trở lên phải trình diện đăng ký tại nơi làm việc hay công an phường. Bắt đầu từ đó danh từ miệt thị “ngụy quân ngụy quyền” được sử dụng phổ biến. Dân miền Nam bắt đầu nếm mùi trả thù, lường gạt, gian trá của cộng sản Bắc Việt. Trước tiên là “lao động xã hội chủ nghĩa.” Toàn dân, tuổi thành niên trở lên đều phải lao động theo sự cắt cử của phường khóm. Ðào mương, đắp đê, làm công tác thủy lợi theo sức tưởng tượng ngớ ngẩn của cán bộ Cộng Sản và sự bình phẩm về kỹ thuật của nhân dân, chưa từng biết thủy lợi là gì. Một thí dụ điển hình là ruộng đất ở cầu Kinh, Khu cư xá Thanh Ða, diện tích không có bao nhiêu, mỗi năm đến mùa nước ròng, nước mặn tràn vào. Huyện Bình Thạnh ra lệnh “đắp đê ngăn mặn,” bao quanh bờ sông Sài Gòn, bọc cả cù lao Thanh Ða để trồng lúa. Xe hàng và trai tráng bị trưng dụng đi đốn cây tràm chở về, đóng cừ rồi dân cư tại chỗ cùng với đàn bà con gái từ Sài Gòn xuống đông nghẹt, quần áo nhổm nha, lội bùn đắp đê, ròng rã cả tháng trời. Kết quả những “lỗ mọi” nhỏ, do cua còng làm hang, nước chảy xoi mòn biến thành lớn, nước mặn vẫn ngập như không có đắp đê. Về sau chính quyền cộng sản ép buộc đông đảo người phải đi lao động ở những vùng đất đai cằn cỗi gọi là “kinh tế mới.” Rồi đến việc chiếm nhà cửa đất đai ruộng vườn, di tản vô số người dân từ Bắc vào Nam “làm ăn,” hống hách, ngang ngược.

Thông cáo, Ủy Ban Quân Quản thành phố Sài Gòn ra lệnh 15 đến 17 Tháng Sáu năm 1975 “ngụy quân ngụy quyền” phải đi trình diện học tập. Thông cáo dặn đem theo quần áo lạnh và lương dùng trong một tháng. Sáng ngày 16 Tháng Sáu, tôi đến địa điểm chỉ định là trường Trưng Vương, gặp người bạn đồng viện thân thiện của tôi là cựu Dân Biểu Ðặng Văn Tiếp, hai đứa xếp hàng đột nhiên thấy cựu Dân Biểu Trần Ngọc Châu, cựu Tỉnh Trưởng Kiến Hòa, tôi lấy làm lạ hỏi:

- Toa thuộc khóa Quốc Hội trước, không nằm trong diện phải đi học tập cải tạo mà sao tới đây làm gì?

Châu trả lời:

- Moa nghĩ phải đi học tập rồi mới trở về làm việc được.

Vào đến cửa trường Trưng Vương, công an chận xét, giấy tờ của Trần Ngọc Châu không hợp lệ bị đuổi về. Anh ta lớn tiếng phản đối:

- Chế độ gì mà xin đi học tập để về làm việc cũng không cho.

Chúng tôi vào, ghi tên lập danh sách rồi chia thành tổ 10 người, tổ chúng tôi gồm Ðặng Văn Tiếp, Ðàm Sĩ Hiến, cựu Tổng Trưởng Lao Ðộng, La Thành Nghệ, cựu Nghị Sĩ, Thứ Trưởng Công Kỹ Nghệ, Thẩm Phán Nguyễn Văn Vui, Phó Chủ Tịch Tối Cao Pháp Viện, cựu Tổng Trưởng Kinh tế Nguyễn Văn Diệp, Cựu Dân Biểu Nguyễn Ngọc Tân, ký giả bút hiệu là Bảy Bớp, cựu Nghị Viên hội đồng tỉnh Gia Ðịnh Trần Ngọc Lâm, Trung tá Giám Ðốc Nha Xã Hội, Nguyễn Văn Tân và một anh nghị viên đồng viện với anh Lâm tôi không nhớ tên, trước kia anh là thơ ký phục vụ tại trung tâm cải huấn Thủ Ðức, miếng mồi ngon cho cộng sản mà anh không biết. Cai tù là kẻ thù của cộng sản. Hai anh nghị viên này không thuộc diện phải đi cải tạo lâu dài nhưng chắc cũng có ý nghĩ như Trần Ngọc Châu nên phải trả giá đắt.

 

Vui buồn những ngày cải tạo ở Long Thành

Sau khi nhập trại tại trường Trưng Vương, tổ 3 của tôi được phân bố ngủ nghỉ trong một lớp học trên tầng lầu thứ nhứt. Ða số chúng tôi quen nhau nên vào đây ngày đầu tiên xúm nhau bàn tán xôn xao. Bao nhiêu câu hỏi, bao nhiêu thắc mắc và phỏng đoán đều có đề cập đến, bao nhiêu lời than thở đều có nói ra. Chúng tôi được thông báo rằng những bữa cơm trưa và tối đều do nhà hàng cung cấp. Mọi người tin tưởng sẽ ở đây học tập thật. Sáng sớm hôm sau có phân phối nước trà nóng. Một anh lính cầm lon phát nước, miệng la ó xỉ vả: “Các anh là người lớn, có ăn học mà tư cách sao giống như ăn mày vậy, xếp hàng ngay thẳng lại đi,” không ai thèm nghe, anh lính tức mình giụt lon bỏ đi bởi vì một số bạn đồng cảnh của mình bu quanh chen lấn, giành giựt nhau một cách hỗn độn vô trật tư, thật là nhục nhã!

Ðặng Văn Tiếp và tôi mới tới nơi, nhìn cảnh tượng đau lòng đó, quyết định trở về phòng nghỉ không lấy nước. Ði nửa đường gặp cựu Thẩm Phán Tối Cao Pháp Viện, Trần Minh Tiết cũng là đồng nghiệp của tôi trong nội các chiến tranh với tư cách Tổng Trưởng Nội Vụ, rồi Tư Pháp. Tôi liền khuyên anh đi trở lên, tránh nhìn cảnh chen lấn, giành giựt hèn hạ nhục nhã quá. Anh Tiết do dự, anh nói muốn có chút nước nóng uống cho ấm lòng buổi sáng. Tiếp và tôi lại bảo thôi. Cuối cùng Trần Minh Tiết theo chúng tôi trở về phòng than thở về hoàn cảnh và tư cách con người. Bây giờ tôi mới hiểu rõ tại sao có sự chạy chọt đút lót, tranh giành chức vụ, cạnh tranh quyền hành để hưởng thụ rồi cuối cùng dẫn đến tình trạng hôm nay.

Chiều tối ngày hôm sau, lúc anh em đang ngủ, khoảng chín mười giờ đêm, bất ngờ đèn điện bật sáng, lính cộng sản đứng đầy, cửa sổ, cầu thang, nhà tiêu đều có. Một trong chúng lớn tiếng ra lệnh thu xếp đồ đạc rồi xuống sân trường xếp hàng ngay thẳng. Thôi rồi! Chắc chuyện không lành. Việc xảy ra đột ngột không giống như mình dự tính. Cụ Vũ trong tổ của tôi sợ hãi tay run rẩy không làm gì được nên Ðặng Văn Tiếp và tôi phải xếp mùng mền thu dọn hành trang giùm ông ta. Sau đó chúng tôi phải cập tay dìu cụ xuống sân. Cựu Dân Biểu, Luật Sư Trần Văn Tuyên ngồi gần tôi, kề tai nói nhỏ: “Chúng nó đưa mình đi bắn.” Tôi có linh tính điều anh Tuyên lo sợ là không đúng nên trả lời: “Không phải đâu.” Anh Tuyên lại gắt: “Cậu mà biết gì, ngoài Bắc chúng tôi đã biết bọn nó hành động như thế nào rồi.” Lời chắc nịch của anh làm tôi đâm ra sợ lây, nhưng cũng không bằng anh Tuyên, dáng điệu bề ngoài còn tĩnh nhưng mặt mày tái chợt mắt buồn xo lộ vẻ hãi hùng. Ðiều đó làm tôi càng sợ hơn. Quay sang Tiếp tôi hỏi: “Mày thấy việc này dữ hay lành? Tiếp nói: “Ð... M... không xong rồi mày ơi.” Tôi lại càng sợ hơn nữa. Ngồi chờ giây lát tôi thấy có nhiều xe “bus” lần lượt vào sân trường. Tất cả chúng tôi được dồn lên xe, Tiếp lôi tôi đứng cuối bệ sau, gần cửa. Hai cửa lên xuống xe có hai tên lính đứng chận. Xe lăn bánh chạy tương đối chậm, vòng quanh nhiều đường phố Sài Gòn, dường như cố tình làm cho chúng tôi lạc hướng. Thật là ngây ngô. Cứ mỗi đường phố ngang qua là có nhiều tiếng nói nhận định của anh em mình: Ðây đường... X... đường Y..., v.v... Ðặng Văn Tiếp tay cầm gói mì khô “hai con cua” bẻ phân nửa đưa tôi bảo ăn. Tôi nói ăn gì được, còn sống mà. Tiếp, giọng dứt khoát: “Tao bảo mày ăn đi, không chết đâu, ăn xong để chạy, hễ xe đậu mở cửa, tao kéo tay là hai đứa chạy đấy.” Tôi bàng hoàng, bán tín bán nghi... nhưng lòng cũng quyết định chạy theo Tiếp. Xe chạy qua khỏi cầu xa lộ Biên Hòa tạm ngừng để kiểm số người trên xe. Cửa trước mở, một tên lính bước lên xe đếm số người, Tiếp cầm tay tôi, ngón trỏ của anh cứ khều mãi vào lòng bàn tay tôi, nhưng tiếc thay, hay may mắn thay, cửa sau xe không mở. Mặt Tiếp xụ lại buông tay tôi ra không nói một lời.

Ðường đi ra Vũng Tàu quen thuộc, xe vẫn chạy khá chậm, ai cũng nhận ra cảnh vật, đến ngã ba Long Thành xe quẹo vào, vài phút sau ngừng hẵn ở “làng cô nhi” lúc đó vào khoảng bốn giờ sáng. Xuống xe nhìn thấy ngoài hai tên lính chận cửa xe, trên mui còn có hai tên khác ngồi chĩa AK sẵn sàng nhả đạn. May mắn cho chúng tôi, nếu có cơ hội thoát chạy thì những viên đạn AK không tha mạng rồi. Còn người anh em vắn số Ðặng Văn Tiếp, bị ám ảnh về cái chết của ông cậu ở trại tù Lý Bá Sơ ngoài Bắc nên sau này anh cũng trốn trại, bị bắt lại đánh đến chết! Thương nhớ anh và cầu Chúa cho anh được nghỉ an nơi lạc cảnh.

Trại Long Thành nhốt công chức, chính trị gia, cảnh sát và tình báo.

Chúng tôi được chỉ định vào nhà số 13 đầu tiên từ cổng chính vào. Nhà dài ngăn thành 3 căn trống trơn, có kê 3 hàng sạp gỗ cách mặt đất độ một gang tay, chừa hai hàng trống để đi lại. Nhiều nhà khác sàn nhà được lót gạch. Tổ 1, 2, 3, vào cuối nhà. Giăng mùng chiếu xong nằm nghỉ, nhưng làm sao ngủ được? Ða số anh em cứ rù rì mãi đến sáng. Thức dậy ra ngoài thấy đồng trống mênh mông, lòng mình cũng trống trải hoang mang vô cùng. Rồi lại tiếp diễn cái cảnh buổi sáng ngày hôm trước. Một thùng cháo để ngoài sân giữa hai nhà 12 và 13. Một tên lính quân phục xanh nón tai bèo, thông báo có cháo buổi sáng. Nhiều người bu quanh giành nhau chén cháo. Tên lính phát không kịp, đổ tháo tùm lum bèn hét to “các anh người lớn mà sao nói không biết nghe, ngụy quyền cao cấp sao mà kỳ vậy.” Trời ơi xấu hổ quá! Tôi kéo Tiếp đi thật xa ra đồng trống ngồi than thở, buồn rầu, thú thật chúng tôi có chửi đổng, không chửi ai... hay là chửi tất cả. Hồi lâu trở vào thấy hai thùng cháo để gần đường đi. Cháo còn dính ít nhiều quanh viền. Tiếp vào nhà lấy ca đựng nước đem ra, tay vét sạch hết các ven thùng được gần nửa ca. Anh đưa tôi và nói “Ðây nầy, mày ăn phân nửa tao ăn phân nửa.” Tôi nói: “Thôi mày ơi, ăn gì kỳ vậy.” Tôi vẫn còn suy nghĩ theo thói quen trưởng giả phong lưu ngày trước là không ăn “cơm thừa cá cặn” nên từ chối. Tiếp thuyết phục tôi: “Trong tù cái gì ăn được là phải ăn để mà sống, mày hiểu chưa?” Tôi lại từ chối. Tiếp bèn nổi nóng: “Thằng ngu, mày không ăn tao quăng đây này” vừa nói anh vừa vang tay định giục ca cháo tôi cản lại: “Thôi tao ăn, nhưng tao cảm thấy nhục quá.” Tiếp văng tục “Nhục cái con c... tao đây này, sao mày ngu quá vậy.” Tiếp ơi, hồn mày linh thiêng phù hộ cho đồng đội đồng hành của mày tranh đấu lấy lại “công đạo” cho mày và cho cả dân tộc mình đi Tiếp!

Những ngày đầu ban quản lý cấm không được dùng chữ tù mà phải gọi là “học tập.” Mỗi tối có một tên lính dạy chúng tôi hát những bài cổ võ kháng chiến như Trường Sơn Ðông, Trường Sơn Tây, Vàm Cỏ Ðông... và những bài tuyên truyền như một bài hát trong đó có câu “biến nhà tù thành trường học” lấy ý nghĩa của “Trại Học Tập Cải Tạo!” Tuyên truyền bịp bợm chưa từng thấy, bởi vì từ ngày cộng sản chiếm miền Nam nhà tù được dựng lên càng nhiều, trường học thiếu lớp, thầy giáo thiếu khả năng, bằng cấp giả lan tràn, giáo dục xuống cấp. Dần dần kỷ luật trại giam siết chặt thêm, bọn cán bộ quản lý trại giam bắt đầu tổ chức hệ thống ăng-ten trong hàng ngũ anh em mình bằng cách đưa ra cái mồi nhử “học tập tốt để sớm được đoàn tụ với gia đình” hoặc “về sớm hay muộn là do các anh thôi.”

Cộng sản trả thù những người quốc gia chúng tôi rất có kế hoạch. Bắt đầu là học tập lao động: Giẫy cỏ, lên bờ trồng khoai, trồng cải... khiêng phân người đem bón cây... Làm lao động nhưng ăn cơm gạo hẩm mà không đủ no. Những ngày đầu còn có câu lạc bộ bán ít hàng để ăn dậm thêm. Sau một tháng chờ đợi “học tập” chúng tôi được học bài đầu tiên của “cách mạng” là bài báo giải thích thắc mắc bên ngoài do các gia đình công chức quân nhân chế độ cũ hỏi tại sao hơn một tháng rồi mà không thấy người nhà được thả về? Bài báo viết: “Thông cáo của cách mạng kêu gọi đi học tập không hề nói một tháng sẽ trở về mà chỉ nói đem tiền bạc xài trong một tháng và đem quần áo ấm theo dùng mà thôi.” Bài học này khởi sự “cải tạo” lối suy nghĩ của công chức quân nhân và cả nhân dân miền Nam. Khuôn viên chúng tôi đang ở được rào dây kẽm gai, một vòng, rồi hai vòng... rồi bắt đầu xây tường cao hơn hai thước, cửa ra vào có lính gác cẩn thận. Mỗi khi ra ngoài lao động phải kiểm số người, lúc trở về cũng phải đếm lại đủ số.

Những ngày ở trại Long Thành chúng tôi chưa nếm đủ cái khổ và cái ác của sự trả thù cho nên tôi chỉ kể một vài chuyện vui buồn để độc giả hiểu thêm. Thoạt tiên chúng tôi phải đào rất nhiều hố vuông vức bề sâu đứng bằng đầu người, lót hai tấm ván ngang qua, bao quanh và ngăn vách bằng tôn, đó là những chỗ tiêu tiện. Mỗi khi có mưa, nước ngập cao, rất bẩn thỉu. Gặp lại Trần Ngọc Châu tại Long Thành tôi tò mỏ hỏi tại sao anh ta lại vào đây được. Anh dài dòng kể rằng hai lần trình diện đăng ký ở quốc hội người ta không nhận vì anh không thuộc diện phải đi cải tạo. Sau khi bị từ chối không cho vào trường Trưng Vương, Châu trở lại quốc hội, kiếm một người cán bộ mà anh chưa từng thấy mặt, tự xưng mình là dân biểu nhưng vì bận việc ở tận Huế nên mới trình diện trễ, anh cán bộ này tin liền vì mọi việc thật sự đã trễ rồi nên cho Trần Ngọc Châu đăng ký và được cấp giấy liền. Châu về nhà nghỉ đợi sáng hôm sau đi trình diện, nhưng không ngờ danh tánh chức vụ của những người đã trình diện được chuyển đến phường khóm và đêm đó công an phường biết rõ Trần Ngọc Châu đang ở nhà nên đến xét bắt đưa vô nhốt tại Chí Hòa. Anh ta phản đối kêu oan nói rằng chính anh đã nhiều lần xin đi học tập mà không cho, chớ anh không hề có ý định trốn học tập. Sau đó, Châu được chuyển ngay vào trại Long Thành.

Bị bắt như vậy mà anh cũng còn chưa hiểu được âm mưu khắc hiểm của cộng sản. Cho nên anh cố tình nói lung tung là đi học để được xứng danh mình là con người mới và anh còn thêm rằng “sau khi cải tạo về, moa sẽ đi một vòng hết đất Bắc rồi mới làm việc được.” Thường người ta hay nói “chưa thấy quan tài chưa đổ lệ” thật đúng là trường hợp của Trần Ngọc Châu trong bối cảnh nầy. Một anh bạn thân khác là Phạm Minh Dưỡng, Nguyên Thứ Trưởng Công Kỹ Nghệ, Tổng Giám Ðốc công ty giấy Cogido. Anh Dưỡng học Ecole Centrale, trường lớn đứng vào hàng thứ nhì thứ ba trong các trường lớn (Grandes Ecoles) của Pháp. Một người bạn đồng khóa của anh, theo cộng sản về Hà Nội công tác. Sau 30 Tháng Tư anh này tiếp thu hãng giấy, gặp lại nhau, mày mày tao tao thân mật. Anh ta nói rằng Dưỡng không cần đi học tập cải tạo gì cả, ở nhà mà làm việc. Cho đến khi Phạm Minh Dưỡng bàn giao chỉ vẽ hết mọi bí quyết trong nghề rồi thì người bạn đồng khóa nầy mời vào văn phòng nói: “Thôi toa cũng nên đi học tập cải tạo đi.” Dưỡng than với tôi: “Thật là đểu giả khốn nạn, cái thằng chó chết.”

Mỗi ngày sau bữa cơm chiều đông đảo chúng tôi tản bộ dọc theo con đường mòn bao quanh khu nhà dành cho công chức. Tức cười là cựu Nghị Sĩ La Thành Nghệ chiều nào cũng cầm ba-ton, đội nón Fléchet, đi lúc khoan thai lúc mau như chạy. Chắc anh đang suy nghĩ như Trần Ngọc Châu, phải dưỡng sức để về làm việc lại, hay như ông chánh án mà tôi sắp kể chuyện, lúc nào cũng phải ăn mặc chỉnh tề để giữ thể diện. Có một buổi trưa, Ðặng Văn Tiếp và tôi đi trên đường mòn ngang qua dẫy cầu tiêu thấy một ông đầu đội nón Fléchet màu hột gà, cổ thắt cà vạt, mặc áo veston đàng hoàng tay cầm một cây dài khều mãi trong hầm phân, chúng tôi đứng nhìn lâu thắc mắc, Tiếp lại gần hỏi: “Cụ làm gì thế?” Cụ đáp: “Tôi làm rớt cái ví có giấy tờ tiền bạc trong ấy mà không biết làm sao lấy lên.” “Thế à! Xin phép hỏi trước đây cụ giữ chức vụ gì trong chính phủ?” “Tôi là Chánh án.” “Cụ vào đây thấy có khổ lắm không?” “Ối ráng chịu khó một tháng rồi về ấy mà.” “Dạ, xin chúc cụ mau thu lại được cái ví nhé.” Tiếp vừa nói vừa lôi tôi đi mau, cách đó khá xa chúng tôi mới dám bật cười, thắc mắc và tự hỏi ông ấy đang tưởng mình là ai? Ðang ở đâu? Với tư cách gì mà sao đi cầu phải ăn vận như đi hội vậy!

Vấn đề nước xài, mỗi ngày xe chở vào, tù cải tạo xếp hàng dài lấy để uống và tắm giặt. Ôi thôi biết bao nhiêu là cảnh giành nhau buồn vui cãi cọ. Vào đây mới thấy ai gian dối, lợi dụng, ai chém vè, lường công bạn bè một cách bất xứng. Bỉ ổi nhứt là mỗi nhà đã có một “cần ăng ten,” mình nghi ngờ nhưng không thể xác định. Hậu quả đầu tiên là anh Luật Sư cựu Dân Biểu Trần Văn Tuyên bị báo cáo láo rằng vào đây rồi mà còn liên lạc với các thành viên Quốc Dân Ðảng để bàn chuyện chống phá cách mạng. Chúng tôi được gọi tập họp vào hội trường để Hai Ứng, Phó Trưởng Trại, kêu đích danh Trần Văn Tuyên xỉ vả nặng nề giữa hội trường một cách oan ức. Anh Tuyên đứng dậy đưa tay lên định xin nói, Hai Ứng tay phải vịn vào hông định móc súng lục nạt lớn: “Anh ngồi xuống, im ngay.” Trần Văn Tuyên đành phải ngồi xuống. Chúng tôi bồi hồi bất mãn nếm cái nhục của kẻ thất trận, chưa biết số phận mình sẽ ra sao. Cũng trong hội trường đó, Nguyễn Xuân Phong, không bị nêu tên, nhưng qua lời xỏ xiên nói về việc đàm phán ở Paris ai cũng biết Hai Ứng gián tiếp cảnh cáo anh Phong. Trong những ngày buồn tủi đó Ðặng Văn Tiếp và tôi luôn luôn cặp bồ đánh domino trong đội để giết thời gian. Hoặc bàn với nhau về một tương lai mờ mịt. Anh Tiếp tỏ vẻ lo âu là chúng tôi đi không có ngày về. Và cho dù có về được như ông chú của anh ngoài Bắc, từ trại Tù Lý Bá Sơ trở về thì cũng chỉ để chờ chết mà thôi. Rồi chúng tôi sớm chia tay, anh bị di chuyển đi nơi khác tôi ở lại với sự cô đơn lẻ bạn. Ðó là một vài chuyện buồn đáng tiếc, nhưng cũng có chuyện vui cười ra nước mắt.

Như đã nói trên là nước dùng trong trại vô cùng quí, mỗi tổ phải chia phiên nhau lấy nước để cùng xài. Ðội 3 chúng tôi có một anh vốn trưởng ty trẻ tuổi, tốt nghiệp trường Quốc Gia Hành Chánh mà tôi không nhớ tên. Anh đi cầu ban đêm, tay cầm hũ chao nhỏ, đựng nước để rửa. Chiều hôm đó trời mưa rỉ rả, đất trơn, anh trợt té hũ chao bể cấn vào tay cắt đứt một lằn dài trong lòng bàn tay. Lúc đó đèn điện đã tắt, anh em chuẩn bị ngủ, bỗng nhiên nghe một tiếng la lớn trong phòng “chảy máu nhiều quá.” Tất cả sửng sốt, tung mùng đứng dậy, nhiều ánh đèn pin rọi vào chổ có người la, quả thật có một anh bạn dơ cao cánh tay máu chảy dài xuống nách. Tôi vội vã hối người tới đội 1 ở đầu nhà 13 gọi anh cựu Dân Biểu Trần Văn Ðể vì anh Ðể là một bác sĩ. Tôi yêu cầu anh ấy đến ngay vì có người bị thương. Không đầy 5 phút sau anh Ðể tới xem vết thương và hỏi:

- Có lon Guigoz không?

- Có.

- Có kim chỉ may quần áo không?

- Có.

- Lấy kim chỉ bỏ vào lon nấu thật sôi. Nắm chặt cổ tay nó lại - Ðể ra lệnh.

Sau khi kim chỉ được nấu xong để sát trùng anh Ðể chuẩn bị may vết thương vừa sâu vừa dài. Anh Ðể yêu cầu hai người có sức đè chặt bệnh nhân, thân trước và hai chân sau, đồng thời phải có hai người đè thẳng hai cánh tay của anh này không cho động đậy. Sau đó anh Ðể giả vờ hỏi bệnh nhân chuyện vớ vẩn, đâu đâu, để làm anh ta không chú ý đến cái đau mà anh sắp phải chịu. Một loại thuốc mê tâm thần không mấy hiệu quả, nhưng thật khôi hài.

- Có vợ con chưa?

- Dạ có rồi.

- Vợ đẹp không? Sống có hạnh phúc không?

Úi da, trời ơi đau quá bác sĩ ơi. Úi da, thôi đi bác sĩ ơi, làm ơn băng lại đi bác sĩ ơi. Thì ra trong lúc hỏi về gia đình anh Ðể xỏ một mũi kim xuyên thịt làm anh trưởng ty nhà mình đau xốn xang, la hét ồn ào.

- Ừ tôi băng lại liền.

- Ê mà vợ anh đẹp, hai vợ chồng ngủ với nhau có sướng không? Anh có đi mèo mở ở chỗ nào khác hôn cha nội? Hay là “cỏ nhà ăn mãi còn ngon.”

- Hỏi gì kỳ vậy?...

- Úi da, đau quá bác sĩ ơi, chết tôi bác sĩ ơi. Thôi băng lại liền giùm tôi đi bác sĩ ơi. Ðừng may vá gì nữa hết bác sĩ ơi.

- Thôi đủ rồi không may nữa. Hết đau rồi phải không? Này hồi nãy tôi hỏi anh chơi có... không sao anh không trả lời?...

- Ui da, Ð... M... mày bác sĩ, sướng cái con c... tao đây này.

Cả phòng cười ồ trước sự đau khổ của bênh nhân mà trong lòng cảm thấy tội nghiệp.

- Ð... M... bác sĩ buông tôi ra, tôi không cần bác sĩ nữa đâu. Buông tôi ra. Anh Triều ơi, anh không có quyền để cho thằng Ðể nó hành hạ đội viên của anh như vầy. (Tôi là đội trưởng đội 3). Anh Triều ơi cứu tôi với.

Sau đó, bác sĩ Ðể còn phải may hai mũi kim nữa và còn nghe anh hỏi những câu có vẻ khôi hài cũng như còn nghe bệnh nhân chửi rủa thậm tệ hơn. May xong tổng cộng 5 mũi, cột chỉ đàng hoàng, xé khăn băng lại, anh Ðể ra về rồi mà ông bạn khốn khổ này còn chửi thề lung tung với tiếng rên hì hì hòa với tiếng cười khúc khích, khi nhỏ khi lớn vì sự đối đáp giữa bác sĩ và bệnh nhân quá ư là khôi hài và những lời chửi rủa về hai mũi kim chót cũng quá là thô bạo. Năm tháng sau, tôi được gọi đi làm việc, tôi ngồi trước mặt một người tự xưng đã từng là ký giả của tôi, từng viết cho nhật báo Ðại Dân Tộc. Tôi không hề biết anh ta, bởi nếu đã viết cho tờ Ðại Dân Tộc thì tôi phải biết. Cuối cùng, tôi hiểu ra đây chỉ là một việc mạo danh đề cho dễ nói chuyện, chứ thật ra anh ta không phải là ký giả, cũng không hề viết một bài nào cho nhật báo Ðại Dân Tộc. Anh đối xử với tôi hết sức niềm nở và lịch sự. Cũng trong dịp này anh ta, úp úp mở mở, thông báo là tôi sẽ được trả tự do trong nay mai. Nửa tháng sau tôi được phó trưởng trại đích thân chở về nhà và từ đó có chiến dịch dụ dỗ tôi hợp tác làm việc lại với “cách mạng.” Dụ dỗ không được nên cộng sản mới thẳng tay trả thù tôi thê thảm. Cái trò vừa hù vừa dụ đó sẽ được trình bày ở những phần sau.


Nghĩ lại phận mình

Hạ tuần Tháng Sáu 1975, sống tại làng cô nhi Long Thành, ngày không vui đêm khó ngủ, cứ triền miên đặt giả thuyết mà không tìm được sự trả lời thỏa đáng cho bản thân hay cho bạn bè thắc mắc. Nghĩ lại cuộc đời mình, cho tới lúc đó, 41 tuổi đầu, đau khổ nhiều hơn sung sướng, vui ít buồn nhiều. Thăng trầm giàu nghèo đã hưởng một vài lượt. Cao sang quyền quí có nếm đủ mùi. Mộng tưởng phục vụ đất nước dân tộc không thành. Công tác phát triển quận 8 Sài Gòn là một thách thức đối với cộng sản cũng dở dang. Một số bạn trẻ hợp tác với tôi đưa ra thách thức bằng hành động: “Cộng sản đang thực hiện một cuộc cách mạng sắt máu, mình không chấp nhận, chúng ta phải đề nghị với quần chúng nhân dân một cái gì khác hơn, dựa vào tình thương và thể hiện công bằng xã hội thật sự.”
Chúng tôi thực hiện được nửa chừng, (vấn đề nầy sẽ trình bày sau) báo chí trong và ngoài nước ca ngợi. Ký Giả Pháp Vanuxem (cựu tướng lãnh) có viết một quyển sách tựa đề “L'espoir à Sài Gòn” ca ngợi chương trình như một sự thành công. Người Mỹ có quay một cuộn phim để làm tài liệu. Càng suy nghĩ về quá khứ càng nhớ những chuyện vu vơ. Nhớ những lần được mời tham gia đại cuộc mà tôi từ chối vì nhận xét không hội đủ điều kiện để thành công, hai lần Phó Tổng Thống Nguyễn Cao Kỳ muốn lật đổ Tổng Thống Thiệu sau Tết Mậu Thân và sau khi từ hội đàm Paris trở về. Kỳ đề nghị giao cho tôi thành lập nội các để thực hiện đường lối chính trị khác hơn bởi vì theo ông nhận xét nếu cứ để cho Nguyễn Văn Thiệu tiếp tục ù lì hưởng thụ và nghe theo người Mỹ thì sẽ mất nước. Ðêm Tết Mậu Thân Tổng Thống Thiệu vắng mặt ở Sài Gòn, Phó Tổng Thống Kỳ một mình điều khiển trận phản công cứu nguy đô thành và các tỉnh. Nhưng sau đó ông Thiệu lại ganh tỵ sợ Tướng Kỳ lấn quyền nên ông Kỳ bực tức mới sinh ra ý định lật đổ. Lần thứ hai tại hội đàm Paris vì thái độ cứng rắn của ông làm người Mỹ khó chịu nên mới tổ chức đụng xe ông ở Rond Point Des Champs Elysées, ông bỏ hội nghị trở về họp một vài tướng lãnh đề nghị đảo chánh vì ông Thiệu bị Mỹ dụ dỗ và ép buộc có thể đưa chúng ta đến chỗ thất bại. Tôi sẽ lần lượt kể những chuyện đó hiện có nhiều nhân chứng còn sống tại Mỹ và các nơi khác, độc giả sẽ có cơ hội thỏa mãn tính tò mò chuyện quá khứ. Thời gian đó Tướng Nguyễn Cao Kỳ còn là người chống cộng với thành ý, còn là người nuôi hy vọng xây dựng một Việt Nam tự do thịnh vượng, chớ không phải như ngày nay, Tướng Kỳ bị mang tiếng phản bội mình và phản bội đồng đội đồng hành vì những lý do gì thì chỉ có một mình ông biết. Ôi biết bao nhiêu là vấn đề chính trị ngang trái, tình đời xảo quyệt vui buồn lẫn lộn... ngổn ngang trong đầu khi bị nhốt vào trại tù không biết số phận ngày mai.

Trở lại đời sống ở Long Thành, mỗi chiều Ðặng Văn Tiếp và tôi ngồi chờ hoàng hôn, thả hồn về dĩ vãng... tôi nhớ lại những ngày thơ ấu... những mối tình đầu... những bước đường công danh... phù du. Ðôi khi ngồi với anh bạn đồng viện Nguyễn Văn Cử bình luận chuyện quá khứ, lo ngại chuyện tương lai. Tôi tự hỏi tại sao ông trời không để cho tôi yên thân như một anh nông dân ở xã Phú Thuận tỉnh Bến Tre như ông cố, ông nội tôi ở đó, mà lại cho tôi có ăn học có hiểu biết rồi lại trao cho tôi nhiều cay đắng mùi đời. Nhưng nghĩ cho cùng, tôi không hối tiếc và nếu Thượng Ðế cho phép làm lại cuộc đời, tôi sẽ đi lại con đường tôi đã đi nhưng chỉ xin Trời Phật cho tôi tránh được cảnh mẹ ghẻ con chồng quá ư là đau khổ! Nước có vận người có số. Mồ côi mẹ cũng là một sự bất hạnh trời dành cho anh em chúng tôi. Câu nói được truyền khẩu trong dân gian là: “Mồ côi cha ăn cơm với cá, mồ côi mẹ lót lá mà nằm,” áp dụng cho chúng tôi thật đúng vô cùng. Tuổi thơ ấu của tôi chịu quá nhiều dấu ấn bất công, quá nhiều nếp gấp đau buồn, quá nhiều thiếu thốn so với những đứa trẻ của gia đình bình thường khác, mặc dù ông bà cha mẹ tôi nói được là hạng giàu có trong tỉnh. Mẹ tôi chết lúc tôi mới lên năm. Thiếu tình yêu của mẹ và bị hất hủi tàn tệ trong gia đình điều đó làm cho tôi mất thăng bằng về mọi mặt, tâm lý bất thường.
Cái cảm giác bơ vơ không cho mình có được sự tự tin, mẹ ghẻ hà hiếp, cha mắng phạt oan ức làm cho mình vừa sợ hãi vừa mang phản ứng tự vệ trường kỳ. Tôi mãi tìm kiếm một chỗ dựa ấm áp, một sự an ủi bao che nhưng không có. Tôi ở với cô, em ruột của cha, tình thương của cô là một thứ tội nghiệp và thương xót, cách đối xử của cô gần giống như bà chủ với người làm công. Tôi ở với bà, em ruột ông nội, tối ngày chúng tôi phải phụ giúp việc nhà, thậm chí chạng vạng tối, em tôi sợ ma nhưng phải đi tìm mấy con dê ở ngoài đồng đem về vắt sửa. Tất cả chỉ là tình thương giả tạo và lợi dụng mà thôi. Người ta cũng thường nói “giàu cha giàu mẹ thì ham giàu cô giàu bác ai làm nấy ăn.” Tôi còn nhớ ngày mẹ tôi hấp hối tôi đang cùng với bọn anh em cô cậu vò đạn bắn chim bằng ná thung. Bất ngờ có người báo tin phải về nhà gấp. Vừa vào cửa tôi nghe tiếng mẹ tôi kêu lớn “Chúa ơi chết tôi.” Tất cả anh em tôi hòa lên khóc, khóc không ngừng, lúc lớn tiếng, lúc âm thầm rên rỉ, khi anh em đối mặt nhìn nhau lại khóc hòa ầm ĩ. Chúng tôi đã mất một người mà suốt đời không tìm ra ai có thể thay thế được. Tôi không nhớ khóc cho đến bao giờ mới thôi, nhưng lâu, lâu lắm. Có phải là vì cạn nước mắt không? Tôi còn nhỏ quá không biết được điều đó. Rồi đến ngày chôn cất mẹ tôi, lại một lần anh em ôm nhau mà rên la khóc nức nở! Tôi hối tiếc khi lớn lên biết được rằng mẹ tôi sanh con tại nhà dù gia đình khá giả, ở xã mà có nhà lầu, có biệt thự nền đúc kiểu tây phương, thêm một dẫy nhà dài với sân rộng, nhưng tiếc thay lại theo thói quê mùa cổ lỗ của làng xã, sanh con không vào nhà thương ở tỉnh mà rước mụ vườn, dốt nát về y tế về nhà đỡ đẻ. Ðến khi bà mụ bó tay mới chịu lên tỉnh rước một lượt ba vị bác sĩ về nhà là mẹ tôi hấp hối, ba vị y sĩ đành chia buồn vì không có dụng cụ và điều kiện giải phẫu. Âu cũng là phần số của mẹ và cũng là của chúng tôi phải chịu khổ về sau với cảnh “mẹ gà con vịt chắt chiu, mấy đời mẹ ghẻ thương yêu con chồng?” Hai anh lớn của tôi đứa 10 tuổi, đứa 7 tuổi, em kế tôi mới lên ba, còn đứa em gái út một tuổi còn ẵm trên tay. Từ đó, thôi biết bao nhiêu là buồn phiền uất ức, oán hận, khóc thầm. Dù không muốn nhớ tới nhưng cảnh đau lòng nó lù lù hiện trong trí óc không thể xua đuổi được. Bẩy tháng sau cha tôi cưới mẹ ghẻ, tiếng là để lo cho các con thơ, nhưng thực tế chúng tôi khởi sự nếm mùi cay đắng. Cơm ngày hai bữa chúng tôi ăn riêng, ăn trước với cá kho hay cá nướng dằm nước mắm có khi không đủ chan cơm. Còn cha và mẹ ghẻ ăn sau phủ phê gà cá, chúng tôi đứng xa nhìn, thèm rỏ dãi mà không dám lộ mặt bởi vì gia luật không cho phép dòm miệng khi thấy người khác ăn món ngon. Nhiều lần cha vắng mặt gì ghẻ cầm nguyên trái tim heo hấp tỏi hành, không cần sắc thành miếng nhỏ, ngồi ăn ngon lành, trước mắt thèm thuồng của chúng tôi. Con riêng của bà thì uống xá xị “Phương Toàn” còn chúng tôi thì nước lạnh chớ không có được nước trà mà uống. Cảnh thèm đường thốt nốt của thằng Giác và tôi thật khôi hài và chua xót. Số là trong thời kỳ gia đình chúng tôi bị Việt Minh lấy nhà đuổi ra, chúng tôi đi ở đậu nhà bà cô ruột của cha. Dì ghẻ tôi mua một phong đường thốt nốt 5 tán gói trong lá thốt nốt bộc dài. Chúng tôi xin một cục nhỏ cho hai đứa bà không cho. Thèm quá mỗi lần thấy vắng người anh em chúng tôi chạy lại lấy ngón tay quẹt ngang liếm một cái. Hai đứa liếm đi liếm lại nhiều lần làm hủng sâu một lỗ. Bà dì ghẻ mét cha tôi. Hai đứa lại bị đòn. Bà bắt chúng tôi giặt quần áo, em tôi và tôi đùa giỡn làm văng nước trúng bà. Ðêm vào mùng bà nỉ non mét cha rằng chúng tôi cố tình lấy nước quần dơ rải lên đầu bà cho bà mang nhục, sáng ra chúng tôi bị đòn. Còn biết bao nhiêu trận đòn oan ức vì những câu nỉ non trong đêm mỗi khi vào mùng mà chúng tôi nghe được và biết trước sáng mai sẽ ăn đòn nên cả đêm lo sợ ngủ không yên.
Trong bối cảnh mồ côi bị hà hiếp như vậy, anh em chúng tôi ôm trùm, thương nhau và lo lắng cho nhau. Ngoài tình huynh đệ hình như còn có tình mẫu tử lạ thường, tình bầu bạn thâm giao, không rời nhau đêm ngày, trừ những khi đi học xa, lên tận Mỹ Tho ở nội trú, học trường Dòng Thánh La San. Có những đêm trăng tròn thức giấc ra tựa cửa sổ nhìn trời, nhớ em, xót thương cho cảnh côi cút nhọc nhằn, bực tức trong lòng, ngực căng phòng thở không được, nước mắt tuôn rơi mà không dám hít hơi lớn tiếng. Nhớ những ngày chúng tôi còn trẻ ham chơi nhưng bị cấm đoán không cho giao dịch với con dân nghèo, mà chính những đứa trẻ đó mới tử tế dễ thương hơn cái lũ bà con hay những bọn thuộc nhà môn đăng hộ đối.
Mùa mưa em tôi và tôi đi hớt cá lia thia ngoài ruộng với mấy thằng chăn trâu sành nghề, nhưng rủi thay mỗi lần gì ghẻ bắt gặp mét cha, phụ họa thêm rằng “mấy đứa con ông nó biến thành chăn trâu hết rồi,” thế là một trận đòn nhưng chúng tôi vẫn trốn tránh lén ngồi trên lưng trâu, về nhà hôi mùi khét nắng, mùi hôi trâu hôi bùn thì lại bị đòn nữa. Chỉ trừ những lúc bẻ ổ kiếng vàng lấy kiến con và trứng, móc mồi câu cá rô non thì bà dì ghẻ hoan hỉ bởi vì bà được ăn cá chiên giòn cuốn bánh tráng. Hay là đi bắt cá cạn mùa sắp gặt lúa, trời nắng ruộng khô, hoặc đi soi ếch nhái sau những trận mưa dông đầu mùa. Tóm lại cái vui của chúng tôi chỉ được chấp nhận khi nào bà cảm thấy cái vui đó có lợi cho bà. Ðầu mùa mưa, ruộng mới vừa nổi nước, ếch nhái dưới hang sâu, trong bụi rậm nhảy ra hứng sương uống nước. Cứ mỗi chạng vạng tối chúng kêu rộ lên, mỗi loại một giọng đặc biệt, quệt quệt giọng ồ ề của ếch, ngắc nghen thanh tao thánh thót của nhái, nghiến răng trọt trẹt của cóc, quền quan rền vang kéo dài của ễnh ương, tất cả rộ lên thứ nầy kêu ít, thứ kia kêu nhiều, kết thành một điệu nhạc hòa tấu thú vị, riêng biệt đặc thù của vùng đồng bằng sông Cửu Long thời tôi còn thơ ấu.
Có những buổi trưa nắng gay gắt anh em chúng tôi rủ nhau đi bắn chim trao trảo, dòng dộc, se sẻ, chim sâu, không có loại chim nào lớn nhỏ ở đồng quê mà tôi không biết tên nó. Ðó là chưa kể đi trên những thửa ruộng mà các bầy vịt đẻ lội ngang qua thế nào cũng lượm được một hai trứng rơi rớt đem về chiên cơm ăn vui sướng vô cùng, hay là bắn được một con chim nhỏ, se sẻ chim sâu gì đó, nhổ lông, mổ rửa, bỏ vào chảo chiên mỡ thật nhiều thêm ít nước màu nước mắm trộn cơm chia nhau ăn còn ngon lành vui thú hơn bữa cơm của dì ghẻ dọn. Nhớ có lần tôi đau liệt giường ăn uống không được, mà thuốc men không có, cha tôi đi làm về hỏi: Thằng Triều ra sao rồi? Dì ghẻ trả lời: Tôi đưa cháo nó không thèm ăn, chắc nó không ưa tôi, thôi ông đi đút cháo cho con ông ăn đi. Cha tôi nạt dội: “Không ăn thì để cho nó chết.” Trời ơi, tôi nghe những lời vô tình tận nghĩa của cha mà nước mắt tự nhiên trào, chảy tới khi mòn mỏi tôi ngủ thiếp lúc nào không hay. Lớn lên tôi và hai anh đi học ở tỉnh mà lòng cứ lo nhớ hai em ở nhà bị hành hạ mắng chửi lòng cảm thấy nặng như chì. Bãi trường về nhà, em tôi chạy ra mừng rỡ tôi thấy nó mình trần trùi trụi mặc quần vải trắng biến thành màu hột gà với hai ba lổ rách còn hai đứa em khác mẹ mặc quần vải bông áo trắng phau. Tại sao cha tôi có thể chấp nhận sự phân biệt đối xử như vậy cà? Phải chăng tại bà dì ghẻ còn trẻ nên cha tôi nể nang bà quá đáng? Tự nhiên nước mắt tôi trào, bà mẹ ghẻ đanh thép hỏi sao mày nghỉ Hè về chơi mà khóc, bộ mày nhớ trường muốn đi học luôn không về nữa sao? Em tôi thấy vậy cũng khóc theo mà chắc nó không biết tại sao nó khóc. Chúng tôi kéo nhau đi chỗ khác, khuất mặt mọi người tôi hỏi: Mày với con Xuyến ở nhà có bị bả ăn hiếp nhiều không? Thằng Giác lắc đầu nhưng miệng nó mếu máo nước mắt lưng tròng. Năm tôi vừa mới thi đậu bằng sơ học yếu lược, thời đó có thể xin làm thầy giáo làng kiếm cơm được rồi. Tôi có ý định bỏ nhà ra đi xin nhà nước tuyển dụng làm giáo viên kiếm tiền nuôi em. Với ý định đó tôi viết một lá thơ cho người bạn học cùng lớp, có ông chú nó làm thơ ký bưu điện chắc sẽ biết cách giúp đỡ tôi xin việc. Tình cờ cha tôi thấy bức thơ của tôi bèn xé ra coi. Ông nổi trận lôi đình lấy một mớ quần áo của tôi quăng ra sân đuổi đi, miệng chửi mắng vang dậy, tay cầm roi mây đánh tôi xối xả, người anh kế tôi nóng lòng can thiệp hỏi: “Cha không thấy má đối xử với tụi con như thế nào sao? Vì vậy em con mới đòi ra đi, chớ đâu có phải vui sướng gì mà nó muốn bỏ nhà, bỏ tụi con?” Roi mây của cha tôi lại xối xả lên đầu anh ấy đến độ ông nội tôi tức giận tột cùng hét lớn, mắng chửi cha tôi thậm tệ và biểu cha tôi đánh ông thay vì đánh anh em chúng tôi. Sự can thiệp của ông nôi như một gáo nước lạnh tạt vào đầu cha, tất cả mọi người im phăng phắc, chỉ còn một mình ông nội tiếp tục chửi mắng cha và má ghẻ liên hồi. Những sự buồn phiền uất ức tột cùng khiến tôi có ý nghĩ phải học cho thành tài để trả thù khi lớn khôn. Ðó là động lực giúp tôi có ý chí sắt thép và sự trì chí học lấy cho bằng được cấp bằng đại học, dù có lúc tôi phải đi làm bồi nhà hàng hay rửa chén ở Paris.
Khi tôi đang học, có một ngày đó nhận được thơ của đứa em viết như sau: “Anh Sáu ơi, em và con Xuyến bị con mẹ đó hà hiếp quá chừng, cha đối xử quá tàn tệ, tụi em chịu khổ sở oan ức quá nhiều nên em quyết định lấy cây súng cạc-bin bắn cho con khốn nạn đó chết, thà em đi tù mà con Xuyến nó sẽ hết khổ. Nhưng anh Sáu ơi, khi em rờ cây cạc-bin tự nhiên em thấy sợ quá nên em không dám làm.” Tim tôi se thắt, người tôi thẩn thơ lờ đờ, nhớ thương hai em, học không vô, ăn ngủ không yên gần cả tuần lễ. Tôi phải trả thù, nhứt định tôi phải trả thù. Nhưng trớ trêu thay học xong trở về xứ tôi lại dang tay nuôi tất cả đàn em khác mẹ, kể cả bà mẹ ghẻ ác độc đó. Một phần vì tôi muốn giữ chữ hiếu với cha tôi, đó là gia giáo chăng? Một phần vì truyền thống của dân tộc Á Ðông mình? Hay là do sự tri thức về đạo lý con người? Hay do chính lời dạy của Chúa Giêsu “thương người như mình vậy,” “nếu có ai tát tai mình bên phải thì hãy đưa bên trái cho người ta tát” không báo thù oán hận. Có lẽ do tất cả những thứ đó họp lại mà tôi bỏ ý định trả thù bà mẹ ghẻ.
Nhưng tại sao tôi lại được đi Pháp du học? Năm 1950 cha tôi mang lon thiếu tá lực lượng bổ túc công giáo (Forces Supletives, Union Militaire de Defence Chrétienté gọi tắc là UMDC) giữ chức vụ Phó Tỉnh Trưởng Nội An tỉnh Bến Tre. Có một đêm khoản 9 giờ tối xe jeep của ông về làng, cả nhà thức dậy, bà mẹ ghẻ dọn cơm cho cha ăn, vui miệng ông nói:
- Con thầy cai Tổng Dung đi Tây học, tụi bây có đứa nào muốn đi Tây không bây?
Im phăng phắc. Bầu không khí vừa nghiêm chỉnh vừa nặng nề. Cha tôi lấy giọng ngọt ngào hỏi người anh cả:
- Tần đi Tây học không con?
- Thưa không cha.
- Hớn đi không con?
- Dạ không cha.
- Triều đi không con?
- Dạ đi!
- Giác đi không con.
- Dạ không.
Thế là số phận an bài. Cái gì xui khiến tôi trả lời đi? Bởi vì câu nói vừa dứt tôi thấy lòng sợ hãi, lo âu, hối tiếc, gần như tôi bị lên án khổ sai biệt xứ. Nhưng vì cha tôi quá nghiêm khắc nên tôi không dám nói đi nói lại, hay là có cái gì đó xui khiến tôi ngậm miệng dù lòng tôi rã rời, thật sự hối hận. Cha tôi nói tiếp với giọng hài lòng và khẳng định. Ngày mai về Bến Tre, cha biểu thằng Thôi làm giấy tờ cho con đi. Rồi mọi sự ngổn ngang trong lòng, lo lắng cho bản thân mình bơ vơ nơi xứ lạ quê người, xót thương anh em ở lại trong cảnh đau buồn tủi hận. Nghĩ tới thời gian chín mười năm phải chịu biệt xứ thật là hãi hùng. Thủ tục giấy tờ để cho thanh niên xuất ngoại vô cùng khó khăn gần như không thể được trong thời gian chiến tranh vì luật tổng động viên đã ban hành, nhưng cha tôi là bạn quen biết với cụ Nguyễn Văn Tâm khi ông còn làm quận trưởng Cai Lậy thuộc tỉnh Mỹ Tho, bây giờ ông là đương kim Tổng Trưởng Nội Vụ. Ðến ngày tôi phải lên Sài Gòn khám sức khỏe, tôi khờ dại nghe người ta nói hút thuốc nhiều sẽ bị nám phổi nên tôi mua hai gói thuốc Craven'A dù không biết hút nhưng phải ráng phì phà cho hết đến nổi đắng miệng, tôi hy vọng phổi sẽ bị nám, giấy tờ sẽ không xong, tôi sẽ được ở lại. Nào ngờ đâu vài hôm sau có giấy Bộ Trưởng Nội Vụ gọi tôi đích thân trình diện. Một vị sĩ quan của văn phòng cha tôi đưa tôi lên gặp ông Tổng Trưởng. Vừa thấy chúng tôi bước vào ông liền hỏi:
- Mày đi Tây chơi bời hay đi học mậy?
- Dạ thưa bác con đi học.
- Ừ đi học nghe con, thôi đi mạnh giỏi, ráng mà học cho thành tài. Vừa nói ông vớ lấy sổ thông hành nhỏ ký tên đưa cho tôi.
- Con xin cám ơn bác.
Chúng tôi ra về. Mọi người trong gia đình đều mừng rỡ, nhứt là ông nội tôi, người đã từng hy vọng thấy tôi nên người, người đã từng thương yêu tôi bằng cách cho nhiều tiền mua bánh, nhưng hoàn toàn bất lực trước sự đau khổ triền miên của tôi mà ông thừa biết, người mà tôi vĩnh viễn không khi nào gặp lại. Rồi đến ngày tôi phải ra đi nước mắt ràn rụa, ôm anh, ôm em từng người lòng xốn đau như dao cắt.

5

Vụ ông Kỳ mưu toan lật đổ ông Thiệu

Như đã nói qua ở đoạn trước, cuộc phản công trong đêm Tết Mậu Thân tại Sài Gòn cũng như ở các tỉnh do chính Phó Tổng Thống Nguyễn Cao Kỳ chỉ huy điều khiển trong khi Tổng Thống Thiệu vui Xuân tại quê vợ ở Mỹ Tho. Sau khi đẩy lui hai đợt tấn công vào Sài Gòn và diệt trừ số đông quân cộng sản, Phó Tổng Thống Kỳ hô hào cảnh giác đề phòng Việt Cộng có thể bất ngờ tấn công lại một lần nữa. Ông phát động phong trào thanh niên phòng thủ Sài Gòn bằng cách kêu gọi thanh niên tự nguyện cầm súng lên sân thượng các tòa nhà cao ốc để canh giữ thủ đô. Vì an ninh công cộng và cũng vì an ninh của chính gia đình mình hay vì sợ cộng sản tái diễn cuộc tàn sát ở Huế. Vì lòng yêu nước hay vì tính hăng say của tuổi trẻ, mỗi người có lý do riêng của mình, nhưng đông đảo thanh niên hăng hái tham gia, tư cách lãnh đạo và uy tín của Tướng Nguyễn Cao Kỳ tăng cao trong thời gian đó làm cho Tổng Thống Thiệu cảm thấy khó chịu vì hình ảnh của ông bị lu mờ bởi sự chú ý của dư luận trong và ngoài nước đối với cái tên của Nguyễn Cao Kỳ.

Tính đa nghi và sự ganh tỵ muốn nắm chặt quyền bính mới nhận được từ sự may mắn và thời cuộc đẩy đưa, nên ông Thiệu bắt đầu phản ứng. Tôi sẽ tường thuật chi tiết tại sao Tướng Nguyễn Văn Thiêu chịu ra ứng cử tổng thống và tại sao Tướng Nguyễn Cao Kỳ nhường ghế ứng cử viên chính cho ông Thiệu. Ông bà mình thường nói “tài bất thắng thời.” Tài lãnh đạo đất nước của Tướng Nguyễn Văn Thiệu yếu kém so với nhiều nhân vật khác cùng thời. Phản ứng đầu tiên của ông là chận đứng phong trào thanh niên gìn giữ thủ đô, viện cớ rằng số người này chưa được huấn luyện quân sự và Việt Cộng có thể trà trộn vào hàng ngũ vô tổ chức đó. Tình thật và thâm ý của Tổng Thống Thiệu là sợ Phó Tổng Thống Kỳ lấn quyền và xa hơn nữa là có thể đảo chánh, bởi vì hiện tại guồng máy chính quyền, đặc biệt cảnh sát và quân đội, còn trong tay những người thân do ông Kỳ bổ nhiệm. Suốt thời gian nắm chính quyền, Tướng Nguyễn Văn Thiệu chỉ lo nghĩ củng cố địa vị của mình thay vì đặt quyền lợi quốc gia lên trên hết và xem việc chống Cộng Sản xâm lăng là quan trọng, lo tìm kế hoạch giữ nước, bàn chiến lược củng cố và phát triển quốc gia. Ông chỉ biết nghe theo sự cố vấn của Hoa Kỳ vì sợ bị giết như ông Ngô Ðình Diệm, tâm trí ông chỉ nghĩ lèo lái để giữ quyền, phản ứng của ông là chận đứng hoạt động của Phó Tổng Thống Kỳ thay vì hợp tác bàn bạc theo lệ thường giữa chánh phó trong việc điều hành quốc vụ.

Guồng máy lãnh đạo quốc gia thời đó chưa tan rã bên ngoài mà thật sự đã rời rạc bên trong. Báo chí Sài Gòn công khai bình luận khá nhiều về sự rạn nứt của chính quyền Thiệu-Kỳ. Tổng Thống và Phó Tổng Thống ra mặt kình chống nhau. Thủ Tướng Nguyễn Văn Lộc là tay em của Tướng Nguyễn Cao Kỳ. Ông Lộc nhận lời đứng phó trong liên danh Nguyễn Cao Kỳ. Tướng Kỳ nhường ghế ứng cử viên chính cho Nguyễn Văn Thiệu với điều kiện ông Thiệu phải chấp nhận Lộc làm thủ tướng. Chức vụ thủ tướng thông thường phải là người thân cận và chấp nhận toàn diện đường lối của tổng thống, đàng nầy ông Nguyễn Văn Lộc là người của Tướng Kỳ mà bị bắt buộc phải thi hành đường lối và chỉ thị của Tổng Thống Thiệu. Hơn nữa ông Lộc là một nhân vật không có tiếng tăm uy tín gì trong chính trường nên không được ai nể trọng, ngoài ra ông không có bản lãnh và khả năng thi hành chức vụ thủ tướng chiếu theo hiến pháp và quyền lợi quốc gia dù những sự việc ông làm có khác với ý Tổng Thống hay Phó Tổng Thống. Ông Lộc không làm thỏa mãn được hai cấp trên cho nên cái ghế thủ tướng của ông không thể tồn tại lâu hơn vài tháng. Phản ứng của ông Thiệu nhỏ mọn đến nỗi chỉ thị cho vệ sĩ của ông chen lấn không cho Phó Tổng Thống Kỳ đi gần ông khi cùng lên xuống thang lầu dinh Ðộc Lập. Những sự việc tương tự ngày càng xảy ra hết chuyện này đến chuyện khác làm cho ông Kỳ tức giận phải bỏ việc công, ra Nha Trang nằm nghỉ tại Bạch Dinh của cựu Hoàng Ðế Bảo Ðại hơn nửa tháng trời để suy nghĩ về chuyện quốc gia và tình đời.

Thời gian đó tôi mới rời trường sĩ quan bộ binh Thủ Ðức, được biệt phái về bộ Canh Nông. Một buổi sáng đẹp trời qua đường dây điện thoại Ðại Tá Phan Văn Minh, Ðổng Lý Văn Phòng Phủ Phó Tổng, xin gặp tôi và thông báo rằng Thiếu Tướng Kỳ mời tôi ra Nha Trang bàn việc. Ðại Tá Minh còn cho biết 10 giờ sáng hôm sau ông đến rước tôi tại bộ Canh Nông và máy bay riêng của Thiếu Tướng Kỳ sẽ đưa chúng tôi ra Nha Trang. Tôi đồng ý. Sáng hôm sau đến Nha Trang tôi gặp ông Kỳ tại bãi biển. Sự có mặt của tôi đã được báo trước, nên tôi thấy có một ghế dựa kề bên ông Kỳ để trống. Kỳ mời tôi ngồi, tùy viên của ông đem nước giải khác và ông hỏi thăm qua loa từ ngày từ chức Tổng Trưởng Thanh Niên đến nay làm gì vân vân... và vân vân. Tôi hỏi lại:

- Tại sao toa là Phó Tổng Thống mà vì bực tức ông Tổng Thống bỏ việc công, đi nghỉ mát trong khi chuyện đất nước như dầu sôi lửa bỏng?

- Thì chính vì chuyện như dầu sôi lửa bỏng moa mới ra đây.

Tôi lại hỏi:

- Tại sao toa ra lệnh cho cô lập gần nửa bãi biển như thế này không sợ người ta chỉ trích mình ỷ quyền sao? Tại sao từ Bạch Dinh đi thẳng xuống có một bãi biển nhỏ dành cho mình mà không sử dụng?

Nhưng thôi, chuyện đó là chuyện nhỏ. Toa nghĩ gì về việc cai trị của Trung Tướng Thiệu nào?

Ông Kỳ trả lời:

- Toa hỏi moa mà như đã biết câu trả lời rồi thì hỏi làm gì.

Sau đó, ông Kỳ cũng chậm rãi thuật cho tôi nghe rất nhiều chuyện xích mích, sai trái của Tổng Thống Thiệu và ông không kết luận mà hỏi tôi:

- Toa nghĩ như thế nào? Toa khuyên moa phải làm sao?

- Nói khuyên thì moa không dám, nếu hỏi ý kiến riêng thì moa nói việc trước tiên toa phải về Sài Gòn ngay. Toa không nên để cho dư luận phê phán toa là bất xứng với chức vụ. Trên chính trường mọi sự bất đồng phải giải quyết bằng tranh luận hay thậm chí bằng tranh đấu. Không có chuyện giận dỗi bỏ đi nghỉ mát. Còn nội các, còn hiến pháp, còn dư luận quần chúng. Toa nên về Sài Gòn họp báo công khai đưa ra đường lối và phương hướng hành động như thế nào đối với tình thế mới và nguy hiểm hiện nay.

- Không cần họp báo trình bày gì cả. Ngày mai tớ về Sài Gòn, từ cánh trái Dinh Ðộc Lập, tớ sẽ sang cánh phải vào phòng Thiệu móc súng dí vào đầu bảo nó de, nếu nó không de thì tớ “feu” (bắn) nát đầu. Tớ biết tên Thiệu này nhát gan lắm. Thế nào nó cũng de, mà nếu không de, tớ feu thật. Mọi chuyện xong xuôi tớ giao cho cậu thành lập nội các và thi hành chính sách thu phục lòng dân như cậu dự trù và đã thực hiện ở quận 8.

- Tôi sẽ đồng ý với một điều kiện.

- Ðiều kiện gì?

Nếu anh chấp nhận cho tôi dẹp hết đám “Lương Sơn Bạc” của anh kiểu Tướng Nguyễn Ngọc Loan thì mới làm việc được.

Tưởng cũng nên nhắc lại năm 1967 tôi từ chức Tổng Trưởng Thanh Niên trong nội các chiến tranh là vì phản đối những hành vi lạm quyền và thi hành chế độ cảnh sát trị của Tướng Nguyễn Ngọc Loan. Vấn đề tôi tham gia nội các và từ chức sẽ trình bày ở những chương sau.

Kỳ ngại ngùng nói:

- Cậu cố chấp quá, chuyện đã qua rồi. Trong tương lai mình phải cần những thằng liều và dám hy sinh như nó.

- Moa hoàn toàn đồng ý nhưng moa không thể chấp nhận sự lạm quyền, vô kỷ luật, hành động bất xứng, gây tiếng tăm như Ðô Trưởng Văn Văn Của nhậu đã rồi móc súng bắn lên trần nhà chơi. Hay là xông vào Bộ Kinh Tế gây gỗ rồi bạt tai ông Tổng Giám Ðốc Thương Vụ Nguyễn Hoàng Cương. Còn Tướng Loan thì bắt giam Giám Ðốc hãng BGI vô cớ, rồi cũng phải thả người ta ra theo sự can thiệp của Mỹ, bắt Ðổng Lý Văn Phòng Bộ Y Tế với tội danh “kỳ thị Nam Bắc” không có trong luật pháp, bắt con của triệu phú Hoàng Kim Quy là Hoàng Kim Lân quì gối giữa sàn nhảy của nhà hàng Văn Cảnh vì tội ngày xưa giành gái với nhau... Những sự lạm quyền như vậy, gây bất mãn trong quần chúng làm sao mình tạo điều kiện tất thắng cho chính nghĩa được? Nếu toa không chịu hiểu rằng chính trị bây giờ không phải là phe nhóm anh hùng dùng sức mạnh để xưng bá như đám Lương Sơn Bạc ngày xưa mà là tranh thủ lòng dân, giác ngộ quần chúng chấp nhận chính nghĩa quốc gia của mình chống lại tà thuyết cộng sản thì toa nghĩ xem mình nắm chính quyền để làm gì? Moa cám ơn toa tin tưởng lòng yêu nước và đánh giá được khả năng hành động của moa nhưng moa không thể chấp nhận đề nghị của toa trong điều kiện này.

Ông Kỳ tiếp tục thuyết phục tôi bỏ qua sự cố chấp mà hãy nhìn rõ hoàn cảnh khó khăn của đất nước. Tôi cũng tiếp tục giải thích với ông là trong chuyện Tàu đời xưa có những vị công thần khai quốc, ỷ thế lộng quyền, về triều hống hách không coi ai ra gì, kể cả hoàng thượng, thì triều đại đó sớm muộn cũng phải cáo chung.

Cuối cùng, tôi phải nói với Tướng Kỳ:

- Bây giờ nói chuyện của chúng mình thì anh em trong đám Lương Sơn Bạc của toa ỷ quyền làm loạn, chuyên xả rác rồi moa sẽ phải thu dọn hoài thì đó chẳng phải là công dã tràng xe cát biển đông sao? Cho nên một lần nữa moa nói thẳng thừng toa đừng giận, moa không chấp nhận đề nghị này.

Hai người chúng tôi không tìm được một sự đồng thuận. Ông Kỳ thì nghĩ rằng phải tạo vi cánh và kết thành phe nhóm, như vậy mới nắm giữ được quyền hành lâu dài trong tay. Còn việc nắm quyền hành đó để làm gì thì ông không có kế hoạch. Dĩ nhiên trong thâm tâm ai cũng muốn và ngoài miệng ai cũng nói luôn mồm là để bảo vệ đất nước và để xây dựng quốc gia. Nhưng người ta không hiểu rằng lòng dân là quan trọng, hiểu biết tình hình quốc tế, quốc nội là cần thiết, chiến lược lãnh đạo dựa vào quần chúng là khôn ngoan, phương thức hành động phải thật rõ ràng thì mới hy vọng thành công. Tôi không dám tự hào biết nhuần nhuyễn những điều đó vì tuổi tôi lúc đó còn quá nhỏ, nhưng đại khái tôi có một khái niệm rộng rãi về việc quốc gia đại sự nên thời gian ông Kỳ còn làm thủ tướng thường hỏi ý kiến tôi về nhiều việc ông cảm thấy khó giải trong lúc tôi còn sát cánh với ông trong nội các chiến tranh. Hiện tại hai cách nhìn của chúng tôi quá khác biệt nên dù đôi bên có tận sức thuyết phục nhau, những lý lẽ đưa ra không xóa được khác biệt giữa hai chúng tôi. Cuối cùng, để đánh tan sự khó chịu của Phó Tổng Thống Kỳ và cũng là của tôi, nên tôi cười đùa nói:

- Moa đói bụng quá rồi, thôi về nhà ăn cơm đi.

- Ừ nhỉ, moa sẽ cho toa ăn thịt nai, hôm qua tụi này đi săn bằng trực thăng ở đám rừng tranh được nhiều thịt lắm.

Thời điểm đó nếu ông Kỳ muốn lật đổ Tổng Thống Thiệu thì dễ như trở bàn tay bởi vì các lực lượng không quân, thủy quân lục chiến, cảnh sát, an ninh quân đội nằm gọn trong tay ông, đó là chưa kể những đơn vị quân đội bên ngoài còn trong phạm vi ảnh hưởng của Tướng Kỳ. Về phía đồng minh Mỹ, tài liệu giải mật cũng chứng minh chính phủ Hoa Kỳ lúc đó ủng hộ triệt để Thiếu Tướng Kỳ và rất thất vọng khi biết tin ông nhường chức ứng cử viên tổng thống cho Tướng Thiệu. Phần tôi dù chủ trương thu phục lòng dân đã thành công ở quận 8 lan sang quận 6 và sắp tràn qua quận 7 như một vết dầu loang, nhưng tôi hoàn toàn không có vi cánh trong quân đội. Nếu một mai nhóm tướng tá Lương Sơn Bạc vì lộng quyền không được, muốn phế bỏ tôi thì cũng dễ như trở bàn tay. Suy đi nghĩ lại, tôi không nhận lời đề nghị của Phó Tổng Thống Kỳ là phải.

Sau này, khi nằm trong tù cộng sản, tôi ở chung buồng giam với một Thiếu Tá Phó Trưởng Ty công an tỉnh Bến Tre. Anh ta bị án tù vì thả tội nhân đổi lấy vàng. Anh ta thuật lại với tôi: Sau Tết Mậu Thân các “cơ sở” của Việt Cộng ở Bến Tre tiêu tan hết đến nỗi viên Bí Thư Tỉnh Ủy phải hội anh em lại khuyến khích ra hồi chánh. Nhưng anh Phó Trưởng Ty Công An Bến Tre này sợ phía quốc gia không tin, có thể bắt và đánh đập tra tấn nên không dám ra hồi chánh thà ở trong rừng dừa trốn chui trốn nhủi dù suốt đời có khi cũng không chết. Một nhân chứng khác là Ðại Tá Lâm Văn Nghĩa, Phó Giám Ðốc Cảnh Sát Ðô thành cũng có tâm sự với tôi là sau Tết Mậu Thân, lúc đó ông còn là trung tá làm việc ở Phòng Nhì tại Tổng Tham Mưu, bọn đầu sỏ cộng sản ở Miền Nam tan rã di tản sang Campuchia hết. Nếu trong thời điểm đó. tôi nhận hợp tác với Phó Tổng Thống Kỳ thành lập nội các, thực thi kế hoạch thu phục nhân tâm, tập trung toàn lực quốc gia đương đầu với cộng sản thì chưa biết việc gì sẽ xảy ra vì thời gian đó Mỹ còn triệt để ủng hộ miền Nam Việt Nam như một “Tiền Ðồn Chống Cộng” thật sự? Vận nước có thể đổi thay chăng? Hay là mọi việc rồi cũng sẽ được an bài y như ngày 30 Tháng Tư năm 1975?

6

Cố vấn chính trị Tòa Ðại Sứ Hoa Kỳ, Philip Habib thuyết phục tôi đừng từ chức tổng trưởng và cam kết nào là Mỹ chỉ ủng hộ có bốn người đương thời là Nguyễn Cao Kỳ, Nguyễn Ðức Thắng, Âu Trường Thanh và tôi, nào là vì lương tri của nội các chiến tranh nên ông xin tôi bỏ quyết định từ chức. Nghĩ lại, thật sự tôi cũng có phần hối tiếc.

Năm 1970 khi ông Kỳ được Tổng Thống Thiệu giao trách nhiệm toàn quyền đi Paris thương thuyết tìm giải pháp hòa bình cho Việt Nam ông lại một lần nữa mời tôi gặp ông để bàn thảo. Kỳ nói:

- Tổng Thống yêu cầu moa gánh trách niệm lãnh đạo phái đoàn Việt Nam đi thương thuyết ở Paris, toa nghĩ sao?

- Moa nghĩ chắc không phải Tổng Thống Thiệu mà là Mỹ khuyên ông ấy giao cho toa thì đúng hơn. Bởi vì toa nổi tiếng là “Diều Hâu” là Bắc Kỳ di cư chống Cộng tới cùng. Nếu kết quả có bất lợi gì thì dân chúng phải nghĩ rằng không ai đại diện mình xứng đáng hơn ông Tư Lệnh không quân đã từng là người đầu tiên mang bom đi dội trên đầu Việt Cộng ngoài Bắc. Ðây là sự khôn ngoan của Mỹ hay của Tổng Thống Thiệu cũng vậy thôi. Nhưng toa phải cầm chắc là trận nầy chỉ có thua chớ không có ăn. Thua đậm hay gỡ gạc được chút nào là do tài của toa thôi.

- Bởi vậy tôi mới gọi cậu đến, mời cậu cùng đi với tớ và cậu thử nghĩ xem còn ai có khả năng cùng đi với chúng ta không?

- Tìm người lanh lợi, biết ăn nói, có lập trường vững chắc. Tôi không biết ai. Nhưng có điều là bọn cộng sản nó đem bà Bình ra biểu diễn để tuyên truyền khắp thế giới, tôi nghĩ mình cũng nên mời bà Nguyễn Thị Vui, người mà tôi đã có lần giới thiệu để anh mời làm Bộ Trưởng Xã Hội trong nội các chiến tranh của mình nhưng bà ta không nhận, anh thử mời xem lần nầy bà có dám đi không?

- Tôi đồng ý sẽ mời bà Vui, nhưng phần cậu thì hãy trả lời cho tôi cái đã.

- Anh muốn tôi đi với tư cách gì? Người trong ban nghiên cứu của văn phòng Phó Tổng Thống hay một trong những thương thuyết gia?

- Moa muốn toa đứng đầu một nhóm trong văn phòng nghiên cứu của moa thì sẽ có ích lợi cho công việc hơn.

- Ðiều nầy có thể đúng nhưng tụi mình đã tỏ ra bất đồng chính kiến hồi moa còn ngồi trong nội các chiến tranh, bởi vậy cho nên moa mới từ chức, bây giờ lại ở trong văn phòng của toa thì hơi khó coi, dư luận sẽ bàn tán không tốt.

- Vậy thì toa đi với tư cách thương thuyết gia.

- Xin để cho moa suy nghĩ, ngày mai trả lời.

- Còn suy nghĩ gì nữa, về đi ngày mai lên đây trả lời để moa biểu Ðại Tá Minh (Phan Văn Minh) lo giấy tờ.

Chào tạm biệt với Phó Tổng Thống Kỳ, tôi ra về suy nghĩ miên man, lo lắng vô cùng. Suy nghĩ về việc đi hay không đi? Mình có thể giúp ích lợi gì trong giai đoạn cực kỳ khó khăn này? Tôi biết rất rõ và dư luận thế giới bàn luận, giải thích càng rõ hơn: Chính người Mỹ ép buộc Việt Nam phải ngồi vào bàn hội nghị, như vậy những gì Mỹ và Việt Cộng đã thỏa thuận với nhau, tới đâu rồi, phía Việt Nam Cộng Hòa vẫn mù tịt. Hội đàm này sẽ kết thúc như thế nào? Và sau đó việc gì sẽ xảy ra cho đất nước cho dân tộc và cho chính mình? Nếu con người có linh tính thì thật sự cái giác quan thứ sáu của tôi lúc đó báo trước rằng chuyện này không lành. Trái lại tôi thấy hình như Tướng Kỳ chưa ý thức được điều đó mà ông còn chủ quan là ông đang nắm vận mạng đất nước trong tay, tối sáng như thế nào do sự khôn khéo của ông và phái đoàn. Theo chỗ tôi biết thì ông Kỳ ít theo dõi báo chí và suy nghĩ về tình hình chính trị quốc tế quốc nội. Dĩ nhiên ông luôn luôn được trình báo hằng ngày do ban báo chí của văn phòng ông đệ lên, nhưng có xem kỹ càng và suy nghĩ cặn kẽ hay không đó là chuyện khác. Sáng sớm hôm sau tôi gặp lại Phó Tổng Thống Kỳ không phải ở tư dinh mà là ở tư gia.

- Tôi đã suy nghĩ khá nhiều về đề nghị của Thiếu Tướng hôm qua. xin nói trước ý nghĩ của tôi để Thiếu Tướng xem có hợp với quan điểm của Thiếu Tướng không rồi mình mới bàn tiếp chuyện tôi đi hay không? Tôi thật sự nghĩ rằng mình đang ở thế hạ phong. Lần nầy đi thì cầm chắc 7 phần thua 3 phần thắng. Vấn đề là cố gắng và phải lì lợm để gỡ gạc tối đa. Bất kể Mỹ ép buộc như thế nào mình phải lì ra giả đò liều chết đánh đến cùng, rồi mới tùy cơ ứng biến. Trên bàn hội nghị này thằng Mỹ gấp rút muốn đạt kết quả còn thằng cộng sản thì cố lì, như ở hiệp định Genève vậy. Việt cộng sẽ thắng nhờ dư luận quần chúng và bất ổn chính trị Mỹ cũng như nó đã thắng Pháp nhờ phong trào “Hòa Bình Ðông Dương” và sự lật đổ chính phủ cứ vài tháng một lần, thậm chí chính phủ Flimlin chỉ tồn tại hơn một tháng và Mendès France phải hứa đem lại hòa bình tại việt Nam với bất cứ giá nào thì mới đắc cử Thủ Tướng, ông khôn khéo kiêm nhiệm luôn chức tổng trưởng ngoại giao để khỏi gập “kỳ đà cản mũi” trong nội các. Thế trận chung chung tôi nghĩ như vậy đó, Thiếu Tướng nghĩ như thế nào xin cho tôi biết ý kiến.

- Thì chắc như vậy rồi, bởi vậy tôi mới cần sự trợ giúp của anh.

- Nếu Thiếu Tướng nói vậy thì tôi chấp nhận đề nghị của Thiếu Tướng với điều kiện là tôi đi với tư cách là thương thuyết gia chứ không phải là người trong “équipe” của Thiếu Tướng.

- Ðồng ý. Tôi sẻ bảo Phan Văn Minh làm giấy tờ cho anh.

Ra về tôi thấy lòng càng lo lắng nhiều hơn nữa. Lần đi phó hội này danh nghĩa là Việt Nam Cộng Hòa tham gia thương thảo để đem lại hòa bình cho đất nước, nhưng thực tế là Mỹ ép buộc Miền Nam phải ngồi vào bàn hội nghị ký một bản hòa ước càng sớm càng tốt để cho Mỹ phủi tay hết trách nhiệm. Cũng có thể vì đó mà có những văn thư mật của Tổng Thống Nixon hứa hẹn đủ điều với Tổng Thống Thiệu để trấn an, bảo đảm, khuyến khích ông từ bỏ chính sách “Bốn Không” và thúc giục ông ký hòa ước cho sớm. Việt Nam Cộng Hòa đi phó hội mà không chuẩn bị hồ sơ đầy đủ, không có bàn thảo với nhau về điều kiện tiến thối như thế nào, không có sự thuận ý của ta và đồng minh về mức độ nhượng bộ tối thiểu và sự bảo đảm an toàn cho sự sống còn của miền Nam. Còn Phó Tổng Thống và phái đoàn đi phó hội như thực hiện một cuộc du ngoạn lâu dài ở Paris bằng chuyến bay riêng biệt của Air Việt Nam thẳng cánh từ Sài Gòn đến Pháp với cả Phu nhân phó Tổng Thống và đoàn tùy tùng hùng hậu, gây tổn hao phi lý cho ngân sách quốc gia.

Chiều hôm trước ngày phái đoàn lên đường phó hội, một người bạn trong hội Trí Thức Công Giáo “Pax Romana,” anh Lâm Võ Hoàng, biết tôi sẽ tham gia phái đoàn Việt Nam dự hội nghị Paris, khoảng 8 giờ tối anh đến nhà xin gặp tôi. Anh Hoàng khuyên tôi không nên tham gia phái đoàn này vì tên tuổi của tôi từ trước đến nay chưa hề dính vào bất cứ việc gì mang tai mang tiếng, bây giờ chấp nhận tham gia, biết đâu sẽ gánh tội nhường đất thậm chí làm mất nước thì sẽ ô danh suốt đời. Tôi phản bác và giải thích rằng biết bao nhiêu chiến sĩ của mình liều chết bảo vệ đất nước mà họ đâu có biết trước được, thành công hay thất bại, nhưng họ vẫn chấp nhận hy sinh, còn mình thì so đo tiếng tăm danh dự. Tôi đã quyết, xin đừng hoài công thuyết phục tôi vô ích. Dù sao thì tôi cũng hết lòng cám ơn anh vì nghĩ đến danh dự của người bạn đồng hội với nhau nên mới đến khuyên tôi. Chúng tôi bàn thảo qua lại rất lâu, tranh luận rất nhiều, có khi gần như cãi cọ to tiếng. Mãi gần đến giờ giới nghiêm anh Hoàng đọc một tràng dài thơ sấm Hòa Hảo... về trách nhiệm và tu hành, về công danh phù du làm tôi hơi chao đảo. Càng chao đảo hơn khi tôi suy nghĩ về tính cách giả tạo thiếu căn bản, hoàn toàn phi lý của phái đoàn Việt Nam Cộng Hòa mà tôi đã nhận lời tham gia. Anh Hoàng từ giả ra về lúc 11giờ 45. Tôi bình tĩnh ngồi thảo một tâm thơ gởi Phó Tổng Thống Nguyễn Cao Kỳ xin lỗi và giải thích tại sao tôi không thể đi được. Dán xong phong bì tôi nhìn đồng hồ chỉ đúng 3 giờ sáng. Sáng hôm sau tôi đến gặp Ðại Tá Minh nhờ anh giữ phong thơ này và chỉ đưa cho Tướng Kỳ đúng vào lúc ông ngồi trên máy bay và mọi người đang chờ tôi là người cuối cùng phải đến. Xin anh nói rằng “Ông Võ Long Triều căn dặn tôi chỉ đưa thơ này cho Phó Tổng Thống khi ông lên máy bay mà thôi, không được đưa trước.”

Theo lời Ðại Tá Phan Văn Minh thuật lại về sau, khi đọc thư ông Kỳ có nói “Về tôi sẽ cho thằng này ăn lựu đạn.”

Từ Paris về, Tướng Kỳ quyết lật đổ Tổng Thống Thiệu

Ngay từ ngày đầu, thông qua báo chí trong và ngoài nước có thể thấy nhiều bất lợi cho Việt Nam Cộng Hòa về nhiều mặt. Thứ nhứt là chuyện bà Phó Tổng Thống Nguyễn Cao Kỳ công khai phung phí tiền bạc trong việc mua sắm quần áo, nữ trang và đồ dùng làm cho dư luận quốc tế chê cười đồng thời gây bất mãn trong nước cũng không ít. Thứ hai ngay những ngày đầu quan điểm của Mỹ và Việt Nam Cộng Hòa không hoàn toàn đồng nhứt trước kẻ thù chung, điều này khiến báo chí nước ngoài khai thác triệt để nhằm tạo dựng tin tức hấp dẫn cần thiết trong nghề nghiệp truyền thông. Thực tế cho thấy cộng sản Bắc Việt và con cờ của họ tạo dựng ra, gọi là Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam, bên ngoài được xem như hai thành phần nhưng thực tế là một. Còn Mỹ và Việt Nam Cộng Hòa, tiếng là đồng minh khắng khít “Mỹ-Thiệu” nhưng mang hình ảnh là Mỹ đóng vai trò cố vấn, xúi giục, ép buộc... và có thể nói thẳng thừng gần như thương thuyết giùm cho cộng sản. Như đã nói ở trên, Mỹ có nhu cầu cấp thiết phải ký kết Hiệp Ước Hòa Bình bằng mọi giá để trấn an dư luận quần chúng Mỹ và để giới hạn tổn thất quân sự, tài chánh mà Quốc Hội Mỹ không còn chấp nhận nữa. Thứ ba là vì Việt Nam Cộng Hòa không chủ trương thương thuyết với cộng sản do chính sách “4 Không” của ông Thiệu nên hoàn toàn không có chuẩn bị mà chỉ vì bị Mỹ ép ngồi vào bàn hội nghi nên phải đi mà thôi. Trong khi đó cộng sản Bắc Việt mua một căn nhà riêng ở Paris dành cho hai phái đoàn của họ, Bắc Việt và Mặt Trận, cư trú lâu dài.

Ngay từ đầu Mỹ đã bị cộng sản “tháu cáy” bằng cách cho thấy họ không gấp rút mà trái lại sẵn sàng kéo dài cuộc thương thuyết vô tận. Sau một thời gian bàn thảo không lâu, lập trường cứng rắn của Phó Tổng Thống Kỳ làm phái đoàn Mỹ khó chịu. Ðiều nầy chắc chắn Mỹ có lưu ý Tướng Kỳ. Ngoài ra một vị cố vấn Mỹ của ông khi còn làm Thủ Tướng, nay bắt liên lạc được với Ðại Tá Phan Văn Minh, Ðổng Lý Văn Phòng của Tướng Kỳ, xin hẹn gặp nhau ở dưới hầm một trạm Métro, “Porte des Lilas” chớ không dám gặp nhau công khai ở tiệm cà phê như mọi sự gặp gỡ thường tình ở Paris. Vị cố vấn Mỹ này yêu cầu Ðại Tá Minh nên khuyên ông Kỳ mềm dẻo hơn trong việc thương thuyết, và nên chấp nhận những điều kiện nào có thể chấp nhận được. Sau đó một thời gian, theo lời Ðại Tá Minh thuật lại với tôi, Thiếu Tướng Nguyễn Cao Kỳ bị CIA tổ chức đụng xe ở Rond Point Des Champs Elysées. Vì vậy mà ông Kỳ tức giận bỏ hội nghị về Sài Gòn luôn. Những diễn biến về sau khiến mọi người đều biết là ông Kỳ chấm dứt việc lãnh đạo phái đoàn thương thuyết VNCH ở Paris.

Hiệp định Paris được ký kết sau cuộc hội kiến “ồn ào” giữa Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu và Thứ Trưởng Ngoại Giao Hoa Kỳ, Tướng Alexander Haig. Báo chí Sài Gòn bình luận về một vài tin tức được tiết lộ, và phỏng đoán rằng Việt Nam Cộng Hòa đã chấp nhận “điều kiện hòa bình của Mỹ,” hay nôm na là Mỹ chấp nhận điều kiện chấm dứt chiến tranh do cộng sản Hà Nội đưa ra. Riêng tôi khi đọc kỷ bản hiệp định Paris, tôi đã công khai phân tích và bình luận từng điều khoản một trên mặt báo Ðại Dân Tộc. Gần như tất cả những điều khoản nếu không cho thấy sự bất lợi thì cũng ẩn chứa tiềm tàng những điều nguy hiểm cho miền Nam Việt Nam. Tưởng cũng nên nhắc lại tài liệu giải mật gần đây của Mỹ cho biết Kissinger đã từng khẳng định với Chu Ân Lai, Thủ Tướng Trung Cộng, là Mỹ sẵn sàng chấp nhận để cho cộng sản Bắc Việt chiếm lấy miền Nam!

Phó Tổng Thống Kỳ về Sài Gòn mấy hôm sau, ông triệu tập một số tướng lãnh thân cận gồm Trung Tướng Lê Nguyên Khang, Tư lệnh Thủy quân Lục Chiến, Trung Tướng Nguyễn Ðức Thắng, Trung Tướng Nguyễn Bảo Trị tại văn phòng cựu Tư Lệnh Không Quân của ông ở trại Phi Long. Tướng Kỳ có điện thoại kiếm tôi nhiều lần nhưng không gặp vì tôi bận việc ngoài. Trong khi chờ đợi ông gọi cựu Dân Biểu Hồ Ngọc Nhuận, một cộng sự viên của tôi khi tôi còn là Tổng Trưởng Thanh Niên, mà ông kỳ đã quen biết. Tôi sẽ trình bày sau hoàn cảnh nào đưa đẩy một nhóm trí thức và chính trị gia miền Nam lọt vào tròng cộng sản trong đó có Hồ Ngọc Nhuận. Khoảng xế chiều tôi vừa về đến nhà bí thư của tôi báo liền: “Thiếu Tướng Kỳ yêu cầu ông phải gọi ngay văn phòng của Thiếu Tướng tại trại Phi Long.”

Tôi rất ngạc nhiên tại sao ông Kỳ lại trở về Việt Nam sớm vậy? Có biến chuyển gì quan trọng ở hội đàm Paris chăng? Ông về Sài Gòn để hội ý với Tổng Thống Thiệu? Trong lòng tôi chưa hết phân vân ngạc nhiên, nhưng tay tôi quay liền số của trại Phi Long, điện thoại reo, tiếng ông Kỳ khàn khàn chậm rãi: “Cậu có rảnh lên đây bàn chuyện chơi.” Tôi càng phân vân thầm nghĩ: Chắc có chuyện nữa rồi. Trên đường đi từ đường Mạc Ðỉnh Chi lên Tân Sơn Nhứt tôi tự hỏi không lẽ ông Kỳ trở về thuyết phục tôi cùng đi dự hội nghị với ông, hay là ông xỉ vả tôi về tội thất hứa không cùng đi một lúc với phái đoàn. Thiếu Tá Liệu, sĩ quan tùy viên của Tướng Kỳ vừa mở cửa phòng họp mời tôi bước vào. Tôi dội ra vì khói thuốc ngột ngạt khó thở mặc dù tôi cũng là người từng ngậm ống điếu suốt ngày cộng vài chục điếu thuốc Bastos. Nhìn mấy cái dĩa gạt tàn đầy ấp tro và tàn thuốc tôi đoán biết cuộc hội họp này đã kéo dài khá lâu rồi. Ngồi vào bàn sau khi chào hỏi và xã giao vài câu ông Kỳ nôn nóng nhập đề ngay. Ông hất hàm nói với Hồ Ngọc Nhuận:

- Ông dân biểu trình bày lại cho ông Triều nghe những gì mình đã bàn thảo và đồng ý với nhau rồi đi.

- Phó Tổng Thống thuật cho ông ấy nghe chớ tôi biết gì đâu mà nói.

- Thôi, không cần nói xa gần, từ Paris về tớ nhận định tình hình, nếu tiếp tục để ông Thiệu ngồi đó thì ổng sẽ bán miền Nam mình cho Mỹ. Mất nước là điều chắc chắn. Vì vậy anh em chúng tôi những người ngồi đây muốn dẹp ông Thiệu để thi hành một đường lối chiến tranh khác. Vấn đề an ninh quốc phòng, chiến đấu chống cộng sản chúng tôi lo. Còn phần hành chánh, kinh tế, xã hội, chính trị thì giao cho bọn các cậu phụ trách. Ðồng ý như vậy đi.

Mới vừa nghe qua tôi lo ngại vô cùng. Dĩ nhiên ông Kỳ là người đang rộng quyền điều khiển phái đoàn miền Nam để thương thuyết những điều kiện ngưng chiến và hòa bình. Tại sao ông lại về và lấy quyết định lật đổ ông Thiệu, lần này không phải vì bực tức ganh tị, dành quyền mà vì sự mất còn của Miền Nam.

7

Du học tại Pháp


Trong bối cảnh hiện tại, lòng tôi hơi rối. Nhưng có một câu nói của Trung Tướng Nguyễn Văn Thiệu lúc nào cũng dễ xuất hiện trong đầu tôi. Ðó là khi cựu Tổng Trưởng Giáo Dục Nguyễn Văn Trường và tôi đến nhà riêng của ông Thiệu trong khuôn viên Bộ Tổng Tham Mưu để đốc thúc ông ta ra ứng cử tổng thống, lúc chúng tôi ra về ông Thiệu cặp tay tôi hỏi:

- Triều, toa biết người Mỹ muốn gì không?

Tôi trả lời:

- Mình muốn gì mới quan trọng trung tướng.

Ông Thiệu lập lại và còn nhấn mạnh câu hỏi của ông:

- Mà moa hỏi thật toa, toa biết người Mỹ muốn gì không?

Tôi hơi bực mình nên gay gắt trả lời:

- Trung tướng, nếu tối ngày mình cứ tự hỏi Mỹ muốn gì thì chết rồi, mình phải tự vấn mình muốn gì và làm sao cho người Mỹ hiểu những điều đó để họ giúp mình thì mới hy vọng sống, bằng không thì mình sẽ chết có ngày.

Hai câu hỏi này - anh Nguyễn Văn Trường cùng đi với tôi và Trung Tá Quách Huỳnh Hà lúc đó còn là Chánh Văn Phòng của Trung Tướng Thiệu đang đứng ở cuối cầu thang, sau lưng chúng tôi - chắc chắn hãy còn nhớ. Tôi sẽ trình bày sau về việc ứng cử của Tướng Nguyễn Văn Thiệu. Vì thái độ đó của ông và cũng vì một chuyện khác làm tôi mất hết sự kính nể và tin tưởng đối với ông Thiệu. Nên sau khi đắc cử tổng thống, ông có phái Nguyễn Văn Kiểu, bào huynh của ông đến nhà mời tôi hợp tác, tôi từ chối. Bây giờ nghe ông Nguyễn Cao Kỳ bày tỏ ý kiến và nhận định của ông tôi càng tin là ông Thiệu bị ám ảnh bởi cái gương của cố Tổng Thống Diệm nên ông luôn luôn buông xuôi theo Mỹ.

Tôi có đọc bài viết của cựu Tổng Trưởng Nội Vụ Lâm Lễ Trinh dưới tựa đề “Mạn Ðàm Với Ðại Tướng Cao Văn Viên” đăng trong nguyệt san Carolina Việt Báo số 16 trong đó Ðại Tướng Viên lập lại câu nói của Thiệu với ông là “Je suis responsable mais pas coupable.” Tôi nghĩ ông Thiệu nên nói “Je suis non seulement responsable mais aussi parfaitement coupable” thì mới đúng với những hành động của ông trong suốt 7 năm cầm quyền. Dù sao thì chuyện cũng đã qua rồi. Trách móc buộc tội đều là vô ích. Bào chữa chạy tội cũng bằng thừa. Trả lại sự thật cho cá nhân và lịch sử để cho thế hệ mai sau tránh vết xe đổ của những thế hệ trước có lẽ có ích hơn.

Sau khi suy đi nghĩ lại, tôi giãi bày với Thiếu Tướng Kỳ rằng lần trước, sau Tết Mậu Thân, tôi đã từ chối đề nghị của ông về việc đứng ra thành lập nội các. Bây giờ nếu ông không thay đổi quan điểm và chủ trương kết bè, kết đảng bao che cho nhóm “Lương Sơn Bạc” của ông, để họ lộng quyền thì tôi sẽ không tham gia hoạt động nào của ông nữa cả.

Tướng Kỳ hỏi lại tôi:

- Toa vẫn một mực cố chấp mà không chịu hiểu tình thế nguy ngập sao?

- Tôi hiểu rõ, bằng cớ là trước khi ông đi Paris tôi đã tiên đoán là mình sẽ thua. Tôi bằng lòng nhận lãnh trách nhiệm nếu ông hứa không áp dụng đường lối “Lương Sơn Bạc” như trước đây.

Trung Tướng Lê Nguyên Khang, ngồi im lặng, bây giờ tỏ vẻ bực tức nói:

- Tớ không hiểu các cậu nói với nhau cái gì, úp úp mở mở, cái gì là Lương Sơn Bạc? Cái gì là quét nhà hốt rác? Tớ không biết “chín chị chín em” gì cả. Bây giờ tớ đi về. Nếu khi nào các cậu có quyết định làm thì gọi điện thoại cho tớ nói một chữ thôi “OUI,” nửa giờ sau tớ giao. Bằng không có quyết định gì thì thôi, đừng gọi. Chào, tớ đi về đây.

Trung Tướng Nguyễn Ðức Thắng, đồng sự của tôi trong nội các chiến tranh, người mà tôi kính nể vì người anh ruột tôi lúc còn là đại úy thuộc sư đoàn 5 do Ðại Tá Thắng chỉ huy. Anh tôi thuật rất nhiều về tài năng cũng như tính lập dị của ông Thắng. Tôi và ông Thắng xưng hô thân thiện là mày tao, nhưng hình như chúng tôi khắc khẩu, nói ra là cãi nhau. Ông có vẻ nóng lòng nên nói ngay:

- Mày trộn lộn con gà với con vịt. Người ta đặt vấn đề thương thuyết trong thế hạ phong, dẫn đến thua trận mất nước. Vì thế phải lật đổ Tổng Thống Thiệu, còn mày thì nói chuyện đâu đâu, “chín chị chín em,” quét nhà quét rác. Thôi thì vô đề quyết định ngay đi. “Ou c'est oui, ou c'est merde, dis le.”

- Je te dis merde, mày biết cái gì mà nói. Thôi mày làm ơn ngồi im mà nghe có được không?

- Tao cũng như thằng Khang, chẳng thèm nghe mày làm gì. Tao về đây. Khi nào tụi bây quyết tâm làm thì có tao.

Nói xong ông Thắng cũng ra về.

