Năm
Thứ 4889
www.vietnamvanhien.net
Trang Kinh Tế
Định
Nghĩa Kinh Tế Học
Harry M. Cleaver, Jr.
Nguyễn Lệ dịch
Kinh tế học là gì? Chúng ta có thể định nghĩa kinh
tế học như thế nào khi nói rằng nói có liên quan đến
cách mà các kinh tế gia nghiên cứu nền kinh tế và cố
gắng thay đổi nó? Để bắt đầu chúng ta có thể kiểm
tra nhiều cách khác nhau mà các nhà kinh tế định
nghĩa chung chung. Sau đó, tôi sẽ đưa ra tiêu chuẩn
của các định nghĩa đó và sự thay đổi của các định
nghĩa. Trước đây, các kinh tế gia đã định nghĩa kinh
tế học như một lĩnh vực nghiên cứu nhấn mạnh vào các
lĩnh vực xã hội mà ở đó của cải được tạo ra và phân
bổ. Những định nghĩa gần đây hơn đã coi kinh tế học
là việc nghiên cứu những chọn lựa chung và riêng có
liên quan đến phân phối các nguồn lực khan hiếm để
hoàn thành mục đích. Chúng ta cùng lần lượt xem xét
các định nghĩa này
Kinh Tế Học Là Nghiên Cứu Sản Xuất và Phân
Bổ
Sự tiếp cận định nghĩa kinh tế học đầu tiên nhấn
mạnh đến địa hình nhất định của hoạt động con người,
ví dụ như sản xuất và phân bổ của cải. Theo cách
hiểu này, kinh tế học phân tích mọi thứ mà diễn ra
trên các lĩnh vực. Vì theo thói quen, của cải được
xem dưới hình thức vật chất, lĩnh vực sản xuất
trước đây thường nói đến các nhà máy, hầm mỏ, nông
trại và các nơi khác, nơi mà nguyên vật liệu được
tạo ra. Cùng với sự gia tăng của các dịch vụ thị
trường như dịch vụ y tế, dịch vụ tài chính, hoặc đồ
ăn sẵn, lĩnh vực sản xuất được tái định nghĩa gồm
bệnh viện, ngân hàng, và cả McDonald. Nói một cách
khác, lĩnh vực sản xuất gồm tất cả các lĩnh vực mà
con người mang ra để sản xuất kể cả hàng hoá và dịch
vụ.
Vào các thế kỷ 18 và 19, mối quan tâm của sản xuất
và phân phối của cải gần như là chính trị. Nó đã
thắt chặt sự phát triển của quốc gia. Đó là lý do
Adam Smith (1723-1790) đã viết tác phẩm về đề tài
này gọi là Của Cải Của Các Quốc Gia. Ông
không phải là nhà quan sát học thuật duy nhất nhưng
lại là người quan tâm sâu sắc đến nhân tố làm tăng
thêm của cải của mảnh đất quê hương cũng như những
kinh tế gia ở bất kỳ nơi nào quan tâm.
Smith đã yêu cầu các nhà hoạch định chính sách chú
ý đến sự nhận thức của đồng tiền và mảnh đất như vai
trò chủ chốt trong việc tạo ra của cải. Trong một số
xã hội tiền tư bản như thổ dân trước thuộc địa ở Úc,
công việc chỉ chiếm một số lượng nhỏ thời gian, và
có nhiều thời gian cho các hoạt động khác. Mặt khác,
cái chúng ta gọi Xã Hội Tư Bản
lĩnh vực sản xuất đã chiếm đa phần đời sống con
người. Một trăm năm trước đây họ bị bắt làm việc 10
đến 14 giờ mỗi ngày, 6 hoặc 7 ngày trong tuần, và 50
đến 52 tuần trong năm. Thậm chí ngày nay hầu hết
chúng ta đều phải làm việc 8 tiếng/1 ngày, 5
ngày/tuần và 40-50 tuần/năm
Với giả định rằng việc làm quan trọng trong xã hội
tư bản, không còn gây ngạc nhiên cho những người mà
chúng ta hiện nay gọi kinh tế gia cổ điển (classical
economists) như Adam Smith và David Ricardo
(1771-1823) đã phát triển các công cụ phân tích kinh
tế dựa trên thuyết giá trị "lao động". Bằng thuyết
này, họ đã tìm kiếm nhằm phân tích sản xuất và phân
bổ dưới hình thức phân chia lao động và trao đổi
hàng hoá bao gồm cả lượng lao động. Vì nhiều lý do
khác nhau, các kinh tế gia đương thời và một số nhà
kinh tế chính trị học đã không tiếp tục thực hiện
các nghiên cứu này. Như chúng ta nhìn thấy, họ bắt
đầu bằng các thuyết lựa chọn.
Phạm vi phân phối gồm sự phân phối của hai thứ: của
cải mà các công nhân tạo ra vì sự tiêu dùng của con
người và của cải họ tạo ra vì sự sản xuất tương lai.
Trong nhiều xã hội có quy mô nhỏ thì sự phân phối
của cải tương đối đơn thuần. Những người sản xuất
tiêu thụ những cái tự họ sản xuất hoặc họ chung công
việc sản xuất của mình với những người khác theo
những nguyên tắc gia đình truyền thống. Trong nền
kinh tế tư bản như ở nước Mỹ thì phạm vi phân phối
được tổ chức chủ yếu thông qua thị trường. Điều đó
nói lên rằng, của cải do con người tạo ra do sự lao
động rồi được các nhà tư bản bán cho những người tạo
ra nó. Vì của cải chẳng bao giờ được phân bổ một
cách công bằng, vấn đề của sự phân bổ của cải - đó
là cái gì và tại sao lại có nó - là câu hỏi mà nhiều
kinh tế gia quan tâm.
Các nền kinh tế thị trường vận hành một cách rộng
rãi thông qua việc sử dụng tiền tệ và nhìn chung
được gọi là các nền kinh tế tiền tệ. Ví dụ, các công
nhân được trả lương ở thị trường lao động và chi
tiêu các khoản lương đó ở thị trường hàng hoá mà họ
sản xuất ra. Các nhà tư bản sử dụng tiền nhận được
trong việc thanh toán tiền hàng để trả tiền cho các
hoá đơn, gồm lương công nhân, và hoặc họ bỏ túi hoặc
đầu tư (có nghĩa thuê thêm công nhân hoặc mua thêm
máy móc với bất kỳ khoản lãi (lợi nhuận) còn lại.
Trong những tình huống như vậy thì tiền được sử dụng
như tiêu chuẩn giá cả và một trong những lĩnh vực
trọng tâm trong nền kinh tế là phân tích những nhân
tố ảnh hưởng tới giá cả.
Trong các xã hội như Cộng Hoà Xô Viết thì cuộc sống
của người dân cũng đã được tổ chức xung quanh công
việc và họ cũng đã phải sử dụng các đồng lương của
mình để mua hàng hoá và dịch vụ từ những người đã
làm việc. Tuy nhiên, kiểu tư bản hoá Xô Viết (mà
được gọi là "xã hội hoá" thì chính phủ trung ương
hành động theo dạng tư bản tập trung, vừa làm chủ và
giám sát tòan bộ việc sản xuất và phân phối (và đôi
khi đặt giá một cách trực tiếp hơn là cho phép họ
được xác định bởi cơ cấu thị trường).
Vai trò này của chính phủ thì hơi khác so với vai
trò của nước Mỹ; ở Mỹ vai trò của nhà nước thì không
bá đạo lắm và các công ty tư nhân được phép độc lập
hơn. Chính phủ ít khi tham gia vào việc đặt giá và
phân phối các nguồn lực một cách trực tiếp (dù việc
này được thực hiện trong một số trường hợp); nhưng
sử dụng quyền đánh thuế, chi tiêu và soạn thảo luật
nhiều hơn nhằm tạo ra một môi trường mà ở đó các
công ty tư nhân tổ chức việc sản xuất và phân phối.
Nhà nước sử dụng quyền lực thuế của mình và việc chi
tiêu nhằm khuyến khích và giảm khích các nghành khác
nhau vì vậy sẽ trực tiếp tạo ra mô hình phát triển
kinh tế.
Ở Hoa Kỳ và các nước xã hội chủ nghĩa có một số
phạm vi sản xuất và phân phối được tổ chức ngoài sự
sắp xếp của thị trường. Trong cả hai trường hợp có
sự sản xuất trong nước đáng kể mà không được phân
phối qua thị trường nhưng lại được phân phối trực
tiếp tới các thành viên trong gia đình. Ở Mỹ chính
phủ phân phối một số mặt hàng và dịch vụ tới người
dân một cách trực tiếp, ví dụ trợ cấp an sinh xã hội
và dịch vụ y tế công cộng. Ở các nước xã hội chủ
nghĩa thì sự phổ biến của những phân phối này lớn
hơn và gồm cả những thứ khác nhất là nhà tập thể.
Phạm vị phân phối cũng gồm việc phân phối các nguồn
tới các đơn vị sản xuất. Trước hết trong số " những
nguồn này" là khả năng của con người cho lao động, ở
đây là sản xuất một cách năng suất và có tính chất
sáng tạo. Trong nhiều hệ thống tư bản, như Hoa Kỳ
thì việc phân phối được thực hiện chủ yếu thông qua
thị trường. Hầu hết mọi người đều bị ép buộc vì họ
sở hữu ít đất đai và các công cụ tư bản để tự sản
xuất ra của cải của chính mình, nên đành bán công
lao động cho các công ty tư bản. Nhưng họ có một số
chọn lựa nơi làm việc và làm việc cho công ty nào. Ở
Xô Viết, chính phủ có quyền lực nhiều hơn trong việc
chỉ định việc làm và nơi làm (điều này thường bị
cường điệu hoá. Trong thực tế, các cá nhân cũng có
nhiều sự chọn lựa hơn các nhà bình luận ở Phương Tây
đã công nhận ra, hoặc mong muốn chấp nhận.)
Điều tương tự cũng đúng với các nguồn khác như
nguyên nhiên liệu, nhà máy và dụng cụ. Ở Mỹ, các
công ty bán các nguồn này cho nhau. Ở các nước xã
hội điều này cũng xuất hiện, nhưng chính phủ có
tiếng nói quan trọng hơn và giám sát khá chặt chẽ,
gần như là chỉ định cho công ty đó làm gì và có cái
gì.
Ngoài những phạm vi phân phối và sản xuất còn có
một phạm vi mà liên quan đến của cải xã hội: đó là
việc tiêu dùng. Tuy nhiên, rất gần đây thì phạm vi
tiêu dùng mới được coi như vấn đề phù hợp cho sự
nghiên cứu kinh tế. Các kinh tế gia tự giới hạn mình
vào phân tích hành vi tiêu dùng trên thị trường, vì
hành vi này tạo ra cung lao động và cầu hàng hoá và
dịch vụ và giúp xác định giá cả. Sự phân phối hàng
hoá trong nước hay cộng đồng từ lâu nhìn chung đã
được coi tốt hơn mà phù hợp với các lĩnh vực như vậy
như kinh tế học gia đình hoặc có lẽ xã hội
học và tâm lý học. Điều này chỉ thay đổi sau thời kỳ
hậu Chiến Tranh Thế Giới Thứ 2.
Kinh
Tế Học Là Nghiên Cứu Sự Phân Phối Các Nguồn Lực Khan
Hiếm
Mối quan tâm gần đây trong phạm vi tiêu dùng đã nảy
sinh từ việc viết lại định nghĩa kinh tế học nói
chung. Thay vì quan tâm đến những phạm vi cụ thể của
hoạt động con người (đây là sản xuất và phân phối)
các kinh tế gia tuyên bố chủ đề kinh tế trở thành
thuyết phân phối các nguồn lực khan hiếm trong số
những mục tiêu cần hoàn thiện. Sự định nghĩa này có
thể không chỉ gồm sự phân bổ các nhân tố sản xuất
trong phạm vi sản xuất hoặc sự phân phối của sản
phẩm, mà còn cả sự phân phối các nguồn lực trong gia
đình.
Có hai điều chủ chốt cho sự tiếp cận thứ hai của
việc định nghĩa kinh tế học. Điểm đầu tiên là tập
trung vào sự phân phối, hoặc chọn lựa trong số những
thay thế. Điểm thứ hai là nhấn mạnh vào sự khan
hiếm.
Thiên kiến với sự phân bổ trong nghành kinh tế học
có liên quan đến việc nhìn nhận kinh tế học một cách
thiết thực như Thuyết Chọn Lựa -- quá
trình hợp lý mà con người chọn những biến số. Vì
vậy, các kinh tế gia nghiên cứu xem các cá nhân, các
công ty va chính phủ chọn lựa phân phối nguồn lực
của họ như thế nào.
Trong trường hợp là những cá nhân, các kinh tế gia
nghiên cứu xem họ chọn như thế nào để phân phối thời
gian của họ giữa làm việc vì đồng lương và nghỉ
ngơi, họ chọn ra sao để phân phối giữa đồng lương
của họ trong nhiều các mặt hàng và dịch vụ mà họ có
thể mua được, và họ chọn như thế nào để phân phối
những mặt hàng đó trong gia đình họ. Trong hầu hết
các thuyết của sự chọn lựa cá nhân, người ta cho
rằng các cá nhân chọn lựa dưới ánh sáng của những
nhân tố mà họ không có ảnh hưởng gì cả, ví dụ như,
mức lương luôn như thế đối với họ, họ phải trả tiền
khi họ mua hàng hoá, và số tiền đó họ luôn có trong
tay, v.v.
Trong trường hợp là doanh nghiệp (nhìn chung bây
giờ thường gọi là công ty TNHH), các kinh tế gia lại
xem xét quyết định sản xuất mặt hàng nào, mua đầu
vào là gì để sản xuất các mặt hàng đó, và trong một
số trường hợp phải trả bao nhiêu tiền. Lại nữa,
người ta thường cho rằng các công ty phải đối mặt
với những giá đầu vào định sẵn, nhu cầu đã đưa ra
đối với các sản phẩm khác nhau và hàng loạt những
công nghệ sẵn có đã định trước.
Trong trường hợp là chính phủ, thì có hai lĩnh vực
kinh tế học mà nghiên cứu về chính sách kinh tế.
Kinh tế học vĩ mô (macro) tập trung vào hai thứ: thứ
nhất, cái được gọi là chính sách tài khoá (fiscal
policy) hoặc những quyết định về chi tiêu tích luỹ
và nguồn tài chính, đây là sự hỗn hợp của các khoản
thuế phải đóng và sự vay mượn; và thứ hai cũng liên
quan đến chính sách tiền tệ (monetary policy) của
chính phủ, đây là việc kiểm soát thông qua số lượng
tổng hợp của tiền lưu thông.
Lĩnh vực thứ hai của kinh tế học có liên quan đến
những chọn lựa của chính phủ được gọi là tài chính
công (public finance). Người ta thường quan tâm đến
việc phân tích chi về việc chính phủ chọn lựa như
thế nào để phân phối việc chi tiêu
của mình và chọn như thế nào để đánh thuế
và đi mượn tiền. Ví dụ, các kinh
tế gia tài chính công đặt ra các câu hỏi về sự ảnh
hưởng đến cấu trúc công nghiệp của mô hình chi tiêu
chính phủ định sẵn hoặc về sự ảnh hưởng của chính
sách thuế đến sự phân phối của cải định sẵn.
Trong tất cả những trường hợp này chúng ta có thể
thấy nghiên cứu sự chọn lựa nhằm đưa ra
bài học hữu ích trong việc hoạch định chính sách,
việc quản lý các khía cạnh khác nhau của "nền kinh
tế", nơi mà các doanh nghiệp, các cá nhân và chính
phủ tham gia vào.
Khi các kinh tế gia nghĩ về quá trình chọn lựa
trong số những biến số thay thế, họ thường cho rằng
những gì họ gọi là "tính hợp lý" (rationality) là
một phần của quyết định. Theo tính hợp lý, ý họ là
những người đang tiến hành chọn lựa có thể sắp xếp
được sở thích của họ (đây là họ biết thích chọn A
rồi chọn B hoặc ngược lại hoặc không khác biệt giữa
hai sự chọn lựa). Điều này cũng ngụ ý rằng những
người quyết định hiểu sự dánh đổi
(trade-offs) liên quan giữa A với B và ngượi lại.
Bằng sự đánh đổi các kinh tế gia muốn nói những mất
mát người chọn lựa phải bỏ khi lấy A thay vì B.
Những gì họ từ bỏ để khỏi chọn B thì các kinh tế gia
gọi là "chi phí cơ hội" (opportunity cost).
Hiện nay, chúng ta phải để ý trong những phân tích
chọn lựa này, các kinh tế gia khẳng định rằng việc
quyết định là do cá nhân hoặc các nhóm hoạt động
dưới hình thức cá nhân. Có rất ít phân tích về những
quá trình thực tế thông qua việc những nhóm này đưa
ra quyết định. Đó là một chủ đề mà các kinh tế gia
bỏ rơi, giao lại cho các nhà quản lý học và các nhà
xã hội học (trong trường hợp các công ty) hoặc cho
các nhà khoa học chính trị (trong trường hợp các
chính phủ). Vì vậy, có sự thiên vị trong kinh tế học
đương thời để phân tích chọn lựa dưới hình thức lựa
chọn cá nhân.
Trọng điểm thứ hai của những định nghĩa đương thời
nhất của kinh tế học là sự khan hiếm.
Người ra quyết định phải chọn một trong các nguồn
khan hiếm. Hầu hết các kinh tế gia coi khái niệm
khan hiếm là khá nhạy cảm và rõ ràng. Theo định
nghĩa, đó không phải sự khan hiếm vô hạn. Các cá
nhân phải quyết định cách phân bổ đồng tiền vì họ bị
giới hạn bởi đồng lượng kiếm được. Các công ty phải
tính toán kỹ càng vay và đầu tư như thế nào để tránh
lãng phí vì họ chỉ có một số tiền nhất định. Nếu
không có sự khan hiếm, nếu mọi cái đều vô hạn thì sẽ
không có những lựa chọn, và mọi người sẽ có nhiều
thứ như mong muốn. Các nhà kinh tế chưa bao giờ cảm
thấy chán khi nói rằng sự khan hiếm là "sự thực cơ
bản của cuộc sống"1. Khi chúng ta sẽ thấy, mọi
thứ sẽ không đơn giản như vậy!!!
Quan điểm về sự khan hiếm thì rất gần với khái niệm
"chi phí cơ hội" đã được bàn ở phần trên. Người ta
chỉ quan tâm đến cái mà người ta từ bỏ, nếu từ bỏ là
cần thiết. Nếu các nhiều thứ đều vô hạn thì bạn có
thể có mọi thứ và sẽ không có sự đánh đổi. Một ví dụ
chung nhất đó là phân bổ các nguồn lực trong số các
khu vực sản xuất khác nhau. Nếu các nguồn có hạn
(tức là khan hiếm) thì bằng cách sử dụng chúng để
sản xuất một thứ thì bạn sẽ có ít hơn đầu vào để sản
xuất một thứ khác.
Chiến Tranh Lạnh minh họa cho mối quan hệ này, và
ngày nay vẫn còn liên quan là "những khẩu súng và bơ
sữa". Bạn càng cống hiến nhiều nguồn để sản xuất lực
lượng vũ trang, bạn càng để lại ít hơn những nguồn
lực để sản xuất thức ăn và những thứ cần thiết khác
cho cuộc sống. Bạn càng cống hiến nhiều nguồn lực
cho xây dựng chính trị và xây dựng nhà tù thì bạn
càng có ít cái để lại cho giáo dục, đào tạo nghề
nghiệp, chăm sóc con cái, các trung tâm giảm nghèo
và chỉ dẫn nghề nghiệp.
Đây là những vấn đề mà kinh tế gia quan tâm, người
mà định nghĩa kinh tế học là sự phân bổ các nguồn
khan hiếm trong số những sự chọn lựa khác. Vì trọng
tâm sự chọn lựa hơn là vào những
lĩnh vực cụ thể của cuộc sống nên định nghĩa kinh tế
học này dẫn đến một số lĩnh vực mới được coi là trò
chơi công bằng cho phân tích kinh tế học. Phạm vi
như vậy chúng ta đã đề cập rồi: đó là phạm vi tiêu
dùng. Một phạm vi khác có lẽ không rõ ràng lắm đó là
chiến tranh. Những dụng cụ của phân tích kinh tế học
được mang ra để bàn về vấn đề chọn nơi (nghĩa là mục
tiêu nào) để phân bổ nguồn lực khan hiếm (các đội
quân, các quả bomb, dầu và...). Không ngạc nhiên
thay một số kinh tế gia nổi tiếng nhất của giai đoạn
sau chiến tranh thế giới thứ hai đã được thuê trong
chiến tranh dể giúp đưa ra những quyết định như vậy.
Kinh
Tế Học Có Phải Là Môn Khoa Học Không?
Các học thuyết kinh tế đã trải qua nhiều thời gian,
và lịch sử của cuộc cách mạng đó là một trong những
khía cạnh hay của việc nghiên cứu kinh tế học. Các
học thuyết không tự nhiên có hay chúng rơi từ trên
trời xuống. Chúng được phát triển do con người thực,
với những mục đích cụ thể trong những tình huống cụ
thể. Sự hiểu biết về các mối quan hệ trong các học
thuyết kinh tế, những người đặt ra công thức cho
chúng và môi trường kinh tế chính trị trong những
cái học đã sống và nghĩ thì đều cuốn hút và cần
thiết đối với sự hiểu biết về kinh tế học.
Vì vậy, bất chấp sự tự phụ (kỳ vọng) của một số
kinh tế gia đối với chân lý chung, các học thuyết
luôn mang tính chất lịch sử cụ thể. Trong hai thế kỷ
đầu (thế kỷ 18 và 19) các kinh tế gia được biết là
nền kinh tế chính trị. Chủ đề chính đã chỉ ra được
sự nhận thức về cách thức mà các kinh tế gia và thế
giới thực của chính trị được gắn kết lại. Tổ chức và
sự hoạt động của nền kinh tế được nhận biết là vấn
đề chính trị căn bản. Không chỉ các nhà kinh tế
chính trị nghiên cứu chính trị của nền kinh tế mà cả
những nhà bình luận về chính phủ và chính trị cũng
rất thành thạo về kinh tế học.
Ngày nay, loại trừ một vài tâm hồn nhân đạo, các
kinh tế gia có xu hướng chủ đạo thường tham gia vào
hoạch định chính sách hoặc những phê phán cực đoan
-- các kinh tế gia đã lọai bỏ từ "kinh tế chính trị"
và họ thích cái tên "kinh tế học" trung tính hơn.
Cùng với sự thay đổi về chủ đề dẫn theo sự thay đổi
cả về hình ảnh. Ngày nay, người ta coi kinh tế học
là "môn khoa học" xã hội -- tiếng Pháp gọi là
"science economique". Một số kinh tế gia nổi tiếng
như Paul Samuelson thậm chí còn gọi kinh tế học là
"nữ hoàng của khoa học xã hội"2.
Đối với nhiều kinh tế gia thì việc nhấn mạnh mặt
"khoa học" cực kỳ quan trọng (vì nó cũng quan trọng
đối với nhiều nhà khoa học xã hội khác như các nhà
xã hội học hoặc các nhà khoa học chính trị). Một số
các kinh tế gia như kinh tế gia bảo thủ Milton
Freedman đi rất xa nhằm tuyên bố rằng trong kinh tế
học tân thời là khoa học "tự do giá trị"3, hoặc khoa học "tích cực".
Đối với nhiều người trong số chúng ta, tuy nhiên,
điều này chỉ là khoa trương và vô nghĩa về tư tưởng.
Nó là cố gắng không thoả đáng để mô phỏng cái mà
được gọi là khoa học gian khổ như hoá học hoặc vật
lý mà giả vờ bảo vệ những đánh giá về giá trị hoặc
tính chủ quan. Không đi quá sâu vào các vấn đề của
tâm lý học, hãy chỉ để tôi nói rằng có lý do khả dĩ
để phản đối những yêu cầu này của các nhà hành nghề
khoa học.
Một Số Tiêu Chuẩn Của
Hai Định Nghĩa
Định nghĩa đầu tiên đã được nói ở phần trên -- định
nghĩa này nói kinh tế học là nghiên cứu các phạm vi
của sản xuất và phân bổ có một ưu điểm chính. Nó
nhấn mạnh vào hoạt động trung tâm thông qua việc
doanh nghiệp tổ chức xã hội : đó là công việc. Trong
số các kinh tế gia cổ điển những người đã đưa ra một
số khác biệt của định nghĩa này thì việc phân tích
quá trình công việc là trung tâm đối với suy nghĩ về
kinh tế học.
Một trong những nổi tiếng nhất và sớm nhất là sự
phân tích của Adam Smith là sự phân công lao động.
Trường hợp ông nghiên cứu và từ cái ông đã đưa ra
nhiều kết luận quan trọng đó là nhà máy sản xuất
ghim. Ở đây ông quan sát cách các nhiệm vụ kỹ thuật
được phân chia và tổ chức và kết luận rằng đó là
điều chủ chốt trong năng suất lao động, cách này là
cách thuận lợi đã có được từ hoạt động chuyên biệt.
Từ sự quan sát này ông và những người khác như David
Ricardo đã tiếp tục đưa ra nhiều hình ảnh về kinh tế
học ở tất cả các mức như: giá sàn, kinh tế quốc dân
và thương mại quốc tế.
Sau đó, Karl Max (sinh năm 1818, mất 1883), nhà phê
bình cách mạng tác phẩm của Smith và Ricardo, thậm
chí đã đi sâu hơn vào sự phân tích sản xuất. Ông
tiếp tục sử dụng thuyết giá trị lao động như là công
cụ phân tích tổ chức tư bản trong cuộc sống bao
quanh lao động nhưng dần dần đã đưa ra những kết
luận khác nhau. Ông đã phát triển một thuyết về cách
doanh nghiệp khai thác con người như thế nào qua lao
động của họ, và kêu gọi sự tiêu huỷ xã hội tư bản vì
lý do sự lệ thuộc công việc.
Định nghĩa thứ hai của kinh tế học cùng với mối
quan tâm với việc ra quyết định (chọn lựa) và những
điều kiện của việc quyết định (sự khan hiếm) loại bỏ
phạm vi sản xuất cho các lĩnh vực khác;
định nghĩa này, kinh tế học bỏ qua phạm vi sản xuất
mà chính nó là vị trí trung tâm trong xã hội tư bản.
Khi bạn xem xét nền kinh tế học vi mô (mirco) đương
thời, nó đã dựa vào học thuyết của sự chọn lựa chính
yếu, bạn sẽ thấy rằng các phân tích về công việc rất
là hời hợt. Công việc hay lao động dường như chỉ là
một nhân tố sản xuất, đầu vào trong quá trình sản
xuất. Chúng chỉ đưa ra cái chúng ta gọi là "các chức
năng sản xuất" (factor of production) của công thức
Q=f (K,L), trong đó đầu ra (Q) là một hàm toán học
của tiền vốn vào (K) và lao động (L). Mối quan tâm
cơ bản của nền kinh tế học vi mô trong sản xuất là
những doanh nghiệp chọn lựa, tiến hành chọn lựa sự
kết hợp vốn và lao động như thế nào trong quá trình
sản xuất. NHƯNG, không có sự phân tích thực tế hoặc
xem xét về những quá trình như vậy. Thay vào đó,
kinh tế học vi mô đương thời nhường lại những phân
tích của quá trình sản xuất cho các lĩnh vực khác.
Nền kinh tế học vi mô đã để lại phân tích công nghệ
cho các kỹ sư và các nhà khoa học và việc nghiên cứu
các mối quan hệ chính trị xã hội trên sàn doanh
nghiệp cho các nhà xã hội học công nghiệp và các nhà
tâm lý học. Để làm được như vậy, nền kinh tế học vi
mô đã thôi không nghiên cứu toàn bộ các hoạt động,
mà những hoạt động này thường được xem như một phần
của nền kinh tế học và như tôi quan tâm, nó nên là
một phần của nền kinh tế học.
Việc từ bỏ "học thuyết giá trị lao động" kiên định
với sự xuống cấp của phạm vi sản xuất từ điểm chủ
chốt trong phân tích kinh tế. Nếu sản xuất không
được coi là phạm vị trọng yếu của hoạt động kinh tế,
thì tại sao vẫn còn học thuyết rằng coi lao động
trong sản xuất là thước đo giá trị? Vì định nghĩa
của kinh tế học và các mục tiêu của nghiên cứu kinh
tế đã thay đổi từ việc sản xuất đến việc lựa chọn,
nên mối quan tâm chính là thị trường và định giá cả.
Quả thật, nền kinh tế học vi mô thường được gọi là
"học thuyết giá cả" vì nó hoàn toàn quan tâm đến sự
định giá thông qua mối tương quan của cung và cầu.
Thuyết cầu dựa trên các thuyết chọn lựa tiêu dùng và
các công ty chọn đầu vào như thế nào. Thuyết cung là
thuyết chi phí (đầu vào tính giá cả) hơn là thuyết
sản xuất. Và cả cung và cầu đều định giá ở nhiều thị
trường.
Thuyết giá đã chế ngự nền kinh tế từ lâu. Không
phải đến tận khi công trình của John Maynard Keynes
(1883-1946) và các học trò của ông đã làm cho mối
quan tâm về sản xuất và đầu ra cổ điển đã sống lại
mà thuật ngữ kinh tế học vĩ mô đã hình thành và sự
nghiên cứu sản xuất đã được đặt ở vị trí quan trọng
trong nền kinh tế học. Tuy nhiên thậm chí các kinh
tế gia theo Keynes như họ được gọi như vậy chỉ quan
tâm đến tổng sản xuất, tổng sản lượng của xã hội. Họ
không quan tâm đến việc kiểm tra các quá trình sản
xuất cụ thể. Thậm chí khi các kinh tế gia theo
Keynes quan tâm đến tổng sản lượng, hoặc tổng cung,
đều dẫn đến các thuyết tăng trưởng (khi chúng ta xem
ở chương 2), những học thuyết đó được đưa ra một
cách cơ bản dưới hình thức các mô hình toán học và
họ cũng tránh giải quyết bất kỳ những phân tích lao
động chi tiết nào.
Vấn đề thứ hai với học thuyết đương thời là "sự
khan hiếm" như một thuyết đã được định sẵn, luôn tồn
tại; thuyết này bỏ qua việc xây dựng sự khan hiếm có
tính chất lịch sử. Bên trên bạn có thể chú ý cách
dùng từ của tôi "những xã hội nguyên thuỷ" nơi mà
con người đã làm, và trong một số trường hợp họ vẫn
làm, dù họ làm rất ít. Nhà nhân loại học Marshall
Shahlins đã nghiên cứu những xã hội như vậy và gọi
những xã hội đó là "những xã hội thịnh vượng căn
nguyên". Ông gọi các xã hội đó như vậy không phải vì
những xã hội đó dư thừa tất cả những thứ chúng ta
làm ra, mà vì những gì con người mong muốn và cần
rất ít, cho nên họ không cần làm việc nhiều. Với
định nghĩa tầm thường về sự khan hiếm là "hạn chế",
loại định nghĩa duy nhất mà có thể hiểu là dưới hình
thức mối quan hệ giữa dục vọng và những phương tiện
làm thoả mãn con người. Nếu mọi thoả mãn đều giới
hạn tính trên số lượng thực phẩm, nơi ăn, chổ ở,
sách báo, giống như cách sống của các thầy tù hoặc
một số các bộ tộc trên hoang mạc, thì thoả mãn những
dục vọng đó rất dễ dàng và không cần phải làm việc
nhiều. Nếu mọi người mong muốn tăng trưởng, và tăng
trưởng bất kỳ cái gì sẵn có một cách dễ dàng thì
càng phải làm nhiều công việc cần thiết để thoả mãn
họ. Khi chúng ta xem chương tiếp theo về "sự tăng
trưởng" thì một trong những phản đối cơ bản đối với
sự tăng trưởng không có chừng mực là một cận sản
phẩm của mong muốn tăng thêm một cách nhân tạo, đây
là việc chuyển mong muốn thành những thứ mà các
doanh nghiệp mơ ước bán được thông qua quảng cáo,
thay vì phát triển dục vọng một cách lành mạnh -
những thứ mà không cần sản xuất mới có như mối quan
hệ cá nhân tốt đẹp hơn, tự hiểu hơn, hoặc sự hài hoá
hơn với thiên nhiên, vân vân...
(TQ hiệu đính: đoạn văn trên đề cập cô động sự quan
hệ giữa kinh tế học, tâm lý học và học vấn tôn giáo.
Kinh tế học giả định rằng (1) dục vọng và mong muốn
vô hạn và (2) vì phải thỏa mản các dục vọng vô hạn
đó (3) vật chất trên trái đất là khan hiếm. Ví dụ,
lòng tham vô đáy: có xe đạp thì muốn có xe máy, khi
có xe máy thì muốn có xe tay ga, khi có xe tay ga
thì muốn có xe hơi, khi có xe hơi thì muốn có trực
thăng riêng, khi có trực thăng riêng thì muốn có máy
bay riêng, v.v… Vì lẽ đó, kinh tế học là học cách
chọn lựa với hiệu quả kinh tế: với vật chất khan
hiếm, làm cách nào để thỏa mãn càng nhiều dục vọng
càng tốt. Ngược với kinh tế học là học vấn tôn giáo:
với vật chất trên trái đất giới hạn, nếu con người
tiết dục hay diệt dục (Phật Giáo) hay sống khổ hạnh
(Thiên Chúa Giáo), thì vật chất khan hiếm trở nên dư
thừa. Vậy khan hiếm hay dư thừa, nó là mức đo giữa
vật chất với dục vọng của lòai người. Tâm Lý Học
nghiên cứu tới vấn đề phi vật chất như tình cảm, sự
hài hòa giữa người và người, hay người và thiên
nhiên. Có những dục vọng hay mong muốn để thỏa mản
mà không cần đến vật chất, như hòa bình và sự thanh
bình. Và đây là điểm mà Tâm Lý Học và Tôn Giáo học
giống nhau!!!).
Bây giờ phải nói rằng mặc dù kinh tế học đã dựa
trên học thuyết chọn lựa như nó bỏ qua những khía
cạnh quan trọng của sản xuất, như như tôi đã đưa ra,
nhưng nó có giải quyết khía cạnh tiêu dùng một điều
mà chưa nói đến một cách rộng rãi ở định nghĩa đầu
tiên. Không chỉ các kinh tế gia cổ điển bỏ qua khía
cạnh này nhiều như vậy mà còn cả nhà phê bình Karl
Max đã không nghiên cứu sự tiêu dùng một cách nghiêm
túc.
Có thể những lý do tại sao kinh tế học đương thời
đã chuyển hướng sang khía cạnh này cơ bản là do lịch
sử. Vào những thế kỷ 18 và 19 khi con người bị giai
cấp tư sản có uy lực về chính trị áp bức làm việc 12
hoặc 14 tiếng đồng hồ hoặc nhiều hơn thế trong một
ngày, 7 ngày trong một tuần, với những đồng lương
rất ít ỏi, thực sự không nói nhiều về sự tiêu dùng
vì không có nhiều để nói, trừ những người giàu.
Nhưng ở thế kỷ 20 khi cuộc đấu tranh của những người
công nhân đòi giảm giờ làm việc và đòi tăng lương,
và có nhiều của cải vật chất xã hội và phạm vi tiêu
dùng đã được mở rộng một cách đáng kể. Tôi nghĩ rất
hợp lý khi nói rằng kinh tế học một phần nào đó đã
chuyển hướng nghiên cứu mức tiêu dùng vì những thay
đổi này.
Trong nền kinh tế học vĩ mô do Keynes thực hiện bạn
sẽ thấy rằng việc phân tích mức tiêu dùng, ít nhất
là ở tổng số, đóng một vai trò quan trọng như tổng
sản xuất. Trong nền kinh tế học vi mô thì học thuyết
của hành vi người tiêu dùng thường là chủ đề đầu
tiên được nghiên cứu và được phác hoạ nhằm giải
thích kết cấu và những thay đổi trong kết cấu của
cầu tiêu dùng. Tôi cho rằng mức tiêu dùng chiếm một
vị trí quan trọng trong những lĩnh vực kinh tế học
vì những thành công của các công nhân trong việc mở
rộng phạm vi tiêu dùng đã buộc các kinh tế gia
nghiên cứu vấn đề đó. Doanh nghiệp cần hiểu cầu tiêu
dùng để tính toán được cách sử dụng cầu đó (nghĩa là
bán hàng hoá) và nhằm tăng lên hoặc điều khiển cầu
tiêu dùng (bằng việc quảng cáo).
Sự phát triển gần đây của phân tích kinh tế học vi
mô về những chọn lựa kinh tế trong gia đình đã phát
triển một cách đồng bộ ngoài mối bận tâm lịch sử cụ
thể . Vào đầu những năm 1960 các kinh tế gia đã tin
rằng nhiều sự tăng trưởng kinh tế của thập kỷ trước
là do tăng chất lượng lao động con người. Vì vậy họ
kết luận rằng để thúc đẩy sự tăng trưởng trong tương
lai thì cần tiến hành đầu tư vào tái sản xuất lực
lượng lao động. Cần đầu tư tiền vào giáo dục, chăm
sóc sức khoẻ, phúc lợi xã hội... Nhưng để phân bổ sự
đầu tư đó một cách thông minh họ cần hiểu các cá
nhân và các gia đình phải tự quyết định như thế nào
về các vấn đề kinh tế học. Vì vậy, kinh tế gia Gary
S. Becker (sinh năm 1930) và Theodore W. Schultz
(sinh năm, 1902) và những người khác đã bắt đầu phát
triển những học thuyết về nguồn nhân lực (theories
of human capital). Họ đã thực hiện công việc này
bằng cách áp dụng các công cụ của học thuyết chọn
lựa kinh tế học vi mô cho gia đình.
Cho đến nay, tôi đã đưa ra hai tiêu chuẩn của hai
định nghĩa và những tiếp cận kinh tế học mà những
tiêu chuẩn đó nắm giữ. Đầu tiên, chú tâm vào chọn
lựa có xu thế bỏ qua nhiều khía cạnh của sản xuất mà
đáng chú ý hơn. Thứ hai, định nghĩa trước đây chỉ
tập trung vào sản xuất đã có xu hướng bỏ qua phạm vi
tiêu dùng -- một phạm vi mà ngày nay đáng quan tâm
nhiều hơn.
Trong cả hai trường hợp chúng ta đều có một vấn đề
vì "kinh tế học" như là một "nền kinh tế" thì định
nghĩa này quá hẹp. Nhưng đây không chỉ là một vấn để
của kinh tế học. Đó là vấn đề mà tái diễn ở mỗi lĩnh
vực của kiến thức. Khi chúng ta kiểm tra xã hội học,
nhân loại học, tâm lý học hoặc khoa học xã hội chúng
ta đều nhận thấy sự khó khăn tương tự.
Vấn đề bắt nguồn từ sự sáng tạo và giữ gìn phân
công lao động trong những lý thuyết suông. Các nhà
khoa học xã hội đã tạo ra chuyên nghiệp trong những
lĩnh vực giống như các nhà khoa học đã làm. Nơi mà
các nhà khoa học phân chia lao động trong việc
nghiên cứu cái gọi là thế giới tự nhiên, các nhà
khoa học xã hội cũng đưa ra sự phân chia về lao động
trong việc nghiên cứu xã hội loài người. Về mặt này,
đây là một cách hợp lý để thực hiện. Đơn giản rằng,
mỗi cá nhân không thể nghiên cứu mọi thứ. Mặt khác,
sự hạn hẹp của những phân chia này liên tục dẫn các
nhà thực hành trong một lĩnh vực bỏ qua những điều
mà những người khác cho là quan trọng.
Một cách là xác định lại vấn để cốt lõi của nghề
nghiệp, ví dụ trong nền kinh tế học phạm vi tiêu
dùng được bổ sung cho sản xuất và phân bổ.
Một cách khác, và mỗi một sinh viên kinh tế nên
quan tâm, là quen thuộc với các phương thức và
nghiên cứu nghành khoa học xã hội khác. Nếu bạn tự
giáo dục mình bằng một phương thức đa nguyên thì bạn
có khả năng nghiên cứu bất kỳ một vấn đề cụ thể nào
mà làm bạn quan tâm, tất cả các công việc mà đã được
thực hiện không giới hạn bởi liệu đó có phải là
"lĩnh vực "của bạn không? Nền giáo dục như vậy tạo
ra một chủ nghĩa hoài nghi lành mạnh về những hạn
chế cho bất kỳ môn học nào, bất chấp định nghĩa gì.
Quả thật, thuật ngữ "môn học" có thể khích thích dục
vọng đấu tranh chống lại những hạn chế chuyên quyền
độc đoán về nghiên cứu và kiến thức của môn học. Khi
bạn hiểu rõ những gì bạn quan tâm, những gì bạn muốn
nghiên cứu và hành động như thế nào, thì chọn "lĩnh
vực" nào không còn là vấn đề.
Ví dụ, giả sử bạn đồng ý với các kinh tế gia cổ
điển và Karl Marx rằng công việc là hoạt động quan
trọng trong xã hội tư bản và bạn quan tâm tại sao và
làm thế nào mà sự trọng tâm đó lại xảy ra. Bạn có
thể nhận thấy nó thật hữu ích khi nghiên cứu không
chỉ những gì những kinh tế gia phải nói về công việc
mà những nhà khoa học xã hội khác, các nhà lịch sử
học và thậm chí các nhà khoa học tự nhiên và các kỹ
sư phải nói gì về công việc. Nói một cách khác, sự
nghiên cứu và hành động của bạn được dẫn bởi sở
thích của bạn như một thành viên trong xã hội, chứ
không phải điều lệ nghề nghiệp định sẵn nào đó. Cách
mà các học viện, doanh nghiệp và chính phủ tổ chức,
bạn cần có một bằng cấp chuyên môn để có được một
công việc, nhưng không cần cho phép hạn chế sự tò mò
của bạn hoặc sự nghiên cứu của bạn bởi tấm bằng
chuyên môn hay nghành nghề của mình.
Những ngụ ý của những bình luận này là không cần
phí thêm thời gian tìm ra định nghĩa "hợp lý" hoặc
thậm chí " tốt nhất" của kinh tế. Chúng ta có thể
kết thúc ở chổ chúng ta bắt đầu, với cách hiểu rằng
kinh tế học là những gì các kinh
tế gia làm và những gì họ làm là để
nghiên cứu những gì họ gọi là nền kinh tế, tuy nhiên
để xác định được cách quản lý nó. Những gì chúng ta
cần làm, bất kỳ lĩnh vực gì, là nhận thấy và theo
đuổi những khía cạnh của cuộc sống mà chúng ta quan
tâm nhất, hoặc những gì cần được thay đổi hoặc những
gì chúng ta muốn phát triển. Thì trên cơ sở những gì
chúng ta học, chúng ta có thể quyết định được cách
tiến hành để đạt được mục tiêu của chúng ta.
2"the queen of the social
sciences"
Copyright (c) 2006 by kinhtehoc.com
Thuyết
Tân Cổ Điển Và Cải Cách Cận Biên
từ kinh tế chính trị đến khoa học kinh tế
Harry M. Cleaver, Jr.
Dịch Viên: Nhân
Thụy
Jevons và Lợi Ích
Biên Tiệm Giảm
Trong khi Cournot nghiên cứu những đường cầu mà
không cần đến thuyết vị lợi, thì William
Stanley Jevons (1835-1882) ứng dụng
những lập luận "biên tế" vào thuyết đó. Cha của
Jevons là thương nhân ngành sắt, và từng nghiên
cứu hoá học tại trường đại học, Jevons bắt đầu chú
tâm đến kinh tế học vì nhiều lý do: khi quan sát
những người nghèo, hay khi xảy ra vụ nổ đường sắt
năm 1847 làm cha ông khánh kiệt, và khi ông có
nhiều kinh nghiệm lúc làm ở Sở Đúc Tiền tại Úc.
Phần lớn ông tự học môn kinh tế học, trước khi ông
tốt nghiệp, ông có viết bài về Thuyết Toán
Học Tổng Quát Về Kinh Tế Chính Trị, ông đã
trình bài viết này đến Hội Đồng Phát Triển Khoa
Học Anh vào năm 1862.
Giống như Cournot, Jevons nhận ra rằng đề xuất
của mình về "Thuyết Toán Học Tổng Quát" là một
xuất phát từ thực tiễn chung của những nhà kinh tế
chính trị học và đề xuất này cần phải có phần giải
thích cụ thể và phải đưa ra được những dự báo
trước. Trong bài luận trước đó, ông viết: "Tuy
nhiên tôi không cho rằng do nền kinh tế đang ứng
dụng những hình thức toán học nên làm cho việc
tính toán các vấn đề trở nên khắc khe nghiêm ngặc.
Những nguyên lý toán học có thể mang tính chính
thống và kiên định, trong khi đó những dữ liệu
riêng biệt của nó một số vẫn còn chưa chính xác."
Sau này, khi giải thích, Jevons thêm vào: "Dĩ
nhiên những phương trình được nói đến ở đây chỉ
đơn thuần là lý thuyết mà thôi. Đối với những quy
luật phức tạp như thế cũng giống như những quy
luật kinh tế, ta không thể truy nguyên một cách
chính xác trong từng trường hợp. […] Chúng ta phải
hiểu là những hình thức quy luật này là đã hoàn
thiện và mang tính chất phức tạp; trong thực tế,
chúng ta nên tạm bằng lòng với những quy luật mang
tính gần đúng và thực nghiệm." Trong chương cuối
"Nhận xét chung" sách của Jevons, ngoài những tình
huống quan sát theo phương pháp luận, ông còn lên
án mạnh mẽ đối với những đoạn văn của Karl Marx -
"những ảnh hưởng xấu từ phía chính quyền", trong
đó công kích một số nhà kinh tế học có những tư
tưởng giáo điều thiên về một bên nào đó mà lại đi
phê bình những tư tưởng đã được công nhận. Trong
thời của ông, tín ngưỡng mà ông đang xem xét là
"trường phái Ricardian chính thống", nhưng việc mà
ông ta kêu gọi phản biện lại nó có theo nhằm mục
đích thu hẹp lại "thuyết về mức giá theo trường
phái tân cổ điển" mà thuyết này một phần ông có
công sáng lập ra, hoặc giả thu hẹp lại "thuyết
tổng hợp tân cổ điển" sau này trong giai đoạn đại
nhị thế chiến, hoặc giả hạn chế sự quá tin vào thị
trường của những nhà kinh tế học theo trường phái
tân tự do.
Trong bài luận "Thuyết Toán Học Tổng Quát",
Jevons cũng tự đặt mình vào trong trường hợp của
những người theo thuyết vị lợi, ông có đưa ra hai
nhận định sau: thứ nhất: "một học thuyết kinh tế
thật sự là một học thuyết xuất phát từ chính những
động cơ hành động của con người -- những cảm giác
vui suớng cũng như đau đớn." (Jevons cố gắng viết
lại nghiên cứu của Bentham về những loại cảm giác
vui sướng hay đau đớn dưới dạng những thuật ngữ
toán học: "Như nhiều tác giả khác đã nhắc đến
trước đây, cảm giác có hai loại (hai chiều hướng),
cường độ và thời gian. Một cảm giác vui sướng hay
đau đớn có thể yếu hay mãnh liệt […] nó cũng có
thể tồn tại trong một khoảng thời gian ngắn hay
dài. […] Do đó nếu khoảng thời gian tồn tại của
cảm giác được thể hiện bằng đường cong nằm trong
hệ toạ độ Đề-Các, thì cường độ của cảm giác sẽ là
tung độ, và số lượng của cảm giác sẽ là phần diện
tích nằm trong trục toạ độ đó.")
Và nhận định thứ hai của ông là: "phần thứ hai
của thuyết này xuất phát từ cảm giác đối với những
vật thể đem lại lợi ích hay cảm giác đối với độ
dụng (cảm giác khi có được lợi ích) mà thông qua
đó cảm giác vui sướng được gia tăng và cảm giác
đau đớn mất đi. Một vật thể được xem là đem lại
lợi ích khi vật thể đó trong lúc đó có tác động
tốt đến giác quan của con người, hay khi người đó
có thể thấy trước rằng vật đó trong tương lai sẽ
mang đến lợi ích".
Nhưng đối với những gì ông viết trong thuyết này
- và những gì khiến ông trở thành một trong những
người sáng lập ra môn kinh tế học tân cổ điển --
đều nằm trong những đoạn văn sau:
"8. Mức độ dụng (mức độ được lợi) tương đương
với mức độ vui sướng có được. Nhưng khi vật hữu
dụng ấy cứ tạo ra mức độ dụng liên tiếp không
đổi, thì nó sẽ không còn tạo ra mức độ vui sướng
như cũ được nữa. Từng cảm giác hay ham muốn dần
trở nên chán ngấy. Mỗi một mức thoả dụng ta nhận
được từ vật hữu dụng đó , thì nó cũng mang đến
cho ta một cảm giác khác đi, thậm chí là chán
ghét. Từng mức thoả dụng nhận được liên tục sẽ
làm cho cường độ về cảm giác giảm đi so với
trước. Do đó mức thoả dụng nhận được sau cùng
luôn luôn giảm đi, hoặc làm giảm cả những mức
thoả dụng nhận được trước đó. Sự thay đổi này về
mặt lý thuyết là rất ít, nhưng chúng ta phải trừ
hao đi một phần nhỏ đó, và chúng ta có thể gọi
hệ số độ thoả dụng là tỉ sổ giữa lượng hay những
phần nhỏ nhận được từ vật thể, và mức độ cảm
giác vui sướng do nhận được định lượng đó từ vật
thể, và tất nhiên là cả hai thông số này đều
được ước lượng bằng những đơn vị thích hợp.
9. Do vậy, nói chung, hệ số lợi ích là một hệ
số giảm dần theo số lượng của vật thể được tiêu
thụ. Đây là một quy tắc quan trọng của cả thuyết
này."[6]
Đây là những thay đổi rất nhỏ về lợi ích theo
thuyết của Cournot, chứ không phải thay đổi về mức
cầu, và chúng đang có khuynh hướng giảm dần. Dĩ
nhiên, "hệ số lợi ích" của Jevons được tính bằng
cách lấy đạo hàm dU/dx của hàm số U=f(x) trong đó
U là lợi ích có được từ việc tiêu thụ hàng hoá x.
Và dU/dx<0, khi x tăng ít, thì lợi ích cũng
giảm ít.
Xin chú ý rằng ở đây đang nói đến việc tính toán
lợi ích sao cho chính xác. Hàm thoả dụng của
Jevons không phải thể hiện lợi ích "ít hay nhiều",
mà nó chỉ đo lường mức độ xác thực là ít hay nhiều
mà thôi. Do đó ta phải cần đến một đơn vị để đo,
đó là util. Thuyết của Jevons bao gồm "số các yếu
tố trong một tập hợp" và được sắp xếp dưới dạng
"số lợi ích trong một tập hợp", nghĩa là thuyết
của ông muốn nói rằng chúng ta có thể biết một
cách chính xác lợi ích nhiều hay ít mà người ta có
được khi tiêu thụ một đơn vị sản phẩm x nào đó.
Khi sang tiếp đến vấn đề lao động, vấn đề trao
đổi trên thị trường và vấn đề nguồn vốn (tư bản),
Jevons đã không nhắc đến về mức cung và mức cầu,
ông cho rằng ta có thể biết được hai thông số này
khi xét đến mối quan hệ giữa lợi ích biên đạt được
và những tổn thất biên. Ví dụ như trong trường hợp
vấn đề lao động:
"Do công nhân làm việc với một cường độ và thời
gian nào đó cho đến khi lượng đau đớn mà anh ta
cảm thấy vượt quá những gì anh ta có được -
lượng vui sướng , thì anh ta sẽ ngừng lại, nhưng
đến lúc này, anh ta đã có được một lượng vui
sướng dư ra."
Lập luận của ông đã quá rõ, duy chỉ có "lượng vui
sướng dư ra" là hơi mơ hồ. Khi nói rằng "lượng đau
đớn nhiều hơn so với lượng vui sướng có được"
chính là ám chỉ rằng tự bản thân người công nhân
"cảm thấy đau đớn" hay không vui sướng. Và thường
trong xã hội tư bản, "những gì anh ta có được"
chính là tiền lương -- được trả trong một khoản
thời gian nào đó khi công việc hoàn tất - ý nghĩa
của câu này là, khi anh ta làm như thế, đến lúc
anh ta dừng công việc thì anh ta có được "một
lượng vui sướng dư ra", đó chính là anh ta biết
trước phần lương mà trong tương lai anh ta nhận
được thì lúc này lượng vui sướng của anh ta sẽ lớn
hơn lượng đau đớn khi anh ta làm việc.
Còn đối với vấn đề trao đổi trên thị trường, ông
cho rằng người ta trao đổi nhằm mục đích tối đa
hoá lợi ích và do dó việc trao đổi xảy ra khi và
chỉ khi họ sẽ có được một lợi ích nào đó khi tiến
hành trao đổi. Ông cho là việc trao đổi sẽ diễn ra
cho đến khi "lợi ích mất đi và lợi ích có được
theo mức độ giới hạn của số lượng hàng được trao
đổi" bằng với nhau. Điểm cân bằng này có thể tính
được nếu ta biết được những hàm thoả dụng tương
ứng của những người trao đổi và những tình huống
trao đổi diễn ra. Ông cho rằng giả thuyết này có
thể được mở rộng ra từ sự trao đổi hai mặt hàng
giữa hai người cho đến bất kỳ (nhiều) sự thay đổi
- có thể trong hay ngoài nước.
Sau cùng là đến vấn đề nguồn vốn, ông định nghĩa
nó như sau: nó "bao gồm tất cả các sự vật mang lại
lợi ích cho người dùng nó, nó mang đến cho người
công nhân những ước muốn, nhu cầu, những vật như
thế này làm cho anh ta có thể thực hiện công việc
của mình, và kết quả công việc tuỳ thuộc vào thời
gian ít hay nhiều." Nói cách khác, khi mô tả đặc
điểm này ông có nhắc lại thời kinh tế cổ điển,
Jevons cho là nguồn vốn "chẳng là gì cả ngoài tác
dụng duy trì giữ công nhân lại việc làm."
Tuy nhiên, ông vẫn hiểu rằng tư bản (nguồn vốn)
là một nhân tố cơ bản của sản xuất mà lợi nhuận
của nó có thể tính được và bằng với năng suất biên
của nó: "tỷ lệ lợi nhuận luôn được xác định bởi
sản lượng gia tăng làm phát sinh thêm vốn chia cho
số lượng sản xuất ra từ số vốn đó." Và lợi nhuận
biên giảm dần là một điều không thể tránh khỏi do
phải trả thêm cho việc thuê lao động, ông giải
thích thêm "thực ra lợi nhuận vốn luôn có khuynh
hướng giảm rất nhanh do lượng vốn gia tăng tỷ lệ
với số lao động mà nó phải chi trả".
Sau năm 1862, Jevons có sửa chữa bổ sung thêm giả
thuyết cuả mình về lợi ích và mức cầu và cho xuất
bản quyển "Học Thuyết Kinh Tế Chính Trị" vào năm
1871, trong đó chương III nói về "thuyết lợi ích".
Trong chương này, những công thức toán học tổng
quát mà ông có đề cập trong bài luận năm 1862 của
mình đã được ông xác lập lại với độ chính xác cao
hơn và có cả minh hoạ bằng đồ thị. Cũng như
Cournot, về vấn đề mức cầu, Jevons giả định rằng
hàm thoả dụng mang tính liên tục và những thay đổi
biên của lượng hàng hoá tương đương được tiêu thụ.