Còn lại Trung Tướng Nguyễn Bảo Trị, Phó Tổng Thống Kỳ, Hồ Ngọc Nhuận và tôi. Trung Tướng Trị thì khéo léo mềm dẻo hơn, ông cố thuyết phục chúng tôi bỏ qua những chuyện quá khứ nhìn nhận sự nguy hiểm ngày nay, nắm tay nhau tìm cách chạy chữa. Nhà sắp cháy mà còn ngồi đây cãi cọ làm gì? Tôi lại phải một lần giải thích không phải là tôi cố chấp mà là sự khác biệt về căn bản cai trị và quản lý đất nước. Quan điểm sử dụng quyền bính bất đồng thì cho dù có nắm quyền cũng không cứu vãn được tình thế. Câu chuyện kết thúc trong sự tiếc nuối của mọi người theo lối suy nghĩ riêng tư của từng cá nhân.

Phần tôi thẳng thừng từ chối hợp tác vì Tướng Kỳ không chấp nhận bỏ tinh thần võ biền. Riêng Trung Tướng Lê Nguyên Khang về nhà chờ đợi câu trả lời thì chắc thế nào các ông Kỳ, Trị cũng thông báo kết quả cuộc họp bất thành. Lại một lần nữa chắc người đọc sẽ nghĩ rằng cho dù có đảo chánh ông Thiệu đi nữa thì cũng chẳng làm nên trò trống gì, bởi lẽ Mỹ đã quyết định bỏ Việt Nam rồi. Về nhà đêm đó và cả ngày hôm sau tôi buồn bã, lo lắng, suy nghĩ miên man. Phải chăng đất nước tôi gặp phải khúc quanh đi vào ngõ cụt? Xét cho cùng tôi có thể làm gì được đây? Chấp nhận tham gia lật đổ Tổng Thống Thiệu, điều đó Tướng Lê Nguyên Khang và đồng bạn của nhóm Nguyễn Cao Kỳ có thể làm được, nhưng liệu có thể ngăn chận được những quân nhân xu nịnh lợi dụng sự nể nang của ông Kỳ để tiếp tục lộng hành không? Trong tình trạng chiến tranh, với chế độ gần như quân phiệt và cảnh sát trị này, tôi tự xét không đủ điều kiện thực hiện những gì tôi mơ ước cho đất nước tôi. Ngoài ra, phải cầm chắc sẽ không có viện trợ Mỹ nữa khi mình lấy quyết định chiến đấu tới cùng. Liệu tài lãnh đạo của chúng tôi có sách động nổi cả nước tiếp tục kháng chiến không? Sau bao nhiêu năm nhóm tướng lãnh đã làm hao mòn lòng tin của quần chúng, cộng thêm lối tuyên truyền xảo quyệt của cộng sản, tôi thấy đây là việc đội đá vá trời. Tuy nhiên tôi tin nếu Việt Nam Cộng Hòa còn dính chân ở Phú Quốc hay vùng núi Thất Sơn thì chắc chắn cuộc diện có thể khác. Ngược lại cứ để Tổng Thống Thiệu ngồi yên, thuận theo yêu cầu của Mỹ là phải giải quyết chiến tranh Việt Nam theo sự thỏa thuận đổi chác của Mỹ và Trung Quốc giữa Nixon và Mao Trạch Ðông năm 1972, có lợi cho Việt Cộng thì hy vọng tồn tại của Việt Nam Cộng Hòa thật quá mỏng manh. Cả thế giới nhìn thấy sự bất lợi của Việt Nam Cộng Hòa trong thời điểm đó, kể cả Tổng Thống Thiệu. Lòng tôi ngổn ngang bất định, thôi “cũng đành nhắm mắt đưa chân, thử xem con tạo xoay dần đến đâu?”

Tôi phải thú nhận là vào năm 1969, anh bạn chí thân của tôi là cố Trung Tướng Ðổ Cao Trí có than nhiều lần với tôi rằng “nếu cứ để cho thằng Thiệu cai tri kiểu này là thua.” Ðỗ Cao Trí và tôi âm mưu đảo chính nhưng không thành. Tại sao? Và ai giết Ðỗ Cao Trí? Tôi sẽ nói về chuyện này trong những chương sau. Trở lại cuộc hòa đàm ở Paris, tôi nghĩ tới trụ sở Trocadéro dành cho những cuộc hội họp quốc tế và chuyện đụng xe Tướng Kỳ ở Rond Point des Champs Elysées tự nhiên hình ảnh của Paris làm tôi hồi tưởng những kỷ niệm 10 năm trước khi còn du học sống tại nơi này. Biết bao nhiêu chuyện vui buồn và cũng biết bao nhiêu sự kình chống giữa sinh viên quốc gia và sinh viên thân Cộng sản trong hội “Ái Hữu” của chúng tại Pháp. Tôi bồi hồi nhớ lại thời đầy triển vọng, tràn nhựa sống của tuổi thanh niên ở nơi xứ người. Từ lúc tôi bắt nắm tay cuối cùng với anh tôi, nước mắt ràn rụa, chân bước lên cầu thang máy bay, thân xác nặng nề, ngoảnh mặt lại không còn thấy ai nữa! Phi cơ cất cánh, tôi hồi hộp, lo sợ hình như tôi đã đánh mất tất cả những gì trong cuộc sống, còn lại một mình cô đơn, sự cô đơn hãi hùng, viễn ảnh gặp lại người thân thật quá xa vời mù mịt. Nước mắt cứ tuôn trào cho đến khi nào tôi cũng không nhớ. Phi cơ nhỏ, DC3, lại phải bay đường dài nên mất hơn hai ngày mới đến Pháp. Ngủ hai đêm ở Téhéran và Alger. Tới Paris không đáp xuống được vì sương mù dầy đặc do thời tiết xấu của đầu Tháng Giêng, trên nguyên tắc phải bay về Nice, nhưng trước khi đổi hướng viên phi công được lệnh đảo vòng trên trời chờ xem, gần một giờ sau máy bay mới được lệnh hạ cánh. Tôi vô cùng mệt mỏi, chuyến bay này làm tôi kinh hoàng và sợ hãi đến độ bị dị ứng không muốn bước chân lên máy bay nữa trừ những trường hợp bất khả kháng.

Ra khỏi sân bay tôi may mắn gặp được Trung Úy Chanson, người Pháp lai Việt, đã từng phục vụ trong văn phòng của ba tôi khi ông còn ở Bến Tre. Ông mời tôi về nhà ở tạm, chỉ vẽ việc sinh sống và tìm trường giùm tôi ở ngoại ô thành phố Paris. Học hành lôi thôi vì ngôn ngữ bất đồng, hay đúng hơn là vì sức học của tôi quá tồi tệ, thêm vào đó kỷ luật nhà trường lại khắt khe, tôi bèn sử dụng cái tự do ngông cuồng vì mới được sổ lồng, tự do, tôi bỏ trường thôi học. Sự thật tôi đi Pháp gần cuối năm học Ðệ Ngũ ở trường Tabert, tôi học dở đến độ thầy Maximin bỏ xó không thèm nói đến tôi, không sửa bài, không chấm điểm, không sắp hạng cuối tuần. Cứ mỗi lần thầy “bề trên” Giám Ðốc trường vào “kêu note” để khen thưởng hay phê phán khuyên răn thì ông chỉ kêu tên tôi vào phút chót ra đứng sắp hàng sau đuôi. Ðiều này gieo cho tôi một mặc cảm nặng nề: mình là thằng vô dụng, sự xấu hổ đó tạo một dấu ấn trong đầu tôi khó gột rửa cho đến năm tôi vào lớp Ðệ Tam ở trường Fénelon mới hết. Thành tích học dốt nát khởi sự từ lớp Ðệ Lục tại Collège Le Myre De Vilers ở Mỹ Tho, cái dốt của tôi giúp cho một người bạn tên là Lâm Văn Bé, Hiệu Trưởng trường trung học Nguyễn Ðình Chiểu, bị tôi chê trách nhiều lần nên anh tức giận về trường lục học bạ của tôi vào năm 1949-1950, sao gởi cho một số bạn bè thân hữu và cũng là “đàn em” cộng sự với tôi nói rằng “thằng chả học dỡ như c... mà bây giờ làm trời!”

Biết được điều này tôi và nhóm bạn bè cùng cười thích thú. Khi gặp anh Bé tôi nói thêm với ảnh rằng: “Toa còn chưa biết moa học dỡ hơn vậy nữa nên bị thầy Maximin ở trường Taberd bỏ xó không thèm nói tới tên moa trong lớp quatrième.” Bé cười như nắc nẻ. Có lẽ cái nền giáo dục của Việt Nam thời đó nó vừa khắt khe vừa quan liêu, thầy giáo là kẻ bề trên ban phát, sửa phạt nhiều hơn là giúp đỡ dạy dỗ học trò. Thầy giáo sử dụng quyền hành, khoe khoang sự hiểu biết nhiều hơn là thực thi thiên chức giáo huấn và đào tạo trẻ em. Vì vậy mà có rất nhiều người vì học trễ hay học dở bị chê cười phải bỏ học luôn. Sang Pháp tôi đếm lớp xin vào học Ðệ Tứ ở trường Vaujours và học riêng toán, Pháp văn, với thầy của lớp tôi. Bỏ trường gần cả năm lang thang với bạn bè hư hỏng, may thay tôi gặp lại người bạn chí thân cùng lớp ở trường Saint Joseph Mỹ tho, Nguyễn Văn Lễ con của thầy Nguyễn Văn Kính cựu Hiệu Trưởng trường Pétrus Ký và cũng là Cựu Nghị Sĩ Quốc Hội Việt Nam Cộng Hòa. Chúng tôi gặp nhau trong một quán ăn rẻ tiền, nhỏ hẹp nghèo nàn của người Trung Hoa gần ga xe lửa Lyon chỉ bán có một món duy nhứt là mì thường gọi là “mì Lyon,” gồm một vắt mì to, chan nước thịt heo kho hơi lạt với rau bắp cải xắt nhỏ. Lễ mừng rỡ hỏi tôi học ở trường nào? Tôi trả lời đang bỏ trường, tự học một mình với sách vở hiện có và cũng đang tìm trường.

Anh bạn tôi vô cùng ngạc nhiên, lo lắng và rủ tôi xin thi nhập học cùng trường với anh do các linh mục công giáo quản trị. Thật là ngẫu nhiên và cũng có thể là số mạng, Lễ lo cho tôi hết mọi việc và tôi được vào Trường Fénelon, 23 rue du Général Foy, quận 8 Paris học cho tới khi thi đậu tú tài mới sang Jean Baptiste Say, dọn thi vào trường Ðại Học Canh Nông Paris-Grignon. Vào lớp Ðệ Tam trường Fénelon, tôi chỉ giỏi có môn toán nhờ học riêng khi còn ở trường Vaujours. Sự kiện giỏi toán nhứt lớp làm tôi vô cùng phấn khởi và xóa dần được mặc cảm học dốt. Từ sự giỏi toán dẫn đến lý hóa và sử ký địa dư, thì ra tôi là người giỏi, thật bất ngờ và cũng thật khôi hài. Sự kiện đứng nhứt lớp về một môn toán mà thôi đủ làm cho tôi hãnh diện, làm thay đổi tư duy của tôi về việc học hành. Cái bất ngờ, ngẫu nhiên khôi hài này tái diễn một lần nữa khi tôi dự thi tuyển vào Ðại Học Canh Nông.

Số là vào tuần lễ trước tôi cùng với một người bạn dạo chơi trong vườn lê đơm bông trắng xóa, tôi tinh nghịch bẻ một cành hoa đem về nhà trưng chơi. Ðêm ngồi vào bàn học tôi bứt một bông, mổ xẻ tường tận, nhận định từng bộ phận mình đã học qua. Sáng ngày dự thi môn vạn vật, hai cảnh binh tay cầm phong bì trong đó có đề thi, chính thức và trịnh trọng giao cho chủ khảo. Ông mở bì thư ra miệng đọc tay viết chữ to “La Fleur” nghĩa là bông hoa. Dĩ nhiên, tôi được chấm đậu vào học trường Paris- Grignon và vài năm sau tốt nghiệp kỹ sư canh nông.

Thời gian học ở Paris, Lễ và tôi thường xuyên lui tới Liên Ðoàn Công Giáo hội họp với học sinh Việt Nam. Lần hồi tôi được bầu làm chủ tịch học sinh, rồi chủ tịch sinh viên, rồi chủ tịch Liên Ðoàn Công Giáo, được các Linh Mục Tuyên Úy Nguyễn Quang Lãm, Nguyễn Bình An và Ngô Duy Linh thương mến. Sinh hoạt của Liên Ðoàn Công Giáo ngoài việc trao dồi đạo đức theo phúc âm và kinh thánh, mỗi năm chúng tôi đều tổ chức Tết tha hương có văn nghệ kịch bản vui nhộn. Thời gian đó có ba tổ chức kình chống nhau ngấm ngầm, đó là Hội Ái Hữu của Cộng Sản, ban văn hóa của Tòa Ðại Sứ Việt Nam Cộng Hòa và Liên Ðoàn Công Giáo. Ðối tượng cần thu phục là sinh viên Việt Nam tại Pháp.

8

Hoạt động của Việt Cộng ở Paris thập niên 1950-1960

Thời gian học ở Paris, Nguyễn Văn Lễ và tôi thường xuyên lui tới Liên Ðoàn Công Giáo hội họp với học sinh Việt Nam, lần hồi tôi được bầu làm chủ tịch hội học sinh, rồi chủ tịch sinh viên và chủ tịch liên đoàn Công Giáo. Tôi liên hệ mật thiết với các Linh Mục Tuyên Úy Nguyễn Quang Lãm, con người vui tính hoạt bát dễ kết thân, về sau ông là Chủ Nhiệm Nhật Báo Xây Dựng, Linh Mục Nguyễn Bình An sau là Bề Trên dòng Phanxicô. Tôi học hỏi rất nhiều với ngài, từ tinh thần đạo đức, sự khiêm tốn nhẫn nại đến cái nhìn xa về xã hội và con người, nhưng tiếc thay tôi không áp dụng được bao nhiêu khi vào đời, Linh Mục Ngô Duy Linh sau là Giám Ðốc trường Quốc Gia Âm Nhạc Huế. Những năm hoạt động trong Liên Ðoàn Công Giáo là thời gian học hỏi sống đạo, sống đời, thời gian trau dồi sự hiểu biết về người và về chính mình, hiểu tình người, tình bạn, học phương pháp làm việc, nếm mùi thất bại, thành công.

Tóm lại tôi đang dọn con đường cho tương lai, tôi đang học để thành nhân mà bản thân mình hoàn toàn không để ý chỉ xem như sinh hoạt bình thường. Anh chị em ở Liên Ðoàn Công Giáo ngoài việc trau dồi đạo đức theo tinh thần phúc âm và kinh thánh, mỗi năm chúng tôi có tổ chức Tết tha hương có văn nghệ vui nhộn. Thời gian đó tại Paris có ba tổ chức kình chống nhau ngấm ngầm, đó là Hội Ái Hữu của Cộng Sản Việt Nam do Nguyễn Khắc Viện đại diện chính thức của Bắc Việt tổ chức và gián tiếp điều khiển, Ban Văn Hóa của Tòa Ðại Sứ Việt Nam Cộng Hòa và Liên Ðoàn Công Giáo Việt Nam. Ðối tượng mà ba cơ quan nói trên đều muốn thu phục là sinh viên Việt Nam tại Pháp. “Học sinh là người tổ quốc mong cho mai sau,” vì vậy mà hai tổ chức chính trị đại diện cho hai miền Nam Bắc tích cực vận động mỗi bên theo cung cách của mình, cố tranh giành ảnh hưởng đối với sinh viên du học tại Pháp, đặc biệt ở Paris. Viết về hai cơ quan mang trách nhiệm quảng bá và bảo vệ chính nghĩa của phe mình, tôi rất ngại ngùng. Viết ra sự thật, phê bình đúng sai những hoạt động của hai bên, có thể bị hiểu lầm hoặc bị xuyên tạc là thiên Cộng, chống quốc gia. Vô tình “vạch áo cho người xem lưng,” cho bọn cộng sản có cơ hội chê cười người quốc gia mình là công chức quan liêu, không có lý tưởng, ham quyền lợi vật. Hoặc có người muốn hiểu khác, thêm bớt một vài chi tiết nào đó để tỏ vẻ không hài lòng vì tinh thần chống Cộng quá khích. Riêng tôi, cố giữ tính khách quan và trình bày sự kiện một cách trung thực như đã hứa trong “Ðôi Lời Tâm Sự” ở trang đầu. Tôi thành thật tin đa số những người ở Paris trong khoảng thời gian đó phải xác nhận là tôi nói đúng. Vả lại tôi viết không phải để cho phe này hay nhóm kia đọc mà tôi viết để cho mọi người bây giờ và sau này thấy và hiểu được một số sự việc đã xảy ra trong khoảng thời gian của một đời người, sinh ra và lớn lên trong sự mâu thuẫn và đấu tranh ý thức hệ bằng chiến tranh và bạo động.

Tưởng cũng nên nhắc sơ về thuở tôi còn non trẻ chưa đầy mười tuổi, đã phải “chạy giặc” vì tin đồn “cộng sản nổi dậy” nơi này nơi khác, trong quận Bình Ðại hay trong tỉnh Bến Tre. Lúc mười một, mười hai tuổi, rất nhiều đêm anh em tôi phải theo cha trốn ra gò mả, bờ bụi, mương dừa, lùm cây để ngủ qua đêm vì lời hăm dọa của cộng sản sẽ thủ tiêu điền chủ và “hương chức hội tề.” Ông nội tôi là Tri Huyện, chức hàm, ba tôi là Chánh Hương Quản thời đó. Những năm 1946-47-48 mỗi khi tôi lên tỉnh học đi trên đò máy chở khách chạy dọc theo sông lúc nào cũng có xác người chết trôi lình bình gọi là “thằng chổng.” Những “thây ma” này do cộng sản giết thả sông gọi là “cho đi mò tôm.” Ðó là chính sách khủng bố để buộc người dân theo họ hoặc trả thù cá nhân khi gặp được cơ hội. Có một thời tôm chài lưới được trên sông Cửu Long từ khúc Mỹ Tho chảy dài ra Cửa Ðại, bờ biển, hay sông Ba Lai vùng Bến Tre bán rẻ như cho vì rất nhiều người yếu bóng vía không dám ăn bởi lẽ chúng thường đeo chùm rỉa thịt “thằng chổng” do cộng sản “cho đi mò tôm.”

Trở lại chuyện Paris vào thập niên 1950-60 phía cộng sản hoạt động rất mạnh. Bọn cán bộ cộng sản ở Paris thời đó hiểu rõ hoàn cảnh xa nhà, thương cha nhớ mẹ của du học sinh, đa số cô đơn trong cảnh đèn sách. Gần như tất cả phải miệt mài cho đến ngày đổ đạt thành tài, không thể về nước thăm nhà rồi trở qua tiếp tục học bởi vì thời gian chiến tranh, luật tổng động viên đã ban hành ở miền Nam, thoát được ra ngoài du học đã là một may mắn đặc biệt, nhờ học bổng hay do tư thế của gia đình mới có được ân huệ đó chớ không phải thừa tiền muốn đi du học là đi. Còn sinh viên đến Pháp từ miền Bắc Việt Nam gần như không có một người nào. Cán bộ cộng sản khôn ngoan khai thác tâm tư tình cảm của kẻ tha hương một cách có nghiên cứu và có hệ thống.

Việc đầu tiên là họ dò hỏi mỗi chuyến bay, mỗi lượt tàu thủy từ miền Nam Việt Nam đến Pháp rồi họ cắt cử người đi đón sinh viên mới sang, họ sẵn sàng chờ máy bay hạ cánh dù có trễ đến hai ba giờ khuya hay tàu thủy cập bến Marseille vào những ngày nghĩ cũng có người chờ đợi để chứng tỏ tình đồng hương và thiện chí muốn giúp đỡ bạn bè mới sang xứ lạ quê người chớ không có bất cứ mục đích gì khác. Tuy nhiên bọn cán bộ cộng sản lúc nào cũng không quên bỏ nhỏ rằng Tòa Ðại Sứ Việt Nam Cộng Hòa “của mình” không cần đếm xỉa đến sinh viên, để chết sống mặc bây dù họ có bổn phận phải lo cho sinh viên. Thiện chí và tình đồng hương là mặt trái của vấn đề còn bên trong là cộng sản Hà Nội thừa cơ hội tìm cách kết nạp đảng viên hay cảm tình viên. Với tinh thần hăng say và mục đích thầm kín đó đồng thời cũng do kỷ luật đảng, họ rất chịu khó và kiên trì. Nếu người mới đến có thân nhân đón rước thì thành viên hội Ái Hữu sẽ làm quen hướng dẫn, kết thân luôn với cả gia đình, khuyên bảo lựa chọn trường học, đón đi chơi ngày nghỉ, rồi dần dà rỉ tai giải thích sự thiện nguyện của họ vì tình ái hữu đồng hương, sau đó mới nói chính trị, mới lên án chỉ trích “bọn thân Tây” hay “tay sai của Mỹ,” họ khơi dậy lòng yêu nước sẵn có của bất cứ người thanh niên nào, kích thích sự tự hào dân tộc, ý chí độc lập tự do, chống chế độ nô lệ, hoặc khơi dậy tính tự hào, thói đua đòi giả tạo của đương sự, học làm dáng vẻ trí thức, hiểu biết việc đời của người mới đến.

Họ kết thân với nhau bằng mọi cách, đưa dần người bạn mới vào đảng cộng sản hoặc cảm tình viên hoạt động cho hội Ái Hữu. Ban Văn Hóa Tòa Ðại Sứ VNCH vì không muốn nhường sân trống cho bọn Ái Hữu độc quyền hoạt động nên cũng có cử người đi rước bạn mới sang, nhưng khi thì cử công chức của cơ quan khi thì mướn người ngoài cho có lệ, không ai chịu chờ đợi ngoài giờ làm việc hoặc có rước được người thì chỉ đưa về chỗ ở của họ là xong, một cách thi ân không cần thiết. Về sau khi người anh em này biết rõ cung cách hành động của đôi bên thì Ban Văn Hóa của mình bị mất cảm tình và gặt lấy ảnh hưởng ngược.

Giữa thập niên 1950-1960 tại Pháp hai chữ “trí thức” gần nghĩa với “thiên tả,” ai đi ngoài đường tay cầm nhật báo “Le Monde” hay tuần báo L'Expresse dù không đọc được chữ Pháp trôi chảy hay đọc mà không chắc hiểu được ý nghĩa thật sự của bài báo, nhưng sự kiện cầm nó trong tay là đủ ra vẻ người của thời đại rồi. Thanh niên Pháp đang sùng bái thuyết “hiện sinh” sống vui sống vội của Jean Paul Sartre, văn hào nổi tiếng và là đảng viên cộng sản. Về sau ông ta lại từ bỏ đảng cộng sản nói rằng vì lý tưởng nên thay đổi lập trường. Giới sinh viên tranh nhau đọc tiểu thuyết của nữ văn sĩ trẻ tuổi Francoise Sagan, cô ta còn là sinh viên văn khoa tại Ðại Học Sorbonne mà đã viết quyển đầu tay “Bonjour Tristesse” (Buồn ơi ta chào mi) bán chạy như tôm tươi. Trong những cuộc hội hè đàm thoại, những lời phát biểu có tính khuynh tả hay nói theo luận điệu của đảng xã hội, đảng cộng sản là hợp thời trang. Trong bối cảnh đó sinh viên Việt Nam du học được cấp một sổ chuyển ngân, gia đình dùng nó để gởi tiền mỗi tháng 25,000 quan vừa đủ để đóng tiền học và sinh sống trong tháng. Số tiền này được nâng lên 35,000 quan theo sự gia tăng của vật giá. Những sinh viên nào không học, không có chứng chỉ học trình thì bị “cúp sổ chuyển ngân” sẽ không có tiền sinh sống, phải bỏ học hoặc đi làm công nhân vất vả trong các hãng xưởng hay chạy bàn ở các quán cà phê. Ban Văn Hóa Tòa Ðại Sứ Việt Nam Cộng Hòa lợi dụng cái quyền ban phát đó như một bửu bối để dụ dỗ, áp lực hay trừng phạt những ai thân thuộc với hội Ái Hữu của Cộng Sản Việt Nam.

Sinh viên Việt Nam tại Paris thời ấy có khoảng 3,000 người, con số dựa theo tài liệu của Ban Văn Hóa năm 1959, trong số đó không có đến 10% vào được đại học. Rải rác các tỉnh xứ Pháp thì còn ít hơn nhiều, trên dưới không tới 1,000. Xa nhà, họ không bị sự kềm chế của cha mẹ, sống trong cảnh xa hoa tráng lệ của Paris, nên số đông bị quyến rũ bởi sự ăn chơi, bỏ bê việc học dẫn đến mất sổ chuyển ngân. Hội viên Ái Hữu cộng sản lợi dụng thời cơ tiếp xúc, an ủi, chỉ trích và tố khổ Tòa Ðại Sứ Việt Nam Công Hòa bất nhân, vô tình, không khuyến khích giúp đỡ mà còn lợi dụng quyền cấp phát sổ chuyển ngân để làm khó dễ, hăm dọa thay vì thông cảm, dễ dãi khuyên lơn. Họ mời những người bạn thiếu may mắn này về quán cơm rẻ tiền của hội Ái Hữu ăn miễn phí, tạm thời cho qua cơn khó. Rồi ai muốn đi làm họ sẽ tìm việc cho, thậm chí có thể giúp việc tại quán ăn dọn bàn, rửa chén kiếm tiền, coi đó là nhà, là nơi sinh hoạt. Thế là trong tương lai gần cộng sản sẽ kết nạp được đảng viên. Người anh bà con đầu ông cố ngoại của tôi, Ðoàn Văn Trung bị vướng tròng, khởi sự chạy bàn cho quán ăn Ái Hữu rồi trở thành đảng viên cộng sản, người em chú bác ruột của anh Trung là Ðoàn Thế Phong vì mặc cảm con nhà “tư sản,” và cũng vì tinh thần độc lập tự do mà ngả theo đảng cộng sản.

Buồn cười là năm 1961 tôi chuẩn bị về xứ, Phong đang học vật lý nguyên tử (Physique nucléaire), đến nhà tôi ở khu Barbès Rochechouard thuyết phục tôi về Bắc giúp nước. Anh ấy và tôi cãi lý một ngày hai đêm, to tiếng mất lòng nhau cũng nhiều. Nhưng sau ngày 30 Tháng Tư năm 1975, hai ông cộng sản xu thời, nửa mùa, vô tri này có về Việt Nam mà không ông nào chịu nổi cái mùi độc tài dốt nát của chế độ Hà Nội đang “tiến nhanh tiến mạnh lên xã hội chủ nghĩa” nên không dám “hy sinh giúp nước” mặc dù Việt Nam đang rất cần chuyên viên nguyên tử hay giáo sư vật lý như Ðoàn Thế Phong và người công nhân “tiên tiến” biết “lao động là vinh quang” như Ðoàn văn Trung! Cho nên hai ông vội vã trở về Pháp sinh sống cảnh tha hương suốt đời. Năm 1991 sau 11 năm tù cộng sản, sang Pháp tôi có liên lạc với Ðoàn Thế Phong hỏi: Cậu và mợ Bảy có mạnh khỏe không? Lúc này là lúc an toàn và vinh quang nhứt tại sao anh không ở lại Việt Nam mà giúp nước và lo cho đời sống của cậu mợ đang cần sự giúp đỡ của anh? Anh trả lời giọng hằn học bực tức: “Mày mỉa mai tao làm gì?”

Nói về sinh hoạt chính tri tại Paris, đối đầu với hội Ái Hữu là Ban Văn Hóa của Tòa Ðại Sứ Việt Nam Cộng Hòa. Ông Trưởng Ban Văn Hóa và một vài nhân viên có quyền tại đây chỉ biết dùng cái vũ khí trơ trẽn thất nhân tâm là “cúp sổ chuyển ngân.” Nhiều người học dở hay trụy lạc tạm thời bị làm khó dễ hay bị thẳng tay cúp sổ gởi tiền, điêu đứng chật vật, có thể thất bại trong việc học hành, hư hại cuộc đời một cách oan uổng. Ban Văn Hóa không có một ai biết tạo điều kiện cho sinh viên học thành tài, không có chủ trương thu phục lòng người, không có chữ “tâm” trong hành động, người công chức Việt Nam Cộng Hòa của Tòa Ðại Sứ Paris không có hình ảnh quốc gia trong lòng họ mà chỉ có hình ảnh của Paris tráng lệ và một chỗ làm lương cao khó kiếm so với biết bao nhiêu công chức ở nước nhà. Cho nên họ không có chữ “trí” trong hành xử, không cần biết sinh viên nghĩ gì về Tòa Ðại Sứ và phê phán như thế nào về chính nghĩa quốc gia mà họ là những người đại diện có bổn phận phải truyền bá và bảo vệ. Ngay cả ông Tùy Viên Trưởng Ban hình như là mục sư Tin Lành cũng không có lý tưởng của người quốc gia mà chỉ có thái độ quan liêu của người công chức được đặc ân làm việc ở nước ngoài lương cao bổng lộc hậu. Những ai kết thân làm bạn với người của hội Ái Hữu cho dù có biện hộ là sử dụng quyền tự do ở một nước dân chủ cũng bị cúp sổ chuyển ngân vĩnh viễn liền. Việc học sẽ bê trễ hoặc thất bại. Ban Văn Hóa không hề biết thông cảm cho những trường hợp bạn học cùng trường hay thân nhân xa gần đã lạc đường mất hướng, càng không biết thuyết phục để chiêu dụ, thái độ gần như không cần ai, trái lại việc “cúp sổ chuyển ngân” là một bằng cớ để báo cáo với chính quyền là họ có hoạt động, có theo dõi sinh viên! Cơ quan nầy ít khi tổ chức sinh hoạt hội hè, không làm gì để giúp sinh viên Việt Nam giữ vững lập trường quốc gia.

Liên Ðoàn Công Giáo Việt Nam ở Paris không hoạt động chính trị với danh nghĩa chính thức nhưng lập trường của thành viên đương nhiên là đối ngược với cộng sản. Tâm trí của họ luôn hướng về quê hương, tuyệt đại đa số tập trung tinh thần vào việc học bởi vì “chơi bời” là tội lỗi, lêu lổng cũng khó, do những bài giảng của linh mục ngày Chúa Nhật nhắc nhở phải học “để về giúp nước.” Tôi còn nhớ lời than thở, chê trách, như oán như than, của một Linh Mục già Nguyễn Văn Tường trên tòa giảng, giọng nói chậm rãi kéo dài: “Có những người lấy đêm làm ngày... lấy ngày làm đêm... cha mẹ có tiền cho đi ăn học mà chẳng chịu học... chơi bời lêu lổng... làm tổn hao công lao tiền bạc của cha mẹ ...” Chúng tôi thường lập đi lập lại câu này để ngạo nghễ diễu cợt đồng thời cũng là một cách gián tiếp nhắc nhở lẫn nhau.

9
Những mối tình dưới thời sinh viên


Ðại Sứ Phạm Khắc Hy yêu cầu tôi tổ chức cho phái đoàn Quốc Hội tiếp xúc với sinh viên. Tôi và số đông bạn bè bàn trước thế nào bên Ái Hữu cũng phá đám, cho nên chúng mình phải vận động cho có thật đông sinh viên đứng đắn tham gia, đó là điều khó lại còn phải đến sớm chiếm những hàng ghế trên đừng để nhóm Ái Hữu (CSVN) ngồi những hàng ghế đầu hỏi han lạc đề, cố tình gây rối và phá đám. Kết quả phiên họp, sinh viên đến chật Câu Lạc Bộ, một hai tên thuộc nhóm Ái Hữu nhút nhát đặt những câu hỏi lạc đề, sinh viên quốc gia xì xào, huýt gió cười ồ, cựu Dân Biểu Lê Trọng Quát dõng dạc trả lời nghiêm túc. Buổi tiếp xúc được kể là thành công ngoài sự mong muốn. Ðại Sứ Phạm Khắc Hy hiện diện trong buổi tiếp xúc hài lòng. Xong phiên họp các vị khách mời đưa tôi ra quán cà phê bên kia đường ngồi tán dóc, rủ rê về nước, tuyên công Ngô Tổng Thống, quảng cáo chế độ chống cộng thông minh, nào ấp chiến lược, nào khu trù mật, vân vân.

Ðỗ Cao Minh còn nói nghề của tôi về nước sẽ được trọng dụng, vân vân. Sau này thân nhau vì chúng tôi là (anh Minh là anh ruột của Cố Ðại Tướng Ðỗ Cao Trí và Bác Sĩ Ðỗ Cao Huệ) bạn đồng song và cũng là nghiệp, tôi nhắc lại lời nói của anh ngày đó, anh cười bảo “moa đâu có ngờ toa thành quỉ mà moa cứ tưởng là thằng nhỏ này ngây thơ dễ thương.”

Tuổi sinh viên là thời gian tràn đầy nhựa sống, lạc quan yêu đời, chưa biết lo xa, chưa nếm mùi đời cay đắng, tuy du học xa nhà, buồn nhớ cha mẹ, xóm làng. Mùa Hè ở đây 5 giờ sáng mặt trời đã lên cao, đôi khi nằm trằn trọc không ngủ được, đột nhiên nhớ nhà đến chua xót tâm can, nghĩ ngợi miên man muốn bỏ hết trở về quê sống với đàn em côi cút mất mẹ thiếu tình thương. Nhưng rồi thực tế của sáng ngày mai lôi tôi về với hiện tại. Phải vào lớp, phải nghe giảng bài, rồi bạn bè vui đùa, buồn chán tan biến một cách tự nhiên lúc nào mình không hay. Cái may của tôi là còn trẻ sống năng động, không bao giờ có khoảng trống thời gian để bị trầm ngâm trong cô đơn. Ngày thường thì học hành bài vở dồn dập, ngày nghỉ thì bạn bè, sinh hoạt, vui chơi giải trí, thời gian lúc nào cũng quá ngắn ngủi. Ðầu tuần là đã tính chương trình cho ngày nghỉ sắp đến. Sau lễ Phục Sinh là đặt sẵn kế hoạch cho mấy tháng nghỉ Hè. Mùa Thu, nhập học là mơ những trận khiêu vũ của các trường đại học tổ chức, hay lo nghĩ phải dành dụm tiền để chuẩn bị đi trượt tuyết mùa Ðông trong dịp lễ Giáng Sinh, hoặc hẹn hò với bạn Pháp về gia đình chúng nó nghỉ lễ, để tập nói tiếng Pháp cho lưu loát, hiểu biết văn hóa tập tục của dân Tây nhiều hơn.

Tóm lại, ngoài việc chú tâm học cho thành tài nghĩa là giá nào cũng phải nắm lấy một văn bằng đại học trong tay, thời gian nhàn rỗi còn lại chỉ vui chơi với bạn bè. Ðó là chưa kể đôi khi vì quá ham vui mà tạm thời bỏ phế việc học để rồi hối hả thức suốt ngày đêm bắt lại cho kịp, dọn bài thi kiểm cho tốt. Danh từ “cúp cua” nghĩa là vắng mặt bỏ lớp được thường xuyên sử dụng trong giới sinh viên. Tôi cũng như mọi thanh niên khác, cũng ham vui, cũng phạm nhiều lỗi lầm của tuổi trẻ, cũng đào hoa, cũng khổ lụy và cũng có hưởng được cái tinh túy của tình yêu xuân trẻ. Con người tôi bình thường chẳng đạo đức, chẳng siêu nhân thần thánh gì. Sau khi vượt qua được bức tường tú tài “Barrage du Bac” trở thành sinh viên thì đương nhiên được hưởng nhiều quyền lợi và sự ưu đãi của nhà nước.

Trước tiên được cấp thẻ vào các quán ăn rẻ tiền đặc biệt dành cho sinh viên. Mỗi bữa ăn giá 75 quan thay vì trung bình phải trả khoảng 300 quan. Ðược xin ở trọ ký túc xá, nhiều cửa hàng cho giảm giá 10% nếu là sinh viên. Khi di chuyển đường xa bằng cách đón xe xin quá giang, người ta dễ ngừng nếu họ đoán dáng dấp mình là sinh viên. Tóm lại thời gian đó xã hội Pháp trân trọng sinh viên, xem họ là những nhà trí thức, kỹ thuật gia tương lai, là rường cột nước nhà, là những bàn tay xây đắp sự phồn vinh của đất nước, bởi vì Pháp quốc mới vượt qua sự tàn phá của Ðệ Nhị Thế Chiến. Riêng tôi rất hãnh diện được bước qua cửa rào thứ nhứt dẫn vào thế giới của chuyên viên.

Sau bằng “tú tài đôi” tôi dọn thi vào đại học Canh Nông tại trường Jean Baptiste Say. Tôi có cảm giác hình như bây giờ mình mới thật sự trưởng thành. Lúc đó tôi mới dám nghĩ đến chí tang bồng hay sự thành công. Thật là hãnh diện có được thẻ sinh viên UNEF trong tay (Union Nationale des Etudiants de France). Hết rồi những ngày cạn tiền phải mượn thẻ sinh viên của bạn vào “ăn lậu” ở các quán ăn có khi bị phát giác đuổi ra. Ðại học canh nông là một trong các “Trường Lớn” (Grandes Ecolles), đủ mọi ngành nghề mà quốc gia cần dùng, từ bách khoa đến hầm mỏ, cầu cống, điện lực, hành chánh, sư phạm, vân vân... được thành lập thời Hoàng Ðế Nã Phá Luân với mục đích đào tạo nhân viên phục vụ cho chính phủ. Muốn vào “Trường Lớn” phải qua một kỳ thi tuyển đôi ba ngàn người mà chỉ tuyển chọn một hai trăm, ít nhiều tùy theo ngành học. Chương trình học 3 năm lấy bằng kỹ sư, không được quá 4 năm nghĩa là chỉ có quyền lưu lớp một lần mà thôi, lưu lớp lần thứ hai sẽ bị đuổi khỏi trường, trắng tay không có chứng chỉ bằng cấp gì cả.

Khác biệt với các môn học như y khoa, văn khoa, khoa học, lưu lớp bao nhiêu lần cũng được, chỉ cần thi đủ điểm trung bình, chứng minh sự hiểu biết của mình là đỗ đạt lấy bằng cử nhân, tiến sĩ, bác sĩ. Một khi thi đậu vào các “Trường Lớn” thì được nhà nước trang trải mọi học phí, ưu đãi về vật chất cũng như tinh thần bởi vì đa số sẽ là công chức trong tương lai hay đứng đầu các cơ quan tư nhân chính yếu của quốc gia. Năm 1959 có một cuộc điều tra thăm dò của tuần báo Paris Match về tương lai của những người tốt nghiệp “Trường Lớn,” đặc biệt trường Bách Khoa (Polytechniques) là trường có thang giá trị cao nhất trong các trường. Lớp người này đứng trong thượng từng 10% cao nhứt của xã hội Pháp, trong đó có rất nhiều thủ tướng và tổng trưởng. Ngày nay, tình thế đổi thay, sinh viên tốt nghiệp các “Trường Lớn” của Pháp cũng thất nghiệp dài dài. Khác với thời chúng tôi, khi có văn bằng rồi, chúng tôi tìm việc rất dễ dàng, có khi chưa tốt nghiệp mà công ty tư nhân đã tuyển dụng trước, lại còn cho đi tu nghiệp có trả lương. Nhớ lại ngày thi đậu vào trường Quốc Gia Canh Nông Paris-Grignon, tôi có cảm giác như chân đi hổng trên mặt đất, lòng ngây ngất như say, trí mở rộng thấy toàn là mộng đẹp tương lai... Thật là sảng khoái, tôi âm thầm hưởng mùi vị của sự thành công lần đầu tiên trong đời. Bởi vì một khi thi đậu vào trường là nắm chắc bằng kỹ sư trong tay. Cái say mê đắc ý này báo hại tôi, cũng là may chứ không chút nữa là tay trắng về quê, nhưng đồng thời cũng cho tôi hiểu được khả năng trí tuệ con người rất lớn, mà mình không khai thác nó cho tận cùng thôi. Cũng như sức chịu đựng của thể xác con người ngoài mức tưởng tượng bình thường mà tôi chỉ khám phá được khi bị biệt giam trong nhà tù cộng sản.

Nói về cái hư hỏng vì chủ quan sau khi thi đậu vào trường, bài vở rất nhiều, môn nào cũng có, từ luật điền địa, khí tượng, xây cất kho trại đến khái niệm tổng quát về nguyên tử học để dùng trong việc thí nghiệm trồng cây, tổng cộng 21 môn, một vài môn rất khó như hóa học đất đai, địa chất học, v.v... thế mà tôi cứ nghĩ mình sẽ học và thi dễ dàng như đã từng thi cử bao nhiêu lần. Cho nên hết đi bơi lội với bạn trai thì cỡi ngựa du ngoạn với bạn gái trong khu rừng của nhà trường rộng gần 500 mẫu tây. Hết khiêu vũ, tiệc tùng thì đi xem chiếu bóng (xem phim). Kết quả bài học chép rồi để đó, có khi vắng mặt cúp cua và nhờ thằng Sapis phòng bên cạnh mỗi khi chép bài lót giấy “carbone” cho tôi xin một bản sao. Tôi nhớ có lần bỏ học luôn hai ngày, ngồi lì trong câu lạc bộ đọc báo suốt, tất cả những tờ báo mô tả từng giờ, từng sự kiện xảy ra trong cuộc âm mưu đảo chánh Tổng Thống De Gaulle. Nghe radio hết đài này tới đài khác, xem truyền hình không sót một thông tin nào trong ngày. Nguyên nhân cuộc đảo chánh là vì De Gaulle tuyên bố trao trả độc lập cho Algérie, thuộc địa đã từng sát nhập là phần đất của Pháp Quốc. Ðại Tướng Chales và ba Trung Tướng dưới quyền là Salan, người đã từng chỉ huy quân đội viễn chinh Pháp tại Ðông Dương, Jouhaut và Zeller. Nhóm tướng lãnh này cáo buộc tổng thống phản bội quốc gia, nhường một phần đất cho quân phiến loạn. Thủ Tướng Michel Debré kêu gọi quần chúng nổi dậy chống đoàn quân viễn chinh sắp đổ bộ về Paris. Không khí bất an căn thẳng đến tột cùng. De Gaulle vẫn giữ im lặng làm cho sự căn thẳng càng ngột ngạt. Tôi tiên đoán với bạn bè rằng, “De Gaulle, người đã hai lần cứu nguy nước Pháp, với uy tín và sự khôn ngoan, ông sẽ đọc một bài diễn văn, cũng lâm ly chứa đầy tình và lý như lời kêu gọi kháng chiến chống Ðức ngày 18 Tháng Sáu năm 1942 của ông (L'appel du 18 Juin), và sau đó mọi việc sẽ giải quyết không cần có tiếng súng.” Mấy thằng bạn học trong trường chê cười tôi là dốt chính trị, nằm mơ, có thằng còn nói tôi điên... Thực tế xảy ra, sau bài diễn văn của Tổng Thống De Gaulle, Ðại Tướng Chales tuyên bố đầu hàng, tự nộp mình là tù nhân, yêu cầu Paris chỉ định người dẫn giải. Nhưng ông ra lệnh cho ba ông tướng khác phải trốn để tiếp tục tranh đấu (về sau ba vị này tổ chức quân đội bí mật OAS, organisation de l'armée secrète, bị bắt và chịu án chung thân, nhưng chỉ ngồi tù một thời gian ngắn thì được Tổng Thống De Gaulle ký lệnh ân xá). Chales cũng ra lệnh cho Thiếu tá Trung Ðoàn Trưởng nhảy dù, De Saint Marc, người chịu trách nhiệm bắt giam toàn bộ đại diện chính quyền Paris tại chỗ, phải trốn đi. Thiếu Tá De Saint Marc trả lời: “Xin đại tướng cho phép tôi giữ danh dự của một sĩ quan, xin ngài cho tôi trả cái giá của một hành động có suy nghĩ cũng như đại tướng đang làm.” Cử chỉ chánh trực của De Saint Marc dạy cho lớp thanh niên chúng tôi một bài học về sĩ khí, ảnh hưởng sâu sắc và đeo đuổi chúng tôi suốt đời.

Có những đêm khuya, mệt mỏi sau giờ học bài, bạn bè thường đến phòng tôi bàn đủ mọi khía cạnh chính trị của xứ Pháp thời đó, thật vui nhộn và bổ ích. Thằng Rodinson, đảng viên cộng sản chỉ thuộc có một bài, chỉ lý luận có một chiều đại loại như “tư bản bốc lột, thực dân vô nhân đạo, chính phủ nào, chế độ nào thì cũng như nhau... đả đảo tư bản.” Vì vậy mỗi khi gặp anh chàng này ở đâu hoặc bất cứ khi nào nó vác mặt vô phòng nào là chúng tôi hô to “đả đảo tư bản, ủa mà đả đảo cộng sản,” để trêu ghẹo anh ta. Sau khi được Cộng Sản tạm tha ra khỏi trại cải tạo vào năm 1988, Rodinson lúc đó đang làm việc tại Grenoble có nhắn lời thăm tôi qua một người bạn của Rodinson nhân chuyến thăm Việt Nam. Bây giờ nhớ lại, tôi mới nghĩ Giáo Sư Récamier, người đỡ đầu cho luận án ra trường của tôi, nói với tôi trước khi chia tay “mày chọn lầm nghề rồi, đáng lý mày phải học luật hay chính trị.” Năm 1991 trở lại Paris, trong bữa cơm hội ngộ bạn đồng khóa và thầy cũ, tôi có gặp lại thầy Récamier. Buổi gặp gỡ rất cảm động. Thầy nói đùa Triều nó tham chính và ở tù CS, đứa nào trải qua cả hai thứ mới nên người.”

Gần cuối năm nhà trường thông báo thi kiểm toàn bộ trong thời gian 15 ngày. Chỉ thi vấn đáp mà thôi. Tôi hốt hoảng vì cứ tưởng rằng thi hết môn này đến môn khác, hết tuần này đến tuần khác nào ngờ nhiều vị giáo sư ngủ ngay tại trường để thi đêm thi ngày. Trời ơi! Làm sao tôi học cho kịp để thi lên lớp! Nhưng “nước tới trôn thì phải nhảy,” tôi ôn bài không ngừng nghĩ, uống cà phê để thức, uống trà chống ngủ, trà thật đậm thức đêm tỉnh táo, tốt hơn cà phê nhiều. Vừa ôn bài vừa hốt hoảng lo âu, sự hốt hoảng đó làm cho trí tuệ dễ mở mang, dễ ghi nhớ rõ ràng những gì mình chú ý. Có khi không đủ giờ tôi quýnh quáng lật từng trang sách hay bài chép, chỉ xem hình, chỉ nhìn công thức, cố hết sức mà nhớ rồi đi thi chớ không đọc được bài ít ra một lần, ấy thế mà cũng dư điểm. Kết quả kỳ thi lên lớp, nhà trường dán giấy thông báo tôi đứng hạng 22 trên 56 với 14 điểm một phần tư. Thật không ngờ! Sau kỳ thi đó tôi nói đùa với các bạn đồng song: Bất cứ môn học nào, bất cứ thứ văn bằng gì, chúng ta chỉ cần cầm sách đọc qua một lần là có khả năng thi đỗ ngay. Ða số bọn chúng cười đồng tình bởi vì không thiếu những đứa bị thời gian dồn ép như tôi.

Bị dồn ép đôi khi nẩy sinh năng lực phi thường như chuyện kể sau đây: Có một anh bạn người Pháp, bơi lội rất dở, năm đó anh nghỉ Hè đi xuồng ra khơi câu cá. Vô phúc xuồng cao-su bị rách, chìm giữa biển cách bờ gần 5 cây số, tàu bè không qua lại, dù biết mình không bơi nổi tới bờ nhưng sự sợ hãi làm tăng năng lực, anh bơi vô bờ được mà cũng không ngờ mình sống sót được. Vào dịp bãi trường năm đó tôi rủ Félix cùng đi cắm trại tại một đảo Miền Bắc xứ Pháp, Ile de Bréhat, nơi đó có nhiều cá theo bài viết đang trên báo của nhiều tay câu đã ghé qua đảo này. Chúng tôi mướn lều nhỏ dành cho hai người và túi ngủ ấm cá nhân. Vai mang “ba lô” hai đứa lên đường quá giang xe đi hơn 400 cây số nhắm về hướng bến phà Pimpol. Trên đường đi có vui vẻ hào hứng, có ngã lòng bực bội chờ đợi người cho mình quá giang, có vui mừng gặp chủ xe hòa nhã, cuối cùng chúng tôi đến bến phà Pimpol, phà nhỏ đưa qua Ile de Bréhat, biển Ðại Tây Dương có sóng nhồi, có lo sợ. Hòn đảo nhỏ rất đẹp, dân số độ vài ngàn, chúng tôi khởi sự mướn một xe đạp chở nhau đi tìm chỗ cắm lều. Ðứng trên một đồi con nhìn xuống thung lũng sát bờ biển, nào đồi cát lô nhô, nào lùm cây bụi rậm, tôi quyết định cắm trại nơi này vì thấy có năm ba lều căng sẵn.

Nghỉ Hè ở đây một tháng, vui sống như cảnh thiên đàng, hàng ngày câu cá ăn không hết, biếu tặng cho những người ở căn lều gần bên, họ cho lại nào phó-mát (fromage) nào trứng gà, bánh trái ê hề... Chúng tôi rủ rê tập hợp đông đảo bạn trẻ nam nữ nghỉ hè tại đó, kết thành đàn, tắm lội chung, chia đội bóng chuyền, đội vũ cầu đấu với nhau thật vui. Có những cuộc du ngoạn thám hiểm bờ biển quanh hòn đảo, có cơ hội tán tỉnh các cô gái đẹp trong nhóm bạn này, do đó tôi cuỗm được người yêu chia xẻ nhau mối tình thú vị kéo dài. Ðồng thời tôi lại có một mối tình khôi hài khó quên. Xin kể lại để cười chơi. Số là mỗi tối, cái làng nhỏ bé đó có tổ chức khiêu vũ trong một căn nhà trống trải, dùng để nhóm chợ ban ngày. Ðêm đến có màn vải bao quanh, chừa cửa vô để bán vé tới 9 giờ đêm là xả giàn, vô ra tự do. Félix và tôi, sinh viên ít tiền, tối nào cũng đợi đến 9 giờ 30 mới lấy xe đạp đi khiêu vũ khỏi phải trả tiền. Ðêm đó tôi gặp một cô gái rất xinh đẹp ngồi uống rượi với người em, uống rượu chát trắng thay vì champagne theo đúng cung cách của những tiểu thơ. Tôi bảo Félix:

- Ðể tao làm quen rủ cô em này về Paris đi nhảy đầm tiếp cho mày coi.

Félix cười nói:

- Cô ta sẽ ăn thịt mày nhậu với rượu chát cho mày xem, con gái mà uống rượu như hũ chìm là không ổn rồi.

Tôi không trả lời Félix, nhạc vừa trổi, tôi đi tới bàn của người đẹp, dang tay nghiêng đầu mời, cô em đứng dậy choàng tay lên vai, chúng tôi bắt đầu bước theo điệu nhạc... Ðể mở đầu câu chuyện, tôi khởi sự bằng câu xã giao:

- Cô là một trong những người đẹp nhứt buổi chiều nay.

- Hay quá ha! Rồi sao nữa nói đi...

Rồi cô ta xổ một tràng những câu làm tôi muốn điếc con ráy (điếc lỗ tai)... mắc cỡ đến cứng người!

Cô ta tiếp tục:

- Anh nói đi: Này nhé chẳng những cô đẹp mà còn có duyên nữa... cô có tầm nhìn xa, cô hiểu biết rộng... tôi muốn làm quen với cô... rồi cuối cùng ông sẽ tiếp tục nói điều mà ông chủ mưu và chờ đợi cơ hội để nói ra... tôi thương cô... tôi muốn ngủ với cô... nói đi, tôi thuộc bài này rồi. Anh có biết tôi là ai không? Anh là người Việt Nam chớ gì? Vậy thì chắc anh phải biết Ðại Tá Besson Giám Ðốc bệnh viện Biên Hòa, tôi ở Biên Hòa một thời gian khá lâu, có lẽ tôi ăn bưởi Biên Hòa nhiều hơn anh nữa là khác, nên xin anh đừng tưởng tôi là chim non mà ba hoa chích chòe.

Thật là một gáo nước lạnh tạt vào mặt, tôi chới với, mất bình tĩnh. Một phút sau, hoàn hồn lại tôi mới tìm ra được câu đối đáp:

- Cô lầm rồi, có lẽ cô chưa bao giờ gặp được người cảm nhận tình yêu một cách đứng đắn nghiêm chỉnh, có tâm hồn lãng mạn. Những người Á Ðông chúng tôi không nhìn đời bằng đôi mắt quá bình thường như người phương Tây của cô, hiểu tình yêu đồng nghĩa với tình dục, thực tế một cách hạ lưu (terre à terre), người Á Ðông chúng tôi khác, biết trân trọng tình yêu thuần khiết một cách cao thượng (l'amour Platonique).

Tình thế này tôi đành phải lên giọng nói dối nhưng cũng có một ít phần thật.

- A, chuyện lạ đấy. Nếu thật như vậy thì tôi cũng muốn biết cái nhân sinh quan, cái văn hóa Á Ðông của các người như thế nào?

Không ngờ sự kiện tôi bị lật tẩy rồi nẩy sinh ra ý và lời để bào chữa cho qua cơn xấu hổ, nhưng đó lại là đề tài bàn cãi sôi nổi giữa đôi trai gái mới quen nhau mà đã tâm đồng ý hợp, dắt nhau ra bờ biển nói chuyện mãi đến gần hai giờ sáng! Thằng Félix phải chờ cả giờ, nên trên đường về nó xỉ vả tôi thậm tệ về tật mê gái bỏ bạn. Anne Marie Besson và tôi kết bạn từ đó. Cho đến khi sắp lấy chồng, cô gặp tôi yêu cầu tổ chức một buổi dạ tiệc có khiêu vũ (surprise partie) để từ giã nhau. Sau tiệc vui cô ôm tôi nói: “Tôi hiến dâng thân xác tôi cho anh đêm nay, lần đầu và lần cuối để ghi nhớ thời gian chúng mình làm bạn, thương nhau hết tình mà giữ được trong trắng cao thượng cho đến ngày nay.” Tôi âu yếm trả lời: “Chúng mình giữ được tình yêu thuần khiết, nếu đêm nay hai chúng ta nếm thú vị tuyệt vời của tình dục, hay là mùi vô vị của nó thì mình sẽ hối tiếc vô cùng, chi bằng hai ta dựa nhau trên ghế để chờ sáng chia tay, giữ lại một kỷ niệm êm đẹp suốt đời.”

Thực sự thì mối tình này giúp cho tôi thấy rõ hai bộ mặt của tình yêu, thể xác và tinh thần. Tùy hoàn cảnh và trường hợp mà ta xem nặng bên nào, hoặc là trân trọng cả hai cùng một lúc. Tuổi trẻ có nhiều đam mê, tự hào, rạo rực, cho nên tôi lại thêm một lần nữa sa vào lưới tình...

Francoise Étiévant, con gái của Kế Toán Trưởng cư ngụ tại trường, rất đẹp, sinh viên cả ba khóa đua nhau ve vãn mong được lọt vào mắt xanh của nàng, trong số đó có tôi. Tôi để ý thấy mỗi chiều cô hay đứng tựa cửa sổ nhìn cảnh vật sắp bị hoàng hôn bao phủ. Thẳng tầm nhìn từ cửa sổ của cô cách chừng 200 thước là chuồng ngựa dành cho sinh viên ưa thích môn kỵ mã. Chiều nào tôi cũng lên yên đi thẳng tới cửa sổ của nàng, giở nón chào. Những ngày đầu cô ngoảnh mặt đóng cửa một cách bực tức. Lần hồi cô chẳng thèm đóng cửa, mặt tỉnh bơ lộ vẻ chế diễu. Lâu ngày dài tháng, cô bắt đầu mỉm cười vì thấy lạ, rồi đến lượt vẫy tay chào với nụ cười... Từ đó bắt đầu hẹn hò, tình yêu nẩy nở. Cho đến khi ba cô biết được ra lệnh cấm đoán vì cô hãy còn vị thành niên. Tình yêu mãnh liệt nung nấu lòng can đảm, tôi nói sẽ đến nhà cô xin gặp Kế Toán Trưởng để công khai thú nhận và xin phép, mặc dù Francoise hết lời cản ngăn biết rằng ba cô sẽ mãnh liệt cự tuyệt.

Tôi vẫn đến nhà ông Etiévant và trước thái độ gay gắt của người cha bất bình, tôi giãi bày và thuyết phục, cuối cùng ông đồng ý cho phép chúng tôi tiếp tục giao du. Cuộc tình đẹp nhứt của một thời son trẻ... nhưng do hoàn cảnh tế nhị của gia đình và xã hội Việt Nam thời đó, tôi không thể kết hôn với một người nước ngoài. Ngày chia tay về xứ nước mắt ròng rã... Từ ngày đó kéo dài ba năm trời, gần như mỗi ngày tôi nhận một lá thư từ Paris-Grignon gởi về, nhận quà cáp ngày sinh nhựt hay lễ bổn mạng Thánh Thomas. Mỗi khi Francoise gặp chuyện khó cô luôn nghĩ nếu có tôi ở bên cạnh thì sẽ khuyên cô như thế nào? Và cô tìm cách giải thuận theo ý tôi. Sau đó biên thư hỏi: “Trong khi vắng mặt anh, em giải quyết việc đó như vậy có vừa lòng anh không?” Tôi yêu quí Francoise là ở điểm đó. Trong bài hát “Complaintes des Infidèles” có câu rằng “l'amour n'est pas éternel.”à không cuộc tình nào trường tồn vĩnh viễn. Nhưng, kỷ niệm êm đềm có thể đeo đuổi suốt một đời người. Bây giờ nhớ lại tôi tự hỏi nếu kết hôn với Francoise chúng tôi sẽ hạnh phúc suốt đời hay lại dở dang vì những khác biệt về văn hóa và xã hội? Ðiều đó chỉ có trời biết.

Những năm đại học vô cùng bổ ích cho đời tôi, không phải vì sự hiểu biết chuyên môn mà là sự rèn luyện ý chí, tính tình và sự tự tin. Thời gian mà trí óc tôi mở rộng, tâm hồn tôi sảng khoái. Thời gian đó cung cấp cho tôi khá nhiều hành trang để vào đời. Việc quản lý câu lạc bộ sinh viên quốc gia tại Paris gây nhiều trở ngại cho việc học thêm, nên cuối năm 1961 tôi quyết định xin về nước phục vụ cho Bộ Cải Tiến Nông Thôn do Tổng Trưởng Trần Lê Quang điều khiển. Trước khi về, Ðại Sứ Phạm Khắc Hy tỏ ý tiếc, và ông lo ngại không biết giao việc Ban Văn Hóa cho ai. Ông có hỏi ý tôi nhưng tôi không dám giới thiệu người. Ðể giúp tôi, Ðại sứ Phạm Khắc Hy có ý muốn tiến cử tôi với những bạn bè của ông ở trong nước. Nhưng tôi từ chối. Sau đó, ông nhờ tôi đem về nước hai lá thư cho các bạn của ông là Bác Sĩ Trần Kim Tuyến, và Tổng Trưởng Công Dân Vụ Ngô Trọng Hiếu. Về đến Sài Gòn, sáng hôm sau thay vì xin yết kiến hai nhân vật quan trọng đó để trao thơ, tôi ra bưu điện mua tem dán vào và gởi theo địa chỉ ghi trên phong bì. Không đầy một tuần lễ sau, tôi nhận được thơ của hai vị nói trên mời tôi đến hỏi thăm chuyện về Paris.

10

Bước chân vào đời


Sau khi nhận được thư của Ðại Sứ Phạm Khắc Hy, người thứ nhứt sai nhân viên đến tận nhà trao thư mời tôi và dặn dò thật kỹ cách thức vào cửa dinh Ðộc Lập và lối đi dẫn đến văn phòng của Bác Sĩ Trần Kim Tuyến, Giám Ðốc Sở Nghiên Cứu Chính Trị phủ Tổng Thống, người mang biệt danh là “Trùm Mật Vụ.” Ông vui vẻ mời tôi ngồi, hỏi chuyện sinh hoạt chính trị ở Paris, hỏi sức khỏe của Bác Sĩ Hy và gia đình. Cuối cùng ông hỏi tôi về Việt Nam làm việc tại cơ quan nào, có cần ông giúp đỡ gì không? Tôi lễ phép trả lời hiện làm việc tại Bộ Cải Tiến Nông Thôn, không thấy cần điều gì cả và thành thật cám ơn ông có nhã ý muốn giúp đỡ.

Buổi tiếp xúc ngắn ngủi, và trước khi tôi kiếu từ ra về ông căn dặn thêm: “Nếu sau này có giữ chức vụ lớn, nhân viên thuộc cấp trình giấy tờ xếp sẵn năm bảy bản, chỉ chừa khoảng trống đề trình xin chữ ký mà thôi, phải nhớ lật xem từ tờ, đôi khi người gian kèm theo một bản nằm giữa có nội dung hoàn toàn khác biệt có thể làm nguy hại thanh danh hay chính bản thân mình. Tôi không có cảm giác là đang đứng trước mặt một hung thần. Dù là trước khi đi gặp BS Trần Kim Tuyến, nhạc mẫu của tôi dặn dò đôi ba lượt: Con phải cẩn thận, ông này quyền thế cao trọng, đừng nói năng vô lễ làm mất lòng người ta con sẽ gặp nhiều phiền phức đấy. Một ngày sau tôi nhận thơ mời của ông Ngô Trọng Hiếu, Bộ Công Dân Vụ. Sáng sớm lúc 8 giờ tôi phải có mặt, hình như tôi là người đầu tiên được ông Tổng Trưởng tiếp kiến. Ông Hiếu rời ghế ngồi, bước ra cửa bắt tay hơi nghiêng mình đúng cung cách của người Tây Phương. Lại một sự ngạc nhiên thứ hai của tôi đối với những nhân vật cao cấp. Ông Tổng Trưởng này cao lớn, người mập mạp, nói năng lưu loát.

- Anh về được bao lâu rồi?

- Thưa ngài tôi mới về cuối tuần qua.

- Anh Hy giới thiệu anh là người có khả năng chiêu dụ giới trẻ, tôi đang cần một người cộng sự trẻ tuổi tài năng như anh vậy.

- Ông Tổng Trưởng khen quá lời. Có lẽ ông Ðại sứ không có giới thiệu như vậy đâu.

- Ðây này anh muốn xem thư của anh Hy không? Vừa nói ông vừa đẩy lá thư trước mặt tôi.

- Thưa ông Tổng Trưởng tôi không dám.

- Thôi bây giờ như vầy đi, tôi đề nghị anh tới đây nhận chức Tổng Giám Ðốc Thanh Niên giùm tôi.

- Thưa ông Tổng Trưởng tôi đã xin về phục vụ cho Bộ Cải Tiến Nông Thôn, vì đó là khả năng chuyên môn của tôi.

- Anh Hy khẳng định hoạt động thanh niên của anh còn chuyên biệt hơn nữa. Xin anh đừng làm tôi phải tin là ông bạn già của tôi ở Paris nói không đúng sự thật.

- Có lẽ vì ông Ðại Sứ thương tôi nên mới viết quá lời. Dù sao tôi cũng xin ông Tổng Trưởng cho phép tôi về tham khảo Bộ Cải Tiến Nông Thôn trước khi suy nghĩ về việc này.

Ông Ngô Trọng Hiếu liền cầm điện thoại lên gọi Ông Trần Lê Quang, Tổng Trưởng Bộ Cải Tiến Nông Thôn, hiện còn sống, định cư ở Palo Alto California.

- Anh Quang, có một ông bạn từ Paris về do anh Ðại Sứ Hy của mình giới thiệu với tôi, anh này hiện làm việc tại Bộ của anh, xin anh cho ảnh qua bên này với tôi đi. Tôi định cử anh ta vào chức Tổng Giám Ðốc Thanh Niên.

- Vậy là ảnh khỏi cần gặp anh để xin phép nữa nhé.

- Chỉ thông báo cho chánh sở của anh ấy là đủ rồi phải không?

- Cám ơn anh... Ngày mai chúng ta gặp nhau trên Dinh có phải vậy không anh?... Merci.

Bên kia đầu dây nói gì tôi không biết nhưng cũng đoán được là ông Trần Lê Quang bằng lòng cho tôi sang Bộ Công Dân Vụ. Quay sang tôi, ông Hiếu bảo: Anh về Bộ của anh chào đồng nghiệp rồi sang đây gặp tôi.

- Xin ông Tổng Trưởng cho phép tôi hội ý với ông Tổng Trưởng của tôi trước đã. Nếu ở đó người ta không cần tôi thì tôi sẽ xin qua đầu quân với ngài.

- Chắc chắn là người ta sẽ để cho anh qua đây. Anh Quang đã hứa với tôi rồi.

Ông Ngô Trọng Hiếu đưa tôi ra tận cửa, bắt tay nói: “Mes hommages à madame” (xin gởi lời chào cung kính với phu nhân). Thông thường giữa thượng cấp và thuộc cấp không ai dùng lời lẽ quá nể trọng như vậy. Tôi vừa ngạc nhiên vừa hãnh diện. Ðiều này gây một ấn tượng sâu sắc trong lòng tôi, một thanh niên vô danh tiểu tốt mà được một nhân vật cao cấp đối xử nể nang như người ngang hàng, tôi vô cùng cảm kích và biết ơn. Về nhà tôi chuyển lời ông Tổng Trưởng cho vợ nghe, bà xã cũng ngạc nhiên nói: “Người ta đồn ông Paul Hiếu này là dân Tây, lịch lãm trong việc giao tế, đã từng là Ðại Sứ Việt Nam Cộng Hòa ở Campuchia, chắc chắn biết rõ lễ phép của Tây vậy thì nói như vậy là ông ta cố tình tâng bốc anh cốt ý để chiêu dụ anh thôi, em không tin là sự hiểu biết của ông ta có chỗ thiếu sót như vậy.” Chiều hôm đó tôi vào Bộ Cải Tiến Nông Thôn tôi xin gặp ông Tổng Trưởng. Bí Thư của ông cho tôi cái hẹn, hai ngày sau lúc 10 giờ, tôi vào gặp ông Trần Lê Quang. Vừa thấy mặt tôi ông nói liền:

- Anh Hiếu muốn xin anh về Bộ Công Dân Vụ, tôi đồng ý rồi. Thôi cũng mừng cho anh, mới về mà tìm được chỗ làm tốt.

- Thưa ông Tổng Trưởng tôi không có xin qua đó. Tôi đã xin bộ tuyển dụng tôi về đây thì tôi ở đây để giữ đúng lời hứa danh dự theo đơn xin.

- Có sao đâu. Tôi đã đồng ý cho anh đi qua đó rồi mà. Tôi có nói với anh Hiếu, bộ ảnh chưa cho anh biết sao?

- Thưa ông Tổng Trưởng tôi có biết vì khi hai vị trao đổi ý kiến bằng điện thoại tôi đang ngồi đó.

- Vậy anh xuống báo cho ông Nguyễn Văn Chỉ, chánh sở của anh biết rồi tự ông ấy sẽ làm giấy tờ cho anh.

- Thưa ông Tổng Trưởng tôi chỉ sang Bộ Công Dân Vụ nếu ông Tổng Trưởng thấy không cần tôi ở đây mà thôi.

Ông Quang cười vui vẻ nói:

“Anh và tôi cùng một “formation des grandes écoles” mà anh lại chuyên về canh nông còn tôi là công chánh thì làm sao tôi dám nói không cần anh ở đây. Nhưng tôi thành thật khuyên anh nên qua Bộ Công Dân Vụ, bên đó anh có chức vụ để tiến thân. Ở đây tôi chưa có một chức vụ nhỏ lớn nào để bổ nhiệm anh cả.

- Thưa ông Tổng Trưởng tôi về đây không có mục đích săn tìm chức vụ cao.

- Nói là như vậy chớ bất cứ một chuyên viên nào mới hồi hương cũng cần có nơi ăn chốn ở, việc làm tương xứng. Anh có nhà cửa riêng ở Sài Gòn không?

- Thưa không, chúng tôi đang ở phố mướn.

- Vậy tôi khuyên anh nên qua Bộ Công Dân Vụ. Với chức vụ Tổng Giám Ðốc anh có nhà, xe riêng và tài xế. Ðã vậy mỗi tháng tiền điện nước anh khỏi phải trả. Tôi thật lòng khuyên anh nên nhận chức vụ đó đi.

- Thưa ông Tổng Trưởng tôi xin phép ở lại đây thứ nhứt là để giữ đúng lời hứa với bộ, thứ hai là hợp với khả năng chuyên môn của tôi.

- Vậy thì tùy anh.

Có lẽ ông Trần Lê Quang ngạc nhiên và thấy tội nghiệp cho anh chàng ngây ngô không biết tính toán hay là thằng con nít làm ra vẻ quân tử Tàu, sống trong ảo tưởng không thực tế. Vì thế ông gọi Giám Ðốc Nha Lâm Vụ đem bản đồ căn biệt thự ở số 28 ter đường Mạc Ðĩnh Chi, nhà của ông Giám Ðốc còn để trống, chờ cấp cho đại diện cơ quan Lương Nông Quốc Tế (FAO) làm văn phòng. Chính tay ông Trần Lê Quang cầm viết gạch, ngăn, cắt nất thang và lầu trên cấp cho tôi làm nhà ở, coi như cư xá nhà nước và một phần nhỏ của sân rộng cộng thêm nhà bếp về phần tôi. Ông nói thêm: Ðể đền bù tôi tạm thời cấp cho anh chỗ ở này. Và căn lầu tạm thời đó trở thành mãi mãi là cư xá của tôi cho đến năm 1975.

Toàn thể nhân viên trong bộ ai cũng trầm trồ ngạc nhiên tại sao tôi chưa có chức vụ mà đã có nhà ở tốt như vậy. Ba tháng sau tôi được bổ nhiệm làm Chánh Sự Vụ Sở Thống Kê và Kinh Tế Nông Nghiệp. Ðồng thời tôi cũng được ông Giám Ðốc Nha Học Vụ Nông Lâm Súc mời dạy môn kinh tế nông nghiệp và quản lý nông trại tại trường Cao Ðẳng Nông Lâm Súc Sài Gòn. Phải chăng là số mạng? Bởi vì nếu tôi nhận làm Tổng Giám Ðốc Thanh Niên thay thế ông Cao Xuân Vỹ thì cuộc binh biến năm 1963, lật đổ Tổng Thống Ngô Ðình Diệm, đương nhiên tôi sẽ trở thành người của chế độ cũ, chắc chắn tương lai chính trị của tôi không thể nào vươn lên được và kể cả về mặt hành chánh tôi cũng phải bị dìm ém vì tội theo đảng “Cần Lao” hay là Thủ Lãnh Thanh Niên Cộng Hòa. Chưa chắc đã được bộ canh nông thu nhận lại, chừng đó không có nhà ở không có việc làm. Số mạng an bài còn trớ trêu kỳ lạ hơn nữa cũng vì câu nói “Mes hommages à madame” của Ngô Trọng Hiếu.

Với chức vụ Tổng Trưởng Thanh Niên trong Nội Các Chiến Tranh của Thiếu Tướng Nguyễn Cao Kỳ, có một lần họp nội các, Tổng Trưởng Nội Vụ Trần Minh Tiết trình bày hồ sơ của những người thuộc chế độ cũ mà chính phủ dự tính đày đi Côn Ðảo trong số đó có tên cựu Tổng Trưởng Công Dân Vụ Ngô Trọng Hiếu. Tôi giật mình, bàng hoàng suy nghĩ. Trong khi đó thì đa số đồng nghiệp hiện diện hoặc biểu đồng tình hoặc không phát biểu ý kiến, coi như thông qua. Tôi gạn hỏi xem ông Ngô Trọng Hiếu bị tòa kết án vì tội gì và bị xử bao nhiêu năm tù mà bị đày đi Côn Ðảo? Anh Trần Minh Tiết trả lời chỉ vì là nhân vật cao cấp của chế độ cũ thôi chớ không hề bị tòa kết án. Tôi lập tức phản đối:

“Nội các của mình tự xưng là nội các chiến tranh, đứng về phía thế giới tự do, thực thi chế độ pháp trị, chống bọn độc tài gian ác cộng sản Hà Nội xâm lăng, vậy mà bây giờ mình lại đày những người không bị tòa án kết tội đi khổ sai biệt xứ ở Côn Ðảo chỉ vì họ phục vụ cho một chế độ tiền nhiệm với mình thật là vô lý. Quí vị có nghĩ rằng một ngày nào đó, trong điều kiện nào đó, hoàn cảnh chính trị thay đổi, chúng ta lại phải bị đày đi côn đảo dù chúng ta không làm điều gì sai trái vi phạm pháp luật, chừng đó quí vị có kêu ca là bất công phi pháp không? Tôi yêu cầu nội các xét lại quyết định này.”

Tổng Trưởng Công Chánh, Ngô Trọng Anh can thiệp nói rằng đó là lý do chính trị. Nguyễn Bá Khả Tổng Trưởng Y Tế, cũng đồng ý với ông Anh. Tôi tiếp tục phản đối đến cùng. Thiếu Tướng Kỳ thấy hơi gay gắt cắt ngang, ông yêu cầu Tổng Trưởng Tư Pháp Lữ Văn Vi nghiên cứu hồ sơ của chế độ cũ và trình bày rõ ràng trong phiên họp nội các ngày Thứ Tư tuần sau. Phiên họp nội các Thứ Tư sau bàn nhiều vấn đề quốc gia đại sự nhưng cụ Lữ Văn Vi có trình bày cặn kẽ về nhóm người của chế độ cũ. Tôi còn nhớ có ông đã lãnh án tội đến năm, bảy chục năm. Riêng nhiều vị cao cấp của chế độ cũ trong đó có Ngô Trọng Hiếu, Bác Sĩ Trần Kim Tuyến, Bác Sĩ Lý Trung Dung, phụ tá của ông Tuyến và những người khác tôi quên tên, không bị tòa kết án. Do đó tôi đề nghị phải trả tự do ngay cho những người không bị tòa kết án, kỳ dư đưa đi Côn Ðảo hay thọ hình nơi nào tùy bộ nội vụ và tư pháp xử lý, tôi không có ý kiến về việc này. Ý kiến đối nghịch giữa các vị Ngô Trọng Anh, Trần Ngọc Ninh, Nguyễn Bá Khả, và tôi qua lại khá nhiều. Ba vị đồng nghiệp nói trên bênh vực lập trường là phải đày những người cao cấp thuộc Ðệ Nhứt Cộng Hòa đi biệt xứ nơi Côn Ðảo vì sợ họ tiếp tục phá rối trị an. Phần tôi vẫn một mực đòi áp dụng công lý, và nói thêm ngồi trong nội các này cũng có nhiều người cao cấp thuộc chế độ cũ ngày xưa vậy. Tôi không nêu tên ai, nhưng ý muốn ám chỉ tướng tá và thẩm phán ngồi đây bây giờ, kể cả Thủ Tướng và Tổng Trưởng Nội Vụ. Tướng Kỳ cắt ngang, yêu cầu biểu quyết. Kết quả tuyệt đại đa số quyết định thả ngay những người không bị kết án. Thú thật nếu không phải vì chút cảm tình mà ông Hiếu lưu lại trong lòng tôi, chắc tôi cũng phản đối, vì công bằng, vì công lý, vì một chính phủ dân chủ của thế giới tự do không thể tự cho phép mình áp dụng luật rừng đối với công dân của bản xứ. Nhưng không quyết liệt và hăng sai đến độ ông Kỳ phải đổi ý và can thiệp. Khi biểu quyết bắt đầu từ cụ Lữ Văn Vi ngồi bên mặt Tướng Kỳ rồi đến ông Kỳ đưa tay thuận ý thì những vị cầu an, xu thời lúc nào cũng thuận ý với Thủ Tướng đâu dám biểu quyết ngược. Ngoại trừ ông Ngô Trọng Anh, đã lở đâm lao thì phải theo đến cùng là tôi đưa tay biểu quyết chống.


11

Những niềm vui và nỗi buồn


Thiết nghĩ dù tôi có cãi hăng say hay không thì kết quả chắc cũng phải thả người. Vấn đề là vì công lý, tôi phải nêu ra, phản đối và trình bày những lý do xác đáng. Vụ việc nầy tôi có tâm sự với người bạn thân là Linh Mục Nguyễn Quang Lãm, chủ nhiệm nhựt báo Xây Dựng. Ông thuật lại cho các bị can mới được phóng thích nghe. Tôi không hề liên lạc với nhóm người nầy sau khi họ được trả tự do, nhưng có một thời tôi muốn biết nhiều việc chính trị bí ẩn về các vấn đề liên quan đến Bắc Việt. Ðem chuyện bàn với Cha Lãm thì ngài nói:

- Tại sao toa không gặp Trần Kim Tuyến hỏi ý kiến, ông ta có thể giúp mầy hiểu nhiều việc. Cha nầy dứt khoát phải biết nhiều chuyện lắm.

Tôi nghe lời LM Lãm và cùng ông đến nhà thờ Công Giáo của trường Ðồng Tiến quận 10, gặp Bác Sĩ Tuyến và Bác Sĩ Lý Trung Dung trốn tại đó vì mặc dù đã được trả tự do, nhưng hai ông còn sợ bị trả thù vì ân oán. Bác Sĩ Tuyến có viết nhiều tài liệu giải thích cho tôi hiểu một vài bí ẩn của quốc gia. Có lần bà xã tôi đọc được một bài viết của ông, bà cằn nhằn:

“Tại sao anh giữ tài liệu của cộng sản trong nhà? Hết chuyện anh làm rồi sao?”

Tôi hỏi lại:

“Em biết ai viết bản văn này không? Bác Sĩ Trần Kim Tuyến đó, trùm mật vụ của cụ Diệm ngày xưa, em nghĩ tay này có phải là cộng sản không?

Bà xã tôi thấu hiểu vừa cười, vừa kêu trời. Mười bảy năm sau, tôi sang Pháp sau 11 năm tù cộng sản, làm việc cho đài phát thanh quốc tế của Pháp, (Radio France Internationale) có lẽ Bác Sĩ Tuyến nghe được tên tôi qua đài này, nên có điện thoại từ Luân Ðôn, thăm hỏi sức khỏe tôi và ông còn nhắc lại chuyện cũ và chúc mừng tôi được thoát nạn. Vài ngày sau tôi cũng nhận được điện thoại của Bác sĩ Lý Trung Dung lúc đó đang ở Pháp. Riêng cụ Ngô Trọng Hiếu năm 1970 ra ứng cử bân biểu, đắc cử vào Quốc Hội cùng nhiệm kỳ với tôi. Ngày khai mạc Quốc Hội ông đến sớm, đứng ngoài hành lang trước cửa Quốc Hội chờ tôi. Tôi là dân biểu sau cùng đến trước Tổng Thống vài giây, gặp cụ Ngô Trọng Hiếu. Chúng tôi dắt nhau vào ngồi cùng một hàng ghế, và cứ giữ chỗ ngồi ấy trong những kỳ họp quốc hội cho đến khi gãy gánh tan hàng. Suy nghĩ về số kiếp con người, phải chăng có một bàn tay vô hình nào đó xếp đặt trước.

Việc đầu tiên là tôi không ngờ ông Hy viết thơ giới thiệu tôi với ông Ngô Trọng Hiếu mà tôi cứ nghĩ đó là phúc trình liên quan đến việc làm của sứ quán, bởi vì tôi thấy hai phong bì nhỏ đống dấu khằn chính thức của Tòa Ðại Sứ bằng nhựa màu nâu nằm trong một bao thơ lớn bọc bên ngoài cũng đóng dấu khằn hẳn hoi. Và tại sao tôi không nhận lời ông Ngô Trọng Hiếu làm Tổng Giám Ðốc thay cho ông Cao Xuân Vỹ? Và nếu ông Ngô Trọng Hiếu chỉ bắt tay từ giã tôi một cách bình thường thì liệu tôi có nhiệt tình bênh vực ông không? Và cuối cùng điều làm tôi ngạc nhiên là tôi lại gặp ông Ngô Trọng Hiếu tại Quốc Hội với tư cách đồng viện của tôi. Riêng Tổng Trưởng Trần Lê Quang, tôi gặp lại ở Pháp thường hội hè tại nhà tôi bàn việc đất nước với cựu Quốc Vụ Khanh Vũ Quốc Thúc, cựu Bộ Trưởng Ngoại Giao Vương Văn Bắc và nhiều bạn bè khác. Ông Quang quí tôi cho đến bây giờ. Khi sang định cư sống với con tại Palo Alto cựu Tổng Trưởng Trần Lê Quang vẫn còn tìm ra được địa chỉ số phone của tôi để thăm hỏi.

Về Việt Nam năm 1961 tôi làm việc tại sở Kỹ Thuật bộ Cải Tiến Nông Thôn. Ba tháng sau tôi được bổ nhiệm làm Chánh Sự Vụ sở Thống Kê và Kinh Tế Nông Nghiệp. Cũng trong thời gian đó tôi được nha Học Vụ Nông Lâm Súc thuộc Bộ Quốc Gia Giáo Dục mời dạy môn Kinh Tế Nông Nghiệp và Quản Lý Nông Trại tại trường Cao Ðẳng Nông Lâm Súc, trình độ kỹ sư mới được thành lập. Khác với trường Cán Sự ở Blao. Một vài môn học còn do giáo sư người Pháp đảm nhiệm. Giáo sư có quyền dùng hai thứ ngôn ngữ Pháp và Việt. Tôi mới hồi hương nên được phép giảng bài bằng Pháp văn. Ða số sinh viên tốt nghiệp bằng tú tài Pháp nên sử dụng ngôn ngữ này khá lưu loát. Tôi dạy hai lớp nhập một, khóa 2 và khóa 3. Nha học vụ phải mượn tạm thời giảng đường của đại học dược khoa để có đủ chỗ chứa sinh viên của 2 lớp.

Ngày đầu tiên vào lớp tôi gặp gian nan khó xử nhưng cũng may mắn tránh được sự thất bại buổi ban đầu do nhóm sinh viên tinh nghịch thử phổi thầy. Tôi chủ trương xem học trò của tôi như bạn đồng lứa, bởi vì tuổi đời của họ không nhỏ hơn tôi bao nhiêu. Hình như có một hai người bằng tuổi. Tôi tôn trọng nhân phẩm của họ qua lời nói và cử chỉ, tôi đối xử như một người anh, tưởng rằng điều đó giúp tôi lấy lòng họ được và chúng tôi sẽ dễ dàng trao đổi với nhau những hiểu biết về môn học nầy. Tôi nói với họ là: “Các anh chị học cho chính bản thân mình chớ không học cho thầy khen hay cho bạn nể. Vì vậy tôi sẽ không điểm danh như thông lệ. Anh chị nào không thích bài giảng của tôi thì không cần vô lớp, có thể mua sách, hay mượn bài của bạn học riêng ở nhà, tôi hứa sẽ chấm điểm công bình khi thi lên lớp, nếu anh chị chứng minh được sự hiểu biết của mình về môn học nầy. Phần tôi hứa sẽ tận tình giúp đỡ cho các anh chị có được một sự phản ứng đúng đắn về những vấn đề lợi hại trong nghề nghiệp. Tôi cũng yêu cầu anh chị em tôn trọng các bạn đồng song của mình và người giảng bài bằng cách giữ im lặng trong lớp. Cuối mỗi giờ học tôi sẽ dành 10 phút để cho mọi người hỏi những gì liên quan đến bài giảng. Ngoài ra trong giờ giải lao, ai cũng có thể hỏi bất cứ thứ gì tôi sẽ trả lời và bàn thảo với tư cách người bạn chớ không phải thầy.” Những lời nói của tôi không lọt tai ai cả, như nước đổ lá môn. Người ta thường nói: “Nhứt quỉ nhì ma thứ ba học trò,” các bạn sinh viên của tôi sẽ chứng minh câu nói đó không sai trong vài phút tới. Tôi mới vừa chấm dứt những câu mở đầu rất chân tình, xoay mặt vào bản viết tựa đề của bài học thì sau lưng tôi rộ lên tiếng cười đùa, nói năng ồn ào như chỗ không người. Thôi chết! Ðám “người lớn” nầy muốn giở trò con nít. Làm sao đây? Thú thật tôi hơi bối rối nhưng lấy lại bình tĩnh ngay. Xoay mặt ra nghiêm chỉnh nói:

- Anh chị nào nói lớn tiếng hoặc cười giỡn trong lớp học xin đứng lên.

Im phăng phắc.

- Một lần nữa tôi yêu cầu anh chị nào cười nói lớn tiếng đứng lên.

Vẫn im phăng phắc.

- Các anh chị thiếu can đảm, dám làm mà không dám chịu.

Nói xong tôi vừa xoay mặt vào bàn viết thì sau lưng tôi xù xì, cười hi hí rồi lại ồn ào còn hơn lần trước. Tôi quay ra cười vui vẻ hỏi:

- Anh chị nào vừa mới làm ồn xin đứng lên.

Im phăng phắc.

- Tôi sẽ chứng minh cho các anh chị thấy rằng tôi biết đích danh ai đã làm ồn. Gần như đại đa số nhếch mép cười ngạo nghễ nhưng không thành tiếng. Tôi lại xoay mặt vào bảng cầm cục phấn quăn ra sau lưng, phấn trúng ngay một anh.

- Mời anh đứng lên và cho biết anh tên gì?

- Thưa thầy em tên Nguyễn Văn Thùy.

- Yêu cầu anh ra khỏi lớp, tôi không dạy những người hèn, có can đảm làm mà không có gan nhận. Bài học đầu tiên tôi cần dạy các anh chị là sự can đảm và danh dự của người chuyên viên mà các anh đang chuẩn bị đó.

Nguyễn Văn Thùy cố đôi chối vài lời. Tôi không nói không rằng xếp giấy tờ vào cặp và tuyên bố nếu anh không ra khỏi lớp, tôi sẽ ra về không dạy. Các anh chị cần học, tôi không cần dạy, (về sau khi thầy trò thân thiện có anh khai với tôi là họ dán cho tôi cái nhãn hiệu “mặt vắt ra sữa mà làm trời.” Tình thế trở nên căng thẳng. Anh trưởng lớp tên Nhuận, sinh viên súc khoa, nếu tôi nhớ không lầm, đến khuyên anh Thùy ra khỏi lớp. Tôi tiếp tục dạy nhưng vẫn duy trì kỷ luật với Thùy cả tuần lễ sau tôi mới cho vào. Bắt đầu từ đó lớp học của tôi nổi tiếng “con ruồi bay cũng nghe.”

Rất tiếc là đến khóa 7 năm 1966, vì quá bận nhiều việc khác nên tôi xin nghỉ dạy. Thái độ cứng rắn, nét mặt nghiêm nghị của tôi trong giờ học, đối ngược với cử chỉ thân mật, pha trò vui vẻ hòa mình với sinh viên là chất keo hàn gắn tình thầy trò duy trì mãi cho tới ngày nay tại Mỹ, kể cả những anh chị không có học giờ của tôi. Vài bạn trong ban phụ trách nhóm ái hữu sinh viên miền Bắc Cali còn nói đùa “thầy là linh hồn của những lần tụi em hội họp.”

Làm việc tại bộ canh nông tôi không có cảm giác mình là người hữu dụng. Công việc hằng ngày không chiếm hết thời gian và cũng không tận dụng hết khả năng chuyên môn của tôi. Bởi vì guồng máy hành chánh nặng nề từ thời Pháp thuộc để lại, còn vướng mắc tính quan liêu phong kiến, làm việc theo chỉ thị cấp trên. Tiếc thay, cấp lãnh đạo thường có nhiều sáng kiến viển vông không thực tế. Sở Thống Kê và Kinh Tế Nông nghiệp có trên 30 nam nữ nhân viên, tôi không hề khiển trách riêng biệt một cá nhân nào. Nếu có sai trái lỗi lầm tôi triệu tập một phiên họp, không nêu tên họ ai, chỉ nêu sự sai trái, phân tích sự việc, nhắc nhở qui định và nguyên tắc làm việc của sở mà thôi. Tuy nhiên những người có lỗi đều biết rõ kẻ phạm sai trái đó là chính mình. Tôi hoàn toàn thông cảm cho những nhu cầu cá nhân cần phải nghĩ phép. Quyền hạn của Chánh Sự Vụ chỉ được cho phép nhân viên nghỉ hai ngày, nhưng trong trường hợp đặc biệt, có lý do chánh đáng, họ có quyền làm hai đơn, ba đơn ghi ngày khác nhau tôi sẽ tiếp tục ký, để cho hợp thể lệ hành chánh, anh chị em cứ nghỉ lo cho xong việc mình. Mặc dù biết trước có sự thông cảm đó của tôi, hình như không có một ai lợi dụng sự dễ dãi nầy.

Các cấp thừa hành của bộ, hoạt động tại địa phương có nhận xét chính xác, biết rõ nhu cầu và điều kiện phát triển, họ có kinh nghiệm của người hiểu biết hiện trường, nhưng không hề dám bàn ngược với cấp chỉ huy, trái lại chỉ báo cáo thổi phòng, thuận chiều với trung ương để mong hưởng được sự khen thưởng. Ông Tổng Thơ Ký Tôn Thất Trình là người có nhiều sáng kiến và chỉ thị ồn ào nhứt. Ông tự hào là được trực tiếp với “ông cụ” (Tổng Thống Ngô Ðình Diệm) khi nào ông muốn. Ông là đồng hương với Tổng Thống và mang họ Tôn Thất, còn cụ Diệm là con một quan Thượng Thơ của triều đình Huế. Nhân viên trong bộ gọi Trình là “con cưng của Tổng Thống.”

Tuy còn trẻ nhưng Trình chỉ thích làm việc với một số ít người thân tín của mình mà thôi, lối suy nghĩ của ông không cởi mở, không chấp nhận sự đối thoại. Tổng Trưởng Trần Lê Quang nhìn sự việc rất thực tế, suy nghĩ có phương pháp, giải quyết công việc thuận tình hợp lý mặc dù lãnh vực canh nông không phải là ngành chuyên môn của ông. Hình như hoạt động của ông có phần bị giới hạn do một Tổng Thơ Ký là “con cưng” của Tổng Thống và một Ðổng Lý văn phòng là người của Sở Nghiên Cứu Chính Trị thuộc Bác Sĩ Trần Kim Tuyến, cả hai đều là người đồng hương với Tổng Thống Diệm. Một vài kỷ niệm đáng ghi nhớ là sự thao túng thị trường lúa gạo của thương buôn người Trung Hoa. Tôi đã từng nghe anh Trần Hữu Phương, cựu Tổng Trưởng Tài Chánh, sau nầy là Thượng Nghị Sĩ, kể lại về sự thao thúng nầy, trầm trọng đến nỗi Tổng Thống Ngô Ðình Diệm phải ký sắc lệnh cấm người Hoa kiều không được phép thực hành một số nghề nghiệp trọng yếu đối với quốc gia, trong đó có nghề buôn bán lúa gạo. Nhưng vỏ quýt dầy thì cũng có móng tay nhọn. Các thương buôn Hoa kiều bỏ tiền mướn người Việt Nam, đứng tên môn bài. Mọi việc rồi đâu cũng vào đó, họ tiếp tục mua bán và thao túng thị trường lúa gạo như trước kia. Khoản Tháng Năm năm 1962, giá gạo ngang nhiên tăng vọt bất thường, dân chúng hoang mang. Lý do là cả chục gian thương đống cửa “chành” (kho dự trữ lúa) không bán ra làm cho cả nước phải điên đảo. Mục đích của họ rất đơn giản: “làm giá” kiếm lời. Nghĩa là thị trường gạo khan hiếm, mức cung do họ nắm giữ, không bán ra, không thỏa mãn nhu cầu của quần chúng, giá gạo phải tăng. Bộ Kinh Tế yêu cầu triệu tập một phiên họp liên bộ do Phó Tổng Thống Nguyễn Ngọc Thơ chủ tọa có Tổng Trưởng Kinh Tế Hoàng Khắc Thành, và Tổng Trưởng Cải Tiến Nông Thôn Trần Lê Quan tham dự. Tôi là chuyên gia của bộ, ngồi sau lưng ông Tổng Trưởng với đầy đủ hồ sơ sản xuất lúa gạo miền tây. Cuộc hợp rất gay cấn. Bàn thảo sôi nổi chỉ vì sự ù lì của người Hoa kiều, chính phủ bí lối, nhưng không thể áp dụng luật rừng là sung công. Cho nên ông Hoàng Khắc Thành nổi nóng đến độ sổ một tràng tiếng Pháp “Je les mettrai en prison tous ces salauds là” (tôi sẽ bỏ tù tất cả những thằng khốn nạn đó). Phó Tổng Thống Nguyễn Ngọc Thơ cười thách thức:

- Toa giỏi thì bỏ tù tụi nó đi, toa tưởng tụi nó vô tù rồi dân mình sẽ có gạo ăn sao? Moa đã từng ngồi chỗ của toa rồi, moa đã từng hăm dọa đủ điều, rốt cuộc cũng phải thương lượng thôi.

Ðến lượt tôi phải trình bày tổng số lượng gạo sản xuất của miền đồng bằng sông Cữu Long, và kết luận không thể thiếu gạo ăn trong Tháng Năm nầy được. Phó Tổng Thống Nguyễn Ngọc Thơ mỉa mai:

- Thôi đi ông kỹ sư ơi, những con số của ông do máy tính trong phòng lạnh đưa ra, chắc gì chính xác và đúng với thực tế.

Tôi rống gân cổ cãi. Nào là chúng tôi tính theo mẫu lúa gặt tại chổ ở nhiều nơi, nào là tổng sản lượng lúa của miền Tây thừa thãi, nào là mức tiêu thụ mỗi đầu người là bao nhiêu, và tất cả đều dựa theo phép tính khoa học của toán xác suất vân vân và vân vân. Kết quả phiên họp không ai hài lòng vì phía chính phủ không có một lợi thế nào để áp lực thương gia. Bộ Kinh Tế đành phải chấp nhận thương lượng để cho giá cả nâng cao một chút. Sau phiên họp về tới bộ Cải Tiến Nông Thôn, ông Tổng Trưởng liền gọi tôi lên văn phòng. Ông trách mắng nhẹ nhàng bằng cách giải thích:

- Anh phải biết tôn ti trật tự ở xứ nầy không giống như ở Pháp, mọi sự phải trái không phải ai cũng có quyền phát biểu ý kiến của mình một cách tự nhiên như vậy. Ở Việt Nam mình, trong những phiên họp cấp cao như thế nầy anh không phải là tham dự viên mà là chuyên gia của bộ, vì vậy anh không có quyền trực tiếp phát biểu, mọi việc phải do chính tôi, hoặc tôi yêu cầu anh đại diện để trình bày. May là ông Phó Tổng Thống không bắt lỗi, buộc anh phải ngồi xuống thì mất mặt anh lắm đấy.