Vì thế nếu U=f(x) thì Jevons xem lim (mức giới
hạn) của deta u/deta x khi x tiến đến 0 là du/dx
hay còn gọi là "mức lợi ích". Đối với lợi ích biên
của "tập hợp những lượng vốn nhỏ công thêm vào số
vốn ban đầu" thì ông gọi là "mức lợi ích cuối
cùng". Và ông phát biểu "quy luật chung" của lợi
ích biên (cuối cùng) giảm dần như sau: "mức lợi
ích thay đổi theo số lượng hàng hoá và sau cùng
lợi ích này sẻ giảm khi số lượng hàng hoá gia
tăng".
Jevons đã giải thích rất rõ về những gì ông tiếp
thu được từ Bentham và trong lời mở đầu tranh luận
của ông về "những quy luật về ước vọng của con
người" -- một sự bắt đầu mang tính tổng quát và
đầy triết lý. Ông cũng có trích dẫn "quy luật biến
đổi" của Nassau Senior trong đó nhấn mạnh rằng con
người không những quan tâm đến số lượng mà còn cả
về sự thay đổi chất lượng (như Jevons có nhấn mạnh
là lợi ích biên của mức tiêu thụ sẽ giảm khi mức
tiêu thụ tăng). Và Jevons cũng có đề cập đến "mức
độ không thể mãn được" khi chúng thay đổi. Khi
thuyết tân cổ điển được xem là một thuyết chính
thức, thì sẽ xuất hiện một loại giả thuyết về mức
độ không thể mãn được mà trong đó nó cho rằng nhu
cầu con người luôn luôn gia tăng, lợi ích gia tăng
khi lượng hàng tiêu thụ tăng, dù là lợi ích biên
của từng mặt hàng giảm.
Sau khi trích dẫn nhu cầu của con người được chia
xếp theo cấp bậc của Banfield, Jevons nhấn mạnh
đến tính tương đối của lợi ích đối với người có
nhu cầu. Ông lưu ý rằng những vật thể "thực chất"
không có lợi ích, mà chúng chỉ có một mối liên đới
nào đó đối với những nhu cầu cần thoả mãn. Điều
này cũng có nghĩa là cùng một loại hàng nhưng đối
với từng người có thể có "những lợi ích" khác nhau
(ví dụ như một chiếc ôtô đối với người này nó là
phương tiện đi lại, nhưng đối với người kia nói
lại thể hiện vị thế của người đó), nhưng Jevons
không quan tâm đến ý nghĩa này cho lắm, mà ông chỉ
lấy đó làm nền tảng cho những biện luận của mình
về lợi ích biên giảm dần. Vì thế vấn đề "lợi ích
biến đổi" chủ yếu là bàn luận về mức tiêu thụ của
từng người ,và ở đây ông lấy ví dụ là "thực phẩm"
để minh hoạ cho tổng lợi ích (hay ông còn gọi là
"cường độ" hay "mức độ" thoả dụng) của từng cá
nhân giảm dần. (Ngoại trừ khi lợi ích của thực
phẩm có được từ hình thức bên ngoài và vị thế của
loại thực phẩm đó đem lại hơn là mức độ dinh dưỡng
hay mức độ hài lòng khi sử dụng nó. Ví dụ trong
các buổi dạ tiệc hay tiệc cưới, khi đó các món ăn
không những đa dạng mà số lượng cũng nhiều, qua đó
gia chủ chứng tỏ được sự giàu có của mình và gây
ấn tượng với khách mời.)
Hơn nữa, khi thuyết của ông phát triển về mặt
toán học trong đó có liên quan đến những đường
cong thoả dụng được chia làm hai phần, thì Jevons
cũng nhận ra rằng lợi ích biên không chỉ giảm mà
nó còn có thể mang dấu âm và do đó ông phải tính
đến "độ không thoả dụng" hay được thể hiện bằng
một đường cong cắt trục hoành và hướng xuống góc
phần tư bên phải. Nói cách khác, bên phần còn lại,
thì điểm cố định (điểm giao nhau) làm "mất đi" lợi
ích. Thậm chí Jevons còn liệt những loại hàng như
thế vào danh mục "phi hàng hoá"[7] - những loại mà chỉ gây
hại và gây bất tiện khi sử dụng. Vậy là chúng ta
đã khảo sát qua hàm số thoả dụng, từ "thoả dụng
biên giảm dần" qua giao điểm với trục hoành (điểm
"không thoả dụng" -theo như nguyên văn của Jevons)
rồi đến phần diện tích "không thoả dụng". Giả sử
đường cong lại tiếp tục giảm, thì có thể nói rằng
chúng ta đang ở phần diện tích "không thoả dụng
biên giảm dần". Theo như ví dụ mà Jevons đưa ra về
lợi ích của mức tiêu thụ càng nhiều thực phẩm,
trong trường hợp này ta lấy ví dụ là ăn nhiều
miếng táo, khi ăn một vài miếng đầu sẽ cho cảm
giác ngon miệng, nhưng với tỷ lệ giảm dần, và đến
một mức nào đó bạn sẽ chán và nếu tiếp tục ăn thêm
nữa có lẽ sẽ phát bệnh (gây bệnh - theo nghĩa
đen).
Jevons khép lại chương này bằng một vài câu nhận
xét về yếu tố thời gian của lợi ích và ông đưa ra
một số sự so sánh những khác biệt giữa lợi ích
thực, lợi ích tương lai, và lợi ích tiềm năng. Đối
với yếu tố thời gian thì ông giải thích là cần có
những phép phân tích thống kê, còn đối với sự khác
biệt giữa các lợi ích thì ông gợi nhớ lại về
Bentham nhằm giúp hiểu rõ hơn về tính phức tạp của
lợi ích.
Quan Điểm của Jevons
về Tư Bản (nguồn vốn), Lao Động, và Đấu Tranh Giai
Cấp
Như đã được đề cập ở trên, Jevons định nghĩa về
nguồn vốn "bao gồm tất cả các sự vật mang lại lợi
ích cho người dùng nó, nó mang đến cho người công
nhân những ước muốn, nhu cầu, những vật như thế
này làm cho anh ta có thể thực hiện công việc của
mình, và kết quả công việc tuỳ thuộc vào thời gian
ít hay nhiều." Trong phần ông viết về vấn đề "tư
bản hoá", Jevons đưa ra quan điểm của mình là bất
cứ thứ gì được dùng nhằm mục đích khiến cho công
nhân phải làm việc và duy trì giữa họ ở lại tiếp
tục sản xuất ra nhiều của cải vật chất thì chính
những thứ đó tạo nên "nguồn vốn". Ở đây ông lấy ví
dụ là ổ bánh mì cho "người thợ xây làm việc cực
nhọc". Ông cho rằng "Bản chất ổ bánh chẳng là gì
cả, nhưng tác dụng của nó là được dùng để thuê
mướn người thợ, chúng ta nên quán triệt quan điểm
về tư bản hay tư bản hoá này".
Quan điểm này của ông song hành cùng với những
phân tích của Marx về tiến trình đầu tư mà trong
đó ông xem số tiền tăng thêm - một phần là tiền
lương thuê công nhân và đây được xem như một phần
của nguồn vốn (và phần còn lại của số tiền tăng
thêm đó là những máy móc, phương tiện sản xuất).
Nhưng quan điểm này chỉ song hành cùng với Marx
cho đến khi Jevons biện luận rằng mức tiêu thụ của
người công nhân dùng để duy trì họ trong suốt quá
trình sản xuất tạo ra sản phẩm, mức tiêu thụ này
chính là một phần của quá trình tư bản hoá. Còn
khả năng tự tái sản xuất của người công nhân là
một phần của quá trình tự tái sản xuất tư bản. Đây
là điều mà Marx không đưa vào thoả luận về đầu tư,
nhưng ông hoàn toàn hiểu rõ nó thuộc hệ thống "tái
sản sản xuất", hệ thống này minh hoạ quá trình tự
tái sản xuất tư bản bao gồm khả năng tự tái sản
xuất của tất cả các thành phần của tư bản kể cả
lao động (hay năng lực lao động - theo như nguyên
văn của Marx).
Khi bàn luận về việc duy trì công nhân đó, Jevons
có nói đến "đầu tư vào giáo dục". Trong đó, chúng
ta có thể thấy ông cũng có mở rộng vấn đề, tuy vẫn
còn tồn tại một số hạn chế. Ông cho rằng việc nuôi
trẻ chỉ đơn thuần là việc tiêu thụ (nhằm thoả mãn
đứa trẻ và cả cha mẹ của chúng), trong khi đó thì
việc nuôi sinh viên ăn học là để họ có thể kiếm
tiền lại được ông gọi là đầu tư vốn. Những nhà
kinh tế học quan tâm đến vấn đề mức thu nhập của
thời trước gọi đây là "chi phí cơ hội", nhưng
Jevons lại cho là số tiền dùng cho học tập ở hiện
tại chính là số tiền đầu tư nhằm tao ra một lượng
lợi nhuận lớn hơn cho tương lai. Nếu chúng ta mở
rộng ra khi xét trên tổng thể nền kinh tế - thay
vì xét theo từng cá nhân hay từng gia đình như
cách của Jevons - thì rõ ràng là những chương
trình ủng hộ cho những đứa trẻ có tư chất bẩm sinh
hay những chương trình giáo dục đều chứng tỏ rằng
tất cả các chi phí dành cho việc giáo dục trẻ nhằm
chuẩn bị cho thị trường lao động tương lai, dù cho
ở mức độ tối thiểu nào đi nửa, thì cũng rơi vào
trường hợp phân loại "tư bản hoá" của Jevons. Đó
là những chi phí để tạo ra "nguồn tư bản nhân lực"
- theo như nguyên văn của chủ nghĩa Marx. Trong cả
hai trường hợp trên, những chi phí này đều là
những món tiền đầu tư dùng cho sản xuất ở tương
lai và còn gọi là chi phí "tư bản".
Và Jevons cũng bị thuyết phục là: cả tư bản và
lao động đều là những nhân tố cần thiết cho quá
trình sản xuất và xã hội tư bản thời đại của ông
bị suy xụp là do sự mâu thuẫn phát sinh không cần
thiết giữa hai nhân tố này. Về nguyên nhân phát
sinh mâu thuẫn, ông cho là phát sinh từ cả hai
phía, một bên là người đi thuê lao động, "họ rất
dễ cự tuyệt những nhu cầu … mà xâm phạm đến quyền
tự quyết định và quyền quản lý của họ", còn một
bên là người lao động làm thuê, tất cả những người
công nhân dường như thường không quan tâm đến
những phương thức đấu tranh của họ đang làm hại
cho chính bản thân họ, cho những người khác và cả
nền kinh tế nói chung. Ở đây quan điểm của Jevons
cho hướng giải quyết mâu thuẫn lại thiên về một
phía. Ông cảm thấy rằng "vấn đề tai hại lớn nhất"
là nằm ở phái những người công nhân, và họ phải có
một nền tảng giáo dục đủ để hiểu được những cuộc
đấu tranh nào là chính đáng, cái nào là không.
Trong một bài giảng về "Tầm Quan Trọng Của Việc
Phổ Biến Kiến Thức Kinh Tế Chính Trị" được ông
trình bài cho một nhóm giáo viên các trường,
Jevons có nói rằng việc truyền thụ kiến thức cho
công nhân nên bắt đầu từ nhỏ -- "thực vậy, ngay
khi còn nhỏ, một cậu bé có thể đọc được dễ dàng".
Và công tác giáo dục cấp bách đó có hai điểm chính
sau: thứ nhất, nó nhắm đến việc giảm những cuộc
xung đột tranh chấp ở tương lai như những cuộc
đình công, bạo loạn; thứ hai, giai cấp công nhân
Anh có quyền bầu cử lại tạo ra mối nghi ngại của
công nhân về luật áp đặt về thuế như luật về "mức
lương tối thiểu" hay "mức lương đủ sống" mà luật
này lại xâm phạm đến "những bộ luật cơ bản nhằm
điều tiết các mối quan hệ giũa tư bản và lao động"
cũng như phá vỡ đi nền kinh tế, ảnh hưởng đến nền
tự do và tạo ra khuynh hướng các nhà tư bản đem
tiền ra nước ngoài đầu tư.
Trong bài giảng này, cũng như trong bài mà ông
trình bày với tư cách là khách mời của "Hiệp Hội
Chính Trị Công Đoàn" ở Manchester, Jevons trình
bày khá chi tiết về những hành động đấu tranh của
công đoàn mà ông nghĩ rằng một số trong đó là
chính đáng, còn số còn lại là không. Những hành
động mà ông cho là chính đáng bao gồm: những hành
động xã hội thân thiện nhằm tương trợ nhau, những
hành động xuất phát từ nhu cầu về các điều kiện
làm việc như: giảm giờ làm, điều kiện vệ sinh, an
toàn lao động … . Đối với vấn đề giảm giờ làm,
Jevons cho rằng người công nhân rất đúng khi muốn
nhận lấy một phần thành quả từ sức lao động của
mình thông qua việc giảm bớt giờ làm - và ông dự
báo là việc gia giảm như thế cũng chỉ đến mức nào
đó tuỳ vào khả năng tăng năng suất lao động của
mình và không thể vượt quá mức năng suất lao động
được, nếu vậy nó sẽ làm giảm sút lợi nhuận, giảm
nguồn vốn đầu tư, và giảm tích luỹ tương lai.
Những hành động đấu tranh mà ông cho là không
chính đáng, đó là đòi tăng lương vượt quá mức năng
suất lao động của mình. Ông chỉ ra rằng bởi do một
số công nhân có tài trong việc đứng ra tổ chức và
gây áp lực đòi tăng lương, những thành công này
của họ cũng đã ảnh hưởng xấu đến bên kia. Thứ nhất
thành công của một vài người trước sự thất bại của
một số người khác trong vấn đề cấp bậc lương dẫn
đến sự so đo của họ với nhau. Thứ hai, khi đồng
lương của một số người gia tăng kéo theo sự tiêu
thụ của họ với những mức giá cao hơn, và điều này
gây bất lợi cho những người khác. Thứ ba, bất kỳ
sự thành công nào của công nhân trong việc đòi
tăng lương (vượt quá mức năng suất lao động của
họ) cũng dẫn đến việc các nhà tư bản đóng cửa các
nhà máy trong nước và đem tiền đi đầu tư ở nước
ngoài, nơi lao động rẻ, và nơi đó họ có thể dễ
quản lý người lao động hơn. Ông cảnh báo rằng
"những nhà tư bản sẽ dần rút vốn của họ ở trong
nước và đem đi đầu tư ở những nước thuộc địa, ở
Mỹ, và những quốc gia khác."
Jevons nghĩ rằng những ảnh hưởng không tốt đó chỉ
có thể tránh được khi công nhân biết hạn chế những
cuộc đấu tranh; những cuộc đấu tranh chỉ có thể
được hạn chế khi công nhân có sự hiểu biết; những
hiểu biết đó chỉ có thể do việc sớm giáo dục cho
công nhân về kinh tế chính trị. (Đối với những
phương pháp giáo dục khác - như sử dụng "những
giáo trình rẻ tiền" hay những mẫu chuyện ngắn -
thì ông cho răng chúng không đạt yêu cầu vì chúng
chỉ tiếp cận đến số ít công nhân mà thôi.)
Cuối cùng Jevons gợi ý cho người công nhân về
những khả năng tiết kiệm và tập hợp tiền tiết kiệm
lại để lập thành những hội đoàn hợp tác với nhau
để tự mình đứng lên làm nhà tư bản. Lẽ dĩ nhiên là
ông cũng nhận ra rằng "tuy nhiên trong xã hội có
nhiều ngành mậu dịch đòi hỏi một lượng vốn rất lớn
mà bạn khó có thể tự mình đảm trách một cách an
toàn mà không có sự hỗ trợ từ những nhà tư bản
khác." Ông cảm thấy rằng trong những trường hợp
cộng tác giữa các nhà tư bản và những người công
nhân là rất cần thiết, và Bộ Hoà Giải có thể đứng
ra quản lý mối quan hệ này, sao cho giữa họ có thể
tối thiểu hoá sự bất đồng và tối đa hoá sự hợp
tác.
Những nhà cải cách
"cận biên khác"
Tiếc là chúng ta không có nhiều thì giờ đề cập
đến những nhà cải cách cận biên quan trọng khác
như Carl Menger (1841-1921), Marie-Esprit Leon
Walras (1834-1910), Francis Ysidro Edgeworth
(1845-1926), Knut Wicksell (1851-1926), và Alfred
Marshall (1842-1924). Người được đề cập đầu tiên
là một trong những người sáng lập ra và phát triển
thuyết chính thức mà ngày nay ta gọi là "tân cổ
điển"[8]. Còn người cuối cùng -
Alfred Marshall - không chỉ là người sáng lập ra
thuyết đó mà còn là người có công phổ biến nó vào
những quốc gia nói tiếng Anh.
Ngôn ngữ mà chúng ta sử dụng trong thuyết tân cổ
điển ngày nay phần lớn là do công chọn lọc và đánh
giá những cách thể hiện khác nhau về những ý tưởng
mới này. Như bạn có thể thấy trong phần nội dung
cũng như trong phần chú thích ở cuối trang của
chuơng thứ ba của quyển thứ ba tác phẩm Những
Nguyên Tắc Kinh Tế Học, những thuật ngữ như
"lợi ích sau cùng" hay "hệ số lợi ích" của Jevons
được chuyển thành "lợi ích biên" và "lợi ích giảm
dần" gần giống như ta sử dụng ngày nay. Thay vào
đó, tôi nghĩ chúng ta nên khảo sát qua "thanh lọc"
lớn về mặt lý thuyết của thuyết tân cổ điển thông
qua tác phẩm của Pareto và Hicks.
John Hicks và "Sự
Thanh Lọc" Thuyết Kinh Tế Tân Cổ Điển
Trong dòng suy nghĩ quyết định chọn lựa đi từ
Becarria và Bentham, Jevons, và đến nhiều nhà cải
cách biên khác, thì vấn đề "lợi ích" không chỉ là
một phạm trù trung tâm mà còn là một thứ dùng để
đo lường số lượng chính xác nhiều hay ít. Lợi ích
được tính bằng "đếm được". Tuy nhiên, quan điểm
này không chỉ dẫn đến vấn đề về chính trị, mà việc
áp dụng thuyết này còn làm cho vấn đề chính trị đó
càng trở nên tệ hại hơn
Vấn đề về mặt chính trị ở đây như sau. Nếu lợi
ích mà mỗi cá nhân đạt được từ việc tiêu thụ hàng
hoá có thể đo được một cách chính xác (được tính
bằng đơn vị "util") thì lợi ích bị mất đi của họ
cũng có thể đo được như vậy và do đó những ảnh
hưởng về mặt xã hội khi tái phân phối doanh thu
hay của cải cũng có thể đo được. Nếu bạn chấp nhận
những nguyên tắc của thuyết vị lợi mà trong đó mục
tiêu nhắm đến của chính sách kinh tế là mang lại
nhiều hạnh phúc nhất cho đại đa số công chúng, thì
thu nhập và của cải nên được tái phân phối cho đến
khi lợi ích biên của người nhận được số thu nhập
hay của cải đó bằng với sự tổn thất biên của người
mất đi số thu nhập hay của cải đó. Hay nói cách
khác, nếu lợi ích biên của một đôla mang lại đối
với người giàu là một util, còn đối với người
nghèo là 1000 util, thì tổng lợi ích của xã hội sẽ
có thể tăng lên khi ta phân phối lại đồng đôla đó
từ người giàu chuyển sang người nghèo. Tuy nhiên,
bất kỳ sự tái phân phối nào như vậy đều đánh vào
trọng tâm của chủ nghĩa tư bản rằng thu nhập và
tích trữ của cải để làm vốn là động cơ trong quá
trình tái sản xuất hàng ngày. Những nhà kinh tế
học mà chúng ta nói qua đều đã thiết lập nên một
lý thuyết mà được sử dụng để công kích vào hệ
thống chủ nghĩa tư bản hiện hữu.[9]
Và lý thuyết này đã được dùng theo đúng mục đích
của nó. Nó được hầu hết các nhà xã hội học tiếp
nhận khi tranh cãi về vấn đề tái phân phối của cải
mà John Hobson đã từng đề cập trong những bài viết
của ông về khủng hoảng kinh tế và chủ nghĩa đế
quốc. Nhưng lập luận thì hoàn toàn khác, khi tiếp
nhận lý thuyết này, họ không quan tâm đến những
vấn đề như tổng cầu hay nhu cầu tìm kiếm thị
trường ở nước ngoài, nhưng phần kết luận thì giống
nhau: đều công kích vấn đề của cải và nhu cầu tái
phân phối thu nhập và của cải.
Vào giữa thế kỷ này, việc tiếp nhận lý thuyết đó
lại gây mâu thuẫn giữa lao động và tư bản trong
nước cũng như đầu cơ ra nước ngoài, đây là lúc có
nhiều sự kiện nổi bậc như Quốc Tế Thứ Hai, Cách
Mạng Đầu Tiên Ở Nga năm 1905-1907 và Cách Mạng
Mexico năm 1910 không ngạc nhiên gì khi dẫn đến
việc sửa chữa bổ sung lý thuyết đó, đầu tiên là
loại bỏ những yếu tố về số lượng tạo chỗ tựa cho
những tranh luận như thế, và thứ hai là loại bỏ
những gì liên quan đến triết lý về niềm vui của
con người.
Trong chương đầu tiên của quyển Giá Trị Và Tư Bản
(1939)[10], John Hicks đã chỉ ra
được cơ sở lý luận cho sự thay đổi về mặt cơ bản
này. Ông gợi lại vấn đề Pareto tiếp thu khái niệm
của Edgeworth về ba mặt phẳng thứ nguyên của lợi
ích và hai đường cong bàng quang thứ nguyên thừa
nhận những phân tích về quyền lựa chọn của người
tiêu dùng dựa trên nền tảng một loạt những giả
định khá nghiêm ngặt như tính chia hết vô hạn,
tính liên tục, và độ lồi. Giả sử như lợi ích của
tất cả các mặt hàng là số dương, thì đường cong
bàng quang sẽ hướng lên để bù vào phần tổn thất và
độ dốc mang giá trị âm của những đường này sẽ được
tính bằng tỷ số giữa các lợi ích biên của những
loại hàng hoá có liên quan. Kết quả chính là một
"ánh xạ" của một số vô hạn của những đường cong
bàng quang nghiêng về phía trục toạ độ và lồi về
phía gốc toạ độ.
Khi kết hợp nhiều khả năng mở rộng hơn về mặt
tiêu dùng (nhờ có thu nhập và mức giá hàng hoá ở
mức tương đối), thì với ánh xạ này của những đường
cong bàng quang, quá trình tối đa hoá lợi ích sẽ
dẫn đến trường hợp người tiêu dùng sẽ lựa chọn kết
hợp những loại hàng có lợi ích tối đa mà thu nhập
cho phép và sự kết hợp đó được thể hiện bằng vị
trí của tiếp tuyến giữa "khả năng tài chính"[11] của người tiêu dùng và
đường cong bàng quang[12] nào đó.
Từ quan điểm này của Hick, ta thấy có một điều
thú vị là công thức mà Pareto đưa ra cho phép
chúng ta không cần xét đến tất cả các lợi ích với
nhau, bao gồm cả những yếu tố về vấn đề chính trị
nhớp nháp (mặc dù ông không luận gì về chính trị).
Mặc dù những đường cong bàng quang bắt nguồn từ
khoảng không ba chiều bao gồm cả lợi ích mà ông
cho rằng những đường này không cần thiết. Mà những
gì cần cho sự tồn tại của chúng chính là phân loại
sắp xếp những sở thích tiêu dùng theo những rổ
hàng hoá khác nhau. Ông cho là công thức này chỉ
nói cho ta biết rằng người ta thích lưạ những loại
mặt hàng nào hơn thôi, chứ không cho ta biết được
ý nghĩa bề mặt của lợi ích, tức là không cho biết
họ thích lợi ích của loại mặt hàng nào hơn mặt
hàng thứ nhất hay thứ hai. Lợi ích đếm được mất
tác dụng và lợi ích "thứ tự" được dùng để thay thế
cho nó. Hicks nói rằng điều này "làm mất đi tầm
quan trọng của phương pháp luận mở rộng". Sau khi
chắc lọc lại thuyết này, Hicks trình bày lại những
gì mà ông gọi là "loại bỏ" tất cả những khái niệm
bắt nguồn từ thuyết này, bao gồm lợi ích biên, lợi
ích biên giảm dần,và tỷ số giữa những lợi ích
biên. Trong đó ông thảo luận về những sở thích, tỷ
lệ thay thế biên và những tỷ lệ thay thế biên giảm
dần.
Hicks hoàn toàn bỏ qua những triết lý của thuyết
vị lợi trong thuyết cận biên, mặc dù ông không nói
cho chúng ta tại sao ông lại làm như thế - ngoại
trừ một dẫn chứng ông đưa ra về Occam's Razor và
một nguyên tắc là càng ít giả định thì càng tốt.
Nhưng thuận lợi về mặt chính trị là quá rõ. Khi
loại bỏ lợi ích và số lượng trong giả thuyết này
thì không còn có lý do nào phải tiếp tục tranh cải
về những cương lĩnh chính trị đầy nhạy cảm nữa như
tái phân phối thu nhập. Bạn có lẽ sẽ nghĩ rằng
việc chuyển đổi thu nhập từ người giàu sang người
nghèo sẽ làm tăng phúc lợi xã hội nói chung, nhưng
thực chất trong thuyết này không hề nói đến điều
đó. Thực vậy, khi loại bỏ lợi ích và cả những nhân
tố thông thường tạo nên quyết định về sở thích,
thì lý thuyết này sau khi được sửa đổi lại có thể
làm cho người ta không thể so sánh gì với nhau,
được bao gồm cả không thể ước tính những gì mất đi
và những gì đạt được. Nếu bạn tái phân bố chuyển
thu nhập từ người giàu sang người nghèo, thì khả
năng tài chính của người giàu có thể rút nhỏ lại,
và có lẽ làm cho đường cong bàng quang của họ hạ
xuống thấp hơn, đồng thời khả năng tài chính của
người nghèo lại tăng thêm, và có lẽ làm đường cong
bàng quang của họ nâng cao hơn, nhưng chung quy
thì vẫn không so sánh được hai sự biến đổi về định
lương này. Nhưng ta có thể nói rằng người giàu sẽ
không thích tình trạng như vậy, còn nguời nghèo
thì ngược lại.
Trong chương hai quyển sách này của mình, Hicks
tiếp tục nói về việc "loại bỏ" lợi ích khi giải
thích rằng đường cầu nghiêng xuống phía dưới có
thể do bắt nguồn từ giả thuyết về sở thích mà ông
đã phân tích ở chương trước. Chuơng này không chỉ
thú vị bởi những chi tiết về đạo hàm - mà bạn đã
quá quen thuộc trong môn kinh tế vi mô, mà còn do
quá trình mà ông chứng minh đạo hàm đó. Hầu như
trong từng bước, ông đều đưa ra những giả định nào
được thiết lập nên nhằm đạt được những kết quả sau
cùng như mong đợi. Trong quá trình đó, bạn có thể
thấy rằng lý thuyết này được tạo ra nhằm chứng
minh cho một kết luận được mong đợi. Không một suy
luận nào trong những nguyên tắc đầu tiên mà ông
đưa ra được sử dụng cả, nhưng ông đã đưa ra một lý
thuyết mang một phần kết riêng biệt. Trong trình
tự đó ta thấy có một điểm buồn cười trong chương
một khi Hicks cố chứng minh cho những giả định của
mình đưa ra nhưng ông lại chưa kinh qua nó, tức là
tự mình tạo ra một giả định khác (ta có thể bỏ qua
tính cách hơi lập dị này của ông), tuy nhiên những
giả định khác cần phải được chứng minh bằng kinh
nghiệm của mình. (TQ hiệu đính: cần tìm hiểu hơn
về "giá trị" và "tính hợp lý" của lý luận thì sẽ
hiểu rõ tác giả hơn. Trong cuốn sách của ông ta,
các lý luận của John Hicks có "giá trị" nhưng ông
ta không có chứng minh các giả định của mình, cho
nên lý luận của ông ta không "hợp lý".).
[4] Để ý đến cách trích dẫn.
[...] nghĩa là 1 khúc hay 1 đoạn văn sau đó đã
được lược bõ. Khi trích dẫn, và nhất là không
trích dẫn hết toàn bộ đoạn văn mang cùng 1 ý,
người viết cần phải có [...] để cho đọc giả biết
rằng, ý tưởng đó còn được tiếp tục diễn giải, và
câu trích đoạn không phải là câu tuyệt đối.
[6] TQ hiệu đính: để giải thích
thêm, các bạn có thể nghĩ tới khi mình đói bụng và
ăn cơm. Miếng đầu tiên mang lại cho bạn nhiều
"sung sướng" lắm, nhưng những miếng sau, không
sung sướng bằng như miếng đầu. Có thể áp dụng với
sự việc khát nước và uống nước. Ngụm nước đầu thì
đã quá chừng, nhưng những ngụm sau thì không đã
bằng.
[9] TQ hiệu đính: CSVN đánh tư
bản và tái phân phối tài sản là 1 ví dụ của áp
dụng lý thuyết vị lơi sai lầm.
[11] budget possibilities
Copyright (c) 2006 by kinhtehoc.com
Nguồn:
http://www.kinhtehoc.com/index.php?name=News&file=article&sid=127
Dictatorships vs.
Democracies
By ALVARO VARGAS LLOSA
The Washington Post
June 14, 2007
WASHINGTON -- A group of European readers recently
wrote to me, arguing that from an economic point of
view, dictatorships have been outperforming
democracies for many years and that if the trend
continues, there will be very little incentive to
replace autocrats with the rule of law.
This is an old discussion that resurfaces from
time to time. The success enjoyed nowadays by
autocracies awash in natural resources has
reignited it. A recent article in the online
magazine American.com measures economic
performance against the degree of political and
civil freedom existing in various nations. The
conclusion is that in the last 15 years, the
economies of nations ruled by despots have grown
at an annual rate of 6.8% on average -- two and a
half times faster than politically free countries.
Those autocracies that have opened their markets
in recent decades but continued to restrict or
prevent democracy -- China, Russia, Malaysia and
Singapore, for example -- have done better than
most of the developed or underdeveloped countries
that enjoy a considerable measure of political and
civil freedom.
It would be silly to deny that a dictatorship can
boast sound economic results. Any political
system, free or unfree, that removes some
obstacles to entrepreneurship, investment and
trade, and makes a credible commitment to
safeguard property rights to a certain extent will
trigger a virtuous economic cycle. Spain's
Francisco Franco and Singapore's Lee Kuan Yew
discovered that in the 1960s, as did China's Deng
Xiaoping at the end of the 1970s, Chile's Augusto
Pinochet in the 1980s and many others at various
times.
But this is not the end of the story. Of the 15
richest countries in the world, 13 are liberal
democracies. The other two are Hong Kong, a
Chinese territory that enjoys far greater civil
liberties than mainland China, and Qatar, where
the abundance of oil and natural gas, and the tiny
population, translate into a large per capita
income average.
What this picture really tells us is that
stability and reliability are most important when
it comes to economic prosperity over the long
term. Spain, a modern success story, has seen its
wealth double since 1985 and yet at no point in
the last quarter-century did the Spaniards achieve
annual growth figures comparable to those of
China. Similarly, the U.S. economy has grown by a
factor of 13 since 1940, but never experienced
"Asian" growth figures.
When the environment in which the economy
breathes depends on institutions rather than on
the commitment of an autocrat or a party,
stability and reliability generate the sort of
long-term results that we call "development." That
is probably why Chile's economic performance after
Pinochet compares favorably to the years when the
general was in power. Not to mention the fact that
dictatorships that enjoy economic success are
heavily dependent on technology invented in
countries where exercising a creative imagination
does not land one in jail.
Another reason dictatorships are outperforming
liberal democracies has to do with the fact that
many of the latter countries are fully developed.
Once a country starts to move forward, spare
capacity and unrealized potential tend to allow it
to grow faster than developed nations.
Furthermore, if we consider that China is a
disproportionately big component of the group of
unfree nations outperforming liberal democracies,
the growth rate gap is not surprising.
In fact, liberal democracies can compete
favorably with dictatorships even in the short
term. India, one of the world's fastest growing
economies, is a liberal democracy. So is Peru,
whose economy is experiencing 7% annual growth.
These are imperfect democracies, for sure. But the
recent success indicates that elections, freedom
of the press and freedom of association can
coexist with high economic growth.
From a moral point of view, the relative
prosperity that a dictatorship can trigger is a
double-edged sword -- it brings relief to people
who are otherwise oppressed but also serves as an
argument for the indefinite postponement of
political and civil liberty.
Two things are certain, however. First, history
indicates that the combination of political, civil
and economic freedom is a better guarantee of
ever-increasing prosperity than a capitalist
dictatorship. Second, there are sufficient
examples -- Portugal or the Baltic countries -- of
underdeveloped countries that have generated
stable and reliable environments through political
freedom to invalidate the notion that a country
should be kept in political and civil infancy
until it reaches economic maturity.
http://online.wsj.com/article/SB118176854424334321.html
======
Alvaro
Vargas Llosa
Chuyên chế và
dân chủ - Chế độ nào hiệu quả hơn?
Nguyên
Trường dịch
Gần đây tôi có nhận được thư của một nhóm độc
giả người châu Âu: họ khẳng định rằng trong
nhiều năm qua, các nước với chế độ độc tài đã có
tốc độ tăng trưởng kinh tế nhanh hơn các nước
dân chủ và nếu xu hướng này cứ tiếp tục thì động
lực cho việc thay thế nền độc tài bằng chế độ
pháp trị sẽ ngày càng yếu đi.
Những cuộc thảo luận về đề tài này – có những
giai đoạn giải lao – đã diễn ra từ lâu. Thời
gian gần đây những cuộc thảo luận như thế lại
bùng nổ với một sức mạnh mới vì những thành quả
kinh tế mà các chế độ độc tài tại những nước
giầu tài nguyên thiên nhiên vừa đạt được. Gần
đây một bài báo trên American.com đã làm việc so
sánh các chỉ số kinh tế với mức độ tự do chính
trị và bảo đảm quyền công dân ở những nước khác
nhau.
Hoá ra trong 15 năm qua những nước do các chế
độ độc tài cai trị có tốc độ phát triển kinh tế
trung bình hàng năm là 6,8%, nghĩa là gấp 2,5
lần các nước dân chủ. Các chế độ độc tài đã tiến
hành đa dạng hoá nền kinh tế nhưng vẫn tiếp tục
hạn chế hoặc ngăn chặn không cho dân chủ phát
triển, thí dụ như Trung Quốc, Nga, Malaysia và
Singapore, là những nước có chỉ số kinh tế tốt
hơn phần lớn các nước đã và đang phát triển
nhưng có mức độ tự do chính trị và tự do cá nhân
cao hơn.
Sẽ là ngốc ngếch khi cho rằng chế độ độc tài
không có khả năng phát triển kinh tế. Dù chế độ
chính trị có như thế nào thì việc loại bỏ các
rào cản trong hoạt động kinh doanh, đầu tư và
thương mại cũng như việc bảo đảm quyền sở hữu tư
nhân nhất định sẽ tạo ra nhiều thuận lợi cho cục
diện kinh tế. Những cuộc cải cách của Franco ở
Tây Ban Nha, của Lí Quang Diệu ở Singapore những
năm 1960, của Đặng Tiểu Bình ở Trung Quốc những
năm 1990, của Pinochet ở Chi-lê những năm 1980
và những bước đi tương tự tại những nước khác đã
cùng dẫn đến kết quả như thế.
Nhưng đấy chỉ là một phần của bức tranh. Trong
15 nước giầu có nhất thế giới thì đã 13 nước có
chế độ dân chủ. Hai nước còn là là Hồng Công,
một khu vực đặc biệt của Trung Quốc, nơi dân
chúng được hưởng nhiều quyền tự do dân chủ hơn
đa phần dân chúng đại lục; nước thứ hai là
Quatar với những mỏ dầu trữ lượng cực lớn và dân
số ít, thu nhập tính trên đầu người rất cao.
Điều đó chứng tỏ rằng về dài hạn, sự ổn định và
lòng tin chính là điều kiện tiên quyết cho phát
triển kinh tế. Tây Ban Nha, nước được coi là
hình mẫu của thành tựu kinh tế trong mấy thập
kỉ, phúc lợi đã tăng gấp đôi kể từ năm 1985,
nhưng trong suốt một phần tư thế kỉ qua chưa bao
giờ nước này có tốc độ tăng trưởng cao như Trung
Quốc. Tương tự như vậy, nếu lấy năm 1930 làm mốc
thì tổng sản phẩm xã hội của Mĩ đã tăng 13 lần,
nhưng các chỉ số kinh tế cũng không thể nào so
sánh được với “các nước châu Á”.
Khi “môi trường sống” của kinh tế phụ thuộc vào
các thể chế chứ không phải vào ý chí của nhà độc
tài hay của một đảng nào đó thì sự ổn định và
lòng tin sẽ xuất hiện và sẽ tạo ra các kết quả
mà ta gọi là “phát triển”. Có lẽ đấy chính là lí
do vì sao sau khi Pinochet rút lui, Chi-lê đã
giành được những thành quả kinh tế rực rỡ hơn
thời kì ông ta còn nắm quyền. Ngoài ra cũng
không được quên rằng các thành tựu kinh tế của
các chế độ độc tài phụ thuộc rất nhiều vào công
nghệ được tạo ra tại những nước mà người có sáng
kiến được khuyến khích chứ không phải bị đe doạ
bởi cánh cổng nhà tù.
Một lí do nữa làm cho các nước có chế độ độc
tài có tốc độ phát triển kinh tế nhanh hơn các
nước dân chủ là do các nước dân chủ đã đạt được
mức độ phát triển khá cao. Khi một nước nào đó
bắt đầu phát triển, sức sản xuất vừa được giải
phóng và năng lực tiềm tàng sẽ giúp cho nó tiến
nhanh hơn những nước đã phát triển. Hơn nữa, nếu
biết rằng Trung Quốc có ảnh hưởng rất lớn đối
với các chỉ tiêu kinh tế trung bình của nhóm các
nước chưa được tự do, mà tốc độ tăng trưởng kinh
tế cao của nước này so với các nước dân chủ
không phải là điều đáng ngạc nhiên đến như thế.
Trên thực tế, các nước dân chủ có thể cạnh
tranh với những nước độc tài ngay cả trong ngắn
hạn. Thí dụ, Ấn Độ là nước có chế độ dân chủ
nhưng cũng là nước có tốc độ phát triển kinh tế
vào loại hàng đầu thế giới. Peru cũng có tốc độ
phát triển kinh tế 7% một năm. Tất nhiên là nền
dân chủ của hai nước này chưa hoàn thiện. Nhưng
các thành tựu mà họ đạt được chứng tỏ rõ ràng
rằng bầu cử, tự do báo chí và tự do hội họp là
hoàn toàn phù hợp với một nền kinh tế phát triển
năng động.
Nếu xét về đạo đức thì sự cải thiện về mặt phúc
lợi trong một nhà nước độc tài có thể biến thành
chiếc đòn xóc nhọn hai đầu: một mặt nó làm cho
những người dân còn đang bị áp bức cảm thấy dễ
thở hơn về mặt kinh tế, nhưng mặt khác nó lại
tạo cho người ta lí do trì hoãn hay câu giờ đến
vô cùng tận các cuộc cải cách chính trị.
Hai điều sau đây là rất rõ ràng. Thứ nhất, như
lịch sử đã cho thấy, việc kết hợp giữa
tự do chính trị, quyền công dân và tự do kinh
tế chứ không phải chế độ độc tài tư
bản là bảo đảm tốt nhất cho việc tăng trưởng một
cách đều đặn phúc lợi. Thứ hai, có những bằng
chứng rõ ràng - chỉ cần nhìn vào Bồ Đào Nha và
các nước vùng Ban-tích - chứng tỏ các nước chưa
phát triển có thể dựa vào tự do chính trị để tạo
lập được sự ổn định và tự tin. Các nước này đã
phủ nhận một cách thắng lợi luận điểm cho rằng
nền kinh tế của đất nước phải “chín” trước khi
nó có thể trở thành “thành niên” trên bình diện
tự do chính trị và quyền công dân.
Bản tiếng Việt © 2007 talawas
Copyright (c) 2006 by kinhtehoc.com
Nguồn:
http://www.kinhtehoc.com/index.php?name=News&file=article&sid=267
Việt
Nam: Chặng Đường Hội Nhập Toàn Cầu
TS.
Mai Thanh Truyết
Biến cố tan rã của Liên Xô đánh dấu sự phá sản
của chủ nghĩa Cọng sản quốc tế, chấm dứt tình
trạng đối đầu lưỡng cực giữa khối Tự do và khối
Cọng sản; từ đó đưa đến sự hình thành một khuynh
hướng chung của thế giới, mệnh danh là toàn cầu
hóa". Khuynh hướng nầy được xem như là một sinh lộ
tất yếu của các nước đang phát triển và đặc biệt
là các quốc gia đã một thời đặt mình thuộc khối
Cộng sản quốc tế, nếu muốn tồn tại và phát triển
trong tình hình mới.
Sự toàn cầu hóa bao gồm toàn bộ các lĩnh vực văn
hóa, xã hội, và được chú ý nhiều nhất là lĩnh vực
kinh tế. Về lĩnh vực sau cùng nầy, nhu cầu toàn cầu
hóa bao gồm sự hội nhập của các nền kinh tế quốc gia
vào nền kinh tế quốc tế thông qua thương mại, đầu tư
ngoại quốc qua những công ty quốc gia hay đa quốc
gia, lưu lượng vốn ngắn hạn, lưu lượng công nhân
quốc tế, lưu lượng công nghệ trao đổi, v.v...
Riêng đối với nước Việt Nam, kể từ sau ngày
30/4/1975, Việt Nam có thể được xem như hoàn toàn
thống nhất về phương diện chính trị, địa dư, và xã
hội. Lãnh thổ Việt Nam được đảng Cọng sản thu về một
mối, được toàn trị do một Trung ương đảng gồm 160 Ủy
viên chính thức, 21 Ủy viên dự khuyết, và 14 Ủy viên
Bộ chính trị, tổng cộng 195 bộ óc ưu việt Việt Nam
điều hành tất cả mọi sinh hoạt của 84,7 triệu dân
(thống kê tháng 5/2006).
Đứng về phương diện phát triển kinh tế và xã hội
trong 10 năn đầu tiên sau 1975, hầu như tất cả mọi
người trong và ngoài nước đều đồng ý rằng sự thất
bại hoàn toàn của một chính sách kinh tế tập trung.
Đây là một giai đoạn đen tối nhất của lịch sử Việt
Nam, ngay cả so với thời phong kiến và thới Pháp
thuộc.. Mọi sinh hoạt đều bị đình trệ, nhiều vùng bị
nạn đói đe dọa thường xuyên dù trước đây là vùng
lương thực cho cả nước như Đồng bằng sông Cửu Long.
Giáo dục, y tế công cộng hoàn toàn bị bỏ ngõ...
Đứng trước nguy cơ diệt vong kề cận, năm 1986, một
chính sách kinh tế mở được khơi mào dưới chiêu bài
"kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ
nghĩa" nửa vời, người dân bắt đầu được nới lõng hơn
trong vòng kềm kẹp, nông dân được cấp quyền xử dụng
mãnh đất của mình dù là tạm bợ để tự khai thác và tự
cứu vãn đời sống kinh tế của gia đình. Những năm
tiếp theo sau đó, nguy cơ tuy vẫn còn đầy rẫy khắp
nơi, tình trạng xã hội và kinh tế chung vẫn còn
nhiều gập ghềnh, chập chững trên bước đường phát
triển và hội nhập vào thế giới bên ngoài.
Từ sau ngày "giải phóng" cho đến năm 1986, cả nước
vẫn còn cùng ôm nhau với những tem phiếu qua câu sấm
truyến vẫn còn tồn đọng đến ngày hôm nay. Đó là:
- Gạo vừa 13 ký, suốt tháng cháo thừa, cơm thiếu,
quanh năm no cậy nước;
- Vải vừa 4 nghìn ly, suốt ngày quần thiếu, khố
thừa, cả đời ấm nhờ da.
Nhưng mãi đến tháng 12 năm 2001, khi Hiệp ước
Thương mãi hai chiều giữa Việt Nam và Hoa Kỳ thành
hình (US-VietNam Bilateral Trade Agreement), kinh tế
Việt Nam tương đối hồi sinh và có thể nói đây là
bước mở đầu tiện của VN trên tiến trình hội nhập vào
Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO).
Cũng cần nói thêm về những thông tin trao đổi kinh
tế hai chiều giữa VN và HK trong giai đoạn trước
đây. Năm 1993, VN hoàn toàn không xuất cảng hàng hóa
vào nội địa HK; ngược lại, VN nhập cảng 7 triệu Mỹ
kim thiết bị từ HK. Sau ngày 3 tháng 2, 1994, Tổng
thống Clinton, HK đã ra quyết định bãi bõ lịnh cấm
vận thương mại cho VN; kể từ đó, VN bắt đầu tăng dần
việc xuất cảng sang HK lên đến trị giá 50,5 triệu
cho năm này.
Bảy năm sau khi hiệp ước trao đổi hai chiều ký kết,
hàng hóa VN gồm thực phẩm, hàng may mặc, dầu thô,
giày da, sản phẩm gỗ nội thất ồ ạt vào thị trường
HK, và lượng hàng hóa tiếp tục tăng mãi, từ 1 tỷ Mỹ
kim năm 2001, lên đến 5,9 tỷ, năm 2005. Ngược lại,
HK chỉ xuất cảng độ 1,2 tỷ vào VN trong năm 2005.
gồm dụng cụ y khoa, máy móc kỹ thuật và dụng cụ hàng
không.
Đây cũng là những chỉ dấu ban đầu cho VN lần lần
thực hiện tiến trình gia nhập vào Tổ chức Thương mại
Thế giới. Và Việt Nam đã chính thức gia nhập vào
cuộc chơi toàn cầu nầy vào ngày 7 tháng 11 năm 2006.
Bài viết nầy có mục đích phân tích một số thách thức
cùng những yếu tố Việt Nam cần phải lưu ý trước tiến
trình thực hiện và tuân thủ các quy định trong WTO.
Tổ chức Thương
mại Thế giới
Tổ chức Thương mại Thế giới hay World Trade
Organization-WTO, có trụ sở đặt tại Thụy Sĩ đã được
thành lập chính thức vào ngày 1/1/1995 do các quốc
gia thành viện ký tại thành phố Marrakesh, Marocco.
Tính đến nay, Tổ chức nầy tập hợp được 149 quốc gia
thành viên nhắm vào những mục tiêu sau đây:
- Quy định những căn bản pháp lý làm nền tảng cho
mọi trao đổi thương mãi quốc tế;
- Tổ chức là diễn đàn đàm phán, thỏa thuận, thương
lượng về tất cả mọi dịch vụ thương mại giữa các quốc
gia thành viên.
Cũng từ ngày 1/1/1995, VN đã nộp đơn xin gia nhập
vào tổ chức trên và trở thành quan sát viện của tổ
chức. Nhóm công tác WTO cũng đã được thành lập và có
nhiệm vụ cứu xét đơn xin gia nhập của VN.
Tính đến nay, VN đã trả lời trên 2.600 câu hỏi từ
các thành viên, và đã kết thúc đàm phán song phương
với 21 quốc gia.
Đối với HK, văn kiện chính thức giữa hai bên đã
được ký kết vào ngày 31/5/2006 về những thỏa thuận
trên nguyên tắcvề khả năng tiếp cận thị trường song
phương; từ đó sẽ giúp hai bên tái lập hàng rào thuế
quan cho những mặt hàng kỹ nghệ và nông phẩm, cùng
dịch vụ.
Kết quả là hàng hóa xuất cảng từ HK vào VN như
trang thiết bị xây dựng, dược phẩm, phi cơ và các bộ
phận rời bảo trì sẽ chịu thuế xuất là 15% hay ít
hơn. Về dịch vụ, VN cũng đã cam kết mở cửa một số
lãnh vực cấm kỵ từ trước như viễn thông và viễn
thông vệ tinh, lãnh vực tài chính, ngân hàng, và
năng lượng cho HK nhúng tay vào.
Một khi đã vào WTO, VN cần phải tuân thủ những tính
chất pháp trị như: 1- giải quyết tranh chấp; 2- giảm
bớt vai trò của mậu dịch quốc doanh; 3- hủy bỏ những
giới hạn nhập cảng của các doanh nghiệp có vốn đầu
tư nước ngoài qua quyền thương mại; 4- hủy bỏ những
quy chế kinh tế phi thị trường. Ngược lại, HK sẽ áp
dụng kinh tế phi thị trường trong các vụ kiện chống
phá giá cho đến khi VN ra khỏi nền kinh tế phi thị
trường. Thời gian chuyển tiếp cho chính sách nầy là
12 năm sau khi VN gia nhập vào WTO. Và sau cùng, VN
phải tuân thủ quy tắc và luật bảo vệ sở hữu trí tuệ.
Để có một khái niệm về kết quả của việc gia nhập
vào WTO trong những năm vừa qua của các quốc gia
thành viên, một số báo cáo sau đây cho thấy khuynh
hướng cũng như thành quả của WTO ngày càng bị thu
hẹp lại. Vào năm 2003, trong kỳ họp WTO ở Cancun,
Ngân hàng Thế giới (WB) đã đưa ra những số liệu về
thương mại toàn cầu qua dịch vụ trao đổi trên thế
giới là 832 tỷ Mỹ kim, trong lúc đó 539 tỷ nằm trong
các sinh hoạt giữa các quốc gia đang phát triển. Tuy
nhiên, tổng kết năm 2005 cho thấy lợi ích của WTO
giảm xuống còn 287 tỷ cho thế giới, trong đó chỉ còn
90 tỷ trao đổi giữa các quốc gia đang phát triển dù
số thành viên của các quốc gia nầy dự phần vào 90%
tổng số thương mại toàn cầu.
Những khía
cạnh thực tế
Vào ngày 7/11/2006,
Việt Nam đã chính thức được chấp thuận vào Tổ chức
Thương mại Thế giới (WTO), cũng như vào cuối tháng
11/2006 vừa qua, quốc hội Việt Nam đã chính thức phê
chuẩn các điều luật trên. Việt Nam đã chính thức
nhập cuộc rồi.
Vấn đề nơi đây là cần ghi nhận đứng đắn nội lực
thực tế của VN đứng trước vận hội mới này, nghĩa là
VN trao đổi, xuất cảng ra thế giới bên ngoài những
gì? Và ngược lại phải nhập cảng từ ngoại quốc những
sản phẩm nào? Giải đáp hai câu hỏi trên, chúng ta có
thể hình dung được thế mạnh và yếu của VN trong
tương lai. Từ đó, có thể dự phóng được một viễn ảnh
cho đời sống người dân trong những ngày hậu WTO.
Tính đến ngày hôm nay, VN đã xuất cảng đi khắp nơi
trên thế giới một số lượng đáng kể về trọng lượng,
nhưng ngược lại thu hồi một số ngoại tệ không đáng
kể so với lượng hàng bán ra. Đó là nông phẩm, thực
phẩm, tôm cá, các mặt hàng gia công như quần áo,
giày da, xẽ gỗ, dầu thô và một số mặt hàng tiểu thủ
công nghệ.
Ngược lại, VN phải nhập cảng xăng dầu và nguyên vật
liệu, máy móc thiết bị, hóa chất, phân bón, thực
phẩm "cao cấp" như thịt gà, bò....., năng lượng,
viễn thông, ngân hàng..... Đây là những mặt hàng nhẹ
về cân lượng nhưng cần phải chi ra một số lớn ngoại
tệ. Do đó, VN luôn luôn đối mặt với sự thâm thủng
ngân sách cho ngoại thương từ trước đến nay.
Thêm nữa, những mặt hàng xuất cảng của VN chỉ để
giải quyết cuộc sống của hàng triệu nông dân hay
công nhân với mức lương tối thiểu- trong khi đó cuộc
sống của nông dân và công nhân VN ngày càng tệ hại
hơn, mặc dù VN cố gắng gia tăng mức sản xuất hàng
năm. Lấy thí dụ về ngành may mặc hiện tại. Một công
nhân Việt Nam làm việc 12 giờ/ngày, sáu ngày/tuần
lãnh được từ 600 đến 800 ngàn Đồng VN/tháng, tương
đương 37 đến 50 Mỹ kim. Trong lúc đó, một thợ may
Việt Nam tại Mỹ làm việc tám giờ/ngày với mức lương
tối thiểu quy định là 7,75 Mỹ kim/giờ, tức 62
US$/ngày, hơn xa một tháng lương của một công nhân
cùng ngành tại VN.
Tại thị trường nội địa, hiện tại VN đang làm chủ vì
lợi thế sân nhà, và một số ngành nghề còn độc quyền
và không cho người ngoại quốc tham dự. Do đó, mức
cạnh tranh chưa hề được đặt ra, và nếu có, chỉ là
những cạnh tranh giữa những nhà kinh doanh trong
nước mà thôi.
Một khi cánh cửa WTO mở toang, VN sẽ không còn lý
do nào để cấm đoán ngoại quốc tham gia trực tiếp vào
thị trường nội địa của VN. Từ đó, mức cạnh tranh sẽ
quyết liệt hơn và chưa chi thua thiệt có thể chắc
chắn về phần doanh thương VN qua sự chênh lệch về
nguồn vốn, kỹ thuật, cung cách khuyến mãi, và thị
hiếu của người tiêu dùng VN.
Xin đan cử một thí dụ điển hình qua hình thức
thương mại đơn giản nhất là hệ thống siêu thị : Siêu
thị Walmart ( Hoa Kỳ) có mức doanh thu gấp 5-6 lần
tổng sản lượng của VN, có thể tiêu diệt các siêu thị
nội địa trong cung cách thu mua với giá rẽ hơn vì họ
có thể chấp nhận không lời, hoặc lỗ trong thời gian
đầu vì có nhiều tiền vốn. Thêm nữa, họ có khả năng
nhập thực phẩm và hàng hóa từ ngoại quốc vào- điều
trên đâøy càng nguy hiểm hơn vì nó có thể giết chết
nhiều dịch vụ chăn nuôi và trồng tỉa của người dân.
Một lợi thế nữa của các siêu thị ngoại quốc là dịch
vụ thanh toán thường chỉ giải quyết sau 90 ngày nhận
hàng, chính điều này khiến cho những nhà cung cấp VN
sẽ không còn khả năng tài chính để trả nợ cho ngân
hàng sau mỗi thời vụ.
Trước mắt, chúng ta thấy rõ những kỹ nghệ của VN
liệt kê sau đây đang đi dần vào chỗ bế tắc :
- Kỹ nghệ đường hiện nay hoàn toàn bị phá sản vì
không cạnh tranh được so với đường Trung Quốc và
Thái Lan có phẩm chất tốt hơn và giá rẽ hơn. Việc
này kéo theo sự bế tắc của nông dân trồng mía.
- Chăn nuôi gia súc ở VN cũng đang đứng trước cơn
phá sản do kỹ thuật chăn nuôi còn nhiều khiếm
khuyết. Từ đó, việc nhập cảng cánh và đùi gà Mỹ hiện
tại là một dịch vụ đem nhiều lợi nhuận lớn lao. Vì
cánh và đùi gà Mỹ giá rất rẽ $0.2/bls ( vì người Mỹ
không thích ăn) , khi nhập vào VN có thể bán ra
$1,5/kg.