Tôi nhận lỗi và nghiền ngẫm về cung cách sinh hoạt và sự tôn ti trật tự ở Việt Nam. Tôi nhìn nhận tôn ti trật tự là một điều cần thiết, nhưng khi nó biến thành một lực trì trệ cản trở sự tiến bộ và phát triển thì đó là một sai lầm. Tuy nhiên cái lỗi tôi phạm trong phiên họp ngày ấy cũng là cái may mắn cho tôi, về sau nầy Phó Tổng Thống Nguyễn Ngọc Thơ cho gọi “cái thằng kỹ sư trẻ ngang ngược đó” đến nhà gặp ông nhiều lần và bàn thảo nhiều thứ, từ chuyên môn kỹ thuật đến xã hội, chính trị, v.và và lâu ngày dài tháng, sự thâm tình giữa ông và tôi thể hiện bằng cách ông gọi mầy xưng tao với tôi rất tự nhiên. Tuổi già nghỉ hưu, mỗi khi có ký giả ngoại quốc nào xin tiếp kiến ông đều từ chối gởi họ đến tìm tôi hỏi ý như Georges Saffard ký giả tuần báo Pháp L'Expresse, Kimura Trưởng văn phòng đại diện Ðài Truyền Hình NHK của Nhựt Bổn. Phần tôi học hỏi được với ông rất nhiều về kinh nghiệm đời và sự hiểu biết chính trị của miền Nam.

Cũng trong tinh thần tôn ti trật tự cũ kỹ đó, có lần đích thân ông Tổng Trưởng Trần Lê Quang yêu cầu tôi phải đem cho ông xem ngay một tờ trình tôi mới viết xong, không qua hệ thống giai hành chánh, nghĩa là phải qua ông Giám Ðốc rồi Tổng Thơ Ký, đến Ðổng Lý mới vào được tay ông Tổng Trưởng. Sự việc nầy làm cho ông Tôn Thất Trình bực tức vì tờ trình không thông qua ông là Tổng Thơ ký mà đã có bút phê và chỉ thị của ông Tổng Trưởng rồi. Phần tôi thì không thể cãi lệnh ông Tổng Trưởng được. Tình trạng “trên đe dưới búa” của tôi không được ông Trình thông cảm vì ông đã tiêm nhiễm cái thói quen cửa quyền. Cho nên thời gian sau đó mỗi lần sở của tôi có tờ trình lên bộ là ông hay bắt bẻ dù đúng dù sai. Tôi cũng thường phê ngược lại nêu rõ những điều sai trái trong nhận xét của ông Tổng Thơ Ký. Sự việc nầy trở thành khôi hài và là một thú vui của nhân viên trong bộ được chứng kiến màn “trứng dám chọi đá.” Khôi hài hơn nữa là ngay đến viên thư ký riêng của ông Tôn Thất Trình tên là Thùy, cũng “ăn có” xen vào phê phán trên bản phúc trình càng bậy hơn. Sau ngày đảo chánh ông Diệm, anh Thùy chạy sang làm Chánh Sự Vụ Sở Ngân Sách Ngoại Viện Bộ Thanh Niên, tình cờ duyên số khiến anh gặp lại tôi đảm nhiệm chức vụ Tổng Trưởng. Liền sau khi Bác Sĩ Nguyễn Tấn Hồng ký tên bàn giao và từ giã bước ra khỏi phòng, tôi mới ngồi vào bàn giấy thì anh Thùy xin yết kiến liền, mặt mày lộ vẻ sợ hãi vì anh nghĩ tôi sẽ ghi nhớ chuyện cũ mà “đì” anh một cách thê thảm. Anh trình tôi đơn xin từ chức.

Xem đơn xong tôi cười vui vẻ nói:

- Tụi mình chỉ có hai đứa từ Bộ Canh Nông sang mà anh đành bỏ tôi sao anh Thùy?”

Anh trố mắt ngạc nhiên trả lời:

- Nếu ông Tổng Trưởng còn chấp nhận dùng tôi ở đây thì tôi xin nguyện hết lòng phục vụ ông Tổng Trưởng.

- Anh yên chí, cứ thi hành nhiệm vụ của mình cho tốt là được rồi, tôi cộng tác với nhân viên không vì tình cảm hay bà con quen biết mà là do sự siêng năng tận tình và hiểu biết công việc.

Thực tế ông Thùy giữ lời hứa một cách nghiêm chỉnh.


12

Tranh chấp nội bộ bắt đầu

 

Khi ông Trần Văn Hương thay thế Nguyễn Văn Lộc thành lập nội các có yêu cầu ông Tôn Thất Trình tiếp tục giữ chức Tổng Trưởng Canh Nông, anh Nguyễn Văn Hảo điện thoại cho tôi với vẻ bực tức nói:

- Triều toa biết tay nào làm Tổng Trưởng Canh Nông không?

- Moa không để ý vì không muốn can dự vào việc đó.

- Tôn Thất Trình! Bộ hết người rồi sao mà ông già Hương tiếp tục để cho Tôn Thất Trình ngồi đó?

- Moa không biết.

Tôi trả lời với Nguyễn Văn Hảo như vậy, nhưng thâm tâm cũng thấy anh Hảo nói đúng bởi vì Hảo biết Tôn Thất Trình quá nhiều, vì khi ông ta làm Tổng Thơ Ký Bộ Cải Tiến Nông Thôn thì Nguyễn Văn Hảo giữ chức Tổng Giám Ðốc Nông Tín Cuộc và Hợp Tác Xã trực thuộc bộ. Sau này, Nguyễn Văn Hảo trở thành Tổng Ðốc Quỹ Phát Triển rồi những ngày cuối của Việt Nam Cộng Hòa anh là Phó Thủ Tướng Ðặc Trách Kinh Tế kim nhiệm hai Bộ Canh Nông và Bộ Kinh Tế.

Tôi biểu đồng tình với Nguyễn Văn Hảo và nghĩ rằng sự hiểu biết về chuyên môn không mà thôi chưa đủ để lãnh đạo một bộ trong nội các. Tôi liền đến tư gia anh Huỳnh Văn Ðạo, nơi mà cụ Trần Văn Hương đang thành lập nội các. Tại đó tôi thấy cụ Hương đang thuyết phục anh Nguyễn Văn Bông, Viện Trưởng Viện Quốc Gia Hành Chánh, nhận chức Tổng Trưởng Giáo Dục, có sự hiện diện của Huỳnh Văn Ðạo là Tỏng Trưởng Phủ Thủ Tướng tương lai của Trần Văn Hương. Nguyễn Văn Bông từ chối.

Hai bên, cụ Hương và anh Bông nói gì với nhau trước đó tôi không rõ, hiện tại chỉ nghe hai người lập đi lập lại một câu giống nhau, ông Hương nói: “Em tin qua đi”, còn anh Bông cũng lập lại: “Bác tin tôi đi”. Tôi cắt ngắn, xen vào hỏi cụ Hương. Sở dĩ tôi được phép xía vào việc đại sự của cụ Trần Văn Hương là vì chính tôi và một số anh em chủ trương đưa cụ trở lại chính trường trong lúc cụ bị Ðại Tướng Nguyễn Khánh giam lỏng tại nhà mát của Ðức Tổng Giám Mục Ngô Ðình Thục ở vũng Tàu. Vấn đề này sẽ được trình bày cặn kẽ sau này.

- Bác đã cử ai làm Tổng Trưởng Canh Nông?

- Em Tôn Thất Trình.

- Tôi nghĩ Tôn Thất Trình không phải là người thích hợp trong chức vụ này mặc dù anh ta là một kỹ sư biết nghề.

- Vậy chớ em giới thiệu ai?

- Tôi không muốn giới thiệu ai cả.

- Vậy thì Trương Thái Tôn và Phan Bá cầm em muốn cử ai?

- Ông Phan Bá cầm làm sao biết gì về canh nông mà bác muốn cử? Nói xong tôi xin cáo từ, để cho cụ Hương tiếp tục làm nhiệm vụ.

Tại sao tôi phản đối việc cử Tôn Thất Trình làm Tổng Trưởng là vì tôi nghĩ một cách ngay tình rằng cung cách lãnh đạo của ông không thể thực hiện được việc canh tân và phát triển ngành nông nghiệp của đất nước. Còn về lý do mà Nguyễn Văn Hảo tỏ sự bất đồng với ông Trình thì quả thực anh không có chia sẻ ý kiến đó với tôi, nên tôi không rõ.

Một kỷ niệm khác, cuối năm 1962 quân Bắc Việt xâm nhập miền Trung và Cao Nguyên ngày càng nhiều hơn. Lượng gạo tiếp tế cho miền Trung ngày càng tăng, vượt quá mức tiêu thụ tính theo đầu người. Tổng Thống Ngô Ðình Diệm ra lệnh thành lập phái đoàn liên bộ đi điều tra và thi hành việc “Phong Tỏa Kinh Tế Ðịch”. Ðại diện Bộ Kinh Tế là Trần Ngọc Liễng, Trưởng Phái đoàn và Lê Phước Trọng, Chánh Sự Vụ sở Nội Thương, Ðại Úy Trần Kim Hoa sau là Ðại Tá Chánh Võ Phòng phủ Thủ Tướng, hiện định cư tại Houston và một Trung Úy khác tôi không nhớ tên, đại diện Bộ Quốc Phòng, ông Nguyễn Văn Kha đại diện Bộ Nội Vụ, một Y Tá Trưởng tôi cũng quên tên, đại diện Bộ Y Tế, và tôi đại diện bộ Cải Tiến Nông Thôn. Chúng tôi đi khắp miền trung, năm đó có bão, máy bay quân sự của Mỹ phải đáp khẩn cấp xuống sân banh của một xã thuộc Tỉnh Quảng Tín, xe Jeep có thiết giáp hộ tống đưa chúng tôi về tỉnh. Sau bao nhiêu phiên họp với toàn bộ nhân viên và cấp chỉ huy của tất cả các tỉnh miền Trung, kết quả: gạo có thất thoát, một số tỉnh không kiểm soát nỗi để Việt cộng tịch thu lúa của nông dân, một số tỉnh khác được tiếp tế gần như toàn bộ nhu cầu gạo của dân chúng, làm mất đi gần hết sản lượng lúa của tỉnh mình. Thực tế lúa gạo đi ngả nào lọt vào tay việt cộng thì không ai biết. Về đến Nha Trang chúng tôi dừng lại hai ngày để viết tờ trình, Trưởng phái đoàn Trần Ngọc Liểng là Giám Ðốc Kinh Tế Miền Trung nên ông viết tờ trình khác với thực tế, khác với ý kiến của anh em. Tôi không bằng lòng ký tên. Ông Liễng nài nỉ, bảo rằng “cậu” Cẩn rất oai quyền và có thể sinh sát dễ dàng ở Miền Trung, kể cả ở Sài Gòn, nên mình phải uyển chuyển. Tôi vẫn không đồng ý ký tên. Cuối cùng ông Liễng đề nghị tất cả ký, ngoại trừ tôi, và nếu tôi muốn làm tờ trình riêng thì cứ tự nhiên làm.

Tôi đồng ý, về tới Sài Gòn tôi viết tờ trình lên bộ kể rõ sự việc. Kết quả Tổng Thống ra lệnh phải đi điều tra lại. Vẫn phái đoàn này, vẫn số thành viên cũ không thay đổi. Vì sợ bị khiển trách có thể đưa đến mất chức hay nguy hiểm hơn nữa nên ông Liễng trách móc tôi nặng nề trong đó có câu làm tôi tức cười nên nhớ mãi: “Tao nói thách, tưởng mầy không dám làm tờ trình riêng cho Tổng Thống, ai ngờ mầy làm thiệt”. Sự thật tôi có làm tờ trình cho Tổng Thống đâu. Chỉ trình cho bộ để chứng tỏ tôi chu toàn trách nhiệm của mình thôi. Nhưng chính Tôn Thất Trình lấy công với Tổng Thống bằng cách dâng tờ trình này cho “ông cụ”. Ra tới Nha Trang chúng tôi tạm ngừng đó, tất cả mọi người đề nghị tôi viết tờ trình theo ý mình rồi họ đồng ký tên, bởi vì nếu chúng tôi có đi trở lại một vòng nữa khắp các tỉnh thì cũng dự những phiên hợp như lần trước, nghiên cứu những tài liệu cũ, đúc kết phần kết luận như tôi đã đề nghị. Một ngày sau tôi viết xong tờ phút trình, nhưng chúng tôi không dám trở về Sài Gòn ngay, sợ bộ quở trách, bởi vì trong hai ngày làm sao đi kiểm tra khắp các tỉnh được? Vì vậy chúng tôi đếm bằng số ngày đã đi lần trước và lợi dụng ở lại nghỉ mát tại Nha Trang, tắm biển, ăn cua ghẹ uống rượu đế.

Kết quả Bộ Kinh Tế sẽ căn cứ theo những con số do phái đoàn kiểm tra và đề nghi lượng gạo để tiếp tế cho miền Trung. Các vị Tỉnh Trưởng sẽ tùy nghi kiểm soát lượng gạo thất thoát chuyển vào mật khu cộng sản nêu có. Hai chuyến đi miền Trung này có vất vả, có buồn vui nhau, nhưng cuối cùng tôi trở thành bạn thân với gần như tất cả những người trong phái đoàn kể cả ông Liểng và nhứt là ông Ðại Úy Trần Kim Hoa đại diện Bộ Quốc Phòng.


13

Xáo trộn chính trị sau cuộc đảo chính 1963

Những người bạn đã từng hoạt động trong Liên Ðoàn Công Giáo Paris, ở Pháp về Việt Nam kẻ trước người sau khá đông. Anh em tập hợp nhau thành lập Phong Trào Trí Thức Công Giáo, thuộc phong trào quốc tế “Pax Romana”. Bác Sĩ Nguyễn Văn Ái, Viện Trưởng viện Pasteur, đứng đầu phong trào. Ông cũng là cựu Chủ Tịch Liên Ðoàn công Giáo Paris thời ông còn là du học sinh. Tôi mới về nước gia nhập ngay vào phong trào, về sau tôi được giao trách nhiệm Tổng Thơ Ký hội trí thức Công Giáo. Cũng trong khoản thời gian đó, dù tôi là một giáo dân không sống đạo một cách “sốt sắng”, nhưng linh mục Nguyễn Viết Cư, Tuyên úy phong trào “Công Giáo Tiến Hành” toàn quốc, yêu cầu tôi đảm trách công việc của Tổng Thơ Ký, làm việc chung với ông Chủ Tịch là luật sư Nguyễn Văn Huyền, người đạo đức gương mẫu, sau là Thượng Nghị Sĩ, Chủ Tịch Thượng Nghị Viện Việt Nam Cộng Hòa. Ðồng thời tôi lại phải làm công việc của thư Ký “Văn Phòng Liên Lạc Cạnh Tòa Tổng Giám Mục Saigon”. Rồi linh mục Hồ Văn Vui được Tổng Giám Mục Nguyễn Văn Bình cử làm đại diện cho Công Giáo trong Hội Ðồng Tôn Giáo, ngài lại yêu cầu tôi cùng với ngài tham dự Hội Ðồng nầy. Với những vị trí nói trên tôi bị cuốn vào trung tâm trận bão chính trị kéo dài gần ba năm trong cuộc đời và biết được khá nhiều chuyện.

Tại sao lại có một cơ quan lấy cái tên lạ lùng là “Văn Phòng Liên Lạc Cạnh Tòa Tổng Giám Mục” mà không ai thấy có trong tại bất cứ một địa phận Công Giáo nào ở Việt Nam? Xin thưa, tại vì sau ngày quân đội lật đổ Tổng Thống Ngô Ðình Diệm, nhóm người Phật tử cáo buộc ông Diệm thực thi chế độ gia đình trị và bách hại Phật Giáo nên liên tục biểu tình bạo động, tự thiêu, đưa đến cuộc đảo chánh ngày 1 tháng 11 năm 1963. Mặt khác một nhóm giáo dân Công giáo, đa số chối bỏ cộng sản Bắc Việt di cư vào Nam, được Tổng Thống Ngô Ðình Diệm đặc biệt chiếu cố vì họ bị trắng tay chạy nạn cộng sản. Nhóm Công giáo di cư nầy thương tiếc cụ Ngô, và chế độ Ðệ Nhứt Cộng Hòa, họ cho rằng những xáo trộn chính trị gây sụp đổ chế độ làm lợi cho cộng sản. Theo quan điểm của chính quyền thời đó thì Phật Giáo dựa vào sự góp phần của họ trong việc lật đổ chế độ Ngô Ðình Diệm nên muốn khuynh loát chính quyền, đòi phải diệt trừ người của đảng “Cần Lao” của chế độ cũ đang còn ẩn núp trong chính quyền và mưu toan phục hồi chế độ đệ nhứt Cộng Hòa. Phía Công Giáo tố cáo có cộng sản trá hình, núp dưới chiêu bài Phật tử, mượn danh cách mạng phá hoại quốc gia, chia rẽ tôn giáo.

Về phía chính quyền, các nhân vật lãnh đạo quốc gia lúc thì nhượng bộ bên nầy, lúc nghe theo bên kia, do đó tạo sự xáo trộn không ngừng kéo dài trong một thời gian khá lâu. Hai bên, Phật Giáo và Công Giáo biến quan điểm chính trị dị biệt thành sự kình chống tôn giáo, thậm chí thành thù hận gay gắt giữa hai khối người công dân của miền nam chống cộng. Một vài vị lãnh đạo tinh thần của đôi bên đứng phía sau cố vấn. Thêm vào đó chắc chắn có sự sách động gây rối của bọn Việt cộng nằm vùng làm kẻ “ngư ông hưởng lợi”. Trong hoàn cảnh đó Tòa Tổng Giám Mục cần có một nhóm người theo dõi tình hình để trình Ðức Tổng Giám Mục có đủ dữ kiện xét đoán. Những lý do viện dẫn để xuống đường và bạo động thường không chính đáng, nhưng mỗi lần là một cơ hội để biểu hiện sự thù hằn, tranh chấp và bạo động. Phía giáo dân có linh mục Hoàng Quỳnh cố vấn, bên Phật tử có Thượng Tọa Thích Thiện Minh, nhưng nhân vật thật sự quan trọng thời đó là Thượng Tọa Thích Trí Quang.

Tôi hân hạnh được tiếp xúc với vị Thượng Tọa nầy hai lần tại bệnh viện của Bác Sĩ Nguyễn Duy Tài. Ngài ngồi xếp bằng trên giường, tay cầm tuần báo Time mới nhứt từ từ để xuống bên hông, ngài không lộ vẻ đau yếu bệnh hoạn gì, nói năng chậm rãi, rất thông minh và bén nhạy, thông suốt tình hình chính trị quốc tế và quốc nội, nhận định và lý luận chính xác rõ ràng. Nếu ngài không cạo đầu mặc áo tu hành thì ai cũng phải lầm tưởng ngài là một chính trị gia lỗi lạc thay vì là tu sĩ. Về sau khi tôi ngồi trong nội các chiến tranh, có cơ hội đọc qua hồ sơ, tài liệu của cảnh sát mới biết rằng ngài là một tu sĩ Phật Giáo ở bên kia vĩ tuyến 17, vượt sông Bến Hải, tu tại một chùa thuộc tỉnh Quảng Trị và nhanh chống trở thành vị lãnh đạo tinh thần có uy tín nhứt của Phật Giáo Ấn Quang, dù ngài không phải là Viện Trưởng và không hề giữ một chức vị nào của Viện Hóa Ðạo.

Sau ngày 30 tháng 4 năm 1975, tại trại cải tạo Long Thành, hai vị Dân Biểu Phật Giáo Phan Xuân Huy và Nguyễn Khoa Phước bị công an gạn hỏi nhiều lần biết những gì về Thượng Tọa Thích Trí Quang phải khai. Và tại khám Chí Hòa, một người tôi không hề quen biết, khi đi tắm với cả phòng tập thể tại hồ nước trước phòng 13 khu ED, thấy tôi, ông ta vừa xối nước tắm vừa nói: “Tụi nó bắt tôi phải khai biết gì về Võ Long Triều, Trần Văn Tuyên và Thích Trí Quang. Tôi chẳng biết gì mà khai, nhưng dù tôi có biết cũng chẳng dại gì mà khai”. Tôi thắc mắc rất nhiều về Thượng Tọa Thích Trí Quang, về việc cộng sản kiểm điểm hoạt động của ngài sau biến cố 30 tháng 4 năm 1975 mà không tìm ra sự giải đáp. Tôi tự hỏi, sau ngày cộng sản chiếm được miền Nam, tại sao Thượng Tọa Trí Quang giữ im lặng hoàn toàn? Tại sao ông không bị câu lưu như đa số các vị lãnh đạo Phật Giáo? Tại sao ông không hề tuyên bố điều gì chống lại chính phủ cộng sản hay bênh vực cho tự do tín ngưỡng khi Phật Giáo bị cộng sản bách hại?

Chính trường ngày càng rối mù tại vì cơ quan đầu não lãnh đạo quốc gia chưa thống nhứt, không thỏa thuận được với nhau một chương trình hành động, chưa nghĩ ra sách lược cai trị nước. Sự xung đột tôn giáo ngày càng dữ dội hơn. Sinh viên xuống đường công khai tỏ thái độ về những vấn đề chính trị nóng bỏng. Chính quyền thay đổi lập trường thường xuyên, thỏa mãn sự phản đối ồn ào của bên nầy hay bên kia, hoặc vuốt ve, mị dân, mua lòng thành phần nào tỏ ra có chút thế lực.

Sau khi đảo chánh thành công Hội đồng Quân nhân cách mạng ra quyết nghị ngày 3 tháng 11 năm 1963, giải tán Quốc Hội và tạm ngưng thi hành Hiến Pháp. Ngày 4 tháng 11 chiếu Hiến Ước tạm thời cử cựu Phó Tổng Thống Nguyễn Ngọc Thơ đảm nhiệm chức vụ Thủ Tướng và thành lập nội các, trong đó có ba tướng lãnh, Trung Tướng Trần Văn Ðôn giữ bộ Quốc Phòng và Trung Tướng Tôn Thất Ðính giữ bộ Nội Vụ. Thiếu Tướng Trần Tử Oai giữ bộ Thông Tin.

Tân chính phủ không ổn định được tình hình kinh tế và chính trị. Dư luận quần chúng thông qua báo chí gán cho nội các Nguyễn Ngọc Thơ danh hiệu là “con rùa hành chánh”. Trong khi đó Hội Ðồng Quân Nhân Cách mạng và Chính Phủ muốn tạo một khuôn khổ pháp lý tạm thời cho chế độ bằng cách thành lập “Hội Ðồng Nhân Sĩ” gồm khoản 60 nhân vật có uy tín và đảng viên có thế lực do Chủ Tịch Hội Ðồng Quân Nhân Cách Mạng mời tham gia với nhiệm vụ cố vấn cho Hội Ðồng. Về phía Phật Giáo các nhà lãnh đạo vừa ngấm ngầm vừa công khai buộc nhà nước phải thi hành đường lối chính trị theo ý của các ngài. Riêng Hội Ðồng nhân sĩ bầu một Ủy Ban Hiến Pháp và ra thông cáo yêu cầu đồng bào các giới đóng góp ý kiến. Mục đích chỉ để xoa dịu dư luận quần chúng đồng thời cũng muốn đánh tan sự hiểu lầm và đồn đãi là“quân đội làm độc tài, thi hành chính sách quân phiệt”. Sự thật nhóm quân nhân đảo chánh rất e dè vì bị áp lực trực tiếp của Mỹ luôn nhắc nhở họ phải tái lập một chính phủ dân cử.

Không đầy hai tháng sau lại xẩy ra một cuộc “Chỉnh Lý” do Trung Tướng Nguyễn Khánh, đương kiêm Tư Lệnh Quân khu II cầm đầu, lật đổ Thủ Tướng Nguyễn Ngọc Thơ. Hai tháng qua Hội Ðồng Nhân Sĩ chưa kịp tiếp thu ý dân, chưa có thời gian và điều kiện hoạt động. Nội Các Nguyễn Ngọc Thơ mới thành lập, chưa biết phải làm gì, loay quay trong việc giải quyết những vấn đề thông thường. Không có một sáng kiến mới, không có một chương trình ngoạn mục nào đáp ứng với sự mong đợi của quần chúng, tương xứng với danh từ “Cách Mạng” được rao truyền sau ngày đảo chánh. Tướng Khánh giải thích: Hội Ðồng Quân Nhân Cách Mạng chỉ thanh trừng nội bộ mà thôi. Mọi chủ trương đường lối lãnh đạo quốc gia không thay đổi. Nói nôm na là Trung Tướng Dương Văn Minh lật đổ Tổng Thống Ngô Ðình Diệm, bây giờ đến lượt Nguyện Khánh lật đổ Dương Văn Minh, viện cớ là trong chính phủ có những Tướng Lãnh thân Pháp, chủ trương trung lập. Các Tướng đó là Trần Văn Ðôn, Lê Văn Kim, Tôn Thất Ðính và Mai Hữu Xuân, bị bắt cùng với một số tùy tùng và bị giam lỏng trong một biệt thự ở Ðà lạt. Hội Ðồng Quân Nhân Cách Mạng bầu Tướng Nguyễn Khánh làm Chủ Tịch, kiêm luôn Chức vụ Thủ Tướng và Tổng Tư Lệnh quân lực Việt Nam Cộng Hòa. Nguyễn Khánh giải tán Hội Ðồng Nhân Sĩ, thành lập chánh phủ.

Người ta khéo léo dùng danh từ “Chỉnh Lý” vì bốn Tướng Lãnh Ðôn, Kim, Xuân, Ðính chủ trương Trung lập. Tôi thiết nghĩ đó chỉ là mượn cớ mà thôi. Những điều tôi ghi nhớ và tài liệu trong sách của tác giả Ðoàn Thêm ghi lại hàng ngày có thể giải thích một cách khác.


Tranh chấp quyền hành

 

Sau khi Trung Tướng Nguyễn Khánh nhân danh Hội Ðồng Quân Lực tuyển nhiệm ông Phan Khắc Sửu làm Quốc Trưởng, cắt cử ông Phan Huy Quát làm Thủ Tướng và quyết định thành lập Hội Ðồng Quốc Gia Lập Pháp ngày 17 Tháng Hai, tình hình chính trị cũng không ổn định hơn được, bởi vì hai gày sau đó có một cuộc đảo chánh hụt. Bên trong khởi sự có những cuộc tranh chấp quyền lực mới với những lý do mới. Bên ngoài, ngày 3 Tháng Ba năm 1965, Tổng Thống Johnson tuyên bố mở rộng chiến tranh tại Việt Nam đồng thời khen binh sĩ Việt Nam Cộng Hòa là thiện chiến nhứt thế giới. Thủ Tướng Phan Huy Quát ra thông cáo yêu cầu Hoa Kỳ gởi thêm quân tham chiến. Việt Nam tăng thêm 160.000 quân. Tàu Liên Sô chuyên chở vũ khí và hỏa tiễn cho Bắc Việt. Ðại Hàn và Phi luật Tân đưa quân vào chiến đấu tại Việt Nam. Ngày 28 Tháng Tư, Tướng Nguyễn Cao Kỳ tuyên bố nên lập mặt trận giải phóng Bắc Việt. Ngày 5 Tháng Năm, Hội Ðồng Quân Lực tuyên bố giải tán để các Tướng lãnh trở về nhiệm vụ quân sự thuần túy.

Việc tăng quân số lộ ra một vấn đề thật đáng chú ý là người Việt gốc Hoa trốn tránh bằng mọi cách. Sống an toàn để khai thác thương mại, hưởng lợi kinh tế thì có họ, bảo vệ quốc gia, chống xâm lăng cộng sản thì họ lẩn trốn. Thanh niên tuổi lính vượt biên sang Miên hoặc lẩn trốn theo các kiện hàng hay hầm tàu buôn về Hồng Kông, Ðài Loan, Trung Quốc. Ðến mức độ bộ Quốc Phòng phải ra thông cáo ngày 19 Tháng Năm năm 1965 kêu gọi tinh thần hiểu biết và trách nhiệm công dân của thanh niên người Việt gốc Hoa vì số người nhập ngũ quá ít so với số công dân chính thức.

Trong bối cảnh đó tin đồn đảo chánh loan truyền liên tục, dân Sài Gòn thường thấy phi cơ man bom đầy hai cánh lượn trên thành phố mà không biết chuyện gì đã hay sẽ xẩy ra. Ngày 21 Tháng Năm, Thủ Tướng tuyên cáo có âm mưu đảo chánh hụt, ngày 24 Tháng Năm văn phòng Quốc Trưởng thông báo những ngày 19 và 20 Tháng Năm Quốc Trưởng đi kinh lý nên không hề biết có âm mưu đảo chánh. Hai bản thông cáo gieo nghi ngờ, thắc mắc trong lòng dân chúng, thì ngày hôm sau 25 Tháng Năm, Thủ Tướng Phan Huy Quát trình diện nội các cải tổ. Giữa buổi trình diện Quốc Trưởng Phan Khắc Sửu cho biết không hề ký bổ nhiệm hai ông Trần Văn Thoàn tân Tổng Trưởng Nội Vụ và Nguyễn Trung Trinh tân Tổng Trưởng Kinh Tế bởi lẽ hai ông Nguyễn Hòa Hiệp và Nguyễn Văn Vịnh không từ chức. Mâu thuẫn nội bộ trở thành công khai. Ông Quát dựa theo hiến chương ngày 20 Tháng Mười năm 1964 lấy quyền Thủ Tướng cách chức Tổng Trưởng, Ông Sửu nhân danh Quốc Trưởng không ký bổ nhiệm. Bên ngoài đồn đãi có sự tranh chấp Bắc Nam, lại thêm một vấn đề quan hệ đến sự ổn định tình thế. Vấn đề đã rối lại càng rối thêm.

Sự tranh chấp quyền hành một cách công khai làm hoan mang ngao ngán dư luận, gây bất mãn càng nhiều, cho nên ngày 27 Tháng Năm linh mục Hoàng Quỳnh và Lực Lượng Ðại Ðoàn Kết yết kiến Quốc Trưởng đua kiến nghị bất tính nhiệm Thủ Tướng Phan Huy Quát. Ngày 1 Tháng Sáu linh mục Hồ Văn Vui và Mặt Trận giáo dân Công Giáo cũng gặp Quốc Trưởng đưa kiến nghị bất tính nhiệm chính phủ Quát. Ngày 2 Tháng Sáu một kiến nghị khác do khối công dân Tổng Giáo Hội Phật Giáo, Thích Chân Bổn ký; khối công dân Hòa Hảo do cụ Lương Trọng Tường ký; khối công dân Cao Ðào do ông Lê Văn Trung ký; khối công dân Công Giáo do linh mục Hoàng Quỳnh ký gởi Quốc Trưởng bất tính nhiệm Phan Huy Quát. Cùng ngày Ủy Ban Liên Lạc Tôn Giáo ra thông cáo phản đối chính phủ Quát hạn chế quyền tự do tôn giáo bằng một dự thảo quy chế tôn giáo.

Lực lượng Quốc Gia Thống nhứt, gồm một số đảng phái chính trị, Việt Nam Quốc Dân Ðảng, Xã Hội, Tân Ðại Việt v.v.. ra thông cáo yêu cầu chính phủ tránh mọi hành động gây chia rẽ. Phái đoàn Việt-Hoa chống cộng, phái đoàn Phật Giáo Hòa Hảo Nguyễn Long Châu yêu cầu Quốc Trưởng ổn định tình thế. Hai trăm cụ già đến dinh Quốc Trưởng yêu cầu giải quyết cuộc khủng hoảng. Hơn 100 sinh viên cũng kéo tới dinh Quốc Trưởng yêu cầu giải quyết. Phái đoàn nam nữ thanh niên Phật Tử tới dinh Gia Long yêu cầu ổn định tình thế. Ngày 9 Tháng Sáu năm 1965 Thủ Tướng Phan Huy Quát họp báo giao trả quyền hành cho các tướng lãnh đảm trách việc cai trị đất nước cho đến khi có chính phủ dân cử. Ngày 14 Tháng Sáu các Tướng Lãnh thành lập Ủy Ban Lãnh Ðạo Quốc Gia do Trung Tướng Nguyễn Văn Thiệu làm Chủ Tịch và Ủy Ban Hành Pháp Trung Ương do Thiếu Tướng Nguyễn Cao Kỳ Chủ Tịch. Nội các Phan Huy quát tồn tại được 3 tháng 26 ngày. Một giai đoạn mới bắt đầu.

Trong một phiên họp thường xuyên của Văn Phòng Liên Lạc Cạnh Tòa Tổng Giám Mục hai vị linh mục Hoàng Quỳnh và Hồ Văn Vui đặt vấn đề quân đội thi hành chính sách quân phiệt. Bàn thảo sôi nổi giữa hai ý kiến chờ xem và lập tức ra thông cáo phản đối. Phiên họp chấm dứt không có quyết định hẹn nhau chiều ngày hôm sau sẽ tiếp tục bàn. Cuối cùng Văn Phòng quyết định xin yết kiến Trung Tướng Chủ Tịch Hội Ðồng Lãnh Ðạo Quốc gia để bài tỏ sự lo ngại của phía giáo dân công giáo. Linh mục Hồ Văn Vui gọi điện thoại cho văn phòng Trung Tướng Nguyễn Văn Thiệu thì được yêu cầu tiếp xúc với Thiếu Tướng Nguyễn Cao Kỳ. Nói chuyện với linh mục Hồ Văn Vui, Thiếu Tướng Kỳ hẹn với ông 10 giờ sáng ngày hôm sau. Sáng hôm đó nhựt báo Xây Dựng của linh mục Lãm đăng bản nhận định của Văn Phòng Liên Lạc Cạnh Tòa Tổng Giám mục phản đối chế độ độc tài quân phiệt nếu quân đội có chủ trương thi hành chính sách đó. Các vị tu sĩ không muốn để tên mình chính thức và công khai can thiệp vào việc đời nên tôi và Lý Chánh Trung ký tên phổ biến bản nhận định nầy.

Phái đoàn của Văn Phòng gồm linh mục Hồ Văn Vui, Hoàng Quỳnh, Nguyễn Quang Lãm, LS Nguyễn Văn Huyền, ông Nguyễn Gia Hiến, Lý Chánh Trung và tôi. Ðúng 9 giờ 55 sáng chúng tôi có mặt tại văn phòng Tư Lệnh không quân trại Phi Long. Chờ đến 10 giờ 5 phút tôi lưu ý Thiếu Tá Phan Văn Minh, Chánh Văn Phòng đặc biệt của Thiếu Tướng Kỳ, sau này là Ðại Tá Ðổng Lý Văn Phòng Phủ Phó Tổng Thống, rằng chúng tôi có hẹn 10 giờ mà bây giờ là 10 giờ quá 5 phút rồi. Vị Chánh Văn Phòng trả lời Thiếu Tướng đang tiếp khách. Tôi bất bình thưa lại với các vị linh mục là phép xã giao không cho phép người có chức quan trọng sai hẹn quá 5 phút. Các vị linh mục trách tôi là quá nóng nảy.

Ðến 10 giờ 15 là sai hẹn một cách không thể chấp nhận được, tôi đề nghị phái đoàn ra về và ghi nhận Ông Chủ Tịch Ủy Ban Hành Pháp Trung Ương coi thường và không muốn tiếp phái đoàn. Không ai đồng ý ngoại trừ linh mục Hoàng Quỳnh, tôi đứng dậy ra đi và nói quí vị cứ ở lại không có tôi, tất cả đành bỏ về theo linh mục Quỳnh và tôi. Ra đi khỏi văn phòng độ 10 thước Thiếu Tá minh chạy theo xin lỗi bảo rằng Thiếu Tướng mời quí vị vào. Phái đoàn trở lại gặp ngài Chủ Tịch Ủy Ban Hành Pháp Trung Ương. Vừa bắt tay chào hỏi xong, Tướng Kỳ mời chúng tôi ngồi. Xong xáo vào đề ngay: “Chúng tôi chủ trương làm cách mạng. Các chính phủ dân sự không chu toàn nổi nhiệm vụ cho nên quân đội phải đứng ra lãnh trách nhiệm.” Tôi đang sùng trong bụng vì cách đối xử không đúng lễ nghi của ông, đồng thời cũng vì vậy mà các linh mục trách cứ phiền hà tôi về tội nóng nải quá đáng, nên tôi hỏi vặn ông ta một cách sỗ sàng gần như vô lễ.

Thiếu Tướng nói làm cách mạng mà thiếu tướng có hiểu và định nghĩa được hai chữ cách mạng cho chúng tôi nghe không?

Tướng Kỳ lại thao thao bất tuyệt, nói nhiều về sự hy sinh của quân đội, về tuổi trẻ, về đất nước, về kỷ luật quốc gia ông diễn tả gần như cả một ước mơ của ông không dính dấp gì với câu hỏi của tôi đưa ra cả. Tôi lại dặn hỏi: “Thiếu Tướng muốn làm người hùng như kiểu Ðại Tá Nasser của Ai Cập mà không biết Thiếu Tướng có đọc quyển sách “Triết Lý của Một Cuộc Cách Mạng” (Philosophie d'une révolution) do Ðại Tá Nasser viết chưa?”

Chưa.

Vậy thì Thiếu Tướng rêu rao làm một cuộc cách mạng mà không định nghĩa được cách mạng là gì, muốn làm người hùng kiểu Nasser mà không biết Nasser là ai, không dọc ông ấy đã viết những gì thì làm sao khẳng định và thuyết phục được chúng tôi là quân đội chủ trương và có khả năng làm cách mạng?

Ông Kỳ lại hăng say xác định tập thể quân đội là một tập thể hùng mạnh, thành viên của quân đội là do thanh niên, là trí thức từ trong dân chúng mà ra. Vậy còn ai xứng đáng và có khả năng hơn nữa?

Tôi trả lời: Thiếu Tướng lại xác định một cách trống rỗng. Cách mạng phải có chủ trương đường lối, phải có lãnh đạo. Cách mạng không phải lời nói suông, không phải một sự tưởng tượng, càng không phải là một sự ước mơ.

Hai vị Linh Mục Hồ Văn Vui và Nguyễn Quang Lãm can thiệp vào yêu cầu Thiếu Tướng Kỳ ghi nhận là Phái đoàn đại diện cho giáo dân công giáo cảnh báo và yêu cầu quân đội không nên áp đặt chế độ độc tài quân phiệt cho miền Nam.

Cuộc tiếp xúc tương đối ngắn chỉ có một mình tôi hằn học bắt bẻ, cho nên các vị linh mục và anh Nguyễn Văn Huyền lo lắng cho sự an ninh của tôi, e rằng tôi có thể bị bắt giam bất cứ lúc nào. Phần tôi thì có hơi sợ nhưng thấy hả dạ nhẹ lòng vì đã nói cho vị đại diện quân đội hiểu được rằng họ chủ trương làm việc lớn mà không được chuẩn bị, không hiểu biết phải làm sao? Bây giờ nghĩ ra đó chỉ là sự ngan bướng của tuổi trẻ, có nhiệt quyết nhưng chưa được tôi luyện bằng kinh nghiệm đời. Ngày hôm sau vào khoản 7 giờ tối, hai linh mục Nguyễn Quang Lãm, Hồ Văn Vui, anh Ly Chánh Trung và tôi đang ngồi ăn chả cá ở tiệm Như Ý đường Calmet gần chợ Tân Ðịnh, bỗng nhiên anh chiêu đãi viên đến hỏi vị nào là Chủ Nhiệm báo Xây Dựng có người điện thoại chờ ở đầu dây. Linh mục Lãm xin phép đứng dậy đi. Vài phút sau ngài trở lại xin lỗi vì có việc gắp phải đi. Ngài còn vui vẻ bảo “Tớ đã trả tiền rồi nhé”. Ăn xong tôi về nhà đánh máy bản Nhận Ðịnh thứ hai của Văn Phòng Liên Lạc Cạnh Tòa Tổng Giám Mục Sài Gòn nội dung viết rằng: Nếu chính quyền áp đặt một chế độ độc tài quân phiệt thì chẳng khác gì cộng sản và chẳng những sẽ không được sự ủng hộ của quần chúng mà còn gây xáo trộn cho miền Nam nhiều hơn. Ðiện thoại nhà tôi reo, bên kia đầu dây tiếng nói của cha Lãm:

Xe tớ bị pane ở đường Công Ly,ù trước cửa nhà số 168, “toa” làm ơn đến đây rước giùm “moa” được không?

Ðương nhiên là được, ở đó chờ “moa” đến ngay.

Thuở đó đường Công Lý còn chạy hai chiều, tôi từ ngã tư đường Trần Cao Dân chạy lên Công Lý, ngừng phía bên kia đường, ngoắc cha Lãm qua, ngài không qua, tôi kêu lớn: Không qua, “moa” chạy luôn về nhà đấy. Cha Lãm cứ một mực nài nỉ, tay ngoắc tôi lia lịa, bảo tôi quẹo sang bên kia đường. Ngừng xe tôi mời ông lên để chở về. Ông lại yêu cầu tôi khóa xe, xuống để nghe ông nói một việc quan trọng. Nguyên văn như sau:

“Thằng Kỳ gọi “tao” lên trại Phi Long, nó hỏi “tao”: “Cái thằng ngồi trước mặt chống đối tôi hung hăng trong buổi tôi tiếp kiến quí vị là tên gì? Ở đâu? Xin linh mục làm ơn cho tôi biết địa chỉ và số điện thoại nhà nó”. (mối thăm tình giữa cha Lãm và tôi có từ thời sinh viên ở Paris, cách xưng hô với nhau lúc thì “tao, mầy” vỉ ông là cha và tôi là con, lúc thì “ông tớ” lúc thì “toa moa” thân thiện tùy hứng, theo kiểu văn hóa Pháp). “Tao” đinh ninh 100% là nó sẽ ra lệnh bắt “mầy” nên “tao” khẳng định nếu Thiếu Tướng bắt anh nầy thì công giáo sẽ biểu tình ngay. Bởi vì thứ nhứt, Ðức Tổng Giám Mục và cha Hoàng Quỳnh rất thương nó, thứ hai, buổi tiếp xúc đó là chúng tôi đại diện cho giáo dân công giáo. Ông Kỳ trả lời:

“Tôi bắt nó làm gì? Nếu muốn bắt chẳng lẽ cảnh sát không tìm ra được địa chỉ của nó sao? Tôi có ý định mời nó tham gia nội các”.

“Tao” nhẹ nhõm nhưng lại nhủ thầm: Thôi bỏ mẹ rồi, chắc chắn là “mầy” không chịu, nên cho địa chỉ thì “mầy” sẽ kêu ầm lên, rồi lại gây gổ với “tao” nữa, còn không cho thì phải ăn nói với người ta làm sao đây? “Tao” một mực khẳng định là “mầy” không chịu đâu, bởi vì chính “mầy” lo ngại quân đội áp đặt chế độ độc tài mà. Ông Kỳ một mực yêu cầu “tao” dàn xếp cho ông ta gặp được “mầy”, rồi nhận tham gia hay không sẽ hay. Vậy “tao” chỉ còn có một đường là nói gạt cho “mầy” lên đây. Nói xong ông cười ha hả rất khả ố. Tôi trả lời:

Không gặp quân phiệt.

Cha Lãm nài nỉ: “mầy” đừng làm mất mặt “tao” tội nghiệp, “tao” đã lỡ hứa với ông ta rồi, thì “mầy” cứ vô đó gặp ông ta rồi sẽ trả lời không nhận tham gia có thiệt hại gì đâu?

Nể mặt ông tôi bằng lòng gặp Tướng Kỳ với điều kiện có mặt ông. Nghĩa là để giúp ông giữ lời hứa với người ta.

Tướng Kỳ mặc bộ hắc y, mang súng lục kè kè, vui vẻ nói:

Thế nào? Tôi mời anh tham gia nội các với chức Tổng Trưởng Thanh Niên, thay thế tôi, chúng ta sẽ cùng nhau làm một cuộc cách mạng thật sự.

Trong gần 15 phút thuyết phục tôi, lời nói cử chỉ của ông hiện rõ lòng thành, ý chí phấn đấu, mục đích muốn xây dụng một điều gì tốt đẹp, nhưng diễn tả bằng những đại ngôn trống rỗng, nào là hy sinh mạng sống, sẵn sàng lấy cái chế để đền nợ nước vân vân và vân vân, ngôn ngữ khôi hài với sự tự tin quá đáng, ông Kỳ cho tôi một cảm giác ngờ vực. Một ông Tư Lệnh không quân, từ nhỏ đến nay chỉ biết bay và giội bom. Tổ chức quốc Gia, xã hội phải như thế nào? Kinh tế, chính trị là gì chắc chắn ông không biết. Nếu có đọc, có học, có biết thì đã phơi bầy với tôi mấy ngày qua rồi và trong 19 tháng 17 ngày ròng rã, tình hình chính trị sôi sục tại sao ông không có một lời bình phầm? Bây giờ ông lại nắm quyền cai trị tôi không yên lòng hợp tác với tư cách một người lính tòng quân. Tôi chưa dám đứt khoát từ chối vì sợ thành tích chống đối của tôi có thể biến thành bất lợi, nên tìm cách hoãn binh để về nhà suy nghĩ.

Xin Thiếu Tướng cho tôi suy nghĩ vài ngày sau tôi sẽ trả lời.

Không còn kịp đâu, anh ngồi đây suy nghĩ, nửa giờ sau trả lời. Ngày mai chúng tôi phải trình diện nội các rồi.

Xin thưa với thiếu Tướng, lập nội các là một việc trọng đại, không thể trong vài giờ mà ông chọn được những cộng sự viên mà ông chưa hề quen biết, có tâm đồng ý hợp, cùng chung quan điểm chính trị với ông và giữa họ với nhau. Mỗi người làm cách mạng theo kiểu của mình à? Ông là Thủ Tướng, họ là Tổng Trưởng chớ đâu phải ông là Tư lệnh họ là lính? Nếu suy nghĩ trong nửa giờ mà tôi trả lời không, hay nhận chức vụ nầy thì ông cũng không nên dùng tôi, bởi vì chuyện trọng đại như vậy mà quyết đoán không có tính toán, không biết đồng viện của mình là ai? Không rõ lập trường của họ có đồng thuận với mình hay không thì làm sao tôi nhận lời mời của Thiếu Tướng được?

Thôi anh về suy nghĩ đi, 12 giờ khuya trở lại đây trả lời cho tôi rõ.

Thiếu Tướng Kỳ lễ phép đưa chúng tôi ra cửa, trên đường đi ông nói: Sợ gì, anh và tôi chúng ta mua sẵn hai cái hòm, thành công thì dân tộc nhờ, chết cũng vì tổ quốc. Tôi giựt mình, vừa buồn cười vừa cảm kích, phải chăng lời nói đó có nghĩa là ông đã kết tôi là bạn tâm tình, là đồng chí đồng hành rồi? Hay là dùng đại ngôn để dụ dỗ những kẻ ngây ngô?

Ra khỏi nhà, về sau tôi mới biết nhà nầy là tư thất của Tổng Trưởng Thông Tin, linh mục Lãm và tôi chỉ bàn việc từ chối có thể xem như chống đối và thách thức, có thể bị tù. Túng thế quá tôi đề nghị đến nhà anh Luật Sư Huyền hỏi ý kiến. Anh Huyền cũng loay quay chung quanh ý nghĩ không nên tham gia và có thể sẽ bị bắt. Tôi bèn nghĩ đến người bạn chí thân, người cha linh hồn, người cố vấn sáng suốt, có thể nói là người thầy đáng kính của tôi là linh mục Nguyễn bình An, bề trên dòng Phanxicô đêm nghĩ ở tu viện Thủ Ðức, chúng tôi lao xe đến nhà dòng, vị tu sĩ mở cửa, sửng sốt, linh mục An ngạc nhiên, chúng tôi kéo qua nhà của Lý Chánh Trung ở bên cạnh đó, làng đại học Thủ Ðức, để nói chuyện vì không tiện bàn viêỳc tại nhà dòng, Bàn thảo đủ mọi khía cạnh để đi đến quyết định cuối cùng là lựa một bộ chuyên môn như Canh Nông chẳng hạn, không nên lãnh một bộ khác có tính cách chính trị. Trở lại gặp Thiếu Tướng Kỳ, tôi thông báo quyết định chỉ nhận Bộ Canh Nông mà thôi viện cớ là tuổi thanh niên tôi đi du học, bây giờ trở về tôi không hề giao dịch tiếp xúc với thanh niên làm sao lãnh đạo được anh em, sự thật tôi nói dối. Vì trong khoản thời gian đó tôi tiếp cận với nhiều nhóm sinh viên, thanh niên thông qua các bạn sinh viên trường Cao Ðẳng Nông Lâm Súc mà tôi đang dạy kinh tế nông nghiệp và quản lý nông trại. Chúng tôi luôn luôn đặc câu hỏi: Tình hình nầy, đất nước nguy ngập như vậy, “Phải làm một cái gì”. Nhưng làm cái gì đây? không ai có ý kiến cho rõ ràng. Tôi còn nhớ câu nói nầy anh Trần Văn Ngô, sau là Giám Ðốc Tác Ðộng Tâm Lý của tôi ở Bộ Thanh Niên và là Tổng Giám Ðốc Việt Tấn Xã, hay diễu cợt anh em mỗi khi gặp nhau, anh vừa nói vừa cười, nữa chơi nữa thiệt, “phải làm một cái gì”. Lý lẽ tôi đưa ra không đứng vững và cũng không đúng. Tướng Kỳ lại đổi ý, đề nghị với tôi.

Bộ Canh Nông đã có người rồi, thôi tôi đề nghị anh giữ bộ Phủ Thủ Tướng.

Lại càng không thể nhận, bởi vì cái ghế đó phải dành cho người thân tính nhứt của Thiếu Tướng, còn tôi và ông chưa hề quen biết, chưa tiếp xúc với nhau được hai lần.

Thôi tôi đã hết lời mời anh nhập cuộc phục vụ cho đất nước mà anh vẫn một mực từ chối tôi đành ghi nhận vậy.

Bắt tay chào nhau, tôi thấy nhẹ nhõm, nhưng lòng cứ tự hỏi tại sao anh Tướng trẻ tuổi nầy, không có chút oán hờn đối với mình, người đã từng chống đối ông ta, thậm chí coi thường ông ta, mà nay ông lại ân cần mời mình giữ chức vụ quan trọng bên cạnh ông ta? Thú thật tôi chưa từng thấy ai có được thái độ bao dung nhẫn nhục, nhận xét người đối tượng với mình như vậy. Ðức tính nầy thật hiếm có ở một nhà lãnh đạo cao cấp. Ðiều nầy làm tôi phải kính phục ông. Thông thường đa số ưa thích người nịnh hót mình, trái lại bất bình, thậm chí oán giận những kẻ phê bình chỉ trích mình, bất cần biết lời chỉ trích đó đúng hay sai. Rồi Nội Các trình diện ngày hôm sau, bài diễn văn của Thiếu Tướng Kỳ đầy hứa hẹn chân tình, nhưng lòng tin của dân chúng được bao nhiêu thật khó biết được. Sau đó cứ vài ngày là có điện thoại của Phủ Thủ Tướng, Ông Kỳ hỏi ý tôi về nhiều chuyên liên quan đến tôn giáo, gút mắc chính trị, nhiều khi hình như ông cảm thấy cô đơn nên gọi tôi đến phủ nói chuyện bâng quơ, hay là có dụng ý khuyến dụ tôi nhập cuộc cũng không chừng. Tôi còn nhớ rõ có hai lần chính tôi điện thoại xin gặp ông. Lần Thứ nhứt, khi ông đóng cửa nhiều tờ báo, không biết ai khuyên mà đa số lại là báo của những chủ nhiệm người miền Nam. Dư luận nhao nhao lên là Thủ Tướng người Bắc chèn ép người miền Nam. Linh Mục Nguyễn Quang Lãm, người Bắc tìm gặp tôi ông nói: Coi bộ ông Thủ Tướng thích nghe “mầy” nói chuyện, thử gặp khuyên ông ta nên rút quyết định đó lại. Làng báo nhao nhao “tao” là thằng Bắc Kỳ thấy ngại quá. Tôi bèn điện thoại xin gặp Thủ Tướng, bên kia đầu dây, giọng nói ồ ề:

Gặp “moa” có chuyện gì?

Tôi xin gặp có chuyện trình bày, biết đâu có lợi cho Thiếu Tướng.

Lên ngay bây giờ đi.

Mười phút sau, chúng tôi chào hỏi nhau, rồi tôi vô đề ngay.

Thiếu Tướng nghĩ như thế nào mà quyết định đóng cửa một lược nhiều tờ báo như vậy?

Báo chí gì? Ðó là những tờ lá cải, đóng cửa là phải.

Tôi không biết tự Thiếu Tướng quyết định hay có người phúc trình mà tôi cho rằng quyết định như vậy là sai, là thất chính trị. Bời vì thứ nhứt, nếu thật sự muốn đóng cửa những tờ báo đó thì phải chờ họ có một lỗi lầm nhỏ lớn nào đó rồi mình bắt bẻ xé to ra lấy cớ đong cửa, như vậy dù tâm không phục lý phải phục. Thứ hai đóng cửa một loạt vô cớ đó là độc đoán, độc tài, là điều mà chúng tôi lo ngại quân nhân thi hành chính sách quân phiệt. Nghĩa là cầm súng đe dọa rồi muốn làm gì thì làm. Thứ ba, báo chí là một thứ “đệ tứ quyền” có khả năng hướng dẫn, xoay chiều, bóp mép dư luận có lợi hay bất lợi cho ông tùy họ muốn. Vậy thì mới vừa ngồi vào ghế Thủ Tướng, ông lại gây chiến với báo chí là một sai lầm chính trị to lớn. Hình như Thiếu tướng Kỳ nghe lọt tay, ông bèn chuyển sang chuyện khác, hỏi han tôi đang làm việc gì có ích nước lợi dân? Tôi trả lời đi dạy học và làm thống kê kiểm tra năng suất lúa và tổng sản lượng gạo của miền nam. Chiều hôm đó đài phát thanh phổ biến bài phỏng vấn Thiếu Tướng Chủ Tịch Ủy Ban Hành Pháp Trung Ương, tiếng ông Kỳ nhỏ nhẹ kể rằng “bà xã tôi đi chợ nghe dân chúng than phiền việc đóng cửa báo, thiếu tin tức bình luận khác chiều, rồi khi đi về bằng Taxi lại nghe anh tài xế nói tờ báo Tiếng Dội mà anh ta thường độc bị vô cớ đóng cửa. Vậy chiều theo ý dân tôi sẽ xét và có thể cho tái bản lại. Vài ngày sau lại có quyết định cho tái bản toàn bộ những tờ báo bị đình bản. Còn chuyện thứ hai tôi ghi nhớ là có một ngày tôi được Hội Chuyên Viên Kỹ Thuật Gia do anh Lương Thế Siêu làm chủ Tịch, mời tôi hợp tại trụ sở của mỏ than Nông Sơn mà anh Siêu là Tổng Giám Ðốc. Chuyên viên kỹ thuật gia bàn về luật tổng động viên trong đó đương nhiên có chuyên viên. Hiện diện trong buổi hợp có khoản hơn 50 người. Nhiều ý kiến lên án chính phủ không sáng suốt, sẽ làm tê liệt kinh tế kỹ nghệ quốc gia, vì chuyên viên đi lính, nhà máy, hãng xưởng đóng cửa. Có ý kiến đề nghỉ miễn dịch, có ý kiến chính phủ nên đồng hóa cấp bực theo chức vụ và văn bằng, có ý kiến xin cho đi lính vài tuần cho biết đời sống quân ngũ và cũng là một hình thức tôn trọng sự công bằng và luật pháp quốc gia, rồi biệt phái họ về ngay nhiệm sở cũ. Nhưng vấn đề là làm sao đạo đạt thỉnh nguyện của chúng ta đến tay ông nhà nước? Tóm lại đa số rất sợ bị động viên! Tôi ngồi yên đấu láo với anh Nguyễn Bá Nhẫn, Giám Ðốc Thương Mại nhà máy Xi Măng Hà Tiên và Nguyễn Khắc Thành Giám Ðốc nhà máy Tân May, không phát biểu ý kiến, vì tôi đã chuẩn bị tư tưởng trước khi hồi hương từ Pháp về, là không trốn lính trong thời chiến. Tôi đưa tay xin phát biểu:

Anh em ở đây muốn đạo đạt thỉnh nguyện của mình tại sao không xin gặp tổng Trưởng Quốc Phòng hay Thủ Tướng? Nhiều tiếng phát biểu nhau nhau, lộn xộn.

Bộ dễ gặp lắm sao?

Ai chịu tiếp mình mà gặp.

Ra tuyên cáo phản đối rồi muốn ra sao thì ra.

Làm reo nghĩ việc cái đã, mấy ổng thấy nguy cơ thì sẽ xét lại.

Tôi đề nghị anh em làm đơn xin yết kiến Thủ Tướng để trình bày sự việc. Lương Thế Siêu mỉa mai “toa” giỏi thì đưa đơn xin cho anh em gặp đi.

Nhiều người thuận theo ý kiến xin gặp, mấy ổng có cho gặp hay không rồi sẽ tính sau. Anh Nguyễn Bá Nhẫn đồng ý nói:

Chúng ta là công chức cao cấp không thể làm ngan được. Tôi bỏ ra ngoài gọi điện thoại cho ông Chủ Tịch Ủy Ban Hành Pháp Trung Ương, trình bày lý do va xin cho một phái đoàn anh em chuyên viên yết kiến. Ông chấp nhận ngay. Tôi còn gạn hỏi:

Ông cho phép chúng tôi đi bao nhiêu người?

Bao nhiêu cũng được. Ông còn nói đùa, càng nhiều càng tốt.

Trở vào phòng họp tôi thông báo quyết định của Thủ Tướng chấp nhận tiếp kiến anh em. Ða số tưởng tôi nói đùa, tôi phải nhiều lần khẳng định là thật và anh em đề nghị cử người đại diện, tôi bảo không cần, ai muốn đi thi cứ đi. Tôi lại ra ngoài diện thoại lại xin hẹn ngày giờ lên dinh Thủ Tướng trình bày sự việc. Sáng hôm đó Thủ Tướng tiếp kiến 21 anh em chuyên viên tại phòng họp của nội các, không có đủ ghế ngồi, một vài anh phải đứng. Cuộc tiếp kiến vắn tắt, kết quả chuyên viên được biệt phái về nhiệm sở cũ, sau những tuần lễ được huấn luyện quân sự. Trong phiên họp tại Mỏ Than Nông Sơn có một kỹ sư trẻ xong xáo nói năng mạch lạc tên Trương Văn Thuấn, tôi nhận xét lầm tên nầy nên mới giới thiệu anh vô nội các làm Ủy Viên Giao Thông Vận Tải, sự thực anh là một người không Lý Tưởng, chủ trương trốn lính, sẵn sàn đi cửa sau hạ mình đổi lấy danh lợi. Chuyện đời thường có hạng người như vậy.

Nói về Nguyễn Cao Kỳ, tôi phải ngay tình nhìn nhận, tôi có duyên mai biết được Hai Nguyễn Cao Kỳ. Một Nguyễn Cao Kỳ, có lòng với đất nước, có chí cao “đội đá vá trời”, trung thành với bạn. Và một Nguyễn Cao Kỳ chủ quan, mơ việc lớn nhưng không lượng được sức mình, có khí phách anh hùng nhưng vì thiếu sáng suốt nên ẩu tả, gan lì, bạt mạn theo kiểu cao bồi của phim truyện. Ðến đây tôi xin độc giả cho phép tôi trích đăng lại những bài tôi viết gần đây, phổ biến trên nhiều báo tiếng Việt tại Mỹ, về một Nguyễn Cao Kỳ vì chủ quan, tưởng mình là “con Phật”, vì lợi danh hay vì một lý do gì khác phản bội lý tưởng của chính mình, phản bội đồng đội, đồng hành, để rồi trong những bài kế tiếp nếu tôi có lời khen ngợi Nguyễn Cao Kỳ thì cũng là một sư công bằng, một hành động theo lương tri của người trí thức. Những bài ghi lại sự việc xẩy ra giữa Tướng Kỳ và tôi, hay những suy nghĩ của tôi về Tướng Kỳ cũng là một nét chấm phá trong những trang hồi ký về cuộc đời tôi.

14

Lạm bàn về chuyến đi Việt Nam của cựu Phó tổng thống Nguyễn Cao Kỳ

 

Hơn 50 năm nội chiến, 30 năm chia rẽ hận thù, đất nước Viện Nam đang ở trong tình trạng chậm tiến nhất thế giới, tuyệt đại đa số dân Việt Nam đang sống trong cảnh nghèo đói. Vậy những ai còn chút lương tri, có lòng yêu nước cũng phải động tâm nghĩ đến tương lai Việt Nam. Nguyễn Cao Kỳ cũng như bao nhiêu người khác có quyền tự do hành động theo sự suy nghĩ của mình. Nhưng bao nhiêu đó chưa đủ.

 

Ðã là cấp lãnh đạo một thời của miền Nam Việt Nam có lẻ ông Kỳ nên hành động dè dặt hơn. Dù muốn dù không, chung quanh ông cũng còn một tập thể không ít những người đã từng cùng ông chung lưng đấu cật chiến đấu cho lý tưởng tự do, dân chủ. Trước một đại sự quốc gia ông cần tỏ ra có tư cách của một nhà lãnh đạo biết tôn trọng tập thể quần chúng đã từng đứng dưới bóng cờ của mình. Thông thường ông phải giải thích ít nhiều về chuyến đi nầy. Cho dù ông không thể nói rỏ được thì cũng phải úp mở đủ để cho người ta hiểu được. Ðành rằng nhân danh cá nhân, ông có quyền tự do hành động. Ðành rằng một mình cá nhân ông sẽ gánh hưởng hậu quả. Nhưng đây là chuyện quốc gia hai chữ “Cá Nhân” trong hoàn cảnh nầy không còn giá trị và ý nghĩa như thông thường nữa.

 

Ðược mời hay cho phép về?

 

Theo lời tuyên bố của ông Kỳ với ký giả Ðổ Hiếu, đài Á Châu Tự Do, thì “Vào Tháng Bảy ông Thứ Trưởng Ngoại Giao Nguyễn Ðình Bin có nói rằng nhân danh tất cả các anh em trong nhà, ông muốn trân trọng mời tôi về thăm quê hương” rõ ràng là có mời. Theo nguồn tin thân cận với Thiếu Tướng Nguyễn Cao Kỳ thì hình như ông Kỳ muốn đưa ra một thông cáo viết sẵn trước khi về, có sự đồng ý thông qua do Tổng Lãnh Sự Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam trình về. Nhưng không biết lý do gì người ta không thấy thông cáo đó. Sự tráo trở lật lọng của cộng sản quốc tế, nhứt là cộng sản Việt Nam là điều thông thường, không ai lấy làm lạ. Năm 1992 trong một phiên họp tại Paris giữa các chủ nhân công ty và xí nghiệp Pháp, tôi được hân hạnh tham dự với tư cách là ký giả đài phát thanh quốc tế Pháp (RFI), ông cựu Ðại Sứ Pháp De La Louette nói rằng: “Nếu có một vị nào đó may mắn ký được hợp đồng, kể cả với Thủ Tướng Võ Văn Kiệt, ngày hôm nay và nếu ngày mai ông ta tuyên bố ủy bỏ hợp đồng thì các ông cũng đừng lấy làm lạ” Cho nên sự việc báo công an Hà Nội viết rằng chính phủ cho phép tòa Tổng Lãnh Sự cấp chiếu khán cho ông Kỳ là đúng bởi vì bất cứ ai nhập cảnh cũng phải có chiếu khán, đó là sự thường.

 

Sự bất thường ở đây là thái độ trịch thượng, thiếu ngoại giao, tráo trở vô ý thức của một cơ quan ngôn luận đại diện cho quyền lực của nhà cầm quyền Cộng Sản, đã biến chuyện mời thành chuyện xin xỏ. Tờ báo nầy còn viết “người Việt Nam vẫn chưa quên rằng ông Kỳ là người chống cộng sản” ngay đoạn sau lại viết “đã đến lúc không nên nhìn về dĩ vãng.” Rõ ràng là mâu thuẫn có gian ý. Thật ra ông Kỳ không phải là người đầu tiên và duy nhứt trong giới lãnh đạo hay viên chức cao cấp của chế độ Việt Nam Cộng Hòa cũ được cộng sản mời về nước thăm nhà. Năm 1996 việt cộng đã mời Ðại Tướng Dương Văn Minh về nước. Họ còn bịa ra rằng cái nhà cũ của ông gọi là “Dinh Hoa Lan” đang được sửa chữa để đón ông về và hơn nữa nhà đó thuộc quyền sở hữu của ông Minh bởi vì chính phủ Ngô Ðình Diệm đả bán nó cho ông Dương văn Minh với giá tượng trưng là 1 đồng bạc. Ðại Tướng Dương Văn Minh tươi cười (cười ruồi) xác nhận với kẻ viết bài nầy không hề có chuyện đó. Sự thật những vị công chức cao cấp cũ đều biết nhà chính phủ không thể đem ra bán cho một cá nhân nào, ngoại trừ trong những cuộc đấu giá công khai nếu có. Và tôi còn biết có lần bà Luật Sư Nguyễn Phước Ðại nhân danh Ðỗ Mười, Võ Văn Kiệt mời nhân vật khác nữa!

 

Tại sao Cộng Sản phải mời?

 

Từ sau ngày xé bỏ hiệp định Paris xâm lược miền Nam, cộng sản Hà Nội bị thế giới lên án và cô lập. Nhân dân miền Nam căm thù chán ghét vì vậy mới có hàng triệu người liều chết vượt biên. Ðể chống đỡ phần nào tai tiếng gian ác, cộng sản tìm mọi cách dụ dỗ những người có chút danh ngày xưa, nay quen thói háo danh, còn muốn “theo voi hít bã mía”, để làm bông hoa cho chế độ ( dù là các loại hoa xấu xí của miền Nam như hoa “mắc cỡ”, hoa “thúi địch”, hay hoa “chó đẻ” cũng được).

 

Sau một thời gian làm băng hoại đất nước, bần cùng hóa nhân dân, việt cộng nhận thấy đàn anh đàn thầy như Trung Quốc, Liên Xô bị phá sản nên họ đành muối mặt tuyên bố đổi mới. Kêu gọi hòa giải, đầu tư. Những người có thân nhân ở nước ngoài bị coi là một thứ tội nhân, những người đã vượt biên bị gán nhãn hiệu là phản quốc, nay họ trở thành những đứa con quý mến gởi tiền và đồ vật về nuôi quê hương, phát triển đất nước. Những “bọn ngụy quân ngụy quyền” nay được mời gọi về thăm quê hương để cho thế giới thấy rằng cộng sản có đổi mới.

 

Ngày nay tình hình thế giới hoàn toàn thay đổi. Kinh tế tư bản chủ nghĩa có tính toàn cầu do Hoa Kỳ lãnh đạo là không thể đảo ngược được. Ðàn anh Trung Quốc đang ra sức đổi mới, thực tế là đang từng bước chối bỏ quá khứ cộng sản sai lầm của mình-mới đây nhất là công nhận quyền tư hữu về đất đai của người dân-để sống còn, thì Cộng Sản Việt Nam có con đường nào khác ngoài con đường đổi mới để khỏi tự đào mồ chôn tập thể với nhau? Mặt khác cộng sản đang gấp rút chuẩn bị để xin vô tổ chức World Trade Organisation (WTO). Muốn vào thì phải tương đối đủ mạnh về kinh tế để không bị chèn ép quá đáng. Muốn mạnh về kinh tế thì phải nhờ viện trợ, từ tiền bạc, kỹ thuật cho đến kinh nghiệm, kiến thức của các nước tiên tiến. Muốn được viện trợ thì phải ít nhiều đáp ứng được những yêu cầu chính đáng của họ trong việc thực hiện các giá trị văn minh của nhân loại về tự do, dân chủ, nhân quyền, chứ không thể treo tấm bảng chủ quyền quốc gia trước cửa rồi tự tung tự tác trong nhà như thời còn mồ ma “Hệ Thống Xã Hội Chủ Nghĩa Thế Giới”. Khổ hơn nửa là phải chấp nhận bài trừ tham nhũng bởi vì thế giới biết rõ 36% tiền viện trợ đi vào túi cán bộ nhà nước, vì vậy năm nay lại có chương trình viện trợ để điều tra tham nhũng.

 

Và, biết đâu còn có lời nhắn nhủ phía sau. Nếu anh muốn chơi với chúng tôi vì nhu cầu kinh tế hay vì sợ đàn anh Trung Quốc xỏ lá kề bên thì phải nghĩ cách “cư xử như thế nào” với hàng triệu người vừa là đồng minh cũ của chúng tôi vừa là công dân Mỹ góc Việt đang nắm lá phiếu trong tay có thể ảnh hưởng xa gần đến sinh hoạt chính trị của nước tôi.

 

 

Về để làm gì?

 

Ở vị thế của Nguyễn Cao Kỳ không thể nào về chơi thăm nhà mà thôi được. Ông đã tuyên bố trên đài Á Châu Tự Do “Tôi cũng nói rằng nếu các anh em đang có trách nhiệm với đất nước mà biết nghĩ đến chuyện đó, bỏ qua hận thù và dĩ vãng, rồi sửa sai những chuyện mình làm không đúng trong dĩ vãng để mà tạo ra một đại đoàn kết của dân tộc để mà chấn hưng lại đất nước.” Và trả lời phỏng vấn trên đài BBC, đại ý ông cũng kêu gọi đôi bên nên gác quá khứ để nhìn về tương lai đất nước. Ðiều đó đúng. Nhưng có điều ông nói sai là theo ông những người cộng sản thấy được chủ nghĩa của họ đã lỗi thời và chúng ta phải để cho họ thời gian sửa sai. Thời gian bao lâu nữa? Họ dùng chủ nghĩa cộng sản để mê hoặc dân chúng không được nữa thì bịa ra tư tưởng Hồ Chí Minh. Và kinh tế thị trường theo đinh hường Xã Hội Chủ Nghĩa là cái quái quỷ gì? Họ cần có thời gian để lột xác, hay họ đang quanh co để “sạch sành sanh vét cho đầy túi tham”? (Kiều).

 

Xét cho cùng ông Kỳ có can đảm rêu rao một sự thật là hận thù không thể kéo dài truyền kiếp được, dân tộc và đất nước là trên hết. Tôi cũng đã từng viết chế độ là nhất thời, dân tộc là vạn đại. Nhưng ký giả đài BBC hỏi câu rất xác đáng: liệu có thể nào thay đổi, nếu chế độ nầy cứ khăng khăng giữ lấy độc quyền. Những câu trả lời và phát biểu của Nguyễn Cao Kỳ đầy nhiệt huyết và lòng yêu nước. Ông sẵn sàng góp phần xây dựng vô điều kiện, cũng như lúc tuổi 20 ông hiến thân cho đất nước không có điều kiện. Xét trên bình diện cá nhân người ta có thể cho là tinh thần yêu nước đáng quý. Nhưng xét về mặt chính trị, nhứt là đối với một người đã từng lãnh đạo thì có thể nói đó là một thứ lý tưởng không tưởng (Pháp gọi là idéalisme irréaliste). Bởi vì ông Kỳ đang nói chuyện với tập đoàn xảo quyệt, một thứ Vua Bịp Bãi Thượng Hải, mà ông đem sự thành tâm thiện ý để trao đổi thì ông thua là cái chắc. Dù sao chuyến đi về của ông cũng có chút giá trị hay công dụng, nó đo lường được phần nào thâm ý của cộng sản, lật tẩy được lá bài gian lận nếu có, nó có thể hé lộ một chút ánh sáng nào đó ở cuối đường hầm nếu ông Kỳ có khả năng đột phá bức tường độc tôn.

 

Thông thường người ta nghĩ rằng ông kỳ rêu rao hòa giải cũng giống như đại văn hào Pháp Jean Jacques Rousseau đòi công bằng xã hội, bình đẳng công dân với bản văn “Contrat Social” của ông, dưới chế đo độc tài phong kiến của Pháp quốc. Trừ khi có một áp lực quốc tế nào đó quá mạnh buộc việt cộng đi vào thế chẳng đặng đừng thì may ra ông Kỳ mới hy vọng thành công.

 

Cho dù như thế đi nữa thì ông Kỳ phải thấy rằng bên kia cộng sản muốn hòa giải với ai? Nếu chỉ muốn hòa giải với ông Kỳ không mà thôi thì chuyện đã xong rồi nói làm gì nữa. Còn việc hòa giải với những người Việt Nam thuộc chế độ miền Nam đang sống trong nước cũng như ở hải ngoại thì lại là một việc khác. Sự kiện ông Kỳ Tuyên bố không mấy quan tâm đến ưu tư của người khác mà chỉ hành động theo lương tâm và cá nhân ông thôi, ông muốn kêu gọi đoàn kết mà ông không chịu tìm cách đoàn kết với những người đã từng là bạn đồng hành đồng chí với ông trước khi kêu gọi người gian ác bên ngoài, thì e rằng ông đang làm việc “Dã tràng xe cát biển Ðông, nhọc nhằn mà chẳng nên công cán gì”.

 

Còn một vấn đề phức tạp khác người ta cần phải nghĩ đến là Việt cộng và một thế lực nào đó manh tâm dùng ông Kỳ để gây bàn tán sôi nổi, chống đối ủng hộ, đấu tranh chia rẽ trong cộng đồng người Việt hải ngoại nhầm đốt cháy hết những bộ mặt xưa cũ để rồi sử dụng những người mà họ, đã an bài sẵn.

 

Ván bài mà vì quá tự tin, quá sốt ruột hay do ảo giác “Con Cầu Tự” mà ông Kỳ đem hết chút ít vốn liếng còn lại đặt vào, thật là oan uổng.

 

Nói theo ngôn ngữ của sồng bài thì nhà cái cộng sản chắc chắn sẽ thắng. Từ vừa đến lớn. Nhưng tôi thành tâm không mong ông Kỳ sạch túi, vì rằng ông ấy có tâm tư, tình cảm, và ước mơ như tất cả chúng ta về một đất nước Việt Nam sớm có tự do, dân chủ và thịnh vượng.

 

Thiết nghĩ những người bất đồng chính kiến với Tổng Thống Nguyễn Cao Kỳ cũng nên kềm chế đừng để cho cộng sản quá vui mừng vì chúng ta đấu đá nhau quá tồi tệ.

 

Vấn đề chính yếu là chúng ta phải đoàn kết với chúng ta trước khi nói đến chuyện bắt tay hay đoàn kết với người ngoài.


15

NHỮNG GÌ TÔI BIẾT VỀ VIỆC NGUYỄN CAO KỲ VỀ NƯỚC

Phần II

 

Những gì tôi biết, hình như có hai Nguyễn Cao Kỳ, một Nguyễn Cao Kỳ phản bội đồng đội, phản bội chính mình, khi chấp nhận làm con cờ cho cộng sản trong giai đoạn mà chế độ vô nhân nầy đang bị đảo điên, đang cần sự tiếp tay hỗ trợ về mọi phía. Và một Nguyễn Cao Kỳ Từ 1966 đến 1975, có lòng với đất nước, muốn đội đá vá trời nhưng không thành, vì thiếu hiểu biết việc quốc gia đại sự, biến chuyển quốc tế, thế chiến lược toàn cầu, vai trò của Việt Nam trong hoàn cảnh đó và nhứt là vì những đàn em dựa hơi phá bĩnh hay nhóm “Lương Sơn Bạc” cùng ăn thề uống máu với ông ỷ thế làm hư việc.

Ðể giữ sự công bằng đối với ông, để giữ sự trung thực theo lương tâm của nhà báo và sự đứng đắn ngay tình của một cộng sự viên đã một thời được ông kính trọng và tin tưởng, những gì tôi tường thuật về cựu Thiếu Tướng Nguyễn Cao Kỳ, hiện còn những nhân chứng sống có thể xác nhận. Người đầu tiên trong đó chính là ông Nguyễn Cao Kỳ. Và đây là câu chuyện:

Chuông điện thoại reo, tiếng nói ồ ề từ đường dây bên kia:

- Triều đó hả? Nguyễn Cao Kỳ đây, nầy cậu có muốn về Việt Nam không?

- Về làm gì? Moa đã nói nhiều lần: “một ra đi không hẹn ngày về” rồi mà. Khi nào đất nước hết bóng công an cộng sản, có tự do dân chủ và nhân quyền thì có moa ở Saigon.

- Ði về với moa, tớ được tụi nó mời đường hoàng.

- Nói chơi hay nói thật vậy? Thằng ma nào cao hứng mời toa vậy? Cái trò nầy moa đã thấy qua rồi. Bỏ đi tám.

- Thật mà, Thằng Nguyễn Ðình Bin, Thứ Trưởng Ngoại Giao của tụi nó đích thân tỏ lời mời trong một bữa cơm ở San Francisco, sau khi gặp gỡ ở sân golf. Nó nói: “Anh em bên nhà muốn tỏ ý mời Thiếu Tướng về thăm quê hương, và nếu có dịp xin Thiếu Tướng cho ý kiến về tinh thần và cung cách liên hệ với Hoa Kỳ, ông là người thông suốt nhứt.” Và cũng nhân cơ hội để cho mọi người biết người Việt chúng ta đã sẵn lòng quên quá khứ và đang nghĩ việc xây dựng tương lai.

- Còn khuya, bá láp, toa vừa bước chân lên máy bay thì bên nầy anh em sẽ chửi toa như chửi “Ch...” để rồi toa xem.

- Sợ “Ðếch” gì? Cậu biết thừa, xưa nay tớ có sợ ai đâu, vả lại tớ luôn luôn nghĩ rằng sẽ có ngày vết thương cũ phải được hàng gắn bằng cách nầy hay cách khác. Tốt nhất là trong giai đoạn mình còn sống để về thăm quê cha đất tổ.

- Thằng nào lại không mong mỏi điều đó? Nhưng vết thương của đất nước sẽ được hàn gắn bằng cách nào? Bằng cách đầu hàng “Bẩm ông xin tha thứ, ban luật đại xá cho chúng con” như thằng Phó Bá Long van xin năm 1992 chăng? Chuyện đó không có moa!

- Làm gì có chuyện đó. Ðây là chuyện “sérieux” (nghiêm chỉnh), Khi nào về đến Việt Nam, gặp nhau mình có thể cùng với anh em bên kia bàn thảo.

- Moa không tin có chuyện đó. Moa có kinh nghiệm với ông Ðại Tường Dương Văn Minh ở bên Pháp rồi, toa thử biểu tụi nó viết thư chính thức mời toa đi.

- Dĩ nhiên rồi sẽ có.

- Nếu thật sự là như vậy thì ít ra toa phải phổ biến một bản thông cáo xác định lập trường và mục đích của toa trước khi bước lên cầu thang máy bay. Như vậy thì rõ ràng minh bạch.

- OK, hay lắm, cậu làm ơn thảo giùm cho tớ một lời tuyên bố đi, nhưng mà lần nầy phải làm gấp, không được hứa rồi kéo dài như lần trước bắt tớ chờ đôi ba tháng rồi cút luôn đấy.

- Ðược rồi, để moa thảo giùm cho, sẽ có ngay.

Sở dĩ ông nguyễn Cao Kỳ giao điều kiện như vậy là vì thời gian trước đó khá lâu, ông tuyên bố lăng nhăng gì đó, báo chí và truyền thông truyền hình chỉ trích phê bình ông rất gắt gao, làm ông mất mặt. Khi đó tình cờ tôi đang đi vào Restaurant Song Long ở đường Bolsa thấy một xe chạy ngang, qua khỏi tôi lại ngừng, người bước xuống đó là Thiếu Tướng Kỳ, có cựu Thiếu Tá Liệu nguyên là tùy viên của ông ngày trước cùng đi. Ông Kỳ chận tôi lại. Sau khi nói chuyện qua loa tôi hỏi liền:

- Tại sao toa tuyên bố lăng nhăng làm báo chí sỉ vả tùm lum vậy?

Ông Kỳ đính chánh:

- Tụi nó xuyên tạc ý kiến moa.

- Phát biểu bố láo bố lếu là nghề của toa, gây hiểu lầm và bị phê bình lên án là phải, khi nào thấy cần đưa ra một ý kiến gì đó thì nên viết thành một bản văn, phổ biến rộng rãi, không ai có thể hiểu lầm xuyên tạc được.

- Ðồng ý, vậy cậu có thể thảo giùm một bản văn cho tớ không?

- Ðược rồi để moa thảo cho, nhưng với một điều kiện là từ nay không nên bốc đồng nói bậy nữa thì moa mới thảo.

Ông Kỳ nhanh chống biểu đồng tình. Tôi lỡ miệng hứa cho qua đường, đến khi về nhà tôi có than với bà xã là “bản tính của ông Kỳ là hay bốc đồng nói không suy nghĩ. Bây giờ mình có giữ lời hứa, bỏ công thảo bất cứ thứ gì, rồi nay may ổng lại bốc đồng ham ăn ham nói thì ai bịt miệng ông ta được? Ðời anh chưa thất hứa với ai bao giờ nhưng lần nầy chắc phải đành lỗi hẹn làm thinh.

Sau đó lại gặp ông Kỳ ở Santa Ana một lần nữa, ông trách:

- Ð.M... chỉ gặp toa ở ngoài đường không thôi, tại sao không ghé qua nhà chơi? Và lời tuyên bố của moa toa hứa viết đâu?

Tôi giả vờ lấy cớ:

- Moa không có tài liệu báo chí sỉ vả toa như thế nào làm sao viết được.

- Thôi được rồi, để moa biểu thằng Liệu nó gởi cho toa.

Tuần lễ sau tôi nhận được nhiều bài báo và một video cassette do cựu Thiếu Tá Liệu gởi đến nhưng tôi vẫn làm ngơ. Còn về việc lần nầy tôi xét thấy vấn đề hơi nghiêm chỉnh hơn trước, nên trong lúc điện đàm tôi hứa sẽ có ngay. Vài giờ sau tôi gọi điện thoại lại và đọc cho ông Kỳ nghe lời tuyên bố nguyên văn như sau.

LỜI TUYÊN BỐ CỦA THIẾU TƯỚNG NGUYỄN CAO KỲ CỰU PHÓ TỔNG THỐNG VNCH

Ý thức rằng công việc góp phần xây dựng đất nước được phú cường, mưu tìm đời sống tự do, ấm no, hạnh phúc cho dân tộc và tạo thế đứng xứng đáng cho Việt Nam trong cộng đồng quốc tế ở thế kỷ 21 là trách nhiệm của mọi công dân.

Ý thức rằng do bối cảnh quốc tế. Việt Nam đã bị lôi cuốn vào cuộc nội chiến cốt nhục tương tàn, nhưng thời gian nữa thế kỷ qua đủ để làm cho lòng người phản tỉnh và nhận thức là đã đến lúc phải hàn gắn và xây dựng lại quê hương.

Quan niệm rằng lòng yêu nước không thuộc độc quyền của một phe nhóm. Ðất nước là gia sản của ông cha để lại. Người quốc gia hay cộng sản vẫn là con người Việt Nam, mang cùng một giồng máu, gánh chịu cùng một trách nhiệm đối với dân tộc.

Quan niệm rằng lịch sử thế giới từ xưa đến nay đã chứng minh: Chế độ là nhất thời, dân tộc là vạn đại.

Quan niệm rằng gần đây chủ nghĩa cộng sản tại nhiều quốc gia đã tự biến thể hoặc bị xóa bỏ vào cuối thế kỷ 20 nầy.

Vì vậy sau 21 năm đất nước bị chia cắt và 49 năm dân tộc bị ly tán, tôi nghĩ rằng đã đến lúc mọi người bên nầy và bên kia, đều có bổn phận trong phạm vi trách nhiệm và khả năng của mình, làm mọi cách để hàn gắn, tái tạo sự ổn định cho Việt Nam.

Với tinh thần đó chúng tôi, Nguyễn Cao Kỳ, với tư cách cá nhân, đã nhận lời mời của chính phủ Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt NAM, về thăm quê nhà, tiếp xúc với chính quyền, để nhận xét tình hình, trong tinh thần xây dựng và khách quan nhầm mục đích, nếu có thể được, góp phần nhỏ mọn của mình trong công cuộc tái lập sự hài hòa và uy thế cho đất nước, đem lại tự do hạnh phúc cho dân tộc.

Thiếu Tướng Nguyễn Cao Kỳ

Los Angeles ngày... tháng... năm

 

Sau khi nghe xong ông Kỳ nói: “Perfect”. Ông yêu cầu tôi gởi ngay bản văn nầy cho ông. Tôi còn dặn dò thêm: “Toa nên đưa lời tuyên bố nầy cho Tổng Lãnh Sự Hà Nội ở San Francisco, yêu cầu nó chuyển về cho thượng cấp của nó, hỏi có vui lòng thấy bản văn nầy được phổ biến trước khi toa về Việt Nam không? Ngoài ra hai đoạn nói về “chế độ là nhất thời” và “cộng sản biến thể hay bị xóa bỏ” nếu họ không vừa ý thì toa có thể bỏ đi cũng được.

Ðiều quan trọng là khi về đến Saigon toa phải đòi cho bằng được vào đại học, đọc một bài diễn văn trước mặt sinh viên. Trong đó toa có thể ca ngợi chế độ về đổi mới, về những chuyện đâu đâu vô tích sự... Nhưng quan trọng nhứt là phải có bốn chữ: “Tự do dân chủ”. Bên nầy tụi moa khai thác bốn chữ nầy như thế nào toa khỏi lo”.

Ông Kỳ đồng ý.

Bản thảo lời Tuyên bố nầy tôi có đọc cho rất nhiều người bạn nghe, trong đó có một tướng lãnh biết ông Kỳ nhiều, vài anh em ký giả chủ báo ở California và một vài bạn bè bên Pháp. Mục đích là để yêu cầu họ suy nghĩ giùm xem tôi có viết điều gì hớ hênh không? Tất cả tán thành ý kiến diễn đạt trong bản văn. Nhưng đa số ngạc nhiên và nghi ngờ cộng sản sẽ tráo trở.

Trước khi đi San Franciaco ông kỳ có điện thoại cho tôi biết là ông sẽ gặp Tổng Lãnh sự Hà Nội và được ông nầy mời dùng cơm trưa. Ông hứa trên đường về Los Angeles sẽ ghé qua Fresno thăm tôi và bàn việc. Hai ngày sau, lúc 9 giờ đêm tôi nhận điện thoại của ông Kỳ nói ông đang rời San Francisco mà nếu ghé qua Fresno gặp tôi nữa thì về đến Los sẽ trễ đến sáng, nên xin hẹn ngày khác gặp nhau. Bây giờ chỉ nói chuyện sơ qua bằng điện thoại thôi. Tôi hỏi:

- Hà Nội có tán thành lời tuyên bố của toa đưa ra trước khi về không? Nguyễn Ðình Bin sẽ gởi giấy mời chính thức không?

- Tụi nó đồng ý 100% về bản văn và sẽ có thơ mời chính thức. Ðồng thời Hà Nội sẽ gởi hai nhân vật qua để thảo luận chương trình đi đứng ăn ở với moa.

- Mọi chuyện hình như tốt đẹp. Nhưng tại sao quá suông sẽ như vậy làm tôi thấy hơi lạ. Rồi ông Kỳ im hơi luôn cho đến một ngày trước khi lên máy bay ông mới điện thoại báo tin cho tôi biết. Tôi hỏi:

- Toa có được giấy mời chính thức không?

- Không.

- Toa có phổ biến lời tuyên bố mà toa đã nhờ moa viết và được tụi Hà Nội thuận ý 100% như toa nói không?

- Không có phổ biến.

- Tại sao toa không chịu phổ biến? Toa có biết rằng ngang nhiên đi về làm bông hoa cho tụi nó là toa chôn vùi tên tuổi và chịu nhục nhã cả đời không?

- Sợ gì, đợi về bên đó gặp tụi nó rồi sẽ thảo luận sau.

- Toa tưởng toa là ai? Ngay những lời hứa sẽ có thơ mời, ngay quyết định đua ra lời tuyên bố cũng không có thì một là toa tự dối gạt mình, hai là toa bị hai thằng sứ giả Hà Nội dối gạt toa, ba là toa dối gạt moa. Một trong ba, hay là cả ba đều đúng, toa làm ơn nói rõ cho moa biết được không?

- Toa yên trí, toa biết moa là thằng liều, để moa về đột phá bức tường cộng sản nầy cho tụi toa thụ hưởng về sau.

- Toa đừng có giở cái vọng nói đó với moa. Thứ nhứt toa không có khả năng đột phá, thứ hai moa không phải là thằng ngồi chờ sung rụng để hưởng, thứ ba tuổi moa đã già đủ cơm ăn áo mặc rồi không cần thụ hưởng bất cứ thứ gì khác ngoại trừ thấy dân tộc mình được giải thoát. Thôi nói nhiều mích lòng vô ích, chúc toa gặp được nhiều may mắn. Nhưng có điều moa cho toa biết trước là trong tương lai, nếu moa có lập trường khác biệt, nếu moa có lời phê phán nặng nề không nể mặt anh em thì toa phải hiểu rằng mỗi thằng chúng mình bênh vực lập trường và theo lý tưởng của cá nhân mình.

- Ðược rồi. Ðể tớ về có gì hay ho tớ sẽ điện thoại cho cậu.

Từ đó và vĩnh viễn Nguyễn Cao Kỳ, theo tôi nghĩ, không còn mặt mũi nào liên lạc với tôi nữa và tôi cũng quyết định sẽ không bao giờ gặp gỡ, tiếp nhận điện thoại bởi lẽ tôi không còn gì để nói với ông ta.

Chuyện Nguyễn Cao Kỳ về nước làm giấy lên dư luận xôn xao phê phán nặng nề. Những lời tuyên bố nịnh bợ Hà Nội, phản bội đồng đội, làm cò mồi dẫn mối kinh tế của ông làm dư luận phẫn nộ phỉ nhổ.

Tôi có hỏi qua một vài người bạn quen biết ông khá nhiều như Cựu Trung Tướng Nguyễn Bảo Trị thì ông ta nói:

Thằng Kỳ có điện thoại cho moa, nó nói khá nhiều nhưng moa trả lời về trong điều kiện không rõ ràng, bất lợi đó không có moa”.

Tôi cũng có dịp hỏi qua anh Ðại Sứ Bùi Diễm, anh nói: “Ông Kỳ có điện thoại cho tôi nhưng tôi nói với ông ta về trong điều kiện hạ mình nhịn thua kiểu Hàn Tín ngày xưa thì không có tôi”.

Có những bạn bè thân hữu hỏi tôi, báo chí phỏng vấn, tôi chỉ suy đón rằng ông Kỳ một là vì háo danh tưởng mình là con cầu tự. Ông nhiều lần thố lộ với tôi có một ông thầy tướng số Thái Lan nào đó, bói rằng đời ông còn vang vẽ tiếng tăm (tốt hay xấu ông thầy nầy quên nói). Bà vợ chắp nối sau nầy là người thường lợi dụng tên tuổi của ông để làm ăn với thương gia Trung Quốc, Thái Lan và Việt Nam. Chính bản thân Nguyễn Cao Kỳ cũng nhiều lần khoe với tôi là ông quen biết nhiều phú ông, vua dầu hỏa, người Á Rập cùng đánh golf với ông và hứa sẽ hỗ trợ ông đầu tư xây dựng lại Việt Nam khi ông cần đến. Những ông bạn nầy lâu lâu tặng ông món quà một hai trăm đô la dễ dàng, coi như không có. Từ đó tôi phải suy diễn rằng Nguyễn Cao Kỳ yêu nước ngày xưa, nay bị mù lòa vì tiền hoa hồng dẫn mối cho các thương gia Á Rập hay vì quyền lợi vật chất do cộng sản hứa hẹn như trường hợp của Dương Văn Ðức con của Dương Văn Minh, và đáng buồn hơn nữa vì đàn bà thúc giục mà Nguyễn Cao Kỳ phải nghe theo! Sự suy diễn nầy đúng hay sai, bất công hay đó là sự thật chỉ có Nguyễn Cao Kỳ và bà vợ ông mới biết thôi.

Phần tôi đã viết ba bài đăng trên nhiều báo: “Lạm Bàn Về Việc Nguyễn Cao Kỳ Về Nước”. “Hai Hình Ảnh Một Âm Mưu”. và “Chuyện Nhuyễn Cao Kỳ Chấm Xuống Hàng Lật Sang Trang”.


Tại sao Cựu Ðại Tướng Dương Văn Minh không về nước ?


Tôi đang viết bài trên máy vi tính bỗng nhiên có tiếng chuông kêu cửa. Mở cửa ra tôi thấy có một ông khách lạ, còn đứng ngay trước cửa, ông liền tự giới thiệu:

- Tôi là Ðại Tá Nguyễn Hồng Ðài, “ba tôi muốn xin yết kiến với anh, xin anh vui lòng cho tôi một cái hẹn tôi sẽ đưa ba tôi đến gặp anh”.

- Xin lỗi đại tá, ba của đại tá là ai?

- Tôi là con rể của Ðại Tướng Dương Văn Minh...

- Ô! xin lỗi, tôi thành thật xin lỗi Ð.T. vì chúng mình không thường gặp nhau nên tôi không nhận được Ð.T. là con rể của Ðại Tướng Minh, bạn của thân phụ tôi ngày xưa mà, khi Ðại Tướng còn là Trung Tá commandant secteur Long An (Chỉ Huy Trưởng vùng Long An gồm ba tỉnh Long An, Mỹ Tho, Bến Tre) còn ba tôi là Thiếu Tá Phó tỉnh trưởng nội an sous secteur Bến Tre (vùng phụ). Anh dùng hai chữ yết kiến sẽ làm tôi giảm thọ chết không được đâu. Xin anh cho tôi biết khi nào Ông Ðại Tướng rảnh tôi sẽ đến hầu chuyện với Ðại Tướng.

- Tùy ngày giờ rỗi rảnh của anh, tôi sẽ đến chở anh đi thăm ba tôi.

Buổi sáng ngày tháng nào của năm 1993, tôi không còn nhớ, anh Nguyễn Hồng Ðài đến chở tôi đi gặp Ð.T. Dương Văn Minh ở ngoại ô thành phố Paris. Buổi tiếp xúc đầu tiên rất thân mật, sau khi trò chuyện xã giao, nhận định tình hình chung quốc nội và quốc tế lúc đó, ông Minh không ngần ngại nói thẳng cho tôi biết rằng theo cái nhìn và quan sát của ông thì các nhân vật chính trị định cư ở hải ngoại không có ai ngoài tôi hiểu biết cộng sản nhờ qua bao nhiêu năm tù đầy và ở lại sống với tụi nó. Cũng theo ông, tôi hội đủ điều kiện và khả năng đấu đá với cộng sản, đặc biệt tôi có thể giúp ông thực hiện mưu đồ đòi lại tự do dân chủ cho dân tộc. Dĩ nhiên tôi đối đáp lại và giải thích rất nhiều về những lời khen tặng quá đáng của ông Ðại Tướng, có lẽ vì tình bạn đối với ông già tôi hay vì muốn tâng bốc để thuyết phục tôi giúp ông thực hiện toan tính của ông.