- Các kỹ nghệ đơn giản khác như xe đạp, dụng cụ làm
bếp, trang trí nội thất sẽ không còn khả năng cạnh
tranh với hàng TQ nếu chưa nói đến các nhà sản xuất
lớn như ở HK, Pháp, Ý..... Những mặt hàng rất bắt
mắt và được người VN ưa chuộng từ lâu. Chính tâm lý
ưa chuộng hàng ngoại quốc của người VN sẽ giết chết
công kỹ nghệ VN khi VN gia nhập vào cuộc chơi chung.
Và mặt trái của WTO có thể biến VN thành một thị
trường tiêu thụ của quốc tế hơn là một thị trường
sản xuất.
Một số rào cản VN đang đối mặt trước ngưỡng cửa WTO
được tiếp tục trình bày sau đây cũng là những gợi ý
mà VN cần lưu tâm. Đó là những cản ngại của khu vực
quốc doanh, ngành ngân hàng, khả năng vận chuyễn
đường biển, ngành viển thông di động và một số phản
ứng tâm lý của người dân VN trước tiến trình toàn
cầu hóa.
Cản ngại của
khu vực quốc doanh
Một trong nhiều yêu cầu để VN gia nhập vào WTO là
VN phải minh bạch trong việc kiểm toán chi thu của
quốc gia. Do đó, lần đầu tiên trong lịch sử đảng,
CSVN đã đưa ra bản báo cáo từng phần ngân sách nhà
nước năm 2005. Theo đó, riêng trong lãnh vực quốc
doanh, 19 tổng công ty và ngân hàng quốc doanh trên
4.447 quốc doanh toàn quốc, cho thấy kết quả kiểm
toán hoàn toàn đưa đến việc thua lỗ và công ty quốc
doanh đã làm kinh tế theo một chính sách phi kinh tế
. Sau đây là vài con số thua lỗ cũa các công ty quốc
doanh trong năm 2005: Ngành dệt may lỗ 328 tỷ Đồng ;
ngành giấy lỗ 199 tỷ Đồng ; ngành lương thực lỗ 183
tỷ Đồng (1 tỷ Đồng tương đương 60.000 Mỹ kim). Tổng
số nợ của 16 doanh nghiệp các ngành kễ trên là
47,000 tỷ đồng, tương đương với 80% tổng tài sản của
các công ty. Do đó, những công ty trên hoàn toàn
không còn khả năng thanh toán phần nợ và lỗ lã.
Hiện tại, con số các công ty quốc doanh biến thành
cổ phần hóa (tức tư nhân hóa) là 3.830. Trong đó vốn
nhà nước là 49%, công nhân viên, cán bộ trong doanh
nghiệp đóng góp 26%, và vốn tư nhân đầu tư ngoài
doanh nghiệp 25%. Với tỷ lệ và thành phần cổ đông
như trên, thì trách nhiệm hay linh hồn của công ty
vẫn là nhà nước hay quốc doanh mà thôi. Và đối với
việc kinh doanh lỗ lã trên, nhà nước VN lại phải
gánh chịu hay " Đất nước VN" qua hơn 84 triệu dân,
phải cật lực lao động để trả nợ? Và một khi đã "giải
tư" theo cung cách vừa kể, công ty tư doanh cổ phần
sẽ thuộc về ai? và ai sẽ chịu trách nhiệm? Do đó,
qua việc tư nhân hóa để thỏa mãn yêu cầu cũa những
luật định WTO, vô hình chung, VN đã biến các công ty
quốc doanh thành một loại công ty dưới cơ chế bao
cấp khác.
Ngoài ra, đừng quên rằng, đã từ hơn 30 năm qua ở
VN, các cơ chế làm kinh tế bao cấp đã đưa đất nước
vào ngõ cụt. Có thể nói nhận định gần đây của ông
Đào Xuân Sâm, ban nghiên cứu của Thủ tướng hiện tại,
đã nói lên một cách rốt ráo vấn đề nầy: " Trong hơn
10 năm qua, song song với vịệc tư doanh đổi mới và
tăng trưởng thành công, khu vực kinh tế nhà nước
trên thực tế đã trở lại cơ chế cũ tập trung quan
liêu - bao cấp, có khác chăng là trong nền kinh tế
thị trường "bao cấp hiện vật" chuyển thành "bao cấp
tài chính" ". Và cơ chế bao cấp này cũng chính là
mọt hình thức của cơ chế xin - cho, đã trở thành
miếng đất màu mỡ cho nạn tham nhũng lộng hành trong
khu vực nhà nước, từ đơn vị kinh tế cơ sở đến các
cấp cao nhất của chính quyền".
Như vậy, VN làm thế nào và bằng cách nào để thực
hiện được lời T.T Nguyễn tấn Dũng mới vừa tuyên bố
là trong vòng 5 năm tới, VN bảo đảm cổ phần hóa 100%
doanh nghiệp quốc doanh?
Cản ngại của
ngành ngân hàng
Cũng theo quy định của WTO, VN phải mở cửa ngân
hàng, chấp nhận dịch vụ ngân hàng ngoại quốc trong
giai đoạn chuyển tiếp (năm năm sau khi gia nhập) có
thể đầu tư tối đa 30% tổng số vốn của ngân hàng. Một
khi VN chính thức vào cuộc, tư nhân nào có thể mua
cổ phần còn lại (tức 70%) của một ngân hàng ngoại
quốc, vốn dĩ có nguồn vốn lớn và bằng hệ thống tiền
tệ cứng (hard currency), trong lúc đó tư nhân, hay
tập thể tư nhân VN chỉ có khả năng đóng góp bằng
những số vốn nhỏ và thế chấp, cũng như chuyển hóa cơ
sở vật chất thành tiền. Từ đó, dù công ty ngoại quốc
không chiếm đa số tuyệt đối, nhưng vẫn có khả năng
khuynh đảo thị trường bằng những thủ thuật kinh tế
tư bản, và VN sẽ chịu một sức ép không nhỏ về vấn
nạn này.
Trở lại các Công ty ngân hàng VN, một trong những
lý do các doanh nghiệp quốc doanh thua lỗ mà vẫn tồn
tại cho đến ngày hôm nay, là việc nhà nước tiếp tục
bơm tiền bù lổ thông qua các ngân hàng quốc doanh .
Hay nói cách khác, các ngân hàng phải chịu sức ép từ
nhà nước, bị bắt buộc tiếp tục cho công ty quốc
doanh vay căn cứ theo chủ trương chính trị hơn là
căn cứ theo tình trạng kinh tế.Và sau cùng, ngân
hàng được nhà nước tái cấp thêm những ngân khoản bổ
sung. Đó là trường hợp của bốn ngành Ngân hàng Công
thương, Ngân hàng ngoại thương, Ngân hàng Đầu tư
& Phát triển, Ngân hàng Nông nghiệp & Phát
triển. Do đo,ù việc cổ phần hóa ngân hàng quốc doanh
hoàn toàn bế tắc, và việc chuyển doanh nghiệp quốc
doanh sang chế độ hoạt động của một công ty trách
nhiệm hữu hạn là một việc làm không tưởng, ít ra
trong những năm sắp tới.
Cản ngại về
khả năng chuyễn vận hàng hóa
Việc gia nhập vào WTO đòi hỏi quốc gia thành viên
phải có tiềm lực về chuyễn vận hàng hóa hai chiều.
VN đã chuẫn bị vấn đề này như thế nào? Các thông tin
dưới đây tương đối đầy đủ để mô tả tình trạng vận
chuyển đường biển của VN.
Chỉ bốn ngày sau khi được bãi bỏ cấm vận năm 1994,
công ty chuyễn vận hàng hóa APL, Hoa kỳ đã bắt đầu
hoạt động trở lại cho các tuyến đường Mỹ - Việt Nam.
Đây là một đại công ty trong dịch vụ chuyễn vận trên
50 quốc gia. Từ năm 2004, APL đã thành lập thêm hai
chi nhánh là Vietnam China Express (VCX ) và
Haiphong China Express (HCX ). Những dịch vụ này đã
rút ngắn thời gian vận chuyễn trong những năm trở
lại đây: Từ Sài Gòn đến Seattle chỉ còn 15 ngày, và
Saigòn đến Los Angeles là 17 ngày. Còn Hải Phòng đến
Seattle và Los Angeles là 13 và 15 ngày. Ưu điểm này
đã làm giảm giá thành và tăng thêm lượng hàng hóa
giao thông do việc gia tăng lượng chuyển vận đi -
về.
Trong khi đó, tình trạng vận tải đường biển của VN
hoàn toàn không đáp ứng nhu cầu vận chuyễn viễn liên
này. Theo thống kê, VN có trên 1000 tàu với tổng
trọng tải khoảng 3,5 triệu tấn, trong đó chỉ có hơn
300 tàu hoạt động trên các tuyến đường quốc tế trong
khu vực. Các tàu vận chuyển VN có trọng tải dưới
20,000 tấn, cho nên không có khả năng giải quyết mức
trao đổi hàng hóa đường biển. Và bất lợi hơn nữa là
giá thành vận chuyển cao và vòng xoay đi - về không
đạt hiệu quả kinh tế.
Theo thống kê 2005, đội tàu VN chỉ chiếm 7% số tấn
trọng tải hàng hóa 2 chiều mà thôi. Trong lúc đó
những nước nhỏ láng giềng như Singapore chỉ có
khoảng 900 tàu nhưng tổng trọng tải lên đến 36,5
triệu tấn. Thậm chí, đội tàu của Campuchia đã chuyễn
vận gần 5 triệu tấn, hơn VN hàng triệu tấn. Do đó,
ngay tại sân nhà, đội tàu VN đã bị lấn áp bởi các
công ty ngoại quốc như Maersk line, NYK, P&O
trong dịch vụ chuyển vận dầu thô và hàng hóa trong
vùng.
Những thông tin trên cho thấy rằng VN còn phải đối
mặt với nhiều sức ép sau khi gia nhập vào WTO, và
nếu không có kế hoạch tạo dựng một lực lượng tàu với
trọng tải lớn hơn, huấn luyện nhân viên quản trị
chuyễn vận, cùng điều chỉnh và canh tân hệ thống
quản lý điều hành, thì cuộc chạy đua cạnh tranh với
quốc tế sẽ thấy VN ở thứ hạng thấp nhất.
Cản ngại của
ngành viễn thông và điện thoại di động
Đây là một ngành tương đối mới ở VN mà trong những
năm gần đây mức tăng trưởng của việc xử dụng điện
thoại di động tăng từ 60 đến 70% hàng năm. Tính đến
2005, tổng số điện thoại di động thuê bao ở cả nước
đạt được 12 triệu . Chính vì lý do đó, các hảng điện
thoại ngoại quốc như Motorola, Nokia, Siemens,
Ericsson, Telenor và Lucient Technologies đã khai
thác và ráo riết cung cấp dịch vụ ở VN. Trong lúc
đó, VN chỉ hiện diện qua năm công ty quốc doanh mạng
di động như Vina phone, Mobifone, Viettel mobile,
S-fone, E-mobile đang hoạt động, và một công ty mới
sắp ra mắt là Hanoi Telecom.
Đứng trước sự xâm nhập của các đại công ty ngoại
quốc, từ tháng 1 năm 2006 vừa qua, các công ty VN
đồng loạt hạ giá cước, do đó cước viễn thông của VN
giảm dần và đang ở mức giá trung bình tại ĐNA, không
còn đứng đầu như cách đây năm năm. VN cũng đã dự trù
vào 2008 sẽ phóng vệ tinh VINASAT, từ đó sẽ tạo cơ
hội cạnh tranh nhiều hơn với các công ty nước ngoài.
Và VN cũng dự trù cổ phần hóa (tư nhân hóa) các công
ty trên để có thể hội nhập vào thị trường chứng
khoán tự do.
Nhờ vào những lợi điểm trên sân nhà, VN đã đẩy mạnh
chương trình viễn thông di động, tuy nhiên với nguồn
vốn không đủ lớn, sau khi hội nhập cuộc chơi WTO,
các công ty ngoại quốc có thể khai thác sức mạnh
nguồn vốn để thôn tính các công ty VN qua các điều
kiện thuận lợi trong thị trường VN, mặc dù trong
giai đoạn chuyển tiếp, các công ty nước ngoài chỉ
được đóng góp vốn đến 49% và cũng chỉ được liên
doanh với đối tác VN đã được cấp giấy phép.
Hơn nữa, ngoài khả năng nguồn vốn, công ty ngoại
quốc còn ở thế mạnh về công nghệ sản xuất và cung
cách khuyến mãi theo cung cách tư bản làm cho công
ty VN khó có khả năng đối đầu ở mặt trận nầy. Tuy
nhiên, VN cũng có thể dùng thời gian còn đặc ân 12
năm để làm rào cản hạn chế bớt sự xâm nhập của các
công ty viễn thông ngoại quốc vào VN.
Cũng cần lưu ý là, hiện tại VN chú trọng nhiều đến
viễn thông di động, nhưng không phát triển viễn
thông "cố định", tức là điện thoại dùng hệ thống dây
cáp quang để có thể liên lạc và thông tin khi có
biến động xảy ra như chiến tranh hay áp lực của thế
giới tây phương. Vì còn lệ thuộc vào ngoại quốc, VN
chưa chủ động được việc điều hành vệ tinh viễn
thông, cho nên viễn thông di động VN có thể bị gián
đoạn, vì các công ty cho thuê bao vệ tinh viễn thông
có thể cắt đứt hợp đồng trước sức ép của quốc tế(!)
để gây khó khăn cho VN.
Cản ngại do
tâm lý dân tộc trước tiến trình toàn cầu hóa
T.S Branco Milanovic, kinh tế gia của Ngân hàng Thế
giới (WB) đưa ra nhận định cần suy gẫm. Đó là "Toàn
cầu hóa đã làm tăng thêm sự bất bình đẳng giữa công
dân của những nước giàu nhất cũng như giữa các quốc
gia đang phát triển". Lý do làm ông đưa ra nhận định
trên là những phản ứng trái ngược từ phía các quốc
gia kỹ nghệ và những nước đang phát triển đối diện
với sự phất triển của Ấn Độ và Trung Quốc.
Đó là:
- Các cường quốc trong WTO "khó chịu" trước nhũng
bước tiến của TQ và AĐ, dù họ cũng thực hiện cùng
một chiến lược toàn cầu hóa do các cường quốc khơi
mào.
- TQ và AĐ hiện có khả năng cạnh tranh trên phạm vi
toàn cầu, nhưng chỉ có một phần nhỏ dân cư của họ có
cuộc sống phồn vinh. Sự bất bình đẳng ngày càng tăng
giữa dân thành thi và nông thôn, giữa miền duyên hải
và nội địa ở Trung Quốc; những bất ổn chính trị cũng
có thể tự đó mà có.
Tại VN, sau hơn 20 năm mở cửa phát triển, và sau 10
năm mức tăng trưởng đạt chỉ tiêu từ 7% trở lên, VN
phải đối mặt với tình trạng môi trường hầu như bế
tắc qua việc tận dụng nguồn tài nguyên đất đai trong
phát triển nông nghiệp, chăn nuôi và trồng trọt.
Việc phát triển và xuất cảng hàng năm 5 triệu tấn
gạo, thu hồi 1,5 tỷ Mỹ kim, cũng như việc xuất cảng
hải sản thu hồi trên 5 tỷ, có đem lại sự phồn vinh
hay cải thiện cuộc sống của người dân ĐBSCL hay
không? Nhìn vào mức di dân từ vùng này vào các thành
phố lớn, nhìn vào tệ trạng học sinh bõ học hàng loạt
trong những năm gần đây, nhìn vào việc chấp nhận
"làm dâu" người ngoại quốc của các thiếu nữ miền
Tây, nhìn vào tất cả những hình thái tệ hại nhất
trong việc buôn người, bán trẻ con... chúng ta cũng
đã có thể hình dung câu trả lời.
Thêm nữa, việc khai thác quá độ nguồn đất ở VN sẽ
đưa đến mhững thảm họa không xa. LHQ mới vừa cảnh
giác, nếu VN tiếp tục khai thác như những năm vừa
qua, thì trong vòng 10 năm nữa sẽ có 4 triệu mẫu đất
bị sa mạc hóa.
Đây cũng là nguyên nhân dự báo trước khiến cho tâm
lý người dân ở những vùng nông nghiệp, vùng sâu và
xa càng thêm tuyệt vọng và ngày càng đánh mất lòng
tự trọng để làm bất cứ việc gì chỉ vì kế "mưu sinh".
Chính họ đã xem nhẹ số phận của chính mình và không
còn niềm tin vào chính sách của nhà nước nữa. Tâm lý
trên đã tạo ra một thái độ bất cần đời, bất hợp tác,
hay nguy hiểm hơn nữa, là có thể tạo ra những bất ổn
xã hội vì "cơm áo". Từ đó có thể đưa đến một bất ổn
chính trị nếu có một sự khơi mào trong tầng lớp bần
cùng này. Đây cũng là một cản ngại mà VN cần phải
lưu tâm.
Thay lời kết
Sự phát triển xã hội của một quốc gia được đánh giá
là bền vững khi tầng lớp trung lưu chiếm đa số như ở
các quốc gia Tây Âu và Hoa Kỳ. Và chính tầng lớp
trung lưu nầy là tác nhân điều tiết mọi biến động
kinh tế của quốc gia. Trong trường hợp VN, mặc dù
mức tăng trưởng có đều nhưng đồng thời khoảng cách
giàu nghèo cũng gia tăng, và trong tình trạng hiện
tại, tầng lớp trung lưu chỉ chiếm theo ước tính độ
30% chưa đủ để làm chất đệm cho xã hội. Chính hai
yếu tố nầy nói lên cung cách phát triển kinh tế của
VN là chưa bền vững được.
Đồng thời với việc gia nhập vào ngưỡng cửa WTO, VN
đã lên tiếng báo động là có thể có 600 ngàn công
nhân ngành dệt may, 300 ngàn công nhân ngành giầy
da, 400 ngàn nông dân chăn nuôi thủy sản có nguy cơ
bị mất việc vì cạnh tranh. Vấn đề được đặt ra nơi
đây không phải là những con số dương tính hay âm
tính. Nhưng l à việc VN cần soi chiếu vào tình trạng
hiện tại của quốc gia để hoạch định hướng hội nhập
thích nghi với tiến trình toàn cầu hóa mà trong đó
việc gia nhập vào WTO chỉ là một bước trong tiến
trình trên.
Qua những gợi ý về những cản ngại căn bản trên,
việc gia nhập vào WTO của VN không phải là một yếu
tố đòn bẩy chủ yếu tạo nên tăng trưởng kinh tế quốc
gia. Điều cốt lõi là VN cần phải chuyển đổi não
trạng, xác định rõ chính mức tăng trưởng kinh tế
quốc gia mới có thể tạo điều kiện thuận lợi cho xây
dựng và thúc đẩy quá trình hội nhập của VN để được
thành công hơn. Đây mới đúng là mục tiêu tối hậu của
việc hội nhập vào cuộc chơi của toàn cầu.
Muốn
đạt mục tiêu, VN cần phải phát triển lành mạnh và
trong sáng trong quản lý, nghĩa là tạo ra một xã hội
pháp trị, quản lý bằng luật định của quốc hội chứ
không bằng nghị quyết đến từ bất cứ nhân vật cao cấp
nào trong đảng. VN cần phải bình đẳng và công bằng
trong mọi quyết định về nhân sự, đặc biệt là nhân sự
trong vấn đề quản lý kinh tế và kế hoạch, khuyến
khích tư nhân đầu tư nguồn vốn và chất xám vào công
cuộc phát triển quốc gia chung. Đặc biệt là cần phải
chấm dứt chính sách Hồng hơn Chuyên, vì đây mới đích
thực là một cản ngại lớn nhất cho mọi tiến bộ của
đất nước..
Làm được như thế, VN sẽ giảm bớt gánh nặng phá sản
của các công ty quốc doanh, kéo theo mức thâm thủng
của ngân hàng qua những món nợ "xấu". Hai yếu tố sau
nầy là nguyên nhân chính của tình trạng tham nhũng
trong nước.
Chương trình Phát triển LHQ (UNDP) đã nhận định
rằng, qua tám năm thi hành "quy chế dân chủ cơ sở",
VN vẫn không thực hiện được lời hứa một cách nghiêm
chỉnh mà bị nhiễm bởi "chủ nghĩa hình thức" và môi
trường dân chủ của VN là một "môi trường bất thường"
vì chế độ độc đảng.
Suy gẫm lại đúc kết của Chương trình Phát triển
LHQ, chúng ta có thể thấy được những nguyên do của
sự trì trệ trong phát triển Việt Nam từ bây giờ để
từ đó, hy vọng có những chuyển đổi tích cực hơn trên
đường áp dụng các quy định của Tổ chức Thương mại
Thế giới (WTO) trong tương lai.
Tết Đinh Hợi - 2007
----------------------------
Copyright (c) 2006 by kinhtehoc.com
Nguồn:http://www.kinhtehoc.com/index.php?name=News&file=article&sid=262
Con
Đường Gập Gềnh của Đổi Mới
Sophie Quinn-Judge
tq2cute
dịch
Những cải tổ kinh tế được thực hiện trên nước
Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam từ 1986 đã giúp Việt
Nam trở thành một quốc gia ưa chuộng đối với
các trung tâm cho vay đa phương và cơ quan
phát triển. Những hoạt động chuyển đổi từ nền
kinh tế nhà nước kế hoạch đã đem đến một quốc
gia nghèo đói vì chiến tranh của ngày nào một
sự phát triển kinh tế ngang hàng với Trung
Quốc. Đồng thời, nhà nước đã thực hiện những
chính sách giảm nghèo đã đạt được những tiến
bộ trong lãnh vực thu hẹp sự khác biệt giữa
người mới giàu và người nghèo.
Hai mươi năm trước, Hà Nội là một thành phố
đổ nát từ thuộc địa Pháp, với vài dẫy nhà
chung cư ven thành phố. Từ nơi cao nhất của
khu khách sạn sang trọng ở trung tâm Hà Nội,
người ta có thể nhìn thấy những mái ngói đỏ
của thành phố củ, đến Sông Hồng và những gì
sau đó, nơi mà những phát triển xây dựng cho
tần lớp trung lưu đang mọc lên trên những
mẩu ruộng ngoài ô, gần những xí nghiệp đầu
tư của Nhật. Thành Phố Hồ Chí Minh, một thời
là Saigon và bây giờ thường được gọi là
Thành Phố, đã quay lại với sự sôi nổi và hỗn
loạn của nó. Những con đường bị nghẽn bởi xe
máy đã làm một số nhân viên kế hoạch đô thị
nghĩ tới việc cấm các xe máy, nhưng hình như
không ai có thiện ý mạo hiểm một chính sách
cấp tiến và phản quần chúng như thế.
Như Trung Quốc, những thay đổi chính trị và
trí thức đã tụt hậu với những biến đổi kinh
tế. Sự thật là vì giao tiếp với thế giới bên
ngoài nhiều hơn, hệ thống mạng và sự tự tin
của nhà nước đã phần nào mang lại một quan
điểm cởi mở đối với một số tác giả và văn
hóa phương Tây, một thời là điều cấm, nhất
là âm nhạc và trang phục. Người ngoại quốc
có thể du lịch tự do phần nhiều các nơi
trong nước. Tuy nhiên, vẫn còn sự phân biệt
rõ ràng hai loại đổi mới. Đổi mới kinh tế đã
ảnh hưởng đến đa số và bây giờ không thể đi
ngược được. Sự tiến bộ có thể được đo lường
bằng số liệu, và nó đang mang lợi đến cho
toàn dân, từ đảng viên đến người bán rong.
Đổi mới chính trị, ngược lại, vẫn còn mơ hồ
và khó ước lượng, vì không có ranh giới rõ
ràng và đảm bảo những quyền lợi cá nhân.
Nói về dân chủ hóa thường ám chỉ đến sự mở
rộng cấu trúc Đảng Cộng Sản. Mặc dù Quốc Hội
(National Assembly) bây giờ có một vai trò
rõ ràng trong việc thảo luận pháp luật,
những thành viên được bầu thường được kỹ
lưỡng chọn trước, phần đông là đảng viên.
Những quyền đảm bảo bởi Hiến Pháp 1992 phù
hợp với những quy định dân chủ hiện thời,
nhưng nó có thể bị bác bỏ nếu việc làm của
các cá nhân được xem như phá hoại đến Đảng.
Những nhà trí thức Việt Nam nói rằng trường
hợp này dẫn đến một tình trạng thụ động
trong đó ý kiến lập dị và mới bị dập tắt bởi
sự ép buộc tuân thủ hiện trạng. Như quốc gia
này nhìn tới tương lai sau Đại Hội Đảng X
vào tháng sáu năm 2006, có một điều không
xác thực về hướng đi kế tiếp sẽ như thế nào.
Trước Khi
Đổi Mới
Người ta nghĩ rằng biểu thị lịch sử đổi mới
là đơn giản, với sự liệt kê những nghị định
và chính sách. Nhưng có vài sự phức tạp.
Lịch sử của đổi mới chính trị từ cuối thập
niên 1970 đến bây giờ không phải là điều mà
các nhà lãnh đạo Việt Nam nhất quán đồng ý.
Hiện tại, có một sự thiếu hứng thú quá rõ
trong nội bộ Đảng Cộng Sản để làm sáng tỏ
vấn đề lịch sử -- nó thường được diễn tả như
một quá trình diễn biến không tránh được.
Nhận định phi chính trị này giới thiệu đến
Đảng như là một quá trình tiến triển để sữa
đổi những sai lầm dưới sức ép của quần chúng
- một nhận định mà các học giả có thể mô tả
như là mô hình "chính trị hàng ngày". Quyết
định táo bạo để thay đổi hướng đi của quốc
gia không nằm trong công việc của bất cứ cá
nhân nào - Gov-ba-chev, Yelt-sin, hay Đặng -
mà nằm trong sự đồng thuận của tập thể ứng
phó với cơn khủng hoảng.
Tuy nhiên, nếu nhìn lại những năm tháng khó
khăn nhất sau chiến tranh, nền kinh tế Việt
Nam bị sụp đổ, giữa những năm 1978 và 1982,
người ta có thể thấy rằng giải pháp cho nổi
thống khổ kinh tế là một đề tài tranh luận
ác liệt cho tới năm 1985. Và nếu một người
quay trở lại xa hơn của những năm 1960,
người ta khám phá rằng cũng có một cuộc
tranh luận như thế trong nội bộ Đảng Lao
Động (tiền thân của Đảng Cộng Sản cho tới
năm 1976) về giá trị tương đối giữa nền kinh
tế hỗn hợp hay nền kinh tế thuần cộng sản.
Sự khác biệt căn bản là tốc độ quốc gia sẽ
phát triển đến trạng thái cộng sản.
Những người trung lập với những vấn đề xã
hội, trong đó có Hồ Chí Minh, Lê Duẫn, và Võ
Nguyên Giáp, ủng hộ một cách tiếp súc chậm
hơn để thay đổi kinh tế miễn rằng chiến
tranh để thống nhất đất nước được tiếp tục.
Họ cũng tán thành một quan điểm cởi mở vấn
đề đấu tranh giai cấp, nghĩa rằng họ không
thấy sự cần thiết thanh lọc trí thức và giới
trung lưu trong hàng ngủ cán bộ và lãnh đạo
nhà nước. Quan điểm của họ có thể được tóm
gọn là thực dụng để thống nhất mọi người
trong xã hội và nền kinh tế hỗn hợp. Đây là
quan điểm cuối cùng đã chiến thắng năm 1986.
Ở miền Bắc vào những năm sau khi nam bắc
thống nhất, chính sách kinh tế từ những năm
1950 đến 1980 đã bị ảnh hưởng nặng nề bởi
hướng đi của khối xã hội chủ nghĩa, nhất là
bị ảnh hưởng bởi Trung Quốc và Liên Bang Xô
Viết. Sự kiện như Đại Hội Đảng 1956 ở Liên
Bang Xô Viết, Đại Dược Tiến (Bước Nhảy Vọt)
và Cách Mạng Văn Hóa của Trung Quốc, việc
Liên Bang Xô Viết quay lại với tính chất
chính thống thời Sta-lin trong những năm
dưới sự lãnh đạo của Leonid Brezhnev đều
hình như có sự ảnh hưởng tới hướng đi của
nền kinh tế Việt Nam, cũng giống như vận
mệnh chính trị quốc gia.
Một thực tiển, sau Đại Dược Tiến (Bước Nhảy
Vọt), một thảm họa cho nông nghiệp, dường
như đã ảnh hưởng đến những chính sách nông
nghiệp của Bắc Việt trong những năm 1960. Từ
1960 đến 1962, "hệ thống trách nhiệm gia
đình" [1] đã
được dùng để phục chế tăng trưởng nông
nghiệp ở tỉnh An Hui, một vùng bị ảnh hưởng
nặng nề bởi chính sách Cải Cách Ruộng Đất.
Hệ thống này cho phép các hộ gia đình ký hợp
đồng sản xuất số lượng tối thiểu trên thửa
ruộng giao cho, và phần thừa được bán ra
ngoài. Gần với Việt Nam là tỉnh Guan-xi, hệ
thống này cũng được áp dụng. Chính sách này
cho phép những hộ gia đình phục hồi sản
lượng nông nghiệp trong vòng vài mùa, nhưng
nó cũng là điểm mà Lãnh Tụ Mao bị chỉ trích
ở Đại Hội năm 1962, và sau đó bị dập tắt.
Ở Việt Nam, hệ thống này đã được thí điểm
trong vài tỉnh khoảng năm 1963, nhưng nó
cũng là chủ đề của các cuộc phê bình ý
tưởng. Vào cuối năm 1960, Cộng Hòa Dân Chủ
Việt Nam (tiền thân của Cộng Hòa Xã Hội Chủ
Nghĩa Việt Nam) đã phụ thuộc vào viện trợ
thực phẩm từ những đồng minh xã hội chủ
nghĩa, vì thế Việt Nam có đủ khả năng thi
hành phương châm sản xuất theo chủ nghĩa
thuần túy. Cuối năm 1968, Trường Chinh, nhà
lý thuyết hàng đầu và cũng là Tổng Bí Thư
của 1951-1956, đọc một bài diễn văn phản đối
kịch liệt các thí nghiệm hợp đồng với các hộ
gia đình như là một sự trệch hướng từ công
cuộc hợp tác xã của đảng. Trong một bài diễn
văn khác năm 1968, ông ta đã tuyên bố rằng
mục tiêu của đảng là loại trừ thương mại tư
nhân.
Benedic Kerkvliet và những học giả khác
nghiên cứu nông nghiệp Bắc Việt đã chỉ ra
rằng đó là điều không thể cho đảng thi hành
ngăn cấm hợp đồng với các hộ gia đình và
thương mại cá nhân. Nông dân đã làm những gì
phải làm để sống còn, và đó là thường tham
gia vào việc tham nhũng cán bộ cấp dưới và
để dành thời gian làm miếng vườn nhỏ của gia
đình. Mặc dù vậy, quan điểm chính thống đưa
xuống năm 1968, ảnh hưởng bởi Liên Bang Xô
Viết đàn áp cuộc cải tổ Tiệp Khác và hệ tư
tưởng chống tư bản của Cách Mạng Văn Hóa, đã
để lại các dấu tích ở Việt Nam. Nó có nghĩa
là chính sách hậu chiến sẽ bị ảnh hưởng nặng
nề bởi những hệ lý tưởng.
Những Sai
Lầm Sau Chiến Tranh
Sau ngày 30 tháng 4 năm 1975, chiến thắng
Bắc Việt ở miền Nam, cách mạng của người
Việt Nam tiến thêm một giai thoại. Một cuộc
họp chính trị vào tháng mười một (1975)
thông cáo rằng toàn nước sẽ thống nhất năm
1976. Như là cuối năm 1973, lãnh đạo đã hứa
sẽ có một cuộc chuyển tiếp lâu dài cho miền
nam, trước khi hai miền có thể hòa nhập.
Thay vào đó, chính sách "xã hội chủ nghĩa
hóa" miền Nam đi nhanh hơn dự định, xong
hành với sự chuyển đổi ngành nông miền bắc
bằng sự xây dựng hợp tác xã to hơn và cơ khí
hóa.
Năm 1978 nhà nước đã bắt đầu chiến dịch
đánh tư sản. Mục tiêu là cưỡng ép thương gia
tư nhân tham gia lao động sản xuất, nếu cần
mang đi vào "Vùng Kinh Tế Mới" ở ngoại ô.
Chính sách hợp tác xã ở miền Nam bắt đầu
bằng sự khuyến cáo bà con hùng vốn, công cụ
và sức lao động. Những biện pháp này mang
tính phản quần chúng, và kết quả là sản
lượng đã giảm vào một thời điểm Việt Nam
không có điều kiện hứng chịu. Những biện
pháp này đã kích động một làn sóng tị nạn,
gọi là "thuyền nhân", phần đông là người Hoa
ở đô thị và thành viên của giai cấp trung
lưu.
Chấm dứt chiến sự vào năm 1975 đã dẫn đến
tình trạng cắt giảm viện trợ từ Xô Viết và
Trung Quốc. Việt Nam hy vọng cao độ rằng họ
sẽ được viện trợ bởi các nước Châu Âu và các
trung tâm cho vay đa phương, nhưng đến cuối
năm 1978, những hy vọng này đã bị vò nát khi
Việt Nam có chiến tranh với Cam-pu-chia.
Tình thế địa lý chính trị lúc đó có vẽ như
đe dọa Việt Nam. Họ đã quá lạc quan và tính
sai trong việc kiên trì cho một lời hứa viện
trợ trước khi bình thường hóa quan hệ với
Mỹ. Khi Việt Nam thấy được sự cần thiết để
đối trọng với những chính sách nặng tay của
Trung Quốc ở trong vùng, Mỹ đã không còn
hứng thú để bình thường hóa.
Chính thể Kờ-me được thành hình ở
Cam-pu-chia đã chứng minh họ là một người
láng giềng gai nhọn, quyết định vẽ lại biên
giới đường biển bằng vũ lực tháng 4 năm
1975, rồi bỏ cuộc trong việc thương lượng
biên giới năm 1976. Một loạt những xâm phạm
biên giới tiêu cực, trong đó quân Kờ-me đã
giết hàng trăm người dân Việt, đã thuyết
phục Việt Nam can thiệp vào Cam-pu-chia bằng
cách thiết lập chính thể đối lập. Quân đội
Việt Nam xâm lược Cam-pu-chia tháng 12 năm
1978, và vào tháng giêng năm 1979 đã đuổi
quân Kờ-me đến phần tây biên giới và tới
Thái Lan.
Sự chiêm đóng này, tới năm 1979, đã làm phí
tổn Việt Nam nặng nề. Việc đó làm xấu thêm
các căng thẳng tồn tại với Trung Quốc, ông
chủ bảo trợ chính cho Kờ-me, dẫn đến cả hai
cắt viện trợ và tháng 2 năm 1979, quân đội
Trung Quốc đã phá hủy nặng nề các thị xá gần
biên giới. Người Việt gốc Hoa, trong đó có
những thợ quặng mỏ và ngư phủ, đã tháo chạy
hàng ngàn. Vai trò của Việt Nam ở
Cam-pu-chia đã gây ra một cuộc tảy chay viện
trợ từ các nước phương Tây, ngoại trừ Thụy
Sĩ. Việt Nam bị đẩy vào hoàn cảnh chấp nhận
thành viên của COMECON, một khối tượng trợ
và giúp đỡ kinh tế xã hội chủ nghĩa.
Thất Bại và
Bắt Đầu
Tới năm 1979, nền kinh tế Việt Nam bị kiệt
quệ. Những chính sách kinh tế được cố vấn
sai, chiến tranh ở hai đầu biên giới, và sự
chấm dứt viện trợ sau chiến tranh đã hợp sức
để kiến sự thiếu thốn mọi thứ, kể cả thực
phẩm, hạt giống, và dụng cụ kỹ nghệ. Nhưng
sự khó khăn tột cùng đã có những kết quả
tích cực: nó đã bắt buộc nhà lãnh đạo chấp
nhận những chính sách thực dụng về nông
nghiệp và xây dựng lâu dài.
Sự thay đổi bắt đầu từ Hội Nghị Trung Ương
VI vào tháng 8 năm 1979, nghị quyết được
thông qua ra tín hiệu xanh cho khuyến kích
sản lượng và tăng quyền tự do quản lý địa
phương. Sự thay đổi đã có những ảnh hưởng
lớn nhất là chấp nhận hợp đồng với các hộ
trong hợp tác xã, và trở lại với chương
trình thí điểm của những năm 1960. Đại Hội
Đảng lần 5 đã phê chuẩn những thay đổi trong
cách thức quản lý năm 1982, khi những tham
vọng xã hội chủ nghĩa hóa của Đảng đã bị chỉ
trích. Một nhà phê bình đã lăng mạ tinh thần
Đại Dược Tiến của các nhà lãnh đạo. Chỉ tiêu
của kế hoạch 5 năm của năm 1976 đã bị hủy -
từ 1981 đến 1985 chỉ tiêu được đưa ra từ năm
một. Cuối năm 1982, Đảng có thể thông cáo
vượt mức 70% của các mục tiêu, và có cái đạt
trội 40 đến 50 phần trăm.
Tới năm 1985, tuy nhiên, Đảng vần còn bị
phân chia bởi một bên sợ sự trưởng thành của
chủ nghĩa tư bản, với những "tai họa kinh
khủng" và bên thực dụng đã nhận ra rằng "có
thực mới vực được đạo." Sự phân quyền giao
thương và kích lệ sản xuất cộng lại đã
khuyến khích những phê bình từ những người
lý tưởng, họ sợ rằng những phương sách này
làm yếu đi chủ nghĩa xã hội và đặt quá nặng
vấn đề thương mại vào tay người dân. Sự thật
là vào năm 1983, việc thương gia tư nhân
điều kiển hơn 50 phần trăm thị trường thực
phẩm, nông nghiệp, ngư nghiệp, lâm nghiệp
được coi là báo động.
Trong một thời gian ngắn để chống đối lại
những thay đổi, Hà nội đã đóng cửa các công
ty xuất nhập khẩu quốc doanh ở Thành Phố Hồ
Chí Minh, mà từ 1980 đã được phép hoạt động
để thu hút sự đầu tư của thương gia ngoại
quốc. Bất chấp những lợi ích đã được hình
thành, những công ty này được xem như những
ảnh hưởng tham nhũng bởi những người cực
đoan trong Bộ Chính Trị. Thành Phố Hồ Chí
Minh đã đại diện sự xấu xa của chủ nghĩa tư
bản, mà đại diện cho những người cộng sản lý
tưởng là Trường Chinh.
Mãi tới năm 1985-1986 những thay đổi chính
sách kinh tế bắt đầu an toàn và những quan
điểm trừng phạt của Đảng cũng đã thay đổi.
Sự nắm quyền của Mikhail Gorbacheve ở Liên
Bang Xô Viết và sự tấn công của ông ta vào
sự hẹp hòi kinh tế của lý thuyết chính thống
có sự liên quan tới cởi mở. (Sự thành công
của đổi mới kinh tế ở Trung Quốc dưới sự
lãnh đạo của Đặng Tiểu Bình cũng đã cho phép
Bộ Chính Trị Việt Nam suy nghĩ, và cám ơn sự
xa cách chính trị từ Bắc Kinh những năm qua,
họ đã không cần cảm ơn tầm quan trọng của mô
hình mới theo kinh tế Trung Quốc.) Bắt đầu
năm 1985, Việt Nam đã tấn công vào hệ thống
trợ cấp, theo nó là con đường cộng sản chủ
nghĩa. Vào tháng sáu, Đảng đã ra thông cáo
sự chấm dứt của trợ cấp về thực phẩm cho
công nhân nhà nước và sự giới thiệu tiền
lương hàng tháng, tăng theo chỉ số lạm phát.
Những thay đổi đầu mùa này không hoàn toàn
thành công - nó đã dẫn đến một màn lạm phát
khủng khiếp, tới 350 phần trăm một năm. Sự
cần thiết của nhà nước là tiền trả lương cao
hơn, trong khi đó công nghệ vẫn bị đình trệ
và sự chiếm đóng ở Cam-pu-chia đã tiếp tục
sáo mòn tài nguyên, và tất cả là công thức
cho cơn bệnh. Mặc dù Việt Nam đã cố gắng
loại trừ trợ cấp, nhưng vẫn phải nương nhờ
trợ cấp của nước ngoài, và lúc này được chi
viện toàn bộ bởi Liên Bang Xô Viết, phần
nhiều là những món nợ có thể phải hoàn lại.
Những thay đổi đầu mùa này cần phải được
nới rộng để loại trừ những thiếu cân bằng
hiện hữu trong hệ thống lai căn, trong đó
kinh tế tập chung vẫn được dùng để phân phối
nguồn tài nguyên và đặt giá. Đại Hội Đảng VI
vào năm 1986 xui khiến sự đột phá tri thức
cho phép sự đổi mới tiếp tục.
Nới Lỏng Sự
Giam Cầm
Trước khi đại hội bắt đầu, Trường Chinh trở
thành lãnh đạo của Đảng lần hai, sau ngày
báo hiếu vào tháng 7 của Lê Duẩn. Cuối cùng
(có người nói rằng theo lời cố vấn của con
trai, người đã du học tại Nga), ông ta đã
cho phép đổi mới kinh tế. Ông ta công bố
rằng Việt Nam đã vội vã từ bỏ chủ nghĩa tư
bản một cách sai lầm. Ông ta công nhận rằng
sự cả tin của lãnh đạo nhà nước để phát
triển công nghiệp mạnh đã đưa ra những đề án
ngoài khả năng thực hiện. Ông ta trực tiếp
cự tuyệt thành phần cấp tiếp của mình và
công nhận rằng Việt Nam đã quá vội vã trong
việc cố gắng "thực hiện thay đổi vào thời kỳ
quá sớm, đã loại bỏ quá nhanh thành phần
kinh tế phi-xã-hội chủ nghĩa."
Những câu nói này đã dẫn đến quá trình thay
đổi, mà khó khăn lắm mới được đăng đầu
trang, một con dấu chấp nhận rõ ràng và
chuyển đổi Việt Nam vào hàng ngũ những quốc
gia xã hội chủ nghĩa "đang thay đổi". Sau
Đại Hội Đảng tháng 12, một quá trình được
biết đến là "Đổi Mới" (được hiểu rằng đổi để
thành mới) bắt đầu với sự lãnh đạo của Tổng
Bí Thư mới, Nguyễn Văn Linh, người bắc nhưng
làm việc và sống trong nam gần cuộc đời, và
người được tin rằng là phe của Lê Duẩn.
Đại Hội Đảng VI đã thay đổi cơ cấu đầu tư
để ưu tiên cho việc phát triển thực phẩm và
nông nghiệp, những vật gia dụng, và xuất
khẩu. Nó gọi sự cải tổ hệ thống ngân hàng
nhà nước và công ty quốc doanh được thay đổi
để tự chủ tài chánh. Quốc hội cũng đã loại
bỏ nhà nước độc quyền mua bán với hầu như
các mặt hàng, và đã rút đi những giới hạn về
kích thước công ty tư nhân. Sau đó, vào năm
1988, nghị định được đưa ra để phân phát đất
hợp tác xã, vì thế nâng cao quyền lực kinh
tế tư nhân ở vùng nông thôn. Năm 1989, nhà
nước đã thực hiện biện pháp tài chánh để cải
thiện chức năng của hệ thống tài chánh, bao
gồm tự do hóa giá cả, giảm giá tiền tệ, và
giới thiệu khái niệm lãi thật.
Quan trọng hơn, trong những ngày đầu của
đổi mới, chương trình thay đổi của ông Linh
bao gồm sự xóa bỏ những kiểm tra trí thức.
Thời gian này được gọi là "cởi trói" (một từ
có thể được hiểu như nới lỏng ra), đó là
chính sách Việt Nam có gần nhất với chính
sách "glasnost" hay Phóng Khoáng của Liên
Bang Xô-Viết. Những tác giả chỉ trích những
chính sách quá khứ của Đảng như Dương Thu
Hương và Bảo Ninh, được phép in và xuất bản
tác phẩm để được tôn thờ trong những năm đó.
"Nỗi Buồn Chiến Tranh" của Bảo Ninh là mốc
lịch sử quan trọng, với sự diễn tả bộc trực
về vết thương chiến tranh của một cậu bé
tình nguyện viên đã cống hiến những năm tốt
nhất của cuộc đời chống Mỹ. Đồng thời, ông
Linh kêu gọi đối xử tốt với bên Công-Giáo
(Catholics), tăng cường quan hệ với cộng
đồng người Hoa, và chấm dứt kỳ thị những học
giả đã làm việc dưới thời của miền Nam
Nguyễn Văn Thiệu.
Dấu hiệu đầu tiên của hòa giải với miền nam
Việt Nam là những năm đó, với sự trở lại của
nông học gia Võ Tòng Xuân và kinh tế gia
Nguyễn Xuân Óanh. Vào năm 1988, nhà nước đã
thả gần hết các sĩ quan quân đội và công
chức của chế độ Thiệu từ những trại học tập
cải tạo. Sự nới rộng này vẫn không chấm dứt
sự kỳ thị với người miền Nam đã có quan hệ
với chế độ củ và thuộc tầng lớp không đúng,
nhưng đó đã làm mọi người dễ thở với cuộc
sống - và cho phép họ tái định cư một cách
hợp pháp. Nhiều người đã ra đi.
Thay Đổi
Theo Kiểu Trung Quốc
Thời kỳ kế tiếp bắt đầu chính thức với Đại
Hội VII vào năm 1991. Nhưng sự thay đổi đã
kết thúc sự cởi mở đã bắt đầu từ 1986, khởi
xướng với sự kiện đàn áp sinh viên tại Quảng
Trường Thiên A Môn bên Trung Quốc năm 1989
và sự sụp đổ của khối cộng sản. Sự rúng
chuyển tới gốc của khối xã hội chủ nghĩa đã
khiến Cộng Sản Việt Nam dừng đột ngột tự do
trí thức và những chỉ trích Đảng. Từ năm
1989, kinh tế và chính sách chính trị của
Việt Nam đi gần với đó của Trung Quốc.
Năm 1995 là năm Việt Nam hoàn toàn rút quân
ra khỏi Cam-pu-chia, và đánh dấu một mối
quan hệ hữu nghị Việt-Trung. Sự mạnh dạn
trong quan hệ này là sự quyết tâm về nguyên
tắc Đảng Cộng Sản lãnh đạo được thừa nhận.
Bình thường hóa các quan hệ được thiết lập
cuối năm 1991 sau khi ký hiệp ước với Liên
Hiệp Quốc vấn đề Cam-pu-chia, theo đó cho
phép Liên Hiệp Quốc uy quyền tạm thời để tổ
chức bầu cử. Trong những năm sau đó, Việt
Nam đã được cộng đồng thế giới công nhận, và
nó có nghĩa rằng có sự thân cận đến viện trợ
đa phương từ Ngân Hàng Thế Giới và Ngân Hàng
Phát Triển Á Châu. Với sự đổi mới kinh tế là
mục tiêu quốc gia, Việt Nam chống trọi được
sự thiếu hụt viện trợ từ Liên Bang Xô Viết
khi Nga sụp đổ năm 1991.
Sự chấm dứt liên minh Việt Nam với Liên
Bang Xô Viết trùng hợp với sự phục hồi quyền
lực của Đỗ Mười như là Tổng Bí Thư Đảng Cộng
Sản Việt Nam. Là cựu quân nhân trước năm
1945 thời kỳ Đảng Cộng Sản Đông Dương, và là
thành viên của giới Hà Nội cốt lõi, hai
thành quả đáng chú ý trước năm 1991 là, ông
ta giám sát một chiến dịch kiềm chế chủ
nghĩa tư bản ở Hà Nội vào năm 1954, và rồi
vai trò của ông ta trong việc xã hội chủ
nghĩa hóa miền Nam Việt Nam trong những năm
1970. Bây giờ, ông ta nắm quyền tối cao
trong thời kỳ sôi nổi nhằm khôi phục Việt
Nam với thế giới tư bản.
Bề ngoài, Đỗ Mười là nhà lãnh đạo ôn hòa,
nhưng danh tiếng của ông ta trong đảng mãi
tới năm 2000 vẫn được nhắc đến như là bố già
của chính trị Hà Nội. Không có nhiều bài
viết về sự cống hiến của ông trong công cuộc
đổi mới, nhưng có lẽ nghiên cứu quan điểm
chính trị của nhà lãnh đạo là không hợp thời
trong lãnh vực chính trị học ở Việt Nam,
nhưng cũng có lẽ các nguồn tin tức nói rất
ít. Nhưng trước mắt, có thể nói rằng thời kỳ
dưới sự lãnh đạo của ông từ 1991 đến 1996 đã
đánh dấu sự nhắc lại tính ưu việt của Đảng
Cộng Sản và những vị anh hùng đảng trong quá
khứ. Bắt đầu từ năm 1991, "Tư Tưởng Hồ Chí
Minh" - những khái niệm được triết ra từ tác
phẩm của ông Hồ -- đã trở thành hệ tư tưởng
chính thống cho quốc gia, song song với chủ
nghĩa Mác-Lê-nin. Lý lịch của những người
cộng sản đầu tiên như Nguyễn Sơn và Nguyễn
Bình, những người đã thiên về khuynh hướng
của Mao từ những năm 1970, được phát hành
trong tạp chí lịch sử với các chứng thư tình
cảm của quần chúng.
Trong thời gian đó, bàn luận về hệ thống đa
nguyên hay là chấm dứt vai trò đứng đầu của
Đảng Cộng Sản đều bị dập tắt. Là Thủ Tướng
trong thời kỳ Nguyễn Văn Linh làm Tổng Bí
Thư, Đỗ Mười đã biểu lộ quan điểm rằng báo
chí phải đại diện chính kiến của Đảng. Sau
năm 1991, không có sự bàn luận công cộng về
thay đổi chính trị. May mắn thay cho đảng,
sự tăng trưởng kinh tế và tiêu chuẩn cuộc
sống đã hướng sự chú ý của quần chúng ra
khỏi chính trị. Những tiếng nói của các cá
nhân kêu gọi thay đổi không khí chính trị
đều bị đàn áp, nhiều người bị nhốt tù hoặc
giam tại gia. Nhưng phần đông dân chúng
dường như chấp nhận chờ đợi sự giải phóng
chính trị miễn sao họ có thể hưởng thụ những
khoái lạc tiêu dùng đã từ lâu không có.
Trong những năm 1990, vài thay đổi chính
trị khiêm tốn đã được thi hành, điển hình là
tách rời chức năng của đảng và nhà nước.
Trên lý thuyết, Đảng giảm bớt vai trò của
mình trong nền kinh tế và công việc điều
hành quốc gia hàng ngày. Nhưng gỡ rối mối
quan hệ chuyên quyền của đảng với những gì
đảng đang làm không phải là một công tác dễ
dàng. Như nhà chính trị học Martin
Gainsborough đã chứng minh, chính trị gia
tiếp tục ảnh hưởng đến những vấn đề như ai
nhận được tín dụng từ ngân hàng. Nói chung,
khu vực quốc doanh bắt đầu hình thành lớn
hơn trong những năm 1990, với người đầu tư
nước ngoài bỏ vốn vào hợp tác với công ty
quốc doanh. Hơn nữa, rất nhiều đoàn thể quốc
doanh đã thoát hiểm và tự biến tính để chấp
nhận những vai trò mới trong nền kinh tế thị
trường.
Bước đi này đến thị trường, mặc dù với sự
giám sát của một quốc gia trên danh nghĩa là
xã hội chủ nghĩa, đã chấm dứt những điều
khoản trợ cấp mà Việt Nam đã đảm bảo trong
những ngày còn dưới chế độ cộng sản. Học vấn
và y tế bây giờ phải tự trả, và giáo dục
thường đòi hỏi phải đóng nhiều hơn những
kinh phí căn bản. Giáo viên thường yêu cầu
học sinh phải học thêm, vì tiền, nếu như
muốn được chuẩn bị cho các bài kiểm.
Những phụ phí khác trong đời sống hàng ngày
là gánh nặng với người nghèo Việt Nam, nhất
là nông dân. Một trong những lý do có tình
trạng náo động ở tỉnh Thái Bình năm 1998 là
thuế và thu phí tùy tiện, bao gồm phí sử
dụng đất và phí cho giáo viên, được nhân
viên thuế địa phương thâu trên những gì được
phép từ chính quyền trung ương. Giao thiệp
đôi khi rất là tốn kém - tỷ như dự một tiệc
cưới có thể là quá nhiều cho những gia đình
bình thường, khi người ta kỳ vọng đi lễ hào
phóng cho cô dâu và chú rẽ.
Sự Khủng
Hoảng Của Đảng
Việt Nam đã bỏ ra một năm để chuẩn bị cho
Đại Hội Đảng, thâu lượm những ý kiến đổi
mới. Vài tháng trước khi nhóm họp Đại Hội
Đảng, tin tức trên mạng và diễn đàn thảo
luận cương lĩnh của Đảng. Sự chỉ trích và đề
nghị thay đổi đều bền bỉ nên một nhà tư
tưởng hàng đầu, Nguyễn Đức Bình, đã kêu gọi
nên giới hạn các cuộc tranh luận trong tư
liệu nội bộ. Nhưng nổ lực đó đã đến quá trể
-- gần như có sự đồng thuận ở Việt Nam rằng
thiếu minh bạch ở các vị trí cao trong hệ
thống là nguyên do của căn bệnh làm cho tham
nhũng phát tán.
Sự đồ sộ của tham nhũng đã được tiết lộ đầu
năm nay khi công chúng biết được rằng một
công chức của một cơ quan quản lý đầu tư
ngoại quốc vào các công trình xây dựng đã
dùng quỹ để đánh cược các trận đá banh.
Những viên chức liên quan đã có lúc đánh cao
tới độ, tổng số tiền đánh cuộc là 7 triệu
đô-la cho một trận.
Sự khủng hoảng cho Đảng Cộng Sản là sự
thật. Đảng không thể tiếp tục là lực lượng
lãnh đạo xã hội Việt Nam khi đảng được xem
là thành phần bảo vệ những công chức tham ô,
một lời buộc tội của vị tướng lừng danh Võ
Nguyên Giáo trong thời gian đại hội. Có vài
tín hiệu, tuy nhiên, những người mới trong
Ủy Viên Bộ Chính Trị sẽ tiếp tục cho phép
tranh luận công khai về tương lai của tham
nhũng. Nông Đức Mạnh, một nhà lãnh đạo nhu
nhược vì không có cơ sở quyền lực, tiếp tục
đi con đường của cựu Tổng Bí Thư, trong khi
thủ tướng và vị chủ tịch mới thì không được
biết đến vì những khuynh hướng cởi mở.
Sự thay đổi phía trước cho Việt Nam sẽ chắc
chắn đòi hỏi sự lãnh đạo khôn khéo và tinh
xảo. Quan hệ với Trung Quốc đòi hỏi một mối
bang giao thận trọng, như Việt Nam dần dần
đang hướng tới sự giao thiệp thân mật với
Hoa Kỳ, đánh dấu bởi sự viếng thăm của Bộ
Trưởng Quốc Phòng Donald Rumsfield. Tuy
nhiên, bộ ngoại giao đã không đoạt được
chiếc ghế nào trong Bộ Chính Trị, và bổ
nhiệm ông Bộ Trưởng Bộ Ngoại Giao có quá
trình đào tạo ngành luyện kim. Mùa thu này
Việt Nam sẽ được tham gia vào WTO, mà nó sẽ
đem đến đầu tư nước ngoài và sự cạnh tranh
cho các công nghiệp địa phương. Để cạnh
tranh trên thị trường thế giới, Việt Nam cần
phải chấm dứt trợ cấp đến những tổ chức kinh
doanh không làm lời, một bước mà đó đòi hỏi
nhiều hơn một sự lãnh đạo kiên quyết.