- Anh biết không anh Triều, thằng Ngô Công Ðức có qua thăm tôi và cho biết Thủ Tướng Võ văn Kiệt mời tôi về nước để chứng tỏ cho đồng bào và thế giới thấy tôi và họ đang thực hiện chủ trương hòa giải dân tộc. Ðó cũng là chính sách mà tôi chủ trương ngày trước. Gần đây bà Nguyễn Phước Ðại cũng có nhắn nhủ lời mời của ông Võ văn Kiệt. Theo ý anh thì thấy như thế nào?

- Thưa Ðại Tướng tôi muốn nói một điều mà chắc sẽ làm mích lòng Ðại Tướng nhiều lắm nên tôi không dám thốt ra.

Ông Minh cứ hỏi và nhấn mạnh rằng ông sẽ không cố chấp dù tôi có nói gì đi nữa. Tôi bèn nói thật: Ðại Tướng là bạn của ba tôi thì tôi cũng ví ông như cha mẹ, nếu tôi nói ra mà ông có giận, có chửi thì tôi cũng coi như nước đổ đầu vịt, cha chửi con là sự bình thường. Vậy tôi xin thưa: “Ông là tượng trưng cho sự thất bại”, cờ đã tới tay bao nhiêu lần mà ông không biết phất. Ðời người không có hai ba cơ hội. Ðại Tướng nghĩ lại xem, đời ông có bao nhiêu lần Trời cho cơ hội? Tôi không muốn nói đoạn chót tháng tư năm 1975. Theo tôi, ông sẽ không làm gì được do tự bản thân ông. Nhưng hiện tại ông có một cái thế . Nếu ông biết cách khai thác cái thế đó thì cộng sản Hà Nội sẽ mệt lắm. Chắc chắn sẽ không phải ông làm cho tụi nó ngã mà ông có thể làm cho tụi nó gặp rất nhiều khó khăn rắc rối. Ðó là tương kế tựu kế ông cứ về nước đi. Về để làm gì thì anh em sẽ cố vấn cho ông nếu ông chịu nghe và dám hành động.

- Anh Triều à, người ta nói “Trâu già không sợ dao phay” tôi năm nay trên tám mươi tuổi rồi còn mong ước gì? Còn sợ gì nữa anh thử nghĩ xem?

Khi bắt tay ra về ông Minh cầm tay tôi thật lâu, có vẻ trầm tư suy nghĩ và nói:

- Anh có thể tạo một équipe để giúp tôi việc đó không?

- Xin Ðại Tướng cho tôi thời gian suy nghĩ.

Trên đường về nhà, tôi gạn hỏi anh Ðài về sự toan tính của ba vợ anh. Về sự suy nghĩ của ông, về sự quyết tâm của ông đến mức độ nào. Anh Ðài không cho tôi thêm được một chút thông tin nào ngoài những gì Ðại Tướng Minh đã thố lộ tâm tình với tôi. Về đến nhà, tâm trạng tôi có chút bàng hoàng, tôi tự hỏi tại sao ông Minh không tìm những người thân cận ông ở nước ngoài như anh Nguyễn Hữu Chung, nếu ông về trong nước thì có Lý Quí Chung cũng là cựu Tổng Trưởng trong chính phủ một ngày rưỡi của ông, Hồ Văn Minh, Ngô Công Ðức, Hồ Ngọc Nhuận, Lý Chánh Trung...( Tôi sẽ đề cập đến những tên tuổi nầy khi tôi bàn về quyển “Hồi Ký Không Tên của Lý Quý Chung). Tại sao ông lại tìm đến tôi. Tôi đem những bàng hoàng suy nghĩ nầy tâm sự với một số bạn bè thân thiết như Bác Sĩ Trần Công Phát, Phó Chủ Tịch hội y sĩ Việt Nam tại Pháp, Nguyễn Anh Tuấn đồng nghiệp của tôi ở radio RFI, Giáo Sư Lê Ðình Thông v.v... Ý kiến của tôi là: Nếu ông Minh về nước, danh nghĩa là sống những ngày tàn của cuộc đới nơi quê cha đất tổ, Cộng sản Hà Nội sẽ lợi dụng rêu rao là chế độ của họ đã cởi mở tối đa. Bằng cớ là một cựu Tổng Thống VNCH cũ mà còn chấp nhận trở về yên sống với chế độ. Nhưng trong khi đó ông Minh cũng có thể tuyên bố những điều mắt thấy tay nghe, một đúng mười sai, một hay mười dở để cho bên ngoài dựa vào đó mà khuếch đại tuyên truyền bất lợi cho cộng sản. Ðiều chắc chắn là bọn chúng không dám bắt bớ giam cầm ông bởi vì chính chúng nó mời về. Cùng lắm là cô lập ông như Tăng Thống Huyền Quang thì lại càng hay hơn nữa, chừng đó có thêm một nạn nhân có tầm cỡ quốc tế. Ðó là chưa kể vài tháng ông xin đi thăm Tăng Thống Huyền Quang, vài tháng ông xin thả Bác Sĩ Nguyễn Ðan Quế, Giáo Sư Ðoàn Viết Hoạt v.v... Những cái gai châm chích trường kỳ vào chế độ. Thiết nghĩ nếu ông Minh làm được thì cũng là một sự góp phần trong việc tranh đấu nhằm thay đổi chế độ độc tài cộng sản Hà Nội.

Về Paris tôi đem chuyện gặp gỡ Ð.T. Dương Văn Minh thuật lại cho một vài anh em nghe. Các anh đưa ý kiến: nên khuyên ông Minh “Tương kế tựu kế”, khai thác cái thế của ông ấy trong giai đoạn hiện tại. Bởi vì bọn cộng sản đang cần “bôi son trét phấn” cho cái bộ mặt tàn bạo, gian ác, độc tài, dốt nát của họ trong giai đoạn mà cộng sản Hà Nội hô hào “Ðổi Mới để sống còn” họ cần chứng minh cho thế giới thấy Việt Nam đang đổi mới chẳng những về kinh tế, khi họ tuyên bố: “mượn kinh tế thị trường để phát triển xã hội chủ nghĩa!...”, về chính trị, họ tìm mọi cách chiêu dụ nhân vật chế độ cũ trở về Việt Nam, hoặc hợp tác, hoặc hồi cư để chứng minh sự đổi mới của Hà Nội là thật, là tốt đến nỗi người của chế độ cũ cũng đồng ý tán thành!...

Nếu ÐT Dương Văn Minh biết lợi dụng hoàn cảnh, khai thác được cái thế chính trị của ông trong giai đoạn nầy, thì sẽ có lợi cho đại cuộc và đồng thời ông cũng hóa giải được phần nào sự phê phán của dư luận về lệnh buông súng đầu hàng của ông ngày 30 Tháng Tư năm 1975.

Sau khi thảo luận với anh em, tôi gặp lại Ð.T. Minh nhiều lần, mỗi lần đều có mặt Ð.Tá Nguyễn Hồng Ðài để xác nhận rằng tôi và một số anh em bằng lòng giúp ông thực hiện kế hoạch đã bàn định. Về Paris tôi lo nghĩ phải mời những ai? Bạn bè thì đông, “tài tử chính trị” có nhiều! Nhưng, người còn nhiệt tình với đất nước, chịu khó suy nghĩ một cách khách quan thì tôi biết ít (mặc dù số người đó có thể đông ở Paris). Cuối cùng tôi quyết định mời các anh chị: B.S. Trần Công Phát, T.S. Lê Ðình Thông. Anh Chị K.S. Lê Như Quốc Khánh, K.S. Lê Văn Song, D.S. Nguyễn Anh Tuấn và Ð.Tá Nguyễn Hồng Ðài (rể D.V. Minh), K.S. Dương Văn Ðức (con D.V. Minh). (Tất cả những anh chị em nầy là nhân chứng sống của cuộc mưu toan lót cầu đưa Việt Nam đến dân chủ nhân quyền của Ð.T. Minh; âm mưu quỉ quyệt của phía cộng sản; sự tham lợi háo danh của người con Dương Văn Ðức đã làm hư việc, đưa đến quyết định hủy bỏ chương trình về nước của Ð.T. Minh).

Rất nhiều phiên họp giữa các anh em và Ð.T. Dương Văn Minh được tổ chức tại nhà tôi, kéo dài cả năm trời, mỗi lần đều có thu băng video và cassette để giữ làm tài liệu khi cần tham khảo những gì đã bàn tính với nhau. Ð.T. Minh xác định sẽ về với con trai là Dương Văn Dức để có người thân bên cạnh trong lúc già yếu bệnh hoạn.

Những cuộc bàn thảo xoay quanh nhiều vấn đề có thể tóm tắt như sau:

Ð.T. Dương văn Minh sẽ lợi dụng tình thế và cơ hội khi ông trở về nước, để gây sự chú ý của dư luận thế giới bên ngoài. Ông là nhân chúng sống để liên lạc, tìm hiểu những vấn đề quan trọng của Việt Nam.

Phương pháp thực hiện là Ð.T. về nước mở một trận “giặc mồm”, nghĩa là bằng những lời tuyên bố của ông, lúc khen lúc chê, lúc yêu cầu, lúc đề nghị, lúc góp ý, lúc khuyên can, nhằm gây khó khăn thậm chí trong một chừng mực nào đó có thể tạo sức ép đối với chế độ. Anh em tiên đoán rằng Việt cộng không dám bắt ông Minh. Tối đa là cô lập hoặc làm cho ông bất mãn đến độ phải tự ý quay trở về Pháp.

Ðiều kiện trở về là nhứt định phải có thơ mời chính thức của nhà nước cộng sản. (mặc dù Ngô Công Ðức và bà Nguyễn Phước Ðại có chuyển lới mời của Võ văn Kiệt rồi). Anh Dương văn Ðức được chỉ định về Việt Nam lấy thơ mời chính thức. Như vậy Việt cộng sẽ “há miệng mắc quai” về sau vì họ đã chính thức mời. Ðây cũng là một sự bảo đảm an toàn cho Ð.T. Minh và anh Ðức trong tương lai. Nếu có thơ mời thì mình phải có thơ phúc đáp chính thức rồi mới về. Nếu phía cộng sản dụ dự chưa chịu mời hay không mời thì mình chờ xem diễn biến như thế nào.

Nếu chưa có điều kiện thuận lợi để trở về thì ngay bây giờ ở tại Pháp ông Ð.T. nên đưa ra những lời Tuyên bố có lợi cho đất nước, đúng với tâm tư đa số người Việt, hợp với chủ trương của các nước Tây phương. Với sự kiện đó, thời gian sẽ biến dần hình ảnh của ông thành con người của thời cuộc.

Ðặt cơ sở liên lạc thật chặt chẽ giữa những người thân ở Pháp - Việt Nam - Mỹ.

Tìm một hoặc nhiều người, ngoài anh D.V. Ðức, có khả năng đi đi về về Việt Nam khi cần liên lạc bên trong với bên ngoài. Thành lập nhiều nhóm trong nước, do người tin cậy đứng đầu. Những người nầy phải thuộc hạng gan lì. Nếu đổ bể phải một mình chịu đựng và gánh trách nhiệm.

Tìm những sĩ quan đàn em, thân cận của Ð.T. Minh ngày xưa còn lưu lại trong nước hoặc đang ở nước ngoài, sẵn sàng tiếp tay với ông trong cuộc vận động nầy.

Ðặc biệt chú trọng đến giới sinh viên học sinh và giáo sư trẻ. Chỉ có thanh niên mới có đầy đủ nhiệt quyết và can đảm “đội đá vá trời”

Khi nào chưa tìm được người đồng tình dấn thân thì ngồi yên chờ cơ hội. Nên nhớ rằng “tình báo nhân dân” của cộng sản hơn ta gắp bội phần. Có khi chính tụi nó gài , cho người tự nguyện hoạt động hăng sai với mình để biết rõ kế hoạch mình đang làm gì? Với ai? Và khi cần sẽ hốt trọn ổ. Khi mới chiếm miền Nam bọn chúng áp dụng phương pháp nầy để bắt hàng ngàn người chống cộng.

Giặc mồm: Ð.T. Minh phải tuyên bố hòa hợp là chính sách của nhà nước nhưng muốn có được sự hòa hợp thì trước tiên phải có sự hòa giải. Chính sách hòa hợp của nhà nước còn thiếu nhiều điều kiện để cho dân chúng Việt Nam trong và ngoài nước hưởng ứng. Chúng ta không thể hợp tác xây dựng lại quê hương khi mà trong lòng người còn giữ sự nghi kỵ, căm thù, tức hận lẫn nhau.

Hòa giải là kẻ nào đã phạm sai lầm phải công khai nhìn nhận với quần chúng. Sau đó mới đề nghị xóa bỏ quá khứ để hướng về tương lai.

Hòa giải hòa hợp không thể thực hiện một chiều. Nghĩa là thuận theo ý kiến và điều kiện của phe nhóm bên nầy hay bên kia. Muốn hòa giải nhà nước đương quyền phải thả hết những người tù thuộc chế độ cũ và những người vì bất đồng chính kiến với nhà cầm quyền mà bị bắt bớ giam cầm. Phải có một đạo luật về hỏa giải hòa hợp dân tộc qui định rõ ràng nguyên tắc... hình phạt... cấm đoán trả thù... phân biệt đối xử.. v.v.. Tối thiểu phải mở rộng dân chủ để cho mọi công dân tự thấy có quyền và bổn phận tham gia việc nước.

Ý nghĩa của hai chữ “Dân Chủ” phải hiểu theo nghĩa khoa học được toàn thế giới chấp nhận chớ không thể hiểu một trìu theo nghĩa méo mó có dụng ý của cộng sản. Nói tóm gọn: quốc gia không thể phát triển nếu không có sự cởi mở tối thiểu về chính trị. Quốc gia không thể phát triển theo độc quyền chỉ đạo của đảng cộng sản.

Về Tôn giáo: Tôn giáo là dân tộc. Người Việt Nam vốn là hữu thần. Ð.T. phải khéo léo hỗ trợ các tôn giáo trong hành động và qua lời tuyên bố mỗi khi có cơ hội. Mình phải vận động để các tôn giáo mời Ð.T. tham dự những ngày lễ lớn của họ. Luôn luôn tuyên bố trong những cơ hội đó “Dân tộc Việt Nam là một dân tộc hữu thần”. Chùa chiền, nhà thờ, thánh that, đình miếu ở khấp nơi trong xứ đủ chứng minh điều đó. Làm sao cho quần chúng thấy ngay sự đối kháng giữa dân tộc hữu thần và cộng sản vô thần. Ð.T. phải lợi dụng mọi cơ hội để thăm viếng những vị lãnh đạo tôn giáo.

Về Kinh Tế: Sẽ thành lập một nhóm anh em chuyên viên kinh tế nghiên cứu những sai lầm của Hà Nội và đường hướng đứng đắn để phát triển đất nước. Ð.T. có thể thường xuyên tuyên bố về luật đầu tư, về điều kiện dễ giải nhầm thu hút vốn đầu tư quốc tế, về chất xám và nguồn tài chánh của cộng đồng người Việt hải ngoai v.v...

Ðặc biệt lưu ý đến điều kiện sinh sống của thương phế binh và các chiến hữu vô phúc còn kẹt lại trong nước. Mục đích chính là không khiêu khích, không đối đầu mà uốn theo tình thế, để tạo một cái gai không thể nhổ ra được, một cụm tế bào ung thư không bao giờ lành, bằng cách thường xuyên xin viếng thăm Hòa Thượng Thích Huyền Quang, Thích Quảng Ðộ... Xin chính quyền trả tự do cho BS Nguyễn Ðan Quế, GS Ðoàn Viết Hoạt hiện còn bị cầm tù... Với những lời tuyên bố, viếng thăm, can thiệp, yêu cầu, khuyên giải, thường xuyên sẽ kết lại thành một bản cáo trạng nhẹ nhàng êm ấm nhưng có tầm ảnh hưởng tai hại cho Hà nội.

Trước khi anh D.V. Ðức về lần thứ nhứt, đại diện cho Ð.T. Dương Văn Minh, sẽ gặp Thủ Tướng Võ Văn Kiệt có hẹn trước, chúng tôi họp bàn về chuyến đi nầy. Mục đích là anh Ðức phải đích thân gặp Thủ Tướng Võ Văn Kiệt để lấy thư mời. Hỏi những câu thông thường về điều kiện sinh sống tự do tại Saigon, nếu ông Ð.T. bằng lòng về nước. Ð.T. có tự do nhập cảnh và xuất ngoại dễ dàng không? Có quyền đi lại tiếp xúc với bạn bè thân hữu không? v.v... Tóm lại anh Ðức phải nghe nhiều hơn nói và nhiệm vụ của anh là phải ghi nhớ thật chính xác những gì ông Kiệt phát biểu và trở về Paris tường thuật lại nguyên văn, chi tiết, cho anh em nghe để anh em đoán hiểu ý đồ của chính quyền Hà Nội như thế nào?


Gợi ý cho Dương Văn Ðức phòng khi bị Võ Văn Kiệt hỏi vặn

Ngoài ra anh em cũng có dự trù những câu hỏi mà Thủ Tướng Võ Văn Kiệt có thể hỏi lại anh Ðức nên đã đặt giả thuyết những câu hỏi phòng bị và trả lời viết rõ ra như sau:

H- Về đến Việt Nam nếu chính phủ mời ông Ð.T. tham gia Mặt trận tổ quốc thì Ð.T. có vui lòng chấp nhận không?

TL- Tôi không biết được ý kiến của ba tôi như thế nào? Nhưng theo tôi nghĩ thì MTTQ là cơ quan của đảng và nhà nước, ở vị thế của ba chắc ba nên đứng độc lập ngoài các cơ quan của đảng và nhà nước, như vậy ba có thể giúp ích cho xứ sở nhiều hơn chăng? Bằng những lời tuyên bố hướng về phía người ngoại quốc hay đồng bào Việt nam.

H: Ð.T. có còn ý định gián tiếp hay trực tiếp tham gia sinh hoạt chính trị không?

T.L: Con người Dương văn Minh là con người chính trị, do hai lần đứng đầu lãnh đạo Miền Nam trong những trường hợp rất đặc biệt, nhứt là lần thứ hai ngày 30-4-75. Vì vậy bất cứ một hành động, một cữ chỉ, một lời nói nào của Dương Văn Minh người ta cũng có thể gán cho nó một ý nghĩa chính trị. Ðó là điều không thể tránh được. Thí vụ như việc trở về Việt Nam của Dương Văn Minh sẽ có người xem đó là điều có lợi cho chế độ Hà Nội.

H: Ð.T. có còn giữ những mối liên hệ với các chính phủ nước ngoài không?

T.L: Tôi không có hỏi ba tôi về vấn đề nầy, nhưng theo tôi nghĩ thì sau ngày 30-4-1975 mọi sự liên hệ trở thành vô ích và vô nghĩa. Tuy nhiên nếu muốn liên hệ lại, chắc là điều không khó.

H: Nếu nhà nước muốn nhờ ba liên lạc với một chính phủ nước nào đó để đặt một vấn đề gì đó có lợi cho quốc gia thì ba có sẵn lòng không?

T.L: Tôi nghĩ rằng trên nguyên tắc chắc ba sẽ không từ chối, nhưng cái đó phải tùy xem vấn đề gì và với mục đích nào?

H: Ông Ð. T. ở Pháp thường hay liên lạc với những ai?

T.L: Hiện ba đang ở với người em của tôi ở ngoại ô thành phố Paris, nên chắc ít có người tới lui thường vả lại ba cũng không muốn tiếp xúc với nhiều người nữa. Tuy nhiên với một quá khứ như của ba thì sự quen biết và bạn bè tương đối khá đông và rất rộng rãi, vì vậy cũng có một số người, kể cả ở Mỹ hay Canada có qua Pháp thăm ba (như Nguyễn Hữu Chung, Tôn Thất Thiện... ở Paris như Lâm ngọc Diệp, Trần công Phát... Nếu họ có hỏi thêm thì giả vờ suy nghĩ rồi nói là không để ý đến khách của ba và vì không có ở chung một nhà nên không biết... Câu nầy không khi nào họ dám hỏi trực tiếp ông Ð.T. vì vậy chắc họ sẽ tìm hiểu thông qua anh Ðức...)

H: Ở Pháp Ð.T. sống bằng cách nào? (câu nầy chắc họ cũng không dám trực tiếp hỏi ông Ð.T., nhưng chắc chắn họ phải tìm hiểu bởi vì nó có tác dụng đối với họ về sau... (cung phụng vật chất để lấy lòng v.v...)

T.L: Ba tôi sống bằng tiền trợ cấp xã hội của Pháp như mọi người già hưu trí. Ngoài ra anh chị em chúng tôi cũng đống góp đủ cho ba sống dư giả trong tuổi già.

H: Nếu có về Việt Nam thì Ð.T. dự tính chừng nào về?

T.L: Khi nào ba thấy thuận tiện thì về, tôi chưa nghe ba nói khi nào?

H: Ð.T. có thường liên lạc với những thân hữu ngày xưa mà hiện nay còn ở lại Việt Nam không?

T.L: Anh Ðức nên nói tất cả sự thật nếu Ð.T. có liên hệ với bất cứ ai? Bởi vỉ họ đã biết rõ và biết lâu rồi. Anh nói ra sự thật có lợi điểm là ngăn chận và lật tẩy được những người lợi dụng danh nghĩa của ông Ð.T. để buôn thần bán thánh.

H: Về Sài gòn Ð.T. có dự tính đi đâu không?

T.L: Tôi không nghe ba nói sẽ đi đâu, nhưng chắc cũng đi du ngoạn một vài nơi trong nước và đi thăm bà con thân hữu chỗ nầy chỗ khác.

H: Theo anh ông Ð.T. có thể làm gì trong hiện tại để góp phần xây dựng quê hương?

T.L: Câu nầy xin quí vị trực tiếp hỏi ba tôi, bởi lẽ chỉ có ba mới có tư cách và thẩm quyền trả lời mà thôi.

Anh Dương Văn Ðức về Việt nam lần thứ nhứt có gặp Thủ Tướng Võ Văn Kiệt. Không có thơ mời chính thức. Nhưng theo anh Ðức nói lại thì chờ lần sau, khi Ð.T. xác nhận ý định sẽ về Việt Nam. Anh Ðức thực sự có tường trình tương đối đầy đủ những gì hai bên trao đổi. (V.L.T)

Theo sự tường trình của anh Ðức thì Võ Văn Kiệt chỉ hỏi về sức khỏe của Ð.T? Thường liên lạc với ai? Chừng nào về? Có liên lạc với những thân hữu trong nước không? Vấn đề quan trọng được xoay quanh là chừng nào về để nhà nước chuẩn bị chỗ ở. Ð. T. về sẽ ở lại “Dinh Hoa Lan”.

Anh em có đặc biệt lưu ý anh Ðức là về lần thứ hai nầy phải dứt khoát đặt vấn đề thơ mời và nói rỏ ông Ðại Tướng không thể đương nhiên trở về nước được nếu không có một thơ mời chính thức. Và cũng như lần trước anh em có đặt một số câu hỏi mà anh Ðức có nhiệm vụ phải tìm hiểu ý đồ của phía công sản, Những câu hỏi đó là:

- Thủ Tướng khuyên ba tôi về ở yên dưỡng già chờ chết hay nên có những cử chỉ hành động gì có thể đóng góp cho đại cuộc?

- Trong điều kiện nào sự trở về của ba tôi có thể góp phần cho công cuộc đổi mới, hòa giải hòa hợp dân tộc để phát triển đất nước?

- Các vị lãnh đạo của đảng và nhà nước có biểu đồng tình với thủ tướng về việc mời ba tôi về không?

- Thủ Tướng thấy tôi có nên nhân danh ba tôi để đi viếng thăm xã giao các vị Tổng bí Thư và Chủ Tịch Nhà Nước không?

- Tình hình đất nước có thể nào đi đến cởi mở hơn, dân chủ hơn không?

- Ba tôi có thể làm gì để giúp cho qua trình tự do dân chủ thiến nhanh và thành công không?

- Báo chí ở hải ngoại loan tin Thủ tướng đang gặp nhiều khó khăn nội bộ có đúng không?

- Chừng nào Thủ Tướng mới có thư chính thức mời ba về? Ba tôi không thể tự nhiên trở về vô điều kiện như vậy. Ðiều nầy Thủ Tướng cũng thừa biết vậy rồi?

Anh Dương Văn Ðức trở lại Paris sau lần về Việt Nam thứ hai. Anh em hợp đông đủ cùng với ông Ð.T. và con là Ðức và Rể là Ð.Tá Ðài. Anh Ðức báo cáo là không có gặp Võ Văn Kiệt chỉ gặp được chánh văn phòng của ông Kiệt mà thôi. Những điều ông chánh văn phòng nầy nhắn lại đáng được ghi nhớ là:

- Sẽ có thơ mời Ð.T. sau.

- Ðang sửa chữa “Dinh Hoa Lan” để tiếp đón Ð. T. trở về.

- Ðiều kiện sinh sống và đi lại sẽ dễ dãi.

- ”Dinh Hoa Lan” hoàn toàn thuộc về sở hữu riêng của Ð.T. bởi vì chính phủ Ngô Ðình Diệm đã bán cho ông Minh với giá một đồng bạc danh dự rồi.

- Sẽ mời anh Dương Văn Ðức giữ một chức vụ Giám Ðốc gì đó trong bộ ngoại giao.

Anh em nhận định: nếu Cộng Sản Hà Nội chịu để cho Ð.T. tự do sinh hoạt, đi lại bình thường thì có thể xoay trở để thực hiện mục tiêu như đã định.

Vấn đề chính phủ đã bán Dinh Hoa Lan cho ông Minh làm ông Ð.T. cười ngất. Ai cũng thấy ngạc nhiên vì mọi người hiểu rằng một “nhà chức vụ” (maison de fonction) là của nhà nước không thể bán cho tư nhân dễ dàng như vậy. Nếu muốn bán thì phải qua một cuộc đấu giá công khai, ai cũng có quyền mua được. Loại nhà nầy dành riêng cho người có chức quyền tương xứng. Khi rời nhiệm sở phải trả nhà lại cho người kế vị. Trường hợp Dương Văn Minh, chức Tướng là mang suốt đời, nhưng nhà nầy được cấp cho ông là khi ông giữ chức Cố Vấn Quân Sự cho Tổng Thống Ngô Ðình Diệm. Sau ngày đảo chánh ông Diệm, Tướng Minh là chủ Tịch Hội Ðồng Quân Nhân Cách Mạng. Và về sau vì nể nang và kính trọng quá khứ của Ð.T. Minh nên không một chính phủ nào đòi nhà lại để cấp cho người khác.

Dù vậy nếu một khi ông Minh qua đời thì gia đình ông phải dọn ra, trả nhà lại cho chính phủ. Cộng Sản Hà Nội không biết gì về thể lệ hành chánh của chế độ Việt Nam Cộng Hòa nên bày ra trò gian dối nầy để dụ dỗ lòng tham của ông Ð.T. Bởi vì cái Dinh Hoa Lan rộng lớn mênh mông ở giữa thủ Ðô Sài Gòn giá bán hiện tại cũng phải hàng chục triệu đô la. Còn việc mời Dương Văn Ðức làm Giám Ðốc lại càng rõ ràng là một sự dụ dỗ và lợi dụng tiếng tăm.

Ðiều đáng tiếc là anh Dương Văn Ðức không nói hết sự thật. Trước mặt anh em và cha của anh là Ð.T. Minh, anh dấu việc đã gặp riêng Thủ Tướng Kiệt. Và ông nầy đã hứa giúp anh Ðức làm ăn bằng cách để cho anh độc quyền mua bán và cung cấp máy vi tính cho các cơ quan nhà nước cộng sản. Một mối lợi hàng triệu đô la. Và còn những gì bí ẩn khác mà anh Ðức không nói ra, kể cả với người cha của anh. Bắt đầu từ đó anh Ðức mở những cuộc hợp riêng với một vài anh em trẻ trong nhóm như k.s. Lê Như Quốc Khánh, k.s. Lê Văn Song và bạn bè khác. Anh Ðức thố lộ với những người bạn nầy là sự thật anh có gặp Võ Văn Kiệt. Các anh ấy bàn với nhau việc làm ăn mua bám máy vi tính cho chính quyền Hà Nội. Một hôm anh Song thố lộ với tôi là thấy chuyện bất ổn, vì anh Ðức không thành thật, không thể tin cậy được.

Sau khi biết được sự thật nguy hại như vậy tôi liền gặp riêng Ð.T. Minh đặt vấn đề. Không thể tin cậy và để anh Ðức tiêu lòn như vậy được. Ông Minh tức giận tột cùng, thốt ra những lời nặng nhẹ đối với người con mà ông nghĩ rằng sẽ trông cậy vào tuổi già yếu một khi trở về Việt Nam. Ông than thở nhiều. Trong buổi gặp mặt khá lâu nầy có thu băng đầy đủ. (Mỗi lần gặp chung ở nhà tôi thì thu video cassette còn gặp riêng thì ghi âm máy cassette của nhà báo). Hai câu nói của ông Minh làm tôi phải ghi nhớ mãi là: “ il devient dangeureux celui là” (tạm dịch: Thằng nầy trở thành nguy hiểm)

- Mà anh Triều, anh có biết dangeureux (nguy hiểm) là cái gì không?

- Trời ơi! Tội nghiệp quá Ð.T! Ông quên rằng tôi đã học ở Pháp 10 năm và đã tốt nghiệp đại học ở đây sao? Vì cơn giận còn tiếp, nên tôi trả lời như vậy ông cũng chưa nhận ra là mình nói hớ. Ông không cười, không để ý, cứ tiếp tục.

- Hèn gì chị hai của nó nói với tôi: “Ba coi chừng thằng Ðức nó bán ba nó ăn à”!

Ðại Tướng Minh và tôi đặt lại toàn bộ vấn đề. Tôi hơi bối rối, ông Minh buồn và chán nản. Vấn đề đặt ra là ai sẽ đi về Việt Nam với ông? Nếu Dương Văn Ðức cứ tiếp tục đi đêm vì lợi ích cá nhân thì một lần nữa tên tuổi của Dương Văn Minh sẽ vùi trong bùn và lần nầy ông thật sự đắc tội với lịch sử vì đã tiếp tay đánh bóng cho chế độ cộng sản độc tài gian ác.

Ðột nhiên ông Minh nói:

- Anh Triều nếu anh chịu về với tôi thì ngày mai tôi về liền. Anh cùng sống cùng ở với tôi. Tôi sống anh sống tôi chết anh chết”.

- Ð.T. à, không phải tôi sợ chết mà không dám về với ông. Thử nghĩ tôi về Việt Nam với ông, ai ở ngoài tiếp tay làm ống loa cho ông? Năm 1991 khi Cộng Sản bị buộc phải cấp chiếu khán cho tôi xuất xứ thì anh thiếu tá công an tên Thắng nói với tôi là cấp trên của anh ta nói rằng thả Võ Long Triều ra nước ngoài là thả cọp về rừng. Câu nói đó sai 100%, nhưng tôi trở về trong điều kiện nầy thì không bị “xe cán” cũng phải ăn trúng độc phẩm mà chết oan uổng. Ð.T. nghĩ xem có đúng không?

Ông Minh lặng thinh buồn bã. Trong biết bao nhiêu lần gặp gỡ tôi chưa khi nào thấy ông buồn chán như vậy. Mọi chuyện đang tiến hành như anh em sắp xếp, đột nhiên bây giờ phải ngừng lại, giậm chân tại chỗ vì ông Minh và tôi chưa biết ai phải cùng về với ông và làm sao ngăn cản được sự háo danh ham lợi của đứa con bất hiếu toan tính bán cha cầu lợi.

Mãi cho đến khi tôi phải sang Mỹ thăm gia đình ở San Jose, bất ngờ tôi nhận được fax từ Paris và thấy báo chí loan tin bài phỏng vấn của ông Minh đăng trên Nguyệt San Nhân Bản của Tổng Hội Sinh Viên Việt Nam ở Pháp đại ý như sau:

- Tại sao phải về?

- Tôi muốn sống những ngày cuối cùng trên đất nước với dân tộc của mình.

- Về để làm gì?

- Với tuổi nầy tôi chẳng còn tham vọng gì cả, tôi muốn thấy tự do và hòa bình dân tộc trên đất nước Việt Nam, điều nầy ai cũng đề cập liên miên, người thì thấy theo kiểu nầy, người thì thấy theo kiểu khác, bây giờ tôi muốn tự tôi thấy.

- Sau ngày 30 Tháng Tư ông có thấy làm việc với cộng sản được không?

- Tôi không thấy chỗ nào để hợp tác được, có lẽ đầu óc họ có muốn thân thiện với tôi, cái đó tôi không xét đón được. Tôi từ chối mọi thuyết phục thân thiện vì tôi không còn tinh thần nữa.

- Vậy thì bây giờ có những thay đổi gì để ông nhận xét phải về?

- Bây giờ, tôi làm được cái gì để giúp cho dân có thêm được dân chủ và tự do thì làm. Tôi không hợp tác, nhưng tôi sẽ đem tiếng nói của tôi để thuyết phục bên kia tại quê nhà. Vì thế tôi mới về. Tôi biết người dân trong nước cũng quan tâm đến tụ do dân chủ.

(trích nguyệt san Nhân Bản số đặc biệt 30-4-1997, trên đây là nguyên văn một số những đoạn hỏi và trả lời)

Sau lần gặp gỡ đầu tiên với Dương Văn Ðức Hà Nội bắt đầu chiến dịch bôi lọ nhằm tách rời hoàn toàn Ðương Văn Minh và Cộng đồng quốc gia Việt Nam Cộng Hòa. Báo Tuổi Trẻ phát hành tại Sài Gòn ngày chủ nhật 1 tháng 9 năm 1996 viết rằng sau khi vượt Trường Sơn Thiếu Tá Việt Công Dương Văn Nhựt, tức mười Ty, được lệnh của ban binh vận Trung Ương Cục phải quan hệ và tranh thủ người anh là Dương Văn Minh, đã bị thất sủng thời chính phủ Ngô Ðình Diệm. Theo báo Tuổi Trẻ thì Dương Văn Nhựt có tiếp xúc với Dương Văn Minh và ở trong nhà ông Minh một tuần lễ, có đi ra nước ngoài để tiếp xúc với anh mình. Theo lời tâm tình của Ð.T. Minh nói với tôi “Nó có về thăm bà già một lần mà nó có dám gặp tôi đâu! Thời kỳ thương thuyết hiệp định Paris nó có qua Paris gặp thằng Ðức một lần, chỉ có vậy thôi”.

Hãng thông tấn AFP loan tin ngày 4 tháng Mười Hai năm 1996 rằng: phát ngôn viên bộ ngoại giao thông báo: “Le gouvernement a accepté la requête de Duong Van Minh de rentrer au Viet Nam” (tam dịch: chính phủ đã chấp nhận lời thỉnh cầu của Dương Văn Minh xin trở về Việt Nam).

Trước những sự kiện nêu trên tôi hiểu rằng Dương Văn Ðức muốn lợi dụng thế chính trị của cha mình, đi đêm với Việt cộng nhằm mục đích trục lợi cho cá nhân. Nói nôm na như chị của anh ta lưu ý ông Minh là thằng Ðức nó bán ba nó ăn!

Về tới Paris tôi nói chuyện nhiều lần với ông Minh bằng điện thoại và gởi cho ông một văn thơ nguyên văn như sau:

 

Paris ngày 10 Tháng Năm năm 1997

Kính thưa Ðại Tướng,

Hôm tôi còn ở bên Mỹ, bận sắp xếp một số công việc về truyền thông báo chí và những hoạt động thông thường, tôi nhận được fax từ Paris gởi bài phỏng vấn của Ðại Tướng đăng trên báo Nhân Bản. Tôi có một vài nhận xét về vấn đề nầy xin viết ra đây. Ðồng thời tôi cũng mới viết một bài phân tích về việc hồi hương của Ðại Tướng sẽ đăng trên các báo Người Việt, Ðông Phương (ở Orange County), Thời Luận (Los Angeles), Quê Hương, Thị Trường Tự Do, Việt Nam Nhật Báo (San Jose) Ði Tới, Kinh tế Thị Trường (Canada) Thông Luận (Paris). Tôi gởi tất cả những bài báo nói về vấn đề nầy cho Ð.T. xem trước để thứ năm mình gặp nói chuyện đỡ mất thì giờ hơn. Hẹn sẻ gặp Ð.T. thứ năm 15-5-97 khoản 10 giờ như đã hẹn.

Sau đây là một vài nhận xét của tôi:

Lời Tuyên bố chỉ phổ biến trên Nguyệt San Nhân Bản không mà thôi, tỏ vẻ mình hoạt động theo kiểu “cò con”, không huy động được giới truyền thông báo chí trước một vần đề trọng đại như vậy. Ðáng lẽ phải là một cuộc hợp báo long trọng, minh định lập trường chính trị một cách rõ ràng. Tiếc rằng trong bài phỏng vấn không nêu rõ những điều đó.

Cộng Sản Hà Nội có thể coi thường và tưởng mình cô đơn không nắm chính nghĩa.

Quá khứ cũng như hiện tại, dư luận quần chúng trong và ngoài nước đã và đang lên án gắt gao sự hòa giải với Việt cộng vì lý do bản chất của cộng sản là lừa đảo. Ngoài mặt Cộng Sản hòa giải, bên trong ộng Sản muốn mình đầu hàng, qui phục và tìm mọi cách để gài mình vào cái thế đó. Ðối với đa số người Việt hiện nay, Hòa Giải là tiếp tay, là đầu hàng cộng sản. Vì vậy Ð.T. cần phải minh định rõ ràng lập trường về hòa giải bằng một bản văn. Chỉ có trong điều kiện đó Ð.T. mới hy vọng có sự ủng hộ của đồng bào trong và ngoài nước để thực hiên tự do và dân chủ. Tất cả vấn đề nầy chúng ta chủ trương ngay từ lúc ban đầu. Tiếc rằng không được áp dụng đúng như đã định. Trên nguyên tắc như chúng ta đã định, Ð.T. lên máy bay rồi thì bên nây mới tung ra lời tuyên bố đó hoặc hợp báo trước khi lên máy bay. Việt cộng sẽ không còn ngăn chận, sửa đổi gì được nữa.

Dù sao thì cũng chưa phải muộn lắm. Nếu Ð.T. còn giữ những ý định lúc ban đầu, như Ð.T. đã xác nhận khi gặp tôi, trước khi tôi đi Mỹ, là Ð.T. không hề thay đổi lập trường, nếu là như vậy, mình còn có cách sắp xếp lại gián bài nầy theo kiểu cách khác.

Trước khi đi Mỹ tôi có hứa sẽ thảo giùm cho Ð.T. lời tuyên bố về chủ trương hòa giải hòa hợp dân tộc. Nay chắc không còn cần nữa. Nhưng dù sao tôi cũng tóm tắt lại đây những ý chính mà chúng mình đã thảo luận nhiều lần và đã đồng ý với nhau. Nó có thể giúp cho Ð.T. trong những lần khác nếu thật sự Ð.T. chưa thay đổi lập trường.

Một vài ý kiến về hòa giải:

Tại sao phải hòa giải? Tại vì không những chỉ có đối lập về ý thức hệ mà thôi, còn bao nhiêu hận thù chồng chất, vì nhà tan cửa nát, gia đình phân ly.

Trong tình cảnh đó Hà Nội không thể nào kêu gọi suông: hòa hợp để xây dựng được. Phải nhìn nhận có những sai lầm và tỏ một vài thiện chí sửa sai có ý nghĩa.

Cộng sản Hà Nội chỉ có một mục tiêu: Xây dựng đảng cộng sản và nắm độc quyền cai trị đất nước Việt Nam. Họ xem quyền lợi của đảng Cộng Sản là trên hết. Quyền lợi quốc gia dân tộc là vô nghĩa hoặc thứ yếu.

Hòa Giải Hòa Hợp không có nghĩa là qui hàng, chấp thuận phục vụ chính quyền Cộng Sản theo sự lãnh đạo độc tài của đảng. Hòa hợp nghĩa là hợp tác trong sư hài hòa, hợp tác để xây dựng lại tổ quốc chớ không phải xây dựng đảng Cộng Sản phục vụ cho Liên Sô, Trung Quốc và quốc tế cộng sản.

Trân trọng kính chào Ð.T.

Sau khi gặp Ð.T.Dương Văn Minh, thảo luận khá nhiều về những sai sót lầm lẫn của DV Ðức gây ra. Ông Minh có yêu cầu tôi gặp riêng DV Ðức để đặt vấn đề cho hợp lý chiếu theo những sự bàn thảo và quyết định của ông Ð.T. và số anh em đã từng hợp bàn với ông. Tôi gởi cho anh Ðức một văn thư như sau:

Paris ngày 15 tháng 5 năm 1997

Anh Ðức thân,

Sau chuyến đi Hoa Kỳ trở về, sáng ngày hôm nay tôi có tới thăm ông Ð.T. và ăn cơm trưa chơi với ông. Tôi có thuật cho ông nghe phản ứng của giới truyền thông bên đó, Ðài phát thanh phanh phui những ngày cuối cùng của Việt Nam Cộng Hòa với những nhân chứng đã từng gặp ông Ð.T. trong giai đoạn chót. Tương đối bất lợi. Ð.T. và tôi Trao đổi nhiều ý kiến liên quan đến vấn đề chính trị và việc hồi hương của ông.

Ð.T. xác nhận với tôi một lần nữa là ông không hề thay đổi lập trường, ông cùng với tôi ôn lại những ý kiến, những dự định mình đã từng toan tính và thảo luận với nhau từ mấy năm qua cho tới ngày nay vì đại cuộc và vì cảm tình với Ð.T. tôi có hứa viết giùm cho ông bản thông cáo minh định lập trường chính trị để ông nghiên cứu và phổ biến khi cần.

Trong thâm tình, xem nhau như người cùng một gia đình, Ð.T. có yêu cầu tôi gặp anh để bàn thảo về một số vấn đề có liên hệ trực tiếp về việc hồi hương của ông trong tương lai.

Tôi có điện thoại cho anh hồi chiều nầy khi về tới nhà lúc 3 giờ 45 mà không gặp, vậy hân hạnh mời anh đến nhà tôi chơi, chúng mình cùng ăn bữa cơm đạm bạc như thường lệ để thảo luận về những vấn đề quan trọng mà Ð.T. yêu cầu mình nghiên cứu. Xin anh vui lòng thông báo cho tôi biết ngày giờ nào thuận tiện cho anh.

Thân mến chào và chúc anh nhiều may mắn.

Bản sao kính gởi:

Ðại Tướng Dương Văn Minh để tường.

Dương Văn Ðức không hề hồi âm và tôi quyết đoán là anh ta đã ăn phải bả của Việt Cộng rồi, sẵn sàng bán cha cầu vinh. Tôi quyết định chấm dứt mọi hoạt động và liên hệ trong vụ này. Vì vậy tôi viết bức thư cuối cùng cho Dương Văn Minh với sự tiếc rẻ và lòng buồn bã thương tâm đối với một nhân vật có tiếng tâm, có tư thế, còn muốn cống hiến một cái gì đó cho đất nước.



Paris ngày 23 Tháng Mười Hai năm 1997

Kính thưa Ðại Tướng,

Cách đây 3 năm khi Ðại Tướng nhờ Ð.Tá Nguyễn Hồng Ðài đến gặp tôi để dàn xếp cuộc tiếp xúc giữa Ðại Tướng và tôi ngõ hầu chúng ta có thể trao đổi ý kiến về tình hình chính trị ở Việt Nam tôi sẵn lòng đáp ứng. Ðại Tướng và tôi đã bàn thảo, xác định lập trường là hòa giải hòa họp dân tộc có điều kiện, hợp tình hợp lý đối với cả đôi bên, hợp với quyền lợi của dân tộc để xây dựng đất nước trong sự hài hòa. Chúng ta không chấp nhận hòa giải trong gian dối, lừa đảo như cộng sản đã tuyên truyền và hành động.

Mục đích của chúng ta là tiến tới một chế độ dân chủ trong đó nhân quyền phải được tôn trọng.

Phương thức hành động là qua sự hiện diện của Ðại Tướng ở trong nước, qua những lời phát biểu, và nhận định, sự góp ý một cách xây dựng của Ðại Tướng về tình hình kinh tế chính trị và xã hội của Việt Nam. Chiếu hoàn cảnh và giai đoạn hiện tại, vị thế chính trị của một nhân vật như Ðại Tướng có đủ sức nặng để ảnh hưởng đến tình hình đất nước nếu Ðại Tướng biết vận dụng mọi khả năng và cơ hội.

Nói tóm lại bằng mọi cách, ôn hòa và bất bạo động, nhưng Ðại Tướng phải kiên trì và can đảm đương đầu với chính quyền cộng sản để tạo ảnh hưởng mình muốn có, mở đường cho Việt Nam đi đến tự do dân chủ và tôn trọng nhân quyền.

Ngoài ra, Ðại Tướng có tỏ ý muốn nhờ một số anh em góp phần bàn thảo về những vấn đề nói trên. Trong tinh thần đó, một số anh em đã tiếp xúc nhiều lần với Ðại Tướng tại nhà tôi và đã nhiệt tình đóng góp ý kiến, đặt giả thuyết, đề ra kế hoạch hành động và sẵn sàng giúp Ðại Tướng thành công trong ý nguyện tốt đẹp này.

Gần đây sau hai lần anh Dương Văn Ðức- người con sẽ cùng về với Ðại Tướng và có nhiệm vụ giúp Ðại Tướng thực hiện ý định nêu trên- đã về Việt Nam xem xét tình hình với mục đích tạo điều kiện thuận lợi cho Ðại Tướng về nước. Sau khi trở lại Paris lần thứ hai, qua nhũng sự trình bày của anh Ðức, với những dự định và mưu tính riêng tư của anh ấy, chúng tôi nhận thấy mục tiêu chính trị đã được bàn thảo xưa nay, với sự đồng ý hoàn toàn của Ðại Tướng đã biến mất. Nhường chỗ cho ý định kinh tài và hợp tác nhờ sự trở về của Ðại Tướng và sự hứa hẹn giúp đỡ của chính quyền cộng sản. Thực tế chắc sẽ không dễ dàng như vậy, nhưng chúng tôi không muốn lạm bàn về việc nầy vì nó hoàn toàn trái ngược với những điều Ðại Tướng và chúng tôi chủ trương.

Ngoài ra những lời nói, cử chỉ và hành động của anh Ðức có thể cho phép chính quyền cộng sản hiểu khác nên mới có những bài báo, lời tuyên bố của bộ ngoại giao Việt Nam, gây hiểu lầm phương hại đến thanh danh của Ðại Tướng, đến mục đích và chương trình đã định.

Những sự kiện đó cho thấy sự trở về nước của Ðại Tướng rất bất lợi cho danh dự của cá nhân Ðại Tướng và một phần nào đó, trong một chừng mực nào đó, bất lợi cho danh dự chung của những thành phần thuộc chế độ VNCH cũ đang đối kháng với cộng sản. Ðồng thời cũng ảnh hưởng xấu cho công cuộc vận động xóa bỏ chế độ độc tài độc đảng mà toàn dân đang nỗ lực.

Trong tinh thần và với ý nghĩ đó tôi thành khẩn khuyên Ðại Tướng nên hủy bỏ ý định trở về Việt Nam trong điều kiện hiện tại, hay ít ra đình hoãn sự trở về cho đến khi nào mình tạo được tình thế thuận lợi theo chiều hướng mà Ðại Tướng đã cùng bàn thảo trước đây với anh em.

Nếu Ðại Tướng vẫn giữ nguyên ý định trở về ngay, trong những điều kiện hiện tại, chúng tôi xét thấy sự đóng góp của chúng tôi không còn cần thiết nữa. Vậy trân trọng xin Ðại Tướng ghi nhận sự khác biệt lập trường giữa chúng ta qua văn thư này.

Tự hậu nếu trong hoàn cảnh chính trị nào đó buộc chúng tôi phải xác định hay công khai hóa một lập trường đối lập, hay những ý kiến trái ngược với những gì Ðại Tướng chủ trương và hành động thì xin Ðại Tướng thông cảm trước rằng chúng tôi làm điều đó là nhân danh quyền lợi tối thượng của đất nước. Bởi lẽ giữa Ðại Tướng và chúng tôi chỉ có thể đồng thuận trên căn bản tranh đấu cho tự do dân chủ và nhân quyền chớ không thể đồng thuận trong sự tiếp tay củng cố một chế độ độc tài cộng sản hay quân phiệt.

Trân trọng kính chào Ðại Tướng.

Bản sao kính gởi:

B.S. Trần Công Phát

T.S. Lê Ðình Thông

Anh Chị K.S. Lê Như Quốc Khánh

K.S. Lê Văn Song

D.S. Nguyễn Anh Tuấn

Ðại Tá Nguyễn Hồng Ðài

để kính tường.

Văn thư này là sự liên lạc cuối cùng giữa Ðại Tướng Dương Văn Minh và tôi! Tiếc cho một đời người gặp được nhiều cơ hội để thực hiện lý tưởng của mình mà không được toại nguyện. Về sau có lẽ vì lý do gia cảnh nên Ðại Tướng Minh sang Mỹ ở với người con gái và qua đời tại California. Dự tang lễ của ông tôi vô cùng bồi hồi cảm xúc, nhớ lại nhiều kỷ niệm giữa ông và tôi. Ngày xưa khi ông ra ứng cử tổng thống ông mời tôi đứng phó, ông nói rằng: “Tôi không đứng với anh thì tôi không đứng với ai hết.”

Tôi từ chối và giới thiệu anh Hồ Văn Minh cho ông, cũng là cộng sự viên của tôi, làm việc trong chương trình phát triển quận 8 Sài Gòn, đương kiêm phó chủ tịch quốc hội thời đó. Còn bao nhiêu kỷ niệm vui buồn, tâm sự về đời tư, về thời cuộc, lúc tôi còn ở Pháp. Ngâm ngùi nhớ lại bài thơ đăng trong sách “Tam Quốc Chí” tôi không cầm được nước mắt!

(nguyên văn):

......................................................................

Lãng hoa đào tận anh hùng

Thị phi, thành bại: chuyển đầu không!

Thanh sơn y cựu tại.

......................................................................

(bản dịch):

Sóng xô các dập anh hùng.

Tàn mơ: thành bại... cũng là không!

Non xanh trơ vẫn đó

Lần lữa bóng chiều hong...


Hồi ức về chương trình Phát Triển Quận 8

Trở lại sự liên hệ giữa Tướng Nguyễn Cao Kỳ và tôi, như đã nói trên, ông hay gọi tôi lên phủ Thủ Tướng để kể cho tôi nghe thành tích hay tham khảo ý kiến, và cũng nhiều lần ông than cô đơn bất lực trước sự trì trệ của guồng máy hành chánh hay tinh thần vô trách nhiệm của quan chức nhà nước. Thật ra có thể đó là sự ù lì và ngấm ngầm thách thức bởi vì những người công chức già dặn không tin rằng mấy ông Tướng trẻ có khả năng cai trị lâu dài.

Có lần Thủ Tướng gọi mà tôi không có mặt ở sở, ông gọi về bộ cũng không gặp tôi, ông Kỳ nổi giận mắng nhân viên bộ: một ông chánh sở đi đâu mà bộ cũng không biết, vậy bộ quản trị nhân viên như thế nào? Cả bộ nhao nhao sợ hãi, chạy đôn chạy đáo kiếm tôi cho bằng được, bởi vì thông thường một lời khiển trách của ông Thủ Tướng thật là ghê gớm đối với một cơ quan của chính phủ. Nhứt là đối với một công chức cấp nhỏ ở bộ như tôi, cho nên ai cũng lo sợ giùm. Riêng tôi thì biết đó chẳng qua là ông thủ tướng cảm thấy cô đơn hay bực tức điều gì muốn tìm người chia sẻ, nên tôi tỉnh bơ coi thường, làm mọi người tưởng tôi phách lối. Hôm đó, tôi lên phủ Thủ Tướng không nhớ chúng tôi đã nói về những vấn đề và sự đối đáp qua lại như thế nào. Duy tôi chỉ nhớ có một điều là ông Kỳ đã mỉa mai, thách thức tôi:

-Anh giỏi tài nói phét, xúi bẩy, nhưng chết nhát không dám dấn thân làm bất cứ việc gì, miệng thì nói đất nước, lòng thì cầu an. Hạng người như anh tôi đã thấy rất nhiều.

Sự kiện tôi gặp được ông Kỳ và ông vẫn tiếp tục mời gọi tôi nhiều lần tôi cho đó là một cơ duyên, mặc dù tôi đã từng tỏ thái độ chống đối ông và đôi khi còn dùng lời lẽ khiếm nhã mà ông không cố chấp, trái lại còn tỏ ý tin cậy, mời gọi hợp tác, thật lòng ông làm cho tôi kính nể ông.

- Thiếu Tướng nói khích tôi đấy à? Vô ích thôi.

- Vậy tôi nói sai chỗ nào nào?

- Thì cứ xem như ông nói đúng đi. Nhưng tôi muốn hỏi: ông tin tôi mà ông dám tin những người tôi tin không?

- Tại sao không?

- Ông tin những người thanh niên trẻ tuổi, nhưng đầy nhiệt huyết và lòng hy sinh không?

- Tôi càng tin họ hơn tin anh nữa. Rồi ông lại cười.

Hỏi như vậy là vì tôi thoáng có một ý nghĩ: tôi sẽ giới thiệu người cho ông ta, hoặc đích thân tôi lấy một tỉnh làm thí nghiệm những gì tôi đã suy nghĩ từ lâu. Tôi tiếp tục hỏi:

- Ông dám giao cho tôi một Bộ nhưng ông có dám giao cho tôi một tỉnh không?

- Dám chứ sao không? Mà anh có dám nhận không nào? Ðó là vấn đề.

Rồi ông bật cười ha hả... đắc chí. Tôi cũng cười theo. Nhưng mỗi người cười theo chiều suy nghĩ của mình. Có lẽ ông Kỳ đắc ý vì tưởng “đánh trúng tim đen” làm tôi xấu hổ. Còn tôi thì nghĩ rằng ông này muốn có sự hợp tác của mình nên cứ mời tới mời lui hoài. Rồi tôi có một thoáng hồ nghi, biết đâu ông chưa gặp được người hợp tác chân thành. Tôi nín cười trước, đăm chiêu suy nghĩ, trong khi ông ta chấp tay trước ngực dựa lưng vào ghế, bật tới bật lui, lộ vẽ đắc ý nhìn tôi tiếp tục cười! Không biết do những lời ông nói khích làm tôi lọt vào tròng mà không biết hay là tại đầu óc tôi lúc nào cũng nghĩ làm thế nào để trở thành người hữu ích. Thật vậy, khi quyết định hồi hương trong lứa tuổi sẽ bị động viên, dù cả gia đình ngăn cản, tôi vẫn về vì tôi không muốn trốn trách nhiệm trong thời chiến, tôi có thể ở lại Pháp an cư lạc nghiệp nơi xứ người. Ý định tham gia hợp tác với Tướng Kỳ hình như đã rõ nhưng chưa biết với tư cách gì, trong phạm vi nào? Tôi từ giã ông:

- Tuần sau, giờ này, tôi có thể xin gặp lại Thiếu Tướng để bàn chuyện nghiêm chỉnh hơn được không?

- Ðồng ý, nhớ đúng hẹn nhé.

Lại thêm một lời nói khích:

- Ðừng cáo lỗi nữa chừng rồi trốn luôn nhé !

Ý nghĩ làm một việc gì có ích cho đất nước dân tộc đã có trong đầu, lúc tôi còn chà lết trên ghế nhà trường. Những năm theo đại học, tôi thường suy tư và bàn thảo với bạn bè về những phương cách nào có thể đem lại sự hữu ích cho xã hội miền Nam Việt Nam. Ðứng trước hiện tình đất nước, chung qui chỉ có hai vấn đề kinh tế và chính trị, công bằng xã hội là một phụ đề lệ thuộc hai vế trên. Tôi sinh ra và lớn lên trong thời loạn nên ảnh hưởng của chiến tranh đã in sâu trong đầu. Mười tuổi, tôi đã nghe những lời đe dọa. Ông Bộ Ngởi, thợ hớt tóc nói với tôi: “Nay mai cộng sản về lấy hết điền đất của ông nội mày đem chia đều cho tá điền và dân trong làng, mày cũng có phần như mọi người, đừng lo”. Câu nói đùa nhưng cũng có dụng ý của ông Bộ Ngởi làm tôi lo sợ. Càng lo sợ hơn nữa là trong thời gian đó tin đồn “cộng sản dậy” hết chỗ này đến chỗ khác.

Có một đêm nghe tin “cộng sản dậy” bên làng Châu Hưng lân cận, cả nhà tôi phải chạy trốn bên rừng chồi nhỏ gọi là “mỏ neo” đến gần sáng mới về. Ít lâu sau lại nhìn thấy hình ảnh những “thây ma, thằng chổng” trôi trên sông Cửu Long do cộng sản giết (gọi là “cho đi mò tôm”) mỗi khi tôi đi ghe máy từ Phú Thuận lên Mỹ Tho học. Những ký ức đó in sâu trong đầu khó quên. Rồi sau này lại có thêm vụ “cải cách ruộng đất” của cộng sản Bắc Việt, khiến tôi càng muốn tìm hiểu về cái thuyết cộng sản vô thần. Càng lớn khôn tôi càng nhận ra chủ thuyết đó đi ngược với nhân tính.

Khi còn học ở trường, Giáo Sư kinh tế học, Chambard de Lawe, phân tích quyển sách Tư Bản Luận của Karl Marx, ông có dẫn giải một thử nghiệm của Trung Cộng tại một xã, theo đúng tiêu chuẩn và lý thuyết trong giai đoạn “cộng sản chủ nghĩa” toàn hảo, nghĩa là ở giai đoạn đó, của cải vật chất có dư thừa, do lao động con người sản xuất ra mà không bị bóc lột. Trong cái xã hội chủ nghĩa toàn hảo đó con người chỉ cần làm việc theo khả năng mà được hưởng theo nhu cầu. Nhưng kết quả đảng cộng sản Trung Quốc phải nhìn nhận cuộc thử nghiệm không thể thành công. Như vậy cái lý thuyết mà cộng sản tuyên xưng là “hoàn chỉnh” để rao bán cho dân nghèo, cho những xứ chậm tiến bị đô hộ, đi ngược với bản chất con người, khiến tôi suy nghiệm mình có thể tìm một phương cách nào khác không? Ðể tạo sự công bằng, đồng thời giữ được sự hài hòa trong xã hội, khác với cộng sản, thuận theo bản chất và tình cảm con người.

Rời phủ Thủ Tướng về nhà, mấy ngày liền, ý nghĩ tham gia hay không tham gia nội các, dằn vật bộ óc non nớt, thiếu kinh nghiệm nhưng giàu tưởng tượng và ý cương quyết của tôi. Tôi xác định trong đầu và cũng nhiều lần thố lộ với bạn bè khác:

Cộng sản chủ trương thực hiện một cuộc “cách mạng xã hội” bằng hận thù và sắt máu. Hận người giàu, thù điền chủ, đấu tố, giết hại. Một sai lầm đầy tội ác. Thế giới lên án. Ðồng bào nguyền rủa!

Vậy thì chúng ta đề nghị cái gì với đồng bào dân tộc mình? Xã hội chúng ta đang sống phải được tổ chức như thế nào? Chúng ta có thể vận động và kết hợp được những người có khả năng và thiện chí để thực hiện một cuộc “cách mạng”khác hơn cộng sản không?

Bằng tình thương đối kháng với hận thù, bằng cảm thông và đồng thuận không cần sắt máu. Giàu nghèo đồng tâm hợp tác để phát triển, không cần phải đấu tranh giai cấp. Tôi đã từng phân tích và thảo luận với bạn bè người Pháp khi tôi còn trong đại học, người Việt Nam khi tôi về xứ, với đàn anh đàn thầy như linh mục Nguyện Bình An. Nhưng tôi chưa gặp cơ hội, tôi chưa có điều kiện. Phải chăng sự mời gọi và lời thách thức của ông Kỳ là một cơ may mà vận số đẩy tôi vào con đường phục vụ đất nước theo lý tưởng và ước mơ của mình?

Tôi khai thác cái cơ may đó bằng cách mời rủ một số bạn trẻ đến nhà, bàn kế hoạch phát triển xã hội. Nhóm người này có một mẫu số chung là “tuổi trẻ” và động cơ thúc đẩy là muốn phục vụ đất nước. Ngoài ra số đông gần như xa lạ đối với tôi và giữa họ với nhau. Chúng tôi định lấy tỉnh Mỹ Tho, gần Sài Gòn, nếu thành công thì như một “vết dầu loang” sẽ tràn qua các tỉnh khác. Tôi quen với Chuẩn Tướng Nguyễn Bảo Trị, đương kim Tư Lệnh Sư Ðoàn 7. Tôi xin gặp ông vào một buổi trưa, dùng cơm với nhau tại nhà ông ở Mỹ Tho, tôi nói rõ ý định của tôi, ông ủng hộ hết tình. Trên đường về Sài Gòn tôi sực nghĩ, nếu ngày nào chương trình thành công, chắc chắn Việt cộng sẽ tìm mọi cách để phá hoại, và nếu lúc đó Chuẩn Tướng Nguyễn Bảo Trị không còn chỉ huy sư đoàn 7 nữa thì ai bảo vệ an ninh cho chương trình của mình. Hoặc nếu vị tân Tư Lệnh Sư Ðoàn không thuận ý với bọn mình thì ta sẽ gặp sự thất bại là cái chắc. Tôi liền đổi ý, phải lấy một quận nghèo nhất đô thành, an ninh sẽ được bảo đảm. Anh Âu Trường Thanh giới thiệu với tôi người bà con của anh ấy, đã từng là quận trưởng quận 8 tên là Nguyễn Thanh Thời, đã hưu trí, biết nhiều về tình trạng của quận nghèo khó này ở khu Phạm Thế Hiển gần ranh giới Phú lâm, nơi mà đồng bào nghèo khó từ miền Tây bị bắt buộc phải lên Sài Gòn tìm việc hay lánh nạn, tạm ở đó dung thân.

Anh Thời đưa tôi đi xem nhiều nơi lầy lội, nghèo khổ. Có chỗ phải cất sàn cây thô sơ trên những vũng lầy thối tha hôi hám. Trẻ sơ sinh, đa số chết vì bệnh tật, cha mẹ nào may mắn có bà con nơi khác thì đem gởi nuôi. Tôi tập hợp mấy anh sinh viên học trò của tôi và bạn bè của họ đang hoạt động trong “chương trình công tác hè”, khởi điểm một sự dấn thân hoạt động của tuổi trẻ, có người thuộc các hội đoàn khác. Họ tập hợp tại nhà tôi bàn việc làm công tác xã hội thông qua một chương trình phát triển lấy quận 8 làm thí điểm. Dĩ nhiên, tôi phải khai thật với họ là tôi có liên hệ mật thiết với Tướng Kỳ và bảo đảm việc này là nghiêm chỉnh. Ðể chứng minh tôi đề nghị những anh em nào muốn gặp Tướng Kỳ sẽ cùng đi với tôi vào ngày giờ tôi sẽ hẹn trước. Có bảy tám anh hay nhiều hơn nữa tôi không nhớ cùng đi với tôi đến dinh Thủ Tướng, ông Kỳ tiếp chuyện vui vẻ thoải mái, mặc dù có vài anh nói năng gay gắt hoặc nói “móc họng” đặc biệt là anh Nguyễn Hữu Doãn sinh viên luật khoa. Hình như ông Kỳ tự đồng hóa mình với thanh niên trẻ tuổi, cùng thế hệ với ông trong lứa tuổi trên dưới 30 một cách dễ dàng, không lộ vẻ mình có chức quyền cao sang.

Những ngày đầu tiên thảo luận về một chương trình lấy tên là “Phát Triển Quận 8” có tất cả ba mươi hai anh bạn họp tại nhà tôi, trong một căn phòng không có đủ ghế, đa số ngồi trên sàn nhà, thảo luận tương đối hăng say, nhiệt tình, đề ra những kế hoạch cấp bách là chỉnh trang các khu nhà ổ chuột, đổ đất lấp sình lầy cải thiện những đường hẻm, giáo dục thiếu nhi, lập trạm y tế chẩn mạch phát thuốc. Sau những cuộc bàn thảo, khảo sát tại chỗ, điều chỉnh những quyết định hợp với thực tế, ước tính phí tổn, viết thành kế hoạch nghiêm chỉnh. Ðúng lý chúng tôi phải nghiên cứu một cách có hệ thống, dựa trên căn bản những số thống kê về diện tích, dân số, doanh thương, tiểu công nghệ, lợi tức đầu người của quận 8 so với tổng lợi tức đô thành Sài Gòn và so với lợi tức trung bình đầu người trên toàn quốc... Nhưng đã nói cách mạng thì cần gì phải theo một khuôn khổ. Vấn đề chính yếu là tạo được sự ủng hộ của quần chúng, lôi cuốn được sự tham gia của họ trong mọi công tác đem lợi ích cho xã hội. Tôi lạm dụng quyền chánh sở, nhờ nhân viên của tôi đánh máy bản văn, họa viên của sở tôi vẽ đồ biểu, dùng máy ronéo và giấy mực của sở in thành bản văn đệ trình Thủ Tướng phê duyệt. Sau đó tôi xin yết kiến Thủ Tướng, đưa bản văn, bìa in giấy màu tím có chữ to “Chương Trình Phát Triển Quận 8 Sài Gòn”, đồng thời tôi cũng trình sự ước tính ngân khoản là 22 triệu đồng. Ông Kỳ chìa tay lấy bản văn, lật trang đầu, không xem một chữ, phê ngay mấy dòng và ký tên quăng vào rổ kẽm có đề “công văn đi”. Quay sang tôi ông nói:

- Xong rồi, chúc anh thành công, nhưng anh phải gặp ông Ðô Trưởng để sắp xếp việc bàn giao và bổ nhiệm người.

Công việc gay go kế tiếp là thảo luận việc chỉ định ai làm Quận Trưởng? Tôi thầm nghĩ muốn đạt tới sự thành công thì những người phụ trách chương trình phải: Thứ nhứt tạo được niềm tin trong quần chúng bằng một vài hành động cụ thể, đem lại kết quả vật chất hay tinh thần cho người dân thấy được. Thứ hai dùng tình cảm để thuyết phục quần chúng tham gia công tác chỉnh trang hay phát triển. Thứ ba chứng minh cho dân chúng thấy sự hy sinh của mình bằng cách trực tiếp tham gia làm công việc của họ, với họ và cho họ trong mục đích giúp họ và gia đình tạo một đời sống tốt đẹp hơn. Ða số những người bạn ngồi thảo ra chương trình này tại nhà, tôi không hề quen biết với ai trước, ngoại trừ 7 anh em sinh viên hay kỹ sư Nông Lâm Súc mới ra trường, học trò của tôi, muốn theo ủng hộ thầy. Vài anh trong số đó lộ vẻ hân hoan tin rằng thầy sẽ chỉ định mình làm Quận Trưởng.

Anh em đề cử anh Mai Như Mạnh, tốt nghiệp trường Quốc Gia Hành Chánh, người đương nhiên có đủ khả năng và điều kiện để giữ chức vụ then chốt này. Tôi nhìn nhận là đề nghị hợp lý, nhưng tôi không tán đồng, vì đây không phải là một công tác thuần túy hành chánh. Qua nhiều ngày gặp gỡ và thảo luận tôi nhận ra một anh mà tôi chưa hề biết về lý lịch của anh ta, nhưng lời lẽ, thái độ, ý kiến của anh phảng phất một chút gì mà tôi đoán anh có am hiểu ít nhiều về ba điểm tôi thầm nghĩ trên đây. Người đó là Hồ Ngọc Nhuận. Tôi đề nghị anh Nhuận làm quận trưởng. Gần như toàn thể anh em hiện diện phản đối, kể cả anh Nhuận. Tôi giải thích những nhận xét của tôi, nhưng không thuyết phục được ai cả. Một số anh không quyết liệt phản đối nữa vì họ không muốn mích lòng tôi vô ích. Còn tôi thì bào chữa rằng đây không phải là một công tác quản trị hành chánh mà là một sự thuyết phục quần chúng và tạo diều kiện để hợp tác với dân nhằm mục đích rõ rệt là chỉnh trang và phát triển quận nghèo khó nhứt Sài Gòn lúc bấy giờ. Vài anh nêu ý kiến rất thiết thực là chính quyền đô thành sẽ cười chê chúng ta không có người xứng đáng, đủ tư cách, mà đòi quản trị một quận phức tạp nhứt Sài Gòn. Các anh ấy đề cử Bác Sĩ Hồ Văn Minh, người có khoa bảng, có tư cách làm cho đồng nghiệp ở đô thành phải nể nang, nếu cũng không đồng ý, thì cử một anh Kỹ Sư Nông Lâm Súc nào đó. Còn anh Hồ Ngọc Nhuận không có đến bằng tú tài đôi! Thú thật đề nghị của tôi là nghịch lý rõ ràng, là một sự quyết đoán, nhưng đôi khi trong một vài trường hợp nào đó, sự quyết đoán rất cần thiết.

Cảm giác của tôi càng rõ hơn là người khác không thể chu toàn được công tác này. Vậy thì thà dẹp nó đi còn hơn là mang tiếng thất bại. Cuối cùng tôi vẫn nhìn nhận đề nghị của tôi là phi lý, nhưng tôi khẳng định nếu anh em không chấp nhận đề nghị của tôi thì tôi đành hủy bỏ chương trình này vì người chịu trách nhiệm trực tiếp với Chủ Tịch Ủy Ban Hành Pháp Trung Ương là tôi. Cuối cùng anh em đành phải thuận theo vì họ muốn duy trì một cuộc thí nghiệm của tuổi trẻ xem sao. Nhiều anh em sững sờ bất mãn nhưng không nói ra. Những phiên họp sau chỉ còn lại khoản 15-20 anh. Các anh khác bỏ cuộc vì bất đồng trong việc đề cử quận trưởng một cách phi lý. Trong số người bỏ cuộc có 7 vị học trò thân thương của tôi.

Công tác gay go thứ hai là họp bàn với Ðại Tá Ðô Trưởng Văn Văn Của và toàn bộ các ty sở hành chánh và chuyên môn đô thành. Theo tôi nghĩ thì vấn đề thay đổi một ông quận trưởng thuộc quyền bổ nhiệm hay cất chức do Ðô Trưởng quyết định, nhứt là ông này chỉ thi hành theo lệnh của Thủ Tướng mà thôi. Còn những vấn đề khác có tính cách chuyên môn thì do quận trưởng trực tiếp trình Ðô Trưởng hay liên lạc với các ty sở về sau, việc gì phải họp đông đủ, vặn hỏi, buộc phải thuyết trình, giải thích cặn kẽ với dụng ý thấy rõ là họ muốn bác bỏ kế hoạch. Dù ngạc nhiên, khó chịu, anh em vẫn nhẫn nại trình bày chi tiết, phần tôi rất bực bội muốn “xù” hết, rút lại những gì chúng tôi chủ trương làm, hoặc tôi sẽ trực tiếp yêu cầu Thủ Tướng ra lệnh cho Ðại Tá Của phải thi hành nguyên văn không sửa đổi một ly, nếu ông Kỳ thật lòng muốn làm cách mạng như ông đã rêu rao nhiều lần với tôi. Nhưng tôi lại nhủ thầm phải nhẫn nại và tỏ thiện chí tối đa. Cái gai mà Văn Văn Của nắm được là Hồ Ngọc Nhuận không chuyên việc hành chánh, dù có phó đốc sự Mai Như Mạnh phụ tá bên cạnh. Cuối cùng Ðại Tá Của quyết định đặt cựu quận trưởng Cao Minh Chung làm cố vấn cho anh Nhuận. Dĩ nhiên ông Chung lấy hết tâm sức ra mà phá để chương trình phải thất bại, ông sẽ trở lại chức vụ cũ.

Vừa ra khỏi phòng họp, bác sĩ Ðỗ Cao Huệ, Trưởng Ty Mục Súc Ðô Thành vừa là Chánh Sự Vụ Sở Mục Súc của bộ, người bạn đồng nghiệp chí thân của tôi trong Bộ Canh Nông, kéo tôi sang một bên, sỉ vả nặng lời:

-Toa làm moa mắc cỡ quá, toa cũng là đường đường một Chánh Sự Vụ của bộ mà đi nài nỉ xin chức quận trưởng như thằng thất nghiệp, ăn mày chức vụ. Thật hết ý kiến!

-Toa biết cái con khỉ khô gì mà nói, dẹp toa đi.

Ðỗ Cao Huệ vừa còn cảm giác bị mắc cỡ lây vừa chán cái bản mặt đi xin chức vụ của tôi, anh bỏ đi một nước không thèm nói thêm một lời. Anh em về nhà tôi, hợp chuẩn bị việc nhận bàn giao. Kiểm điểm lại còn hiện diện lối hơn chục người. Tất cả đều quyết tâm: chúng ta phải thắng cuộc thách thức này. Mai Như Mạnh lo việc hành chánh, Hồ Văn Minh quản lý chương trình, Hồ Ngọc Nhuận quận trưởng, sau đó anh lôi được một vài đệ tử trẻ lo việc ăn ở cấp bách, Ðoàn thanh Liêm xông xáo, bao sân, chỗ nào cũng có anh, các bạn khác tiếp tay tùy theo sự rỗi rảnh giờ giấc của mình. Những ngày đầu không có một xu kinh phí, Liêm đi vận động xin tiền, xin vật liệu, cũng chẳng đủ nuôi số thanh niên thiện nguyện. Sự chận đứng kinh phí làm ngã lòng những anh em khác, họ lần lượt bỏ rơi chương trình, chỉ còn lại “Tứ Ðại Gan Lì” kể trên. Những bạn trẻ mới tự nguyện gia nhập, rộng lòng hy sinh, hăng say sẵn có, ham vui mà tụ tập ngày càng đông. Cái khó là làm sao kích động được lòng hăng say, sự hy sinh tình nguyện của tuổi trẻ. Làm sao nhóm được ngọn lửa để hâm nóng lòng yêu nước, yêu dân, thương những người kém may mắn trong xã hội đang ở gần mình nhứt. Làm sao nung nấu được ý chí trách nhiệm, làm sao gợi được niềm tự hào và sự rộng lòng bác ái của tuổi trẻ. Chỉ có một cách là hội nhập với họ, đưa sáng kiến và tạo điều kiện cho họ thực hiện lý tưởng, dù mình chủ xướng, nhưng phải làm cho họ hiểu là của chính họ vạch ra. Vì vậy mà tôi đã dài công tụ hợp bạn bè và sinh hoạt với họ đã từ lâu. Cũng như sau này khi ngồi vào chức vị Tổng Trưởng tôi tiếp xúc hằng tuần với những vị lãnh đạo hội đoàn để khuyến dụ họ nhập cuộc trong những công việc, dù đơn giản, nhưng rất có lợi ích.

Việc đầu tiên là giải quyết tình trạng lầy lội của những ngõ hẻm bằng cách đi xin “xà bần” (một thứ gạch vụn gạch nát người ta sửa chữa nhà còn dư không biết đổ đâu, không biết làm gì) chúng tôi mướn “xe ba bánh” chở về lấp những đường hẻm lầy lội. Chúng tôi phụ với chủ sửa vách, lợp nhà. Quận Trưởng Nhuận có khi ngồi trên mái nhà ký công văn khẩn cấp do người đem tới. Quận trưởng không dùng xe ô-tô của mình để cho anh em lấy xe công đó mà chuyên chở hay chạy việc khác quan trọng hơn, còn ông ta khi thì mượn xe vespa, khi thì nhờ người “đèo” đi chỗ này chỗ khác. Thật là buồn cười nhưng cũng, thật đáng khen, ông quận đi lợp nhà dân, nhanh chóng “Nhóm Quận 8” khởi sự chiếm được cảm tình của đồng bào tại đây vì họ thấy bọn trẻ này xông xáo, hy sinh thật, sẵn lòng giúp bất cứ việc gì. Bác Sĩ Minh khám bệnh miễn phí còn đi xin thuốc đầu này đầu kia phát không cho đồng bào. Trong khi đó anh Mai Như Mạnh lo hành chánh, cứ gởi tờ trình đều đều, liên tục, xin giải ngân, nhưng chương trình phát triển không có một xu của chính phủ bỏ vào. Tôi phải rút tiền nhà cung cấp cho anh em, mua cây cất trường, mua lá lợp nhà, mua thức ăn nuôi các bạn trẻ, may mắn cho tôi là thời đó tôi có trường anh văn London School, mỗi chiều ngồi chờ ông quản lý thu tiền lấy về đưa cho quận trưởng Nhuận mua gạo nuôi những em tình nguyện làm công tác không công. Có ngày không tiền mua cá hay tép để kho ăn, mấy em leo lên trần nhà của ông quận trưởng bắt dơi đem xuống, nấu cháo ăn, hay kho khô cho có món mặn. Khó khăn thật, nhưng vui thú thật, an ủi thật, hãnh diện thật.

Cứ như thế kéo dài đôi ba tháng trời, cho đến khi chúng tôi hoàn thành một ngôi trường lá ba lớp, có sinh viên tình nguyện thay nhau dạy trẻ em, có một trạm y tế nhỏ do bác sĩ Minh khám bệnh phát thuốc ít nhiều. Chúng tôi mời Ðại Tá Ðô Trưởng khánh thành, Nghị viên La Thành Nghệ đến đọc diễn Văn, Ðô Trưởng ban huấn thị. Quan khách ngồi chễm chệ trên vài hàng ghế. Tôi đứng giữa đám đông dân chúng lòng mừng rỡ thấy tuổi trẻ hăng say, dân chúng hưởng ứng, nhưng bực tức vì quan chức vô ý thức, ganh tị, nhỏ nhen, buồn phiền vì không có kinh phí để thực thi một chương trình thấy rõ sự thành công. Bực tức, khinh khi lẫn lộn.

Tức giận tràn hông, tôi quyết định thông báo cho Tướng Kỳ là chúng tôi sẽ trao trả chương trình này cho Ðô Trưởng Sài Gòn sau lễ khánh thành chấm dứt. Bởi vì tôi tin chắc đô thành sẽ không giải ngân, họ chờ cho bọn trẻ hết hơi, thất bại thì mọi việc đâu sẽ vào đấy. Tôi cố nhẫn nại chờ cho cuộc lễ kết thúc. Tất cả vui vẻ ra về, bốn vị “Tứ Ðại Gan Lì” còn lại của chương trình là Hồ Văn Minh, Ðoàn Thanh Liêm, Hồ Ngọc Nhuận và Mai Như Mạnh. Hình như họ vẫn hy vọng kết quả này sẽ khiến cho đô thành Sài Gòn giải ngân và chúng tôi sẽ có đủ tài chánh hoạt động tiếp. Tôi vào quận mượn diện thoại xin gặp Thiếu Tướng Kỳ. Dĩ nhiên tôi được tiếp kiến ngay. Sau khi chào hỏi tôi ngồi trước mặt ông Kỳ và cố gắng lấy giọng hết sức bình tĩnh thưa rằng:

- Thiếu Tướng có lòng tốt mời tôi hợp tác, đề nghị hết chức vụ này đến chức vụ khác, tôi từ chối vì biết rõ đa số quân nhân các ông, chỉ biết ra lệnh một cách độc đoán, hoặc thi hành lệnh một cách mù quáng. Ðã vậy khi nắm được quyền hành thì ganh tị không muốn phân chia. Mấy ông lợi dụng quyền để thỏa mãn sự tự hào cá nhân và nhu cầu bản thân. Các ông không dùng quyền để phục vụ quần chúng...

Tôi chưa nói hết ý nghĩ và trút hết sự bực tức của tôi thì Tướng Kỳ vừa ngạc nhiên, vừa tức giận:

- Ê, anh muốn nói gì thì làm ơn nói cho rõ ràng chút. Ðây không phải chỗ để anh thóa mạ quân đội nhé.

- Tôi không thóa mạ, nhưng tôi muốn trình bày một sự thật mà chính ông sẽ gặp phải và ông không thể nào có điều kiện thực hiện cái ảo tưởng làm cách mạng của ông được.

- Tôi thấy hình như anh có gì bất mãn, anh cứ nói thẳng có được không? Ðừng ú a ú ớ tôi bắt đầu mất kiên nhẫn rồi đây này.

- Thiếu Tướng còn nhớ cách đây mấy tháng gặp tôi, ông chê tôi chỉ có tài “nói phét” mà không dám dấn thân làm. Tôi chấp nhận lời mỉa mai và giải tỏa thách thức đó bằng cách đệ trình một chương trình phát triển quận nghèo nhứt của đô thành. Các ông tự gán cho mình cái mỹ danh là “Chính Phủ Của Người Nghèo”. Ấy vậy mà cái chương trình của tôi giúp đỡ người nghèo ở quận 8 có dự trù một ngân khoản tí hon là 22 triệu đồng, ông đã phê chuẩn, nhưng cho đến ngày nay biết bao nhiêu tờ trình của ông quận trưởng xin giải ngân, ông Ðại Tá Ðô Trưởng không cho giải ngân một cắc. Tôi đã chứng minh tôi nói được là tôi làm được, nước lã tôi đã khuấy nên hồ. Tay trắng chúng tôi dựng được một ngôi trường ba lớp, một trạm y tế khám bệnh phát thuốc không tiền. Ðại Tá Ðô Trưởng của ông và quan chức của ông đến khánh thành, ban huấn thị mà không có chút gì hổ thẹn, trái lại còn hãnh diện được tôn vinh nữa là khác.

Nguyễn Cao Kỳ nổi trận lôi đình, con mắt trợn tròng, lộ ra to hơn trước, tay trái vuốt nhẹ hàm râu mép, tay phải cầm điện thoại quay bằng ngón út:

- Của hả? Lên biểu tức khắc.

Mặt ông hơi sầm, ấm ức tức giận, không nói không rằng. Tôi bồi thêm:

- Hôm nay tôi đến đây để báo cho Thiếu Tướng biết, anh em chúng tôi xin giao trả quận 8 lại cho vị Ðại Tá Ðô Trưởng của ông. Và xin ông ghi nhận thiện chí của tuổi trẻ có thừa. Ông Kỳ chẳng thèm trả lời, chẳng đếm xỉa đến tôi. Tôi lại tiếp:

- Bây giờ thì trễ rồi, cho dù chúng tôi có tiếp tục cũng đã có một sự ngỡ ngàng giữa ông Ðại Tá Ðô Trưởng và chúng tôi, cũng có sự ngã lòng thối chí, mất tin tưởng của nhóm trẻ tình nguyện, vậy xin Thiếu Tướng ra lệnh cho Ðô Trưởng thu hồi quân 8, trả chức lại cho cựu quân trưởng Cao Minh Chung, ông này vì mất quyền lợi, rao bán tiếng xấu, phá phách bằng cách khuyến dụ nhân viên, làm thất lạc hay chậm trễ giấy tờ vân vân. Tốt nhứt là chúng tôi chấm dứt sự thử nghiệm tại đây.

Ông Kỳ lại nín thinh mắt đăm đăm nhìn cửa ra vào, hình như ông cố ý chờ Văn Văn Của. Khoảng vài phút qua, Thiếu Tá Liệu, tùy viên mở cửa, Văn Văn Của xuất hiện đứng nghiêm chào, tay chưa kịp bỏ xuống.

- Ð. M... anh, không làm việc, ngồi chơi không mà người ta làm anh phá.

- Dạ...

Ông Của chưa kịp nói gì thì bị Tướng Kỳ làm cho một hơi:

- Ð.M... anh, tại sao anh không giải ngân cho người ta làm việc?

- Dạ...

- Ð. M... anh có biết đọc tờ trình của quận trưởng quận 8 không? Tại sao không chịu giải ngân cho người ta?

- Dạ...

- Ð. M... anh, đã cử quận trưởng mới rồi mà anh còn cử thằng quận trưởng cũ làm cố vấn là cái nghĩa lý gì?

- Dạ...

- Ð. M... các quận khác anh có cử cố vấn không? Như vậy không phá hoại là cái gì? Ð. M... đi về, nếu không tôi “nhúc” anh bây giờ.

Sau này tôi mới biết đối với Thiếu Tướng Kỳ chữ nhúc có nghĩa là bắt giam. Ông Của chưa kịp bỏ tay chào xuống, còn đứng chết trân nghe mắng cho đến khi bị đuổi về, ông bỏ chân theo kiểu nhà binh, quay đằng sau, đi mất. Dĩ nhiên Ðại Tá Của về đến văn phòng là ra lệnh giải ngân trong ngày. Từ đó trở đi ông Của hết tình ủng hộ và thỏa mãn mọi yêu cầu của quận 8.

Quay sang tôi ông Kỳ khởi sự phân trần:

- Ðấy anh thấy không tôi ngay tình. Một mình tôi, làm sao kiểm soát hết tất cả những sự bê bối trong guồng máy hành chánh nặng nề này. Vừa nói ông Kỳ lại một tay cầm điện thoại quay bằng ngón út, gọi ông Tổng Trưởng Thanh Niên: Hồng, lên biểu.

Khoảng hơn 15 phút sau, Bác sĩ Nguyễn Tấn Hồng đến, dù mặc thường phục nhưng ông Hồng cũng chào theo kiểu nhà binh, vì ông là Trung Tá quân y, thuộc binh chủng không quân của Thiếu Tướng Kỳ. Ông Kỳ mời ngồi xong, đối diện với tôi. Giới thiệu tôi với Bác Sĩ Hồng một cách hằn học, gọn lỏn. Ông gằn vọng:

- Ð. M... tối ngày chỉ biết đánh tennis thôi. Chẳng làm con mẹ gì hết mà anh Triều làm việc anh còn phá.

- Trời ơi, Thiếu Tướng, tôi chưa hề gặp anh Triều bao giờ, tôi không hề biết anh Triều làm việc gì thì tôi làm sao phá anh ấy? Mà phá cái gì mới được chứ?

Nhìn sang tôi, ông Hồng nói:

- Anh Triều, anh nói giùm tôi một tiếng, tôi không hề phá anh về bất cứ chuyện gì phải không?

- Tôi vẫn giữ im lặng không can dự vào. Thì ra ông Kỳ chỉ giận cá chém thớt bậy bạ thôi, còn ông Bác Sĩ Hồng thì bị vạ lây. Ðây là một tai nạn, ông Hồng bị lạc đạn.

Ông Kỳ lấy lại bình tĩnh dịu giọng nói:

- Thôi mời anh về.

Quay sang tôi, ông nói:

- Ðấy anh chứng kiến, chung quanh tôi là những người như thế nào. Bây giờ anh có thấy anh từ chối không hợp tác với tôi là một sự sai lầm lớn lao không? Nếu anh có lòng với đất nước, với dân tộc, thì một lần nữa tôi yêu cầu anh nhập cuộc. Chúng ta hiệp sức hoàn thành một cuộc cách mạng và chiến thắng cộng sản. Trước mắt chúng ta có tới hai nhiệm vụ. Một là xây dựng đất nước, hai là chiến thắng cộng sản.

Ông nói một cách hăng say, thao thao bất tuyệt. Còn tôi thừ người ra, bối rối suy nghĩ về những gì tôi mới chứng kiến, đến nỗi tôi không chú ý những gì ông Kỳ đang và tiếp tục nói, mà ông tin rằng tôi đang nghe. Hình như tôi bắt đầu có cảm tình với vị Tướng trẻ tuổi nầy, người mà trước đây tôi xem thường. Tôi đang nghĩ về trách nhiệm của mình đối với số đồng bào ở Quận 8, những người dân cũng mới bắt đầu tin tưởng và hy vọng chúng tôi tiếp tay với họ để cải thiện xã hội. Tôi cũng nghĩ trách nhiệm của tôi đối với bốn ông bạn, “Tứ Ðại Gan Lì” của tôi đã kiên trì chấp nhận sự thử thách vì muốn cuộc thử nghiệm nầy phải thành công. Những suy nghĩ của tôi về tổ chức xã hội, về công tác lôi cuốn thanh niên và đồng bào vào một phong trào to lớn để xây dựng quê hương và chống xăm lăng Bắc Việt thôi thúc tôi phải nhập cuộc. Hình như không nói ra mà tôi có cảm giác mình đã chấp nhận tham gia rồi, mình đã muốn hợp tác với ông Tướng nầy rồi. Một cảm giác lạ lùng, gần như thân thiện bất ngờ. Tôi hoàn hồn, không biết ông Kỳ đã nói gì thêm, tôi phát biểu ngắn gọn:

- Tôi sẽ về suy nghĩ về những đề nghị của Thiếu Tướng để xem tôi có nên tham gia hợp tác với ông không?

- Tôi chờ anh. Chương trình quận 8 cho đến bây giờ đã có sức hấp dẫn đối với quần chúng. Nếu anh bỏ dở thì sẽ hoài công anh em, và uổng lắm. Nếu anh tham gia nội các thì sẽ có người bao che thúc đẩy, đưa chương trình nầy đến chỗ thành công dễ dàng hơn. Tôi sẽ cải tổ nội các nếu cần. Anh dạy kinh tế nông nghiệp phải không? Tôi đề nghị anh giữ bộ kinh tế, tôi đang cần một ông Tổng Trưởng Kinh Tế tài ba để ổn định thị trường đang xáo trộn làm dân chúng hoang mang.

- Một mình tôi vào nội các thì cũng không giúp được ông nhiều.

- Tôi sẵn sàng chấp nhận tất cả những người anh giới thiệu, miễn là cùng chí hướng với chúng ta, và không phải là thứ ăn hại đái nát.

Ra khỏi dinh Thủ Tướng, hình như tôi đã quyết định tham gia nội các rồi. Ðiều mà trước nay tôi từ chối vì nghĩ không thể hợp tác được với nhóm quân phiệt và vì, theo suy nghĩ của tôi, một số không ít quân nhân hiện đang lãnh đạo đất nước không biết nhiều về tổ chức quốc gia, xã hội, kinh tế, chính trị. Họ chỉ là những thanh niên gan lì cầm súng dẹp giặc và may mắn còn giữ được mạng sống để lên Tướng rồi đảo chánh, chỉnh lý, cầm quyền trong thời loạn ly, quốc gia mất kỷ cương. Vả lại lịch sử thế giới chứng minh đa số các quốc gia do quân nhân cai trị đều mất dân chủ, vi phạm nhân quyền.

Nhưng đứng trước thiện chí và sự thành tâm của ông Kỳ, người có lòng yêu nước, hăng say muốn làm một cái gì tốt cho quê hương dân tộc, rất dễ bị ông Tướng trẻ nầy cảm hóa và lôi cuốn. Có lẽ vì trong thời điểm đó ông và tôi nuôi cùng một lý tưởng và có cùng một mục đích. Tuy lòng đã siêu nhưng tôi muốn để cho mọi việc lắng dịu, suy nghĩ thật chín mùi, nên chưa trả lời dứt khoát.

Trong khi chờ đợi, nhân dịp Phó Tổng Thống Hoa Kỳ Hubert Humphrey viếng thăm Việt Nam, Thiếu Tướng Kỳ cho biết ông Humphrey muốn viếng một nơi nào có thể chứng minh viện trợ của Hoa Kỳ đem lại kết quả tốt cho Việt Nam. Nhưng chính phủ Việt Nam không có chỗ nào khác hơn là quận 8 để trình diễn cho vị khách quí nầy ghi nhận thành quả, ngõ hầu về Mỹ phô trương với báo chí. Vì vậy trước đó một ngày, tôi đang dạy học tại trường Cao Ðẳng Nông Lâm Súc, bỗng nhiên cô thư ký vào thông báo: “có Thủ Tướng điện thoại yêu cầu giáo sư ra văn phòng trả lời”. Tôi nhờ cô thơ ký nhắn với Thủ Tướng là tôi sẽ gọi lại ông một giờ sau khi lớp học chấm dứt. Vài phút sau anh Lê Văn Ký Giám, Khoa Trưởng hớt hải chạy vào lớp vừa nắm tay tôi kéo vừa nói: “Anh làm ơn ra trả lời téléphone giùm tôi, Thiếu Tướng Chủ Tịch Ủy Ban Hành Pháp Trung Ương nói nếu tôi không để cho anh trả lời thì ông ấy sẽ đóng cửa trường ngay hôm nay bởi vì chuyện nầy gắp lắm. Anh Ký phân trần với tôi: “Có ai dám cấm cản anh đâu mà ông ta hiểu lầm như vậy khổ chúng tôi lắm”. Tôi cười xòa trấn an anh Ký: “Không có gì đâu, để tôi đính chính rõ ràng cho anh”.

Sự kiện nhỏ nhặt nầy chứng minh cái tính bốc đồng và cái tật phát ngôn bừa bãi của Tướng Kỳ nên báo chí tặng cho ông biệt danh là “Tướng cao bồi”. Tôi theo anh Giám đốc Lê Văn Ký đến văn phòng của anh để trả lời điện thoại. Bên kia đầu dây:

- Triều đó hả?

- Triều đây, Thiếu Tướng cần gì tôi?

- Mời anh lên phủ gặp tôi ngay, có chuyện gấp.

- Tôi sẽ lên ngay.

Vài phút sau tôi đã vào văn phòng Thủ Tướng vì trường Cao Ðẳng Nông Lâm Súc ở góc đường Cường Ðể cạnh số 2 đường Thống Nhứt là dinh Thủ Tướng. Vừa thấy tôi Tướng Kỳ niềm nở:

- Phó Tổng Thống Hubert Humphrey muốn đi thăm một nơi nào chứng minh được viện trợ Mỹ có kết quả tốt. Moa nghĩ không còn đâu hơn quận 8 của tụi toa. Ðó là kết quả của sự tham gia quần chúng xây dựng lại quê hương. Toa phải mau mau gọi anh em của toa tổ chức tiếp rước đàng hoàng.

- Chừng nào ông Phó Tổng Thống Mỹ xuống viếng quận?

- Ngày mai.

- Tại sao ông không cho tôi biết trước? Bây giờ làm sao chuẩn bị cho kịp?

- Có gì đâu, thì mình cứ hướng dẫn ông ta đi viếng một vòng, xem một vài nơi, có người giải thích và cho ông ta gặp một hai người dân là xong.

- Không thể như vậy được. Ðể tôi tính.

- Về phần Thiếu Tướng, tôi yêu cầu ông ra lệnh cho quân đội dựng một căn lều lớn nhứt. Sáng sớm ngày mai phải có. Ðịa điểm do quận trưởng chỉ định.

- Bảo đảm sẽ có ngay.

- Vậy xin chào Thiếu Tướng, tôi về để chuẩn bị. Ngày mai anh em của chương trình sẽ tiếp phái đoàn lúc 10 giờ sáng tại khu đông dân cư, nghèo khổ. Vấn đề an ninh thì cảnh sát công an của Thiếu Tướng chịu trách nhiệm. Nói xong tôi từ giã Tướng Kỳ, về sở ngay. Một mặt tôi thông báo cho Nhuận và Mạnh gom góp tài liệu cùng với Minh và Liêm đến sở Thống Kê Kinh Tế Nông Nghiệp của tôi hội bàn. Mặt khác tôi gọi ông Như, họa sĩ của sở vào văn phòng. Tôi ra lệnh:

- Ông Như, tôi cho phép ông về nhà bây giơ, nghỉ cho đến 4 giờ chiều sẽ trở lại sở, chiều hôm nay ông sẽ về nhà rất trễ, có thể đến khuya, Vậy ông nên thông báo cho người nhà biết. Ngày mai tôi sẽ cho ông nghĩ phép một ngày để bù trừ.

Sau khi bàn thảo, chúng tôi quyết định phải chọn những vụ việc nào để trình bày, phải tóm gọn những ý kiến gì, và nhứt là phải chứng minh bằng những số thống kê, có đồ biểu phân minh, do họa viên Như của sở phải thức khuya vẽ cho xong, theo đúng cung cách của một cuộc thuyết trình khoa học. Anh Ðoàn Thanh Liêm, người nói được lưu loát Anh ngữ lãnh trách nhiệm thuyết trình. Tôi đề nghị chỉ đặt có hai ghế ngồi, một cho Phó Tổng Thống Humphrey và một cho Thủ Tướng Việt Nam mà thôi. Ngoài ra Ðại Sứ Mỹ cũng như toàn thể khách quí đều đứng hết. Một bàn duy nhứt đặt những trái dừa xiêm vạt đít sẵn nhưng chưa khui, có người đứng tiếp để khui liền nếu vị khách nào muốn giải lao. Sáng hôm sau, Phó tổng thống Humphrey đến thăm dưới sự hướng dẫn của ông Kỳ và phái đoàn chính phủ.

Sau khi anh Liêm giới thiệu người trong ban quản lý, mặt mũi anh nào anh nấy còn non choẹt, ông Humphrey đi từ ngạc nhiên nầy đến ngạc nhiên khác, kể cả việc cầm nguyên trái dừa dùng ống hút nút nước giải lao, miệng cười niềm nở. Cuộc viếng thăm kết thúc sau khi đi xem một vài đường hẻm và nhà tôn mới lợp. Trước khi rời Việt Nam, tại sân bay Tân Sơn Nhứt, Phó Tổng Thống Hoa Kỳ Hubert Humphrey tuyên bố với báo chí là những gì ông chứng kiến và hiểu được ở quận 8 Saigon là “Cốt lõi của một cuộc cách mạng” (nguyên văn: “C'est l'essence même d'une révolution” (Journal d' Extrême Orient Saigon). Báo chí trong và ngoài nước khởi sự loan tin và nói tốt về một chương tình phát triển cộng đồng do giới trẻ Việt Nam thực hiện.


Quay sang tôi, ông nói:

- Ðấy anh chứng kiến, chung quanh tôi là những người như thế nào. Bây giờ anh có thấy anh từ chối không hợp tác với tôi là một sự sai lầm lớn lao không? Nếu anh có lòng với đất nước, với dân tộc, thì một lần nữa tôi yêu cầu anh nhập cuộc. Chúng ta hiệp sức hoàn thành một cuộc cách mạng và chiến thắng cộng sản. Trước mắt chúng ta có tới hai nhiệm vụ. Một là xây dựng đất nước, hai là chiến thắng cộng sản.

Ông nói một cách hăng say, thao thao bất tuyệt. Còn tôi thừ người ra, bối rối suy nghĩ về những gì tôi mới chứng kiến, đến nỗi tôi không chú ý những gì ông Kỳ đang và tiếp tục nói, mà ông tin rằng tôi đang nghe. Hình như tôi bắt đầu có cảm tình với vị Tướng trẻ tuổi nầy, người mà trước đây tôi xem thường. Tôi đang nghĩ về trách nhiệm của mình đối với số đồng bào ở Quận 8, những người dân cũng mới bắt đầu tin tưởng và hy vọng chúng tôi tiếp tay với họ để cải thiện xã hội. Tôi cũng nghĩ trách nhiệm của tôi đối với bốn ông bạn, “Tứ Ðại Gan Lì” của tôi đã kiên trì chấp nhận sự thử thách vì muốn cuộc thử nghiệm nầy phải thành công. Những suy nghĩ của tôi về tổ chức xã hội, về công tác lôi cuốn thanh niên và đồng bào vào một phong trào to lớn để xây dựng quê hương và chống xăm lăng Bắc Việt thôi thúc tôi phải nhập cuộc. Hình như không nói ra mà tôi có cảm giác mình đã chấp nhận tham gia rồi, mình đã muốn hợp tác với ông Tướng nầy rồi. Một cảm giác lạ lùng, gần như thân thiện bất ngờ. Tôi hoàn hồn, không biết ông Kỳ đã nói gì thêm, tôi phát biểu ngắn gọn:

- Tôi sẽ về suy nghĩ về những đề nghị của Thiếu Tướng để xem tôi có nên tham gia hợp tác với ông không?

- Tôi chờ anh. Chương trình quận 8 cho đến bây giờ đã có sức hấp dẫn đối với quần chúng. Nếu anh bỏ dở thì sẽ hoài công anh em, và uổng lắm. Nếu anh tham gia nội các thì sẽ có người bao che thúc đẩy, đưa chương trình nầy đến chỗ thành công dễ dàng hơn. Tôi sẽ cải tổ nội các nếu cần. Anh dạy kinh tế nông nghiệp phải không? Tôi đề nghị anh giữ bộ kinh tế, tôi đang cần một ông Tổng Trưởng Kinh Tế tài ba để ổn định thị trường đang xáo trộn làm dân chúng hoang mang.

- Một mình tôi vào nội các thì cũng không giúp được ông nhiều.

- Tôi sẵn sàng chấp nhận tất cả những người anh giới thiệu, miễn là cùng chí hướng với chúng ta, và không phải là thứ ăn hại đái nát.

Ra khỏi dinh Thủ Tướng, hình như tôi đã quyết định tham gia nội các rồi. Ðiều mà trước nay tôi từ chối vì nghĩ không thể hợp tác được với nhóm quân phiệt và vì, theo suy nghĩ của tôi, một số không ít quân nhân hiện đang lãnh đạo đất nước không biết nhiều về tổ chức quốc gia, xã hội, kinh tế, chính trị. Họ chỉ là những thanh niên gan lì cầm súng dẹp giặc và may mắn còn giữ được mạng sống để lên Tướng rồi đảo chánh, chỉnh lý, cầm quyền trong thời loạn ly, quốc gia mất kỷ cương. Vả lại lịch sử thế giới chứng minh đa số các quốc gia do quân nhân cai trị đều mất dân chủ, vi phạm nhân quyền.

Nhưng đứng trước thiện chí và sự thành tâm của ông Kỳ, người có lòng yêu nước, hăng say muốn làm một cái gì tốt cho quê hương dân tộc, rất dễ bị ông Tướng trẻ nầy cảm hóa và lôi cuốn. Có lẽ vì trong thời điểm đó ông và tôi nuôi cùng một lý tưởng và có cùng một mục đích. Tuy lòng đã siêu nhưng tôi muốn để cho mọi việc lắng dịu, suy nghĩ thật chín mùi, nên chưa trả lời dứt khoát.

Trong khi chờ đợi, nhân dịp Phó Tổng Thống Hoa Kỳ Hubert Humphrey viếng thăm Việt Nam, Thiếu Tướng Kỳ cho biết ông Humphrey muốn viếng một nơi nào có thể chứng minh viện trợ của Hoa Kỳ đem lại kết quả tốt cho Việt Nam. Nhưng chính phủ Việt Nam không có chỗ nào khác hơn là quận 8 để trình diễn cho vị khách quí nầy ghi nhận thành quả, ngõ hầu về Mỹ phô trương với báo chí. Vì vậy trước đó một ngày, tôi đang dạy học tại trường Cao Ðẳng Nông Lâm Súc, bỗng nhiên cô thư ký vào thông báo: “có Thủ Tướng điện thoại yêu cầu giáo sư ra văn phòng trả lời”. Tôi nhờ cô thơ ký nhắn với Thủ Tướng là tôi sẽ gọi lại ông một giờ sau khi lớp học chấm dứt. Vài phút sau anh Lê Văn Ký Giám, Khoa Trưởng hớt hải chạy vào lớp vừa nắm tay tôi kéo vừa nói: “Anh làm ơn ra trả lời téléphone giùm tôi, Thiếu Tướng Chủ Tịch Ủy Ban Hành Pháp Trung Ương nói nếu tôi không để cho anh trả lời thì ông ấy sẽ đóng cửa trường ngay hôm nay bởi vì chuyện nầy gắp lắm. Anh Ký phân trần với tôi: “Có ai dám cấm cản anh đâu mà ông ta hiểu lầm như vậy khổ chúng tôi lắm”. Tôi cười xòa trấn an anh Ký: “Không có gì đâu, để tôi đính chính rõ ràng cho anh”.

Sự kiện nhỏ nhặt nầy chứng minh cái tính bốc đồng và cái tật phát ngôn bừa bãi của Tướng Kỳ nên báo chí tặng cho ông biệt danh là “Tướng cao bồi”. Tôi theo anh Giám đốc Lê Văn Ký đến văn phòng của anh để trả lời điện thoại. Bên kia đầu dây:

- Triều đó hả?

- Triều đây, Thiếu Tướng cần gì tôi?

- Mời anh lên phủ gặp tôi ngay, có chuyện gấp.

- Tôi sẽ lên ngay.

Vài phút sau tôi đã vào văn phòng Thủ Tướng vì trường Cao Ðẳng Nông Lâm Súc ở góc đường Cường Ðể cạnh số 2 đường Thống Nhứt là dinh Thủ Tướng. Vừa thấy tôi Tướng Kỳ niềm nở:

- Phó Tổng Thống Hubert Humphrey muốn đi thăm một nơi nào chứng minh được viện trợ Mỹ có kết quả tốt. Moa nghĩ không còn đâu hơn quận 8 của tụi toa. Ðó là kết quả của sự tham gia quần chúng xây dựng lại quê hương. Toa phải mau mau gọi anh em của toa tổ chức tiếp rước đàng hoàng.

- Chừng nào ông Phó Tổng Thống Mỹ xuống viếng quận?

- Ngày mai.

- Tại sao ông không cho tôi biết trước? Bây giờ làm sao chuẩn bị cho kịp?

- Có gì đâu, thì mình cứ hướng dẫn ông ta đi viếng một vòng, xem một vài nơi, có người giải thích và cho ông ta gặp một hai người dân là xong.

- Không thể như vậy được. Ðể tôi tính.

- Về phần Thiếu Tướng, tôi yêu cầu ông ra lệnh cho quân đội dựng một căn lều lớn nhứt. Sáng sớm ngày mai phải có. Ðịa điểm do quận trưởng chỉ định.

- Bảo đảm sẽ có ngay.

- Vậy xin chào Thiếu Tướng, tôi về để chuẩn bị. Ngày mai anh em của chương trình sẽ tiếp phái đoàn lúc 10 giờ sáng tại khu đông dân cư, nghèo khổ. Vấn đề an ninh thì cảnh sát công an của Thiếu Tướng chịu trách nhiệm. Nói xong tôi từ giã Tướng Kỳ, về sở ngay. Một mặt tôi thông báo cho Nhuận và Mạnh gom góp tài liệu cùng với Minh và Liêm đến sở Thống Kê Kinh Tế Nông Nghiệp của tôi hội bàn. Mặt khác tôi gọi ông Như, họa sĩ của sở vào văn phòng. Tôi ra lệnh:

- Ông Như, tôi cho phép ông về nhà bây giơ, nghỉ cho đến 4 giờ chiều sẽ trở lại sở, chiều hôm nay ông sẽ về nhà rất trễ, có thể đến khuya, Vậy ông nên thông báo cho người nhà biết. Ngày mai tôi sẽ cho ông nghĩ phép một ngày để bù trừ.

Sau khi bàn thảo, chúng tôi quyết định phải chọn những vụ việc nào để trình bày, phải tóm gọn những ý kiến gì, và nhứt là phải chứng minh bằng những số thống kê, có đồ biểu phân minh, do họa viên Như của sở phải thức khuya vẽ cho xong, theo đúng cung cách của một cuộc thuyết trình khoa học. Anh Ðoàn Thanh Liêm, người nói được lưu loát Anh ngữ lãnh trách nhiệm thuyết trình. Tôi đề nghị chỉ đặt có hai ghế ngồi, một cho Phó Tổng Thống Humphrey và một cho Thủ Tướng Việt Nam mà thôi. Ngoài ra Ðại Sứ Mỹ cũng như toàn thể khách quí đều đứng hết. Một bàn duy nhứt đặt những trái dừa xiêm vạt đít sẵn nhưng chưa khui, có người đứng tiếp để khui liền nếu vị khách nào muốn giải lao. Sáng hôm sau, Phó tổng thống Humphrey đến thăm dưới sự hướng dẫn của ông Kỳ và phái đoàn chính phủ.

Sau khi anh Liêm giới thiệu người trong ban quản lý, mặt mũi anh nào anh nấy còn non choẹt, ông Humphrey đi từ ngạc nhiên nầy đến ngạc nhiên khác, kể cả việc cầm nguyên trái dừa dùng ống hút nút nước giải lao, miệng cười niềm nở. Cuộc viếng thăm kết thúc sau khi đi xem một vài đường hẻm và nhà tôn mới lợp. Trước khi rời Việt Nam, tại sân bay Tân Sơn Nhứt, Phó Tổng Thống Hoa Kỳ Hubert Humphrey tuyên bố với báo chí là những gì ông chứng kiến và hiểu được ở quận 8 Saigon là “Cốt lõi của một cuộc cách mạng” (nguyên văn: “C'est l'essence même d'une révolution” (Journal d' Extrême Orient Saigon). Báo chí trong và ngoài nước khởi sự loan tin và nói tốt về một chương tình phát triển cộng đồng do giới trẻ Việt Nam thực hiện.

Chương trình bắt đầu ghi nhận sự thành công trong nhiều lãnh vực thì bỗng nhiên có truyền đơn của việt cộng rải trong quận kêu gọi đồng bào cảnh giác đối với bọn “con buôn” của “chương trình phát triển quận 8” đang gạt đồng bào lấy đất cất nhà cho Mỹ mướn. Bằng cớ là người Mỹ tới lui thường xuyên để xem nhà xem đất. Sự thật là ký giả ngoại quốc có tới lui thăm viếng quận rất thường sau lời tuyên bố của Phó Tổng Thống Hoa Kỳ Hubert Humprey. Những truyền đơn của việt cộng làm chúng tôi đau đầu không ít. Bởi vì cảnh sát tuần tiễu không thuộc quyền chúng tôi điều khiển. Vả lại hành động lén lúc lẻ tẻ này khó kiểm soát nhưng dễ loan truyền. Túng thế tôi đành mời ông Philippe Habib, cố vấn chính trị tòa Ðại Sứ Hoa Kỳ, đến văn phòng tôi và yêu cầu ông ra lệnh cấm ký giả Mỹ tới quận 8 thường xuyên. Ông Habib phản đối kịch liệt. Thứ nhứt, tự do báo chí là điều ông bị bắt buộc phải tôn trọng. Thứ hai tiền của Quốc Hội Hoa Kỳ chi ra thì phải có báo cáo hoặc phải chứng minh bằng kết quả cụ thể. Kết quả nhỏ nhoi là quận 8 của ông mà nếu ông không cho phép Ký giả của chúng tôi đến quay phim chụp ảnh thì chúng tôi lấy gì chứng minh đây? Tôi phản bác là quí vị muốn thấy tôi thành công hay thất bại? Tôi cho ông Habib biết là dân chúng khởi sự tự hỏi chúng tôi chỉnh trang nhà cửa để cho họ ở hay cho Mỹ mướn đây? Cuối cùng ông Habib hứa sẽ tìm mọi cách để ngăn ngừa Ký giả đến quận 8 nhưng ông không thể bảo đảm ông sẽ thành công. Thực tế ông cố vấn chính trị tòa Ðại Sứ Mỹ hiểu được vấn đề, và kể từ đó không một người Mỹ nào đến thăm chương trình quận 8 của chúng tôi. Công tác phản tuyên truyền bắt đầu, chúng tôi giải thích với đồng bào rằng truyền đơn của việt cộng là láo khoét, chúng tôi đã cấm không cho người Mỹ léo hánh đến đây. Sự thật này đồng bào thấy rõ, đã vậy họ còn tưởng chúng tôi có uy quyền đến độ cấm được người Mỹ đến quận này, nên họ càng tin tưởng, càng hợp tác xây đựng.

Việc của tôi với tư cách Tổng Trưởng là yểm trợ, can thiệp để bao che, cung cấp đầy đủ phương tiện để anh em hoạt động. Can thiệp giữ người, xin biệt phái người từ Bộ Quốc Phòng, mượn phương tiện của Bộ Công Chánh, của USOM. Tôi ước mơ thành lập được những “Kiboutz” theo kiểu của Do Thái, từ đô thành lan rộng về các tỉnh, “tay súng tay cày” để giữ nước và dựng nước. Thú thật tôi bị ảnh hưởng rất nặng khi đọc quyển sách “Tour d'Erza” tả điều kiện Do Thái lập quốc trong bối cảnh hãi hùng bị các quốc gia Á Rập bao vây muốn tiêu diệt. Vì Vậy tôi đã chủ trương muốn gởi một số anh em của quận 8 đi Do Thái và Yougoslavie để học hỏi kinh nghiệm.

Bác sĩ Minh là sĩ quan quân y, Hồ Ngọc Nhuận là sĩ quan bộ binh và một số anh em khác đang cộng tác với chương trình, tôi phải “lộn nài bẻ ống” để xin biệt phái cho bằng được, riêng bộ thanh niên cung cấp người theo yêu cầu của chương trình. Can thiệp với bộ giáo dục để xin giáo sư, do anh em trong chương trình chọn những người quen biết có thiện chí, có lý tưởng và tinh thần, phù hợp với chúng tôi. Can thiệp với bộ giao thông công chánh và USOM để mượn xáng thổi đất lấp vũng lầy làm nền nhà. Tóm lại công tác tại chỗ là do “Tứ Ðại Gan Lì” chỉ huy điều hành, tuyển mộ thêm đồng bạn, mời rủ thêm người thiện nguyện, tổ chức phát triển rộng hơn làm cho vết dầu lan sang quận 6 rồi quận 7.

Kết quả chương trình thành công mỹ mãn. Những khu nhà ổ chuột nay trở thành nhà phố khang trang. Ðồng bào hài lòng, cộng sản “hổng chân”. Nhưng giữa thời gian đó xảy ra một sự kiện vô cùng nguy hiểm, rất may mắn và cũng rất có ý nghĩa. Chương trình có một máy kéo do cháu Phương phụ trách hằng ngày. Buổi sáng đó như thường lệ, cháu Phương ngồi vào ghế tài xế, đút chìa khóa mở máy, tay vừa cầm cây cần sang số bỗng nhiên anh ta thấy có một sợi dây kẽm cột từ cây cần sang số dẫn vô trong máy xe. Cháu Phương bước xuống dở nấp đậy máy xe xem tại sao có sợi dây kỳ lạ này. Thì ra dây kẽm cột vào nút chốt của một trái lựu đạn do cộng sản gài trong đêm. Mọi người tá hỏa, lo lắng có, sợ hãi có, mừng rỡ có. Riêng tôi biết được tin này thấy hài lòng vì đây là dấu hiệu thành công mỹ mãn nên Việt Cộng mới dùng đến phương tiện khủng bố. Dĩ nhiên từ đó chúng tôi cảnh giác cao độ và loan truyền cho đồng bào để họ hợp tác với chúng tôi canh chừng vì chương trình chính là quyền lợi của đồng bào.

Mặt khác tôi điện thoại cho ông Philippe Habib, cố vấn chính trị tòa Ðại Sứ Hoa Kỳ báo rằng từ nay trở đi ông có thể thông báo cho ký giả Mỹ tha hồ đến kiểm chứng sự thành công của chương trình. Tôi không thể nhớ những con số để chứng minh sự thành công về mặt chỉnh trang khu phố, về số gia đình của dân chúng được hưởng. Tôi cũng không nhớ bao nhiêu con đường lầy lội đã được sửa sang và biết bao nhiêu công trình lớn nhỏ khác do cộng đồng dân chúng trong các quận thực hiện. Nhưng điều quan trọng là đã có một cái gì đó, khác với cộng sản, đã bắt đầu và thành công một phần, tuy nhỏ, nhưng tinh thần, phương cách và khuôn mẫu hãy còn đó để chờ triển khai một cách hoàn chỉnh và tốt đẹp hơn..

Người Mỹ có quay một cuốn phim tài liệu về chương trình phát triển quận 8. Báo chí trong và ngoài nước đặc biệt báo Mỹ và Pháp ca ngợi. Ký giả Vanuxem, cựu thiếu tướng người Pháp đã viếng thăm quận 8, có tiếp xúc với tôi và viết một quyển sách tựa đề “L'espoir à Saigon” nhà xuất bản La Table Ronde 40, Rue Du Bac, Paris, 7e, 1967, trong đó ông nói về tuổi trẻ Việt Nam và chương trình phát triển quận 8 từ trang 127 đến trang 133. ( xin xem phụ bản do Giáo Sư Nguyễn Thanh Liêm phiên dịch. Thành thật cám ơn Giáo sư Liêm đã nhiệt tình giúp đỡ).

“L'espoir à Saigon”

“Thực ra vấn đề chính của xứ này là vấn đề thanh thiếu niên. Ở nông thôn hình như những “Ấp Tân Sinh” có thể đem lại giải pháp tốt. Nhưng ở thành thị, đặc biệt nói về sinh viên học sinh, họ là thành phần hăng say nhưng bất kham, phấn chấn dũng cảm nhưng không kiên định, tích cực ủng hộ chế độ cộng hòa, theo chủ nghĩa Quốc Gia nhưng sẵn sàng chống quân phiệt. Họ đặt đủ mọi thứ vấn đề và chủ trương phải hành động để thực hiện ý kiến của mình.

Vị Tổng Trưởng trẻ nhứt là Tổng Trưởng Thanh Niên, 32 tuổi. Trẻ đối với thế hệ già, già so với thế hệ trẻ. Ở cái tuổi mà con người có thể tự cho mình là già hay trẻ tùy ý. Thanh lịch, phong nhã, ông ta nói tiếng Pháp với một vọng rõ ràng, không đứt đoạn vọng lên xuống lấy hơi lổ mũi như nhiều người Việt Nam khác. Ông thấm nhuần văn hóa và nếp sống của người Pháp. Ông là một kỹ sư canh nông không được chuẩn bị cho một sự nghiệp chính trị, điều mà ông không hề nghĩ đến. Trong một cuộc tiếp xúc, ông chống đối lý luận và chủ trương của Thủ Tướng bằng những lời phê phán gay gắt. Thủ Tướng ngạc nhiên bèn yêu cầu ông trình bày quan điểm, ông ta chấp nhận. Nhưng khi Thủ Tướng mời ông tham gia nội các thì ông từ chối dứt khoát.

Chỉ về sau, nhân dịp cải tổ nội các thì ông mới nhận tham gia mà thôi. Bộ của ông có tất cả những quyền hạn liên quan đến thanh niên, kể cả thể thao, điều mà ông mê say. Nhưng ông chỉ chú trọng có một điểm đặc biệt, tuy không quan trọng, nhưng nếu công tác này thành công thì sẽ cho phép ông áp dụng một cách tổng quát và phổ biến những phương pháp mà ông tin sẽ đem lại hiệu năng và hợp với tình thế.

Thanh niên Việt Nam lúc bấy giờ, cũng giống như thanh niên của nhiều xứ khác, phản ứng một cách hung hăng, có tính khiêu khích đối với thế hệ đàn anh đang lãnh đạo họ. Vì vậy sự va chạm càng nặng khi hai thế hệ không có được sự cảm thông. Thế hệ đàn anh kiên định trong phong cách suy nghĩ theo hệ thống lô-gíc với thói quen đã từng bị người Pháp ảnh hưởng. Cuộc “cách mạng cộng sản” buộc người Pháp phải ra đi và sau đó lại có một nhu cầu là cần phải tìm ra một cung cách suy nghĩ khác lạ hơn với hiện tại, làm cho cả thế hệ thanh niên bị mất thăng bằng. Và ngày nay giới trẻ đó đang tìm một hướng đi.

Sau khi chế độ Ngô Ðình Diệm bị lật đổ, sinh viên học sinh tin rằng mình cũng có góp phần trong đó, họ ủng hộ bên này hay bên kia với một sức sống mãnh liệt. Nhưng họ hành động trong sự rối loạn chưa từng thấy. Mỗi người muốn phục vụ đất nước theo kiểu cách của mình, họ chỉ trích tất cả những gì đã được hình thành và họ muốn sáng tạo một thứ gì độc đáo khác. Do đó kết quả cho thấy một sự không thích nghi với thời thế và sự vô hiệu năng về mọi mặt rất đáng ngại. Sự phân hóa xã hội Việt Nam trong mọi lãnh vực, kinh tế, chính trị, xã hội, ngày càng nhanh chống đến mức đáng sợ. Thanh niên lạc lòi, người đứng tuổi dè dặt, tự chế. Nhiều phe nhóm được thành lập phục vụ cho nhiều mục đích linh tinh nhưng lần hồi họ tự ý đi vào con đường chính trị. Một số không ít vì ngây ngô bị đảng phái hay chính trị gia mua chuộc.

Người ta nghĩ có thể hướng dẫn sự bồng bột của tuổi trẻ vào con đường phục vụ xã hội, nhưng rồi người Mỹ xen vào với những đồng đô-la của họ. Ðiều đáng lẽ phải tránh. Kết quả người ta thấy sự hư nát ngày càng lan rộng. Và trong lúc đó có một nhóm thử đề ra một ý nghĩ mới, hy sinh quên mình, chấp nhận gian khổ, tận tụy, kiên trì với ý đồ xây dựng lại quê hương ngay trong bối cảnh hỗn độn đó. Khởi đầu là một công trình nhỏ bé, không bề thế, không phương tiện. Ðó là một khởi điểm.

Vị Tổng Trưởng thanh niên trẻ tuổi này ý thức được là ông không thể dùng quyền để chế ngự hay hướng dẫn thế hệ thanh niên trong xứ được. Ông ta nghĩ chỉ còn cách đứng bên cạnh họ, tự hòa mình chung sống với họ, thúc đẩy họ, biến họ thành những phần tử “cách mạng” tự tin rằng mình là hữu ích trong công cuộc xây dựng lại quốc gia. Và ông thực hiện điều đó. Ông tiếp xúc với thanh niên, ông gặp gỡ và bàn thảo với hơn 30 hội đoàn thanh niên và nhiều nhóm khác có mục đích riêng rẽ của họ. Ông sống với họ, hòa mình tự coi mình là người của họ. Ông mất rất nhiều ngày giờ. Nhưng cho tới nay ông tin rằng sự hiện diện và sự tham gia tích cực của ông đã đánh tan được sự nghi ngờ và thái độ lững lờ của họ. Ông còn tin vững chắc là đã được giới trẻ chấp nhận ông, không phải như người thầy, người quản trị, mà là người đàn anh có lời chỉ dẫn và quyền điều khiển của ông được tiếp nhận không mảy may ngờ vực. Ông muốn tạo cho nhóm trẻ này một môi trường thử nghiệm to lớn bằng sự ước mơ của ông. Muốn thực hiện điều đó ông phải đụng chạm với các đồng nghiệp của ông trong nội các, những vị đồng nghiệp đó bảo vệ quyền hạn chính đáng của họ, và còn nhiều cơ quan công quyền khác không chịu nhún nhường để cho giới trẻ rộng đường thi thố tài năng. Ông Tổng Trưởng đẩy họ phải tránh đường và buộc họ phục tùng. Ông ta cử một giáo sư trẻ tuổi làm quận trưởng của một quận Saigon. Và tất cả nhóm trẻ tham gia.

Quận này là một quận nghèo nàn nhơ nhớp nhứt, gần thành phố Chợ Lớn nơi người Hoa Kiều buôn bán tấp nập, nhưng đa số người Việt Nam ở đó đều là bần khốn. Sau nhiều sự do dự và ngỡ ngàng, dân chúng thấy được những sáng kiến táo bạo của nhóm người thiện nguyện trẻ tuổi này, họ hoạt động không khác gì những “giáo sĩ truyền giáo” nên lần hồi chiếm được cảm tình và sự chấp thuận tham gia của quần chúng. Họ thực hiện đủ mọi thứ công tác, giúp đỡ tất cà những người cần có sự giúp đỡ. Họ giúp sửa sang nhà cửa, đặt để những cơ quan từ thiện, khám bệnh và phát thuốc miễn phí, tổ chức hội họp, khuyến dụ quần chúng tham gia. Ða số chấp nhận vì cảm tình hoặc vì tò mò muốn tìm hiểu. Người ta thảo luận về mọi vấn đề liên quan đến đời sống cộng đồng trong quận, đến tổ chức hành chánh và quản trị, người ta cũng tìm hiểu về chính trị, gây ý thức về nhiệm vụ của người công dân và cổ võ sự đoàn kết trong cộng đồng.

Trong cái thế giới bị đồng tiền làm hư đốn vì con người chỉ biết chạy theo tiền mà thôi, nhóm người trẻ thiện nguyện đó hành động bất vụ lợi, trong sự nghèo khó, với lòng hy sinh tận tụy phục vụ cho lợi ích công cộng làm cho quần chúng tin tưởng nghe theo và họ đã thành công rực rỡ. Dĩ nhiên, thông thường những hoạt động như vậy phải được phô trương quảng cáo, nhưng ở đây mọi sự tuyên truyền phổ biến đều bị cấm chỉ, và mọi sự trợ giúp tiền bạc đều bị từ chối. Ðiều khó khăn nhứt là làm sao ngăn cấm báo chí Mỹ luôn luôn tìm kiếm mọi điều kiện khả dĩ có thể đem lại một giải pháp nào tốt đẹp cho Việt Nam mà họ đang chia xẻ trách nhiệm bảo vệ và phát triển. Cho nên vấn đề là làm sao thuyết phục họ chấp nhận không để cho những máy ảnh và máy quay phim của họ gây nghi ngờ hoang mang có tính phản tác dụng đối với quần chúng. Cuộc thử thách của họ vô cùng khó khăn nhọc nhằn, nó đòi hỏi sự vô tư cao độ, sự chấp nhận một nếp sống đạm bạc gần như khổ hạnh. Nhưng cuối cùng họ đã thành công.

Thêm một quận khác của Sài Gòn được giao cho nhóm trẻ này mở rộng, họ hoạt động theo những căn bản đã được ấn định. Và có cả một chương trình để áp dụng cho toàn quốc.

Sau khi thu thập đầy đủ kinh nghiệm và xác nhận sự thành công của hệ thống tổ chức và hoạt động, phải chăng đã đến lúc phải đặt cho hệ thống tổ chức này một định chế, bởi vì nếu không những sáng kiến là nguồn gốc của hành động sẽ bị đứng sững đó không phát triển thêm được.

Dứt khoát phải có một lý thuyết gia.

Phải chăng ông là người lý thuyết gia đó? Tôi hỏi vị Tổng Trưởng.

Mỉm cười. Hệ thống công tác tự nó có phải là một sự giải đáp đầy tính người, đầy nhân ái và nhạy cảm, thực tế hơn nhiều so với những gì mà việt cộng khoe khoang và đề nghị cống hiến cho đồng bào tôi không?

Chắc chắn rồi. Như vậy những thứ đạo đức mà việt cộng tự trang hoàng cho họ, một cách giả dối, nào là sự tận tụy với dân, lòng tin mãnh liệt đối với một lý thuyết cộng sản hoàn chỉnh, kỷ luật sắt thép của người cán bộ phục vụ nhân dân và xây dựng đất nước, sẽ là những luận cứ chứng minh cho việc làm của ông và của giới trẻ của ông là đúng phải không?

Dĩ nhiên, Nhưng mà chúng tôi chỉ mới bắt đầu. Chỉ có một hột giống mới nảy mầm. Ông chờ xem.

Tôi nhìn vị Tổng Trưởng này, không có vẽ Tổng Trưởng chút nào, ăn vận một cách lịch sự, nói năng như một vị “Tông Ðồ” truyền giáo, làm sao không tin lời nói của ông? Làm sao không tin cậy hành động của ông? Tuổi trẻ luôn luôn suy nghĩ hợp lý. Dù những gì có thể xẩy ra trong tương lai, tôi thấy tuổi trẻ Việt Nam đang tìm đường di động”

Kết quả của chương trình cho phép chúng tôi lan sang quận 6 Ðô thành, hoạt động thành công, và khởi sự tràn sang quận 7. Nhưng điều đáng tiếc là sau khi tôi từ chức Tổng Trưởng Thanh Niên, sự bất hòa và kình chống giữa hai vị Tổng Thống Thiệu và Phó Tổng Thống Kỳ gây khó khăn cho việc quản lý và hoạt động của nhóm chủ trương quận 8. Tổng Thống Thiệu ra lệnh phải đặt chương trình phát triển quận 8 trực thuộc phủ Tổng Thống, thay vì trước kia thuộc quyền quản trị của phủ Thủ Tướng Nguyễn cao Kỳ. Vị Thủ Tướng này dành mọi sự dễ dàng và thông cảm với nhóm trẻ, nên phong cách sinh hoạt thoải mái đạt được nhiều hiệu năng. Mọi danh dự và tiếng tốt đối với Mỹ và báo chí về sự vận động quần chúng tham gia hợp tác thành công đều hướng về Nguyễn Cao Kỳ, vì vậy nên ông Thiệu muốn lợi dụng cái danh dự đó và cũng có nhiều người của ông muốn gánh vác một việc mà họ tưởng có thể dùng quyền để điều khiển chỉ huy dễ dàng. Thực ra nếu ông Thiệu nghĩ đến quyền lợi của dân chúng thì ông phải ra lệnh cho chính quyền của ông hỗ trợ triệt để vì ông đã từng thấy và xác nhận, khi ông cùng với tôi đến viếng một nơi ven biên của quận 8 với tư cách là Chủ Tịch Ủy Ban Lãnh Ðạo Quốc Gia, ông đã từng chứng kiến nhóm trẻ này có tinh thần và lý tưởng, có chủ trương sâu sắc, sinh hoạt nhịp nhàng với nhau thì cho dù trực thuộc cơ quan nào của chính phủ thì cũng do ông lãnh đạo mà thôi. Tinh thần nhỏ nhen đó thể hiện trong rất nhiều sự việc sau này trong hai nhiệm kỳ Tổng Thống của ông làm cho ông bỏ lỡ cơ hội trở thành người hùng của đất nước. Bác Sĩ Hồ Văn Minh được Phủ Tổng Thống thông báo tự hậu phải trực tiếp chịu sự điều khiển của người do Phủ Tổng Thống chỉ định.

Tôi vô cùng đắn đo, một phần tiếc rẻ cho sự thành công trước mắt, một phần lo ngại người trực tiếp điều hành do phủ Tổng Thống chỉ định không am hiểu sự việc lại cũng không có tinh thần hòa mình với quần chúng, coi đám dân là nhóm người đề mình sai khiến, theo cung cách quan liêu, thì chắc chắn sẽ hư việc. Chi bằng giao trả lại cho Hành Chánh đô thành do Ðại Tá Ðổ Kiến Nhiễu, người của Tổng Thống Thiệu, điều hành là hơn. Tôi đề nghị anh em tổ chức một lễ bàn giao cho đô thành nhưng mời Phó Tổng Thống Nguyễn Cao Kỳ chủ tọa. Trong buổi lễ bàn giao đó Hồ Ngọc Nhuận thay mặt anh em, kể công ơn của cựu Thủ Tướng Nguyễn Cao Kỳ và xác nhận sự thành công của giới trẻ một khi người ta biết vận dụng và giao phó trách nhiệm cho họ bởi vì “thanh niên là người tổ quốc mong cho mai sau”.

Lễ bàn giao kết thúc, tôi đặt sẵn một bữa tiệc tại nhà hàng “Trường Can” đường Mạc Ðỉnh Chi, tôi mời Phó Tổng Thống Nguyễn Cao Kỳ dùng bữa cơm thân mật cùng với những anh em đã từng chia xẻ gian lao, cùng nhau phục vụ một lý tưởng, thực hiện một chủ trương để cám ơn ông đã dành cho giới trẻ chúng tôi sự thông cảm và ủng hộ nhiệt tình. Cho đến ngày nay, mỗi năm những người anh em đã từng tham gia chương trình này, trong cũng như ngoài nước, còn liên lạc, còn họp mặt, còn gởi điện thư nhắc nhở kỷ niệm đáng hãnh diện không thể quên.


Những bạn đồng hành

Nhớ lại thời gian trước, tôi chủ quan tưởng mình năng động, hăng say làm việc, hy vọng góp phần nhỏ mọn nào đó của một công dân trong công cuộc xây đựng đất nước, nhưng tiếc thay chí nguyện không thành! Nhưng tôi vẫn tin rằng mình khơi động được lòng yêu nước, chí hy sinh của tuổi trẻ để cùng nhau làm một cái gì đó có lợi ích cho dân tộc.

Chương trình phát triển Quận 8 do tôi đề xướng có thành công đó, tôi đã tụ tập được những tấm lòng đáng mến, những khả năng đáng kể, những tính tình đáng phục. Và trong bối cảnh bấy giờ, với những phương tiện ít oi, với môi trường quá khắc nghiệt, sình lầy, bệnh tật, chúng tôi đã biến những ao hồ, vũng lầy thành sân chơi, nơi xây cất, trường học, chẩn y viện. Chúng tôi tổ chức hành chánh, giáo dục, xã hội, y tế công cộng đi đến tận người dân. Ở Quận 8, trong thời gian ngắn ngủi ấy, chánh quyền - Ban Quản Lý Quận 8 - thật sự là vì dân, chia sớt những khó khăn của dân.

Tôi rất hãnh diện về những người bạn trẻ của tôi lúc bấy giờ. Chúng tôi có cãi vã với nhau, nhưng rồi ai ai cũng nhìn cái “đại cuộc”, để dị đồng chỉ là thử thách, suy nghĩ, tìm tòi, sáng tạo, biến nó thành một cơ may cho sự lớn mạnh của mọi thành viên. Nhờ vậy mà Chương Trình đạt được những thành quả “vĩ đại”. Vĩ đại so với vốn đầu tư, vĩ đại vì những tâm hồn trẻ, mỗi người một vẻ, đã chung lưng đâu cật, cùng với người dân địa phương cải tạo môi trường sống của họ, và đã đem lại cho Quận 8, một bộ mặt mới. Vĩ đại cũng vì nó có khả năng là sơ đồ cho một mô hình cải tạo cộng đồng, một cách thiết thực và hữu hiệu. Thật sự chúng tôi đã thành công vượt trên cái mức mà chúng tôi chờ đợi. Thành quả không thuộc của bất cứ ai. Chương trình là một bài học điển hình, phải nghiên cứu, học hỏi, và nhân ra ít nhất là cho những quận ven đô.

Tuy nhiên, đến thời Tổng Thống Thiệu, khi ông và thuộc cấp của ông có ý đồ lợi dụng muốn nhận công, hưởng được sự ca ngợi của báo chí nên sát nhập chương trình Quận 8 trực thuộc phủ Tổng Thống, tôi đắn đo e ngại. Tôi không chấp nhận . Nhưng biết đâu sự sát nhập đó giúp chương trình sẽ được mở rộng qui mô hơn. Ðúng lý ra tôi phải kiên trì tháo gỡ mọi sự thử thách cho đến cùng để phục vụ số đông dân chúng đả tin tưởng chúng tôi và đang cần sự giúp đỡ của ban quản lý chương trình. Tôi đã một lần không đặt quyền lợi những đồng bào nghèo khó của tôi lên trên sự hẹp hòi cố chấp.

Mặt khác chúng tôi, một nhóm bạn bè tập họp với nhau chủ trương thực hiện dân chủ và công bằng xã hội mà sinh hoạt rời rạc, vô tổ chức, vô kỷ luật, chỉ dựa vào tình cảm hay hứng thú. Không đồng loạt kiên trì theo đuổi mục tiêu cho đến cùng.

Kết cuộc, tôi phải trả mười một năm tù cộng sản, xét cho cùng tôi không ân hận! Bởi vì tôi cũng đã từng chia sẻ quyền điều khiển con tàu quốc gia thì khi nước mất tàu chìm, tôi cùng với một số đồng đội đồng hành gánh chịu gian nan là phải. Ðiều tôi tự an ủi mình là ít ra tôi đã hết lòng hết sức làm những gì lương tri và trí tuệ mình chỉ dẫn. Ðã sống một cuộc sống theo luân lý và giáo dục gia đình nung đúc, ít ra tôi không phải là hạng người khoác lác, nhưng ù lì hưởng thụ, không cần biết chuyện quốc gia, chết sống mặc bay, hay một vài tay sống bằng mặc cảm, tự ti hoặc tự tôn, chuyên môn chỉ trích bất cứ ai, bất cứ thứ gì, bởi chính họ không bằng người khác hay không thể làm được những gì họ muốn cho người khác làm hay hơn. Tôi muốn hiệp lòng với số đông người an phận, chấp nhận sự an bài của tạo hóa, không trách người, không trách mình, bởi vì chuyện đã qua rồi, có ai đi ngược được thời gian? Có ai sửa đổi được cơ trời vận nước hay lịch sử đã qua?

Trang đầu tập hồi ký có đoạn tôi viết: “Ngày nay viết lại chuyện dài của cuộc đời như kể chuyện vui cho bạn bè, nghe qua rồi bỏ, đừng cho đó là quan trọng, càng không nên xem là tài liệu lịch sử bởi vì đó chẳng qua đây chỉ là diễn biến bình thường của xã hội con người mà thôi”.

Nói về những bạn đồng hành, lòng tôi day dứt. Rất nhiều tên tuổi tôi thương nhớ, kính phục, nhưng cũng có vài bạn làm tôi bất mãn, buồn phiền, thất vọng.

Anh bạn Luật Sư Bùi Chánh Thời, vừa là cố vấn luật pháp vừa là cố vấn chính trị, luôn cả cố vấn tình cảm. Anh và tôi sát cánh với nhau cho đến sau ngày 30 Tháng Tư năm 1975, và mãi cho đến ngày tôi trở lại tù lần thứ hai. Chúng tôi buồn vì tình hình đất nước, chán tình đời, Thời và tôi cùng với cựu Nghị Viên Dương Văn Long uống rượu gần như mỗi ngày, nửa say nửa tỉnh. Tôi còn nhớ giữa anh và tôi xẩy ra một chuyện khôi hài là có lần tôi yêu cầu anh lập hồ sơ, tôi đứng tên kiện chính phủ về một vụ bất hợp lý gì đó. Anh trả lời luật lệ không có điều khoản đó, Thời cho tôi là thằng “nông dân có bằng cấp” nhưng chắc chắc không biết luật bằng anh ta. Tôi khẳng định điều tôi yêu cầu là hợp lý, bổn phận anh là tìm phương cách, tìm cho ra luật để mà thực hiện. Cãi nhau chí chóe, Anh Thời giận bỏ đi còn nói vói thêm một câu “ông cả vú lấp miệng em”. Về nhà anh ta tức giận bỏ ăn bỏ ngủ ra công soát lại từng điều khoản của bộ sách luật với mục đích sẽ trở lại xỉ vả tôi một trận nên thân, cho tôi bỏ cái tính cãi chầy cãi cối. Không ngờ khoản 4 giờ sáng chuông điện thoại nhà tôi reo, bắt ống, tôi nghe tiếng của Bùi Chánh Thời bên kia đầu dây cười ha hả nói:

- Tôi kiếm được rồi.

- Cái gì?

- Tôi đọc ông nghe nầy.

Anh Thời đọc cho tôi nghe nguyên văn bằng tiếng Pháp một điều khoản luật có thể dựa vào đó mà lập hồ sơ đưa ra tòa. Anh nói tiếp: Tôi tha tội cho ông đó. Nếu không có điều luật nầy ông sẽ biết tay tôi.

Anh Thời hiện định cư ở Úc Châu, nếu có đọc truyện nầy chắc anh cũng mỉm cười nhớ bạn ngày xưa. Có lẽ nhớ nhiều nhứt là mấy câu thề chính tay anh thảo. Tôi đốt hồ sơ không hết nên còn sót lại, cũng như một bài viết khác nặng ký hơn, do Lý Chánh Trung thảo. Việt cộng xét nhà bắt gặp, hạch hỏi tôi nhiều ngày, tôi chối quanh co vì không muốn lôi đầu mấy thằng bạn đã đầu hàng chạy theo địch vào tù. Nghĩ rằng điều đó cũng vô ít thôi. Trời sập rồi, ân hoán làm chi nữa.

Nhớ anh Giáo Sư Nguyễn Văn Trường, hiện định cư tại Houston, Texas, nhà mô phạm đáng kính, nhưng khi anh cùng với tôi từ chức Tổng Trưởng, Tướng Kỳ thuyết phục anh nên rút đơn lại không được, anh Trường không giãi bày, lý luận, chỉ cười nói gọn cảm nghĩ của anh là phải từ chức, thế thôi. Tướng Kỳ cười to hơn và nói:

- Anh là nhà mô phạm nổi tiếng, thế mà câu trả lời của anh không mô phạm tí nào cả.

Tính anh Trường ôn hòa với mọi người, hết tình với anh em, suy nghĩ chín chắn, ý kiến sáng suốt, tuy ít phát biểu nhưng tôi thường xuyên hỏi ý anh về rất nhiều việc. Tôi nói:

- Anh là lương tri của tôi. Anh là cố vấn tối cao.

Những câu nói đó làm anh Trường kịch liệt phản đối, nhưng tôi lấy làm thích thú, nửa đùa giỡn, nữa hiểu thật như vậy. Khi nội các chiến tranh cãi tổ lần thứ hai, tôi tuân theo chỉ thị của Tướng Kỳ mời anh Trường tham gia với tư cách là Tổng Trưởng Giáo Dục, anh bác bỏ đề nghị của tôi liền, tôi phải nài nỉ anh, mời lên xe cùng đi với tôi ra bến Bạch Ðằng Saigon hứng gió để bàn thảo tiếp. Chúng tôi trao đổi qua lại mãi đến gần hai giờ khuya anh mới chấp nhận, sau khi tôi làm trận làm thượng, hờn giận nhiều lần.

Cố Dân Biểu, Kỹ Sư Nguyễn Hữu Chung, con người khôn ngoan nhanh trí, trực tính kiểu miền Nam, hơi ngang bướng, thường dùng lời mai mỉa để pha trò, nhưng trung thành với bạn và cách hành sử đầy tình cảm. Tôi không quên thời tôi còn mang lon Thiếu Úy bị đầy lên Ban Mê Thuột, anh Chung đến nhà nói:

- Anh đi xa, ở nhà Trường London School của anh cần người, mỗi ngày tôi sẽ ghé qua phụ giúp. Tuy tôi trả lời mọi việc đều được thu xếp gọn gàng rồi, nhưng ơn anh và mối cảm tình nồng hậu đó tôi vẫn ghi nhớ cho đến bây giờ. Khi tôi định cư bên Pháp anh có qua thăm và chúng tôi gập nhau lần cuối khi dự đám tang Ðại Tướng Dương Văn Minh.

Giáo Sư Dương Văn Long, cựu Nghị Viên Hội Ðồng Ðô Thành, người đứng trung gian liên lạc giữa tôi và nhóm nghị viên hội đồng tỉnh hoạt động trong chiều hướng phản đối mọi sự lạm quyền, giới hạn dân chủ, hiếp đáp lương dân. Khi tôi làm báo Ðại Dân Tộc anh Long đứng tên quản lý. Có lần Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu kiện tờ báo vì tội mạ lị cá nhân, khi tôi cùng với các báo Sóng Thần, Ðiện Tín... đăng cáo trạng chỉ trích Tổng Thống. Luật sư Bùi Chánh Thời và Nguyễn Thị Tám bênh vực cho các bị can đặt câu hỏi: Nếu nhận tội, tòa án có thể xử phạt sáu tháng tù ở, nếu không nhận tội thì luật sư có thể nại lý do “hà tì thủ tục” (vice de forme) rồi xin đình hoãn dài dài. Anh Long yêu cầu Luật Sư biện hộ cho bị can nhận tôi.

Ðêm hôm trước ngày tòa xử, Dương Văn Long và tôi tâm sự nhau rất nhiều, đại ý anh sẵn lòng chấp nhận mọi gian nan, tù dày, để góp phần bảo vệ cho tự do báo chí. Phần tôi sắp xếp mọi việc cần thiết, vật chất, tài chánh cho gia đình anh để anh yên trí góp phần thực hiện điều mà anh và cả nhóm bạn bè chủ trương. Những lời tâm sự giữa tôi và anh còn ghi khắc sâu trong lòng. Một cộng sự viên tôi luôn luôn kính trọng dù ông nhỏ tuổi hơn, chức vị khiêm tốn hơn.

Nói tới Dương Văn Long tôi không quên nghĩ về Giáo Sư Phan Công Minh, cựu Hiệu Trưởng trường sư phạm Vĩnh Long, con người khiêm tốn nhứt trong nhóm anh em. Tôi nhớ anh cần cù thực hiện những công tác in ấn với cái máy in “Ronéo” cũ kỹ. Anh rị mọ xếp từng bao thơ, công việc mà các bạn đồng nghiệp của anh, Giáo Sư cùng trang lứa với anh thường trốn tránh. Và còn bao nhiêu người bạn trẻ khác đã từng chung vai chung sức với mục đích góp phần xây dựng một xã hội tốt đẹp cho miền Nam mà tôi không thể nào kể hết trong những trang hồi ký nầy.

Ðó là một số bạn bè cang cường, cùng với tôi không rời bỏ chiến tuyến, bảo vệ lý tưởng tự do dân chủ nhân quyền. Dù có khi tham gia chính quyền hay đối lập nhưng một mực chống ý thức hệ cộng sản. Không vì tham sống, ham lợi mà phản bội lý tưởng, phản bạn đồng hành, hay phải lừa dối chính mình chạy theo cộng sản.

Trong số ít đó có một vài người mà chính tôi - có thể nói được - là kẻ đã tạo dựng nên tên tuổi và sự nghiệp cho họ, tôi cảm thấy ray rức, buồn bực, khó nghĩ bởi vì nếu nói lên hết sự thật e rằng người đời tưởng mình cố chấp, thiếu khoan dung, thậm chí hằn học với đàn em thuộc cấp, một khi họ đã chối bỏ sự dẫn dắt của mình đi trên đường chính đạo để chạy theo tà gian cộng sản. Nhưng nếu không nói rõ sự thật thì tôi lỗi hẹn với độc giả, vi phạm lời hứa qua những dòng chữ ngay trang đầu của quyển hồi ký nầy là “trình bày sự thật, ngay tình, không tô son, không che dấu, bởi vì, thị phi thành bại chuyển đầu không”. Và nếu không nói rõ sự thật có thể gây hiểu lầm về nhiều vấn đề chính trị mà đa số người ngoài cuộc muốn biết cho rõ. Thôi thì dù sao những vấn đề liên quan tới đời sống cá nhân tôi đều có thể đưa vào những trang hồi ký của Võ Long Triều, độc giả sẽ tùy nghi phê phán.

Thời gian Lý Quí Chung làm việc tại Bộ Thanh Niên rất ngắn không có gì đáng nói. Anh ấy nhờ có được chứng chỉ hợp lệ tình trạng quân dịch nên có quyền nộp đơn ứng cử dân biểu quốc hội lập hiến. Dĩ nhiên anh là một thanh niên nghèo, gia đình không khá giả. Nếu tự anh muốn ứng cử thì chắc cũng không có tiền để đóng tiền ký quỹ đừng nói chi đến phí tổn vận động. Như đã nói trên, tôi quyết định ủng hộ một số bạn trẻ trong cuộc bầu cử Quốc Hội lập hiến sắp đến trong đó có Lý Quí Chung. Tôi cho phép anh Chung được hưởng thành quả của công tác phát triển quận 8 mà đồng bào nhiệt liệt hoan nghênh, họ sẽ dồn phiếu cho ứng cử viên nào mà cán bộ chương trình vận động. Ðáng lý cái quyền được hưởng đó phải thuộc về một trong “Tứ Ðại Gan Lì” là Mai Như Mạnh, Ðoàn Thanh Liêm, Hồ Ngọc Nhuận và Hồ Văn Minh.


Tham gia nội các

Hai ngày sau cuộc viếng thăm của Phó Tổng Thống Mỹ, Tướng Kỳ điện thoại mời tôi đến gặp ông. Vừa thấy mặt là ông nói ngay:

- Thế nào, toa đã suy nghĩ chín chắn chưa. Còn suy nghĩ cái mẹ gì nữa? Những ông trí thức của tụi toa thường hay nói: “quốc gia hưng vong thất phu hữu trách” kia mà, chẳng lẽ toa vô trách nhiệm sao? Chẳng lẽ toa không muốn bảo vệ cho sự thành công của chương trình phát triển cộng đồng của toa sao?

- Cái đó còn tùy, nhận trách nhiệm để làm cái gì và với những ai? Chắc toa cũng đoán được moa đã nghĩ gì rồi. Thôi thì moa nhận tham gia nhập cuộc.

Sở dĩ tôi bắt đầu gọi ông Thủ Tướng bằng toa là vì ngạc nhiên thấy ông tự nhiên xưng “toa moa” với tôi. Thông thường đối với người Pháp “tutoyer” (gọi nhau toa moa) là tỏ ý muốn thân thiện. Ðối với phái nữ mình khởi sự “tutoyer” là một cách xin phép làm thân, nếu người ta không vừa ý thì trả lời ngay bằng cách gọi “ông, bà hay cô” trở lại, mình phải hiểu ngay rằng cửa đó đã đóng, hay ít ra là chưa mở liền. Bắt đầu từ đó ông Kỳ và tôi “à toi à moi” (xưng toa toa, moa moa) với nhau một cách thân thiện. Lần đầu tiên tôi bàn chuyện quốc gia với ông, tôi hỏi:

- Vấn đề gì làm toa đau đầu nhứt trong mấy tháng qua?

- Kinh tế. Tôn giáo, nói thẳng ra là Phật Giáo. Mấy ông thầy không chịu ngồi yên tu mà cứ yêu sách mãi. Toàn những yêu sách độc không hè.

- Vậy toa giải quyết như thế nào?

- Thì dang đầu dang cổ ra mà năn nỉ. Tìm cách kéo dài thời gian. Chả còn phải biết tính sao, chả còn làm ăn cái gì được hết. Bên ngoài người ta đồn đãi chính phủ sẽ đổ trong vài tháng nữa. Toa có dám nhào vô không?

- Ðối với tôi, nhào vô hay không, đâu phải đổ hay còn. Người lính đi đánh giặc đâu có nói trận nầy có thể thua, vậy mình đánh hay không đánh? Sự thật Phật Giáo đòi hỏi gì? Anh có biết rõ và đoán chắc được không?

- Mấy ổng muốn ban hành qui chế tôn giáo theo ý mấy ổng, và áp lực đòi chia ghế trong nội các nhiều hơn, thanh trừng cần lao và chế độ cũ.

- Moa nghĩ vấn đề tôn giáo chỉ là cái cớ bề ngoài thôi, sự thật là vấn đề chính trị, đó là chưa kể moa còn nghĩ có thế lực bên ngoài đốc xúi nữa là khác. Toa nói kinh tế làm toa đau đầu mà chính xác là vấn đề gì làm cho toa đau đầu chứ?

- Thú thật, tớ đâu có biết gì về kinh tế. Thị trường giá cả lên xuống, hàng hóa khan hiếm bất thường, giải quyết như thế nào? Moa có biết đâu. Mọi chuyện moa giao cho ông Tổng Ủy Viên Kinh Tế lo. Mà hình như ông ta lo không xong. Ngày nào báo chí cũng kêu ầm lên: Ðầu cơ tích trữ, vật giá leo thang. Moa đề nghị toa lãnh bộ kinh tế cho moa đi.

- Nhìn tổng quát mà nói, moa thấy có hai cách: trong thời buổi chiến tranh, một là áp đặt chế độ phân phối và tiếp tế, hai là chính phủ phải trực tiếp can thiệp vào thị trường, bằng nhiều cách, chớ không thể để cho tự do mua bán như thời bình được. Chỉ cần gian thương tích trữ để nâng giá, hay kẻ thù gieo một tin đồn thất thiệt, là đủ để làm xáo trộn thị trường. Nhưng moa sẽ không bao giờ nhận ghế Tổng Ủy Viên Kinh Tế. Bởi vì moa mới bước chân vào chính trường mà ngồi trên cái ghế có vàng, dù moa không lấy, người ta cũng đồn là đít của moa có dính vàng.

- Vậy toa muốn nhận bộ nào?

- Thì bộ Thanh Niên như ngày đầu toa đề nghị với moa. Toa muốn thay người ở Bộ Kinh Tế thôi hay còn bộ nào toa muốn thay nữa?

- Thay tất, nếu cần, trừ Bộ Quốc Phòng. Moa đã nói với toa rồi, mình phải tìm một “équipe” (đội ngũ) đồng ý chí, dám hy sinh.

- Toa cho moa vài ngày để thăm hỏi bạn bè.

Trong thời gian đó Tướng kỳ và tôi liên lạc thường xuyên qua điện thoại. Tôi tìm bạn tâm giao, rủ rê tham gia nội các, đa số từ chối, K.S. Lâm Ngọc Diệp, Phó Tổng Giám Ðốc Air Việt Nam, không muốn làm chính trị vì bà vợ không đồng ý. K.S. Nguyễn Văn Ðạt, Giám Ðốc Nha Thủy Vận, nói thẳng là không dám. K.S. Lưu Văn Lê, Giám Ðốc Nha Hợp Tác Xã không biết làm chính trị, không biết chỉ huy. B.S. Ðỗ Cao Huệ, Chánh Sở Mục Súc không dám. K.S. Nguyễn Văn An Phó Giám Ðốc Nông Vụ cũng chê. Những người nói không dám, tình thật hình như họ không tin là nội các có thể tồn tại hơn vài tháng chiếu theo những gì đã xẩy ra. Trần Ngọc Oành cựu Tổng Trưởng Công Chánh có ý muốn nhập cuộc một lần nữa, nhưng tôi quen biết Oành từ lâu, ngày từ khi ở Paris, nên tôi hiểu anh thích chức vụ hơn là tận tụy hy sinh nên tôi không giới thiệu, T.S. Nguyễn Văn Hảo, Tổng Giám Ðốc Nông Tín Cuộc và Hợp Tác Xã, là người chỉ ưa thích trình diễn. Cuối cùng tôi đề nghị với Tướng Kỳ hai người. Ðó là Trương Văn Thuấn giữ bộ Giao Thông, một sai lầm của tôi như đã nói qua ở đoạn trên. Âu Trường Thanh giữ bộ Kinh Tế, còn tôi giữ bộ Thanh Niên. Ðồng thời tôi cũng góp ý: nên thành lập một Tổng Cục Tiếp Tế để nếu cần mình sẽ can thiệp vào thị trường bằng cách nhập cảng, dự trữ, tung hàng ra, hoặc thu mua để can thiệp trực tiếp vào thị trường. Trung Tá không quân Trần Ðỗ Cung, người của ông Kỳ, phụ trách Tổng Cục nầy. Sáng hôm sau ông Kỳ mời tôi lên phủ Thủ Tướng có chuyện gấp. Tôi phân vân tự hỏi chuyện gì đây? Chắc là có trở ngại chăng. Ðúng như tôi dự đoán. Vừa bắt tay ngồi vào ghế, Tướng Kỳ đẩy về phía tôi một chồng hồ sơ dầy cộm bọc trong bìa cứng màu xanh lợt, bề dầy độ hơn một tấc tây và nói:

- Âu Trường Thanh là cộng sản mà toa giới thiệu nó vào nội các chiến tranh của mình? Hồ sơ đây, xem đi rồi nói chuyện tiếp.

- Moa chơi với Âu Trường Thanh khá lâu, sinh hoạt với nhau thường, moa có thể biết được tư tưởng của anh ta. Dĩ nhiên moa không thể đoan chắc 100% bởi vì “Sông sâu còn có kẻ dò, lòng người nham hiểm ai đo cho cùng”. Ðành rằng khi du học bên Tây anh Thanh có vẻ học đòi thiên tả theo “mốt” của sinh viên Pháp thời đó, tham dự trại hè hòa bình kiểu như bà L.S. Nguyễn Thị Vui, thích nói chuyện về học thuyết bất bạo động của Mahatma Gandhi, nhưng moa không nghĩ anh ta là cộng sản. Moa không cần đọc tập hồ sơ nầy. Xin toa nghe moa nói hết ý kiến của moa rồi toa tự ý quyết định. Moa không ép và cũng không đặt điều kiện bởi vì Âu Trường Thanh cũng không phải phe nhóm gì với moa cả. Hiện tại mình cần một người có khả năng điều khiển bộ kinh tế và ổn định cho bằng được thị trường đang xáo trộn làm dân chúng hoan mang phải không? Nếu như vậy thì cho dù Âu Trường thanh là một đảng viên cộng sản, bây giờ mình giả sử như nó là Hồ Chí Minh đích danh đi để cho dễ nói chuyện. Trong giai đoạn nầy, trong điều kiện hiện tại mà Hồ Chí Minh giúp mình ổn định được tình hình kinh tế cho dân mình nhờ, cho nội các đứng vững thì cám ơn. Nếu nó ló cái đuôi cộng sản thì mình còng đầu tức khắc. Mình nắm cán mà sợ gì? Tùy toa quyết định. Nếu đứng chỗ của toa thì moa sẽ mời nó hợp tác. Nhưng xin lập lại một lần nữa, hoàn toàn do chính toa quyết định nhé. Moa không thuyết phục toa nhận hay không nhận nó đấy.

Ông Kỳ lộ vẽ suy nghĩ, ngồi im, chấp mấy ngón tay trước ngực, dựa lưng vào ghế, bật tới bật lui độ hơn 30 giây ông nói:

- Mời Âu Trường Thanh lên đây đi.

Tôi bước tới cạnh bàn của ông lấy điện thoại gọi Âu Trường Thanh:

- Thanh đấy hả? Thiếu Tướng Chủ Tịch mời toa lên dinh ở số 2 đường Thống Nhứt ngay bây giờ.

Bên kia đầu dây tiếng anh Thanh nói:

- Toa đừng có cà rỡn. Ai thèm mời moa mà gọi. Moa không tin chuyện “phong thần” của toa đâu, chừng nào có xe của ông Thiếu Tướng xuống rước thì moa mới tin.

Tôi hơi bực mình, nhưng suy đi nghĩ lại, muốn cho được việc thì chuyện nầy là chuyện nhỏ.

Bỏ điện thoại xuống tôi nói với Tướng Kỳ:

- Thanh nó không tin, nó nói phải có xe của toa xuống Sicovina rước, nó mới tin.

Tướng kỳ nổi nóng ngay:

- Ð.M..., bộ hắn là bố của moa sao mà đòi phải có xe của Thủ Tướng rước?

- Toa nề hà chi chuyện đó mà nổi giận. Ðồng ý là phi lý và vô lễ, Nhưng toa có nhớ ngày xưa Lưu Bị mời Khổng Minh như thế nào không? Thằng Thanh chưa phải là Khổng Minh nhưng mình chỉ cần nó ngồi đó dẹp yên trận giặc kinh tế cho mình có thì giờ và cơ hội làm việc lớn được.

- Không biết tướng Kỳ nghe thuận tai hay vì nể mặt tôi mà ông nhận chuông. Thiếu Tá Liệu chạy vào.

- Liệu, anh xuống Sicovina rước ông Âu Trường Thanh lên đây tức khắc.

Chưa đầy 20 phút sau có tiếng gõ cửa, Thiếu tá Liệu đưa Âu Trường Thanh vào. Anh ta vừa khúm núm, vừa ngỡ ngàng, vừa mắc cỡ, tay mặt nắm cổ áo, tay trái chỉ đôi dép cao su, miệng xin lỗi tía lia.

-Xin lỗi Thiếu Tướng tôi có xin ông Thiếu tá cho phép tôi về nhà thay đồ nhưng ông không cho vì lệnh buộc phải đi tức khắc nên tôi không có cà vạt, không mang giày cho đủ lễ. Tôi bật cười, Tướng Kỳ tỉnh queo mời Âu Trường Thanh qua phòng khách ngồi nói chuyện cho thoải mái. Trà nước vừa đặt xuống bàn xong, Tướng Kỳ vào đề ngay:

- Anh Triều có giới thiệu với tôi anh đã từng làm Tổng Trưởng Kinh Tế trong nội các Nguyễn Ngọc Thơ rồi phải không?

- Dạ đúng.

- Anh nghĩ lần nầy anh có khả năng ổn định thị trường kinh tế đang làm dân chúng hoang mang không?

- Dạ có thể được với điều kiện.

- Ðiều kiện gì?

- Thứ nhứt Thiếu Tướng phải tin tôi và không nghe bất cứ ai cố vấn, nửa chừng buộc tôi phải sửa đổi biện pháp.

- Ðồng ý.

- Thứ hai, có thể có những sắc lệnh tôi trình ký liên quan đến việc ổn định thị trường xin Thiếu Tướng đừng nghe người khác mà từ chối.

- Ðược.

- Thứ ba... Thứ tư... thứ năm... vân vân... và vân vân... Âu Trường Thanh tiếp tục đặt một hơi đúng 13 điều kiện. Mỗi lần có điều kiện gì thuộc lãnh vực chuyên môn ông Kỳ lộ mắt nhìn tôi có vẻ muốn hỏi ý kiến, tôi khẽ gật đầu, ông Kỳ trả lời chấp nhận. Âu Trường Thanh tới Phủ Thủ Tướng lúc 11 giờ 20, anh đặt điều kiện và giải thích rành mạch xong xuôi, tôi nhìn đồng hồ đúng 1 giờ trưa. Thiếu Tướng Kỳ hỏi:

- Hết điều kiện chưa?

- Dạ hết.

- Bây giờ đến lượt tôi đặt điều kiện: Anh phải giải quyết vấn đề kinh tế một cách ổn thỏa, đem lại sự hài lòng và niềm tin cho dân chúng. Tôi đã chấp nhận tất cả những yêu cầu của anh mà nếu anh không thành công, trái lại gây thêm tai tiếng cho chính phủ thì chừng đó tôi sẽ hỏi tội anh, có chấp nhận không?

- Dạ chấp nhận.

Xong cuộc tiếp xúc, Tướng Kỳ mời tôi ở lại dùng cơm để bàn việc tiếp. Tướng Kỳ là người Bắc mà thích ăn mắm thái Châu Ðốc. Tôi thường dùng những bữa cơm rất giản dị với ông tại phủ Thủ Tướng, gần như bữa nào cũng có mắm thái Châu Ðốc, hợp khẩu vị với tôi.

Nội các chiến tranh của Thiếu Tướng Nguyễn Cao Kỳ, cải tổ lần thứ nhứt và trình diện ngày 21 tháng 2 năm 1966. Cái khó đầu tiên của tôi là tìm một ông Tổng Giám Ðốc Thanh Niên có uy tín đối với các bạn trẻ, có lý tưởng và năng nổ hăng say. Ðỗ Ngọc Yến và Hồ Ngọc Nhuận giới thiệu với tôi anh Ðỗ Quí Toàn. Tôi hết lời nài nỉ, thuyết phục nhưng anh Toàn không nhận. Tôi đành phải ép buộc Hồ Ngọc Nhuận giao chức quận trưởng lại cho anh Mai Như Mạnh và anh về lãnh vai trò Tổng Giám Ðốc Thanh Niên. Văn phòng Tổng Trưởng của tôi có hai anh bạn trẻ là Ðỗ Ngọc Yến và Trần Văn Ngô đóng vai Công Cán Ủy Viên. Ngồi vào ghế Ủy Viên tôi liền ra lệnh giải ngân tiếp cho hết 22 triệu dành cho chương trình phát triển quận 8. Từ đó anh em có điều kiện tối thiểu để kết nạp thêm nhiều bạn trẻ tình nguyện tham gia.

Một vài em đang bỏ học chơi bời lêu lổng, nay vì ham vui nhập cuộc mà thay đổi tính tình và nếp sống. Cha mẹ các em đến cám ơn những người phụ trách chương trình. Anh em chúng tôi tạo cho các bạn trẻ một nếp sống có kỷ luật, hòa nhã tử tế với bà con trong quận. Tiếng tốt đồn xa, nhiều bạn trẻ khác lần hồi gia nhập. Một hành động mà anh em xem như bình thường là mỗi sáng chào quốc kỳ rồi mới tản hàng làm việc, đối với tôi nó có ý nghĩa đặc biệt, đó là sự trung thành với quốc gia, sự bày tỏ lập trường, sự xác định chính nghĩa. Thói quen này không phải tôi bày ra mà không biết vị nào trong “Tứ Ðại Gan Lì” Minh, Nhuận, Liêm, Mạnh đề ra thật đáng khen đáng kính. Ðầu óc tôi lúc nào cũng chủ tâm lôi cuốn giới trẻ, gây cho họ có ý thức trách nhiệm, tham gia xây dựng xã hội tốt đẹp hơn làm mất đi cái môi trường thuận lợi để cộng sản có thể tuyên truyền mị dân là họ sẽ san bằng cái hố nghèo giàu, chống bất công xã hội. Các ông bạn của tôi thường tổ chức những buổi họp với đồng bào trong khu phố, vào buổi chiều khi họ rỗi việc để bàn thảo với nhau mọi vấn đề liên quan đến cộng đồng dân cư trong khu phố. Có những buổi tối mà tôi không bị ràng buộc bởi hội hè hay tiếp tân thì tôi cũng tham dự rất nhiều lần để góp ý. Vì vậy mà mọi việc đều có thể giải quyết một cách ổn thỏa với sự đồng ý và tham gia của tất cả. Những người vắng mặt thì nhờ sự giải thích của bà con láng giềng hiện diện trong những phiên hợp đó.

Vấn đề quan trọng nhứt là làm sao thuyết phục được quần chúng chấp nhận hợp tác tham gia, làm sao lôi cuốn được họ vào những công tác, dù nhỏ dù lớn, trong phường khóm, mà chúng tôi thường gọi là “phát triển cộng đồng”. Chỉ có cách hòa mình với họ để lấy cảm tình rồi tạo niềm tin. Một khi dân chúng chấp nhận mình là người của họ thì việc gì họ cũng có thể giúp mình thực hiện đến nơi đến chốn, và khó khăn gì họ cũng có thể hy sinh chấp nhận. Hai công tác khó khăn nhứt, mới nhìn vào hình như không có phương cách giải quyết nổi là chỉnh trang nhà cửa, dù là ổ chuột, nhưng không ai muốn rời khỏi chỗ ở của mình, biết đâu sẽ còn trở lại được không? Diện tích lớn nhỏ như thế nào làm sao thuyết phục để cho mọi người chấp nhận, rời bỏ nhà mình ra che chòi tạm trú chờ xây lại phố xá dù nhỏ nhưng khang trang, đường đi không còn lầy lội.

Công tác gay go thứ hai là làm sao cổ động mọi người tham gia kẻ xe, người gánh, tay bưng, tay xách đất do xáng thổi từ sông lên để san bằng những ao vũng làm thành nền nhà. Tất cả mọi thứ công tác, mọi sự suy bì ngờ vực đều được giải quyết bằng sự cảm thông, bằng sự đồng thuận trong các phiên họp, bằng sự hy sinh quyền lợi nhỏ nhoi, suy bì phi lý, tóm lại tình thương và sự tin tưởng lẫn nhau có thể san bằng mọi thứ quyền lợi.

Chúng tôi khởi sự bằng những công tác đơn giản, nho nhỏ, là đẩy xe 3 bánh hốt “xà bần”, đất cát, đem về lấp những đường hẻm lầy lội. Vấn đề tiên quyết để thành công là phải tạo cho bằng được cảm tình của đồng bào. Rồi sau đó mới có thể lôi cuốn họ tham gia cải biến cuộc sống cá nhân. Về sau khi chúng tôi đặt được cơ bản khá vững chắc rồi thì đề nghị lập trường trung học cộng đồng quận 8. Việc thành lập và và bổ nhiệm giáo sư, nếu người không phải là trong cuộc thì tưởng chừng như rất khó, nhưng sự thật rất dễ dàng bởi lẽ vị Tổng Trưởng Quốc Gia Giáo Dục là bạn thân, anh Nguyễn Văn Trường do chính tôi nài nỉ và giới thiệu cùng tham gia nội các với tôi. Ngoài ra việc can thiệp với Bộ Quốc Phòng cho những quân nhân được biệt phái cũng là việc khó, nhưng tôi phải thú nhận là lúc nào tôi cũng nhờ có sự thông cảm và giúp đỡ tận tình của Tướng Kỳ nên tôi vượt được mọi khó khăn. Chương trình quận 8 thành công, lan rộng sang quận 6 và quận 7 chưa được hoàn tất. Dù sao tinh thần và phương cách đã được khởi xướng, biết đâu nó là một sự gợi ý cho thế hệ đàn em đàn cháu sau nầy sẽ thực hiện tốt đẹp hơn.

Một kỷ niệm khôi hài, xảy ra rất bất ngờ đối với tôi là có một ngày tôi tham gia công tác đẩy xe hốt xà bần, lấp sình lầy trong hẻm, có xảy ra chuyện gì làm tôi bất bình văng tục, đã vậy còn cười đùa rộn rã. Cũng trong chuyến công tác đó có một đoàn hướng đạo Phật Tử do Thượng Tọa Thích Pháp Siêu lãnh đạo. Lời văng tục và sự đùa giỡn của tôi làm chướng tai vị tu sĩ này nên ngài bèn hỏi anh Châu, trưởng toán hướng đạo Phật Tử: “Thằng nào mà lớn lối dữ vậy?” Anh Châu trả lời: “Ông Tổng Trưởng Thanh Niên đấy”. Thượng Tọa Pháp Siêu rất ngạc nhiên tìm tôi nói:

- Xin lỗi ngài tôi không biết ngài là ai nên mới hỏi “thằng nào lớn lối vậy”? Tôi không ngờ một ông Tổng Trưởng như ngài mà đi hốt xà bần với anh em.

- Chính tôi phải xin lỗi Thượng Tọa mới phải vì những lời lẽ bất nhã vừa qua. Xin Thượng Tọa đừng chấp vì tuổi trẻ với nhau chúng tôi ăn nói hơi bừa bãi. Tôi thật tình rất xấu hổ, xin Thượng Tọa tha thứ.

- Nếu ngài Tổng Trưởng không chê thì tôi kính mời ngài ghé qua chùa của tôi dùng chén trà để tôi hân hạnh được tiếp kiến.

Dĩ nhiên tôi bằng lòng chấp nhận nhưng vẫn còn xấu hổ ngại ngùng. Thì ra vị tu sĩ này là trụ trì một chùa tọa lạc bên đường Trần Quốc Toản chạy ra xa cảng, hình như tên chùa là “An Lạc” tại khu An Dưỡng Ðịa. Về tới chùa thượng tọa và tôi bàn bạc về bác ái và từ bi, về tuổi trẻ về hiện tình đất nước, sau nhiều tuần trà vị Thượng Tọa có tặng cho tôi một quyển kinh Phật do ngài phiên dịch hay tự tay ngài biên soạn gì đó để làm kỷ niệm cho cuộc gặp gỡ.

Vài kỷ niệm khác trong những lần công tác ở quận quận 8 làm tôi khó quên. Dĩ nhiên ban ngày tôi phải ngồi ở văn phòng Tổng Trưởng. Chỉ có đêm tôi mới tham gia sinh hoạt, với mục đích khuyến khích bạn bè và dân chúng. Anh em công nhân ở lò heo Chánh Hưng nghe nói ông “quan trẻ” này chịu chơi lắm nên nhắn hỏi tôi có dám xuống uống rượu với họ một lần không? Hay là chê họ là thấp hèn. Ðêm đó họ đãi tôi óc heo chưng, nhậu toàn rượu đế. Chiều lòng anh em và cũng muốn chứng tỏ mình “chịu chơi” thật, nên tôi phải cạn ly với từng người để tỏ tình thân hữu, dù là ly nhỏ nhưng nhiều người cũng đủ làm cho tôi say hết biết mình là ai! Tài xế vệ sĩ đưa về, tôi chỉ nhớ mang máng hai ông kè tôi tới phòng ngủ, bà xã nói lải nhải những gì tôi cũng chẳng biết. Một đêm khác, tôi cho xáng vét sông thổi đất lấp hố làm nền nhà để chỉnh trang khu phố. Tôi cùng với anh em và đồng bào, kẻ gánh, người bưng, người khác khuân vác, còn tôi thì dùng xe “bù-ệt” (cút-kít) cộ đất. Bỗng nhiên có một thanh niên lực lưỡng đi ngang chận tôi lại vừa cười vừa nói giả bộ trách móc:

- ÐM... cảnh sát dí súng lục vào sườn biểu tôi làm, chưa chắc tôi chịu làm, còn ông biểu tôi khiêng đất chết mẹ tôi mà ngày mai tôi còn phải thức dậy 4 giờ sáng đi đạp xích lô nữa nè ông ơi.

Tôi bèn trả lời:

- Ê nhìn kỹ mặt tôi đi ông nội, đáng lẽ giờ này tôi ôm vợ ngủ ngon trong phòng lạnh, tội gì phải đi xe đất chết mẹ để làm nền xây nhà, xây phố cho ai ở đây? Cho cha tôi hay cho cái thằng khỉ đột đứng trước mặt tôi đó?

- Nói chơi mà ông thầy, đừng giận nghe, ngày mai tụi mình xe nữa nhé.

- Còn khuya. “Bỏ đi tám”.

Nói xong cả hai chúng tôi cười ha hả và tiếp tục làm cho đến 12 giờ đêm xáng ngừng thổi theo giờ của ban quản lý ấn định. Một vài sự kiện xảy ra đối với tôi còn biết bao nhiêu việc khác mà nhiều anh em trong chương trình gặp phải. Những sự kiện đó chứng tỏ lòng dân rất dễ thu phục, chỉ cần làm cho họ thấy mình thật lòng lo cho họ thì họ sẽ chết sống nghe theo mình.



Hoạt Ðộng Trong Nội Các

Hai ngày sau khi ký bàn giao nhậm chức là tôi phải cãi nhau với đồng nghiệp Giáo Dục đến nỗi cần đến sự can thiệp của Thủ Tướng mới giải quyết được. Nguyên nhân vấn đề là việc tổ chức giải thể thao liên viện do B.S. Trần Ngọc Ninh, Tổng Trưởng Giáo Dục chủ xướng, qui tụ thanh niên các viện Ðại Học Saigon, Ðà Lạt, Huế và Vạn Hạnh. Bộ đã tổ chức không chu đáo mà viên chức cao cấp của bộ còn ra thông cáo phổ biến trên đài phát thanh, thóa mạ sinh viên, nên giáo sư và sinh viên làm reo, không chịu diễn hành trước Ủy Ban Lãnh Ðạo Quốc Gia và Hành Pháp Trung Ương, và cũng không chịu thi đấu. Dĩ nhiên là phần thể thao thuộc nhiệm vụ của bộ thanh niên. Hai vị Giám Ðốc thanh niên và thể thao là Nguyễn Văn An và Nguyễn Thành Nhơn tiếp xúc với giáo sư và sinh viên tại sân vận động Cộng Hòa, hai anh khuyên tôi không nên xen vào bởi lẽ câu chuyện trở thành gay cấn đến mức độ mà bộ Thanh Niên của mình không thể giải quyết được.

Mặt khác, mình mới nhận chức nên cứ để cho bộ giáo dục tiếp tục hoàn thành công tác của họ, chúng ta chỉ cung cấp trọng tài để chủ trì những cuộc thi đấu mà thôi. Tôi muốn đến hiện trường tiếp xúc với giáo sư và sinh viên nhưng hai vị giám đốc của tôi hết lời ngăn cản. Ý tôi đã quyết. Ngạn ngữ Pháp có câu: “Il faut saisir le teaureau par les cornes” (tạm dịch: Muốn vật bò mộng phải trực diện nắm hai sừng) . Tôi điện thoại yêu cầu ông Tổng Trưởng Giáo dục cùng đi với tôi đến tiếp xúc với sinh viên để dàn xếp sự việc. Ông Ninh cương quyết từ chối. Tôi đành về nhà thay quần jean mặc sơ mi ngắn tay, mang dép lẹp xẹp, với ý nghĩ ngây thơ, ngớ ngẩn, hay là hợp lý cũng chẳng biết, tôi muốn cho có vẻ bình dân hòa mình với anh em. Tôi cho triệu tập giáo sư và sinh viên tại phòng họp để tôi tìm hiểu sự việc và giải quyết vấn đề nếu thật sự có sơ sót hay rắc rối. Hơn 100 sinh viên và giáo sư ngồi trước mặt, tôi dịu giọng hỏi anh em: Việc gì đã xẩy ra? Vì tôi mới nhận chức có hai ngày nên không biết rõ. Một số sinh viên hằn học chỉ trích chính quyền vô trách nhiệm, một số khác chỉ trích cá nhân tôi, tại sao làm Tổng Trưởng mà không có nhân viên phúc trình cho dù mới nhận chức. Họ cho là tôi coi thường sinh viên và giáo sư nên không cần biết việc quan trọng đã xẩy ra. Tôi đích danh yêu cầu một vị giáo sư đại học Huế là anh Nguyễn Hữu Trí xin vui lòng cho tôi biết tự sự như thế nào. Thì ra tôi biết được là bộ mời họ về đây, cho ở tại sân Cộng Hòa, không đủ nước tắm, không có mùng ngủ, muỗi cắn sần mình, thái độ ”đem con bỏ chợ” như thế nầy là khinh thường giáo sư và sinh viên. Vì vậy họ phản đối làm reo, không chịu diễn hành, không thi đấu. Ðổng Lý Văn Phòng bộ giáo dục ra thông cáo đọc trên đài truyền thanh đổ lỗi cho sinh viên, chê là thái độ trẻ con, tố cáo trong số người của họ có phần tử phá rối. Anh Trí nói: “Nếu bộ giáo dục không ra thông cáo xin lỗi, chúng tôi sẽ biểu tình phản đối”.

Sau khi tôi có lời vuốt ve và tỏ ý thông cảm, tôi tuyên bố một cách khẳng định:

- Thứ nhứt cho tôi xem lại chỗ ăn chỗ ở của quí vị và cho tôi thì giờ để xem nội dung bản thông cáo của ông Ðổng Lý văn phòng bộ Giáo Quốc Gia Dục nói gì.

- Thứ hai tôi sẽ điều chỉnh mọi sự việc một cách hợp tình hợp lý nếu quả thật có sai trái như quí vị đã trình bày.

- Thứ ba ông Ðổng Lý phải ra thông cáo xin lỗi, nếu thông cáo trước có ý mạ lị.

- Thứ tư nếu quí vị có lý mà tôi không bênh vực được lẻ phải thì tôi sẽ từ chức ngay trong ngày hôm sau.

- Thứ năm, sau khi giải quyết xong, quí vị phải chấp nhận đi diễn hành và thi đấu.

- Thứ sáu nếu quí vị tiếp tục có hành vi phản đối, hay xuống đường biểu tình thì đích thân tôi sẽ chỉ huy cảnh sát dẹp loạn. Những gì tôi mới phát biểu nếu quí vị đồng ý thì xem như lời hứa hẹn đôi bên, tôi xin tạm thời ngưng cuộc họp hôm nay tại đây.

Ðại đa số vỗ tay đồng ý, một số anh khác còn ấm ức bất bình, đá ghế bỏ ra.

Tôi xem qua chỗ ăn chỗ ngủ đúng như lời của giáo sư Trí tường thuật. Ra về tôi đi thẳng đến Bộ Giáo Dục, gặp đồng nghiệp Trần Ngọc Ninh. Ông Ðổng Lý một mực ngoan cố tố cáo có sinh viên muốn phá rối. Tổng Trưởng Trần Ngọc Ninh bênh vực ông Ðổng lý của mình. Ông Ninh và tôi cãi nhau rất lịch sự nhưng rất quyết liệt. Không ai chịu thay đổi lập trường. Cuối cùng tôi mượn đường dây trực tiếp giữa thành viên nội các và Thủ Tướng, trình bày trước mặt ông Ninh về những sự việc đã xẩy ra mà tôi được chứng kiến tận mắt và đề nghị Thủ Tướng ra lệnh cho ông đổng lý phải ra thông cáo xin lỗi sinh viên, đồng thời tôi cũng yêu cầu Thủ Tướng ra lệnh cho Tổng Cục Tiếp Vận của quân đội kéo vào sân cộng hòa mấy bồn nước cho sinh viên và giáo sư dùng, đồng thời cho họ mượn ghế bố, mùng mền đầy đủ. Nếu lời tôi yêu cầu không được thỏa mãn, tôi sẽ đệ đơn từ chức sáng hôm sau. Tướng Kỳ tức giận nạt dội: “Ðưa moa nói chuyện với anh Ninh”. Tôi không biết hai người nói gì với nhau, đến khi ông Ninh đưa ống nghe lại cho tôi thì Tướng Kỳ cho biết: “Moa đã ra lệnh cho anh Ninh ra thông cáo xin lỗi sinh viên và cất chức đổng lý đó rồi. Chiều nay sau 6 giờ toa lên đây chúng mình đi thăm bọn sinh viên vuốt ve họ một chút”. Câu chuyện kết thúc tốt đẹp, nếu không, tôi đã từ chức và làm tổng trưởng được ba ngày.

Lãnh vực thanh niên cũng như chính trị bao gồm rất nhiều tổ chức và hội đoàn. Mỗi trưa thứ hai đầu tuần, tôi mời tất cả thanh viên ban lãnh đạo của một hội đoàn dùng cơm với tôi để thúc đẩy họ tham gia công tác phát triển cộng đồng quận 8. Hoặc yêu cầu họ tự đề ra bất cứ một công tác nào có ích cho quốc gia, xã hội, tôi đều ủng hộ và giúp đỡ phương tiện, tạo điều kiện cho họ thực hiện.

Mặt khác, tôi biết được ngân sách của Tổng Nha Kiến Thiết năm vừa qua còn dư 192 triệu đồng. Tôi lập tức trình Thủ Tướng xin chuyển khoản tiền nầy cho Bộ thanh niên để tôi dùng xây những “Nhà Thanh Niên” làm trung tâm sinh hoạt cho tuổi trẻ tại Saigon và một số tỉnh lớn. Ðề nghị của tôi được chấp thuận dễ dàng. Trong hoạt động hằng ngày, tôi thường gặp biết bao nhiêu sự bất ngờ, vui có, bực mình có, khó khăn có, an ủi có, hãnh diện có, ngã lòng có.

Cái khó đầu tiên là tôi phải tạo cho bằng được sự nhiệt tình ủng hộ và hăng say làm việc của nhân viên thuộc quyền. Chỉ có điều kiện đó tôi mới hy vọng đạt kết quả trong mọi hoạt động. Tôi chỉ thị cho văn phòng đạt lời mời của tôi đối với toàn thể anh chị em thuộc cấp dự buổi tiếp tân do tôi khoản đãi trước khi tan sở hai tiếng đồng hồ, không ai được phép vắng mặt. Trong buổi tiếp tân, các vị Chủ Sự, Chánh Sở, Giám Ðốc, Thanh Tra, ai cũng muốn tìm cách chuyện trò với tôi để tìm hiểu và gây cảm tình, nhưng sau khi bắt tay nói qua loa xã giao vài tiếng, tôi tìm mấy anh tài xế, lao công và nội dịch, cập cổ từng người ra vẻ như thân mật từ lâu, hỏi chuyện vui buồn của họ trong bộ.

Bộ có đông nhân viên do Tổng Nha Thanh Niên và Bộ Công Dân Vụ của Ðệ Nhứt Cộng Hòa để lại. Có anh thì rụt rè e ngại không dám nói gì, có anh thì vui mừng hãnh diện nói chuyện huyên thiên, có anh thì dè dặt ú a ú ớ không chịu trả lời thẳng. Những viên chức này chắc chắn có vấn đề nhưng không dám tiết lộ. Tôi cố tình gạn hỏi cho bằng được với lời cam kết không tiết lộ với bất cứ ai và bảo đảm an toàn cho những đương sự nào chịu thố lộ tâm tình với tôi, cuối cùng biết được một vấn đề mà tôi cho là khá quan trọng đối với đời sống của một công chức cấp nhỏ. Ðôi khi họ gặp cảnh túng thiếu phải vay mượn. Vấn đề là ông phát ngân viên của bộ lấy tiền ở đâu không biết, cho nhân viên vay lấy lời “cắt cổ”, mỗi tháng ông tự động trừ lương, nhưng cái khổ của con nợ là tháng nào vợ đau con yếu xin khất lại để tháng sau trừ tiền cũng không được.

Buổi tiếp tân chấm dứt. Sáng hôm sau vừa đến bộ tôi gọi bí thư vào văn phòng, tự tôi đọc lệnh cất chức một loạt sáu người, khởi sự từ phát ngân viên và một số chủ sự, chánh sở có liên hệ, đồng thời cử sáu nhân viên khác thay thế, buộc phải bàn giao trong ngày. Mặt khác tôi ký liền quyết định thành lập một ngân quỹ tương trợ ba trăm ngàn đồng, đặc biệt dành để cho nhân viên vay mượn khi cần thiết. Tôi cũng đọc cho bí thư viết luôn điều kiện vay trả. Trong đó nói rõ chỉ cho vay trong thời hạn tối đa ba tháng phải trả, người nào không trả đúng hạn sẽ vĩnh viễn không được phép vay nữa.

Ủy ban duyệt xét và kiểm soát hồ sơ gồm chánh văn phòng, các giám đốc hành chánh, thanh niên, thể thao và một đại diện nhân viên. Tôi còn chỉ thị cho Chánh Văn Phòng không được phép đưa lệnh cất chức nầy và quyết định lập quĩ cho Nha Hành Chánh và Tài Chánh để phổ biến mà chính văn phòng Tổng Trưởng đánh máy và phổ biến luôn. Sở dĩ tôi làm cho ra vẻ bí mật và quan trọng như vậy là vì muốn tạo sự ngạc nhiên sửng sốt để cho có tiếng vang là ông tân Tổng Trưởng chiếu cố đến nhân viên và làm việc ngang ngược bất chấp thể lệ hành chánh. Tôi hy vọng điều đó gây được sự thương kính của nhân viên trong bộ, bù lại những thắc mắc và ngạc nhiên của họ về tuổi tác và dáng dấp còn non trẻ của ông “xếp” mới. Vài tuần lễ sau tôi được biết có “câu lạc bộ” phục vụ nước uống và cơm trưa cho nhân viên, được hưởng trợ cấp ít nhiều của nhà nước. Một buổi trưa, bất chợt tôi buộc toàn bộ nhân viên văn phòng từ bí thư, chánh văn phòng, tham chánh văn phòng, thư ký đánh máy cùng với tôi đến câu lạc bộ dùng cơm trưa. Vừa bước vào tất cả ngạc nhiên, nhiều người đứng dậy chào, chủ câu lạc bộ săn đón, người dọn bàn lao chùi, đổi ly đổi chén, ông chủ gọi bếp phải chiên thêm trứng có tôm khô và cà tô-mát. Tôi vội vã yêu cầu dọn những phần ăn giống y hệt như tôi đang nhìn thấy trên những bàn lân cận. Ngày hôm sau tôi lại tái diễn cái màn kịch hôm trước. Người của câu lạc bộ thắc mắc, nhân viên bàn tán xôn xao, vừa ngạc nhiên vừa đánh nhiều dấu hỏi.

Trưa ngày thứ ba liên tiếp, tôi lại tái diễn cảnh của mấy hôm trước. Sau đó tôi lấy ý kiến của nhân viên văn phòng, ý kiến của hai ông Tổng Giám Ðốc Thanh Niên và Giám Ðốc Hành Chánh. Tất cả đều xác nhận bữa cơm tồi tệ so với giá tiền nhân viên phải trả và trợ cấp của chính phủ. Tôi quyết định hủy bỏ hợp đồng và gọi một nhà thầu khác thay thế, không cần phải đấu thầu lại, chờ lâu lắc rồi cũng đút lót, gian dối nữa thôi. Trong hợp đồng với nhà thầu mới phải ghi “phục vụ tương xứng với số tiền trong điều kiện có thể chấp nhận được”. Lại một việc làm ngang ngược trái phép nhà nước của tôi nữa. Ðiều nầy khiến nhà thầu cũ gởi đơn kiện thưa lên đến Thủ Tướng. Ông Kỳ điện thoại trách hỏi tại sao tôi phá luật lệ? Sau khi tôi trình bày cặn kẽ sự việc xẩy ra ông thông cảm cười nói “Ðáng kiếp tụi nó”. Ðương nhiên, tôi ra lệnh cho bí thư giả vờ úp mở, tung tin cho nhân viên biết rằng Tổng Trưởng bị Thủ Tướng khiển trách về vụ bênh vực quyền lợi của nhân viên nên hủy bỏ hợp đồng câu lạc bộ trái phép. Mặc khác tôi đã gởi danh sách của gần 20 nam huấn luyện viên thanh niên thể dục thể thao sang bộ Quốc Phòng để xin biệt phái họ về nhiệm sở cũ với lý do chuyên môn tối cần thiết, cũng giống như các giáo sư của bộ Quốc Gia Giáo Dục, bởi vì các huấn luyện viên của tôi cũng dạy thể dục thể thao cho các trường trung học cùng một danh hiệu với các giáo sư khác.

Tôi vừa nài nỉ Trung Tướng Nguyễn Hữu Có, Tổng Trưởng Quốc Phòng, vừa phân trần khiếu nại với Thủ Tướng, cuối cùng tất cả nhân viên của tôi xin biệt phái đều được trở về nhiệm sở.

Chiến dịch “tâm lý chiến” để lấy cảm tình không còn cơ hội nào khác để lợi dụng thực hiện được nữa, tôi bèn nghĩ ra chuyện “hốt hồn” thuộc cấp. Có một ngày, khoản 10 giờ sáng tự nhiên tôi bước ra gọi bí thư và chánh văn phòng cùng đi, tôi vào phòng của một cô thư ký và hỏi:

- Cô đang làm việc gì đó?

- Dạ em, em... , em tính, vừa nói cô vừa soạn sắp hồ sơ...

- Chủ sự của cô là ai?

- Dạ ông...

Cô có nói tên một ông chủ sự nào đó mà cho đến nay tôi không nhớ rõ. Tôi gọi ông chủ sự đó ra và hỏi:

- Ông giao nhiệm vụ gì cho cô thư ký của ông?