Rõ ràng, cần phải chú ý thêm đến chất lượng
của những đổi mới trong những năm sau này.
Tuy nhiên Đảng Cộng Sản vẫn còn đeo đuổi
những mục tiêu tham vọng như tăng năng lượng
phát điện và có thể trở thành những quốc qua
phát triển vào năm 2020. Khi những thủy điện
được xây trên vùng cao nguyên và những khu
công nghiệp loan tỏa, tuy nhiên, Việt nam sẽ
không còn có khả năng phớt lờ đi những vấn
nạn xã hội. Nó bao gồm phúc lợi của người
thiểu số mà đất đai của họ bị lụt vì xây
thủy điện và những sự chuyển đổi vì phát
triển. Chương Trình Phát Triển Liên Hiệp
Quốc (UNDP) tin rằng những thành quả vĩ đại
gần đây về sự giảm nghèo có che dấu vô số
người không có thu nhập và không có nhà cố
định. (TQ thêm: nhà không số, bố không tên).
Còn một sự lo lắng phổ biến khác trong số
các nhà chuyên môn ngành phát triển rằng sự
ảnh hưởng của phát triển đến phụ nữ. Những
gia đình nông dân thường đầu tư học vấn cho
con gái ít hơn con trai, và nhiều phụ nữ trẻ
chỉ có con đường giải thoát bằng cách lấy
người ngoại quốc, thường là Đài Loan. Số
khác làm vợ lẽ.
Đảng Cộng Sản thật sự không còn là nguồn
cho lý tưởng hay đạo đức (TQ: xã hội), người
Việt bây giờ hướng về Phật Giáo như là kim
chỉ nam. Thiền Sư Thích Nhất Hạnh đã khởi
công về thăm Việt Nam năm 2005, sau 38 năm
vắng mặt. Ông giảng đạo đến các nhóm Phật
Giáo khắp nơi trong nước. Tín đồ theo ông
nói rằng ông thụ phong thầy tu ở Việt Nam
qua hệ thống mạng internet.
Nhà nước hình như nắm lấy thời cơ này tìm
kiếm một hệ thống đạo đức mới - nhà nước dự
định sẽ xây dựng một trung tâm phật giáo lớn
nhất Đông Nam Á ở tỉnh Ninh Bình, phiá nam
Hà Nội, nơi mà di sản của sự độc lập và thủ
đô Việt Nam đầu tiên được tìm thấy. Với đặc
tính tổng hợp của người Việt, ngay cả đảng
viên cũng có thể cúng lễ tại Chùa. Đây có
thể là hướng đi của sự phát triển chân trời
lý tưởng đảng để đạt tới đa nguyên, thay vì
một thể chế dân chủ đa đảng.
Sophie Quinn-Judge
là giáo sư lịch sử và là đồng giám đốc của
Viện Nghiên Cứu về Triết Học, Văn Hóa và Xã
Hội Việt Nam ở Đại Học Temple. Bà là tác giả
của cuốn Hồ Chí Minh: Những Năm Mất
Tích (XB Đại Học California, 2002).
[1]
family responsibility
Xem nguyên văn tiếng Anh:
http://www.kinhtehoc.com/docs/pdf/VN_Road_to_reform_Sophia_QJ.pdf
Copyright (c) 2006 by kinhtehoc.com
Nguồn:
http://www.kinhtehoc.com/index.php?name=News&file=article&sid=261
Dự
Báo Từng Giai Đoạn Của Chu Kỳ Kinh Tế Bằng
Chuỗi Các Mức Lãi Suất
Campbell
R. Harvey
Dịch Viên:
Nhân Thụy
Tổng quát
Trong luận án tốt nghiệp trường đại học Chicago
năm 1986 cũng như trong các bài báo ra trong tháng
9 và 10 năm 1989 của Thời Báo Phân Tích Tài Chính
của tôi, tôi từng đề cập đến một phương pháp dự
báo sự tăng trưởng kinh tế bằng Chuỗi các
mức lãi suất[1].
Khi tôi viết bài báo đó, nền kinh tế đã kinh qua
một cuộc suy thoái. Bài nghiên cứu của tôi thể
hiện độ dốc của Chuỗi các mức lãi suất nhằm dự
đoán bốn giai đoạn của chu kỳ kinh tế trong 25 năm
qua. Và bây giờ ta sẽ dự đoán giai đoạn thứ 5. Vậy
thì phương pháp này được thực hiện thế khi ta thử
nghiệm nó mà chưa kinh qua một ví dụ nào? Thật
vậy, thời kỳ khủng hoảng năm 1996 đã gây ra nhiều
tranh cãi. Chuỗi các mức lãi suất sẽ cho chúng ta
biết gì về giai đoạn kế tiếp của chu kỳ kinh tế.
Mối liên hệ giữa chuỗi các mức lãi suất và sự
tăng trưởng kinh tế.
Một lý thuyết được cho là thành công khi nó được
áp dụng thực tế. Trong luận án tốt nghiệp đại học
Chicago năm 1986 của tôi, tôi có nói rằng chuỗi
các mức lãi suất có thể đã từng được dùng để dự
báo sự tăng trưởng kinh tế. Trong khi đưa ra bằng
chứng đầy ấn tượng (để giải thích hơn 50% phương
sai của tăng trưởng GNP thực và các dự báo kinh tế
không hề khác biệt gì lắm so với các dự đoán sẵn
có của phòng thương mại), thì phương pháp này rất
phù hợp với các dữ kiện lịch sử. Khi viết luận án
này, chúng ta đã trãi qua một chu kỳ kinh tế khép
kín. Giờ ta có thể tiếp tục phân tích mức hoạt
động không tiêu biểu của nó.
Tôi sẽ cho các bạn thấy rằng phương pháp hệ thống
dữ liệu đã cho ta những dự báo về chu kỳ kinh tế
gần đây kịp thời và chính xác. Phương pháp này dự
báo được cả 5 quý mà kinh tế suy sụp trước khi
cuộc khủng hoảng thật sự xảy ra. Phương pháp còn
dự báo thời gian xãy ra khủng hoảng là ba quý. Hơn
nữa, tôi cho rằng hệ thống dữ liệu đã báo trước
cho ta một tín hiệu trước năm 1995 khi đường lãi
suất là một đường thẳng.
Trực quan cơ bản
Ta xét đến yếu tố trực giác trong phương pháp
này. Lãi suất dùng để thể hiện những khoản chờ
được chi trả trong tương lai. Một khi lãi suất thị
trường được thiết lập thì ta có thể nói rằng những
kỳ vọng về sự tăng trưởng kinh tế ảnh hưởng đến
tiến trình này.
Ta xét một ví dụ đơn giản. Giả sử rằng các nhà
đầu tư muốn biết chắc rằng nền kinh tề sẽ thịnh
vượng. Hầu hết họ muốn thu nhập của họ được giữ ở
một mức độ ổn định hợp lý chứ không phải là tăng
mạnh trong một giai đoạn nào đó trong chu kỳ kinh
tế và giảm mạnh trong một giai đoạn khác. Từ đó
hình thành nên hình thức bảo hiểm.
Giả sử rằng nền kinh tế đang trong giai đoạn tăng
trưởng và có thể suy sụp trong năm tới. Từ đó tạo
nên tâm lý muốn bảo hiểm khiến cho mọi người sẽ
chọn mua công cụ tài chính nào có thể đảm bảo chi
trả cho họ trong thời kỳ xảy ra suy thoái. Đó
chính là trái phiếu chiết khấu kỳ hạn một năm.
Nếu có quá nhiều người mua loại trái phiếu kỳ hạn
một năm, thì mức giá của loại chứng khoán này sẽ
tăng và lãi suất đến hạn sẽ giảm. Để đủ tiền mua
loại trái phiếu này, buộc nhiều người phải bán đi
những loại tài sản ngắn hạn khác của họ. Khi có
nhiều người bán ra thì làm cho loại công cụ ngắn
hạn này giảm giá và kết quả là lãi suất của nó sẽ
tăng.
Do đó, nếu khi người ta cho rằng sắp xãy ra khủng
hoảng thì chúng ta sẽ nhận thấy lãi suất dài hạn
giảm và lãi suất ngắn hạn tăng. Kết quả là, hệ
thống dữ liệu hoặc đường lãi suất (sai số giữa mức
lãi suất ngắn hạn và dài hạn) sẽ là một đường
thẳng hay bị nghịch đảo lại. Chính hình dạng của
hệ thống dữ liệu vể lãi suất hôm nay sẽ dự báo cho
ta về sự tăng trưởng kinh tế trong tương lai.
Từ ví dụ này, thì rõ ràng rằng phương pháp dựa
vào lãi suất này quả là đơn giản. Nó chỉ bao gồm
hai thành phần. Thứ nhất là độ dốc
của chuỗi các mức lãi suất hay mức chênh lệch giữa
lãi suất ngắn và dài hạn. Thứ hai là xu
hướng trung bình bảo hiểm mức độ an toàn của nền
kinh tế[2]
(có trong các bài luận năm 1989 và 1986 của tôi)
Những diễn giải trên đều dựa vào hoạt động của
người tiêu thụ và các nhà đầu tư. Ta cũng có thể
giải thích tương tự như thế dựa vào tiêu chí sản
xuất. Giả sử rằng một công ty cổ phần cho rằng sẽ
xãy ra suy thoái diện rộng. Do lưu lượng tiền mặt
thu vào có liên quan trực tiếp đến chu kỳ kinh tế
nên các dự án đầu tư vốn nào ít thu hút hơn. Do
vậy, các dự án sẽ bị hoãn lại. Do các công ty cổ
phần thường cố gắn kết kỳ hạn khi đầu tư một dự án
với đời sống của dự án đó, nên làm giảm áp lực cho
thị trường trái phiếu của công ty (nghĩa là trái
phiếu dài hạn của công ty ít được thả nổi hơn).
Điều này làm giảm các mức lãi suất dài hạn. Đồng
thời nếu các công ty đều tập trung vào các dự án
đầu tư ngắn hạn thì sẽ tạo nên một áp lực tích cực
cho lãi suất ngắn hạn. Hoặc cả hai hoặc từng
nguyên nhân này đều làm giảm độ dốc của đường lãi
suất.
Trong bài nghiên cứu lần trước, tôi có chỉ ra
rằng các phương pháp toán kinh tế phức tạp (và tốn
kém) không thể cho ta các dự báo như phương pháp
hệ thống dữ liệu đơn giản này được. Tôi đã thử
nghiệm phương pháp này để dự báo nền kinh tế Mỹ và
các nước G-7 khác.
Ghi nhận các hoạt
động từ lịch sử
Các giai đoạn suy thoái được phân loại bởi Cục
Nghiên Cứu Kinh Tế Quốc Gia (NBER). Suy thoái xãy
ra trong khoản thời gian kinh tế ở điểm cao nhất
và điểm thấp nhất. Uỷ ban xác lập chu kỳ kinh tế
của NBER đã quả quyết cho rằng hầu hết khủng hoảng
xãy từ tháng 7 năm 1990 (khi kinh tế ở đỉnh cao)
và kết thúc vào cuối tháng 3 năm 1991 (điểm thấp
nhất) -- thời gian xãy ra khủng hoảng khoảng 3
quý.
Xét các ghi nhận hệ thống các dũ liệu trong 25
năm qua:
- Khủng hoảng 69Q-70Q4 [Tổng GDP giảm
0.1%]: hệ thống dữ liệu bắt đầu nghịch chuyển
trong 68Q3 đưa ra dự báo một cách
chính xác nguy cơ suy thoái trước 4 quý.
- Khủng hoảng 73Q4-75Q1 [Tổng GDP giảm
4.2%]: hệ thống dữ liệu bắt đầu nghịch chuyển
trong 72Q2 đưa ra dự báo một cách
chính xác cuộc suy thoái trong hai quý
- Khủng hoảng 80Q1-80Q3 [Tổng GDP giảm
2.6%]: hệ thống dữ liệu bắt đầu nghịch chuyển
trong 78Q4 đưa ra dự báo chính xác suy
thoái kéo dài 5 quý
- Khủng hoảng 81Q3-82Q4 [Tổng GDP giảm
2.7%]: hệ thống dữ liệu bắt đầu nghịch chuyển
trong 80Q4 dự báo khủng hoảng trước 4
quý. Lưu ý rằng hệ thống này rất chính xác khi
đưa ra dự báo về "suy thoái đôi" trong chu kỳ
kinh tế.
Cuộc suy thoái gần đây
Khủng hoảng 90Q3-91Q1 [Tổng GDP giảm
1.8%]: hệ thống dữ liệu nghịch chuyển trong ba quý
liên tiếp từ 89Q2-89Q4 đưa ra dự báo dự
báo khủng hoảng trong 4 quý.
Nghịch chuyển trong 89Q2-89Q4 xem ra ở
mức độ nhẹ hơn so với trong các quý khác. Ví dụ
như, trong 89Q3 mức độ nghịch chuyển là
30 điểm cơ bản (mức lãi suất thấp dài hạn thấp hơn
mức lãi suất ngắn hạn là 0.3%). Ngược lại, mức độ
chuyển đổi trong 80Q4 là 340 điểm cơ bản
hay 3.4%.
Mức độ chuyển đổi càng nhiều thì suy thoái càng
nghiêm trọng. Hệ thống dữ liệu dự báo vào đầu năm
1980 một cuộc suy thoái bắt đầu từ giữa năm 1981.
Và dự báo này rất chính xác.
Theo sự chuyển đổi vào mùa hè năm 1989, tôi dự
báo trước rằng sự tăng trưởng kinh tế đang suy
giảm. Tuy nhiên, một sự chuyển đổi nhỏ cho thấy
rằng suy giảm đó không nghiêm trọng bằng ba cuộc
suy thoái trước đó. Phương pháp của tôi cũng dự
báo chính xác thời điểm cuộc suy thoái chấm dứt.
Tôi trích dẫn bài của Leonard Silk gần đây, (tờ
New York Times ra ngày 20 tháng 7 năm 1990),
"Phương pháp Harvey …hiện tại dự báo rằng …nền
kinh tế dường như sẽ trì trệ cho đến giữa năm 1991
và sau đó sẽ tăng trưởng lại"
Nhìn chung, phương pháp này cho ta một dự báo
khủng hoảng trước 5 quý vào tháng 7 năm 1990. Thêm
vào đó, phương pháp này cũng dự báo tăng trưởng.
Cuộc suy thoái này kéo dài 3 quý và hệ thống dữ
liệu bị chuyển đổi cũng kéo dài trong ba quý.
Phương pháp này cũng đã dự báo rằng cuộc suy thoái
sẽ ít nghiêm trọng như ba cuộc suy thoái trước đó.
Tất cả các dự báo đều có ý nghĩa đối với mẫu ngoài
1995-1996
Trong đầu năm 1995, hệ thống dữ liệu bắt đầu
chuyển đổi. Trong thời báo Business Week ra ngày
16 tháng giêng năm 1995, người ta có trích dẫn câu
tôi nói "những đường lãi suất nghịch đảo là những
điềm báo chính xác về một cuộc suy thoái". Tuy
nhiên , theo như đường lãi suất đó không nghịch
chuyển thì "Harvey chỉ dựa vào mức tăng trưởng khá
điều độ" trong năm 1995. Dự báo này ít nhiều cũng
có ảnh hưởng. Chúng ta cũng đã biết đến mức tăng
trưởng khá chậm vào năm 1995 - nhưng chẳng có bằng
chứng nào cho cuộc suy thoái.
Những đánh giá về mức tăng trưởng GDP gần đây
Những đánh giá bằng phương trình hồi quy gần đây
(in trong bài báo năm 1989 của tôi dùng phương
pháp đánh giá theo Tổng Sản Phẩm Quốc Nội (GDP)
chính xác hơn dùng GNP) cho thấy rằng cách dùng
này vẫn mang một ý nghĩa khá quan trọng trong hầu
hết các dữ liệu. Phương trình dự báo cơ bản là:
Sử dụng trái phiếu với mức lãi suất chênh lệch
giữa kỳ hạn 3 năm với kỳ hạn 90 ngày, thì khả năng
giải thích trong giai đoạn 1960:1-1995:1 là 30%
(với alpha là 2.077 và theta là 1.390). Trong giai
đoạn 1970:1-1995:1, thì năng lực giải thích là 47%
(với alpha là 1.48 và theta là 1.55). Trong giai
đoạn 1980:1-1995:1, thì phương pháp R-bình phương
là 48% (với alpha là 1.446 và theta là 1.321)
Phân tích các mẫu
dự báo
Với hình vẽ bên dưới ta có thể hình dung ra cách
thức hoạt động của phương pháp hệ thống dữ liệu
Cũng giống với bất kỳ phương pháp nào khác, chuỗi
các mức lãi suất cũng không phải là một
phương pháp dùng để dự báo mức tăng trưởng kinh tế
một cách hoàn hảo. Mặc dù phương pháp đã dự báo
khá chính xác hầu hết các điểm gần đây, nhưng
những dự báo về mức tăng trưởng có vẻ cao hơn so
với mức tăng trưởng thực.
Phương pháp này được phát triển qua nhiều bước
đơn giản. Phần mặt phẳng bị chắn - alpha- là phần
thể hiện mức độ bất ổn định của các chu kỳ kinh tế
và mức lãi suất. Nếu tồn tại một sự bất ổn định về
mặt thời gian, thì mặt phẳng bị chắn sẽ thay đổi.
Trong phần lý thuyết phát triển phương pháp này,
chu kỳ kinh tế thực được kết hợp với hệ thống dữ
liệu về các mức lãi suất thực. Các mức lãi suất
thực này thì không có sẵn. Tôi cho là lãi suất
chênh lệch giữa các mức lãi suất danh nghĩa là xấp
xỉ bằng với lãi suất chênh lệch giữa các mức lãi
suất thực.
Điều này liên quan đến hai giả định về hai mức độ
lam phát sau. Thứ nhất, tỷ suất thực kỳ vọng được
cho là mức chênh lệch giữa mức lãi suất danh nghĩa
và tỷ lệ lạm phám kỳ vọng. Nó được gọi là "hiệu
ứng Fisher". Nó thực sự là không chính xác lắm.
Phí bảo hiểm rủi ro được tính vào khoảng giữa mức
lãi suất thực và mức lãi suất danh nghĩa đã giảm
phát theo tỷ lệ lạm phát kỳ vọng.
Thứ hai, tôi cho rằng chuỗi các mức lãi
suất của tỷ lệ lạm phát kỳ vọng là một
đường thẳng. Nghĩa là thành phần của tỷ lệ lạm
phát kỳ vọng hàng năm đối vói trái phiếu kỳ hạn 3
tháng cũng một phần nào đó giống với loại kỳ hạn 3
năm.
Giả thuyết này thực chất chính là để giải thích
cho một số sai sót của phương pháp này. Thật vậy,
người ta có thể cho rằng hệ thống dữ liệu của tỷ
lệ lạm phát kỳ vọng hơi nghiên về phía cực dương
trong hai năm cuối. CPI chỉ tăng 2.6% vào năm
1992. Theo như các trái phiếu dài hạn có lãi suất
cao hơn mức 7%, thì hầu như người ta tin rằng mức
lạm phát dài hạn kỳ vọng sẽ vượt cao hơn so với
mức lạm phát ngắn hạn kỳ vọng.
Hệ thống dữ liệu lạm phát kỳ vọng dương có thể
giải thích tại sao sự chuyển đổi trong hệ thống dữ
liệu vào mùa hè năm 1989 khá ít và đồ thị của nó
lại hướng lên lại kể từ lúc đó. Khi kết hợp với hệ
thống dữ liệu mức lạm phát thì có thể làm cho các
dự báo trở nên chính xác hơn.
Công việc kế đến
Vẫn còn nhiều hứa hẹn cho những chỉ dẫn khác cho
việc nghiên cứu sau này. Tôi đã xuất bản rất nhiều
sách mà tôi đã ghi chép lại những công việc của
tôi làm ở nhiều quốc gia. Ở một số nơi, hệ thống
dữ liệu có thể dùng để nắm bắt được mức tăng
trưởng GDP. Còn ở một số nước khác, dùng như thế
lại không được. Thật thú vị là, sự khác biệt giữa
hệ thống dữ liệu về mức lãi suất tại địa phương
của một nước nào đó và của nước Mỹ lại có thể dự
báo một phần nào đó mức tăng trưởng kinh tế không
liên quan đến mức tăng trưởng của "thế giới", tức
là mức tăng trưởng thực của một quốc gia riêng
biệt nào đó.
Một số quốc gia như: Canada, Đức, Anh, Pháp, Ý,
Nhật.
[1] Term
Structure of Interest Rates
[2] Average
propensity to hedge in the economy
Copyright (c) 2006 by kinhtehoc.com
Nguồn:
http://www.kinhtehoc.com/index.php?name=News&file=article&sid=251
Chính sách
tài chính và tiền tệ
Harvey
B. King
Dịch
viên: Võ Hồng Long
Bây giờ chúng ta đã có mô hình cơ bản IS-LM,
đây là lúc chúng ta sử dụng mô hình này để xem
xét xem nó vận hành như thế nào và sử dụng nó
để giải thích các hiện tượng trong thực tế.
- Sự tập trung chủ yếu của chúng ta trong
chương này là sử dụng mô hình này để tìm hiểu
chính sách tài chính và tiền tệ ảnh hưởng đến
kinh tế vĩ mô như thế nào.
- Nhớ lại trong Chương 1 rằng chính
sách tài chính được thực ban hành
bởi chính phủ liên bang (và chính quyền cấp
tỉnh), và bao gồm các mức độ khác nhau trong
mua sắm chính phủ các hàng hoá và dịch vụ và
các mức độ của thuế để ảnh hưởng đến trạng
thái của nền kinh tế.
- Chính sách tiền tệ được
ban hành bởi Ngân hàng Canada, và bao gồm việc
quy định mức độ cung ứng tiền và mức lãi suất
để tác động lên nền kinh tế.
- Chúng ta cũng thấy trong Chương I rằng
chính sách kinh tế vĩ mô có hai mục tiêu cơ
bản:
+ Giảm sự biến động của GDP thực tế và thất
nghiệp do chu kỳ kinh tế.
+ Giảm mức lạm phát.
- Chúng ta cũng sẽ tìm hiểu chính sách tài
chính và tiền tệ có thể được sử dụng trong lý
thuyết để đạt được những mục tiêu này, và
chúng ta sẽ tìm hiểu tại sao trên thực tế việc
đạt được những mục tiêu này có những khó khăn
nhất định.
CHÚ Ý: Tôi sẽ bỏ qua nhiều yếu tố trong
chương này, và đưa vào những tài liệu không có
trong bài này. Tập trung vào những lưu ý này!
1) Chính sách tiền tệ trong mô hình IS-LM
Trong phần này, chúng tôi muốn trả lời bốn
câu hỏi cơ bản:
- Ngân hàng trung ương của một nước thay đổi
việc cung ứng tiền như thế nào?
- Những thay đổi về cung ứng tiền ảnh hưởng
đến các biến kinh tế vĩ mô chủ yếu của một
nước như thế nào?
- Mục tiêu của chính sách tiền tệ là gì ? Và
ngân hàng trung ương sẽ cố gắng làm gì?
- Những khó khăn gặp phải trong thực tế thực
hiện chính sách tiền tệ?
Ngân hàng Trung ương tác động đến Cung ứng
tiền như thế nào
Trong Chương 5, chúng ta bàn qua về việc tại
sao chúng ta có thể định nghĩa tiền là tiền
mặt + một số loại tiền gửi của các hộ gia đình
và doanh nghiệp.
- Trước hết chúng ta cần giải thích tại sao
ngân hàng trung ương có thể tác động đến mức
độ cung ứng tiền.
- Nếu tiền chỉ là tiền mặt, họ chỉ cần điều
chỉnh bằng cách in thêm các hoá đơn, mua máy
bay, và phân phát chúng khắp cả nước.
- Tuy nhiên, chúng ta biết rằng thực tế phức
tạp hơn nhiều khi chúng ta nhận ra rằng phần
chủ yếu của tiền cung ứng là các khoản tiền
gửi, chứ không phải là mặt.
- Nhớ lại rằng một phương pháp của cung ứng
tiền là M2+ = tiền trong lưu thông + các khoản
tiền gửi tại ngân hàng và những tổ chứng tín
dụng khác.
- Giá trị thực tế của tiền mặt trong lưu
thông ở Canada là $34.3 tỷ, nhưng giá trị thực
tế của các tài khoản tiền gửi tại ngân hàng là
$683 tỷ, cao gấp 20 lần.
- Vậy điều quan trọng là phải điều chỉnh được
mức tiền gửi trong hệ thống ngân hàng.
- Chúng ta sẽ đưa ra những ý tưởng cơ bản,
còn phần chi tiết sẽ ở trong Kinh tế học 331.
Các khoản tiền gửi trong hệ thống ngân hàng
bị tác động bởi các quyết định của những người
gửi tiền (các hộ gia đình và doanh nghiệp), và
quyết định của ngân hàng.
- Ngân hàng tạo ra các khoản tiền gửi mỗi khi
họ vay vốn của các cá nhân và doanh nghiệp, và
họ giảm các khoản tiền gửi mỗi khi họ giảm các
khoản tiền vay.
- Các ngân hàng tồn tại để hoạt động sinh
lợi, do đó họ sẽ điều chỉnh các khoản vốn vay
để tạo ra lợi nhuận.
- Các ngân hàng cần so sánh chi phí của việc
cho vay đối với lợi nhuận của việc cho vay khi
họ quyết định vay bao nhiêu tiền.
- Các ngân hàng cho vay với các mức lãi suất
khác nhau, và chúng thường là tăng lên từ một
mức lại suất, Mức lãi suất cơ bản đối với
những doanh nghiệp đi vay của các doanh nghiệp
ít rủi ro nhất.
- Ngân hàng Canada, Ngân hàng trung ương của
Chính phủ Canada, cố gắng điều chỉnh quyết
định cho vay của các ngân hàng tư nhân bằng
cách thay đổi những chi phí mà các ngân hàng
tư nhân gặp phải mỗi khi họ vay tiền từ ngân
hàng trung ương, và những lợi nhuận các ngân
hàng tư nhân có được từ việc duy trì các khoản
tiền gửi dự trữ tại ngân hàng trung ương.
Các ngân hàng tư nhân không cần thiết phải
giữ lại 100% khoản tiền gửi trong kho của
mình.
- Thực tế, các ngân hàng tư nhân duy trì 1%
các khoản tiền gửi như là một khoản dự trữ.
- Một phần của khoản tiền này được duy trì
dưới dạng tiền mặt trong kho, nhưng một phần
trong số này là số tiền gửi tại ngân hàng
trung ương, Ngân hàng Canada.
- Đây là một khoản dự trữ đặc biệt mà chỉ các
ngân hàng tư nhân và những ngân hàng bù trừ
trực tiếp? có thể có.
- Cuối mỗi ngày, các ngân hàng sử dụng khoản
tiền gửi này để bù trừ những khoản séc liên
ngân hàng ? thay vì chuyển tiền mặt trực tiếp
từ ngân hàng này sang ngân hàng khác, họ điều
chỉnh tài khoản của mình tại ngân hàng trung
ương.
- Các ngân hàng tư nhân hưởng lãi suất từ
khoản tiền gửi của họ tại ngân hàng trung ương
? Lãi suất tiền gửi của Ngân hàng.
- Mặt khác, nếu ngân hàng tư nhân cạn tiền
trong tài khoản dự trữ vào cuối ngày khi các
khoản séc đã được bù trừ, họ phải mượn tiền từ
ngân hàng trung ương với một mức lãi suất gọi
là Lãi suất chiết khấu Ngân hàng
= Lãi suất tiền gửi của ngân hàng +0.5%.