Ông ta ấp úng. Tôi hỏi tiếp:

- Vậy chánh sự vụ của ông là ai?

Tôi lập lại những câu hỏi tương tự với ông chánh sở mà tới nay, thời gian đã lâu quá rồi, tôi cũng không còn nhớ tên. Và cuối cùng lên đến Giám Ðốc Thể Dục Thể Thao là ông Nguyễn Thành Nhơn, sau nầy lấy biệt hiệu “con kiếng càng”, hiện đang cư ngụ tại Houston, Texas.

Tôi gọi anh Nguyễn Thành Nhơn vào văn phòng, cho anh ta một bài nên thân, và kết luận bằng câu tôi thường hay mỉa mai để khiển trách các cộng sự viên của tôi là: “Tôi giao trách nhiệm cho anh, rồi anh giao cho chánh sở, chánh sở giao cho chủ sự, chủ sự giao cho thư ký, rồi thư ký hoặc để ỳ đó, hoặc kêu anh xích lô giao cho họ là xong việc! Có phải thế không? Trả lời đi?”

Kể từ đó chẳng những tôi chiếm được cảm tình của nhân viên mà còn tạo được sự kính nể vì họ lo có thể bị thanh tra bất thần, nên không dám bê trễ công việc. Tiếng đồn, còn có dậm thêm mắm muối, từ bộ loan về các ty thanh niên ở tỉnh, nhứt là số Trưởng Ty mới được biệt phái về bộ do sự tích cực can thiệp của tôi đối với bộ Quốc Phòng. Guồng máy nhân sự của tôi bắt đầu chạy hăng say với ít nhiều hứng thú.

 

Mỗi thứ hai tôi họp toàn bộ cấp chỉ huy để trình bày, thảo luận và quyết định những việc làm trong tuần. Giám Ðốc Kế Hoạch là Dược Sĩ Hoàng Ngọc Tuệ, hiện định cư tại Orange County, con người năng nổ thích hoạt động thanh niên, có rất nhiều sáng kiến, quá nhiều sáng kiến, đến độ các đồng nghiệp xỉ vả ông tại sao tuần nào cũng bày vẽ ra thêm nhiều việc cho tôi quyết định thực hiện làm anh em phải “đầu tắt mặt tối”, có khi còn bị rầy vì bê trễ. Phải công nhận mười kế hoạch ông Tuệ trình bày ít ra cũng có một hai cái tốt phải làm. Cho nên gần như tuần nào cũng có việc mới. Vì thế ông bị xỉ vả là phải.

Mỗi trưa thứ bảy tôi quyết định tổ chức một bữa cơm do cộng sự viên từ cấp chủ sự trở lên thay phiên nhau đài thọ. Tại bữa cơm trưa đó, tôi chỉ nghe các lời chỉ trích phê bình, mỉa mai cay đắng mà không có quyền trả lời, không có quyền hờn giận. Tôi sẽ sửa sai nếu thấy hợp lý, ngày thứ hai đầu tuần sau, tôi giãi bày thuyết phục anh em về những lời chỉ trích không đúng. Tinh thần cởi mở đó tạo sự tin tưởng và thoải mái cần thiết cho việc làm hằng ngày.

Cái khó thứ hai về đối ngoại, là tôi không cho phép cố vấn Mỹ đặt văn phòng của ông tại Bộ. Thứ nhứt tôi muốn cho thuộc cấp của tôi thấy sự hoạt động của mình hoàn toàn độc lập đối với cơ quan viện trợ, dù họ rất chí tình và tích cực. Vị cố vấn Mỹ mà tôi không còn nhớ tên thường hay khiếu nại rằng ông ta luôn luôn thỏa mãn mọi yêu cầu của tôi mà tại sao ông chỉ xin một căn phòng làm việc tại bộ tôi lại không cho? Tôi trả lời một cách ỡm ờ rằng Tòa Ðại Sứ các ông đâu có thiếu văn phòng để làm việc, cần chi phải ngồi gần tôi, mỗi khi cần liên lạc thì có điện thoại, cần gặp tôi thì ông đến bất cứ lúc nào. Giằng co cả tháng trời ông cố vấn đành phải chấp nhận. Có lần tôi mượn một chiếc xáng đào kinh của USOM để thổi đất làm nền nhà cho khu chỉnh trang ở quận 8. Ông Giám Ðốc Man hứa với tôi ngày đó tháng đó sẽ có, nhưng thực tế lại không, mà ông Man cũng chẳng thèm báo cho tôi biết. Tôi điện thoại lần thứ hai, lại một lời hứa suông. Tôi bèn than phiền với ông cố vấn chính trị tòa Ðại Sứ và thẳng thừng chê người Mỹ không coi trọng lời nói là danh dự. Ít hôm sau trong một cuộc tiếp tân tại dinh Khâm Sứ Tòa Thánh Vatican, ông Philippe Habib, gọi ông Man, Giám đốc USOM, đến trước mặt tôi nặng lời khiển trách và kết luận rằng: “Tôi không ưa những người nói dối.” Một tuần sau cơ quan USOM thay đổi Giám Ðốc khác.

Bước đầu của ông Âu Trường Thanh gặp sự chống đối của nhiều tướng lãnh viện cớ là ông “Hiệu Triệu” đồng bào về lề lối sinh hoạt kinh tế. Tướng Kỳ mời tôi lên phủ, ông “giũa” tôi một trận thê thảm về hai chữ hiệu triệu chỉ dành cho Tổng Thống hay Thủ Tướng mà thôi. Tại sao Âu Trường Thanh là ai mà dám dùng hai chữ đó? Tôi công nhận ông Thanh có phần sai trái vì không khéo dùng từ ngữ, nhưng cũng biện hộ cho anh ta về nội dung hữu lý của lời hiệu triệu. Mặc dù bực tức vì thành kiến đối với Thanh do hồ sơ của cảnh sát và chắc cũng vì mấy Tướng Lãnh thân cận ông Kỳ, đặc biệt là Nguyễn Ngọc Loan, tâu vô bàn ra nên ông càng bực tức hơn.

Linh mục Nguyễn Quang Lãm có giới thiệu tôi Ðại Tá Lê Quang Hiền, trong lúc tôi đang tìm một quân nhân giữ chức Ðổng Lý văn phòng, vì xét rằng tôi phải chung đụng hằng ngày với quân nhân từ cấp lãnh đạo quốc gia đến Tướng Tư Lệnh Vùng và Tỉnh Trưởng, Thị Trưởng, trong điều kiện hiện tại nếu có một quân nhân bên cạnh sẽ dễ làm việc hơn. Cho nên tôi nhận anh Hiền vào chức vụ Ðổng Lý thay vì nhận một vị Ðại Tá khác do chính phụ thân tôi giới thiệu. Vài ngày sau anh Hiền lại khẩn thiết yêu cầu tôi nhận một người cháu của anh là Lý Quí Chung, biết viết báo, xin vào làm việc trong bộ. Tôi tin Ðại Tá Hiền nên không kiểm chứng liên hệ gia đình giữa anh và Lý Quí Chung như thế nào. Về sau tôi mới biết Chung và Hiền không có bà con, liên hệ gì với nhau cả. Hình như phụ thân của Chung là Lý Quí Phát, cựu Quận Trưởng, có thời làm việc với Ðại Tá Hiền khi anh còn giữ chức Tỉnh Trưởng.

Những gì tôi viết về Lý Quí Chung trong thời gian anh là cộng sự viên của tôi đều đúng thật. Các chứng nhân, đồng lứa với anh cũng có thời cộng sự với tôi ở bộ Thanh Niên còn sống để xác nhận. Có những vị định cư tại Mỹ như nhà văn nhà báo Ðỗ Tiến Ðức ở Los Angeles, Dược Sĩ Hoàng Ngọc Tuệ ở Orange County, Ðại Tá Nguyễn Ðình Vinh, cựu Ðổng Lý Bộ Quốc Phòng, người đã thừa lệnh ông Tổng Trưởng sai quân cảnh đến bắt Lý Quí Chung tại bộ Thanh Niên về tội trốn quân dịch. Ðại Tá Vinh cũng sống tại Little Saigon, hay những vị còn sống bên nhà mà tôi sẽ có dịp nhắc đến như Hồ Ngọc Nhuận, Dương Văn Ba, Hồ Văn Minh, Dương Văn Long, có thể xác nhận những gì tôi viết về Lý Quí Chung. Chỉ tiếc một điều là anh ta đã qua đời, không còn phản bác hay đối chứng được những gì tôi viết về anh. Nhưng nếu thế giới bên kia có thể cho phép anh nhìn về được bên nầy thì anh cũng phải nhận đúng những gì tôi tường thuật và nhận xét về anh. Thứ nhứt bởi vì tôi đã hứa ở đầu trang hồi ký nầy chỉ phơi bày sự thật, thứ hai là đa số nhân chứng vẫn còn sống tôi không dám viết sai, thứ ba vì lương tri con người và nghề nghiệp ký giả buộc tôi phải viết toàn sự thật. Tôi biết Lý Quí Chung có viết một quyển hồi ký “Không Tên”. Rất nhiều người than phiền với tôi là sai sự thật nhiều quá. Tôi có quyển sách trong tay nhưng chỉ có giờ đọc sơ vài chục trang đầu mà đã thấy sai nhiều chỗ. Về quyển sách nầy tôi sẽ có lời bình luận sau. Không liên quan đến nội dung những trang hồi ký nầy.

Lý Quí Chung trình diện tôi tại văn phòng, tiếp chuyện với anh tôi thấy con người trẻ trung lanh lợi, có thời là ký giả thể thao, anh tự xưng là đệ tử của ký giả thể thao trứ danh Huyền Vũ. Tuổi trẻ, tinh thần hăng say của anh rất hợp ý tôi. Vả lại toàn bộ cộng sự viên của tôi đều cùng trang lứa với tôi, ngoại trừ hai ông Ðổng Lý và Chánh Văn Phòng. Tôi nhận ngay anh Lý Quí Chung vào làm việc tại văn phòng, phu trách báo chí. Không lâu sau đó tôi sửa đổi tổ chức của bộ, cử anh làm Giám Ðốc Tác Ðộng Tâm Lý. Anh ngồi ghế Giám Ðốc chưa kịp biết mình phải làm gì thì một buổi sáng khoản 10 giờ tôi đang làm việc, đột nhiên thấy Ðại Tá Hiền xuất hiện, mặt lộ vẻ sợ hãi, nói năng lúng túng.

- Trình anh có quân cảnh đến bắt Lý Quí Chung.

- Về tội gì?

- Trình anh vì tội trốn quân dịch.

Tôi phát cáu liền hỏi:

- Vậy tại sao nó là cháu anh, trốn lính, mà anh còn dám giới thiệu nó với tôi? Ðại Tá Hiền đứng chết trơ không trả lời được. Tôi vô cùng bực tức một phần vì ông Hiền thiếu thành thật, vì nhục nhả thấy một ông Giám Ðốc của mình bị quân cảnh câu lưu tại bộ về cái tôi trốn trách nhiệm công dân. Thật xấu hổ. Tôi nặng lời xỉ vả Ðại Tá Hiền một hồi lâu, đầu suy nghĩ phải làm sao tìm lối thoát để bảo toàn danh dự cho mọi người. Thôi thì một liều, ba bảy cũng liều. Tôi đành chọn kế vừa ăn cướp vừa la làng, hay cả vú lấp miệng em cũng phải, ỷ thế nằm vạ, la làng cũng được. Tôi bèn ra lệnh cho Ðại Tá Hiền gọi quân cảnh vào phòng tôi hỏi việc.

Ba anh quân cảnh chào kính xong đứng nghiêm.

- Ai sai bảo các anh đến bắt nhân viên của tôi tại bộ?

- Thưa Trung Tướng, Tổng Trưởng của tụi em.

- Các anh chờ tôi chút.

Tôi dùng điện thoại liên lạc nội bộ nhờ bí thư gọi cho tôi nói chuyện với Tổng Trưởng Quốc Phòng.

- Thưa ông, bên kia đầu dây trả lời Tổng Trưởng Quốc Phòng không có tại văn phòng.

- Gọi cho tôi nói chuyện với ông Ðổng Lý.

- Thưa ông, họ trả lời Ðổng Lý cũng vắng mặt.

- Cho tôi nói chuyện với bất cứ ai bên đó.

- Thưa anh tôi là Võ Long Triều, Tổng Trưởng Thanh Niên và Thể Thao đây, tôi xin nói chuyện với bất cứ vị đại diện nào của bộ Quốc Phòng, chẳng lẽ bộ đi ra ngoài hết không còn một người lính nào ở lại giữ bộ sao? Cho tôi nói chuyện với anh lính gác cổng cũng được.

Xin ông Tổng Trưởng chờ chút. Hồi lâu sau, bên kia đầu giây có tiếng trả lời.

- Thưa ông Tổng Trưởng tôi là Trung Tá Vinh, Ðổng Lý bộ Quốc Phòng đây.

- Xin ông Ðổng lý vui lòng hỏi giùm Trung Tướng. Coi bộ ảnh muốn làm nhục tôi chơi hay sao mà sai quân cảnh qua đây bắt nhân viên của tôi trong giờ làm việc tại bộ? Tại sao không chờ nó ra ngoài hay về nhà rồi tới bắt? Tôi không bao che cho người phạm pháp nhưng tôi không chấp nhận quí vị coi thường, thậm chí khinh khi tôi. Nếu vậy thì anh Có và tôi sẽ lên gặp Thủ Tướng ngay bay giờ để giải quyết việc nầy. Xin ông Ðổng lý cho tôi nói chuyện trực tiếp với anh Có.

- Xin ông Tổng Trưởng đừng vội nóng nảy, tụi mình cũng người trẻ tuổi với nhau mà, không biết tại sao câu nói này in sâu trong đầu tôi liền và có không hiểu có phải lời nói đó hay vì cách giải quyết êm đẹp của ông Ðổng lý Văn Phòng bộ Quốc Phòng mà sau này chúng tôi quen biết và kết thân với nhau. Nếu ông Tổng Trưởng xác nhận không bao che cho người phạm pháp thì nên để cho quân cảnh của chúng tôi thi hành nhiệm vụ.

- Vấn đề tôi muốn nói với ông Ðổng Lý là tôi không chấp nhận anh Trung Tướng Có hạ nhục tôi. Chứ không phải vấn đề trốn lính của Lý Quí Chung. Bản thân tôi không chấp nhận trốn lính nên mới từ Pháp về trong tuổi quân dịch thì chẳng lẽ bây giờ tôi bao che cho những người trốn lính sao.

- Ông Tổng Trưởng nói khó nghe quá. Hễ phạm pháp thì bị câu lưu, dù ở bất cứ nơi nào, bất cứ ngày giờ nào, do cơ quan chính quyền quyết định chứ đâu phải do người ngoài chỉ dẫn.

Ðại Tá Vinh hiểu sự việc theo đúng lý lẽ, còn tôi thì bị chạm tự ái và vì bực tức cả hai ông Hiền và Chung đã dối gạt tôi, nên nổi khùng to tiếng:

- Anh Hiền, ra lệnh cho đội cảnh sát của bộ tước khí giới, bắt nhốt ba anh quân cảnh này cho tôi, chờ tôi và Trung Tướng Có gặp Thủ Tướng để ông ấy giải quyết.

Hình như ông Ðổng Lý Vinh nghe rõ tiếng của tôi qua đường dây điện thoại chưa cắt.

- Xin ông Tổng Trưởng cho phép tôi nói chuyện với một quân cảnh của tôi. Tôi đưa ống nghe cho quân cảnh.

Liền sau đó anh ta nói:

- Thưa Tổng Trưởng tôi được lệnh trở về. Ba anh quân cảnh nghiêm chào, quay đi. Tôi còn nặng lời Khiển trách Ðại Tá Hiền rất lâu về việc làm vô trách nhiệm của một ông Ðại Tá già dặn tuổi đời mà chẳng lẽ ông không biết việc đó là quan trọng? Hay ông có lợi lộc, ơn nghĩa gì đây? Sau cơn bão rồi mọi việc cũng yên. Ngày thứ tư trong tuần lễ đó, sau khi họp xong nội các, tôi kéo Trung Tướng Có vào Văn Phòng Thủ Tướng, tôi đặt thẳng vấn đề.

- Nếu Trung Tướng không cố tình làm nhục tôi thì xin cấp cho Lý Quí Chung một giấy hoãn dịch chờ đến khóa sau nếu anh ta không trình diện thì cứ tự nhiên bắt nhưng với điều kiện là bên ngoài bộ của tôi.

Nhờ sự giảng hòa của Thủ Tướng Kỳ, Trung Tướng Có chấp nhận. Vì vậy mà Lý Quí Chung có được giấy chứng chỉ tình trạng hợp lệ quân dịch. Trước kia tôi cả quyết đời người do chính mình tạo lập, bay giờ tôi mới tin con người có số mạng do thiên định. Chuyện của Lý Quí chung là một trong rất nhiều chuyện làm thay đổi cái nhân sinh quan của tôi. Ngẫu nhiên hay do một động lực vô hình nào đó xui khiến tôi nhận Ðại Tá Lê Quang Hiền làm Ðổng Lý trong khi phụ thân tôi giới thiệu một vị Ðại Tá khác, rồi ông Hiền lại xin cho Lý Quí Chung vào làm việc ở bộ Thanh Niên. Mặt khác vì kiêu căng tự ái nên tôi mới có thái độ ngang ngược can thiệp cho anh ta như vậy. Nếu gặp một vị Tổng Trưởng khác chưa chắc đã liều lĩnh quyết định bắt giam quân cảnh đang hành sự, biết đâu sẽ chuốc lấy nhiều phiền phức. Và nếu Thủ Tướng và Tổng Trưởng Quốc Phòng cứ thẳng thừng sử dụng công lý thì Lý Quí Chung chỉ trở thành một sĩ quan rất tầm thường như bao nhiêu người khác. Phải chăng là con người có số?

Nhiều lần Trung Tướng Có gặp tôi ông cứ nhắc mãi việc tôi đòi bắt quân cảnh của ông trong khi hành sự mà Tướng Kỳ đề nghị ông nên bỏ qua. Ông có vẻ bất bình nên tôi tiên đoán ông chờ cơ hội để trả đũa bằng cách “hành” tên Chung này “một trận nên thân” khi anh ta phải nhập ngũ khóa sau. Tôi không muốn thái độ cứng rắn của tôi ngày trước ảnh hưởng xấu cho một nhân viên của mình. Tôi biết bầu cử Quốc Hội Lập Hiến là điều chắc chắn phải thực hiện trong khi chương trình phát triển quận 8 thành công đáng kể, mình có thể đưa một người ra ứng cử tại đó chắc đắc cử. Tôi bèn thông báo cho Lý Quí Chung chuẩn bị tư tưởng để ra ứng cử tại đó và cũng nói sự thật cho anh biết, nếu thất bại anh có thể bị Trung Tướng Có “đì” tới mức vì tội trốn lính và vì tôi can thiệp thô bạo mạo phạm đến quyền uy của ông ta.

Ðã bước chân vào chính trường, tôi nghĩ phải tạo một thế chính trị, một nhóm thân hữu đồng lập trường chí hướng. Giới trí thức, chuyên viên, thượng tầng chúng tôi quen biết nhau khá nhiều. Những người hoạt động và có ảnh hưởng trực tiếp trên chính trường như Dân Biểu Quốc Hội chúng tôi chưa có cơ hội nghĩ đến. Bây giờ và trong hoàn cảnh hiện tại chắc phải nghĩ cách đưa người vào Quốc Hội Lập Hiến. Cho nên tôi quyết định ủng hộ một số Giáo Sư trẻ tuổi ra ứng cử Dân Biểu.



Tham gia nội các

Hai ngày sau cuộc viếng thăm của Phó Tổng Thống Mỹ, Tướng Kỳ điện thoại mời tôi đến gặp ông. Vừa thấy mặt là ông nói ngay:

- Thế nào, toa đã suy nghĩ chín chắn chưa. Còn suy nghĩ cái mẹ gì nữa? Những ông trí thức của tụi toa thường hay nói: “quốc gia hưng vong thất phu hữu trách” kia mà, chẳng lẽ toa vô trách nhiệm sao? Chẳng lẽ toa không muốn bảo vệ cho sự thành công của chương trình phát triển cộng đồng của toa sao?

- Cái đó còn tùy, nhận trách nhiệm để làm cái gì và với những ai? Chắc toa cũng đoán được moa đã nghĩ gì rồi. Thôi thì moa nhận tham gia nhập cuộc.

Sở dĩ tôi bắt đầu gọi ông Thủ Tướng bằng toa là vì ngạc nhiên thấy ông tự nhiên xưng “toa moa” với tôi. Thông thường đối với người Pháp “tutoyer” (gọi nhau toa moa) là tỏ ý muốn thân thiện. Ðối với phái nữ mình khởi sự “tutoyer” là một cách xin phép làm thân, nếu người ta không vừa ý thì trả lời ngay bằng cách gọi “ông, bà hay cô” trở lại, mình phải hiểu ngay rằng cửa đó đã đóng, hay ít ra là chưa mở liền. Bắt đầu từ đó ông Kỳ và tôi “à toi à moi” (xưng toa toa, moa moa) với nhau một cách thân thiện. Lần đầu tiên tôi bàn chuyện quốc gia với ông, tôi hỏi:

- Vấn đề gì làm toa đau đầu nhứt trong mấy tháng qua?

- Kinh tế. Tôn giáo, nói thẳng ra là Phật Giáo. Mấy ông thầy không chịu ngồi yên tu mà cứ yêu sách mãi. Toàn những yêu sách độc không hè.

- Vậy toa giải quyết như thế nào?

- Thì dang đầu dang cổ ra mà năn nỉ. Tìm cách kéo dài thời gian. Chả còn phải biết tính sao, chả còn làm ăn cái gì được hết. Bên ngoài người ta đồn đãi chính phủ sẽ đổ trong vài tháng nữa. Toa có dám nhào vô không?

- Ðối với tôi, nhào vô hay không, đâu phải đổ hay còn. Người lính đi đánh giặc đâu có nói trận nầy có thể thua, vậy mình đánh hay không đánh? Sự thật Phật Giáo đòi hỏi gì? Anh có biết rõ và đoán chắc được không?

- Mấy ổng muốn ban hành qui chế tôn giáo theo ý mấy ổng, và áp lực đòi chia ghế trong nội các nhiều hơn, thanh trừng cần lao và chế độ cũ.

- Moa nghĩ vấn đề tôn giáo chỉ là cái cớ bề ngoài thôi, sự thật là vấn đề chính trị, đó là chưa kể moa còn nghĩ có thế lực bên ngoài đốc xúi nữa là khác. Toa nói kinh tế làm toa đau đầu mà chính xác là vấn đề gì làm cho toa đau đầu chứ?

- Thú thật, tớ đâu có biết gì về kinh tế. Thị trường giá cả lên xuống, hàng hóa khan hiếm bất thường, giải quyết như thế nào? Moa có biết đâu. Mọi chuyện moa giao cho ông Tổng Ủy Viên Kinh Tế lo. Mà hình như ông ta lo không xong. Ngày nào báo chí cũng kêu ầm lên: Ðầu cơ tích trữ, vật giá leo thang. Moa đề nghị toa lãnh bộ kinh tế cho moa đi.

- Nhìn tổng quát mà nói, moa thấy có hai cách: trong thời buổi chiến tranh, một là áp đặt chế độ phân phối và tiếp tế, hai là chính phủ phải trực tiếp can thiệp vào thị trường, bằng nhiều cách, chớ không thể để cho tự do mua bán như thời bình được. Chỉ cần gian thương tích trữ để nâng giá, hay kẻ thù gieo một tin đồn thất thiệt, là đủ để làm xáo trộn thị trường. Nhưng moa sẽ không bao giờ nhận ghế Tổng Ủy Viên Kinh Tế. Bởi vì moa mới bước chân vào chính trường mà ngồi trên cái ghế có vàng, dù moa không lấy, người ta cũng đồn là đít của moa có dính vàng.

- Vậy toa muốn nhận bộ nào?

- Thì bộ Thanh Niên như ngày đầu toa đề nghị với moa. Toa muốn thay người ở Bộ Kinh Tế thôi hay còn bộ nào toa muốn thay nữa?

- Thay tất, nếu cần, trừ Bộ Quốc Phòng. Moa đã nói với toa rồi, mình phải tìm một “équipe” (đội ngũ) đồng ý chí, dám hy sinh.

- Toa cho moa vài ngày để thăm hỏi bạn bè.

Trong thời gian đó Tướng kỳ và tôi liên lạc thường xuyên qua điện thoại. Tôi tìm bạn tâm giao, rủ rê tham gia nội các, đa số từ chối, K.S. Lâm Ngọc Diệp, Phó Tổng Giám Ðốc Air Việt Nam, không muốn làm chính trị vì bà vợ không đồng ý. K.S. Nguyễn Văn Ðạt, Giám Ðốc Nha Thủy Vận, nói thẳng là không dám. K.S. Lưu Văn Lê, Giám Ðốc Nha Hợp Tác Xã không biết làm chính trị, không biết chỉ huy. B.S. Ðỗ Cao Huệ, Chánh Sở Mục Súc không dám. K.S. Nguyễn Văn An Phó Giám Ðốc Nông Vụ cũng chê. Những người nói không dám, tình thật hình như họ không tin là nội các có thể tồn tại hơn vài tháng chiếu theo những gì đã xẩy ra. Trần Ngọc Oành cựu Tổng Trưởng Công Chánh có ý muốn nhập cuộc một lần nữa, nhưng tôi quen biết Oành từ lâu, ngày từ khi ở Paris, nên tôi hiểu anh thích chức vụ hơn là tận tụy hy sinh nên tôi không giới thiệu, T.S. Nguyễn Văn Hảo, Tổng Giám Ðốc Nông Tín Cuộc và Hợp Tác Xã, là người chỉ ưa thích trình diễn. Cuối cùng tôi đề nghị với Tướng Kỳ hai người. Ðó là Trương Văn Thuấn giữ bộ Giao Thông, một sai lầm của tôi như đã nói qua ở đoạn trên. Âu Trường Thanh giữ bộ Kinh Tế, còn tôi giữ bộ Thanh Niên. Ðồng thời tôi cũng góp ý: nên thành lập một Tổng Cục Tiếp Tế để nếu cần mình sẽ can thiệp vào thị trường bằng cách nhập cảng, dự trữ, tung hàng ra, hoặc thu mua để can thiệp trực tiếp vào thị trường. Trung Tá không quân Trần Ðỗ Cung, người của ông Kỳ, phụ trách Tổng Cục nầy. Sáng hôm sau ông Kỳ mời tôi lên phủ Thủ Tướng có chuyện gấp. Tôi phân vân tự hỏi chuyện gì đây? Chắc là có trở ngại chăng. Ðúng như tôi dự đoán. Vừa bắt tay ngồi vào ghế, Tướng Kỳ đẩy về phía tôi một chồng hồ sơ dầy cộm bọc trong bìa cứng màu xanh lợt, bề dầy độ hơn một tấc tây và nói:

- Âu Trường Thanh là cộng sản mà toa giới thiệu nó vào nội các chiến tranh của mình? Hồ sơ đây, xem đi rồi nói chuyện tiếp.

- Moa chơi với Âu Trường Thanh khá lâu, sinh hoạt với nhau thường, moa có thể biết được tư tưởng của anh ta. Dĩ nhiên moa không thể đoan chắc 100% bởi vì “Sông sâu còn có kẻ dò, lòng người nham hiểm ai đo cho cùng”. Ðành rằng khi du học bên Tây anh Thanh có vẻ học đòi thiên tả theo “mốt” của sinh viên Pháp thời đó, tham dự trại hè hòa bình kiểu như bà L.S. Nguyễn Thị Vui, thích nói chuyện về học thuyết bất bạo động của Mahatma Gandhi, nhưng moa không nghĩ anh ta là cộng sản. Moa không cần đọc tập hồ sơ nầy. Xin toa nghe moa nói hết ý kiến của moa rồi toa tự ý quyết định. Moa không ép và cũng không đặt điều kiện bởi vì Âu Trường Thanh cũng không phải phe nhóm gì với moa cả. Hiện tại mình cần một người có khả năng điều khiển bộ kinh tế và ổn định cho bằng được thị trường đang xáo trộn làm dân chúng hoan mang phải không? Nếu như vậy thì cho dù Âu Trường thanh là một đảng viên cộng sản, bây giờ mình giả sử như nó là Hồ Chí Minh đích danh đi để cho dễ nói chuyện. Trong giai đoạn nầy, trong điều kiện hiện tại mà Hồ Chí Minh giúp mình ổn định được tình hình kinh tế cho dân mình nhờ, cho nội các đứng vững thì cám ơn. Nếu nó ló cái đuôi cộng sản thì mình còng đầu tức khắc. Mình nắm cán mà sợ gì? Tùy toa quyết định. Nếu đứng chỗ của toa thì moa sẽ mời nó hợp tác. Nhưng xin lập lại một lần nữa, hoàn toàn do chính toa quyết định nhé. Moa không thuyết phục toa nhận hay không nhận nó đấy.

Ông Kỳ lộ vẽ suy nghĩ, ngồi im, chấp mấy ngón tay trước ngực, dựa lưng vào ghế, bật tới bật lui độ hơn 30 giây ông nói:

- Mời Âu Trường Thanh lên đây đi.

Tôi bước tới cạnh bàn của ông lấy điện thoại gọi Âu Trường Thanh:

- Thanh đấy hả? Thiếu Tướng Chủ Tịch mời toa lên dinh ở số 2 đường Thống Nhứt ngay bây giờ.

Bên kia đầu dây tiếng anh Thanh nói:

- Toa đừng có cà rỡn. Ai thèm mời moa mà gọi. Moa không tin chuyện “phong thần” của toa đâu, chừng nào có xe của ông Thiếu Tướng xuống rước thì moa mới tin.

Tôi hơi bực mình, nhưng suy đi nghĩ lại, muốn cho được việc thì chuyện nầy là chuyện nhỏ.

Bỏ điện thoại xuống tôi nói với Tướng Kỳ:

- Thanh nó không tin, nó nói phải có xe của toa xuống Sicovina rước, nó mới tin.

Tướng kỳ nổi nóng ngay:

- Ð.M..., bộ hắn là bố của moa sao mà đòi phải có xe của Thủ Tướng rước?

- Toa nề hà chi chuyện đó mà nổi giận. Ðồng ý là phi lý và vô lễ, Nhưng toa có nhớ ngày xưa Lưu Bị mời Khổng Minh như thế nào không? Thằng Thanh chưa phải là Khổng Minh nhưng mình chỉ cần nó ngồi đó dẹp yên trận giặc kinh tế cho mình có thì giờ và cơ hội làm việc lớn được.

- Không biết tướng Kỳ nghe thuận tai hay vì nể mặt tôi mà ông nhận chuông. Thiếu Tá Liệu chạy vào.

- Liệu, anh xuống Sicovina rước ông Âu Trường Thanh lên đây tức khắc.

Chương trình bắt đầu ghi nhận sự thành công trong nhiều lãnh vực thì bỗng nhiên có truyền đơn của việt cộng rải trong quận kêu gọi đồng bào cảnh giác đối với bọn “con buôn” của “chương trình phát triển quận 8” đang gạt đồng bào lấy đất cất nhà cho Mỹ mướn. Bằng cớ là người Mỹ tới lui thường xuyên để xem nhà xem đất. Sự thật là ký giả ngoại quốc có tới lui thăm viếng quận rất thường sau lời tuyên bố của Phó Tổng Thống Hoa Kỳ Hubert Humprey. Những truyền đơn của việt cộng làm chúng tôi đau đầu không ít. Bởi vì cảnh sát tuần tiễu không thuộc quyền chúng tôi điều khiển. Vả lại hành động lén lúc lẻ tẻ này khó kiểm soát nhưng dễ loan truyền. Túng thế tôi đành mời ông Philippe Habib, cố vấn chính trị tòa Ðại Sứ Hoa Kỳ, đến văn phòng tôi và yêu cầu ông ra lệnh cấm ký giả Mỹ tới quận 8 thường xuyên. Ông Habib phản đối kịch liệt. Thứ nhứt, tự do báo chí là điều ông bị bắt buộc phải tôn trọng. Thứ hai tiền của Quốc Hội Hoa Kỳ chi ra thì phải có báo cáo hoặc phải chứng minh bằng kết quả cụ thể. Kết quả nhỏ nhoi là quận 8 của ông mà nếu ông không cho phép Ký giả của chúng tôi đến quay phim chụp ảnh thì chúng tôi lấy gì chứng minh đây? Tôi phản bác là quí vị muốn thấy tôi thành công hay thất bại? Tôi cho ông Habib biết là dân chúng khởi sự tự hỏi chúng tôi chỉnh trang nhà cửa để cho họ ở hay cho Mỹ mướn đây? Cuối cùng ông Habib hứa sẽ tìm mọi cách để ngăn ngừa Ký giả đến quận 8 nhưng ông không thể bảo đảm ông sẽ thành công. Thực tế ông cố vấn chính trị tòa Ðại Sứ Mỹ hiểu được vấn đề, và kể từ đó không một người Mỹ nào đến thăm chương trình quận 8 của chúng tôi. Công tác phản tuyên truyền bắt đầu, chúng tôi giải thích với đồng bào rằng truyền đơn của việt cộng là láo khoét, chúng tôi đã cấm không cho người Mỹ léo hánh đến đây. Sự thật này đồng bào thấy rõ, đã vậy họ còn tưởng chúng tôi có uy quyền đến độ cấm được người Mỹ đến quận này, nên họ càng tin tưởng, càng hợp tác xây đựng.

Việc của tôi với tư cách Tổng Trưởng là yểm trợ, can thiệp để bao che, cung cấp đầy đủ phương tiện để anh em hoạt động. Can thiệp giữ người, xin biệt phái người từ Bộ Quốc Phòng, mượn phương tiện của Bộ Công Chánh, của USOM. Tôi ước mơ thành lập được những “Kiboutz” theo kiểu của Do Thái, từ đô thành lan rộng về các tỉnh, “tay súng tay cày” để giữ nước và dựng nước. Thú thật tôi bị ảnh hưởng rất nặng khi đọc quyển sách “Tour d'Erza” tả điều kiện Do Thái lập quốc trong bối cảnh hãi hùng bị các quốc gia Á Rập bao vây muốn tiêu diệt. Vì Vậy tôi đã chủ trương muốn gởi một số anh em của quận 8 đi Do Thái và Yougoslavie để học hỏi kinh nghiệm.

Bác sĩ Minh là sĩ quan quân y, Hồ Ngọc Nhuận là sĩ quan bộ binh và một số anh em khác đang cộng tác với chương trình, tôi phải “lộn nài bẻ ống” để xin biệt phái cho bằng được, riêng bộ thanh niên cung cấp người theo yêu cầu của chương trình. Can thiệp với bộ giáo dục để xin giáo sư, do anh em trong chương trình chọn những người quen biết có thiện chí, có lý tưởng và tinh thần, phù hợp với chúng tôi. Can thiệp với bộ giao thông công chánh và USOM để mượn xáng thổi đất lấp vũng lầy làm nền nhà. Tóm lại công tác tại chỗ là do “Tứ Ðại Gan Lì” chỉ huy điều hành, tuyển mộ thêm đồng bạn, mời rủ thêm người thiện nguyện, tổ chức phát triển rộng hơn làm cho vết dầu lan sang quận 6 rồi quận 7.

Kết quả chương trình thành công mỹ mãn. Những khu nhà ổ chuột nay trở thành nhà phố khang trang. Ðồng bào hài lòng, cộng sản “hổng chân”. Nhưng giữa thời gian đó xảy ra một sự kiện vô cùng nguy hiểm, rất may mắn và cũng rất có ý nghĩa. Chương trình có một máy kéo do cháu Phương phụ trách hằng ngày. Buổi sáng đó như thường lệ, cháu Phương ngồi vào ghế tài xế, đút chìa khóa mở máy, tay vừa cầm cây cần sang số bỗng nhiên anh ta thấy có một sợi dây kẽm cột từ cây cần sang số dẫn vô trong máy xe. Cháu Phương bước xuống dở nấp đậy máy xe xem tại sao có sợi dây kỳ lạ này. Thì ra dây kẽm cột vào nút chốt của một trái lựu đạn do cộng sản gài trong đêm. Mọi người tá hỏa, lo lắng có, sợ hãi có, mừng rỡ có. Riêng tôi biết được tin này thấy hài lòng vì đây là dấu hiệu thành công mỹ mãn nên Việt Cộng mới dùng đến phương tiện khủng bố. Dĩ nhiên từ đó chúng tôi cảnh giác cao độ và loan truyền cho đồng bào để họ hợp tác với chúng tôi canh chừng vì chương trình chính là quyền lợi của đồng bào.

Mặt khác tôi điện thoại cho ông Philippe Habib, cố vấn chính trị tòa Ðại Sứ Hoa Kỳ báo rằng từ nay trở đi ông có thể thông báo cho ký giả Mỹ tha hồ đến kiểm chứng sự thành công của chương trình. Tôi không thể nhớ những con số để chứng minh sự thành công về mặt chỉnh trang khu phố, về số gia đình của dân chúng được hưởng. Tôi cũng không nhớ bao nhiêu con đường lầy lội đã được sửa sang và biết bao nhiêu công trình lớn nhỏ khác do cộng đồng dân chúng trong các quận thực hiện. Nhưng điều quan trọng là đã có một cái gì đó, khác với cộng sản, đã bắt đầu và thành công một phần, tuy nhỏ, nhưng tinh thần, phương cách và khuôn mẫu hãy còn đó để chờ triển khai một cách hoàn chỉnh và tốt đẹp hơn..

Người Mỹ có quay một cuốn phim tài liệu về chương trình phát triển quận 8. Báo chí trong và ngoài nước đặc biệt báo Mỹ và Pháp ca ngợi. Ký giả Vanuxem, cựu thiếu tướng người Pháp đã viếng thăm quận 8, có tiếp xúc với tôi và viết một quyển sách tựa đề “L'espoir à Saigon” nhà xuất bản La Table Ronde 40, Rue Du Bac, Paris, 7e, 1967, trong đó ông nói về tuổi trẻ Việt Nam và chương trình phát triển quận 8 từ trang 127 đến trang 133. ( xin xem phụ bản do Giáo Sư Nguyễn Thanh Liêm phiên dịch. Thành thật cám ơn Giáo sư Liêm đã nhiệt tình giúp đỡ).

“L'espoir à Saigon”

“Thực ra vấn đề chính của xứ này là vấn đề thanh thiếu niên. Ở nông thôn hình như những “Ấp Tân Sinh” có thể đem lại giải pháp tốt. Nhưng ở thành thị, đặc biệt nói về sinh viên học sinh, họ là thành phần hăng say nhưng bất kham, phấn chấn dũng cảm nhưng không kiên định, tích cực ủng hộ chế độ cộng hòa, theo chủ nghĩa Quốc Gia nhưng sẵn sàng chống quân phiệt. Họ đặt đủ mọi thứ vấn đề và chủ trương phải hành động để thực hiện ý kiến của mình.

Vị Tổng Trưởng trẻ nhứt là Tổng Trưởng Thanh Niên, 32 tuổi. Trẻ đối với thế hệ già, già so với thế hệ trẻ. Ở cái tuổi mà con người có thể tự cho mình là già hay trẻ tùy ý. Thanh lịch, phong nhã, ông ta nói tiếng Pháp với một vọng rõ ràng, không đứt đoạn vọng lên xuống lấy hơi lổ mũi như nhiều người Việt Nam khác. Ông thấm nhuần văn hóa và nếp sống của người Pháp. Ông là một kỹ sư canh nông không được chuẩn bị cho một sự nghiệp chính trị, điều mà ông không hề nghĩ đến. Trong một cuộc tiếp xúc, ông chống đối lý luận và chủ trương của Thủ Tướng bằng những lời phê phán gay gắt. Thủ Tướng ngạc nhiên bèn yêu cầu ông trình bày quan điểm, ông ta chấp nhận. Nhưng khi Thủ Tướng mời ông tham gia nội các thì ông từ chối dứt khoát.

Chỉ về sau, nhân dịp cải tổ nội các thì ông mới nhận tham gia mà thôi. Bộ của ông có tất cả những quyền hạn liên quan đến thanh niên, kể cả thể thao, điều mà ông mê say. Nhưng ông chỉ chú trọng có một điểm đặc biệt, tuy không quan trọng, nhưng nếu công tác này thành công thì sẽ cho phép ông áp dụng một cách tổng quát và phổ biến những phương pháp mà ông tin sẽ đem lại hiệu năng và hợp với tình thế.

Thanh niên Việt Nam lúc bấy giờ, cũng giống như thanh niên của nhiều xứ khác, phản ứng một cách hung hăng, có tính khiêu khích đối với thế hệ đàn anh đang lãnh đạo họ. Vì vậy sự va chạm càng nặng khi hai thế hệ không có được sự cảm thông. Thế hệ đàn anh kiên định trong phong cách suy nghĩ theo hệ thống lô-gíc với thói quen đã từng bị người Pháp ảnh hưởng. Cuộc “cách mạng cộng sản” buộc người Pháp phải ra đi và sau đó lại có một nhu cầu là cần phải tìm ra một cung cách suy nghĩ khác lạ hơn với hiện tại, làm cho cả thế hệ thanh niên bị mất thăng bằng. Và ngày nay giới trẻ đó đang tìm một hướng đi.

Sau khi chế độ Ngô Ðình Diệm bị lật đổ, sinh viên học sinh tin rằng mình cũng có góp phần trong đó, họ ủng hộ bên này hay bên kia với một sức sống mãnh liệt. Nhưng họ hành động trong sự rối loạn chưa từng thấy. Mỗi người muốn phục vụ đất nước theo kiểu cách của mình, họ chỉ trích tất cả những gì đã được hình thành và họ muốn sáng tạo một thứ gì độc đáo khác. Do đó kết quả cho thấy một sự không thích nghi với thời thế và sự vô hiệu năng về mọi mặt rất đáng ngại. Sự phân hóa xã hội Việt Nam trong mọi lãnh vực, kinh tế, chính trị, xã hội, ngày càng nhanh chống đến mức đáng sợ. Thanh niên lạc lòi, người đứng tuổi dè dặt, tự chế. Nhiều phe nhóm được thành lập phục vụ cho nhiều mục đích linh tinh nhưng lần hồi họ tự ý đi vào con đường chính trị. Một số không ít vì ngây ngô bị đảng phái hay chính trị gia mua chuộc.

Người ta nghĩ có thể hướng dẫn sự bồng bột của tuổi trẻ vào con đường phục vụ xã hội, nhưng rồi người Mỹ xen vào với những đồng đô-la của họ. Ðiều đáng lẽ phải tránh. Kết quả người ta thấy sự hư nát ngày càng lan rộng. Và trong lúc đó có một nhóm thử đề ra một ý nghĩ mới, hy sinh quên mình, chấp nhận gian khổ, tận tụy, kiên trì với ý đồ xây dựng lại quê hương ngay trong bối cảnh hỗn độn đó. Khởi đầu là một công trình nhỏ bé, không bề thế, không phương tiện. Ðó là một khởi điểm.

Vị Tổng Trưởng thanh niên trẻ tuổi này ý thức được là ông không thể dùng quyền để chế ngự hay hướng dẫn thế hệ thanh niên trong xứ được. Ông ta nghĩ chỉ còn cách đứng bên cạnh họ, tự hòa mình chung sống với họ, thúc đẩy họ, biến họ thành những phần tử “cách mạng” tự tin rằng mình là hữu ích trong công cuộc xây dựng lại quốc gia. Và ông thực hiện điều đó. Ông tiếp xúc với thanh niên, ông gặp gỡ và bàn thảo với hơn 30 hội đoàn thanh niên và nhiều nhóm khác có mục đích riêng rẽ của họ. Ông sống với họ, hòa mình tự coi mình là người của họ. Ông mất rất nhiều ngày giờ. Nhưng cho tới nay ông tin rằng sự hiện diện và sự tham gia tích cực của ông đã đánh tan được sự nghi ngờ và thái độ lững lờ của họ. Ông còn tin vững chắc là đã được giới trẻ chấp nhận ông, không phải như người thầy, người quản trị, mà là người đàn anh có lời chỉ dẫn và quyền điều khiển của ông được tiếp nhận không mảy may ngờ vực. Ông muốn tạo cho nhóm trẻ này một môi trường thử nghiệm to lớn bằng sự ước mơ của ông. Muốn thực hiện điều đó ông phải đụng chạm với các đồng nghiệp của ông trong nội các, những vị đồng nghiệp đó bảo vệ quyền hạn chính đáng của họ, và còn nhiều cơ quan công quyền khác không chịu nhún nhường để cho giới trẻ rộng đường thi thố tài năng. Ông Tổng Trưởng đẩy họ phải tránh đường và buộc họ phục tùng. Ông ta cử một giáo sư trẻ tuổi làm quận trưởng của một quận Saigon. Và tất cả nhóm trẻ tham gia.

Quận này là một quận nghèo nàn nhơ nhớp nhứt, gần thành phố Chợ Lớn nơi người Hoa Kiều buôn bán tấp nập, nhưng đa số người Việt Nam ở đó đều là bần khốn. Sau nhiều sự do dự và ngỡ ngàng, dân chúng thấy được những sáng kiến táo bạo của nhóm người thiện nguyện trẻ tuổi này, họ hoạt động không khác gì những “giáo sĩ truyền giáo” nên lần hồi chiếm được cảm tình và sự chấp thuận tham gia của quần chúng. Họ thực hiện đủ mọi thứ công tác, giúp đỡ tất cà những người cần có sự giúp đỡ. Họ giúp sửa sang nhà cửa, đặt để những cơ quan từ thiện, khám bệnh và phát thuốc miễn phí, tổ chức hội họp, khuyến dụ quần chúng tham gia. Ða số chấp nhận vì cảm tình hoặc vì tò mò muốn tìm hiểu. Người ta thảo luận về mọi vấn đề liên quan đến đời sống cộng đồng trong quận, đến tổ chức hành chánh và quản trị, người ta cũng tìm hiểu về chính trị, gây ý thức về nhiệm vụ của người công dân và cổ võ sự đoàn kết trong cộng đồng.

Trong cái thế giới bị đồng tiền làm hư đốn vì con người chỉ biết chạy theo tiền mà thôi, nhóm người trẻ thiện nguyện đó hành động bất vụ lợi, trong sự nghèo khó, với lòng hy sinh tận tụy phục vụ cho lợi ích công cộng làm cho quần chúng tin tưởng nghe theo và họ đã thành công rực rỡ. Dĩ nhiên, thông thường những hoạt động như vậy phải được phô trương quảng cáo, nhưng ở đây mọi sự tuyên truyền phổ biến đều bị cấm chỉ, và mọi sự trợ giúp tiền bạc đều bị từ chối. Ðiều khó khăn nhứt là làm sao ngăn cấm báo chí Mỹ luôn luôn tìm kiếm mọi điều kiện khả dĩ có thể đem lại một giải pháp nào tốt đẹp cho Việt Nam mà họ đang chia xẻ trách nhiệm bảo vệ và phát triển. Cho nên vấn đề là làm sao thuyết phục họ chấp nhận không để cho những máy ảnh và máy quay phim của họ gây nghi ngờ hoang mang có tính phản tác dụng đối với quần chúng. Cuộc thử thách của họ vô cùng khó khăn nhọc nhằn, nó đòi hỏi sự vô tư cao độ, sự chấp nhận một nếp sống đạm bạc gần như khổ hạnh. Nhưng cuối cùng họ đã thành công.

Thêm một quận khác của Sài Gòn được giao cho nhóm trẻ này mở rộng, họ hoạt động theo những căn bản đã được ấn định. Và có cả một chương trình để áp dụng cho toàn quốc.

Sau khi thu thập đầy đủ kinh nghiệm và xác nhận sự thành công của hệ thống tổ chức và hoạt động, phải chăng đã đến lúc phải đặt cho hệ thống tổ chức này một định chế, bởi vì nếu không những sáng kiến là nguồn gốc của hành động sẽ bị đứng sững đó không phát triển thêm được.

Dứt khoát phải có một lý thuyết gia.

Phải chăng ông là người lý thuyết gia đó? Tôi hỏi vị Tổng Trưởng.

Mỉm cười. Hệ thống công tác tự nó có phải là một sự giải đáp đầy tính người, đầy nhân ái và nhạy cảm, thực tế hơn nhiều so với những gì mà việt cộng khoe khoang và đề nghị cống hiến cho đồng bào tôi không?

Chắc chắn rồi. Như vậy những thứ đạo đức mà việt cộng tự trang hoàng cho họ, một cách giả dối, nào là sự tận tụy với dân, lòng tin mãnh liệt đối với một lý thuyết cộng sản hoàn chỉnh, kỷ luật sắt thép của người cán bộ phục vụ nhân dân và xây dựng đất nước, sẽ là những luận cứ chứng minh cho việc làm của ông và của giới trẻ của ông là đúng phải không?

Dĩ nhiên, Nhưng mà chúng tôi chỉ mới bắt đầu. Chỉ có một hột giống mới nảy mầm. Ông chờ xem.

Tôi nhìn vị Tổng Trưởng này, không có vẽ Tổng Trưởng chút nào, ăn vận một cách lịch sự, nói năng như một vị “Tông Ðồ” truyền giáo, làm sao không tin lời nói của ông? Làm sao không tin cậy hành động của ông? Tuổi trẻ luôn luôn suy nghĩ hợp lý. Dù những gì có thể xẩy ra trong tương lai, tôi thấy tuổi trẻ Việt Nam đang tìm đường di động”

Kết quả của chương trình cho phép chúng tôi lan sang quận 6 Ðô thành, hoạt động thành công, và khởi sự tràn sang quận 7. Nhưng điều đáng tiếc là sau khi tôi từ chức Tổng Trưởng Thanh Niên, sự bất hòa và kình chống giữa hai vị Tổng Thống Thiệu và Phó Tổng Thống Kỳ gây khó khăn cho việc quản lý và hoạt động của nhóm chủ trương quận 8. Tổng Thống Thiệu ra lệnh phải đặt chương trình phát triển quận 8 trực thuộc phủ Tổng Thống, thay vì trước kia thuộc quyền quản trị của phủ Thủ Tướng Nguyễn cao Kỳ. Vị Thủ Tướng này dành mọi sự dễ dàng và thông cảm với nhóm trẻ, nên phong cách sinh hoạt thoải mái đạt được nhiều hiệu năng. Mọi danh dự và tiếng tốt đối với Mỹ và báo chí về sự vận động quần chúng tham gia hợp tác thành công đều hướng về Nguyễn Cao Kỳ, vì vậy nên ông Thiệu muốn lợi dụng cái danh dự đó và cũng có nhiều người của ông muốn gánh vác một việc mà họ tưởng có thể dùng quyền để điều khiển chỉ huy dễ dàng. Thực ra nếu ông Thiệu nghĩ đến quyền lợi của dân chúng thì ông phải ra lệnh cho chính quyền của ông hỗ trợ triệt để vì ông đã từng thấy và xác nhận, khi ông cùng với tôi đến viếng một nơi ven biên của quận 8 với tư cách là Chủ Tịch Ủy Ban Lãnh Ðạo Quốc Gia, ông đã từng chứng kiến nhóm trẻ này có tinh thần và lý tưởng, có chủ trương sâu sắc, sinh hoạt nhịp nhàng với nhau thì cho dù trực thuộc cơ quan nào của chính phủ thì cũng do ông lãnh đạo mà thôi. Tinh thần nhỏ nhen đó thể hiện trong rất nhiều sự việc sau này trong hai nhiệm kỳ Tổng Thống của ông làm cho ông bỏ lỡ cơ hội trở thành người hùng của đất nước. Bác Sĩ Hồ Văn Minh được Phủ Tổng Thống thông báo tự hậu phải trực tiếp chịu sự điều khiển của người do Phủ Tổng Thống chỉ định.

Tôi vô cùng đắn đo, một phần tiếc rẻ cho sự thành công trước mắt, một phần lo ngại người trực tiếp điều hành do phủ Tổng Thống chỉ định không am hiểu sự việc lại cũng không có tinh thần hòa mình với quần chúng, coi đám dân là nhóm người đề mình sai khiến, theo cung cách quan liêu, thì chắc chắn sẽ hư việc. Chi bằng giao trả lại cho Hành Chánh đô thành do Ðại Tá Ðổ Kiến Nhiễu, người của Tổng Thống Thiệu, điều hành là hơn. Tôi đề nghị anh em tổ chức một lễ bàn giao cho đô thành nhưng mời Phó Tổng Thống Nguyễn Cao Kỳ chủ tọa. Trong buổi lễ bàn giao đó Hồ Ngọc Nhuận thay mặt anh em, kể công ơn của cựu Thủ Tướng Nguyễn Cao Kỳ và xác nhận sự thành công của giới trẻ một khi người ta biết vận dụng và giao phó trách nhiệm cho họ bởi vì “thanh niên là người tổ quốc mong cho mai sau”.

Lễ bàn giao kết thúc, tôi đặt sẵn một bữa tiệc tại nhà hàng “Trường Can” đường Mạc Ðỉnh Chi, tôi mời Phó Tổng Thống Nguyễn Cao Kỳ dùng bữa cơm thân mật cùng với những anh em đã từng chia xẻ gian lao, cùng nhau phục vụ một lý tưởng, thực hiện một chủ trương để cám ơn ông đã dành cho giới trẻ chúng tôi sự thông cảm và ủng hộ nhiệt tình. Cho đến ngày nay, mỗi năm những người anh em đã từng tham gia chương trình này, trong cũng như ngoài nước, còn liên lạc, còn họp mặt, còn gởi điện thư nhắc nhở kỷ niệm đáng hãnh diện không thể quên.


Tôi may mắn có được lợi tức của trường anh văn London School đủ để giúp cho 5 ông bạn: Chung quận 8, Trần Văn Tuất Mỹ Tho, Bành Ngọc Quí Gò Công, Lâm Phi Ðiểu, hiệu Trưởng trường sư phạm Vĩnh Long, Nguyễn Văn Lễ, giáo sư, con nhà khá giả ở Rạch giá, Nguyễn Hữu Chung, kỹ sư lâm vụ, em chú bác của ông bí thư tôi, ứng cử tại một đơn vị khác ở Saigon. Ðối với Lễ và Nguyễn Hữu Chung, tôi không giúp đỡ tài chánh mà chỉ ủng hộ tinh thần và nhờ bạn bè của tôi yểm trợ họ mà thôi. Kỳ dư đối với những bạn khác, tôi trợ giúp cho kẻ ít người nhiều tùy theo hoàn cảnh và nhu cầu hoạt động của họ.

Tất cả là giáo sư trung học nên may mắn nhờ cha mẹ học trò và học sinh của họ giúp nên cuộc vận động không tốn kém nhiều. Ngoại trừ ông Tuất, người nông dân đứng tuổi có uy tín, có thêm một giáo sư trẻ của trường trung học Nguyễn Ðình Chiểu là Trần Bá Phẩm đứng sau danh sách để nâng sự may mắn thành công của ông Tuất lên cao. Ðiều làm tôi phiền lòng bất mãn về Lý Quí Chung ngay từ những ngày đầu anh tập tễnh bước chân vào chính trường là sau khi anh đắc cử Dân Biểu tại quận 8, do toàn thể cán bộ chương tình hết lòng vận động cho anh, vậy mà sau khi trở thành dân biểu anh không có một lời cám ơn với bất cứ ai trong quận. Bác Sĩ Minh, quản lý chương trình, cảm thấy bất bình, trách nhẹ Lý Quí Chung tại sao không có một lời cám ơn những cán bộ quận đã hết tình giúp đỡ anh. Câu trả lời của Lý Quí Chung làm mọi người sửng sốt: “Tụi toa vận động cho moa là do lệnh của ông Triều chớ đâu có ăn thua gì tới moa đâu”! Câu nói đó làm bác sĩ Minh càng bất bình hơn nữa, anh xin gặp tôi để phân trần. Tôi nổi cơn giận dữ, gọi Lý Quí Chung vào văn phòng trách mắng tơi bời dù anh đã là dân biểu nhưng chưa dám có một lời biện hộ.

Thời gian đó Dương văn Ba, giáo sư trường Trung Học Nguyễn Ðình Chiểu, người Việt gốc Triều Châu mà tôi chỉ biết được khi ở tù chung năm 1983 với một người Triều Châu có bà con họ hàng với anh ta. Do lời giới thiệu của anh Lý Chánh Trung tôi cử Dương Văn Ba làm Ðặc Ủy Viên thanh niên vùng IV Chiến Thuật, thay thế cho anh Lâm Phi Ðiểu, ứng cử Dân Biểu ở Vĩnh Long. Với tư cách là Ðặc Ủy Viên, tôi yêu cầu anh Ba ghé qua các tỉnh miền Tây, nơi có những ứng cử viên do tôi ủng hộ. Có một lần tôi gởi thêm cho mỗi người ba chục ngàn đồng dùng làm vận động phí. Dương Văn Ba đam mê cờ bạc mà tôi không biết, anh ta đã thua hết số tiền tôi gởi cho anh em. Mãi đến khi Bành Ngọc Quí và Lâm Phi Ðiểu kêu vang là đã “cạn dầu”, tôi hỏi ra mới biết là Dương Văn Ba đã giở trò ma giáo. Anh ta liền viết cho tôi một thơ từ chức và nói rằng: “Em là thằng đốn mạt nhứt đời, không còn mặt mũi nào gặp anh nữa, từ nay em sẽ trở về vị trí của một ông giáo làng”...

Tôi gọi Chánh Văn Phòng của tôi, bảo ông ta đi tìm Dương Văn Ba nói với anh ấy rằng: “Bạn bè chỉ cần nhau trong lúc gian nan, cô đơn, nhục nhằn, chớ nếu như mọi chuyện suôn sẻ tốt đẹp hết thì có ai cần ai đâu. Ông hãy bảo Dương Văn Ba lập tức đến gặp tôi. Ngay chiều hôm đó Ba đến tư gia của tôi. Dĩ nhiên, tôi giảng cho anh một bài luân lý nên thân và vạch trần tai hại to lớn nếu tại vì anh phạm sai lầm mà các anh em khác thất cử thì nguy hại vô cùng. Trách mắng xong tôi đưa cho anh chín chục ngàn để giao lại cho Bành Ngọc Quí, Gò Công; Trần văn Tuất Mỹ Tho; Lâm Phi Ðiểu, Vĩnh Long. Tôi còn dạy anh ta phải nói dối để gở danh dự cho mình là phải nói rằng: “Tao bận việc ở Saigon nên xuống văn phòng miền Tây trễ, tụi bây làm gì phải mét với ảnh để cho ảnh lo âu rồi lại giũa tao một trận thê thảm, tiền của ảnh gởi đây, tao có cắt xén đồng nào đâu mà tụi bây vội vàng la hoảng như vậy”.

Lý Quí Chung vào được Quốc Hội, anh hoạt động khá lanh lợi, ăn nói hoạt bát, làm được nhiều việc, cùng với nhóm dân biểu trẻ cảnh cáo hoặc ngăn chận được vài sự lạm quyền quá đáng của cảnh sát hay quân nhân, qua lời phát biểu tại Quốc Hội hay tuyên bố với báo chí. Chung là một con người năng nổ, học ít nhưng tài năng trên mức trung bình, lúc nào anh cũng nghĩ phải kết bè lập đảng. Anh thường đốc thúc tôi phải buộc anh em “ăn thề uống máu với nhau”. Phụ thân tôi có lần nghe được, hết lời can gián. Ông sợ lỡ thề vào giờ linh có thể mất mạng. Tôi chẳng tin thề thốt có ý nghĩa gì cả, vấn đề quan trọng là lòng thành và sự trung tín với nhau do bản chất của con người, xảo trá hay ngay thật mà thôi. Thề thốt xong rồi cũng có biết bao nhiêu người phản bội hay bán đứng anh em.

Hai người mạnh miệng nài nỉ kết thân là Lý Quí Chung và Dương Văn Ba lại là hai người phản bội trước tiên. Kết quả cũng có 9 vị mà tôi không muốn kể tên, hai vị đã qua đời, ăn thề uống máu với nhau mà chẳng làm nên trò trống gì. Thời gian anh Chung còn chưa “đủ lông đủ cánh” thì lúc nào anh cũng tôn trọng tinh thần đồng đội và giữ kỷ luật của tập thể nhỏ bé mà chúng tôi mới tạo dựng. Nhưng đối với con người thiếu đạo đức như anh mà tôi đã có cơ hội nhận xét được qua câu trả lời vô ơn bạc nghĩa của anh với bác sĩ Minh, nên dù anh có thực hiện nhiều công tác đáng khen nhờ sự hăng say, liều lĩnh và sáng kiến, tôi cũng không chỉ định anh đứng đầu khối dân biểu trẻ như anh đã từng khoe khoang trong “hồi ký không tên” của anh, trái lại tôi giao trọng trách nầy cho Dân Biểu Lâm Phi Ðiểu, con người chín chắn, hiền từ, biết hy sinh vì bạn bè nhứt là vì đại cuộc. Anh Ðiểu lại có tài khéo léo, giải tỏa mọi bất đồng, hàn gắn mọi rạn nứt giữa anh em và bao che mọi sai lầm của người khác.

Tôi còn nhớ có một lần các anh phải thảo luận và biểu quyết một điền khoản nào đó của Hiến Pháp mà Lý Quí Chung và Bành Ngọc Quí vì quá nông nổi phát biểu sai lầm tôi bất bình. Sau đó một mình Lâm Phi Ðiểu tới nhà giải thích và chịu mọi sự trách móc. Cuối cùng tôi nói thôi bỏ qua đi, anh về bảo với anh em tôi đã quên việc đó rồi. Anh Ðiểu liền nói: “Tụi nó ngồi trong xe chờ ngoài cửa không dám vô, nhờ tôi đỡ đòn thế, khi nào thuận tiện thì mới vào gặp anh, bằng không thì chuồn luôn chờ khi khác”. Lý Quí Chung là người mà tiếng đời thường gọi là “theo voi hít bã mía”. Chỗ nào có lợi lộc là anh hết lòng phò tá. Cho nên mới đọc sơ vài trang “hồi ký không tên” của anh là tôi đã ngửi thấy mùi nịnh hót cộng sản, bóp méo sự thật để chứng minh cái lý tưởng ba xu, có lẽ của Trần Bạch Ðằng mớm cho anh cũng như cộng sản bóp méo hay sửa đổi lịch sử để biện minh cho cái gọi là “cách mạng” và chế độ cộng sản.

Sự thật anh chưa bao giờ thấy được phòng họp của nội các chiến tranh ra sao mà dám khẳng định rằng “Trung tá Nguyễn Ngọc Loan tự coi mình là nhân vật thứ hai trong chính quyền của Kỳ. Các phiên họp nội các có sự hiện diện của Trung Tá Loan với khẩu súng “Ru-Lô” mang kè kè bên hông”! Sự bịa đặt khôi hài như vậy mà Lý Quí Chung dám viết, tôi không hiểu nổi. (Hồi Ký Lý Quí Chung trang 96). Những sự bịa đặt có tính bôi bác thiếu tư cách của anh không làm tôi ngạc nhiên. Lý tưởng của Lý Quí Chung là tiền bạc, địa vị và...” cái gì khác”. Trong cuộc bầu cử Quốc Hội Lập Pháp cuối cùng năm 1970, Lý Quí Chung công khai tuyên bố: “Nếu Nguyễn Văn Thiệu đắc cử Tổng Thống, anh ta sẽ từ chức Dân Biểu nếu anh cũng đắc cử. Sau đó Thiệu và Chung đều được dân bầu. Báo chí theo hối thúc Lý Quí Chung không ngừng: “Chừng nào ông từ chức”? Anh ta bí lối không biết phải trả lời ra sao cứ hẹn như hẹn nợ. Gặp tôi trong Quốc Hội anh hỏi:

- Ðại ca, bây giờ phải làm sao?

- Có gì khó đâu. Thì cậu trả lời: Chức vụ này của dân bầu, tôi không biết những ai bầu cho tôi, thì bây giờ trả chức này cho ai đây? Vậy tôi không tham gia sinh hoạt quốc hội, không ăn lương của Quốc Hội để phản đối lề lối cai trị của Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu. Anh liền cho phổ biến ngay những lời tuyên bố trên đây. Ấy vậy mà anh ta vẫn lãnh lương đều đều của Quốc hội, đã vậy có nhiều tháng còn mượn lương trước nữa, nhiều Dân Biểu đồng viện của anh hãy còn nhớ điều đó. Vào những tháng Miền Nam đang trên bờ vực thắm, có một ngày Lý Quí Chung xin gặp tôi. Anh yêu cầu tôi chơi một phần hụi ba trăm ngàn đồng, một số tiền khá lớn thời đó. Tôi trả lời: “Từ nhỏ đến lớn tôi chưa từng biết hụi nghĩa là gì và chưa từng chơi hụi với ai, bây giờ cũng không muốn dính vào những gì mình không biết. Anh nài nỉ mãi không được mới thú thật là anh muốn mượn tên tôi để rủ những người bạn của tôi như Trương Thái Tôn, Nguyễn Chánh Lý, là Tổng Giám Ðốc Công ty Mékong và Kỹ Thương Ngân Hàng, các người tên tuổi khác như La Thành Nghệ vân... vân... có tên tôi thì người ta mới manh dạn tham gia. Anh khẳng định muốn mượn vốn làm ăn. Tôi chấp thuận và vươn cổ ra đống tiền, cho đến gần cuối mới hay rằng Lý Quí Chung đã “giựt Hụi”! Tôi điện thoại cho Chung không biết bao nhiêu lần, anh không trả lời, nhắn bao nhiêu người cũng vẫn biệt vô âm tín. Vừa xấu hổ với bạn bè vì họ đã tin rằng Chung là đàn em của tôi nên mới nể tình dính vô vụ hụi nầy, vừa bực mình vì chắc chắn anh đã dùng tên tôi để thuyết phục người khác. Tôi ra lệnh cho văn phòng đưa Lý Quí Chung ra tòa về tội lường gạt. Khi anh thấy nguy hiểm vì có thể bị kết án “lường gạt” anh mới cậy nhờ Hồ Ngọc Nhuận đến văn phòng tôi.

Hồ Ngọc Nhuận là phụ tá đắc lực, là người cộng sự gần gũi tôi nhứt, được tôi tin cậy và thương giúp nhiều. Tôi còn nhớ hồi tôi còn là Chánh sở Thống Kê và Kinh Tế Nông Nghiệp, anh mua đất cất nhà mà còn thiếu hai trăm ngàn đồng. Anh mượn tôi, nhưng tháng đó ngân khoản trong băng của bà xã chỉ còn có một trăm chín mươi hai ngàn. Tôi phải đi vay của bạn bè hai chục ngàn bỏ vào cho đủ số. Khi yêu cầu bà xã ký ngân phiếu cho Nhuận, bà cự nự bảo rằng nếu rủi ro con bị bệnh hoạn đau yếu thì sao? Tôi phải uốn ba tấc lưỡi thuyết phục bả mới chịu ký. Số tiền đó cũng không bao giờ được hoàn lại. Dù Nhuận đã từng là cộng sự viên đắc lực và thân tình, nhưng tôi đã cấm cửa anh ta không cho phép tới lui tiếp xúc với tôi từ năm 1972 vì hai lý do: Nghe lời dụ dỗ của cộng sản tại Paris và đưa một bài báo của cộng sản viết, vào nhựt báo Ðại Dân Tộc do tôi làm chủ nhiệm. Tôi sẽ viết về những sự kiện nầy trên các trang kế tiếp về anh ta. Nhuận xông vào văn phòng tôi mà không hẹn trước vì anh biết chắc tôi không tiếp. Thấy anh tôi vội hỏi:

- Mầy còn đến đây làm gì nữa?

- Tôi đến lạy ông.

- Việc gì phải lạy? Về đi, tao không rỗi rảnh và cũng không còn gì để nói với mầy nữa.

- Tôi lạy ông xin đừng bỏ tù thằng Chung, vì ai cũng biết thằng Chung đã một thời là “em út” của ông, cả xứ đều biết, ông bỏ tù nó cũng bằng bỏ tù chính ông, người ta sẽ cười ông chết.

- Tao bảo mầy đi về. Cô Nga, gọi chú bảy vệ sĩ mời ông Dân Biểu đi ra, tôi không có thì giờ tiếp những người không có hẹn trước.

Nhuận đứng vậy ra về.

Hôm đó là lần đầu tiên tôi gọi Nhuận bằng “mầy”, từ xưa đến nay tôi không hề gọi Hồ Ngọc Nhuận là “mầy tao”, cũng không xưng hô với nhau là “toa moa”, không gọi là “em” mặc dù lúc nào anh ta cũng tự xem mình như em út ruột thịt, nhưng tôi vẫn một mực gọi là “ông” dù là cộng sự viên thuộc cấp. Ngược lại Nhuận cũng không khi nào gọi tôi gì khác ngoài tiếng “Ông”.

Sau khi Hồ Ngọc nhuận ra khỏi văn phòng, suy đi nghĩ lại tôi thấy lời nói của anh không phải là vô lý, nên tôi bèn gọi ông Ðặng Ðình Hải, Chánh Văn Phòng, trước khi ông nầy trở thành ký giả nhựt báo Ðại Dân Tộc và sau là Nghị Viên Hội Ðồng Tỉnh Bến Tre, chỉ thị ông đến văn phòng luật sư yêu cầu bãi nại.

Lý Quí Chung cũng hăng say đứng vào hàng ngũ ban lãnh đạo của Phong Trào Phục Hưng Miền Nam, Phục hưng miền Nam. Miền Nam có nghĩa là cả miền Nam không cộng sản từ sông Bến Hải, chớ không phải tiếng đồn hay dư luận cố tình bóp méo là miền của dân miền tây lục tỉnh. Tôi đỡ đầu phong trào, xin cho họ có giấy phép hoạt động, nhưng tôi không hề có tên trong danh sách đảng viên mà chỉ đứng bên ngoài góp ý, cố vấn, tiếp tay với ban lãnh đạo khi cần. Cũng may cho tôi là khi vào tù cộng sản bị tra hỏi về đảng Phục Hưng ở hải ngoại mà bọn cộng sản cho rằng thoái thân của Phục Hưng Miền Nam, đang tiếp tục chống phá “cách mạng”, tôi thách thức họ tìm trong hồ sơ bộ nội vụ và cảnh sát mà họ khoe khoang là còn đầy đủ, xem có tên tôi trong đảng phái nào không? Trong phong trào Phực Hưng Miền Nam, Lý Quí Chung hoạt động khá hăng hái, góp phần thảo bản tuyên ngôn, lập trường mà chính anh luôn nhấn mạnh là phải minh định lập trường chống cộng sản. Khác với những gì anh gian dối đánh bóng cho tinh thần thiên tả, yêu nước, ủng hộ cái gọi là “cách mạng” của anh. Tôi nhớ có lần anh thố lộ với tôi rằng: “Thằng Hồ Ngọc Nhuận được cộng sản móc nối, nó sẽ là cây dù che cho anh em sau nầy”. Có lẽ vì Hồ Ngọc Nhuận thú nhận với anh ta theo đề nghị của Trần Bạch Ðằng, nên Chung mới biết được cái “tẩy” của Nhuận là có móc nối với tên cộng sản cao cấp nầy. Sự thật cộng sản thừa biết giá trị tinh thần và khả năng trí tuệ của Lý Quí Chung nên họ có cho anh ta một chút xơ múi gì đâu, ngoài cái quán ăn ở câu lạc bộ đường Duy Tân cũ.

Phần tôi, dù được biết biết các anh ấy bắt liên lạc lại với địch, nhưng tôi đã một lần hứa “thằng người của tao không khi nào ra tay giết em út” (xem những trang kế tiếp nói về Hồ Ngọc Nhuận), nên tôi lặng thinh khi nghe Chung khoe như vậy. Vả lại chắc chắn Tổng nha cảnh sát đã biết việc nầy rồi vì văn phòng của Hồ Ngọc Nhuận ở đường Lê Lai có đầy cảnh sát chìm, nổi trong khu vực.

Nói về Dương Văn Ba thì cũng đáng buồn cỡ đó. Sau khi tôi từ chức Tổng Trưởng Thanh niên, chấp nhận đi lính thay vì đi làm Ðại Sứ ở Luân Ðôn như Tướng kỳ đề nghị để lấy lòng và xoa dịu những bạn bè của tôi trong chính trường, có thể bất mãn vì sự từ chức của tôi kéo theo 6 vị Tổng Trưởng khác. Dương Văn Ba cũng trở về dạy học. Ðến khi bầu cử Quốc Hội Lập Pháp tôi thúc đẩy anh ta ra ứng cử ở Bạc Liêu, anh đồng ý mà sự thật anh không dám nạp đơn ứng cử, còn hai ngày trước thời hạn cuối cùng phải nộp đơn, tôi hỏi:

- Ba, cậu có nộp đơn ứng cử không?

- Dạ không.

- Tại sao cậu đã nói bằng lòng trước mặt tôi mà không nộp đơn?

- Em sợ không đủ uy tín ở đó để đắc cử.

- Cậu có còn nghe lời tôi nữa không? Hay là tôi hết chức, cậu coi thường và lời hứa của cậu không có giá trị và danh dự trong đó?

- Dạ em còn nghe lời anh.

- Vậy thì về Bạc Liêu liền, nộp ứng cử Dân Biểu.

Trong kỳ bầu Quốc Hội nầy tôi đề nghị thêm Ngô Công Ðức ứng cử ở Vĩnh Bình quê của anh. Hồ Ngọc Nhuận, Hồ Văn Minh ra ở quận 8. Sau khi có kết quả bầu cử, tôi đã vào trường Võ Bị Thủ Ðức. Lúc nửa đêm Trung Tá Huệ trưởng khối huấn luyện trường Bộ Binh Thủ Ðức là anh rể của Dương Văn Ba đến tìm tôi ở đại đội 3, chở về nhà ông cho Dương Văn Ba và Ngô Công Ðức gặp. Lời nói đầu tiên của Ba là: “Sau khi nghe kết quả đắc cử hình ảnh người đầu tiên hiện trong đầu tôi là anh, từ nay trở đi Võ Long Triều biểu gì tôi cũng nghe theo không suy nghĩ”. Sự viếng thăm đột ngột trong hoàn cảnh khó khăn đặc biệt nầy chứng tỏ lòng thành trong chốc lát của Dương Văn Ba.

Còn sau nầy nhiều chuyện khác tùy theo lợi lộc. Sau khi vào Quốc Hội, ông Nguyễn Cao Thăng Phụ Tá Tổng Thống Ðặc Trách Liên Lạc Quốc Hội, bỏ tiền mua chuộc Dân Biểu để lập một khối “gia nô” và một số Dân Biểu vòng ngoài tùy cơ hội, trong số đó có Dương Văn Ba. Hồ Ngọc Nhuận là người bản chất tốt, ôn hòa, khôn khéo, nên tôi đề nghị anh đóng vai trò phối hợp anh em, nói trắng ra là lãnh đạo nhóm dân biểu thân hữu của mình. Nhuận cho biết là Dương Văn Ba lấy tiền của Nguyễn Cao Thăng bỏ phiếu những điều khoản nghịch lý, phi dân chủ, hại cho đại cuộc, lợi cho địa vị hay cá nhân Tổng Thống. Anh em đề nghị khai trừ Dương Văn Ba. Tôi gọi Ba đến nhà và hỏi: sự thật anh có lấy tiền của Nguyễn Cao Thăng không? Anh chối quanh co, cuối cùng phải thú nhận là có. Tôi suy nghĩ, không nên loại bỏ một tay chân hữu ích khi cần, nên tôi đề nghị:

Nếu cậu hứa với tôi sẽ tuyệt đối tuân theo chỉ thị của tôi khi cần thiết thì tôi cho phép cậu lấy tiền của Nguyễn Cao Thăng, nhưng trước khi lấy cậu phải hỏi và được tôi cho phép, tùy theo tầm quan trọng của sự biểu quyết lần đó. Nếu tôi không cho phép cậu phải bỏ phiếu theo khối của anh em, bằng không thì tôi sẽ để cho anh em khai trừ cậu vì lý do lén lút nhận tiền của hành pháp. Nhục nhã đó sẽ làm hư cả đời cậu. Dương Văn Ba đồng ý và tiếp tục sinh hoạt trong điều kiện anh đã hứa với tôi cho đến ngày anh thất cử. Có một lần tôi đang ngồi làm việc, nghe điện thoại reo, đầu dây bên kia tiếng của Dương Văn Ba hổn hển:

- Anh ơi, tôi lỡ nói mấy thằng dân biểu “gia nô” ăn tiền của Nguyễn Cao Thăng, bây giờ tụi nó ào ào, kể cả ông Chủ Tịch, đòi tôi phải vạch mặt chỉ tên người nào chớ tôi không có quyền vơ đũa cả nắm. Báo chí cũng đang vây quanh tôi, phiên họp đang tạm ngưng. Làm sao bây giờ?

- Tại sao cậu ăn nói bừa bãi, kém suy nghĩ như vậy. Bây giờ đã lỡ nói rồi, nhưng có điều chắc chắn là tụi nó ăn tiền thật, vậy thì khi trở vào họp cậu lựa thằng “gia nô” nào yếu ớt nhứt không dám đánh cậu vì bị hạ nhục, thì cứ chỉ đại một tên. Kết quả Dương Văn Ba chỉ đích danh ông Phạm Duy Tuệ, Tổng Thư Ký Quốc Hội, người ốm yếu và là gia nô thật.

Sau khi thất cử Dân Biểu, Ba không có việc làm tôi buộc Ngô công Ðức phải nhận anh vào làm việc trong tờ báo Tin Sáng. Mặt khác tôi nài xin với Anh Trung Tướng Nguyễn Văn Vĩ, Tổng Trưởng Quốc Phòng, cho anh Ba được hoãn dịch hai lần. Anh tiếp tục làm báo kiếm tiền nuôi gia đình. Rồi nghề dạy nghề, Dương Văn Ba trở thành ký giả sáng giá trong tờ báo. Cho đến ngày tôi xuất bản nhựt báo Ðại Dân Tộc, gọi Dương Văn Ba về cùng làm việc với nhóm anh em, Ba yêu cầu tôi phải trả lương cho anh mỗi tháng năm trăm ngàn đồng thì mới về, bằng không anh vẫn làm việc cho Báo Ðiện Tín, thoái thân của tờ Tin Sáng. Số tiền Dương Văn Ba đòi phải trả lớn gấp năm lần hơn lương của một Tổng Thơ Ký giỏi trong làng báo thời đó. Hồ Ngọc Nhuận tức giận tột cùng, nói với Ba rằng: “Mầy dám bỏ lời thề, phản bội anh em, nhưng anh em sẽ không bao giờ phản bội mầy, bây giờ tao hỏi mầy có bằng lòng về làm việc với anh em không? Hay là mầy chỉ biết đồng tiền mà bất kể tình bạn kết nghĩa”?

Câu trả lời của Ba là Không! Về sau năm 1975 tôi nghe nói Dương Văn Ba cấu kết với cán bộ cộng sản Cà Mau khai thác gỗ lậu, bị kết án tử hình, đồng bọn của anh lo lót được giảm án xuống chung thân, rồi cuối cùng được trả tự do. Nghe nói ra tù Dương Van Ba vẫn làm ăn gian dối, nợ chồng chất mướn nhà làm văn phòng, không có tiền trả.

Nói về Ngô Công Ðức, anh cũng thuộc nhóm người trẻ có liên hệ với tôi. Nhiều lần tôi bàn thảo với anh em, làm chính trị phải có vũ khí chính trị. đó là báo chí. Ngô công Ðức nghe nói, khoe rằng anh đã một thời từng làm ký giả cho nhựt báo Trắng Ðen. Dù biết rằng văn hóa của Ngô Công Ðức rất kém, không có được văn bằng tú Tài. Nhưng làm báo chỉ cần biết viết văn nghiêm chỉnh là đủ. Còn kiến thức chính trị văn hóa thì đã có tập thể anh em cùng chung góp sức, nên tôi giao cho anh một triệu năm trăm ngàn đồng, nói là để hùn với anh xuất bản tờ Tin Sáng nhưng thực tế tôi biết anh không có một triệu rưỡi để hùn. Vấn đề đối với tôi không phải là thương mại mà là chính trị, nên tôi nhắm mắt để cho anh toàn quyền chi tiêu. Tôi chỉ đặt Hồ Ngọc Nhuận đứng tên Giám Ðốc Chính trị của tờ báo mà thôi. Tờ báo lời nhiều, nhiều lắm nhưng Ngô Công Ðức không hề chia một cắc lời, thậm chí không trả vốn. Tôi có nhắc một lần nhưng Ðức làm ngơ. Tôi cũng giả vờ không quan tâm vì mục đích xuất bản báo của tôi là để tạo một vũ khí chính trị phục vụ cho lập trường, lý tưởng chứ không phải để kiếm lời. Vả lại lợi tức của trại chăn nuôi, trường anh văn London School, trường mẫu giáo Claire Joie cũng đủ cho việc chi tiêu trong gia đình.

Một điều đáng nói về Ngô Công Ðức là tính anh quá khích và xảo quyệt. Khi Hồ Ngọc nhuận ra ứng cử, thiếu tiền vận động, đến xin tôi. Tôi biểu anh nói với Ngô Công Ðức là tôi yêu cầu đưa cho anh một trăm ngàn đồng. Ðức không chịu đưa. Tôi gọi cả hai anh tới nhà giáp mặt, tôi trách nhẹ là Ðức không trả vốn chia lời cho tôi trong khi tờ báo lời to, tại sao biểu đưa cho Nhuận có một trăm ngàn mà anh từ chối. Ðức hứa trước mặt tôi về sẽ đưa ngay cho Nhuận. Kết cuộc không đưa mà chỉ đưa cho Nhuận chiếc xe La Dalat cũ kỹ để làm phương tiện đi vận động mà thôi.

Một bài báo anh Ngô Công Ðức viết trong mục Thiên Hạ Ðồn Rằng của báo Tin Sáng về “cộng rau muống” ký tên Tư Trời Biển có nội dung diễu cợt người Bắc. Một số Dân Biểu đồng viện của anh phản ứng mạnh, ký giả báo khác cũng chỉ trích nặng nề. Tôi gọi Hồ Ngọc Nhuận về nhà điều tra xem tại sao Nhuận là Giám Ðốc Chính Trị mà để cho sự việc xẩy ra một cách ngu xuẩn như vậy. Nhuận tự bào chữa là vì tin cậy nhau, dù sao Ðức cũng lầm lỡ rồi xin tôi bỏ qua. Ngày hôm sau Ngô Công Ðức viết một bài khác không dám nói trắng trợn tác giả bài báo đó là tôi nhưng ngụ ý quanh co là mục Thiên Hạ Ðồn Rằng và bút hiệu Tư Trời Biển là do tôi đặt ra. Lập tức dư luận cho rằng tôi là kẻ ném đá giấu tay, tôi là người kỳ thị Nam Bắc, mà sự thật là tôi thường ca ngợi tính năng nổ, sinh động của người Bắc và đa số bạn bè của tôi từ Paris về tới Việt Nam là Bắc Kỳ. Bởi tính tôi cũng năng nổ sinh động như vậy, nên kết bạn nhau là thường. Tôi không muốn đính chánh bài viết nầy không phải là của tôi, đồng thời chỉ đích thật tên tác giả của nó, bởi vì tôi không muốn đổ tội cho một thằng đàn em đã làm sai mà không dám nhận để xin lỗi. Hơn nữa tính tôi ngang ngược, bất chấp dư luận đã quen, cộng thêm tinh thần do giáo dục gia đình ảnh hưởng, nên tôi đành làm thinh để mặc cho dư luận muốn hiểu sao thì hiểu. Thực tế tôi không hề có viết một bài nào trong mục thiên hạ đồn rằng và bút hiệu Tư Trời Biển là bút hiệu chung của Ngô Công Ðức, Hồ Ngọc Nhuận hay bất cứ ai viết trong mục đó - Trừ tôi, bởi vì thời đó tôi chưa biết viết báo - Nhưng tôi sẵn sàng chấp nhận búa rìu của dư luận cho tới ngày nay. Ðiều đó cũng chẳng hại gì đến danh dự và đời sống cá nhân, xã hội hay chính trị của tôi. Nhân sinh quan, lập trường chính trị của tôi rõ ràng cần chi phải đính chánh.

Cái tính xảo quyệt của Ngô Công Ðức có sẵn thời anh còn nhỏ, học ở Trường Saint Joseph Mỹ Tho. Có một buổi “ra chơi” , thầy giám thị (frère surveillant) để quên cái tu-huýt trên ghế, Ðức cầm thổi quét một tiếng lớn, mọi người tưởng tới giờ ngưng chơi đi xếp hàng, thầy giám thị tức giận điên người hỏi:

- Thằng nào thổi?

- Thưa thầy thằng nầy. Ngô Công Ðức vừa nói vừa chỉ anh bạn đứng kế bên. Thầy giám thị liền xáng thằng nhỏ vô tội một bạt tai như trời giáng. Mặc cho sự đôi chối, cũng vô ích, chỉ tội cho thằng nhỏ nầy bị đòn thế cho Ngô công Ðức rồi. Câu chuyện nầy chính Hồ Ngọc Nhuận bạn đồng lứa, học cùng trường với Ðức tại Saint Joseph thuật cho tôi khi tôi trách mắng Hồ Ngọc Nhuận về vụ Ðức viết bài ngu xuẩn mà không dám nhận.

Nhận định về bản chất của Ngô công Ðức tôi xa dần lẩn tránh anh ta một cách nhẹ nhàng, mọi việc giao dịch ít khi tôi trực tiếp mà chỉ qua trung gian của Hồ Ngọc Nhuận thôi. Cho đến ngày 30 Tháng Tư tôi hoàn toàn cấm cửa Ngô Công Ðức, nhưng có một lần khi tôi ra tù anh biết tôi cấm cửa anh nên tháp tùng với người anh rể là Trung Tá cựu Dân Biểu, một đồng viện tôi còn giữ cảm tình, đến nhà thăm tôi với chai rượu chát và hợp fó-mát (fromage) sản phẩm của Pháp quốc. Anh nhắc rằng: Biết tôi thích fó-mát hiệu Camembert nên cố tình đem đến uống với tôi một ly rượu mừng. Tôi từ chối thẳng thừng viện cớ là đau gan bác sĩ cấm rượu, cấm mỡ, cấm kem.

Hồ Ngọc Nhuận là người thuộc đàn em, tôi quí mến vì có tài, có tình, khá lanh lợi, năng nổ nhưng tiếc thay thiếu sự hiểu biết sâu xa về chính trị. Ngày nay viết về anh ta, tôi hối tiếc vì đã mất một người cộng sự đắc lực có khả năng. Tôi buồn gần như mất một người em, một người bạn đồng hành. Tôi bực tức và tự trách chính mình tại sao không cứng rắn đủ với anh ta, không áp dụng một kỷ luật thép đối với những người đồng hành đồng chí đứng trong hàng ngũ của mình. Tại sao tôi không thẳng thừng vạch mặt chỉ tên khi thừa biết họ để cho Trần Bạch Ðằng móc nối trở lại. Thật ra điều nầy Tổng Nha Cảnh Sát và Tình Báo cũng biết. Tôi kể chuyện về Hồ Ngọc Nhuận sau đây với ít nhiều ray rứt trong lòng.

Trong lúc anh giữ chức Tổng Giám Ðốc Thanh Niên của tôi, có lần Tướng Kỳ muốn cải tổ nội các sâu rộng tôi có nhiệm vụ tìm một người thay thế Lâm Văn Trí, Tổng Trưởng Canh Nông mà không một đồng nghiệp nào của tôi chịu nhận. Tôi quyết định chính mình sẽ về nhận Bộ Canh Nông và giao Bộ Thanh Niên cho Hồ Ngọc Nhuận. Tôi bèn gọi anh vào văn phòng thông báo quyết định của tôi. Anh từ chối nói rằng chức vụ đó vượt khả năng của anh ta. Nội chuyện tiếp khách trong và ngoài nước thôi anh cũng không thể chu toàn, huống chi là họp hành nội các, bàn chuyện quốc sự. Tôi cố thuyết phục và gần như chỉ thị ngày mai anh cùng với tôi đi trình diện nội các mới. Anh khẳng định sẽ đào ngũ, ngày mai chắc chắn tôi sẽ tìm anh không ra đâu. Tôi đành phải chịu thua và nhận lãnh sự trách mắng của Tướng Kỳ vì ông bị bắt buộc phải nói lại với Lâm Văn Trí cho ông ta lưu chức. Và cũng vì thế mà Lâm Văn Trí tỏ ý mỉa mai tôi “anh đuổi em không được mà anh”! Sự kiện nầy chứng minh Hồ Ngọc Nhuận không tham quyền, háo danh, chuộng lợi. Nhuận luôn luôn là tay mặt tay trái của tôi trong gần như mọi vấn đề, từ những hoạt động lớn nhỏ quan trọng cũng như không quan trọng. Có một lần phụ thân tôi lưu ý rằng: “Tao coi thằng Nhuận nầy không được à mầy, Thằng nầy có tướng con sâu rộm, là người phản phúc” Tôi không nghe mà còn phản bác lại ông, nói rằng Nhuận là người đã giúp tôi rất nhiều trong mọi hoạt động.

Năm 1973 cuộc đàm phán ở Paris còn đang tiếp tục, Quốc Hội Việt Nam tạm nghỉ, Dân Biểu công du nước ngoài, trong số đó có ba đồng viện, đồng hành, đồng chí với nhau là Hồ Ngọc Nhuận, Ngô Công Ðức và Dương Văn Ba, cùng đi một chuyến sang Mỹ, Pháp, Ðức v.v... Tại Paris Ðinh Bá Thi tìm gặp họ. Theo Lời Hồ Ngọc Nhuận tường thuật lại với tôi là Thi hết lời khen ngợi nhóm của anh ta tiến bộ nhứt miền Nam, là những người yêu nước, là những người sáng suốt nhìn thấy tương lai của dân tộc, là những người ôn hòa không muốn thấy chiến tranh tiếp diễn, muốn tiết kiệm xương máu của đồng bào vân vân và vân vân. Sau những lời bợ đỡ đó Ðinh Bá Thi đề nghị ba vị dân biểu nầy họp báo tại Khách sạn Lutétia, Ðại Lộ Raspail quận VI Paris, và sau đó sẽ mở một cuộc họp báo khác tại Bỉ, trung tâm sinh hoạt của cộng đồng Âu Châu., và một trong ba vị sẽ đọc một bài diễn văn tại Lưỡng Viện Quốc Hội Hoa Kỳ để tuyên bố lập trường của nhóm trí thức và chính trị gia miền Nam. Ba anh bạn trẻ của tôi đồng ý, nhưng phải chờ một người là Hồ Ngộc Nhuận về Saigon thông báo sự việc và hỏi ý kiến tôi là người lãnh đạo nhóm. Thực tế Dương Văn Ba cùng về với Nhuận còn Ngô Công Ðức ở lại Paris chờ.

Một buổi tối vào 9 giờ đêm, có tiếng chuông kêu cửa nhà tôi ở số 28ter đường Mạc Ðĩnh chi, tôi ngạc nhiên thấy Hồ Ngọc Nhuận lù lù bước vào phòng khách. Tôi vội vàng hỏi:

- Ủa mấy ông đi quan sát nước ngoài mà sao về sớm vậy?

- Ðâu có, tụi tôi về để hỏi ý kiến ông.

- Về vấn đề gì?

Mấy ông đang đi du hí du thực mà có vấn đề à. Sắc mặt Hồ Ngọc Nhuận nghiêm chỉnh trả lời:

- Có

Vấn đề gì quan trọng đến nỗi phải hỏi ý kiến tôi. Tôi thành thật xác nhận rằng sinh hoạt nghị trường Quốc Hội thời đó còn rất mới mẻ đối với nhiều vị Dân biểu đàn em, đặc biệt là Dương Văn Ba và Ngô Công Ðức, Hồ Nhọc Nhuận, các anh ấy thường ghé qua nhà tôi ăn sáng khoản 8 giờ mà không cần báo trước. Câu nói đầu môi chót lưỡi là: “Sáng nay vô Quốc Hội nói gì hả ông?”. Những sự bàn bạc đó trở thành thói quen, trở thành lời cố vấn hay chỉ dẫn cho các bạn Dân Biểu của nhóm trong hội trường. Mỗi khi có chuyện gì quan trọng là các anh ấy đều hỏi ý kiến tôi.

Trong lúc Hồ Ngọc Nhuận trình bày chi tiết câu chuyện Paris giữa ba anh và Ðinh Bá Thi thì lại có tiếng chuông ngoài cửa, vài phút sau Dương Văn Ba xuất hiện lúc 10 giờ 20, dáng điệu lo ngại, sợ hãi. Tôi nhớ rõ từng chi tiết bởi vì sự kiện ngày hôm đó in sâu vào đầu tôi và nó theo đuổi tôi mãi mỗi khi có cơ hội nghĩ đến. Tôi hỏi anh Ba:

- Tại sao toa đến khuya vậy? Gặp moa để làm gì?

- Vì tôi hẹn với anh Nhuận tới đây, nhưng thấy cảnh sát chìm theo dõi nên tôi đậu xe ở xa, đường Phan Ðình Phùng rồi mới vòng vo đi mãi tới đây nè.

Sau khi Nhuận trình bày cặn kẽ những gì ba anh em họ nghĩ và kết luận:

- Tôi có hẹn phải gọi điện thoại cho thằng Ðức ngày mai đúng 9 giời bên nầy, báo tin cho nó chuẩn bị rồi chúng tôi sẽ trở qua Paris. Bây giờ ông nghĩ sao?

- Mấy ông không biết gì về cộng sản hết. Tôi cũng không biết! Nhưng ít ra tôi biết tụi nó qua sách vở, còn các ông thì không. Ðiều đó thấy rõ. Thứ nhứt các ông phải biết rằng vô sản không khi nào chấp nhận hợp tác, sống chung với tư sản như chúng mình. Có chăng là giả dối lợi dụng. Thứ hai đối với cộng sản, dòng họ chúng ta là cường hào ác bá. Cha của ông là Cai Tổng Hồ Văn Ðắc, ông già thằng Ðức là Cai Tổng, ông già tôi là cựu Thiếu Tá phó tỉnh trưởng nội an của tỉnh Bến tre. Việt cộng đã nhiều lần treo giá cái đầu của ông già tôi là 5 triệu đồng. Ba tôi chết hụt bốn năm lần do tụi nó giết hụt. Các ông có thấy chuyện tâng bốc chúng mình là tiến bộ là vô lý và giả dối và có ý đồ lợi dụng không? Tôi không đồng ý. Vả lại, chuyện họp báo ở Paris tưởng dễ sao? Tôi sống và học tại đó 10 năm, nói tiếng tây như gió, báo chí Paris cũng từng đề cập đến tên tôi, mà bây giờ biểu tôi tổ chức họp báo chưa chắc tôi làm được. Còn các ông phát ngôn bằng Pháp ngữ như “chà và chóp nói tiếng lèo mà đòi họp báo là cái gì? Tôi không đồng ý. Kêu thằng Ðức về.

Nhuận bảo đảm:

- Mọi việc từ họp báo đến đọc diễn văn trước Quốc Hội Hoa Kỳ đều do Ðinh Bá Thi sắp xếp chi tiết, tụi nầy khỏi lo. Ðấy, thấy không? Như vậy là các ông sẽ họp báo mướn đổi lấy tiếng tăm danh vọng phải không? Dẹp đi tôi không đồng ý. Một sự lợi dụng trắng trợn như vậy mà các ông không thấy thì làm chính trị chính em cái gì? Nếu phải công khai và lớn tiếng tuyên bố lập trường của mình, bộ chúng ta không thể họp báo chí ngoại quốc tại Việt Nam hay sao? Thôi dẹp đi đừng nói chuyện hoang đường với tôi nữa.

Hồ Ngọc Nhuận cố hết sức thuyết phục tôi và luôn luôn nhắc rằng ba anh ấy đã hứa với Ðinh Bá Thi rằng sẽ thuyết phục được tôi dễ dàng. Nhuận và tôi bàn cãi qua lại nhiều, nhiều lắm. Dương Văn Ba thì ngồi im lặng từ đầu đến cuối. Nhuận khăng khăng biện hộ cho cơ hôi họp báo vá phát biểu tại quốc hội Hoa Kỳ. Tôi thì chỉ còn lập đi lập lại một câu: Dẹp đi, tôi không đồng ý. Mãi đến 3 giờ thiếu 12 phút tôi nhìn đồng hồ và kết luận:

- Tụi bây ngày nay có đủ lông đủ cánh hết rồi, muốn tự mình bay thì cứ bay, nhưng tuyệt đối kể từ nay không đứa nào được phép bước chân vào nhà tao nữa. Tao cũng cho tụi bây biết rằng thằng người của tao không khi nào ra tay giết em út. Câu chuyện hôm nay tao giữ kín sẽ không hở môi. Về hết đi”!

Những câu nói nầy của tôi vĩnh viễn không khi nào quên được. Ba và Nhuận ra về, tôi ngồi thừ ra rất lâu. Ðêm trằn trọc không sao ngủ được. Buồn bã đến vã người vì thấy công trình xây dựng gần như đang sụp đổ, bạn bè, em út đứa nào cũng muốn rẽ đường sang ngang. Bực tức vì mình tự trói tay không thể làm cho ra lẽ, gây thành lớn chuyện, thì người cuối cùng gánh chịu nhục nhã sẽ là chính mình. Thất bại về mọi mặt hiện ra trước mắt.

Sáng thật sớm từ trên lầu tôi xuống phòng khách ăn điểm tâm, chợt thấy Hồ Ngọc Nhuận ngồi sù sụ một đống ở đó không biết tự bao giờ.

- Ông còn tới nhà tôi làm chi nữa? Hôm qua tôi đã nói rõ lắm rồi. Về đi.

- Ông đuổi tôi phải không? Tôi biết lỗi rồi mới tới đây, bây giờ ông đuổi tôi là ông chịu trách nhiệm à.

- Tưởng ông nói sao chớ ông nói như vậy thì 9 giờ gọi điện thoại kêu thằng Ðức về. Không có họp báo gì cả.

Ngồi vào bàn ăn, Nhuận mới cho tôi biết tối hôm qua Tổng Thống Thiệu đã tuyên bố tố cáo thằng Ðức là cộng sản.

- Vậy là nó càng phải về ngay. Và trước khi về nó phải tuyên bố với báo chí bên đó là: vì nó không phải là cộng sản nên nó mới về Việt Nam.

Vài ngày sau Ngô Công Ðức về đến Tân Sơn Nhứt, cảnh sát công an của Tổng Thống Thiệu, ăn mặc thường phục, dàn chào, phản đối, chọi nước sơn đỏ vào người Ngô Công Ðức, rồi mọi chuyện cũng tạm lắng. Tôi khuyên Ngô Công Ðức phải về tại đơn vị Vĩnh Bình của anh mở một cuộc họp báo và mời đông đảo ký giả ngoại quốc tham dự. Tại đó chắc không có người giả mạo thường dân để phá phách anh. Sau khi thất cử Dân Biểu, Ngô Công Ðức trốn ra nước ngoài qua ngả Campuchia và bị cộng sản móc nối lại. Ðến sau ngày 30 Tháng Tư, 1975 anh trở về. Thực tế cộng sản cũng biết chân giá trị của anh nên không dành cho anh một chức vị gì ngoại trừ cho chút ân huệ làm báo kiếm tiền trong giai đoạn đầu và buôn bán sơn mài làm giàu vậy thôi.

Hồ Ngọc Nhuận nghe lời tôi ở lại Saigon, hủy bỏ việc họp báo ở Paris, tiếp tục hoạt động trong hàng ngũ anh em cho đến khi tôi xuất bản nhựt báo Ðại Dân Tộc anh chính thức đứng tên là Tổng Thư Ký nhưng thực tế là người tín cẩn như phụ tá chủ nhiệm. Trong thời gian qua tôi yên trí là việc móc nối ở Paris đã coi như thực sự chấm đứt. Không ngờ tại Saigon Trần Bạch Ðằng đã tìm cách liên lạc trở lại mà tôi không hay. Cái lỗi lầm thật đáng trách của Hồ Ngọc Nhuận là đã giấu diếm tôi điều đó. Tại sao lần trước khi Ðinh Bá Thi liên lạc, anh quyết định từ Paris trở về Việt Nam hỏi ý kiến tôi? Tại sao lần nầy anh âm thầm lén lút móc nối Ngô Công Ðức, Lý Quí Chung và Dương Văn Ba. Bởi vì anh biết chắc là tôi lại ngăn cản nữa. Phải chăng khi con người ta có chút quyền hành, danh vọng, tiền tài rồi, thì người ta sẽ dễ hư hỏng, dễ bị cộng sản xúi giục: Phải lộn nài bẻ ống để vươn lên cho bằng, hoặc hơn, người đã từng dẫn dắt mình. Phải vượt ra khỏi tầm kiểm soát của tập thể không tiến bộ theo nghĩa của cộng sản. Lỗi lầm đó của Hồ Ngọc Nhuận, chẳng những đối với tôi không mà thôi, lại còn đối với cả nhóm bạn bè, hay rộng hơn nữa là đối với quốc gia, cho nên tôi khó quên được. Khi tôi còn ở Paris có lần anh Hồ Ngọc Nhuận sang Pháp thăm gia đình anh ấy, sẵn dịp đến thăm tôi. Gặp được cơ hội, tôi xỉ vả anh rất nặng lời, đến nỗi lúc anh sang Mỹ gặp Ðỗ Quí Toàn, anh than rằng: Gặp mấy ông bên nầy, mấy ông còn hỏi thăm gia đình sức khỏe, còn gặp ổng (Triều) ở Paris, ổng chửi tôi từ đầu hôm đến sáng sớm, suốt cả đêm. Ðó là sự thật mà Ðỗ Quí Toàn thuật lại khi gặp tôi. Bây giờ nghĩ lại tôi cũng thấy mình hơi quá đáng, bởi lẽ tôi tin chắc khi Nhuận gặp lại tôi trong lòng ông ta đã thấy hối hận rồi, cần gì tôi phải nặng lời với anh.

Ngày phi cơ Mỹ giội bom lầm tòa Ðại Sứ Pháp gây thiệt mạng cho ông Ðại Sứ Sussini, Hồ Ngọc Nhuận xin tôi để cho anh viết bài xã luận “Viết Cho Bà Sussini”. Dĩ nhiên không những tôi đồng ý mà còn mừng vì mình rảnh tay được một việc. Trước khi đưa báo lên khuôn tôi kiểm lại những bài có tính cách chính trị thì đi từ ngạc nhiên đến ngỡ ngàng, tôi đọc bài xã luận ký tên Hồ Ngọc Nhuận thấy có rất nhiều từ ngữ mà ký giả miền Nam mình thời đó không có dùng. Lời văn hoàn toàn khác lạ không phải của Hồ Ngọc Nhuận, ý nghĩa không phải vì bất bình mà là tố cáo. Tóm lại tôi hồ nghi bản văn nầy do người ngoài gài vô cho Nhuận. Tôi bèn nhớ lại chuyện Paris. Bực bội trong lòng nhưng cũng lấy hết kiên nhẫn ngồi sửa lại từng câu từng chữ. Cố tình “lách” tránh để cho bản văn không bị liệt vào “làm nguy hại an ninh quốc gia” hay mạ lỵ các đấng chỉ huy cao cấp. Nói sửa nhưng gần như viết lại toàn bộ bài xã luận. Hai giờ trưa tôi mới ăn cơm xong, định nằm nghỉ, thì điện thoại của anh quản lý cho biết báo bị tịch thu. Tôi hỏi:

- Tịch thu vì lý do gì?

- Bài Xã luận của Hồ Ngọc Nhuận.

- Tôi đã sửa chữa lại hết rồi? Tịch thu vì câu nào? Chữ nào?

- Tịch thu vì toàn bộ bài xã luận.

Tôi đâm nghi nên yêu cầu đưa về cho tôi xem liền một bản. Rõ ràng là nguyên văn bài xã luận của người khác viết, y như bài đầu tiên của Nhuận đưa ra. Người đó là ai, ngoài tay nào nội tuyến của cộng sản? Tôi lập tức ra lệnh cho Lê Xuyên triệu tập phiên họp toàn bộ nhân viên tòa soạn lúc 3 giờ, kể cả “xếp ti-pô” (trưởng ban sắp chữ), đặc biệt ông phụ tá Nhuận phải có mặt.

Ðúng 3 giờ tôi đến tòa soạn có đông đủ mặt nhân viên. Kể cả Hồ Ngọc Nhuận ngồi đó với 3 chai la-ve hiệu 33 để trước mặt. Tôi hỏi Lê Xuyên tại sao có sự tráo bài của chính tay tôi sửa. Anh bảo rằng bài của tôi sửa xong đưa liền xuống cho thằng Út, xếp ti-pô sắp chữ. Tôi hỏi Út thì anh ta khai rõ ràng minh bạch: Tụi em đang sắp được một phần ba bài, ông phụ tá Nhuận đột nhiên xuống bảo đưa cho ông ta coi lại bản văn em mới đưa theo lệnh. Ông bảo em chờ một chút rồi ông lại đưa một bản văn khác biểu em phải bỏ đoạn trước sắp lại hết. Em đâu có dám tráo đổi gì đâu. Công việc quá rõ ràng, không ai hiểu ất giáp gì cà chỉ riêng có một mình Nhuận và tôi hiểu được mà thôi. Nhuận ngồi lặng thinh không có một lời biện hộ hay phát biểu. Tôi tuyên bố ngắn gọn, giọng cứng như thép: Kể từ nay không ai có quyền gì trong tờ báo nầy nữa. Không ai có quyền sửa lại một dấu chấm hay phết của chính tay tôi viết ra.

- Mọi người nghe rõ rồi chứ? Nếu nghe rõ thì cuộc họp đến đây chấm dứt.

Ngày hôm sau tôi vào văn phòng thấy thơ từ chức của Hồ Ngọc Nhuận để sẵn trên đó. Tôi cầm bút phê thuận không ngần ngại, không bực tức và từ đó đường ai nấy đi.

Ngày nay viết lại sự thật về một số những bạn đồng hành thời trước, có đôi khi tôi dùng lời lẽ hằng học, nhưng nó diễn tả tâm tư thật của tôi trong thời điểm đó. Bây giờ ở thời điểm tuổi 73, quĩ thời gian đã vơi quá nhiều, tôi điểm lại những bài học của thời son trẻ, thấy rất thấm thía, nhưng tiếc thay không ai có thể đi ngược lại được thời gian.


Với chủ tịch Ủy Ban Hành Pháp Trung Ương Nguyễn Cao Kỳ

 

Tôi quí trọng Thiếu Tướng Nguyễn Cao Kỳ, vì chẳng những ông đã cố tình mời tôi tham gia nội các của ông, trong khi tôi là người chống đối ông nhiều nhứt trong lần tiếp xúc đầu tiên như đã viết ở đoạn trên, mà ông còn tin cậy tôi hoàn toàn như một người bạn đồng hành, theo đuổi cùng một chí hướng. Ông đối xử với tôi có phần đặc biệt hơn những vị Tổng Trưởng khác, theo nhận xét của Ðại Tá Phan Văn Minh, Chánh Văn Phòng Ðặc Biệt và sau là Ðổng lý của Tướng Kỳ. Nhiều vị Tổng Trưởng khác xin yết kiến đôi khi ông không tiếp, còn tôi thì muốn gặp ông bất cứ lúc nào cũng được.

Khi Tướng Kỳ gặp việc rắc rối, hay quan trọng ông thường gọi tôi lên Phủ Thủ Tướng để chia sẻ sự bực bội của ông hay để hỏi ý tôi về một việc gì mới xảy ra. Ân tình đó tôi luôn ghi nhớ. Ngày nay ông và tôi đã rẽ ngã, mỗi người một hướng đi, dù cả hai đều nhìn về tương lai đất nước với một hoài bão: Làm sao cho dân giàu nước mạnh. Tôi vẫn giữ mối cảm tình đặc biệt đối với Tướng Kỳ, nhưng không còn liên lạc với ông như trước kia nữa. Bởi vì ông và tôi không còn gì để nói với nhau trong bối cảnh và tình thế này. Ðêm hôm trước ngày ông bước chân lên máy bay về Việt Nam, ông có trao đổi ý kiến với tôi qua điện thoại, ông nói: “Moa về bên đó, có gì hay ho sẽ điện thoại cho toa”. Nhưng sau khi ông tuyên bố những điều bất lợi cho danh dự ông, cho đồng đội, đồng hành và cả cho đất nước, tôi nói với người trong gia đình và bạn bè: “Chắc ông Kỳ sẽ không điện thoại cho tôi đâu, mà nếu có, chắc tôi cũng sẽ không trả lời”.

Tình cảm của Tướng Kỳ dành cho tôi thể hiện qua nhiều sự việc, đặc biệt là qua nhiều bữa cơm trưa tại phủ Thủ Tướng với mắm thái Châu Ðốc, chỉ có hai người tâm sự với nhau về những khó khăn của ông trong việc đương đầu với thời cuộc, về những toan tính của ông trong tương lai ngắn, dài. Tình cảm đó còn thể hiện qua một buổi chiều khoản 6 giờ tan sở, đường dây điện thoại trắng đặc biệt trực tiếp với Thủ Tướng reo, tôi cầm ống nghe:

- Triều đó hả?

- Dạ, tôi nghe đây Thiếu Tướng.

- Lên đây có chuyện này hay lắm này.

Tôi vội vã đi, vừa thấy tôi bước vào phòng, Tướng kỳ vui vẻ nói:

- Này, mời cậu về nhà tớ khai trương hồ tắm và sân quần vợt. Chơi xong, ăn cơm rồi về.

Tôi nhìn thấy còn rất nhiều chồng hồ sơ dồn đống trên bàn nên ngay tình nói:

- Hồ sơ của anh cả chồng, xem cho hết đi rồi mình về.

- Ê, làm việc thì cũng phải nghỉ xả hơi chứ.

- Ngài Chủ Tịch của tôi ơi, tôi nghe nói ông Diệm làm việc 13 giờ một ngày, không biết có đúng không? Tụi mình làm việc theo giờ hành chánh thì làm sao ngài đạt mục đích “đội đá vá trời” của ngài được?

Tôi từ chối không tham gia cuộc vui chiều hôm đó. Khi chúng tôi bước xuống nấc thang cuối cùng của bao lơn phủ Thủ Tướng, ông Kỳ còn quay sang tôi nói:

- Cho phép toa nói lại một lần nữa, đi hay không? Lên trực thăng về với moa.

Tôi lại từ chối, không phải vì không muốn tham gia cuộc vui này mà vì muốn chứng minh tôi thuận lý với tôi khi nói không làm việc theo giờ hành chánh. Thời đó Tướng Kỳ di chuyển bằng trực thăng, từ trại Phi Long đến phủ Thủ Tướng. Những chuyện nhỏ nhặt chứng tỏ tình bạn giữa Tướng Kỳ và tôi thời đó có nhiều. Bây giờ nghĩ lại thấy buồn vì bất đồng chính kiến mà bạn bè phân chia.

Hình như mỗi con người khi trời giao phó cho họ một nhiệm vụ, nói nôm na là định mệnh đặt họ vào một chức vị nào đó thì Thượng Ðế cũng ban cho họ một khả năng để chu toàn trách nhiệm trong giai đoạn. Tôi tin Tướng Kỳ là một con người như vậy. Tôi nhớ trước khi Tướng Kỳ viếng thăm nước Mỹ năm 1966, ông Philippe Habib, cố vấn chính trị tòa Ðại Sứ Hoa Kỳ đến văn phòng tôi yêu cầu một việc, ông nói:

- Ông Thủ Tướng của ông sắp viếng thăm nước Mỹ, dĩ nhiên là ông ta sẽ tiếp xúc với các nhà báo ở câu lạc bộ báo chí. Ông thừa biết rằng báo chí Mỹ thường moi móc những chuyện ly kỳ, giựt gân về chiến tranh Việt Nam. Chúng tôi biết ông là bạn của Tướng Kỳ, chúng tôi cũng biết ông Kỳ coi trọng ý kiến của ông. Việc này ngoài ông ra chắc không ai dám khuyên ông ấy đâu, nên chúng tôi muốn nhờ ông một việc.

Tưởng cũng nên nhắc rằng những người bạn Mỹ của chúng ta luôn theo sát hoạt động của giới chính trị miền Nam, nên ai bạn ai, ai chống ai họ biết rõ.

- Việc gì mà ông cố vấn phải rào đón nhiều vậy?

- Xin ông vui lòng nói với Thủ Tướng của ông, đừng dùng Anh ngữ để đối đáp với báo chí Mỹ, nếu lỡ lời hay nói sai đường lối, sai việc gì mình có thể đính chánh rằng người thông dịch nói sai hoặc hiểu sai. Báo chí Mỹ họ xoi bói, thêu dệt, đặt điều dữ lắm. Mình phải dè dặt.

- Tôi hiểu rõ điều đó. Ða số chính trị gia hay lãnh tụ các nước đều dùng tiếng bản xứ để diễn tả ý kiến của mình. Ðó là chuyện thường. Ông cố vấn đừng ngại. Tôi tin ông Thủ Tướng của chúng tôi hiểu việc này. Dù sao thì tôi cũng sẽ gặp ông ấy để trình bày và góp ý.

Một ngày sau cuộc viếng thăm nước Mỹ của Tướng Kỳ, ông Philippe Habib trở lại văn phòng tôi mà không xin hẹn trước. Ông phải ngồi chờ gần 15 phút. Thấy ông bước vào, tôi chưa kịp xin lỗi vì để ông phải chờ lâu. Ông ta đưa tay ngửa mặt lên trời nói:

- Nhờ trời ông ta vượt qua cuộc thi mà còn được chấm hạng ưu. Tôi hơi nghi ngờ nhưng vẫn sửng sốt hỏi?

- Cuộc thi nào? Ai thi?

Ông ác quá, tôi đã nhờ ông khuyên bạn của ông là đừng dùng anh ngữ khi tiếp xúc với báo chí mà ông ta sử dụng tiếng Anh suốt thời gian họp báo. May mắn cho chúng tôi, và cho ông ta nữa, là báo chí khen ông ấy đáo để. Nếu ông biết trong lúc ông ấy tiếp xúc với báo chí chúng tôi lo lắng như thế nào thì ông mới thông cảm. Một sự lỡ lời của ông ta, chúng tôi phải giải thích như thế nào với dân chúng Hoa Kỳ? Với quốc tế?

Tôi thú thật với ông là tôi đã có bàn việc này hai lần với Thiếu Tướng Kỳ và còn nhắc lại trước khi ông ấy lên đường đi Mỹ. Nhưng ông thừa biết, Tướng Kỳ có thường hành động theo ý riêng của ông ấy, khó có ai khuyên giải được. Dù sao điều đó chứng tỏ ông Thủ Tướng của chúng tôi cũng có tài phải không? Ông cố vấn Habib và tôi chia tay nhau trong sự vui mừng của đôi bên. Khi tôi báo lại việc này cho Tướng Kỳ nghe, ông nói đùa một câu: “Mấy anh có phục tôi không”?

Nhân vụ Tướng Kỳ “cương” trong khi tiếp xúc với ký giả Mỹ, tôi nghĩ đến những chuyện quốc gia đại sự. Ðối với những người khiêm tốn thì cho rằng vấn đề chính trị là ngoài tầm tay và ngoài sự hiểu biết của họ. Ðối với những người tự phụ kiêu căng thì nghĩ rằng họ có thừa khả năng cán đáng việc đó. Ðối với những người mang đầy mặc cảm, tự ti cũng như tự tôn, thì cho rằng đó là trò múa rối của bọn chính trị gia, thấp kém hơn họ nhiều, không đáng tin cậy, nhưng sự thực chính họ là những con rối của xã hội mà họ không biết. Thực tế ngồi vào ghế lãnh đạo quốc gia phải có một chút tài, chút đức, chút sáng suốt hiểu biết về chính trị, kinh tế, xã hội, chút lòng yêu nước thương dân, một ý chí hy sinh cao thượng nào đó. Nếu có đủ hay thừa thì là nhà lãnh đạo tốt. Nếu không có hay thiếu nhiều thì là nhà lãnh đạo hại dân hại nước. Hoặc do trời ban cho một sự sáng suốt nào đó để chu toàn trọng trách khi phải theo con đường định mệnh, như Nguyễn Cao Kỳ trong thời điểm 1965-1968.

Một ý nghĩ sai, một sự đắn đo nhút nhát, một mưu đồ xấu, sẽ tai hại vô cùng. Cũng có khi đất nước đến thời suy hay mạt vận, cơ trời xui khiến có người lãnh đạo bất tài. Ðời tôi có được may mắn quen biết khá nhiều với ba vị lãnh đạo quốc gia Nguyễn Cao Kỳ, Nguyễn Văn Thiệu và Trần Văn Hương. Sự kiện tôi chấp nhận phục vụ dưới trướng Nguyễn Cao Kỳ và từ chối tham gia hợp tác với Nguyễn Văn Thiệu, qua sứ giả và bào huynh của ông là Nguyễn Văn Kiểu, chứng tỏ tôi thương ông Kỳ, và bất phục ông Thiệu. Nói rõ tâm tư của tôi không cần che dấu là vì hoàn cảnh chính trị ngày nay buộc tôi phải phê phán và chỉ trích ông Kỳ, cũng vì hoàn cảnh chính trị ngày xưa mà tôi chống đối ông Thiệu, hay không còn sát cánh với ông Hương, là người mà tôi tháo gỡ tình trạng giam lỏng của ông ở Vũng Tàu trong biệt thự của cố Tổng Giám Mục Ngô Ðình Thục và đã tổ chức vận động cho ông ra ứng cử Tổng Thống năm 1967.

Khi tôi nhận lời tham gia nội các, tháng 2 năm 1966, Tướng Kỳ có nói với tôi:

- Dư luận bên ngoài đồn rằng nội các này chỉ tồn tại 2 tháng, anh có dám vào không?

Tôi cười nói:

- Một hoặc hai ngày, nếu cần làm việc gì mà lương tri chỉ mình phải làm, thì cứ làm, huống chi là hai tháng. Nói mà chơi chớ thời buổi này nội các chỉ đổ bằng một cuộc đảo chánh thôi, mà anh là Tư Lệnh Không Quân, khó có ai cưỡng được bom đạn của anh trên trời rơi xuống thì anh còn ngại gì. Vả lại người Tây phương thường nói: “Người nào nắm giữ thủ đô là người đó nắm giữ cả xứ”. Vậy anh chỉ cần đặt một người thân tín nhứt của anh làm tư lệnh vùng III chiến thuật là an toàn.

- Người thân tín nhứt cùng học trường Bưởi với tôi ngày xưa là Chuẩn Tướng Nguyễn Bảo Trị, Tư lệnh sư đoàn 7 đóng ở Mỹ Tho.

- Thì móc lon cho ông ấy lên Thiếu Tướng.

- Nhưng toa không biết trong quân đội hơn nhau chẳng những trên cấp bực mà còn qua thâm niên quân vụ nữa. Làm sao Tướng Trị chỉ huy được các ông Thiếu Tướng hay Trung Tướng khác?

Vậy tôi xin hỏi cấp bực anh là gì? Tại sao anh đứng đầu cả xứ trong đó có quân đội. Vấn đề là chỉ huy bằng chức vụ, không bằng cấp bực. Tổng Thống De Gaulle chỉ là Thiếu Tướng, Tổng Thống Nasser chỉ là Ðại Tá thôi.

It lâu sau Tướng Nguyễn Bảo Trị được vinh thăng Thiếu Tướng và được bổ nhiệm vào chức vụ Tư Lệnh Quân Ðoàn III, sau đó ông là Tổng Trưởng Thông Tin trong nội các chiến tranh. Với tư cách là Tư Lệnh, Tướng Trị có quyền sinh sát trên tòa án quân sự vùng III. Một hôm ông Kỳ gọi tôi lên phủ Thủ Tướng gấp.

- Ông Tư Lênh vùng III cho biết bắt được một tàu buôn thuốc bắc lậu rất lớn, việc này có trực tiếp dính đến ông Tướng Nguyễn Hữu Có, Phó Thủ Tướng của mình. Toa nghĩ sao? Xử hay không xử?

Tôi thấy việc này quan trọng quá, nếu xử thì khủng hoảng nội các, mang tiếng với quốc dân, xáo trộn trong quân đội bởi lẽ Tướng Có còn nhiều tay em nắm giữ nhiều chức vụ quan trọng trong quân đội. Nếu không xử thì mình giẫm chân lên lập trường và lý tưởng của mình. Theo tôi thì tạm thời giả dại qua ải rồi tùy thế, tùy thời anh liệu mà xử lý về sau. Anh hỏi thì tôi phải nói ý tôi, chứ sự thật chỉ có một mình anh lượng định tình hình và lấy quyết định mà thôi, không ai có thể xía vào chuyện này được. Dù thế nào tôi vẫn ủng hộ quyết định của anh.

Chuyện buôn lậu được bỏ qua, về sau có một vụ buôn vãi lậu ở Biên Hòa dính dán Tướng Có, cũng bỏ qua. Nhưng kết cuộc Tướng Có bị buộc phải lưu vong ở lại Hong Kong sau một chuyến đi ngoại quốc.


Nội các chiến tranh và miền Trung rối loạn

Trở lại chính trường Miền Nam thời gian 1966 vô cùng xáo trộn. Phật Giáo và Công Giáo chống đối nhau tạo thành những thử thách cho chính phủ. Thiếu Tướng kỳ nhiều lần thương lượng với quý vị Thượng Tọa Thích Thiện Hoa, Thích Tâm Giác,Thích Huyền Quang và một vài vị khác nhưng kết quả, theo lời tường thuật của tướng Kỳ, vẫn còn đe dọa đến sự tồn tại của nội các chiến tranh. Tôi ngây thơ tưởng mình khôn lan nên “phán”:

- Tại anh không đủ khéo léo hoặc không chịu giãi bày cặn kẽ những khó khăn.

- Thì cậu giỏi thử nói chuyện với mấy ông ấy xem nào?

- Nếu anh đồng ý thì anh phải thông báo cho mấy ổng rằng anh cho phép tôi đại diện.

- Tôi sẽ báo với họ.

Tôi yêu cầu anh Trần Văn Lộc, Công Cán Ủy Viên của tôi, tự xưng là đệ tử của Thượng Tọa Thích Thiện Hoa, tổ chức cho tôi gặp quý vị thượng tọa tại tư gia của anh. Trong hai lần tiếp xúc với các vị đó, cho dù tôi có nhẹ giọng, giải thích tận cùng nhu cầu ổn định, khó khăn đang phải đương đầu với cộng sản, sự nguy hại vì kẻ địch đang lợi dụng tình hình để trà trộn và xách động vân.... vân, tôi chỉ nghe đi nghe lại một câu: Nếu chính phủ không bằng lòng như vậy, không làm như vầy, thì sớm muộn chính phủ cũng phải đổ. Tôi đành ghi nhận sự thất bại của mình có lẻ còn thê thảm hơn Tướng Kỳ đã gặp phải, cho nên khi tôi báo cáo lại với Tướng Kỳ, ông cười chế nhạo, mỉa mai:

- Ủa vậy sao? Toa vẫn khoe mình tài ba, khôn khéo mà?

- Tôi thú nhận mình vừa ngây ngô vừa chủ quan, xin Thiếu Tướng thông cảm và bỏ qua cho.

Tình thế mỗi ngày một xấu đi, Tín đồ Phật Giáo biểu tình liên tục. Từ Saigon lan ra Ðà Nẵng, Huế. Cường độ chống chính phủ ngày càng tăng. Tình hình chính trị ở miền Trung trở nên nguy hiểm. Tướng Nguyễn Chánh Thi, Tư Lệnh vùng I chiến thuật hình như làm ngơ, không bày tỏ một thái độ nào để giải quyết tình hình. Thái độ và hành động của Tướng Thi, Tư Lệnh Quân Ðoàn I buộc chính phủ phải thay thế ông, nhưng nếu bứt sợi dây Nguyễn Chánh Thi, sợ động khu rừng miền Trung đang sắp cháy lớn. Vì vậy, Chủ tịch Ủy Ban Hành Pháp Trung Ương phải đánh lừa Tướng Thi bằng cách mời ông về Saigon họp Ủy Ban Lãnh Ðạo Quốc Gia. Khi về tới sân bay Tân Sơn Nhứt, Ðại Tá Loan chờ sẵn và thông báo quyết định của chính phủ đưa ông đi Mỹ tị nạn với lý do là để chữa bệnh. Giấy thông hành và chiếu khán nhập cảnh có sẵn. Ông phải lựa chọn hoặc đi Mỹ hoặc vào quân lao. Dĩ nhiên ông chọn biệt xứ còn hơn đi tù. Trong khi chờ đợi và thương lượng tại phòng khách danh dự, báo chí hỏi ông đi Mỹ chửa căn bệnh gì? Ông trả lời một cách mỉa mai là “bệnh thúi mũi”! Sau đó hội đồng Tướng Lãnh và Ủy Ban Lãnh Ðạo Quốc Gia mới nhóm họp quyết định với 32 phiếu thuận và 4 phiếu trắng cho Tướng Nguyễn Chánh Thi nghỉ việc. Tướng Kỳ cử Thiếu Tướng Nguyễn Văn Chuân Thay thế. Hơn một tháng sau Tướng Tôn Thất Ðính thay thế Tướng Chuân.

Có lẻ cũng nên đi ngược dòng thời gian một chút mới lý giải được tại sao miền Trung đang ngầm cháy qua những cuộc biểu tình, tuyệt thực, đình công, bãi thị, thì lại thêm lon dầu đổ ụp vào, nên phát cháy ngày càng dữ dội như vậy. Lon dầu đó là lời tuyên bố thiếu kiểm soát của Tướng Nguyễn Cao Kỳ, Chủ Tịch Ủy Ban Hành Pháp Trung Ương trong một cuộc họp báo tại Tổng Tham Mưu về hiện tình đất nước. Cuộc họp báo có sự hiện diện của toàn thể thành viên Ủy Ban Lãnh Ðạo Quốc Gia và Ủy Ban Hành Pháp Trung Ương. Cuộc họp báo kết thúc tốt đẹp, các tướng lãnh có trách nhiệm điểm qua tình hình, trình bày biện pháp ổn định và trả lời những câu hỏi của đông đảo ký giả trong và ngoài nước. Thành viên dân sự không có ai phát biểu. Mọi người đứng dậy ra về, đột nhiên có một nhà báo hỏi câu bằng tiếng Việt, không biết người đó là thông dịch viên của báo ngoại quốc hay ký giả báo Việt Nam:

- Thiếu Tướng nghĩ gì về bác sĩ Nguyễn Văn Mẫn, Thị Trưởng Ðà Nẵng?

- Thằng đó là cộng sản!

Tức thì đèn flash của máy ảnh chớp lia lịa, đèn pha của ống kính truyền hình phựt sáng, ký giả nhôn nhao hỏi tiếp. Chung quy hỏi về thái độ của trung ương và biện pháp đối phó. Xong cuộc họp báo tôi bảo tài xế đưa về trại Phi Long, đến tư dinh của Thiếu Tướng Kỳ. Vừa bước vào nhà, tôi thấy ông mặt hơi buồn, lộ vẽ lo âu. Tôi cũng không muốn nhồi cho nặng thêm về câu nói sơ ý, lỡ lời của ông. Tôi chỉ hỏi sơ qua ông nghĩ gì và ý định trong tương lai? Ông cũng chẳng thèm giải thích vắn dài chỉ buông trỏng một câu: “Ðằng nào thì cũng phải đối phó với tình hình”. Sau khi bàn sang chuyện khác cho có lệ tôi kiếu ông ra về. Những ngày kế tiếp, nghĩ đến phản ứng dấy lên từ nhiều nơi, tôi rất lo nhưng mọi biện pháp đối phó ở ngoài tầm tay của tôi trong lúc đó.

Nhân cơ hội này, thiết tưởng cũng nên nói về Bác Sĩ Nguyễn Văn Mẫn, để mọi người hiểu rõ về một nhân vật không giống như báo chí hay người ngoài tô vẽ về ông. Tôi quen biết BS Mẫn Giám Ðốc bệnh viện Huế trong một cuộc hội thảo tại Huế do ông và một số giáo sư, trí thức Huế và Saigon tổ chức. Ðề tài thảo luận về chiến tranh Việt Nam. Câu hỏi đặt ra: cuộc chiến nầy là chiến tranh ý thứ hệ hay chiến tranh huynh đệ tương tàn? Kết luận là chiến tranh ý thức hệ. Mẫn là con người ham vui, người bạn tốt, không thích chính trị, chỉ thích cờ bạc vui chơi với bạn bè thôi. Mẫn và tôi trở thành đôi bạn chí thân, xưng với nhau mầy tao như thuở còn đi học ở trường, mặc dù anh và tôi không phải là đồng song. Sau biến cố miền Trung, anh rất sợ hãi. Anh thuật lại đầu đuôi chi tiết rõ ràng anh không phải là chính trị gia, càng không phải là cộng sản. Trong một buổi tiếp tân, Trung Tướng Nguyễn Chánh Thi nói chuyện với anh và bày tỏ:

- Tôi đang cần một ông Thị Trưởng Ðà Nẵng. Tôi cử anh về đó nhé.

- Không được Trung Tướng. Tôi không biết chính trị mà cũng không thích chuyện đó. Ðối với tôi giám đốc bệnh viện là an nhàn, sung sướng lắm rồi.

- Tôi cho anh hai con đường phải lựa chọn: một là Thị Trưởng Ðà Nẵng, hai là Bác Sĩ Quân y.

- Trung Tướng nói chơi hay nói thật?

- Nói thật.

- Tôi là chuyên viên đâu cần phải đi lính.

- Ði lính rồi biệt phái hay không còn tùy bộ y tế và bộ quốc phòng.

- Vậy thì tôi chọn Thị Trưởng Ðà Nẵng.

Ông Thị Trưởng tay mơ, điều khiển một thị trấn phức tạp biết nghe ai cố vấn bây giờ?

Mẫn nói với tôi:

- Tao mặc kệ để cho mấy thằng đàn em làm sao thì làm. Phần tao vui chơi qua ngày, về Huế gặp anh em hoài tao thấy cũng vui. Cho đến ngày ông Kỳ tố tao là cộng sản. Thì rõ ràng tao hết đường chạy rồi. Tao liều mạng chỉ thị cho đài phát thanh Ðà Nẵng quay về hướng chính phủ Saigon chửi xả láng, mấy anh tranh đấu lợi dụng ăn có thả giàn. Kết cuộc đêm đó tao biết tin Saigon sẽ ra đánh chiếm, tao ra ngoài bờ ruộng trốn tránh, không ngờ súng nổ tứ phía, tao đầu hàng và bị bắt. Cầm lấy cái chết trong tay tao thấy nó lãng nhách. Nhưng biết làm sao? Thôi thì lỡ rồi thí mạng cùi luôn. Ngày hôm sau họ giải tao về Saigon, có hai toán lính khác nhau canh chừng. Một là cảnh sát hai là quân cảnh. Ði trên máy bay quân sự tao tin chắc, nửa đường họ sẽ đạp tao xuống, thủ tiêu không dấu vết. Vì vậy tao van xin mấy anh lính: Tôi van xin các anh, trước khi đạp tôi rơi xuống đất xin các anh làm phước bắn vào đầu tôi một viên, nhiều viên càng tốt, để tránh tình trạng lỡ rơi xóc vào ngọn cây bị thương lơ lửng giữa trời đau khổ lắm.

- Chúng tôi không đạp Bác Sĩ xuống đâu. Chúng tôi có nhiệm vụ giải giao và bảo vệ bác sĩ đến nơi đến chốn.

Về Saigon tòa xử Nguyễn Văn Mẫn tử hình. Bạn thân của Mẫn là anh Nguyễn Văn Trường, đương kim Tổng Trưởng Giáo Dục thời đó, xin được phép thăm Mẫn lần cuối. Trước khi đi anh Trường còn cho tôi biết và dặn dò nếu có gì bất trắc xẩy ra cho anh thì tôi phải can thiệp với Tướng Kỳ ngay, bởi vì ai cũng biết Tướng Nguyễn Ngọc Loan hành động ẩu tả theo hứng, bất cần luật pháp. Mẫn bị nhốt trong xà-lim không biết ngày, biết tháng, biết giờ, nằm chờ chết. Gặp Nguyễn văn Trường, Mẫn vô cùng mừng rỡ và cảm động. Mẫn hỏi xin Trường chiếc đồng hồ đang đeo trên tay để biết được ngày giờ. Trường lột cho.

Tuy nhiên, án thì án vậy thôi chứ Mẫn không bị hành quyết cho đến ngày được Thủ Tướng Trần Văn Hương ân xá. Sau khi được thả, Nguyễn Văn Mẫn tiếp tục vui chơi không cần biết chính trị chính em gì cả. Lời tố cáo của Thiếu Tướng Nguyễn Cao Kỳ hại Bác Sĩ Mẫn bị kết án tử hình vì tội cộng sản. Do đó bọn cộng sản lợi dụng, tưởng Bác Sĩ Mẫn là “phe ta” thật, nên cứ rình mò đến nhà Mẫn ở đường Tự Ðức, rủ rê ra “bưng” gia nhập kháng chiến! Mẩn sợ hết hồn, ỡm ờ viện dẫn đủ mọi lý do để từ chối, lại còn khuyên bọn người nầy không nên trở lại vì anh đang bị chính quyền theo dõi.

Sự thật chuyện của Mẫn đã qua rồi, hành động vui sống và xa lánh chánh trị của anh rõ ràng, nên không còn ai để ý tới anh nữa. Còn phía Việt cộng thì không chịu buông tha anh, cứ tới lui khuyến dụ. Về sau này gặp Mẫn khi anh sang sống tại Paris, Mẫn khai thật với tôi:

- Hôm nào tao đánh phé ăn thì tao cho họ vài ba chục ngàn nói là để ủng hộ kháng chiến, hôm nào tao không có tiền thì than thở, nài nỉ họ biểu đừng tới nữa, nếu cảnh sát khám phá ra thì chắc tao sẽ bị tử hình thật. Ðến tháng 4 năm 1975, Vũ Văn Mẫu cũng tưởng Mẫn là cộng sản hay ít ra cũng có liên hệ với họ nên đã mời anh ta giữ chức Phó Thủ Tướng được một hai ngày.

Sau ngày 30 tháng 4 năm 1975, nhờ sự giao dịch và ủng hộ tiền mà Mẫn được “báo công” và cộng sản Hà Nội cho anh ta tiếp tục làm việc tại bệnh viện Sùng Chính dưới quyền của một Bác Sĩ “i-tờ-rít”, luôn mồm nói: Mọi việc đều nhờ BS Mẫn giải quyết. Cùng lúc đó Mẫn được cử làm đại diện công đoàn của công nhân bệnh viện. Do đó Mẫn nhận được mọi sự dễ dãi, nên anh ta mới lợi dụng cơ hội để vượt biên. Mẫn vượt biên trên dưới gần chục lần. Có khi bị bắt chịu tù đày, bệnh hoạn, ghẻ chốc còn để nhiều thẹo bầm đen trên mình, có khi thoát thân được trốn chui trốn nhủi. Năm 1992 Mẫn và tôi gặp lại nhau bên Pháp, nhờ nghe tên tuổi tôi trên đài phát thanh RFI (Radio France Internationale), Mẫn cười nói với tôi rằng Hai lần anh ta trốn ở Saigon là đến nhà tôi ở, ngủ trong phòng ngủ của tôi bởi vì anh nghĩ: “Tao ngủ trong phòng ngủ của mầy là an toàn nhứt, bởi vì tụi nó đã bắt mầy đi tù rồi thì còn ai dám vào nhà mầy nữa? Vì nghĩ như vậy tao ăn ở đó thoải mái và tìm đường được đường vượt biển nữa”. Tôi nói với Mẫn:

- Hèn chi khi tao được trả tự do về nhà thấy hai quyển sách hồi ký của Thủ Tướng Anh quốc Wilston Churchil mất. Tao hỏi mấy đứa con tại sao mất? Tụi nó nói không biết bác Mẫn có lấy không, bởi vì bác có ở trong phòng của ba hai lần, chứ tụi con không có cho ai mượn cả.

Bác sĩ Mẫn tốt nghiệp Ðại Học Y Khoa Toulouse, Pháp, nội trú bệnh viện (interne des hopitaux) thời đó là thuộc hạng bác sĩ giỏi. Nhưng lần nầy, khi trở lại Pháp ông nổi tiếng nhờ hành nghề châm cứu và ông cấm bệnh nhân của ông dùng thuốc tây. Tiếng tăm lừng lẫy, thân chủ đông nghẹt, nên Mẫn có biệt danh là bác sĩ làm phép lạ “Docteur Miracle”.

Cái chết của Mẫn tại Pháp cũng lạ thường. Anh đau tim trầm trọng, không ăn uống hơn một tháng, chỉ sống dai dẳng bằng nước thuốc chuyền vào máu, cho đến khi các giáo sư thượng thặng bó tay, khuyên gia đình đem ông về nhà lo việc mai táng. Tôi vào nhà thương thăm, anh tỏ vẻ cảm động nói: “Ít ra trước khi chết tao cũng gặp được mặt mầy”. Gia đình đưa Mẫn về nhà, tôi phụ giúp lo việc hậu sự cho anh. Mẫn bảo với vợ rằng anh thèm phở quá, trước khi chết muốn ăn một tô phở thật ngon. Gia đình thỏa mãn yêu cầu. Ăn vào thấy khỏe, dù bác sĩ cấm và anh cũng biết là ăn vào có thể chết ngay. Ngày hôm sau anh lại đòi một tô phở nữa, gia đình cũng chìu ý. Mẫn thấy người khỏe lại hẳn, nhưng vì là Bác Sĩ, nên anh biết rõ đó là việc không nên, do đó Mẫn ngưng ăn phở ngay và tự giới hạn chuyện ăn uống tối đa cho đến khi bình phục khá nhiều, anh trở lại bệnh viện tái khám. Bác Sĩ và Giáo Sư y khoa đã từng chữa bệnh cho anh ngạc nhiên không biết vì sao? Không thể tìm hiểu lý do nào đã làm cho anh lành bệnh?

Trong khi đó thì phòng mạch của anh đã “sang bán” cho người ta vì gia đình tin tưởng anh sẽ qua đời. Bây giờ phải mướn lại một nơi khác để hành nghề được hơn ba năm nữa. Mẫn và tôi thường gặp nhau những chiều thứ bảy, nhưng hôm đó tôi thấy sức khỏe anh suy yếu nhiều, hai đứa tâm sự đến khuya, tôi bắt tay từ giã, Mẫn kéo tôi ngồi xuống nói: “Mầy không ở chơi với tao được vài giờ nữa sao? Tao buồn quá”! Lời nói cuối cùng. Mấy hôm sau khi tôi đang ở Bruxelle, Bỉ quốc, Nguyễn Văn Phát con trai của Mẫn, gọi điện thoại báo tin: “Ba vào nhà thương khẩn cấp, sắp lâm chung”. Tôi vội vã về Paris, tới bệnh viện, Mẫn nhìn tôi nước mắt trào. Chiều hôm đó Mẫn về với chúa. Tôi mất đi một người bạn tốt, người bạn đã từng mang tiếng oan là chính trị gia thân cộng sản


Tướng Kỳ ổn định tình hình Miền Trung bằng vũ lực

Trong những cuộc biểu tình hung hăng ở miền Trung, nhiều nơi xuất hiện “Ủy Ban Nhân Dân Cứu Quốc”. Lực lượng an ninh của ta bắt được một số sĩ quan VNCH nội gián. Nhiều lần phi cơ của không quân có gắn bom đầy cánh bay sà trên đầu người biểu tình như một cách khuyến cáo. Tướng Walt của TQLC Mỹ dọa sẽ bắn hạ những phi cơ VNCH nào can thiệp vào tình hình miền Trung và tướng Walt đòi gặp tướng Kỳ.

Tướng Nguyễn Cao Kỳ gọi tôi vào dinh và cho tôi biết tin này trong sự bực tức và bối rối. Tôi nghe qua góp ý liền:

- Mình cứ thách thức thử xem Tướng Walt dám thực hiện lời hăm dọa của ông ta không. Ðồng thời, báo cho ông ấy biết ông chỉ nói chuyện với Tổng Thống Johson mà thôi. Tướng Walt không đủ tư cách để hầu chuyện với ông. Mặt khác tôi đề nghị Thiếu Tướng gọi cho ông Bác sĩ Trần Văn Ðỗ, Tổng Trưởng Ngoại Giao của mình triệu kiến Ðại sứ Cabod Lodge đúng cung cách ngoại giao chứ không mời mọc gì cả. Ông phải “mắng vốn” với ông Lodge về vụ này bằng lời lẽ càng nặng càng tốt.

Tôi ngồi thảo luận về tình hình với Tướng Kỳ độ 20 phút, Thiếu Tá Liệu vào thông báo: Ðại Sứ Lodge xin được gặp. Tôi chào ông Ðại Sứ và bước ra phòng tùy viên ngồi chờ. Ðộ nửa giờ sau Ðại Sứ Lodge ra về, tôi vào hỏi Tướng Kỳ:

- Thế nào?

- Ông ta xin lỗi trối chết.

Tuần lễ sau Tướng Walt bị thuyên chuyển về Mỹ không khi nào trở lại.

Trên đây tôi chỉ trích dẫn một vài điểm chính trong quyển sách của Ðoàn Thêm để chứng minh tình hình chính trị của thời điểm đó vô cùng hỗn độn, và nếu đọc hết quyển “Việc Từng Ngày” của Ðoàn Thêm năm 1966 sẽ thấy những chuỗi ngày xáo trộn đó rất nguy hại chẳng những cho sự tồn tại của nội các mà còn có nguy cơ bị Cộng Sản lợi dụng xâm nhập tràn lan hoặc cướp chính quyền ở nhiều nơi. Bằng cớ là thông qua ngôn ngữ họ dùng như “Tranh Thủ Cách Mạng, Nhân Dân Cứu Quốc” rất xa lạ với lời lẽ thông thường của người miền Nam sử dụng trong những cuộc biểu tình chống đối. Rõ ràng tình trạng vô cùng nguy ngập. Nguy ngập đến độ một đại diện Quốc Dân Ðảng từ Quảng Ngãi vào xin gặp tướng Kỳ, yêu cầu chính phủ cung cấp súng đạn cho đảng viên ở miền Trung để chiến đấu với Cộng Sản đến cùng nếu bọn chúng cướp chính quyền. Nguy ngập đến độ Tướng Kỳ xiêu lòng nói: “Chính phủ không có quyền cung cấp súng cho đảng phái này mà không cho đảng phái khác. Nhưng trong kho của quân đội có một số súng carbine mà bây giờ không còn sử dụng nữa, chúng tôi có thể giả vờ làm ngơ, hẹn với các ông một địa điểm nào đó rồi trực thăng bỏ rơi súng đạn xuống, các ông tự động lượm về mà dùng”. Vị đảng viên này tỏ vẻ hài lòng sung sướng cám ơn ra về. Tôi đưa ý kiến:

- Nếu đông đảo đảng viên Quốc Dân Ðảng có trang bị vũ khí thì sau cơn hỗn loạn được bình định rồi, mình có thể tước vũ khí của họ được không? Thiếu Tướng suy nghĩ kỹ xem.

- Ừ nhỉ, cũng không phải vô lý.

Tôi chỉ biết câu chuyện tới đây, còn về sau Tướng Kỳ quyết định như thế nào, có cung cấp vũ khí cho Quốc Dân Ðảng hay không? Bí mật đó tôi không được biết.

Phải chăng là Việt Cộng toan tính dựa vào hỗn độn để cướp chính quyền thời gian đó không thành nên họ phải chờ đến Tết Mậu Thân mới tổng tấn công. Trong tình thế khẩn cấp, chính phủ không còn đường lựa chọn. Vả lại Tướng Kỳ cũng đã từng tuyên bố một hai lần sẽ dùng biện pháp mạnh nếu cần.

Việc đầu tiên là phải cử tân Tư Lệnh Vùng I sau khi đẩy tướng Nguyễn Chánh Thi ra khỏi quyền lực. Tướng Kỳ nghĩ rằng chọn một ông Tướng theo đạo Công Giáo thì có thể tin cậy được. Do đó ông gọi Tướng Huỳnh Văn Cao đến phủ thủ tướng. Hôm đó cũng có sự hiện diện của tôi, sau khi Tướng Kỳ thông báo ý định giao chức Tư Lệnh Quân Ðoàn I cho ông, Tướng Huỳnh Văn Cao đứng phắt dậy chào nói: “Tôi xin tuân lệnh chính phủ”. Việc đó được thực hiện đúng theo quyết định của Tướng Kỳ. Nhưng không ngờ sự kiện xảy ra vô cùng bi đát. Thực tế diễn biến ra sao tại Bộ tư lệnh quân khu I, tôi không biết chi tiết, chỉ biết rằng Tướng Huỳnh Văn Cao không dám thi hành được lệnh tướng Kỳ giao cho mà lại đi lánh mặt trong văn phòng của cố vấn quân sự Mỹ. Hậu quả là sau khi tình hình được ổn định, Huỳnh Văn Cao bị đưa ra tòa quân sự mặt trận để lãnh án.

Trung Tướng Nguyễn Hữu Có, Phó Thủ Tướng kiêm Tổng Trưởng Quốc Phòng, khẳng định ông là đàn anh của Ðại Tá Ðàm Quang Yêu, đề nghị để cho ông ta bay ra Ðà Nẵng giải quyết mọi việc. Tướng Kỳ đồng ý, hy vọng ông Có sẽ dùng tình cảm và uy tín để thuyết phục nhóm quân nhân gây loạn ở miền Trung. Không ngờ Tướng Có vừa tới Ðà Nẵng bị Ðàm Quang Yêu bắt quản thúc tại Văn Phòng. Chính phủ Trung ương bị bó tay.

Mọi biện pháp đối phó, mọi phương cách giải quyết vấn đề trong cơn hỗn loạn này không hề được bàn thảo trong nội các. Ðiều đó chứng tỏ nội các không phải là một nhóm người đồng tâm chia sẻ cùng một lập trường, một chí hướng. Sống trong hoàn cảnh đó mới thông cảm được sự cô đơn của Tướng Kỳ và thán phục lòng can đảm ý quyết đoán của ông trong tình thế nguy ngập. Khoảng thời gian này, Tướng Kỳ thường gọi tôi lên phủ thủ tướng, hoặc để chia sẻ lo âu, hoặc để hỏi ý, bàn chuyện. Có một ngày ông lộ bí mật, căn dặn phải giữ kín, dù căn dặn thừa nhưng ông vẫn lập đi lập lại. Sau đó mới nói:

- Moa quyết định đưa quân ra tái chiếm Ðà Nẵng

Ổn định Ðà Nẵng

 

- Moa quyết định đưa quân ra tái chiếm Ðà Nẵng. Moa có gọi về đây một Trung Tá khá gan lì. Moa cho toa gặp ông ta xem toa có ý kiến gì?

Nói xong ông Kỳ ra lệnh cho Thiếu Tá Liệu gọi Trung Tá Mã Sanh Nhơn vào phòng. Tướng Kỳ giới thiệu ông Nhơn với lời lẽ khen tặng về khả năng và hoạt động của đương sự. Tôi nhìn thẳng Trung Tá Nhơn nói:

- Chính phủ quyết dẹp cho bằng được sự hỗn loạn ở Ðà Nẵng, Trung Tá sẵn lòng nhận trọng trách này chúng tôi mừng, dĩ nhiên mình quyết tâm hành động là phải thành công. Nhưng đặt giả thuyết nếu thất bại, cùng lắm chính phủ đổ còn ông khó có thể tránh được cảnh tù tội. Như vậy bây giờ ông còn có cơ hội suy nghĩ lại, ông nghĩ sao?

Trung tá Mã Sanh Nhơn nói ngay:

- Tôi là quân nhân, chỉ biết thi hành lệnh, không cần biết hậu quả.

- Nếu kế hoạch thành công, ông hãnh diện là điều dĩ nhiên, nhưng ông có xin một đặc ân gì trước không?

- Hoàn toàn không. Tôi đặt tin tưởng nơi cấp lãnh đạo.

Mấy câu trả lời của Trung Tá Mã Sanh Nhơn cho tôi một niềm hy vọng khá vững. Tướng Kỳ nhìn Trung Tá Nhơn, chỉ tay ra cửa, hất hàm, không nói năng gì. Ông Nhơn hiểu ý, đứng thẳng chào quay đi. Ðoạn, Tướng Kỳ hỏi tôi:

- Toa nghĩ sao?

- Ông ta trả lời đúng với tinh thần của một sĩ quan có kỷ luật. Nhưng vấn đề là không biết ông này gan lì và khôn khéo như thế nào trong cuộc hành quân sắp tới. Ðiều đó toa biết nhiều hơn moa.

- Thôi cậu yên chí về nhà nghỉ ngơi chờ kết quả, và suy nghĩ kế hoạch hoạt động sau khi bình định tình hình miền Trung.

Mấy ngày trôi qua khá nặng nề đối với tôi, trong lòng nơm nớp chờ đợi. Ðến một đêm khuya gần sáng, tôi không nhớ rõ giờ giấc, đang ngủ say, thì điện thoại reo, bên kia đầu dây Thiếu Tá Liệu, tùy viên của Tướng Kỳ nói: “Ông lên trại Phi Long gấp”. Chỉ vỏn vẹn có một câu thôi. Tôi ngạc nhiên đến nỗi ngờ vực bởi vì không khi nào Thiếu Tá Liệu trực tiếp nói chuyện với tôi mà chỉ gọi để cho Tướng Kỳ nói thôi. Vậy thì lần này tại sao ông Liệu nói gần như ra lệnh cho tôi? Phải có vấn đề. Ai chỉ thị cho ông ta gọi tôi và nói cộc lốc như vậy? Tình thế hiện tại làm tôi nghĩ ngay đến một cuộc đảo chánh. Có lẽ tướng Kỳ đã bị bắt tại trại Phi long, bây giờ có người bảo Liệu gọi tôi lên để hốt cho trọn ổ.

Tôi hồi hộp lo âu. Ðến nơi hẹn thì chắc sẽ bị bắt, bị tù. Không đến là hèn, vả lại trước sau gì cũng không cần trốn tránh. Tôi đánh thức bà xã dậy, dặn dò mọi điều cần thiết. Trong khi đánh răng rửa mặt, thì tôi yêu cầu bả lấy một xách tay, soạn cho tôi hai bộ đồ ngủ, đầy đủ đồ dùng để tắm giặt, một bộ bài cào để bói toán giải buồn, một quyển học Anh văn (L'Anglais Sans Peine) và một trăm ngàn đồng. Ra xe, vệ sĩ mở cửa, tôi bảo anh ta ở lại không cần theo vì tôi thầm nghĩ đi tù thì một mình tài xế đưa đi đủ rồi.

Lên đến trại Phi Long tới văn phòng Tư Lệnh Không Quân, nơi tôi đã từng đến, thấy hai xe cảnh sát đầy người. Lòng tôi càng hồi hộp, tại sao cảnh sát lại vào trại Phi Long nhiều thế. Chắc chắn là cuộc đảo chánh đã thành công. Bước xuống xe, ý nghĩ vừa liều mạng vừa bực bội, tôi đi thẳng vào văn phòng, không gõ cửa, không thông báo, đạp cửa vào, thấy Tướng Kỳ và Tổng Trưởng Nội Vụ Trần Minh Tiết ngồi nghe Ðại Tá Nguyễn Ngọc Loan báo cáo qua máy vô tuyến “Motorola”. Tôi càng bực hơn, nhưng lòng nhẹ nhõm trách Tướng Kỳ:

- Tại sao anh không kêu tôi mà để cho Thiếu Tá Liệu ra lệnh cộc lốc? Tôi tưởng thiên hạ đảo chánh bắt anh rồi biểu Thiếu Tá Liệu gọi tôi đến để hốt luôn.

Tướng Kỳ phản ứng:

- Làm gì mà chết nhát thế?

- Nếu chết nhát thì tôi đã trốn rồi lên đây làm gì? Tôi đã chuẩn bị sẵn đồ đạc mang theo để vào tù đây.

Tướng Kỳ cười ha hả ra vẻ chế nhạo và nói:

- Thôi vào đây nghe, thú vị lắm.

Tôi đến trễ nên chỉ nghe được lõm bõm: “Ông ơi bây giờ “con” khởi sự ra khỏi căn cứ không quân của mình đây”. Thỉnh thoảng lại nghe: “Cụ ơi tụi nó bắn rát quá”, “Ông ơi “con” dẹp được đám này rồi”, “Ông ơi “con” tóm đầu cả đám rồi”, “Ông ơi “con” cho đưa ông thầy Có của mình và Huỳnh Văn Cao về Sài Gòn cho ông, bây giờ con tiếp tục ra Huế hay đi về?” Tướng Kỳ trả lời: Ra Huế. “Ông ơi “con” đi đường bộ nhé”. Kỳ trả lời: “Ðồng ý”. Ai ở gần Ðại Tá Nguyễn Ngọc Loan cũng đều biết lối xưng hô cẩu thả của ông. Luôn luôn ông cứ “cụ cụ, con con” với thượng cấp. Thời đó, lối xưng hô này để bày tỏ sự thân mật. Nhưng trong xã hội thời bấy giờ, nhiều người không đồng ý cách xưng hô này.

Chúng tôi ngồi lại bàn tán hồi lâu cho đến khi trời sáng, mọi người từ giã ra về lòng nhẹ phơi phới. Buổi sáng hôm đó đài phát thanh Sài Gòn và báo chí trong ngày loan tin Ðại Tá Nguyễn Ngọc Loan dẹp bàn thờ do Phật tử bày ra giữa đường, với mục đích ngăn cản đoàn quân tiến về Huế. Sự thực sĩ quan chỉ huy cuộc hành quân này là Trung Tá Lê Chí Cường, dĩ nhiên là dưới sự điều khiển của Ðại Tá Loan, chớ không phải Trung Tá Mã Sanh Nhơn như đã dự trù. Trung Tá Cường là biệt kích dù và theo lời tường thuật của Tướng Kỳ với tôi ông Cường là một sĩ quan giỏi.

Về phần Trung Tá Mã Sanh Nhơn được gọi về phủ Thủ Tướng, cấm cung, không được phép liên lạc với bên ngoài, cả tuần trước ngày hành quân để giữ bí mật. Sau cuộc hành quân Ðà Nẵng, không phải do ông điều khiển tại sao cứ bắt ông ở lại phủ Thủ Tướng để làm gì? Cho nên, cứ mỗi lần thấy tôi lên Phủ Thủ Tướng họp, ông thường gặp tôi than phiền, yêu cầu tôi phải trình Thủ Tướng giải quyết tình trạng của ông. Tôi có báo cáo với Tướng Kỳ. Ông trả lời: “Thì nhẩn nha đã”. Thời gian ngắn sau đó, ông được thăng Ðại Tá và được bổ nhiệm Tư Lệnh Phó sư đoàn 5 Bộ Binh. Riêng về Ðại Tá Loan, người có công lớn trong việc bình định Ðà Nẵng, được vinh thăng Chuẩn Tướng. Lễ gắn sao cho ông chỉ diễn ra trong vòng thân hữu, tại sân phủ Thủ Tướng với sự hiện diện của Tướng Nguyễn Ðức Thắng, Tướng Nguyễn Bảo Trị và số rất ít sĩ quan thân tín. Có lẽ vì Tướng Kỳ biết tánh ông Loan “ba-gai” (Pagaille) nên không muốn làm lễ trọng thể trước các hàng quân, sợ ông Loan cao hứng bất tử nói bậy. Thật vậy, sau khi đọc sắc lệnh vinh thăng chuẩn tướng, ông Kỳ gắn một sao sáng chói trên bâu áo đen của ông Loan, rồi lên phòng tùy viên Thủ Tướng ông Loan bật nút sâm-banh sối hai chai từ đầu xuống chân ướt cả quần áo cười vui vẽ, miệng chửi thề liên hồi.

Buổi tiếp tân đơn sơ ngắn gọn nhưng vui và cảm động. Phải công nhận ông Loan, là người trung tín với bạn bè, có lý tưởng, có bản lãnh, gan lì, chỉ thiếu hiểu biết về xã giao, chính trị. Tuy nhiên, ông có thừa sự gan lì để đối phó với tình hình căng thẳng

Nhân vật Lý Chánh Trung

Một nhân vật khác có liên hệ với tôi, đó là Giáo Sư Lý Chánh Trung. Tôi không thể không nhắc tới nhân vật này, vì thiết nghĩ khi đã viết hồi ký, phải viết đúng sự thật, dù sự thật ấy có thể không làm hài lòng anh Lý Chánh Trung, nhưng tôi đã hứa viết sự thật, chỉ sự thật mà thôi, không thêm bớt che giấu, vì tôi biết đa số các chứng nhân còn sống kể cả anh Trung.

Lý Chánh Trung và tôi quen biết nhau từ khi còn du học bên Pháp, Lý Chánh Trung học ở Louvain, Bỉ quốc gần Paris, chỉ cách xa có hơn hai trăm cây số. Trung và tôi nhiều lần ăn cơm chung tại quán ăn rẻ tiền của Liên Ðoàn Công Giáo Việt Nam. Về Sài Gòn cùng nhau hoạt động trong hội trí thức Công Giáo, thân nhau như ruột thịt, xưng hô mày tao, tôi là bố đỡ đầu (god father) của con gái Trung là Thúy Lan. Từ làng đại học Thủ Ðức, Trung thường xuyên lên xuống Sài Gòn, hoặc đi dạy ở đại học, hoặc thường đến nhà tôi, tiền xăng nhớt làm thâm hụt ngân sách gia đình của Trung nên tôi rất thường cho con gái đỡ đầu của tôi, bốn tuổi, mỗi lần vài chục ngàn đồng, tiếng là cho con gái nhưng sự thật là tôi muốn giúp cho gia đình Trung dễ thở hơn. Thời gian sau khi tôi giao tiền cho Ngô Công Ðức làm báo Tin Sáng tôi có nhờ anh Lý Chánh Trung viết bài, mỗi bài tôi sẽ trả cho anh hai chục ngàn đồng nhuận bút. Tiền nhuận bút một bài báo thời đó cao lắm là một hoặc hai ngàn đồng là tối đa. Trung nói:

- Tao không từng viết bài để đăng báo. Từ hồi nào đến giờ có khi nào tao viết cho báo đâu?

- Thì mày cứ suy nghĩ về những vấn đề quan trọng của đất nước và lý giải một cách thuận lý thôi. Ai cũng khen mày viết lách hay mà. Mày viết độc giả có lẽ sẽ thích.

- Ừ, cứ nghe mày xúi cái đã, để tao thử xem.

Thực tế bài viết của Lý Chánh Trung thời đó được sự chấp nhận và ưa thích của độc giả. Nhưng chính tôi phải xuất tiền túi trả cho Lý chánh Trung gần cả chục bài đầu tiên. Sau đó tôi bảo Ngô Công Ðức trả tiền cho Lý Chánh Trung, Ðức phản đối nói bài báo gì mà hai chục ngàn? Ngô Công Ðức nhất định không trả. Tôi ngưng không đưa bài của Trung viết cho Ðức nữa dù sự thật là tôi đã trả tiền nhuận bút rồi nhưng còn giữ bài lại trên bàn giấy. Mấy hôm sau Ðức tới nhà hối thúc tôi xin bài của Lý Chánh Trung vì những bài đó “ăn khách”. Ðức hứa với tôi sẽ trực tiếp trả đúng số tiền cho Lý Chánh Trung.

Báo Tin Sáng đóng cửa vì Ngô Công Ðức thất cử Dân Biểu và vượt biên. Tin Sáng biến thành Ðiện Tín, Lý Chánh Trung vẫn tiếp tục viết cho đến khi tôi xuất bản báo Ðại Dân Tộc, tôi tâm sự với Trung :

- Mới ra báo tao không thể trả cho mày hai chục ngàn đồng một bài mà chỉ trả phân nữa tiền là mười ngàn thôi. Số tiền đó cũng đã nhiều quá rồi. Vả lại ngày xưa tao buộc thằng Ðức phải trả tiền như vậy là để giúp mày chứ bài báo gì mà trị giá hai chục ngàn?

Rồi có một ngày Lý Chánh Trung viết bài cho báo Ðiện Tín mà anh không viết cho Ðại Dân Tộc. Tôi có yêu cầu anh quản lý Nguyễn Văn Tịnh của Ðại Dân Tộc đi Thủ Ðức hỏi Lý Chánh Trung cho biết lý do tại sao? Anh quản lý trả lời với tôi: “Ông Trung bận việc quá không viết được và nói dù sao hai chục ngàn đồng một bài cũng dễ viết hơn là mười ngàn một bài”.

Tôi ngỡ ngàng, kinh ngạc. Ðáng lý ra dù Ðại Dân Tộc không trả tiền đi nữa thì Lý Chánh Trung cũng nên ưu tiên viết cho tôi vì tình bạn. Với bạn, sao Lý Chánh Trung lại quá lý tài như vậy? Tôi quyết định cắt đứt liên hệ với Trung, không một lời oán trách, không cần giải thích lý do, bởi vì một người bạn xem trọng quyền lợi hơn tình nghĩa thâm giao thì còn gì phải nói nữa?

Có lần, Lý Chánh Trung ghé qua nhà và tòa soạn đưa bài nhưng tôi không tiếp, và cũng không hề đăng bài nào của anh kể từ ngày đó. Anh có nhờ Nguyễn Văn Trường, là bạn thân của hai đứa, điện thoại xin lỗi tôi và xin gặp tôi để giải thích, tôi không chấp nhận. Nói đến chuyện tiền bạc rõ ràng nó không đáng nói ra, nhưng không may điều đó có thể giải thích tại sao Lý Chánh Trung ngã theo cộng sản sau ngày 30 Tháng Tư năm 1975 cũng, liệu có phải vì quyền lợi chăng? Tôi cho rằng, đó là bản chất của Trung chớ không phải lỗi lầm. Bởi vì trước ngày 30 Tháng Tư, Lý Chánh Trung có viết một văn bản văn viết tay, xác định ý kiến của nhiều anh em bàn thảo nói về, “chủ trương một xã hội công bằng, tả khuynh không cộng sản” mà chúng tôi chưa phổ biến. Tài liệu này khi xét nhà tôi công an thu được, đã tra hỏi tôi rằng chữ viết nầy không phải của tôi vậy là của ai? Tôi suy nghĩ dù có chỉ mặt chỉ tên, lôi người khác vào tù cộng sản thì cũng chẳng ích lợi gì. Sau vụ tiền nhuận bút, nhiều lần Trung gặp tôi trong những cuộc tiếp tân tại tư dinh của Ðại Tướng Dương Văn Minh, Trung bắt tay tôi, xin lỗi và hỏi:

- Bộ mày giận tao sao?

- Tao có gì mà phải giận mày?

- Thôi mọi chuyện đều do tao lầm lỗi hết, bây giờ tao xin lỗi mày.

- Chả có ai lỗi lầm gì với ai cả. Thôi bỏ chuyện đó, ta đi kiếm rượu uống đi.

Ngày bàn giao chức vụ Tổng Thống giữa Trần Văn Hương và Dương Văn Minh tại dinh Ðộc lập, sau buổi lễ tôi rủ Nguyễn Văn Binh đi ăn cơm, Trung chạy theo xin cho đi cùng, tôi từ chối khéo, bảo có chuyện riêng phải nói với Binh, kỳ thật chẳng có việc riêng gì cả. Sau 30 tháng 4 năm 1975, Lý Chánh Trung được cử làm Ðại Biểu Nhân Dân Sài Gòn. Tháng 3 năm 1976, sau khi đi tù hơn 5 tháng, tôi được thả ra như một miếng mồi để họ gạ tôi hợp tác với “cách mạng”. Tôi “được” gọi theo học khóa huấn luyện Mác-Lênin tại trụ sở Nhà Văn Hóa Ðức hồi trước 1975.

Có một buổi học sáng do giáo sư Cương, trưởng ban triết học Mác-Lênin Hà Nội giảng, có sự hiện diện của Ðại Biểu Nhân Dân Lý Chánh Trung tham dự và anh được Giáo Sư Cương đề cao khen ngợi. Ðến giờ giải lao tôi biến mất đứng ở nhà sau, rồi qua câu lạc bộ giải lao, Trung nhờ nhiều bạn cũ đi tìm tôi không được. Cuối cùng Lâm Ngọc Diệp nắm tay tôi lôi ra sân trước nói:

- Thằng Trung nó nhờ anh em đi kiếm mày quá trời mà mày đi đâu vậy?

- Tao biết nó sẽ kiếm tao, nên mới chuồn, gặp nó chi cho thêm bực.

Diệp cười xòa. Nhưng rồi Trung cũng kiếm được tôi.

Tôi còn nhớ khi đó có mặt cả giáo sư Vũ Quốc Thúc, cựu Quốc Vụ Khanh, Nguyễn Kiến Thiện Ân cựu Tổng Trưởng Kinh Tế, cựu Phó Thủ Tướng Dương Kích Nhưỡng, Luật Sư Bùi Chánh Thời, Tiến Sĩ Lâm Văn Sĩ, Trung nói:

- Tao kiếm mày quá mà mày đi đâu mất tiêu?

- Mày kiếm tao làm gì?

Tao có chuyện muốn nói với mày.

- Tao với mày bây giờ còn gì để nói với nhau? Một thằng là Ðại Biểu Nhân Dân, Một thằng là tù cải tạo mới được trả tự do tạm thời, có điều gì để nói với nhau chứ?

- Mày sao lúc nào cũng vậy hè?

- Tao chưa đổi tên đổi họ nên lúc nào cũng là tao thôi.

Trung hơi sượng nhưng vẫn làm ra vẻ bình tĩnh trước mặt anh em. Sau mười một năm tù, tôi được thả năm 1988. Về nhà con trai tôi nói bác Lý Chánh Trung có ghé nhà nói bác có can thiệp cho ba. Tôi cười trả lời với con rằng, “Chẳng có thằng nào can thiệp được cho ba cả”, nhưng dù sao người ta có lòng mình phải đi cám ơn. Tôi bèn nhờ anh Nguyễn Văn Trường chở tôi đến văn phòng Lý Chánh Trung ở đường Thống Nhứt cạnh Tòa Ðại Sứ Mỹ ngày xưa. Trước khi đi tôi căn dặn Nguyễn Văn Trường: “Toa phải can moa liền và chở moa về tức khắc, nếu moa có nặng lời hay lớn tiếng với thằng Trung, bởi vì lớn tiếng vô ích và có khi bất lợi cho moa”. Trường hứa chắc.

Nhưng thực tế, do Lý Chánh Trung phát biểu những điều trái tai nên tôi có nặng lời lớn tiếng, buổi nói chuyện gần hai tiếng đồng hồ vô bổ mà còn bực mình. Tôi trách Nguyễn Văn Trường tại sao không giữ lời hứa. Trường trả lời: “Moa không can bởi vì đối với thằng Trung toa có thể nói như vậy được”. Về nhà tôi thấy buồn vì đã làm một việc vô bổ ngay từ khi mới ra tù.

Trong thời gian còn ở lại Việt Nam có một ngày bà giáo sư Tô Thị Ánh, chị vợ tôi, mời tham dự đám giỗ nhạc gia của tôi, có sự tham dự của Lý Chánh Trung, Nguyễn Văn Trường, Giáo Sư Trần Văn Tấn, cựu Viện Trưởng Viện Ðại Học Sài Gòn, Kỹ Sư Hồ Xích Tú, Giáo Sư Nguyễn Khắc Dương. Chị Ánh lưu ý tôi rằng:

- Bữa nay đám giỗ ba, đừng có chửi anh Trung trước mặt bạn bè đấy nhé.

- Tôi mắc mớ gì mà phải chửi nó.

Nhưng cây muốn lặng mà gió đừng, giữa bữa ăn, trong câu chuyện tôi không nhớ chúng tôi nói về điều gì đó mà đột nhiên Lý Chánh Trung nói:

- Tôi là đồng hành với cộng sản chớ tôi không phải đồng chí của họ.

Làm sao tôi im lặng được trước câu nói ngớ ngẩn với mục đích biện hộ của anh ta như vậy? Tôi bèn xổ ra từng tràn:

- Mày đồng hành hả? Có giống như các đảng phái quốc gia đồng hành với bọn cộng sản trong tổ chức “Việt Minh Cách Mạng Ðồng Minh Hội không”? Họ bị thủ tiêu hết, tại sao mày không bị thủ tiêu? Mày Ðồng hành sao mày muối mặt viết bài “Xin cho được gọi bằng Bác” sau khi cộng sản chiếm Sài Gòn? Mày đồng hành sao mày cho con Thúy Lan vô đảng? Sao mày hãnh diện cho Thằng Dưỡng đi bộ đội và tạo cơ hội cho nó lấy con gái một anh đại tá Việt Cộng. Ðối với cộng sản không có chuyện đồng hành, chỉ có qui hàng trở thành nô bộc, hay đồng đội luôn luôn phục tùng.

Thấy gay cấn, cả bàn ăn can gián, làm bữa tiệc mất vui. Sau cơn nóng giận,tôi cũng ân hận vì không giữ được sự hòa khí trong ngày giỗ của nhạc gia mình.

Bây giờ viết lại mấy dòng này tôi thấy lòng vẫn buồn nhiều hơn oán trách. Tiếc nuối cho tuổi thanh xuân của mình, của bạn bè, không biết kết hợp lại với nhau, đem khả năng để phục vụ đất nước và thay vào đó đã phân tán, kẻ đầu hàng Cộng Sản, người phản bội lại chính mình, người thất bại bị tù đày chết chóc.

Cụ Trần Văn Hương

Từ Pháp tôi về Việt Nam trễ hơn một số bạn bè, nhiều anh em ca ngợi cụ Trần Văn Hương đủ điều, nào là một người trong sạch, nào là một chính nhân quân tử, nào là người miền Nam có khí khái có bản lãnh. Thời điểm đó, cụ đang bị Tướng Nguyễn Khánh giam lỏng trong một biệt thự ở Vũng Tàu tịch thu của giám mục Ngô Ðình Thục. Tôi cũng tò mò tìm hiểu về nhiều chính trị gia khác như các ông Trần Văn Tuyên, Phan Khắc Sửu, Trần Văn Văn, nhóm Caravelle, Phan Khoan, Cổ Văn Hai, vân vân, những người chống đối sự lạm quyền sai trái của chế độ gia đình trị.

Tóm lại, sau khi tìm hiểu, tôi nhận thấy chính trị ở thời điểm đó dựa vào uy tín cá nhân nhiều hơn lập trường và lý tưởng. Ðảng phái thì có quá nhiều, con số gần tới bốn mươi. Cương lĩnh đảng nào cũng phải kèm theo những câu như “chống cộng sản” hay “không cộng sản”. Rất nhiều đảng chỉ còn danh xưng mà không có thành viên, thậm chí có đảng không còn ban chấp hành hợp lệ. Dĩ nhiên mạnh nhứt vẫn là Ðại Việt và Việt Nam Quốc Dân Ðảng. Còn về lập trường thì ngoài ý chí chống cộng sản, không ai tuyên bố được rõ ràng đường lối và chủ trương xây dựng, phát triển quốc gia như thế nào? Trong bối cảnh đó tôi thú thật bị ảnh hưởng nhiều của những bạn người miền Nam biết ít nhiều về cụ Trần Văn Hương. Tôi có gặp Quốc Trưởng Phan Khắc Sửu. Uy tín chống thực dân Pháp và sự hy sinh ngày xưa của cụ còn đó, nhưng câu giải thích “Tà không thể thắng chính được”, in sâu vào đầu tôi, khiến cho tôi có cái cảm giác cảm rằng cụ Sửu quan niệm chính trị là một cái gì thiêng liêng, dị doan, tín ngưỡng chớ không phải lý trí, khoa học. Một số giáo sư trẻ thúc giục tôi nên gặp cụ Trần Văn Hương. Tôi quí trọng cựu Phó Tổng Thống Nguyễn Ngọc Thơ nên tôi thường tham khảo ý ông về cụ Hương. Ông Thơ hiểu biết nhiều về tình hình chính trị Việt Nam, kể cả dưới thời Pháp Thuộc. Thêm vào đó, cựu Phó Tổng Thống Nguyễn Ngọc Thơ cũng có cảm tình với Trần Văn Hương.

Tôi hỏi thẳng cựu PTT Nguyễn Ngọc Thơ xem có phải tại vì cụ là người miền Nam nên có cảm tình với ông Hương không? Cụ Thơ trả lời có thể là như vậy. Tóm lại sở dĩ tôi nhọc công muốn tìm một nhân vật khả kính, khả tín, bởi vì tôi nghĩ một ngày nào đó sau khi Hiến Pháp được ban hành thì đất nước cần một chính phủ dân sự hơn là quân sự, bởi lẽ quân nhân cầm quyền dễ đưa đến độc tài quân phiệt. Do đó mà ngay từ nhưng ngày đầu tôi cùng với phái đoàn Công Giáo gặp Tướng Kỳ với mục đích phản đối chính sách quân phiệt mà ông đang chủ trương. Biết bao nhiêu trường hợp trên thế giới chứng minh chính phủ quân nhân đưa đến độc tài quân phiệt. Vì vậy tôi quyết tìm cơ hội trực tiếp gặp Trần Văn Hương. Nhưng bằng cách nào đây? Tôi là một Tổng Trưởng đương thời, nếu ngang nhiên tiếp xúc với một cựu Thủ Tướng bị lật đổ và bị giam lỏng dưới sự canh chừng của một đại đội quân nhân thì dư luận báo chí sẽ thêu dệt những gì? Thủ Tướng và nội các sẽ nghĩ sao đây? Không hiểu sao Lý Quí Chung, giám đốc của tôi nghe được, anh nói với tôi là anh có quen với cháu của ông Hương tên nầy (?)hiện ở trong nhà đó lo cho ông ấy. Nếu đến đó xưng là cháu của ông Hương thì lính sẽ cho vào. Sau khi đắn đo và với tính mạo hiểm của tuổi trẻ thôi thúc, tôi quyết định đi thăm cụ Trần Văn Hương ở Vũng Tàu.

Sáng sớm hôm đó tôi điện thoại cho Trung tá Trần Kim Hoa, phó Võ Phòng Phủ Thủ Tướng yêu cầu tìm một trực thăng đưa tôi đi nghỉ ở Vũng Tàu chiều lúc 6 giờ chiều sau khi tan sở. Tôi nói thấy quá mệt mỏi trong người vì công việc nhiều nên phải đi nghỉ, với mục đích đánh lạc hướng sự chú ý của an ninh. Trong khi đó tôi nói Lý Quí Chung báo với người nhà anh rằng tôi mời anh tới nhà tôi chơi. Khoảng 5 giờ chiều tôi ra lệnh phòng công xa đem cho tôi một xe tải nhỏ hiệu Citroen 2 ngựa xăng nhớt đầy đủ mang số ẩn tế không cần tài xế. Tự tôi lái xe đi Vũng Tàu, căn dặn anh vệ sĩ không mang theo vũ khí gì cả và dăn thêm Lý Quí Chung rằng: “Nếu không may chúng ta bị Việt Cộng ra chặn đường thì phải khai rằng mình đi Vũng Tàu mua cá về Sài Gòn bán”.

Trên đường đi Vũng tàu giờ đó không còn một bóng xe nào vì an ninh không bảo đảm. Thú thật sự liều mạng của tôi không đáng chút nào, nhưng may mắn không có chuyện gì xảy ra. Ðáng lẽ tôi có thể đi bằng trực thăng buổi sáng và ra lệnh cho Lý Quí Chung gặp tôi giờ nào ở Vũng Tàu, hay tại đâu đó là xong. Tội gì phải mạo hiểm vô ích như vậy?

Lần đầu tiên gặp cụ Trần Văn Hương, ông đang nằm trên võng đưa tòn ten, mình trần, vận xà-rông, người Nam gọi là vận chăn. Bên hông lận một cây súng lục lòng ngắn. Sau khi tôi chào hỏi, tự giới thiệu và xác định mục đích cuộc viếng thăm của tôi, cụ Hương cảm thấy nhẹ nhàng thoải mái, chừng đó cụ mới móc cây súng lục của ông ra khoe và nói:

- Qua nói thật với em à, nếu tụi nó vô thì qua cho nó một viên rồi qua một viên. Miệng ông nói răng cắn khít rịt.

- Cụ nói tụi nó là ai?

Ông Hương không trả lời, lảng sang chuyện khác.

Bữa cơm đạm bạc do người cháu của ông nấu, sau này mới biết là con trai của ông Nhứt, một cảnh sát viên trung thành và hình như có họ hàng với ông Hương. Tôi hỏi ông Hương rất nhiều việc và nói với ông cũng nhiều, cụ Hương cũng tâm sự nhiều với tôi và còn giới thiệu hai người thân tín của ông ở Sài Gòn là Luật Sư Nguyễn Văn Huyền và Lê Văn Thu. Về Sài Gòn tôi có mời hai vị nầy đến nhà dùng cơm thảo luận về cụ Trần Văn Hương. Ðêm đó cụ Hương và tôi nói chuyện quanh vấn đề chính trị miền Nam và việc ứng cử Tổng Thống mãi đến 4 giờ sáng. Tôi ngủ được một tiếng, khoảng 5 giờ, cụ Hương đánh thức tôi dậy, ba người lên xe tôi lái ra tới quán hủ tiếu dựng bên đường ở Bà Rịa, người trong quán mới thắp đèn nấu sôi thùng nước lèo! Chúng tôi vội vã ăn một tô hủ tiếu cho đỡ lòng rồi tôi lái một mạch về tới nhà lúc 7 giờ 35. Tôi thú thật với bà xã rằng mình đã đi gặp ông Hương đêm hôm qua và căn dặn bả phải kín miệng. Tôi thay đồ ngay, tài xế chở vào sở, 8 giờ 5 phút đường dây trắng Thủ Tướng gọi hỏi với vọng bực tức:

- Hôm qua toa đi đâu mà trực thăng chờ ở phòng VIP không thấy, moa tưởng toa bị Việt Cộng bắt cốc nên bảo thằng Loan đi tầm, ai cũng lo lắng. Toa đi đâu vậy?

Tôi đành phải nói dối là đi chơi qua đêm với bồ, mà quên mất việc mình đã dặn máy bay chờ đi Vũng Tàu. Dĩ nhiên, tôi lãnh một trận xỉ vả của ông râu kẽm. Nào là trực thăng không có đủ để đi đánh giặc, chỉ có toa mới được đặc ân sử dụng đi chơi, thế mà còn bê bối đến độ này. Ối thôi, mọi thứ trách móc tôi đều nhận tội và xin lỗi trối chết. Một lần đủ để cho tôi biết cách vào biệt thự tiếp xúc với Trần Văn Hương. Từ đó về sau tôi gặp cụ thường để toan tính việc đưa ông ra ứng cử.

Vận động thành lập Viện Ðại Học Cần Thơ

 

Mỗi khi mệt mỏi hay đắc ý về một việc gì, hoặc bực tức buồn chán thì tôi thường đến văn phòng ông bạn thân đang giữ ghế Tổng Trưởng Giáo Dục là anh Nguyễn Văn Trường, để than thở, tâm sự với hai tách cà phê. Hai đứa chúng tôi tán chuyện gẫu cho thư giãn não trạng, hoặc nếu không nói chuyện giáo dục thì cũng chuyện thanh niên hay tương lai chính trị của đất nước. Anh Trường nhắc lại việc thành lập viện đại học Cần Thơ và nói với tôi rằng đó là một trong những lý do khiến anh chấp nhận tham gia nội các, khi tôi nêu vấn đề đại học Cần Thơ để thuyết phục anh nhận giữ bộ giáo dục. Bây giờ anh muốn đặt thành kế hoạch để thực hiện nhưng rất ngại về ngân sách, bởi vì chính phủ đang dành mọi ưu tiên cho các vấn đề an ninh, kinh tế, hơn là giáo dục. Cách riêng, tôi nghĩ đây là một vấn đề chính trị đáng chú ý chứ không hẳn thuần túy giáo dục.

Tại sao tôi có ý nghĩ đó? Trước hết, theo tôi, chính phủ phải chứng tỏ cho toàn dân thấy có sự công bằng đối với người dân ở mọi vùng. Ngoài ra giáo dục là nền tảng của văn minh và phát triển, điều mà từ khi còn ngồi trên ghế nhà trường, giáo sư kinh tế Chambard de Lowe đã nhồi nhét vào đầu tôi bất cứ lúc nào thuận tiện. Tôi chưa dám có ý kiến gì với anh Trường, chỉ nghe qua và để ý vậy thôi.

Mấy ngày sau tôi có dịp gặp Tướng Nguyễn Cao Kỳ tôi đặt vấn đề một cách nghiêm chỉnh và cố ý tìm cách thuyết phục ông trước khi tôi thông báo với anh Trường là anh có thể đệ trình dự án thành lập viện đại học Cần Thơ. Tôi khởi sự bàn về chính trị miền Trung và miền Nam, tôi lái sang chuyến viếng thăm của Tướng Kỳ tại Cần Thơ. Tôi nói với ông Kỳ:

- Hôm đó dân chúng cũng tập trung đông nhỉ. Anh thấy tận mắt người miền Nam đang nhiệt liệt ủng hộ chính phủ đó. Ðất nước này đâu phải chỉ có Ðà Nẵng và Huế thôi hay Phan Rang, Biên Hòa đâu, ông thấy không?

Rồi tôi nói qua thanh niên và sinh viên hiếu học của miền Tây. Rất nhiều sinh viên ở đây phải ra tận Huế hay lên tận Ðà Lạt mới có thể xin vào đại học bởi vì đại học Saigon hết chỗ. Nghe xong ông nói:

- Thế à.

Tôi đặt câu hỏi:

- Huế và mấy tỉnh lân cận có bao nhiêu dân? Ðà Lạt và các tỉnh lân cận có bao nhiêu dân? Hai thành phố đó có viện đại học. Phải chăng là một sự bất công? Bởi vì Tổng Thống Ngô Ðình Diệm là người Huế và Ðức Giám Mục Ngô Ðình Thục muốn có một đại học Ðà Lạt do một linh mục công giáo ảnh hưởng? Trong khi đó Thiếu Tướng nghĩ xem Cần Thơ và các tỉnh miền Tây có bao nhiêu dân mà con em họ phải chịu vất vả tốn kém đi xa nhà để học. Rõ ràng là một sự bất công xã hội. Vả lại miền Tây trù phú là cái vú sữa nuôi cả xứ Việt Nam Cộng Hòa. Giáo dục là điều kiện tiên quyết để phát triển kinh tế. Tôi đề nghị Thiếu Tướng nên xét và cho phép thành lập một viện đại học ở Cần Thơ, dân miền Tây sẽ ghi nhớ và ủng hộ Thiếu Tướng. Ðiều đó còn có thể cân bằng cái thế chính trị và làm cho những thành phần bất mãn ở miền Trung suy nghĩ.

- Những gì toa nói không phải vô lý, nhưng thử bàn lại với ông Tổng Trưởng Giáo Dục xem.

Câu nói của Tướng Kỳ như mở cờ trong lòng tôi. Sau đó chúng tôi đề cập đến nhiều vấn đề khác trong đó có việc Dân Biểu Lập Hiến Lê Phước Sang vận động xin chính phủ ủng hộ cho ông ta làm Chủ Tịch Quốc Hội. Ông Sang hứa với Tướng Kỳ sẽ đem hết khối giáo dân Hòa Hảo ủng hộ chính phủ. Tướng Kỳ đề nghị tôi làm cái gạch nối, đi vận động, thông báo cho các dân biểu đàn bỏ phiếu cho Lê Phước Sang. Tôi phản đối:

- Moa biết anh Lê Phước Sang này quá nhiều, khi anh ta còn là Chánh Văn Phòng của Tổng Trưởng Canh Nông, Nguyễn Công Hầu đại diện phái Hòa hảo trong nội các Phan Huy Quát. Ông Sang không có đủ khả năng và uy tín để đóng vai trò một nhân vật số 3 của Việt Nam Cộng Hòa.

Tướng Kỳ hỏi:

- Như vậy nghĩ ai?

- Tại sao không bầu cho ông Phan Khắc Sửu, ít ra là người có uy tín và có tầm vóc quốc gia.

- Nhưng ông Sửu có ý chống chính phủ quân nhân mình.

- Quốc hội Lập Hiến chỉ có một nhiệm vụ là thảo Hiến Pháp. Chống hay ủng hộ chính phủ có hại gì đâu. Hiến Pháp là cho tương lai, chính phủ sau này là do quốc dân bầu mà.

- Moa có ý định để cho Lê Phước Sang, tụi mình sẽ dễ làm việc hơn.

- Tôi nói thật với anh nếu Lê Phước Sang làm Chủ Tịch Quốc Hội Việt Nam Cộng Hòa thì thà tôi từ chức xin nhập tịch trở thành công dân “Lèo” còn đỡ mất mặt hơn.

Câu chuyện bỏ lửng tại đây, về sau cụ Phan Khắc Sửu đắc cử Chủ Tịch Quốc Hội Lập Hiến năm 1966. Tôi gặp lại Nguyễn Văn Trường, Tổng Trưởng Giáo Dục thuật lại câu chuyện tôi đề nghị với Tướng Kỳ và ông tỏ ý bằng lòng cho thành lập Viện Ðại Học Cần Thơ, nhưng ông bảo tôi thử bàn lại với bộ Giáo Dục. Bây giờ cờ tới tay các anh rồi thì liệu mà phất cho sớm đi. Trường và Lý Chánh Trung Ðổng lý văn phòng của anh nói sẽ soạn thảo dự án càng sớm càng tốt. Sau khi dự án thành hình, một mặt bộ Giáo Dục gởi trình Thủ Tướng theo đúng thủ tục hành chánh, mặt khác tôi cầm một bản sao gặp riêng Thiếu Tướng Kỳ để giải thích và xin ông lưu ý việc cấp ngân khoản. Tưởng rằng việc đến đó là coi như xong, Tổng Trưởng Nguyễn Văn Trường và cộng sự viên của ông nôn nóng đợi chờ nhưng chờ mấy tuần không thấy sắc lệnh gởi về bộ, anh Trường gọi tôi nêu thắc mắc. Tôi bèn xin gặp ngay Tướng Kỳ hỏi rõ đầu đuôi:

- Anh hứa cho phép thành lập Viện Ðại Học Cần Thơ mà bộ Giáo Dục đệ trình dự thảo sắc lệnh sao không thấy anh ký?

- Ông Tổng Trưởng Bộ Phủ Thủ Tướng nói không có giáo sư đâu mà dạy, thành lập làm gì?

- Tổng Trưởng Giáo Dục xác định có giáo sư thì ông ấy mới dám trình dự án lên cho anh. Thử hỏi làm sao ông Bộ Trưởng phủ Thủ Tướng biết vấn đề giáo dục rõ hơn ông đương kim Tổng Trưởng phụ trách? Xin anh ký như đã hứa đi, tôi cam đoan với anh là thực hiện được và sẽ thực hiện sớm.

Tướng Kỳ moi hồ sơ ra ký trước mặt tôi và quăng vào rổ “công văn đi”. Tôi yên chí báo tin mừng cho Trường. Nhưng thực tế còn một việc rắc rối khác đang cản đường ông Trường. Vài ngày sau Nguyễn Văn Trường điện thoại cho tôi vừa than thở vừa giải thích rằng anh ta bổ nhiệm Thạc Sĩ Phạm Hoàng Hộ làm Viện Trưởng nhưng ông Hộ không dám nhận vì sợ người ta phá. Trường yêu cầu tôi đi gặp anh Hộ. Tôi trả lời chưa hề quen biết Phạm Hoàng Hộ là ai, gặp để làm gì và nói năng cái gì với nhau? Trường đề nghị tôi cùng đi với anh lên nhà Phạm Hoàng Hộ ở làng đại học Thủ Ðức. Nể tình anh Trường tôi cùng đi với anh ấy. Ðến nhà ông Hộ, sau khi giới thiệu tôi với Hộ anh Trường nói:

- Anh Võ Long Triều là người có công vận động cho việc thành lập viện Ðại Học. Bây giờ tôi đề nghị với anh có thắc mắc, nghi ngờ điều gì thì cứ nói xem anh Triều có thể giúp đỡ được không. Chẳng lẽ sắc lệnh ký rồi mà mình ngâm giấm đó sau.

Giáo sư Hộ nói:

- Tôi nghĩ mình không thể thực hiện được đâu. Nội vấn đề ngân sách bị “bloqué” (chặn đứng) là đương nhiên chết rồi. Mới thành lập thì phải có đủ ngân sách chi tiêu mới được.

- Ngoài vấn đề ngân sách còn vấn đề nào khác nan giải không?

- Những vấn đề khác mình có thể du di để giải quyết được.

- Người ta nói không có đủ Giáo Sư dạy, anh nghĩ rằng điều đó có phải là một vấn đề không?

- Giáo Sư thì khó khăn gì, vấn đề là mình thu xếp giờ giấc một cách thuận lý cho họ thôi.

- Nếu tôi bảo đảm anh sẽ có đủ ngân sách trong thời gian anh cần chi dùng thì anh có nhận làm Viện Trưởng không?

- Ðối với tôi ngân sách là điều chính yếu. Nhưng anh làm sao bảo đảm điều đó cho tôi được. Anh ở bên Thanh Niên mà, anh có phải là Tài Chánh hay Ngân Sách Ngoại Viện đâu?

- Tôi chạy cho ra được sắc lệnh thành lập Viện Ðại Học mà chẳng lẽ tôi không lo nổi vấn đề ngân sách cho anh sao?

- Nếu anh lấy danh dự bảo đảm như vậy thì tôi nhận.

- Tôi hứa với anh khi nào tôi còn ngồi trong nội các thì tôi sẽ có thể bảo đảm cho anh điều đó.

Ông Phạm Hoàng Hộ hứa nhận chức Viện Trưởng và bắt đầu ngày đó tôi quen biết thêm một ông khoa bảng nổi danh. Ngày lễ khai trương Viện Ðại Học Cần Thơ rất long trọng, có sự hiện diện của nhiều nhân vật Ủy Ban Lãnh Ðạo Quốc Gia và Ủy Ban Hành Pháp Trung Ương. Ngồi trong phòng họp tôi không màng nghe những bài diễn văn hoa mỹ mà tôi suy nghĩ mung lung về những con em của người dân miền Tây ngày mai sẽ có cơ hội tiến thân dễ dàng hơn, và biết đâu mình cũng sẽ là giáo sư dạy về canh nông tại đại học này.

(Còn tiếp)


Nói lại cho rõ về việc thành lập Viện Ðại Học Cần Thơ
Friday, April 06, 2007

Võ Long Triều

Về việc thành lập Viện Ðại Học Cần Thơ, có người cho rằng việc này đã được thành lập dưới thời Tổng Trưởng Trần Ngọc Ninh là một sai lầm, có lẽ những vị đó đọc trong sách “Việc Từng Ngày” của tác giả Ðoàn Thêm ghi rằng ngày 1 Tháng Tư 1966 “Thiếu Tướng Nguyễn Cao Kỳ chủ tọa lễ ban hành sắc lệnh thiết lập trường Ðại Học Miền Tây”.

Chỉ nội danh xưng “Ðại Học Miền Tây” đã viết là sai rồi, nguyên chữ là “Viện Ðại Học Cần Thơ” chứ không phải trường và miền Tây. Sự thật, khi Thiếu Tướng Nguyễn Cao Kỳ, Chủ Tịch Ủy Ban Hành Pháp Trung Ương có viếng tỉnh Cần Thơ, trong chuyến đi đó có Thiếu Tướng Nguyễn Bảo Trị, Thiếu Tướng Nguyễn Ðức Thắng và tôi. Trưa hôm đó, Trung Tướng Ðặng Văn Quang Tư Lệnh Quân Ðoàn IV và Vùng IV Chiến Thuật có tổ chức đãi cơm tại nhà ông Phó Tỉnh Trưởng Vĩnh Long. Chuyến viếng thăm miền Tây trong thời điểm này bắt nguồn từ việc thảo luận và nhận định của Thiếu Tướng Kỳ: trong khi miền Trung xáo trộn ngày càng gay gắt thì chính phủ cũng cần quan tâm nhắc nhở đến miền Nam ổn định và trù phú, mục đích là để trấn an dư luận một phần nào rằng “nhà dột có nơi”. Ông Kỳ có thảo luận với tôi về chuyện này vì ông coi tôi là đại diện cho khuynh hướng của các anh em miền Nam trong nội các chiến tranh.

Trong chuyến viếng thăm đó không hề có lời tuyên bố nào về việc thành lập Viện Ðại Học Cần Thơ. Tác giả Ðoàn Thêm có thể ghi chú tài liệu rồi để lâu không cập nhật mới biên chép một lần nên lầm lẫn ngày tháng. Trong quyển sách “Lớn Lên Với Ðất Nước”, tác giả Vy Thanh (trang 676) đăng nguyên văn “Nghị định thành lập ủy ban nghiên cứu thành lập Viện Ðại Học Cần Thơ” do Tổng Ủy Viện Văn Hóa Xã Hội kiêm Ủy Viên Giáo Dục, Trần Ngọc Ninh ký ngày 26 Tháng Tư năm 1966. Vì vậy việc Tuyên bố thành lập Viện Ðại Học ngày 1 Tháng Tư năm 1966 là không đúng sự thật. Bởi vì Tướng Kỳ không thể tuyên bố thành lập Viện Ðại Học ngày 1 trước khi thành lập ủy ban nghiên cứu để thành lập Viện Ðại Học này ngày 26 Tháng Tư năm 1966. Kế tiếp sau nghị định lập ủy ban nghiên cứu lại đăng nguyên văn sắc lệnh của Thủ Tướng: “Nay thiết lập tại tỉnh Phong Dinh một Viện Ðại Học Quốc Gia lấy tên là “Viện Ðại Học Cần Thơ” do Thiếu Tướng Nguyễn Cao Kỳ ký ngày 31 Tháng Ba năm 1966 cũng là một sự sai lầm bởi vì không thể ký sắc lệnh thành lập vào Tháng Ba trước khi có nghị định thành lập ủy ban nghiên cứu vào Tháng Tư năm 1966. Sự thật về việc thành lập Viện Ðại Học Cần Thơ như tôi đã trình bày trên đây. Hai vị cựu Tổng Trưởng Phủ Thủ Tướng Bùi Diễm và Quốc Gia Giáo Dục Nguyễn Văn Trường, hiện định cư Tại Virginia và Texas chắc còn nhớ rõ.

Tạ Vinh - Âu Trường Thanh

Thời gian tôi tham gia nội các tuy ngắn ngủi nhưng tôi có nhiều cơ hội được vàng bạc với Thủ Tướng Nguyễn Cao Kỳ như vụ xáo trộn miền Trung, hoặc được trao đổi ý kiến về nhiều chuyện lặt vặt khác. Nhưng rồi cuối cùng chúng tôi gặp sự bất đồng, quan trọng đến nỗi tôi phải từ chức để phản đối quân phiệt vì Tướng Loan áp đặt chế độ cảnh sát trị, lạm quyền, bất chấp luật pháp.

Khi tôi còn tại chức, có chứng kiến một vài chuyện đáng kể như vụ Tạ Vinh và pháp trường cát. Ðồng ý rằng thời loạn ly phải áp dụng biện pháp “chém đầu làm lệnh”. Nhưng mặt khác ở vào thời đại văn minh, chính quyền nào cũng phải tôn trọng những nguyên tắc căn bản thuộc về quyền sống của con người ở trong thế giới văn minh. Nhứt là Việt Nam thời đó cần tranh thủ cảm tình của các nước tự do. Cho nên tội của Tạ Vinh chưa đáng phải lãnh án tử hình. Vả lại mức ấn định năm triệu đồng hoặc cao hơn tiền Việt Nam không đáng là bao nhiêu so với tiền tệ quốc tế. Bên ngoài sẽ coi việc đó là khôi hài. Là độc tài, gian ác. Tôi trình bày với Tướng Kỳ: Nếu bắn Tạ Vinh thì báo chí quốc tế sẽ phê bình chỉ trích dữ dội, bởi vì trên thế giới không có tội đầu cơ kinh tế nào đáng lãnh án tử hình, những sự phê phán đó sẽ làm mất uy tín Việt Nam nhiều lắm trong khi mình cần tranh thủ sự ủng hộ của thế giới tự do. Nhưng trong lúc hăng say nóng lòng phải làm một cái gì để thu hút được sự chú ý và đặc biệt là chiếm được cảm tình của dư luận, Tướng Kỳ không nghe lời can gián của tôi. Ðã vậy Tướng Loan càng cực đoan quá khích hơn nữa nên ông đã cho hành huyết Tạ Vinh vào lúc 5 giờ sáng sớm tại chợ Bến Thành, sát vách tường sở Hỏa Xa.

Trong khi đó có một Trưởng Ty ngân khố, Ðặng Cao Sách, biển thủ bảy triệu đồng cũng bị xử tử hình nhưng lại không thi hành bản án. Trường hợp này được Tướng Kỳ đem ra trình bày với hội đồng nội các là tại vì gia đình Ðặng Cao Sách đe dọa sẽ khai tên những Tướng Lãnh đã đánh bài với đương sự và đương sự cố tình để cho thua với mục đích lấy lòng để nhờ cậy các ông Tướng đó. Nếu thi hành bản án thì không tránh được tai tiếng cho nhiều Tướng lãnh và cho cả quân đội. Thái độ tiền hậu bất nhứt này một lần nữa làm cho dư luận bàn tán bất phục.

Nhân dịp Tổng Thống Pháp De Gaulle viếng thăm Nam Vang, tin tức thế giới tiên đoán rằng ông sẽ tuyên bố nhiều điều bất lợi về chiến tranh Việt Nam. Chiều hôm trước tôi đề nghị Tướng Kỳ dùng đài phát thanh quốc gia để lên tiếng chỉ trích De Gaulle trước khi ông tới Nam Vang, chê trách nước Pháp hèn hạ, nịnh bợ kẻ thù cũ là Việt Cộng vì oán hận Mỹ đã từ chối không giúp phương tiện đánh thắng cộng sản Bắc Việt trong trận Ðiện Biên Phủ. Tướng Kỳ nói với tôi: “Loan nó bắt thằng tây Grand Jean Giám Ðốc hãng rượu BGI rồi. Tôi ngỡ ngàng phản bác: “Hành động gì mà kỳ vậy? Ông Loan dùng luật rừng, chắc chắn Ðại Sứ Mỹ sẽ phản đối kịch liệt và buộc mình phải thả thằng Grand Jean ngay bởi vì Pháp không có Ðại Sứ ở đây nhưng Mỹ đại diện cho quyền lợi của Pháp tại Việt Nam”. Thực tế xảy ra y như tôi đã nói. Trong tuần lễ hoặc hơn, với sự can thiệp mạnh mẽ của tòa Ðại Sứ Mỹ, Việt Nam phải trả tự do cho Giám Ðốc BGI ngay. Hành động ngang tàng của Tướng Loan bình thường Tướng Kỳ không biết, hoặc biết mà ông làm ngơ vì ông Loan có công dẹp loạn miền Trung và nhứt là ông lại nằm trong nhóm thân hữu đã thề sống chết có nhau mà tôi gọi là nhóm “Lương Sơn Bạc” của Thiếu Tướng Kỳ.

Nhân vật Âu Trường Thanh

Một vấn đề khác quan trọng hơn, đó là việc Tổng Trưởng Kinh Tế, Âu Trường Thanh tố cáo Trần Ðỗ Cung, Tổng Cuộc Trưởng Tiếp Tế nhận hối lộ của hãng Honda. Tôi đang ngồi làm việc trong văn phòng bỗng nhiên Thủ Tướng gọi điện thoại nói giọng bực tức, hằn học:

- Âu Trường Thanh đâm sau lưng anh em, thái độ này không thể chấp nhận được, Loan đòi bắt Thanh đấy.

Tôi hoảng hồn hỏi:

- Tại sao? Có chuyện gì?

- Ông ta họp báo tố cáo Trần Ðỗ Cung nhận hối lộ của hãng xe Honda. Nội các của mình mệnh danh là “chính phủ của người nghèo”, thành lập lập “ủy ban trừ gian” mà bây giờ thành viên của chính phủ lại công khai tố cáo một thành viên khác là gian lận vì đã nhận hối lộ có phải là đâm sau lưng bạn bè không? Hành động này không thể chấp nhận được. Moa nghĩ bắt giam Âu Trường Thanh để điều tra là đúng.

- Chuyện đâu còn có đó, tôi lên gặp anh ngay có được không?.

- Lên đây.

Thú thật tôi hơi mất bình tĩnh và lo sợ vô cùng, không phải sợ cho Âu Trường Thanh bị bắt mà sợ vì sự kiện quá quan trọng, có thể dẫn đến khủng hoảng chính trị làm cho dân chúng mất tin tưởng nơi chính quyền, dù đó là chính quyền do bất cứ ai lãnh đạo. Ngoài ra chính tôi giới thiệu Âu Trường Thanh, nếu anh ta là một người không đàng hoàng, như vậy tôi là người đầu tiên chịu trách nhiệm và phải từ chức. Tôi vừa khoác áo định ra đi thì Âu Trường Thanh bước vào văn phòng của tôi. Thừa dịp tôi hỏi đầu đuôi thì Thanh cả quyết là chuyện có thật. Thanh nắm bằng cớ rõ ràng. Tôi hơi nhẹ lòng, bảo Thanh ngồi đó chờ tôi lên Phủ Thủ Tướng rồi sẽ về ngay. Trên đường đi tôi bối rối chưa biết phải có thái độ như thế nào?

Vừa thấy tôi Tướng Kỳ nặng lời chê trách, phê bình Âu Trường Thanh là người không có tư cách, không có tinh thần đồng đội, là thứ xỏ lá, phản bội anh em. Ông xổ một tràn nhưng chưa hả giận. Tôi khởi sự lên tiếng:

- Chuyện đâu còn có đó, chưa chi mà anh có thái độ “Huyện bênh Huyện, Phủ bênh Phủ rồi”. Tôi đề nghị mình bình tĩnh cứu xét cho rõ sự thật rồi mới phân xử. Biết đâu Âu Trường Thanh nghĩ làm như vậy là để chứng minh chính phủ nầy trong sạch thật. Tôi công nhận anh Thanh có phạm sai lầm nặng là công khai hóa việc nầy mà không thông báo cho anh hay và cho nội các biết để phân xử, cho dù ông Trần Ðỗ Cung có nhận hối lộ đi nữa thì Thanh cũng không nên họp báo công khai tố cáo một đồng sự cấp Thứ Trưởng như vậy. Nhưng xét cho cùng cái tội nhận hối lộ của Trần Ðỗ Cung và tội đánh trống la làng của Âu Trường Thanh, làm nhục anh em, tội nào nặng hơn? Tôi đề nghị chúng ta họp nội các để phân xử việc nầy. Tôi sẽ không biện hộ và bênh vực cho Âu Trường Thanh một tiếng nếu anh ấy có lỗi. Chừng đó anh xử trị anh ta như thế nào tùy ý anh.

Tướng Kỳ bực tức nói:

- Tôi sẽ cho triệu tập cuộc họp nội các ngay.

Trở về bộ Thanh Niên tôi thấy Âu Trường Thanh “sò câm” mặt mày tái mét lo sợ thấy rõ. Anh sợ vì bị Tướng Loan hăm dọa câu lưu. Thanh hỏi tôi:

- Thủ Tướng quyết định như thế nào?

- Quyết định cái nỗi gì? Tại sao toa làm kỳ vậy? Tại sao toa họp báo công khai tố cáo Trần Ðỗ Cung mà không cho moa biết? Tại sao toa không trình Thủ Tướng để xem ông ấy xử lý như thế nào trước khi công bố việc này với báo chí? Bây giờ toa phải viết ngay một tờ trình đầu đuôi sự việc gởi “hỏa tốc” lên phủ Thủ Tướng.

- Tờ trình đã viết rồi, moa gọi bí thư cầm tay qua đây lấy số công văn của bộ Thanh Niên gởi đi.

- Toa “sảng” rồi hả? Công văn của Bộ Kinh Tế mà lấy số của Bộ Thanh Niên, người ta sẽ cười trên đầu hai thằng Tổng Trưởng ngớ ngẩn này. Toa ra lệnh cho bí thư của toa gỏi hỏa tốc lên phủ.

- Công văn của Bộ Kinh Tế gởi lên, ông Ðổng Lý sẽ không trình, ông Thiếu Tướng sẽ không đọc.

- Bảo người bên kinh tế đem bản sao qua cho moa ngay bây giờ, moa sẽ đem lên trình tay cho Tướng Kỳ.

Mười lăm phút sau có người của Bộ Kinh Tế trao bản sao tờ trình đó cho tôi trước mặt Âu Trường Thanh. Tôi bảo anh Thanh yên chí trở về bộ lo việc lập hồ sơ đầy đủ chứng minh việc anh ta tố cáo Trần Ðỗ Cung là thật. Trước khi bắt tay từ giã tôi còn gặng hòi Âu Trường Thanh:

- Toa có chắc nắm đầy đủ hồ sơ chứng minh những gì toa đã công bố không?

- Chắc chắn.

Tôi hơi nhẹ lòng nhưng chưa hẳn yên tâm, bởi vì lời của Thanh nói có vẻ thật, còn hồ sơ thì tôi chưa biết có đủ chứng cớ không? Mặt khác, cho dù có đủ bằng chứng, nhưng Tướng Kỳ có thể bắt tội Âu Trường Thanh là gây tiếng xấu cho nội các, làm mất uy tín chính phủ một cách trầm trọng. Chưa biết ông sẽ xử lý như thế nào? Dù sao thì tôi cũng chuẩn bị từ chức vì tôi giới thiệu người bất xứng. Buổi sáng họp nội các, mở đầu ngắn gọn Tướng Kỳ tuyên bố:

-Tôi tuyên bố khai mạc phiên họp nội các. Hôm nay chúng ta bàn việc Tổng Trưởng Kinh Tế tố cáo Tổng Cục Trưởng Tiếp tế nhận hối lộ của hãng Honda, Nhật Bản. Liền sau lời nói của Thủ Tướng ông Tổng Trưởng Công Chánh, Ngô Trọng Anh lên tiếng:

- Tôi nhận thấy anh Âu Trường Thanh làm như vậy là không đúng, cũng bằng đâm sau lưng anh em, bởi vì anh Thanh không hề thông báo cho Thủ Tướng hay một đồng viện nào của mình hay biết. Vì vậy tôi tự hỏi: Anh Thanh muốn làm cho nội các sụp đổ hay muốn tạo cho uy tín cá nhân mình?

Tôi can thiệp vào nói:

- Xin Thủ Tướng cho Phép anh Âu Trường Thanh trình bày sự việc, sau đó xin anh Trần Ðỗ Cung phản bác rồi chúng ta mới bàn thảo, phân xử, và quyết định sau.

Tướng Kỳ đồng ý nói:

- Yêu cầu anh Thanh trình bày sư việc, nhưng tôi yêu cầu anh phải trung thực và chính xác.

Tôi hồi hộp, phập phồng dù được Âu Trường Thanh khẳng định nhiều lần và trấn an tôi rằng: Lời tố cáo công khai của anh ta trước báo chí là sự thật có bằng chứng. Âu Trường Thanh cố lấy vọng bình tĩnh, lấy từng tập của một chồng hồ sơ cao nghệu để trước mặt anh. Mỗi lần phát biểu và chứng minh anh đưa ra một bản văn trước mặt mọi người để làm bằng. Cuộc biện hộ cho thái độ hàm hồ của anh và lời phát biểu cáo buộc Trần Ðỗ Cung kéo dài gần hai mươi phút. Sau đó Tướng Kỳ vừa bực vừa buồn nói nhẹ nhàng, buông lỏng:

- Yêu cầu anh Trần Ðỗ Cung tự xử.

- Thưa Thiếu Tướng, xin cho phép tôi từ chức.

- Từ chức chấp nhận. Tôi tuyên bố phiên họp chấm dứt.

Mọi người đứng dậy, ngỡ ngàng rời phòng họp, có người phân vân, khó chịu, có người tự hỏi việc gì quan trọng như vậy mà mình không được hay biết trước? Tại sao Thiếu Tướng Chủ Tịch bỏ qua dễ dàng như vậy? Riêng tôi thấy nhẹ nhõm trong lòng vì Âu Trường Thanh đã trưng bày đầy đủ bằng chứng, tôi càng nhẹ nhõm hơn là Thiếu Tướng Kỳ bỏ qua không bắt tội Âu Trường Thanh, tại sao dám qua mặt ông, không trình báo một việc quan trọng ảnh hưởng đến sự tồn tại hay sụp đổ của nội các. Dù sao mọi người phải công nhận: Âu Trường Thanh đã có công ổn định được tình hình kinh tế trong thời gian xáo trộn nhứt của miền Nam.

Sau vụ việc này một thời gian ngắn Âu Trường Thanh mời tôi qua Bộ Kinh Tế, tâm sự một hồi lâu anh đột nhiên thốt lời:

- Toa làm chính trị, chắc chắn cần tiền, moa sẽ làm ra tiền cho toa hoạt động. Câu nói của Thanh làm tôi ngạc nhiên, chới với!

- Thanh à, moa cám ơn toa, nhưng từ hồi nào đến giờ moa hoạt động chính trị không cần tiền. Toa nên biết rằng moa giữ đạo Công Giáo. Tội trộm cắp, lấy tiền phi nghĩa thì phải hoàn trả đủ cho chủ nhân hay nơi nào mình đã lấy, đó là luật của giáo hội. Moa đề nghị toa nên quên chuyện đó đi.

Sau khi nghe tôi nói như vậy Âu Trường Thanh sượng sùng, lộ vẻ e ngại, gần như lo sợ một điều gì. Còn tôi thì suy nghĩ lung tung. Anh nầy đã làm bậy cái gì nữa đây? Muốn đem tôi làm tấm bình phong đỡ đạn cho anh một lần nữa sao? Phải chăng anh vừa đánh trống la làng tháng trước bây giờ lại có chuyện nữa? Hay là anh muốn thử lòng tôi chăng? Chúng tôi ngồi im, lặng thinh vài phút. Tôi thấy ngột ngạt cho cả đôi bên nên giả đò cười vui vẻ nói:

- Nếu thật sự toa có lòng tốt với moa thì toa biết moa thích ăn bánh “Baba au rhum” (một khoanh bánh bột xốp, ướt nước đường có pha rượu rum) và “Moka” (bánh bông lang có nhiều lớp kem), khi nào moa qua đây chơi thì toa sai bí thư đi ra tiệm bánh Givral mua về tụi mình uống cà phê đấu láo.

Thanh thở phào cười nói:

- Chuyện đó quá dễ mà. Bất cứ lúc nào toa muốn uống cà phê ngon thì qua đây.

Ðược biết sau khi tôi về, Âu Trường Thanh ra lệnh cho văn phòng của ông mua một tủ lạnh nhỏ, hai mươi lít, để trong phòng Tổng Trưởng và mỗi ngày cô bí thư phải đổi hai thứ bánh mua sẵn chờ tôi, nhưng tôi không đến, mãi có ngày cô này điện thoại cho tôi nói:

- Thưa ông Tổng Tưởng, Tổng Trưởng của em ra lệnh phải đổi bánh mỗi ngày chờ ông qua chơi mà không thấy. Tụi em ăn mãi thứ bánh này chắc phải bệnh chết quá.

Tôi cười bảo:

- Tôi sẽ qua ngay để cứu tử các cô.

Cú điện thoại của cô bí thư bộ Kinh Tế nhắc tôi nhớ lại câu chuyện Âu Trường Thanh đề nghị với tôi ngày trước nên tôi muốn giữ lời hứa với anh để không làm anh mất mặt. Tôi sang bộ Kinh Tế ăn một cái bánh “baba au rhum” va uống tách cà phê ngon lành.

Âu Trường Thanh cùng với chúng tôi hoạt động chung với nhau khá lâu. Ðặc biệt trong vụ ủng hộ Trần Văn Hương ra ứng cử Tổng Thống, Âu Trường Thanh vẫn sát cánh với chúng tôi trong mọi sinh hoạt bàn thảo. Thanh không hề thố lộ dự mưu của anh sẽ ra ứng cử. Nhưng trước 12 giờ đêm ngày cuối cùng, hạn chót phải nộp đơn ứng cử, bỗng nhiên Dân Biểu Lý Quí Chung gọi điện thoại cho tôi thông báo Âu Trường Thanh đến nộp đơn ứng cử Tổng Thống. Lý Quí Chung tỏ ý kinh ngạc, tôi còn ngỡ ngàng kinh ngạc hơn anh ta nữa. Rất nhiều câu hỏi tôi đặt ra cho mình mà không tìm được lời giải. Sáng ngày hôm sau Giáo sư Lý Chánh Trung và tôi đến nhà Âu Trường Thanh để tìm hiểu lý do. Vào phòng khách thấy Âu Trường Thanh mặc bộ bà ba lụa lèo ngồi trên ghế xích đu, vừa thấy chúng tôi thanh lên tiếng trước:

- Tụi toa tưởng rằng moa là thằng đểu giả hả?

Trung trả lời ngay với vọng bực tức:

- Tưởng cái gì? Toa là!

Câu chuyện trở thành bất hòa, lời qua tiếng lại bất nhã, đó là lần cuối cùng tôi gặp Âu Trường Thanh.

Mọi chuyện đổ vỡ vì Tướng Loan

 

Chiều hôm trước ngày Rằm Trung Thu năm 1966, Bộ Thanh Niên có tổ chức một buổi lễ phát quà cho thiếu nhi thuộc các hội đoàn thanh niên. Trong số những quan khách được mời có sự hiện diện của Giáo Sư Nguyễn Văn Trường, Tổng Trưởng Bộ Quốc Gia Giáo Dục và nhiều vị lãnh đạo các hội đoàn thanh niên. Bầu không khí rất vui tươi, nhộn nhịp, các em thiếu nhi gương mặt sáng ngời, tay cầm lồng đèn, tay ôm quà, miệng hát vang. Ða số những món quà là: xoong chảo để đi cắm trại, bút, tập, sách vở để đi học và dụng cụ thể thao v.v...

Buổi lễ còn đang tiếp diễn bỗng nhiên anh Nguyễn Văn Trường hỏi tôi:

- Toa có hay tin tức gì lạ không?

- Tin gì lạ mà tại sao moa không biết?

- Tướng Nguyễn Ngọc Loan bắt ông BS Nguyễn Tấn Lộc, Ðổng Lý Văn Phòng Bộ Y Tế về tội “chia rẽ Nam Bắc.” Ðổng Lý Văn Phòng là nhân vật số 2 trong bộ mà ông Loan bắt giữ với tội danh kỳ lạ như vậy mà không hề thông báo cho chính phủ.

- Có thật vậy không đó bạn? Ông phao tin đồn bậy bạ Thiếu Tướng Kỳ nghe được là lại có chuyện đấy, không biết đường mà trả lời. Làm gì có tội danh chia rẽ Nam Bắc trong bộ hình luật mà ông Loan dám tham chiếu để bắt người. Khó tin quá!

- Khó tin nhưng có thật, nếu toa không tin moa thì thôi nhưng moa bảo đảm với toa đó là chuyện thật. Chính miệng của anh Phó Thủ Tướng Nguyễn Lưu Viên nói với moa. Anh ấy đang tạm thời xử lý Bộ Y Tế trong khi Tổng Trưởng Nguyễn Bá Khả đi công tác nước ngoài. Moa còn nhớ khi toa thuyết phục moa tham nội các, toa khẳng định với moa là các Tướng Lãnh không áp đặt chế độ quân phiệt. Bây giờ hình như họ lộ hình dần dần sau khi tình hình kinh tế và chính trị tạm thời ổn định. Moa hơi lo, biết đâu mình đã lấy một quyết định sai lầm.

Lời nói của anh Trường gây bất bình và phẫn nộ trong tôi, khi nghĩ đến Tướng Loan đã nhiều lần bất chấp luật lệ. Ông tự cho mình cái quyền sinh sát tất cả, bởi vì ông kiêm nhiệm hai chức vụ quan trọng, vừa là Tổng Giám Ðốc Cảnh Sát Quốc Gia vừa là Tổng Cục Trưởng Cục An Ninh Quân Ðội. Phải nói thẳng rằng Tướng Loan chỉ nể mặt Tướng Kỳ mà thôi vì ông Kỳ là thượng cấp của Loan cả hai mặt quân đội, và chính trị. Tướng Kỳ luôn luôn bao che cho Nguyễn Ngọc Loan vì ông cho rằng Tướng Loan có công ổn định dược tình hình miền Trung. Nhưng thực tế chỉ vì hai ông là bạn đồng đội rất mực thân thiết với nhau thôi. Do đó Tướng Loan mới dám hành động với cung cách quân phiệt và vô chính phủ như vậy (militariste anarchiste).

- Moa thấy chuyện này là quá đáng, moa phải liên lạc với Thiếu Tướng Kỳ để hỏi cho ra lẽ mới được. Toa làm ơn chủ tọa cuộc lễ này cho đến cuối giùm moa.

- Toa muốn về thì cứ đi, để moa tiếp tục cũng được.

Tôi ra hiệu cho nhân viên điều khiển chương trình đưa máy phóng âm. Tôi nói một vài lời chia sẻ niềm vui với các em thiếu nhi và tất cả quan khách hiện diện, đồng thời cáo lỗi vì tình trạng sức khỏe đột nhiên có vấn đề nên tôi xin phép cáo từ sớm, và nhờ vị Tổng Trưởng Giáo Dục hiện diện tiếp tục chủ tọa buổi lễ.

Về đến nhà tôi cầm máy gọi ngay Thiếu Tướng Kỳ. Thiếu Tá Lãnh, tùy viên của Tướng Kỳ trả lời:

- Thưa ông Ủy Viên, Thiếu Tướng của tôi được hội Lion Club mời diễn thuyết tại nhà hàng Caravelle.

- Cám ơn anh, nhờ anh thưa lại với Thiếu Tướng có tôi điện thoại và xin Thiếu Tướng gọi lại tôi khi nào ông về nhà, tôi có chuyện cần bàn với thiếu Tướng.

Khoảng 12 giờ 15, điện thoại reo. Tôi cầm ống nghe, bên kia đầu dây, giọng ồ ề quen thuộc:

- Có việc gì đấy?

- Tôi nghe nói Tướng Loan bắt giam BS Lộc, Ðổng Lý Văn Phòng Bộ Y Tế về tội chia rẽ Nam Bắc, có phải do lệnh của anh không?

Dù tôi biết chắc không phải do lệnh của Tướng Kỳ nhưng vì ông luôn bao che những hành động lạm quyền, bất chấp luật lệ của Tướng Loan nên tôi muốn cột buộc ông vào việc này.

- Làm gì có chuyện đó. Toa lúc nào cũng vấn đề... vấn đề... Moa bảo đảm không có việc đó đâu. Ðể moa gọi thằng Loan xem, năm phút sau moa sẽ gọi lại toa.

Chưa đầy năm phút ông Kỳ gọi lại.

- Có bắt, nhưng moa đã bảo nó thả ngay ông Lộc rồi.

- Dù đã thả ngay nhưng Tướng Loan lộng quyền quá đáng, muốn bắt ai thì bắt, muốn gán tội danh gì cho họ thì cứ tự ý bịa ra để mà bắt, rõ ràng Tướng Loan đang áp đặt một chế độ cảnh sát trị. Hôm nay anh ta bắt giam nhân vật số 2 của bộ mà Thủ Tướng không biết, với tội danh không hề có trong bộ hình luật, ngày mai ông ấy cũng có thể bắt nhân vật số 1 là Tổng Trưởng cũng không cần tham khảo ý kiến Thủ Tướng, như vậy là tình trạng vô chính phủ, hay là chúng ta đang sử dụng luật rừng? Anh thử nghĩ lại xem, Tướng Loan đã làm mất uy tín của chính phủ đối với dư luận trong và ngoài nước bao nhiêu lần rồi. Những chuyện nhỏ nhặt chúng ta bỏ qua được. Việc này quá trắng trợn, có thể gây chia rẽ và nghi kỵ trầm trọng giữa những công dân cùng xứ khác miền. Vấn đề Nam Bắc chưa bao giờ được đặt ra một cách công khai như vậy. Có thể một vài cá nhân vì bất mãn phát biểu bừa bãi, nhưng không ai nghĩ rằng nó là một vấn đề quan trọng đến nỗi phải kết thành một tội danh. Ông Loan là người đầu tiên và là người duy nhất phạm sai lầm này. Hành động của Tướng Loan sẽ đặt thành một vấn đề làm mất sự ổn định tinh thần trong quần chúng, phương hại đến sự đoàn kết quốc gia, sự ổn định chính trị mà bất cứ chính phủ nào ở thời điểm nào cũng phải triệt để bảo vệ. Anh phải xử lý việc này mới được.

- Ðược rồi, để moa sẽ gõ đầu nó.

Hai chữ “gõ đầu” mà Tướng Kỳ thường dùng có nghĩa là chỉnh ý, hay rầy la nhẹ nhàng. Tôi giật mình nghĩ lại: Phải chăng mình đang tiếp tay cho một vài cá nhân lộng hành, dựa hơi, ỷ thế, làm mất lòng dân, mất sự tin tưởng của các đồng minh đang tiếp tay chống sự bành trướng của Cộng Sản. Tôi nghĩ đến lời cam kết của tôi khi thuyết phục anh Nguyễn Văn Trường là sẽ không có chế độ quân phiệt, sẽ có bầu cử dân chủ. Những lời tôi vừa lưu ý Tướng Kỳ, hình như ông không cho là quan trọng. Ông trả lời cho xuôi việc rồi thôi. Ông đã quên khi ông mới ngồi vào ghế Thủ Tướng ông để cho Luật sư Ðinh Trịnh Chính, Tổng Trưởng Thông Tin, đóng cửa nhiều tờ nhật báo do người miền Nam đứng tên chủ nhiệm. Người nào đó có đầu óc kỳ thị đã làm việc này. Mặc dù lúc đó tôi chưa tham gia nội các nhưng Thiếu Tướng Kỳ nhiều lần gặp tôi để tham khảo ý kiến, tôi có khuyên và giải thích việc đó sẽ bất lợi cho ông nhiều trong lúc ông mới ngồi vào ghế lãnh đạo quốc gia, cần sự ủng hộ của báo giới. Tướng Kỳ đổi ý cho tái bản tất cả những tờ báo đó. Hôm nay Tổng Giám Ðốc cảnh sát của ông lại công khai đặt vấn đề Nam Bắc một cách vụng về. Tôi tin rằng Tướng Kỳ không có đầu óc kỳ thị một cách dại dột như vậy bởi vì đứng ở vị thế lãnh đạo Quốc Gia ông cần hơn ai hết sự đoàn kết của toàn dân để chống Cộng, không phân biệt Nam, Trung, Bắc.

Trong sự bối rối đó tôi điện thoại cho Trung Tướng Nguyễn Hữu Có, Phó Thủ Tướng kiêm Tổng Trưởng Quốc Phòng, yêu cầu ông can thiệp và nếu được ông nên đề nghị cất chức Nguyễn Ngọc Loan. Tướng Nguyễn Hữu Có ù ơ... ví dầu, đẩy đưa cho có lệ khi nói rằng:

- Anh đừng lo, để đó tôi tính cho.

- Tính cách nào? Nếu Thiếu Tướng Kỳ buông trôi không giải quyết việc này tôi sẽ từ chức. Bởi lẽ tôi không thể tiếp tay cho một chế độ độc tài cảnh sát trị, bất kể luật pháp.

- Anh đừng nóng giận, chuyện đâu còn có đó, để tôi lo cho.

Tôi lại điện thoại cho Trương Văn Thuấn, Tổng Trưởng Giao Thông Vận Tải, nói rõ sự tình và báo cho anh ta biết có thể tôi từ chức nếu Thiếu Tướng Kỳ không giải quyết việc này thỏa đáng. Tôi hỏi ý kiến của Trương Văn Thuấn nghĩ sao. Thuấn trả lời:

- Chức Tổng Trưởng này của toa, moa sẽ trả lại cho toa. Có nghĩa là nếu toa từ chức thì moa sẽ từ chức theo.

- Toa đừng nói vậy, vấn đề là mỗi người hành động theo lương tri của mình. Dù moa có giới thiệu toa vào nội các đi nữa nhưng chức vụ là của ông Thủ Tướng trao cho toa và là trách nhiệm của toa đối với đất nước. Sở dĩ moa cho toa biết ý định của moa như vậy là vì moa đã xem toa là người đồng hành, nên moa có bổn phận thông báo cho toa biết vậy thôi.

Tôi lại điện thoại cho anh Âu Trường Thanh, anh Thanh sẵn sàng từ chức nếu Tướng Kỳ vẫn dung túng cho Nguyễn Ngọc Loan áp đặt chế độ cảnh sát trị.

Những ngày kế tiếp chủ ý của Tướng kỳ là muốn xoa dịu sự bất mãn của tôi nên ông thường gọi tôi lên dinh ăn trưa, bàn chuyện nhà, chuyện nước. Hoặc mời một vài anh em trong nhóm xin từ chức đến tư dinh dùng cơm thông cảm trong tình bè bạn. Phần tôi cũng không muốn xé to quá trớn, một phần vì tình bạn khá thân thiết với Tướng Kỳ tôi không muốn gây nhiều phiền phức thêm cho ông, một người vốn đã có thừa kinh nghiệm trong công việc trị nước, mặt khác vì tôi ý thức được vấn đề này có thể là mầm mống của sự chia rẽ, dù ngấm ngầm, nhưng chắc chắn nó sẽ ảnh hưởng đến sự đoàn kết và tiềm năng chống Cộng Sản. Trong khi đó hai anh Nguyễn Văn Trường và Nguyễn Lưu Viên đốc thúc tôi phải đặt vấn đề. Tôi yêu cầu các anh ấy chờ đợi xem Tướng Kỳ giải quyết ra sao đã, chừng đó nếu không phân minh thì tôi sẽ từ chức. Nghe hai chữ từ chức các anh lại càng đốc thúc tôi vội vã hơn. Dù tôi đã đặt vấn đề này với Thiếu Tướng Kỳ một cách nghiêm chỉnh nhưng thâm tâm tôi biết rõ là ông sẽ bỏ qua.

Thực tế Tướng kỳ vẫn buông xuôi như thường lệ, không một lời công khai khiển trách Tướng Loan, không một câu trả lời đối với những điều thắc mắc của tôi. Mãi đến ngày 30 Tháng Chín năm 1966, đa số thành viên Ủy Ban Lãnh Ðạo Quốc Gia và Ủy Ban Hành Pháp Trung Ương đi dự lễ khai mạc Viện Ðại Học Cần Thơ, trên chuyến bay từ Saigon đi Cần Thơ, Phó Thủ Tướng Nguyễn Lưu Viện tìm cách ngồi gần tôi để than thở rằng ông bị làm mất mặt tại bộ Y Tế và thuật những lời đe doa của Tướng Loan khi ông này giả vờ nói trổng một mình. Những lời đe dọa đó tôi có cơ hội trực tiếp nghe qua khi đối diện với Tướng Loan tại Cục An Ninh Quân Ðội.

Lễ khai mạc Viện Ðại Học Cần Thơ diễn ra long trọng, nhưng đầu óc tôi không thưởng thức trọn vẹn sự vui mừng vì biết những con em miền “lục tỉnh” có cơ hội tiến thân dễ dàng hơn. Ðáng lý ra tôi phải vui mừng và hãnh diện vì đã góp phần nhỏ mọn trong việc thành lập viện Ðại Học này, nhưng tôi bị chia trí bởi những lời than phiền của Phó Thủ Tướng Nguyễn Lưu Viên về vấn đề Nam Bắc. Tâm trí tôi có phần bối rối. Nếu xé to vấn đề có thể phương hại đến tinh thần đoàn kết quốc gia, có thể làm sứt mẻ tình bạn giữa Tướng Kỳ và tôi. Tự nhiên tôi nghĩ đến những bạn bè của tôi ở Paris, và ngay cả bay giờ, đa số là người Bắc, chúng tôi thân thiện nhau không có một ý nghĩ gì phân biệt. Tôi càng nghĩ về Thiếu Tướng Kỳ, thái độ cử chỉ hành động của ông không có chút nào là kỳ thị. Tai sao bây giờ ông làm lơ đối với hành động phi pháp của Tướng Loan? Tôi cũng đã nhiều lần tâm sự với Tướng Kỳ, phân tích, trích dẫn chuyện Tàu ngày xưa rằng: Các vị công thần khai quốc ỷ thế cậy quyền, tác động loạn trong triều, chế độ phong kiến đó không tồn tại được lâu dài. Trên đường bay về Saigon tôi lợi dụng thời gian nói thẳng với Tướng Kỳ tất cả sự bất bình, chẳng những của riêng tôi mà của một vài anh em khác và đề nghị với ông nên cắt cử Tướng Loan vào một địa vị khác hoặc cho ông ta trở về không quân. Tướng Kỳ bảo việc đó đã yên xuôi rồi ông có quở trách Tướng Loan rồi, ông quyết định xếp việc này không để thành lớn chuyện nữa. Tôi cũng đồng ý với ông là không nên gây chuyện, nhưng cũng không thể để cho Tướng Loan chà đạp luật pháp và cũng không thể để cho anh em quân nhân công chức miền Nam hồi hộp lo sợ vì cái tội danh đó có thể chụp lên đầu bất cứ ai và bất cứ lúc nào. Tôi nghĩ đã đến lúc phải công khai tỏ thái độ bởi vì “im lặng là chấp thuận”, là tạo điều kiện cho sự lạm quyền đi đến độc tài quân phiệt.


Từ chức tập thể

Tôi mời các anh Nguyễn Văn Trường, Trương Văn Thuấn Nguyễn Hữu Hùng về nhà anh Nguyễn Lưu Viên bàn việc. Ngày hôm đó, anh Âu Trường Thanh bận đi công tác nước ngoài nên vắng mặt, anh Trần Ngọc Liễng bận công tác cứu trợ nạn lụt miền Tây. Chúng tôi phân tích sự việc, bàn qua cãi lại chung quanh hai ý nghĩ: Từ chức là có thể gây khủng hoảng nội các, điều không hay trong hiện tình đất nước, còn im lặng là mặc nhiên chấp nhận độc tài quân phiệt. Cuối cùng tất cả anh em hiện diện đồng ý ký tên vào đơn xin từ chức tập thể. Nhưng vấn đề là ai thảo đơn cho nghiêm chỉnh. Anh Trường đề nghị gọi Ðổng Lý Văn Phòng của tôi là giáo sư Lý Chánh Trung đến đây để thảo đơn. Tôi cho xe đi mời Lý Chánh Trung ngay. Ðơn thảo xong những người hiện diện đồng tình ký tên liền tại chỗ, riêng anh Trần Ngọc Liễng ký sau khi về đến Sài Gòn. Tôi có nhiệm vụ đưa đơn này cho Thiếu Tướng Nguyễn Cao Kỳ khi thuận tiện.

Cầm đơn từ chức của 6 thành viên nội các trong tay nhưng tôi chưa quyết định nộp đơn liền. Tôi khơi chuyện này với Thiếu Tướng Kỳ một vài lần nữa, cũng có khi tôi thổ lộ rằng một số anh em sẽ từ chức trong đó có tôi để phản đối chế độ cảnh sát trị mà chính ông đang dung túng. Nhưng Tướng Kỳ vẫn khăng khăng không thay đổi ý định quyết giữ Tướng Loan tại chức. Chẳng những vậy mà ông còn đổ tội nếu tôi từ chức thì chính tôi mới là người công khai đặt vấn đề Nam Bắc. Ông công nhận rằng Tướng Loan có phạm sai lầm nhưng người ngoài chưa ai biết. Tôi phản biện hỏi lại ông: “Chúng ta phải chờ bao nhiêu sự lạm quyền, chà đạp công lý nữa thì mới xử lý đây?”

Cuối cùng Tướng Kỳ dịu giọng, ông yêu cầu tôi đi gặp Tướng Loan để tìm hiểu để cảm về một chuyện hiểu lầm nhỏ nhặt, ông còn nói thêm rằng giữa bạn bè nên tránh làm mất lòng nhau. Mặc dù tôi không tin có thể tìm được sự thông cảm với một anh chàng ngang ngược, “giả mù sa mưa”, khi tỉnh khi say, tùy lúc, tùy cơ hội theo ý anh ta muốn. Nhưng tôi cũng chiều ý ông Thủ Tướng, điện thoại cho Tướng Loan để hẹn gặp. Thiếu Tướng Nguyễn Ngọc Loan và tôi luôn xưng hô với nhau là “mày tao” hoặc “cụ và con”, cách xưng hô nữa thân mật nửa đùa cợt. Tôi gọi đường dây trực tiếp của Cục An Ninh Quân Ðội:

- Loan đấy hả, Triều đây. Ông Kỳ bảo tao đến gặp mày để giải tỏa những thắc mắc, coi như đó là một lỗi lầm nên bỏ qua. Mày có rảnh không? Mình phải gặp nhau để đã thông tư tưởng và tránh mọi tai hại về sau.

- Rảnh, “mais chez moi” (nghĩa là tại văn phòng tôi).

Câu trả lời xấc xược làm tôi bất bình, nhưng cũng nén giận trả lời:

- Mày đừng có giở giọng đó. Nếu là bạn bè gặp nhau thì chỗ nào cũng được. Còn nếu thẳng thừng mà nói thì tao có quyền yêu cầu nội các triệu kiến mày đến trình bày trước nội các, về hành động phi pháp lạm quyền của mày đề chính phủ xét đoán.

- Dạ bẩm cụ con biết mà cụ, cụ là quan lớn con làm sao dám bì với cụ.

- Thôi đừng dở hơi nữa. Ngày mai lúc 11giờ trưa tao sẽ đến gặp mày ở đâu?

- Bẩm cụ tại Cục An Ninh Quân Ðội của con ạ..

- Hẹn mai gặp.

Buông ống nghe xuống tôi cảm thấy bực mình và cũng hồi hộp lo âu. Tôi không tin là cuộc gặp gỡ ngày mai sẽ có kết quả tốt. Lòng không muốn đi nhưng đã hứa với Tướng Kỳ thì phải giữ lời. Mặc khác tôi cũng lo sợ Tướng Loan bốc đồng làm bậy. Cho nên tôi đến văn phòng của Tổng Trưởng Giáo Dục Nguyễn Văn Trường trước 11 giờ. Nói cho anh ấy biết việc tôi sắp đi gặp Tướng Loan và căn dặn thật kỹ: “Nếu 12 giờ mà toa không thấy moa trở về đây gặp toa thì thông báo ngay cho ông Thủ Tướng biết rằng thằng Loan đã bắt moa nhốt tại cục an ninh quân đội rồi”.

Sau đó tôi vào Cục An Ninh Quân Ðội gặp Tướng Loan.

- Dạ bẩm cụ, mời cụ ngồi.

Ngồi vào ghế đối diện với Tướng Loan tôi thấy trên bàn có một chai bia lớn hiệu “33 Larue” đang uống dở. Ông cố tình giở vọng lè nhè hỏi tôi.

- Mày tới đây để chửi tớ đấy à? Thì mày cứ chửi đi. Thằng này là thằng mọi, bán thân chết sống để cho các ông ngồi mát ăn bát vàng, bây giờ lại chửi bới ông là thằng lộng quyền hả?

- Loan à, tao đến gặp mày là do ông Kỳ khuyên nên trực tiếp bàn thảo để giải tỏa mọi sự bất đồng và tránh gây mọi sự đổ vỡ giữa anh em.

- Bố Kỳ biết con mẹ gì mà khuyên tao hay khuyên mày? Ổng ngồi cao quá mà. Chỉ có tao là thằng trâu phải cày tối ngày để phục vụ cho các ông thôi.

Cuộc tiếp xúc kéo dài gần đúng một tiếng đồng hồ như tôi đã giao hẹn với anh Nguyễn Văn Trường. Chúng tôi lời qua tiếng lại gay gắt, tôi không còn nhớ toàn bộ chi tiết chỉ nhớ những câu và những ý đập sâu vào đầu tôi lúc đó thôi. Chung qui và lập đi lập lại là Tướng loan kể công lao nhờ anh ta mà nội các mới đứng vững. Và anh khẳng định không cho phép bất cứ ai phá hoại sự ổn định tình hình này. Thỉnh thoảng anh ta cầm chay la-ve tu một ngụm. Phần tôi thì phản bác rằng ông ta là quân nhân can trường nhưng ỉ thế, hành động ngang tàng làm hư đại sự. Hai người chúng tôi có lúc to tiếng với nhau. Cuối cùng Tướng Loan vì bực tức xổ hết tâm sự qua lời nói trắng trợn không cần che giấu:

- Mày cho là tao kỳ thị Nam Bắc phải không? Ð.M. tao bắn chết mẹ một vài thằng xem còn thằng nào dám đặt vấn đề Nam Bắc nữa không.

Nghe câu nói đó tôi nổi khùng liền, trả lời:

- Mày đã bắn bao nhiêu thằng Việt Cộng rồi? Chúng ta giết bao nhiêu thằng của chúng nó rồi, tại sao vẫn còn Việt Cộng ngày càng nhiều hơn để cho mày tìm kiếm hằng ngày? Vấn đề tâm đồng, ý phục. Không phải mọi chuyện đều có thể giải quyết bằng súng đạn đâu.

- Dạ bẩm cụ con nghe lời của cụ phán dạy. Nhưng cụ cũng nên nghĩ lại những gì con bẩm với cụ ngày nay.

- Tao thấy mày nổi khùng rồi, có nói gì thêm cũng vô ích. Tao về đây. Nhưng tao cần cho mày biết nếu tao có bị kiết lỵ mà chết thì người ta cũng đổ tội cho mày giết tao chứ không ai trồng khoai đất này đâu.

Tôi tự động đứng dậy bước ra, mở cửa phòng, lòng ngờ vực, hồi hộp, lo sợ không biết tên lỗ mãng này có buôn tha cho mình trở về an toàn không, nhưng tôi cố trấn an mình, làm ra vẽ ngang tàn bướng bỉnh nói vói:

- Mày khùng rồi thôi nhậu cho say rồi ngủ đi.

Vừa mở cửa tôi thấy Trung Tá Thăng, Cục Phó an ninh quân đội và một anh lính bưng mâm đồ ăn có chả lụa, có bánh mì, có cơm canh và hai chay la-ve lớn. Tôi giả vời bốc một miếng chả lụa bỏ vào miệng, bước đi và nói, đem rượu vô cho nó nhậu đi nó hết rượu rồi. Thì ra hai anh này đang lén nghe cuộc cãi vã ồn ào tự bao giờ bị tôi bắt gập hơi sượng sùng chào hỏi lấy lệ. Ngồi trên xe vừa ra khỏi cổng an ninh quân đội tôi thở phào nhẹ nhõm. Nhìn đồng hồ gần 12 giờ 5, đến văn phòng anh Nguyễn Văn Trường đang chờ tôi sốt ruột, anh nói.

Moa chuẩn bị gọi thiếu Tướng Kỳ như toa căn dặn nhưng mai là moa cố chờ thêm vài phút.

Thuật lại đầu đuôi cho anh Trường nghe chúng tôi nghĩ rằng không còn cách nào hàng gắn được nên chắc phải đưa đơn từ chức. Một ngày qua tôi vẫn chưa quyết. Những đồng nghiệp cùng ký tên trong đơn điện thoại hỏi tôi câu chuyện đã đến đâu rồi? Tôi trả lời sẽ trình đơn từ chức ngày may. Trước đó mấy ngày tôi có đề cập đến vấn đề từ chức với anh Trần Minh Tiết, Tổng Trưởng Tư Pháp Tổng Trưởng Tư Pháp, chính anh ấy cũng có phản ứng tức thì là không có điều khoản nào trong luật pháp quốc gia hiện tại nói về tội chia rẻ Nam Bắc. Và anh cũng tán đồng, khuyến khích từ chức là phải. Tôi có hỏi nếu tướng Kỳ không giải quyết ổn thỏa thì anh sẽ tù chức cùng với chúng tôi không? Trần Minh Tiết khẳng định với nhiệt tình, tôi sẽ cùng ký tên với các anh. Nhưng khi tôi quyết định sẽ nộp đơn, tôi điện thoại cho anh Tiết thì anh lại thoái thác rằng anh chơi quần dợt bị trật gân chân nên không đến nhà tôi xem đơn ký tên được. Tôi cảm thấy khôi hài, nên cố tình dồn anh phải trả lời dứt khoát minh bạch nói rằng tôi sẽ nhờ ông Chánh Văn Phòng của tôi đem đơn này tận nhà để anh ký. Trần Minh Tiết lại ú ớ bảo để cho anh xem lại, chờ một ít thời gian xem sao đã. Tôi hiểu ngay thái độ của những người hay tính toán, coi trọng chức quyền. Cũng như khi cải tổ nội các lần thứ hai, Tướng Kỳ định bãi chức Tổng Trưởng Nội Vụ của anh, tôi đến chơi nhà anh và thông báo cho anh biết trước, anh nhờ tôi can thiệp xin cho anh một chức Ðại Sứ ở đâu đó cũng được. Tôi trình bày với Tướng Kỳ rằng Trần Minh Tiết là Thẩm Phán Công Giáo, thiết nghĩ cũng nên giữ anh lại để lấy lòng Công Giáo cân bằng ảnh hưởng chính trị hiện tại, vì vậy Tướng Kỳ mới hoán chuyển anh sang Bộ Tư Pháp. Ấy vậy mà trong phiên họp nội các bàn về việc từ chức của nhiều vị Tổng Trưởng Trần Minh Tiết phát biểu một câu tôi còn nhớ đời: “Thưa Thiếu Tướng tôi không hay biết về những chi tiết của vụ này cho đến khi anh Triều đề nghị tôi ký tên xin từ chức để phản đối hành vi cảnh sát trị của Tướng Nguyễn Ngọc Loan thì tôi có nói với ảnh để tôi suy nghĩ lại”. Thật buồn cười cho nhân tình thế thái!

Trước khi đến dinh Thủ Tướng trình đơn từ chức của sáu vị thành viên nội các tôi chuẩn bị tư tưởng và những câu trả lời mà Tướng Kỳ có thể dồn dập hỏi tôi. Tôi có thể tiên đoán ông soái vào trách nhiệm của tôi đối với thời cuộc, tình cảm bạn bè cùng phục vụ một chí hướng, bổn phận của tất cả là phải tránh những vấn đề có thể gây chia rè trong hàng ngũ quốc gia.

Ngồi đối diện với Tướng Kỳ trong văn phòng Thủ Tướng tôi vừa nói vừa đặt trên bàn giấy của ông đơn từ chức với sáu chữ ký của Phó Thủ Tướng Nguyễn Lưu viên, Tổng Trưởng Quốc Gia Giáo Dục Nguyễn Văn Trường, Tổng Trưởng Giao Thông Vận Tải Trương Văn Thuấn, Tổng Trưởng Xã Hội Trần Ngọc Liễn, Tổng Trưởng Lao Ðộng Nguyễn Hữu Hùng và Tổng Trưởng Thanh Niên Thể Thao Võ Long Triều. Tướng Kỳ cười mỉa mai, vẻ khó chịu hỏi:

- Việc gì mà đến nỗi phải xé to chuyện như vậy?

- Tôi đã trình bày với anh rất nhiều lần về vấn đề này mà anh em thấy anh không cần lưu ý đến nên phải dùng đến hạ sách này, là điều mà không ai muốn làm.

- Cậu lại mâu thuẫn với chính mình rồi. Ðã nói không muốn làm mà sao lại ký tên xin từ chức. Cậu có lường được việc này là quan trọng không?

- Chúng tôi đã nghĩ đến mọi khía cạnh của vấn đề một cách có trách nhiệm. Sự việc đến đây rồi thì xin để anh tùy nghi giải quyết.

Bầu không khí trở nên nặng nề, Tướng Kỳ bực tức ra mặt nhưng ông tự kiềm chế và nhẹ nhàng bảo:

- Thôi được rồi, để tớ xem rồi sẽ nói chuyện với anh em sau.

Tôi không muốn kéo dài tình trạng khó xử của đôi bên nên tôi xin cáo từ chờ quyết định của Thủ Tướng

   BỮA TIỆC THÔNG CẢM


Tôi không muốn kéo dài tình trạng khó xử của đôi bên nên tôi xin cáo từ chờ quyết định của Thủ Tướng. Tướng Kỳ lộ vẻ bối rối khi ông nhận đơn từ chức tập thể của 6 vị tổng trưởng để phản đối hành động của Tướng Loan, một trong những người thân cận và tin cẩn nhứt của ông, vì điều nầy chắc chắn sẽ tạo một cơn khủng hoảng chính trị mà ông không hề muốn và ông cũng chưa biết phải giải quyết ra sao. Mấy ngày sau khi gặp lại tôi ông không che dấu sự buồn phiền, thậm chí bực tức cả với tôi, người mà ông đã từng có ít nhiều cảm tình và tin cậy. Nay chính tôi lại gây cho ông điều vô cùng khó xử. Dù vậy Tướng Kỳ cũng đè nén sự bực tức, chỉ trách móc tôi nhẹ nhàng với tư cách người bạn lấy tình cảm thuyết phục tôi, lấy việc thực hiện lý tưởng về một xã hội công bằng thịnh vượng mà ông và tôi đã cùng nhau chia xẻ, lấy cái tham vọng “đội đá vá trời' khuyến dụ tôi bỏ qua và yêu cầu tôi giải thích với 5 vị Tổng Trưởng khác. Ông tin rằng tôi có thể làm cho họ đổi ý. Tóm lại ông đưa trái banh khó xử đó về chân tôi.

Chúng tôi gặp lại nhau rất nhiều lần để suy luận, bàn thảo với nhau về sự từ chức này. Trong khi đó thì Tướng Kỳ mở những cuộc tiếp xúc riêng biệt với từng vị Tổng Trưởng có tên trong đơn từ chức. Chỉ có anh Nguyễn Văn Trường thì mỗi lần được Thiếu Tướng Kỳ mời gặp riêng, anh đều rủ tôi cùng đi. Tôi nhớ có lần đối diện với Tướng Kỳ trong văn phòng Thủ Tướng, ông Kỳ đem hết lý lẽ để thuyết phục anh rút lại đơn từ chức, anh Trường đấu lý không lại Tướng Kỳ bèn phát biểu nguyên văn tôi còn nhớ rõ: “Tôi không biết phải giải thích như thế nào đề cho Thiếu Tướng hiểu, nhưng tôi chỉ biết có một điều là tôi phải từ chức, điều đó là đúng”. Tướng Kỳ phản biện; “Xin lỗi, anh là nhà mô phạm danh tiếng mà sao anh phát biểu không mô phạm tí nào cả vậy”? Ba người cùng cười vui vẻ.

Tướng Kỳ tỏ thái độ hết sức mềm dẻo để thuyết phục chúng tôi. Thậm chí mời tất cả chúng tôi đến tư gia của ông ở trại Phi Long để dùng cơm thân mật. Tướng Kỳ có biệt tài là khi ông muốn nhỏ nhẹ dễ thương thì ông đạt mục đích rất dễ dàng. Vì vậy mà sau bữa cơm đó, Luật Sư Trần Ngọc Liễng cảm thấy mềm lòng nói: “Moa thấy ông Kỳ dễ thương quá, thôi tụi mình bỏ qua đi, gây nhiều khó khăn cho giả (tiếng Nam chỉ ông ấy một cách thân mật) moa thấy tội nghiệp quá”. Sau khi từ Mỹ trở về, Âu Trường Thanh liền nộp đơn xin từ chức cũng với lý do phản đối Tướng Loan vừa áp dụng một chế độ cảnh sát trị vừa công khai đặt vấn đề Nam Bắc một cách vụng về. Sự thật là anh Thanh đã biết tin về sự khủng hoảng này ngay khi anh còn đang công tác ở ngoài. Vì vậy khi về đến Sài Gòn, anh tìm gặp tôi ngay và chúng tôi có trao đổi ý kiến trước khi anh thảo đơn từ chức. Nhận đơn của Âu Trường Thanh, Tướng Kỳ liền gọi tôi nói với giọng vô cùng bực tức: “Âu Trường Thanh không biết ất giáp gì cả, mới về đến đã hùa theo từ chức làm khó dễ moa, ông ấy muốn cái gì đây? Tớ đã tha cho một lần đâm sau lưng anh em rồi, bây giờ nó muốn giở trò gì nữa đây?”. Tôi trả lời đẩy đưa cho qua việc và cố tình xoa dịu sự bực tức của Thủ Tướng Kỳ bằng cách lái sang trung tâm của vấn đề là sự lộng quyền của Tướng Loan. Tôi nói với ông Kỳ: “Anh em mình phải suy nghĩ tìm cách dàn xếp, để tránh cuộc khủng hoảng chính trị, sau khi đã ổn định được tình hình xáo trộn của miền Trung”.

Nghĩ rằng vấn đề này rất là quan trọng nên trước khi đệ đơn từ chức tôi có tiếp xúc với Trung Tướng Nguyễn Văn Thiệu, Chủ Tịch Ủy Ban Lãnh Ðạo Quốc Gia, trình bày rõ ràng sự việc. Trung Tướng Thiệu thẳng thắn cho biết rằng đó là lẻ phải, là việc cần làm. Ông còn nhận xét về trường hợp cá nhân người này và người khác mà tôi không tiện nêu tên, ông khuyên tôi phải nhìn vấn đề như thế nầy, như thế kia, và ông kết luận nên đặt vấn đề một cách rộng rãi hơn, buộc Tướng Kỳ phải giải quyết. Ông còn nhấn mạnh: “Ðằng sau lưng toa có moa, Triều, moa ủng hộ toa hoàn toàn”.

Vấn đề từ chức còn đang bỏ lửng, Tướng Kỳ đang tìm mọi cách hàn gắn, tôi cũng mua thời gian, khất hẹn với anh em chờ xem, bởi vì tôi được ủy thác đại diện cho nhóm từ chức để thương thảo với Thủ Tướng Kỳ. Ðột nhiên 7 người trong chúng tôi nhận được thiệp của Chủ Tịch Ủy Ban Lãnh Ðạo Quốc Gia, chính thức trịnh trọng mời dùng “Tiệc Thông Cảm” tại tư dinh Thủ Tướng, số 2 Bến Bạch Ðằng, dinh thự này thường để trống vì Thủ Tướng không ở đấy, trong thiệp mời có ghi rõ “Y Phục Ðại Lễ”. Ðến dự tiệc tôi thấy toàn bộ các Tướng Lãnh vận y lễ phục chỉnh tề, các vị Tổng Bộ Trưởng khăn áo chỉnh tề. Thực đơn bửa tiệc chỉ có một món, tương đối sang trọng và mắc tiền thời đó, trừu nướng ăn với hột tấm có mùi đặc biệt theo kiểu Á Rập (Metchoui couscous) do tiệm ăn duy nhứt Sài Gòn Pabrica cung cấp... Bốn con trừu được xỏ dọc theo xương sống từ cổ xuống đuôi quay tròn trên bếp lửa đỏ. Văn võ bá quan đủ mặt, đúng giờ. Khởi sự là tim gan trừu xỏ lụi ướp nướng mỗi người cầm một xâu, đang lai rai uống rượi khai vị, kẻ ngồi trên ghế dựa người đứng chung quanh các bàn đầy rượu, trái cây và món ăn. Ðột nhiên Tướng Nguyễn Ngọc Loan từ ngoài cổng đi vào, dù không được mời, ông mặc “áo chim cò” tay ngắn bỏ lòng thòng ngoài quần jean, chân mang dép trần lẹp xẹp. Chào hỏi mọi người bằng câu nói trỏng: “Bẩm các cụ ạ”, rồi ông tự động rót rượu, tay bóc lia lịa những món ăn trên bàn đi quanh quẩn, ôm cổ người này nói đùa vài câu, người khác than thân phận thấp hèn đang dang cổ ra mà cày vì đại cuộc, v. v.. Ông ta còn buông những lời hăm dọa bóng gió, nói trỏng một mình: “Ð. M. moa bắn chết mẹ vài thằng coi còn có thằng nào dám đòi hất cẳng ông nữa không”? Câu nói này tôi đã nghe Tướng Loan thốt ra một lần với tôi gần giống như vậy tại cục An Ninh Quân Ðội như tôi đã viết ở đoạn trên. Rồi ông lại giả vờ quay sang Luật Sư Trần Ngọc Liểng đang đứng gần Giáo Sư Nguyễn Văn Trường rồi nói: “Thì ra các cụ họp nhau để giải quyết vấn đề Nam Bắc đấy à”? Không một ai lên tiếng trả lời, không một ai bình phẩm. Mọi người làm ngơ kể cả Tướng Kỳ. Tôi đang ngồi trên ghế gần đó tiếp chuyện với Trung Tướng Thiệu, Trung Tướng Phạm Xuân Chiểu cùng vài vị tướng lãnh khác. Những câu nói trái tai của Tướng Loan làm tôi phừng phừng sôi giận, nhưng cố hết sức nén lòng chờ xong bữa tiệc ngoài trời, vào phòng họp xem họ bàn việc “thông cảm” như thế nào. Ðiều khiến tôi ngạc nhiên là thấy Trung Tướng Nguyễn Văn Thiệu, người đóng vai chủ mời khách mà tại sao ông lại để cho một thuộc cấp có thái độ trịch thượng với lời lẽ vô lễ đối với khách quí của ông trong bữa tiệc long trọng như vậy? Tôi càng ngạc nhiên thấy ông không có một lời can thiệp? Cho dù có nể nang đối với Tướng Kỳ, Tướng Loan, nhưng nếu ông muốn tạo bầu không khí “thông cảm” thật sự, thì ông cũng phải vuốt ve Tướng Loan, nói giả lả vài câu, yêu cầu ông ta không nên sinh sự, để cho vị Chủ Tịch Ủy Ban Lãnh Ðạo Quốc Gia tiếp khách một cách nghiêm túc và đúng lễ nghi. Lại nữa, theo phép lịch sự tối thiểu thì chủ nhà cũng phải có một vài lời cáo lỗi về cử chỉ suồng sã của thuộc cấp mình. Nhưng không! Hình như Tướng Thiệu giả vờ không nghe, không thấy.

Nếu Tướng Thiệu thực lòng muốn tạo sự thông cảm, và hóa giải sự bất bình của các tổng trưởng ký đơn từ chức thì ông phải ngăn cản ngay hành động gây bất mãn thêm nữa của Tướng Loan đang diễn ra trước mắt ông và mọi người. Tướng Loan nói xong vài câu, biểu diễn xong cái màn “mục hạ vô nhân”, ông ta ra về không chào hỏi ai cả. Vô ra như chỗ không người. Ðó là thói quen song tàn vì ỉ lại mình có công và nhứt là có quyền sinh sát thông qua sự bao che của Thủ Tướng, bạn ông.

Sau này, nghi nghe tướng Thiệu giải thích, tôi mới vỡ lẽ:

- Triều à, moa biết moa ra ứng cử chống lại liên danh của Nguyễn Cao Kỳ thì moa chỉ được có 2 lá phiếu, một của vợ moa và một của moa thôi, nhưng moa không lấy được thì moa sẽ khuấy cho hôi!”

Tôi vô cùng xót xa nghe qua lời ông nói, thì ra tôi không hiểu được đối với ông quốc gia là cái gì? Và cũng trong lần tiếp xúc đó, ông hỏi đi hỏi lại:

- Triều, toa biết Mỹ nó muốn cái gì không”?

Tôi trả lời:

- Thưa Trung Tướng, vấn đề quan trọng là mình biết mình muốn cái gì chứ cứ uốn theo ý muốn của người Mỹ thì “bỏ mẹ rồi”!

Lần tiếp xúc đó tôi cùng đi với cựu Tổng Trưởng Nguyễn Văn Trường để khuyến dụ ông Thiệu ra ứng cử Tổng Thống với mục đích chia phiếu của liên danh Nguyễn Cao Kỳ. Ðó là những câu nói tỏ rõ hết ý ông, trước khi bắt tay từ giã tại nhà của ông ở trong bộ Tổng Tham Mưu. Những lời nói và cử chỉ của Trung Tướng Thiệu khiến tôi từ chối hợp tác với ông khi bào Huynh của ông là Ðại Sứ Nguyễn Văn Kiểu, đại diện ông đến nhà mời tôi tham gia, và sau nầy khi Tổng Trưởng Phủ Thủ Tướng, Huỳnh Văn Ðạo, thay mặt Trần Văn Hương mời tôi tham gia nội các, giữ chức Tổng Trưởng Giáo Dục thay ông Nguyễn Văn Thơ, trước mặt Nguyễn Văn Trường, người đã hai lần điều khiển bộ nầy, tôi vẫn từ chối vì không thể hợp tác với một vị lãnh đạo mà lời nói và thái độ không làm tôi tin tưởng và kính phục. Chi tiết về những gì tôi biết trong những cuộc ứng cử và bầu cử của những vị Trần Văn Hương, Nguyện Cao Kỳ, Nguyễn Văn Thiệu và Dương Văn Minh sẽ trình bày sau.

Ðối với tôi cũng như các anh em khác, có tên trong đơn từ chức, bữa cơm chẳng những không ngon mà còn mong cho phiện hợp “thông cảm” sắp tới càng kết thúc sớm càng tốt. Trong lúc dùng tiệc, Tướng Nguyễn Hữu Có ra sức đùa cợt tưởng rằng giúp vui và đánh tan được bầu không khí bất bình khó chịu của mọi người, nhưng ông bỏ công vô ích mà lại còn gây ảnh hưởng ngược làm cho người ta thấy khó chịu hơn.

Tiệc xong vào họp, dĩ nhiên là không có mặt của Tướng Loan, tôi chỉ ngồi nghe Trung Tướng Thiệu, Thiếu Tướng Thắng và một vài Tướng lãnh khác khuyên giải, nại lý do là cuộc khủng hoảng chính trị trong giai đoạn hiện tại sẽ có hại cho quốc gia. Trung Tướng Thiệu không đá động một lời về hành động của Tướng Loan, không bày tỏ một câu về những ý kiến mà ông đã trực tiếp khuyên bảo tôi tuần trước tại văn phòng ông ở dinh Gia Long. Âu Trường Thanh, Nguyễn Lưu Viên và anh em khác phản biện rằng chế độ cảnh sát trị hay quân phiệt càng tác hại đối với quốc gia hơn. Tướng Kỳ thì giải thích và ra sức thuyết phục mọi người nên bỏ qua chuyện nhỏ nhặt nầy, không nên cố chấp và ông bảo đảm sẽ không khi nào cho phép tái diễn những điều tương tự. Nhưng tôi thừa biết đó là những lời hứa suông để cho xong việc.

Tuy nhiên có một câu nói của ông, tôi không để ý vì mãi bực tức về hành động và những lời của Tướng Loan, nhưng lời nói đó của Tướng Kỳ làm các vị vị tổng trưởng hiện diện vô cùng cảm động, khi ra về anh ta nhắc lại với tôi rằng ông Kỳ nói: “Triều, Toa có thấy một vị Tổng Trưởng nào xưng hô với moa “À toi à moi” “Mầy mầy tao tao” như hai đứa mình không? Thâm tình giữa chúng ta toa quên hết chỉ vì cố chấp”? Sự thật tình cảm nầy vẫn gây nhiều đắn đo thắc mắc cho tôi ngay từ khi tôi đặt vấn đề từ chức. Nhưng tình cảm và chuyện quốc gia là hai điều không thể lầm lẫn để mình bị trói buộc. Gần cuối phiên họp Tướng Kỳ quay sang tôi, ông hỏi tại sao tôi không có ý kiến? Với sự ấm ức còn đè nặng trong lòng, tôi trả lời gọn lỏn:

- Tôi giữ nguyên quyết định từ chức, không thề thay đổi ý định bởi vì tôi không thể ngồi chung bàn với những người hèn”. Một sự lỡ lời quá đáng! Thốt ra trong cơn bất bình nóng giận! Tướng Kỳ nắm được cơ hội phản ứng liền:

- Xin lỗi, anh không có quyền vơ đũa cả nắm như vậy được, ai là người hèn nhờ anh chỉ tên giùm cho tôi tí.

Vô cùng lúng túng tôi chỉ đại một tên, đó là Tổng Trưởng Canh Nông Lâm Văn Trí. Vì tôi sực nhớ có lần tôi vào văn phòng anh bạn này, thấy anh ta đang đọc sách chưởng của Kim Dung thay vì bới đầu, bới óc để ra chỉ thị cho các ngành các bộ môn nên đặt trọng tâm phát triển sản xuất lúa gạo hay gia súc, gia cầm. Sự thật Lâm Văn Trí và tôi cũng là bạn đồng nghiệp quen biết nhau khá thân. Tuy tôi không ngưỡng mộ cách điều khiển bộ chuyên môn của anh, nhưng anh không phải là hèn. Anh là người bạn tốt. Tôi nghĩ rằng lời phát biểu hồ đồ vô ý thức của tôi hôm đó không tới tai Lâm Văn Trí, bởi vì sau này chúng tôi thường gặp nhau vui vẻ, cùng với Trương Thái Tôn, Lưu Văn Lê và Nguyễn Văn An là những người bạn đồng nghiệp thân thiện. Nhưng thiết nghĩ cho dù Lâm Văn Trí có nghe, có biết, thì chắc anh ta sẽ chửi đổng vài câu , tôi xin lỗi nói rỏ sự thật hôm đó, rồi cũng bắt tay xí xóa thôi.

Thành thật phải nói là tôi đang giận con cá khác mà chém cái thớt Lâm Văn Trí một cách dại dột! Buổi họp không có kết quả, bữa cơm không vui, không ngon. Vừa ra khỏi phòng họp anh Nguyện Văn Trường trách tôi nhẹ nhàng như thằng anh chỉ dại sai lầm của đứa em nóng tính phát ngôn bừa bãi. Còn Âu Trường Thanh không tiếc lời mắng mỏ đủ đều, với từ ngữ nặng nhẹ có không thiếu, nhưng anh biết chắc tôi không buồn vì sự thâm tình giũa anh và tôi. Về nhà tôi buồn tức, ân hận về lời nói của mình suốt đêm khuya.

Trong bối cảnh đó tôi nhận được thơ của Cụ Trần Văn Hương viết ngắn gọn bằng bút chì trên giấy tập học trò: “Nếu em nghe lời qua thì không nên từ chức, phải có gắng giữ sự hiện diện của mình trong chính quyền”. Lại thêm một điều gây phiền não cho tôi không ít! Trần Văn Hương là người mà tôi muốn đề nghị ra ứng cử Tổng Thống sau khi Hiến Pháp được ban hành. Một người có tham vọng lãnh đạo quốc gia mà khuyên tôi phải chấp nhận sự lộng quyền, sự áp đặt một chế độ cảnh sát trị, sự manh nha thực hành chế độ quân phiệt thì ai là người chia xẻ lý tưởng công bằng xã hội, dân chủ tự do với tôi đây? Trong cùng một thời điểm mà có tới ba nan đề buộc tôi phải tự giải đáp:

- Một là tình thân hữu với Tướng Kỳ, sự tin cậy của ông đối với tôi, khuyến cáo tôi không nên gây khó cho ông ấy.

- Hai là tại sao ông Hương khuyên tôi chấp nhận tình trạng sai trái lộ liễu nầy? Phải chăng vì ông muốn có người trong chính quyền để tiếp tay cho cá nhân ông mà bất chấp sự bất công, độc đoán, độc tài, đang áp đặt trên đầu trên cổ của dân chúng?

- Ba là sự bất mãng của tôi đối Với Trung Tướng Nguyễn Văn Thiệu sau bữa “tiệc thông cảm” tại Bến Bạch Ðằng còn nặng trĩu trong lòng.

Tôi bỏ mặc, không cần nghĩ mình phải làm gì, cứ thản nhiên đi câu cá, chở vợ con ra Vũng Tàu nghỉ ngơi, để cho thời gian kéo dài, bởi vì ngạn ngữ Pháp có câu: “La nuit porte conseil” nghĩa là đêm sẽ đem lại lời khuyên giải. Thôi thì mặc kệ cứ để cho nhiều đêm khuyên giải, biết đâu đầu ốc sẽ gạn lộc bớt đi những phần chủ quan, kiêu căng, háo thắng của gã thanh niên mới tròn 32 tuổi đầu như tôi. Phần Tướng Kỳ thì không ngớt mời rủ dùng cơm, trà nước, rượu chè khai thác triệt để mối thâm giao và cảm tình bè bạn. Mặt khác ông cứ ngâm đơn từ chức không màng giải quyết. Rồi lại đến ngày Hội Nghị Thượng Ðỉnh Việt Mỹ ở Manila ngày 24 tháng 10 năm 1966. Những vấn đề then chốt của hội nghị là quân sự và kinh tế tài chánh. Ðương nhiên phải có mặt Tổng Trưởng Âu Trường Thanh là một trong những vị tổng Trưởng đã từ chức. Thoạt tiên Tướng Kỳ đề nghị tôi tham gia phái đoàn Việt Nam. Tôi một mực từ chối. Cuối cùng ông đành phải khai thật là sự có mặt của Âu Trường Thanh rất quan trọng nên ông yêu cầu tôi vì quyền lợi quốc gia thuyết phục Âu Trường Thanh chấp nhận tham dự phái đoàn. Dĩ nhiên Tướng Kỳ cũng đoán trước được tôi sẽ không từ chối lời yêu cầu của ông và ông tin rằng Âu Trường Thanh sẽ nghe tôi. Tôi sẵn lòng thỏa mãn đề nghi của Thủ Tướng vì quyền lợi quốc gia thật sự có ăn thua trong cuộc Hội Nghị Thượng Ðỉnh nầy. Tôi yêu cầu Âu Trường Thanh nên tham gia phái đoàn Việt Nam Cộng Hòa đi phó hội, dĩ nhiên anh Thanh bằng lòng.

Bàn tay nào gây đổ vỡ?

 

Sau cuộc hội nghị thượng đỉnh ở Manila trở về, Tướng Nguyễn Cao Kỳ Chủ Tịch Ủy Ban Hành Pháp Trung Ương tiếp tục gặp riêng từng vị bộ trưởng từ chức. Tôi không được biết nội dung và chi tiết về những cuộc gặp gỡ đó. Riêng phần tôi rất nhiều lần được Tướng Kỳ, thuyết phục, khuyên giải, và cả trách móc. Ðiều làm tôi khó nghĩ nhứt là ông nhân danh tình cảm sâu đậm mà ông và tôi dành cho nhau trong những ngày tháng qua, bây giờ tại sao tôi không thể vì mối cảm tình đó và sự nể nang nhau, bỏ qua những sai lầm nhỏ nhặt của người khác mà chính ông đã công nhận là sai. Nhưng rồi ông lại nói: “Xét cho cùng, không ai có thể thay thế được Tướng Loan trong giai đoạn hiện tại”. Còn tôi thì phản biện rằng Tướng Loan có công dẹp dược sự hỗn loạn ở miền Trung. Nhưng ông Loan tự cho mình là một công thần, nên hống hách, tự tiện hành động sai trái, gây bất ổn cho quốc gia. Vậy thì công của chúng ta cố gắng xây dựng một xã hội công bằng, một nhà nước pháp trị sẽ bị Tướng Loan dần dần phá tan. Bất cứ một chính quyền nào trên thế giới, có chế độ tự do dân chủ cũng phải cai trị bằng luật pháp phân minh. Không thể tự tiện áp dụng luật pháp theo ý riêng của mình.

Co một lúc tôi hỏi thẳng Tướng Nguyễn Cao Kỳ:

- Thủ tướng đang bao che cho bạn bè hay ông đang “cầm cân nẩy mực”, điều hành một một quốc gia vốn không thiếu những con người vô trách nhiệm, vô kỷ luật và kiêu binh?

 

Cứ thế, mỗi lần gặp Tướng Kỳ là chúng tôi khởi sự chuyện trò với những lời trao đổi rất tâm tình và luôn kết thúc bằng sự tranh cãi dựa trên lý trí, tạo ra những bất đồng ngày càng lớn hơn.

Trong thời gian đó, hai lần ông cố vấn chính trị Tòa Ðại Sứ Mỹ, Philipp Habib, mời tôi dùng cơm để thuyết phục tôi rút đơn từ chức và ngồi lại nội các, bởi vì ông nói:

- Ông phải tiếp tục tham gia nội các, vì ông là lương tri của chính phủ này, chúng tôi hứa nếu ông ở lại thì trong vòng 6 tháng nữa những vấn đề ông đặt ra sẽ được giải quyết thuận theo tâm nguyện của ông.

 

Habib còn nói thêm:

- Chúng tôi chỉ ủng hộ có bốn người trong nội các chiến tranh của ông.

- Bốn người đó là ai?

- Tôi không thể nêu tên được.

- Lịch sự của Tây Phương là không khi nào nói úp nói mở, có vẻ giấu diếm, nếu mình thấy không nói được thì không nên nói. Còn nói lưng chừng làm cho đối tác của mình thắc mắc nghĩ ngợi là bất lịch sự.

 

Habib đành buông lời than thở:

-Ông buộc tôi như vậy thì tôi đành phải nói, bốn vị đó là Nguyễn Cao Kỳ, Nguyễn Ðức Thắng, Âu Trường Thanh và Võ Long Triều.

- Cám ơn ông đã có lời nói tốt cho tôi nhưng dù sao tôi nghĩ vấn đề của Việt Nam phải được giải quyết theo cung cách của người Việt Nam, chứ không theo ý muốn của người Mỹ.

 

Tướng Kỳ cố tình kéo dài thời gian, “ngâm đơn” không giải quyết vì ông biết cách dùng tình cảm để làm tôi siêu lòng. Nhiều lần tôi có than với ông rằng giả sử như tôi có chấp nhận ngồi lại nội các thì chưa chắc những vị bộ trưởng khác sẽ bằng lòng nghe theo lời tôi khuyên. Tướng Kỳ biết rằng những vị tổng bộ trưởng đó kể cả Phó Thủ Tướng Nguyễn Lưu Viên là do tôi giới thiệu vào nội các, ngoại trừ Luật Sư Trần Ngọc Liểng Bộ Trưởng Xã Hội, nên ông cứ đổ hết trách nhiệm vào đầu tôi. Ông dùng hết tình cảm để thuyết phục, ông đặt quyền lợi quốc gia lên đầu tôi để ép buộc. Cuối cùng tôi siêu lòng, vì nghĩ đến tình hình đất nước mới được ổn định, cần phải duy trì và vì nghĩ đến thái độ và tình cảm của Tướng Kỳ đối với tôi ngay từ những ngày đầu mới tiếp xúc với nhau cho đến bây giờ. Cả hai lý do đó thúc đẩy tôi nên ở lại. Nhưng chắc chắn tôi sẽ gặp khó khăn khi giải thích với những người đồng viện, khi phải yêu cầu họ chấp nhận tạm thời ở lại chức vụ của mình.

 

Ðối với ông Nguyễn Lưu Viên thì dễ nói vì tôi biết cụ Hương đã có viết thơ yêu cầu ông Viên không nên từ chức, cũng như cụ đã từng viết thơ yêu cầu tôi như vậy, Trương Văn Thuấn sợ phải thi hành quân dịch nên đã “đi cửa hậu” xin Tướng Kỳ cho ở lại bằng cách xin thủ tướng phê trên đơn từ chức riêng rẽ của anh là “không chấp nhận” thì anh ta sẽ ở lại. Việc này do người trong văn phòng thủ tướng báo cho tôi biết. Vì vậy mà tôi không cần phải giải thích nhiều, Thuấn mừng rỡ ở lại ngay. Ðối với Luật Sư Trần Ngọc Liểng và Tổng Trưởng Âu Trường Thanh cũng dễ thuyết phục, duy chỉ có Nguyễn Văn Trường là khăng khăng muốn ra đi cho khỏi mang tiếng là tham quyền cố vị, và tiếp tục hợp tác với một chính phủ xem thường luật pháp. Có lẽ anh nhạy cảm, bị chạm tự ái vì là người miền Nam và đã nghe những lời đe dọa phi lý của Tướng Loan nên anh bảo tôi cứ tự tiện ở lại xem tình hình ra sao còn anh thì dứt khoát ra đi. Bây giờ lại đến phiên tôi dùng tình bạn và lý lẽ chính trị để yêu cầu anh cùng với tôi ở lại. Khó khăn lắm tôi mới tạm thời dàn xếp ổn thỏa, nghĩa là đơn từ chức của chúng tôi Tướng Kỳ cứ “ngâm giấm” để đó, các vị tổng bộ trưởng tiếp tục tham gia nội các như thường.

 

Ðiều trớ trêu mà tôi được biết sau nầy là khi Tướng Nguyễn Cao Kỳ đắc cử Phó Tổng Thống, Trương Văn Thuấn sợ bị đi quân dịch nên nhiều lần xin được làm “công cán ủy viên” cho phó tổng thống nhưng Tướng Kỳ không chịu tiếp kiến anh và cũng không trả lời khước từ. Có lẽ Tướng Kỳ không giấu giếm ý nghĩ của ông là không thích Trương Văn Thuấn nên nhiều người khác cũng biết được điều đó.

 

Chúng tôi chấp nhận ở lại tiếp tục tham gia nội các nhưng tinh thần chưa được ổn định, tâm trí còn hoang mang tự hỏi việc gì còn có thể xảy ra nữa? Và tương lai Tướng Loan sẽ còn gây điều gì bất lợi cho chúng tôi hay không? Mặc dù Tướng Kỳ nhiều lần bảo đảm với tôi không cho phép Nguyễn Ngọc Loan hành động bừa bãi nữa, 3 ngày sau vào một buổi chiều, tôi cảm thấy lòng buồn bực nên sang văn phòng Tổng Trưởng Giáo Dục Nguyễn Văn Trường, mục đích là để xoa dịu cảm giác khó chịu của anh vì phải tạm thời ở lại nội các do sự yêu cầu của tôi, và cũng để tìm sự lắng dịu tâm lý của bản thân mình. Dĩ nhiên câu chuyện từ chức và ở lại nội các là đề tài bàn thảo vu vơ, chúng tôi chuyện trò chưa được bao lâu thì ông chánh văn phòng của Trường xin vào, tay cầm tập hồ sơ, ông trình cho Nguyễn Văn Trường, miệng xì xào to nhỏ, thỉnh thoảng lại liếc sang tôi. Thái độ giấu diếm ra vẻ bí mật không đúng lúc. Nếu là bí mật thì nên đợi tôi ra về, nếu là việc bình thường thì cứ đưa hồ sơ trình rồi lui ra. Tại sao có thái độ kỳ lạ như vậy? Tôi lộ vẻ bực tức ra mặt, lớn tiếng hỏi:

- Việc gì mà bí mật dữ vậy? Các anh có muốn tôi ra về ngay để tiện việc trình báo không?

 

Anh Trường nhanh miệng nói:

- Có gì đâu, bài điểm báo ấy mà.

- Ðưa moa xem.

 

Anh Trường đưa ngay bài báo cho tôi và khoát tay ra hiệu cho nhân viên mình lui ra. Nội dung bài báo phê bình các tổng trưởng đã từ chức với lời lẽ nặng nề không thể chấp nhận được. Tôi còn nhớ rõ câu nói đó của ký giả lấy bút hiệu là Thanh Nghị viết : “Bọn trí thức miền Nam là một bọn hèn hạ, tham quyền cố vị, đã giả vờ từ chức để áp lực thiếu tướng chủ tịch ủy ban hành pháp trung ương rồi lại nài nỉ xin ở lại. Bọn đó chỉ đáng làm tôi tớ đi đổ ống nhổ cho nhà ông mà thôi chứ có xứng đáng gì mà ngồi ở ghế tổng, bộ trưởng!” Bài viết đăng trên một tờ báo do Tổng Nha Cảnh Sát Quốc Gia tài trợ. Tôi nóng bừng mặt, cơn giận sôi lên, tôi chụp ống điện thoại đường dây trắng trên bàn của Nguyễn Văn Trường, bên kia vọng nói ồ ề của Tướng Kỳ:

- Anh Trường đấy à?

- Không phải, tôi Triều đây?

- Việc gì mà phải hội họp nhau bên đấy?

- Không việc gì cả, nhưng tôi mới vừa đọc một bài báo tại văn phòng của anh Trường đây, thiếu tướng có xem bài báo đó chưa?

- Tôi đâu có thời giờ rỗi rảnh đâu mà xem những bài báo lăng nhăng trên những trang lá cải đó.

- Tờ lá cải này là của cảnh sát tài trợ, anh biết rõ hơn ai hết. Người ta chửi chúng tôi là bọn trí thức miền Nam hèn hạ, tôi đọc cho anh nghe đây.

 

Tôi dọc hết bài báo cho Tướng Kỳ nghe. Ông giận dữ phản ứng liền:

- Ð. M. thằng khốn kiếp, nó thọc gậy vào bánh xe của rồi. Toa yên trí, moa ra lệnh ngày mai đóng của ngay tờ báo và “nhúp” (bắt giam theo tiếng lóng) thằng ký giả này liền. Tụi toa không nên bực tức, hãy bỏ qua những chuyện lặt vặt đó do các thằng “ngất ngơ” phá hoại. Tụi mình làm việc với nhau chớ đâu có liên hệ gì với mấy thằng “ngất ngơ” đó? Moa còn ngồi đây là không thằng nào làm gì được các anh đâu.

- Tôi ghi nhận thiện chí và sự hiểu biết của anh. Nhưng đồng thời tôi cũng ghi nhận sự cố tình gây chia rẽ của bọn đàn em của anh. Những người vô ý thức đó có quyền hành hay ít nhứt cũng là dựa quyền ỷ thế vào anh. Vì vậy tốt hơn hết là anh coi như đơn từ chức của chúng tôi vẫn giữ nguyên giá trị, không có một sự nhún nhường thỏa thuận nào đã xảy ra cả. Chúng tôi cũng đoán trước được sẽ có chuyện bất ổn xảy ra trong tương lai nhưng tôi lại không ngờ nó đến mau như vậy.

- Toa lên phủ gặp moa liền đi.

- Vô ích thôi, tôi nghĩ chắc anh cũng hiểu rằng chúng ta không còn gì để bàn thảo với nhau nữa và cũng không còn gì để dàn xếp bởi vì cái nền tảng anh tạo dựng để nâng đỡ nội các chiến tranh của anh nó đã hư hỏng từ trong ruột, trong cốt rồi. Vậy chúng tôi chờ quyết định của anh để bàn giao chức vụ càng sớm càng tốt cho người kế nhiệm.

 

Liền sau đó anh Nguyễn Văn Trường cười nhẹ nhõm còn tôi thì thông báo cho năm anh em khác biết quyết định phải từ chức. Nguyễn Lưu Viên và Trương Văn Thuấn không phản đối tôi, và cũng không có y kiến vì họ đã có thỏa thuận trước với Tướng Kỳ là sẽ ở lại rồi. Tổng Trưởng Lao Ðộng Nguyễn Hữu Hùng thuận theo Nguyễn Lưu Viên ở lại vì hai người đã từng tham gia nội các của Trần Văn Hương. Việc từ chức này tôi thuật lại sự thật với lý do và chi tiết đầy đủ. Ða số những vị đồng ký tên trong đơn từ chức hiện còn sống và định cư tại Mỹ ngoại trừ ông Âu Trường Thanh đang sống ở Pháp.

 

Ngày hôm sau tôi vào Bộ Thanh Niên thông báo cho nhân viên văn phòng chuẩn bị bàn giao. Những anh chị em nào trong văn phòng muốn xin tái bổ nhiệm vào cơ quan nào của chính phủ, tôi sẵn lòng can thiệp cho được thỏa mãn.

 

Trưa hôm đó thủ tướng gọi tôi lên văn phòng của ông. Lại một cuộc đối thoại dài vô bổ và không có kết quả. Cuối cùng Tướng Kỳ đề nghị:

- Nếu toa cứ khăng khăng quyết định như vậy, thôi thì moa đề nghị toa nhận chức Ðại Sứ ở Luân Ðôn kiêm luôn Bruxelle, xứ Belgique nhỏ bé lân cận.

- Tôi không ngờ anh lại xem thường tôi đến thế. Tôi không phải là hạng người “được làm vua thua làm đại sứ” như tiếng đời mỉa mai và người ta thường thấy đã xẩy ra ở đất nước này. Anh sợ tôi còn ở lại Việt Nam là còn tạo sự bất mãn, khuyến khích sự chống đối anh chớ gì?

 

Tướng Kỳ lộ vẽ tức giận ra mặt nhưng ông cố giữ bình tĩnh cười mỉa mai, chấp tay ngồi dựa vào ghế bành, lắc lư đưa tới đưa lui, chậm rãi nói:

- Ðược rồi, chính phủ sẽ giao cho cậu một chức vụ vô cùng quan trọng, cách Saigon 15 cây số”.

 

Rồi ông phá lên cười.

 

Câu nói đó của Tướng Kỳ công khai ám chỉ ông sẽ cho tôi vào trường Võ Bị Thủ Ðức. Ðến lượt tôi nổi khùng, lớn tiếng thách thức ông đủ điều, khẳng định tôi biết trước sẽ phải thi hành quân dịch, điều mà tôi không sợ, không tránh, nên mới cãi lời cha anh, hồi hương từ Pháp trở về Việt Nam trong tuổi quân dịch. Ðáng lẽ ra tôi đã đi lính từ lâu rồi. Tôi không chủ trương trốn lính nên tôi mới từ chức. Tự ái bị chạm, cộng với tính nóng nải của tuổi thanh niên, tôi văng tục với thủ tướng, nhưng tình thân thiện và sự nể nang giữa hai chúng tôi không biến những lời lẽ hồ đồ của tôi thành sự mích lòng để vĩnh viễn đố kỵ nhau.

 

Cuối cùng tôi chia tay Tướng Kỳ bằng câu nói:

- Tình bạn giữa chúng ta tôi biết phân biệt và giữ trọn. Việc quốc gia anh và tôi có bất đồng trầm trọng do những vụ việc đã xảy ra. Dù sao tôi cũng cám ơn và kính phục anh đã dám mời tôi hợp tác dù tôi đã ra mặt chống đối anh từ khi gặp gỡ lần đầu.

 

Thiếu Tướng Kỳ không nói không rằng, cúi mặt dòm xuống đưa tay ra bắt tay tôi một cách buồn bã.Tôi tiếp tục giải quyết công việc thường xuyên của bộ nhưng không lấy một sáng kiến hay quyết định nào mới. Các vị đồng nghiệp khác chắc cũng làm như tôi. Trong khi đó thì Tướng Kỳ cứ kéo dài để tìm người thay thế, hoặc ông đã có sẵn giải pháp rồi mà còn hy vọng làm tiêu hao ý chí, cố tình chờ biết đâu sẽ có một vài người suy nghĩ lại. Tình trạng lưng chừng không thể làm việc một cách nghiêm chỉnh được, nên tôi quyết định viết một văn thư thông báo với thủ tướng là kể từ ngày mai tôi không vào bộ, không giải quyết công việc thường xuyên và cũng không chịu trách nhiệm về những việc của Bộ Thanh Niên nữa. Vài ngày sau thủ tướng bổ nhiệm Ðại Tá Hồ Văn Di Hinh vào chức vụ tổng trưởng thanh niên, Nguyễn Kiển Thiện Ân Tổng Trưởng Thương Mại, Bác Sĩ Nguyễn Văn Thơ Tổng Trưởng Giáo Dục, ông Nguyễn Xuân Phong Tổng Trưởng Xã Hội.


                   ------------------ Hết tập 1 ------------------------

Nguồn: http://motgoctroi.com/HoiKy/VolongTrieu/Hoiky_VLT.htm



Nhóm mạng Việt Nam Văn Hiến
Trang : Hồi Ký Võ Long Triều
www.vietnamvanhien.net
www.vietnamvanhien.org
www.vietnamvanhien.info
www.vietnamvanhien.com

Email: thuky@vietnamvanhien.net

"Bất chiến tự nhiên thành" chi kế
Văn Hiến ngàn năm sử đã đề
Phá tan giặc Cộng bằng Tâm lược
"Nhân Chủ (tự chủ) - An Vi (an lạc)" khai lối về


Trang mạng Việt Nam Văn Hiến là nơi bảo tồn di sản văn hóa của Việt tộc. Thắp sáng niềm tin Diên Hồng và nếp sống Văn Hiến hầu phục hồi nền "An Lạc & Tự Chủ" ngàn đời cuả Việt tộc.