- Ngân hàng Canada thay đổi những lãi suất
đặc biệt này đồng thời mỗi khi Ngân hàng
Canada muốn tác động đến mức cung ứng tiền và
mức lãi suất trong nền kinh tế.
Để hiểu được hoạt động của nó, chúng ta tìm
hiểu xem điều gì xảy ra khi Ngân hàng Canada
muốn giảm cung ứng tiền, và tăng lãi suất.
- Giả sử rằng Ngân hàng Canada tăng hai mức
lãi suất này theo sự kiểm soát của mình.
- Sự tăng lên Lãi suất Chiết khấu ngân hàng
làm các chi phí trở nên cao hơn khi sử dụng
hết khoản tiền gửi dự trữ tại ngân hàng trung
ương, và sự tăng lên Lãi suất Tiền gửi của
Ngân hàng có nghĩa là bạn có thể có được mức
lãi suất cao hơn đối với những khoản tiền gửi.
- Hai thay đổi này cùng nhau tạo ra sự khuyến
khích mạnh mẽ cho các ngân hàng tư nhân tăng
khoản tiền gửi dự trữ của họ.
- Khi các ngân hàng tư nhân tăng khoản tiền
gửi dự trữ, vốn cho vay sẵn có của họ sẽ thấp
hơn, do đó họ sẽ giảm vốn cho vay và dẫn đến
giảm các khoản tiền gửi.
- Bên cạnh đó, khi các ngân hàng tư nhân giảm
số tiền cho vay của họ, họ thường thực hiện
điều này bằng cách tăng mức lãi suất cho vay
đối với các hộ gia đình và doanh nghiệp ? ví
dụ, họ tăng mức lãi suất cơ bản doanh nghiệp
lên.
- Kết quả của những hành động này là giảm
lượng tiền gửi trong hệ thống ngân hàng, và
giảm mức cung ứng tiền.
- Tất cả những điều vừa nói ở trên được tóm
tắt lại trong Hình dưới đây.
Hình 1
Bảng dưới đây trình bày Lãi suất Chiết khấu
Ngân hàng và Lãi suất cơ bản từ năm 1986.
- Lưu ý về mối liên hệ của chúng ? tăng Lãi
suất Chiết khấu dẫn đến tăng Lãi suất Cơ bản,
giảm Lãi suất Chiết khấu dẫn đến giảm Lãi suất
Cơ bản.
- Chúng ta cũng chú ý rằng mức lãi suất dễ
biến đổi, đặc biệt là trong những năm 80.
Năm |
86
|
87
|
88
|
89
|
90
|
91
|
92
|
93
|
94
|
95
|
96
|
97
|
98
|
99
|
Lãi
suất
Chiết
khấu
|
9.21
|
8.4
|
9.69
|
12.29
|
13.04
|
9.03
|
6.78
|
5.09
|
5.77
|
7.31
|
4.53
|
3.52
|
5.1
|
4.92
|
Lãi
suất
Cơ
bản
|
9.16
|
8.37
|
9.67
|
12.21
|
13.03
|
8.91
|
6.74
|
4.97
|
5.66
|
7.22
|
4.53
|
3.61
|
5.05
|
4.94
|
Chính sách Tiền tệ mở rộng trong Mô hình
IS-LM
Hình 2 dưới đây mô tả ảnh hưởng của chính
sách tiền tệ mở rộng trong mô hình IS-LM.
Hình 2
Sự tăng lên ban đầu của cung ứng tiền làm
dịch chuyển đường LM sang phải đến LMA,
mức giá vẫn giữ nguyên.
- Sự tăng lên cung ứng tiền danh nghĩa làm
tăng cung ứng tiền thực tế, và làm giảm lãi suất (rút một
lượng tiền thể hiện điều này).
- Lãi suất giảm đi làm cho việc đầu tư tiền
vào các dự án trở nên được xem trọng hơn, do
đó các doanh nghiệp tăng nhu cầu đầu tư, điều
này làm tăng tổng chi tiêu - điều này được thể
hiện bằng sự di chuyển xuống dọc theo đường
IS.
- Bởi vì chúng ta vẫn giữ nguyên mức giá
trong thí nghiệm này, chúng ta thể hiện sự
thay đổi này ở phần dưới cùng của hình minh
hoạ bằng sự dịch chuyển sang phải của đường AD
đến AD1, mức giá vẫn giữ nguyên,
với tổng cầu hàng hoá và dịch vụ tăng lên đến
YA.
- Tuy nhiên, sự dịch chuyển sang phải của
đường AD sẽ làm tăng áp lực tăng lên đối với
mức giá.
- Như chúng ta có thể thấy, mức giá tăng lên
làm giảm cung ứng tiền thực
tế , và hạn chế
một phần sự tăng lên ban đầu, điều
này tạo ra một sự dịch chuyển sang trái của
đường LM, từ LMA đến LM1.
- Kết quả cuối cùng là của chính sách cung
ứng tiền mở rộng làm giảm mức lãi suất, và làm
tăng GDP thực tế và tăng mức giá cả như đã chỉ
ra.
Chúng ta có thể thấy rằng ngân hàng trung
ương có thể sử dụng chính sách tiền tệ mở rộng
để tăng GDP thực tế và giảm mức thất nghiệp -
nếu nền kinh té độ hẫng hụt suy thoái,
ngân hàng trung ương có thể cải thiện bằng
cách tăng cung ứng tiền.
- Trang 179-181 mô tả chính sách tiền tệ co
hẹp hoạt động như thế nào.
- Tôi sẽ không đi vào chi tiết ở đây, mặc dù
tôi sẽ nói về chúng trong phần tiếp theo về Sự
thực thi của Chính sách Tiền tệ.
Mục tiêu của Chính sách Tiền tệ
Rõ ràng là ngân hàng trung ương có thể điều
chỉnh đến việc cung ứng tiền để tác động đến
tổng cầu và do đó tác động một cách tiềm tàng
đến mức tăng trưởng GDP thực tế, mức thất
nghiệp, và mức tăng của giá cả.
- Do đó, về mặt lý thuyết, ngân hàng trung
ương có thể dùng chính sách tiền tệ để ngăn
chặn sự biến động của nền kinh tế trong chu kỳ
kinh tế.
- Chính sách như vậy được gọi là chính
sách ngược chu kỳ - chính sách này
được sử dụng để cưỡng lại chu kỳ kinh tế.
- Khi nền kinh tế ở dưới mức tăng trưởng tự
nhiên, về mặt lý thuyết ngân hàng trung ương
có thể tăng cung ứng tiền để cố gắng tăng AD
và tăng mức tăng trưởng GDP thực tế.
- Khi nền kinh tế ở trên mức tăng trưởng tự
nhiên, nó gây ra những áp lực lạm phát, và về
mặt lý thuyết ngân hàng trung ương có thể giảm
tăng trưởng tiền tệ để giảm AD, và giảm áp lực
lạm phát.
- Tuy nhiên, trên thực tế ngân hàng trung
ương không phải bao giờ cũng kiểm soát hoàn
toàn tình huống.
Các khó khăn của Chính sách Tiền tệ trên
Thực tế
Trên thực tế, có rất nhiều khó khăn tiềm tàng
đối với việc thực hiện chính sách tiền tệ.
- Như chúng ta đã thấy, cung ứng tiền bao gồm
cả các khoản tiền gửi ngân hàng, mà nó được
quyết định một phần bởi hoạt động của ngân
hàng trung ương, và một phần do quyết định của
các hộ gia dình/doanh nghiệp và ngân hàng. Do
đó, sự thay đổi trong cung ứng tiền có thể
không chính xác như ngân hàng mong muốn.
- Thứ hai, có một loạt độ trễ trong việc thực
thi chính sách tiền tệ, điều này có nghĩa là
có thể mất đến 18 tháng để áp dụng được chính
sách tiền tệ cho toàn bộ nền kinh tế - điều
này có thể đến quá trễ! Ví dụ, ngân hàng trung
ương có thể giảm lãi suất, nhưng các dự án đầu
tư cần thời gian để xây dựng và thực hiện, và
các nhà máy có thể không hình thành và hoạt
động trong khoảng thời gian mong muốn.
- Thứ ba, chính sách tiền tệ sẽ tác động đến
giá cả, và điều này có thể có tác động cản trở
đến chính sách tiền tệ. Ví dụ, nếu chúng ta
đạt đến mức có đầy đủ việc làm, một chính sách
tiền tệ tăng lên sẽ làm tăng mức giá cả, và có
ảnh hưởng nhỏ đến GDP thực tế và mức giá.
Hãy để ý, điều gì là chính sách thực tế hiện
tại của Ngân hàng Canada?
- Ngân hàng Canada đang tập trung vào việc
duy trì mức lạm phát thấp và ổn định.
- Mục tiêu hiện tại của Ngân hàng là duy trì
lạm phát ở trong khoảng 1% và 3%.
- Trong năm qua, mức lạm phát tăng lên trong
khoảng từ 1% đến 2% gần đây, chủ yếu là do sự
tăng giá nguyên liệu đầu vào chưa chế biến như
dầu thô.
- Hoa Kỳ cũng chịu tác động của áp lực lạm
phát tương tự, thậm chí là chịu tác động mạnh
hơn.
- Ngân hàng trung ương của cả hai nước đang
mong muốn chấm dứt những áp lực lạm phát này
bằng cách tăng lãi suất trong thời gian tới ?
chúng ta có thể dự đoán được sẽ có một sự tăng
nhất định về lãi suất ở Hoa Kỳ và Canada, như
trong bài báo ?Greenspan tăng lãi suất?, được
đăng trên tờ Globe and Mail số tháng
Hai, năm 2000 (Greenspan là giám đốc ngân hàng
trung ương Hoa Kỳ).
- Chúng ta cũng sẽ xem xét chính sách tiền tệ
chống lạm phát trong phần tiếp theo.
2) Thực thi chính sách tiền tệ ở Canada.
Hình 3 dưới đây cho thấy sự thay đổi trong
cung ứng tiền có tác động thực sự đến lãi suất
như chúng ta đã dự đoán ? làm giảm mức tăng
trưởng của cung ứng tiền (được xác định bằng
M1) làm tăng lãi suất, bằng sự dịch chuyển của
đường LM sang trái.
Hình 3 Tăng trưởng tiền tệ và lãi
suất[1]
Mức tăng trưởng của M1
Lãi suất trái phiếu kho bạc 90 ngày
Chúng ta cũng có thể thấy được ảnh hưởng của
việc tăng trưởng tiền đối với lãi suất được
chuyển thành mối quan hệ giữa mức tăng trưởng
của cung ứng tiền và chu kỳ kinh tế như Hình 4
dưới đây.
- Chúng ta có thể thấy rõ ràng là sự giảm
xuống mức tăng trưởng M1 có quan hệ chặt chẽ
với sự giảm xuống của GDP thực tế, với độ trễ
khoảng một năm.
- Cung ứng tiền giảm làm giảm hoặc thay đổi
ngược lại mức tăng trưởng GDP thực tế; cung
ứng tiền tăng làm tăng mức tăng trưởng GDP
thực tế, mặc dù ảnh hưởng này không mạnh lắm.
- Chúng ta đặc biệt chú ý rằng các cuộc khủng
hoảng năm 1982 và 1990-91 xảy ra đồng thời
hoặc ngay sau khi có sự tăng trưởng âm của
đồng tiền.
Hình 4 Tăng trưởng tiền tệ và Chu kỳ
Kinh tế[2]
Cuối cùng, chúng ta thấy rằng mức giá và lạm
phát đều chịu ảnh hưởng mạnh mẽ của chính sách
tiền tệ.
- Chỉ cần nhìn vào chính sách tiền tệ ở
Canada gần đây, ở đó chính sách tiền tệ thắt
chặt nhiều năm đã làm cho Canada có mức lạm
phát thấp nhất trong vòng 30 năm, và đứng vào
hàng một trong những nước phương Tây có mức
lạm phát thấp nhất.
Hình 5 Tăng trưởng tiền tệ và Lạm
phát[3]
- Điều này được thể hiện trong Hình 5 trên
đây, nó chỉ ra mối quan hệ gần gũi giữa mức
tăng cung ứng tiền (xác định bởi mức tăng của
M2+) và mức lạm phát ? lưu ý rằng quan hệ này
diễn ra với độ trễ một năm.
- Chúng ta sẽ nói thêm một chút về vấn đề này
bằng cách đề cập đến chính sách chống lạm phát
trong cuộc suy thoái 1990-91, và chính sách
chống suy thoái hiện tại.
Ảnh hưởng của Chính sách Chống lạm phát
cuối những năm 80
Hình 5 trên đây chỉ cho chúng ta thấy mức
tăng cung ứng tiền giảm đi dường như làm giảm
lạm phát.
- Lạm phát thường xảy ra khi đường AD dịch
chuyển sang phải quá nhanh, hoặc nếu đường SAS
dịch chuyển sang trái quá nhanh.
- Hình 6 dưới đây chỉ ra một trường hợp với
mức tăng trưởng quá cao của AD.
- Đường AD0 hiện tại được kỳ vọng
sẽ tăng lên đến ADexp trong giai
đoạn tiếp theo, tạo nên một áp lực lạm phát.
- Hơn nữa, cuối cùng chúng ta sẽ thấy một áp
lực tăng lên về tiền lương bởi vì sản lượng sẽ
cao hơn mức tự nhiên, và thất nghiệp sẽ dưới
mức tự nhiên ? hãy xem dòng gạch chân trong
bài viết của Greenspan.
Hình 6
- Để chấm dứt tình trạng này, ngân hàng trung
ương giảm mức tăng trưởng AD, điều này làm cho
đường LM dịch chuyển sang trái, và giữ cho AD
khỏi sự tăng trưởng quá nhanh.
- Nếu họ đánh giá sai tình huống, họ có thể
có đường AD mới nằm bên trái của đường AD0
hiện tại, và chúng ta gặp phải suy thoái, như
là trong năm 1990-91.
- Như chúng ta có thể thấy trong Hình 5, có
một vài vấn đề lạm phát nhỏ trong cuối những
năm 90, và Ngân hàng Canada phản ứng bằng cách
giảm mức tăng cung ứng tiền.
- Chúng ta có thể thấy trong Hình 3 rằng mức
tăng cung ứng tiền danh nghĩa trở nên âm, và
nếu mức lạm phát lúc đó là 5%, thì mức tăng
cung ứng tiền thực tế thậm chí còn thấp hơn
thiều.
- Kết quả là có sự tăng lên về lãi suất trong
năm 1990, và dẫn đến giảm mạnh đầu tư trong
những năm tiếp theo, như chúng ta đã thấy
trong Chương 4 - giữa năm 1989 và 1993 đầu tư
thực tế giảm 13.9%, và nền kinh tế đi vào suy
thoái.
- Hình 5 cho thấy, Ngân hàng Canada đã thành
công trong việc giảm lạm phát đến mức gần 1%,
nhưng phải cần một chi phí rất lớn để điều
chỉnh lạm phát.
- Mọi người rất nhận thức được điều này trong
những năm đầu của thập kỷ 90, họ hy vọng rằng
ngân hàng trung ương Canada và Hoa Kỳ có thể
thực hiện tốt hơn việc chấm dứt những áp lực
lạm phát hiện thời mà không cần gây
ra sự suy thoái.
Bây giờ chúng ta đã hiểu về chính sách tiền
tệ hoạt động như thế nào, đây là lúc để tìm
hiểu về chính sách tài chính.
3) Chính sách tài chính trong mô hình IS-LM
Chính sách tài chính bao gồm những nỗ lực của
chính quyền liên bang hoặc cấp tỉnh nhằm tác
động đến tình trạng kinh tế vĩ mô
của nền kinh tế bằng cách thay đổi thuế, các
khoản chi trả chuyển nhượng, hoặc mua sắm của
chính phủ các hàng hoá và dịch vụ.
- Trong khoá học này, chúng ta không tập
trung vào những nỗ lực để thực hiện chính sách
kinh tế vĩ mô, như là chính sách môi trường,
chính sách lao động (ví dụ, trợ cấp sinh đẻ
tăng lên trong ngân sách liên bang năm 2000),
chính sách đối với nông nghiệp, v.v..
- Chúng ta tập trung vào những nỗ lực làm ảnh
hưởng đến tổng chi tiêu với chính sách tài
chính.
-Tự động hoá ổn định là một
dạng của chính sách tài chính tự động trong
hoàn cảnh suy thoái hoặc kinh tế bùng nổ, mà
không có những sự thay đổi có chủ ý của chính
phủ.
- Ví dụ, nếu nền kinh tế đi xuống, thu thuế
giảm và các khoản chi phí chuyển nhượng như
bảo hiểm thất nghiệp hoặc khoản phúc lợi sẽ
tăng lên, làm tăng thu nhập có sẵn và tiêu
dùng, điều này có tác động ngăn cản sự đi
xuống của nền kinh tế.
- Chính sách tài chính tuỳ nghi
là những thay đổi có chủ ý trong cấu trúc thuế
và chương trình chi tiêu nhằm làm tăng hoặc
giảm tổgn cầu.
- Chúng ta phải lưu tâm đến chính
sách tăng trưởng dài hạn - nhằm
thay đổi tăng trưởng kinh tế dài hạn của nền
kinh tế, có lẽ bằng cách khuyến khích các
ngành công nghệ cao, hoặc đầu tư vào các
trường đại học, đường sá, sân bay, v.v. - nhằm
đẩy nhanh tốc dộ tăng trưởng của tổng cung.
Ngân sách Chính phủ Liên bang năm 2000.
Những chính sách tôi mô tả ở trên thường được
công bố trong các văn bản ngân sách hàng năm,
đó là báo cáo hàng năm về kế hoạch thu chi của
chính quyền liên bang và cấp tỉnh.
- Bảng dưới đây cho chúng ta thấy các phần
chính của kế hoạch thu chi của Ngân sách Liên
bang 2000, công bố ngày 28 tháng Hai.[4]
- Như chúng ta có thể thấy từ bảng này, khoản
mục chi tiêu lớn nhất của chính quyền liên
bang là khoản nợ còn tồn từ thâm hụt ngân sách
từ năm trước - mức độ hiện tại của khoản này
khoản $575 tỷ, hay khoảng $18,808 mỗi người
(chúng ta sẽ quay lại thâm hụt ngân sách và nợ
trong phần 4).
- Tiếp theo, họ hầu như chi tiêu bằng cách
chuyển tiền đến nhiều người, doanh nghiệp, và
các tỉnh.
- Cuối cung, họ chi tiêu một lượng nhỏ vào
mua sắm thực tế của chính phủ các hàng hoá và
dịch vụ
Ngân sách Liên bang 2000-2001
Mục |
Giá trị dự kiến
(Tỷ đô la) |
% Chi tiêu hoặc
thu |
Thu ngân sách |
162 |
|
Thuế thu nhập cá nhân |
75,9 |
46,9% |
Thuế thu nhập doanh
nghiệp |
23,9 |
14,8% |
Thuế bán hàng, thuế quan,
v.v.. |
33,5 |
20,7% |
U.I Premiums |
18,2 |
11,2% |
Khác |
10,5 |
6,5% |
|
|
|
Chi ngân sách |
162 |
|
Chuyển cho các tỉnh |
22,6 |
14,0% |
Các khoản chuyển lưu |
19,6 |
12,1% |
Chi trả tiền lời |
42,0 |
25,9% |
Chi trả lợi của
người già |
24,2 |
14,9% |
Lợi U.I. |
11,2 |
6,9% |
Chi phiếu-- mua của chính
phủ |
37,8 |
23,3% |
Tiền dự trữ |
4,0 |
2,5% |
|
|
|
Thâm hụt hoặc
thặng dư dự kiến |
0 |
|
Bây giờ chúng ta đã biết được các khoản mục
chính trong chi tiêu ngân sách, chúng ta hãy
xem những thay đổi về thuế và/hoặc chi tiêu
ảnh hưởng đến nền kinh tế như thế nào.
Mô hình IS-LM cơ bản của Chính sách Tài
chính
Chúng ta đã biết từ Chương 5 năm rằng một sự
tăng lên chi tiêu của chính phủ làm dịch
chuyển đường IS sang phải, bởi một lượng tương
ứng với số nhân x DG.
- Tuy nhiên, phân tích đó dựa trên thị trường
hàng hoá dịch vụ trong sự cô lập, bỏ qua thị
trường tiền tệ, và giữ nguyên mức lãi suất VÀ
mức giá.
- Bây giờ chúng ta muốn mở rộng phân tích này
bằng cách xem điều gì xảy ra đối với sự cân
bằng kết hợp, khi chúng ta cho phép hai biến
này thay đổi.
- Hình 7 dưới đây chỉ ra ảnh hưởng của chính
sách tài chính mở rộng, như là tăng chi tiêu
của chính phủ hoặc giảm thuế.
- Thay đổi đó làm tăng tổng chi tiêu dự kiến
và làm dịch chuyển đường IS sang phải, mức lãi
suất giữ nguyên.
- Chúng ta có thể thấy bản ảnh hưởng của số
nhân trong Chương 4 trên đồ thị, Y0
? YA.
Hình 7
Tuy nhiên, chúng ta có thể thấy trong mô hình
kết hợp đủ rằng sự tăng lên của Y từ chính
sách mở rộng không phảii là phần kết
của câu chuyện.
- Sự dịch chuyển sang trái của đường IS thể
hiện sự tăng lên về chi tiêu, va tăng GDP thực
tế.
- Trong thị trường tiền tệ, GDP tăng lên làm
tăng nhu cầu về tiền, điều này lại làm tăng
lãi suất từ r0 đến r1.
- Lãi suất tăng lên làm giảm chi
tiêu đầu tư của các doanh nghiệp, được thể
hiện bằng mũi tên màu xanh như là sự dịch
chuyển lên/sang trái của đường IS.
- Do đó, sự tăng lên của GDP thực tế mong
muốn, được thể hiện bằng sự dịch chuyển sang
phải của đường AD, với mức giá giữ nguyên, là
việc Y0 chuyển sang Y1.
- Tiếp theo, chúng ta biết rằng sự tăng lên
của AD tạo ra áp lực tăng lên đối với mức giá.
- Khi mức giá trung bình tăng lên, nó làm
giảm cung ứng tiền thực tế, và làm dịch chuyển
đường LM sang trái, làm tăng lãi suất từ r1
đến r2.
- Sự tăng lên của lãi suất lần thứ hai này
lại tiếp tục làm giảm chi phí đầu tư.
- Tại phần cuối của câu chuyện, chúng ta thấy
rằng tổng tăng lên của GDP thực tế từ chi tiêu
của chính phủ chỉ là việc dịch chuyển từ Y0
đến Y2, nhỏ hơn rất nhiều so với từ
Y0 ? YA, tổng số dự đoán
do phân tích số nhân cơ bản trong chương 4.
Sự chèn lấn (crowding out)
Phân tích của chúng ta đã chỉ ra rằng sự tăng
lên trong tổng chi tiêu do tăng chi tiêu của
chính phủ hoặc việc cắt giảm thuế bị cân bằng
bởi sự giảm xuống về đầu tư do tăng thuế.
- Hiệu ứng cân bằng này được gọi là sự
chèn lấn.
- Chúng ta có thể tóm tắt tổng các hiệu ứng
của sự tăng lên chi tiêu của chính phủ bằng
biểu thức sau
Đây là một mối bận tâm của các nhà kinh tế
học rằng chi tiêu quá mức của chính phủ chèn
lấn đầu tư tư nhân, bởi vì đầu tư tư nhân là
cách chúng ta làm tăng tổng lượng vốn, một
nguồn cơ bản của tăng trưởng kinh tế dài hạn.
- Lưu ý rằng nếu nền kinh tế bắt đầu với việc
làm đầy đủ, với AD = SAS = LAS, thì chính sách
tài chính mở rộng không có một tác động dài
hạn nào đối với Y, như được chỉ ra trong Hình
8 dưới đây.
- Trong trường hợp này, chi tiêu tăng lên của
chính phủ dẫn đến một sự chèn lấn hoàn toàn.
- Tuy nhiên, nếu như trong Hình 7 nền kinh tế
không ở trong tình trạng việc làm đầy đủ,
chính sách tài chính mở rộng có thể làm tăng
GDP thực tế, và đẩy nền kinh tế đến có việc
làm đầy đủ - chính sách tài chính có
thể được sửe dụng để thực hiện chính sách
ngược chu kỳ.
- Tuy nhiên, như chúng ta đã nhấn mạnh trong
phần trước, mô hình số nhân đơn giản cần được
sửa đổi ? chính sách tài chính mở rộng làm
tăng lãi suất và mức giá, điều này có tắc động
tiêu cực đến nền kinh tế.
Hình 8
Những Khó khăn Tiềm tàng khác khiTthực
hiện Chính sách Tài chính trong Thực tế
Có hai vấn đề khác cần nói đến khi sử dụng
chính sách tài chính.
- Thứ nhất, cũng như chính sách tiền tệ, cần
có thời gian để triển khai chính sách này
trong toàn bộ nền kinh tế, điều này có nghĩa
là có sự khó khăn khi sử dụng nó như là một
công cụ chính xác để tinh chỉnh nền kinh tế.
- Thứ hai, khi bạn tăng chi tiêu của chính
phủ hoặc giảm thuế như là một phần của chính
sách tài chính, điều này làm tăng thâm hụt
chính phủ, lượng tiền họ phải đi vay mỗi năm,
điều này cũng có ảnh hưởng tiêu cực đến nền
kinh tế.
4) Các khoản nợ chính phủ và sự thâm hụt
Chúng ta hãy nói về nợ chính phủ và sự thâm
hụt của chính phủ, hãy bắt đầu với một số khái
niệm.
- Chúng ta có thẻ xác định cân bằng
ngân sách của chính phủ tương đương
với:
Chi tiêu của chính phủ - khoản thu của chính
phủ
= Mua sắm của chính phủ + Các khoản chi phí
chuyển đổi +các khoản lãi phải thanh toán đối
với nợ hiện tại - thuế.
- Nếu chi phí thấp hơn thu vào, thì chúng ta
có thặng dư.
- Nếu chi phí lớn hơn thu vào, thì chúng ta
có thâm hụt.
+ Bù đắp bằng trái phiếu là
khi khoản tiền thiếu hụt được bù đắp bằng việc
bán trái phiếu cho các thành viên trong công
chúng, do đó có sự tăng lên số trái phiếu của
chính phủ trên thị trường.
+ Bù đắp bằng tiền là khi
trái phiếu được bán cho Ngân hàng Canada, điều
này tương đương với việc in một lượng tiền
tương ứng và sử dụng nó để đáp ứng số tiền còn
thiếu, do đó có sự tăng lên trong cung ứng
tiền (nhưng không có thay đổi trong số trái
phiếu của chính phủ trên thị trường).
- Ở Canada, thâm hụt ngân sách thường được bù
đắp bằng bán công trái, do đó số nợ của chính
phủ được tăng lên do thâm hụt, điều này có
nghĩa là:
Khoản nợ của chính phủ hiện tại = Khoản nợ
năm trước + khoản thâm hụt năm trước
= Khoản nợ cách đây 2 năm + khoản thâm hụt
cách đây 2 năm + thâm hụt năm trước
= Khoản nợ cách đây 3 năm +?
= Tổng của các khoản thâm hụt trong quá khứ.
- Do đó, quy mô của khoản nợ của chính phủ
phụ thuộc vào quy mô của thâm hụt trong quá
khứ.
- Do đó, điều hành sự thâm hụt liên tục
dẫn đến mức tăng càng cao các khoản nợ chính
phủ.[5]
- Nếu có sự thặng dư ngân sách một năm nào
đó, điều này có nghĩa là chính phủ giảm các
khoản nợ chưa trả hết bằng cách trả một phần
khoản nợ này với số thặng dư.
- Thặng dư có thể hiểu như là thâm hụt âm.
Chúng ta đôi khi muốn nhìn vào chi tiêu cảu
chính phủ với các khoản lãi ròng, bởi vì điều
này giúp chúng ta thấy được ngân sách chính
phủ có tác động như thế nào đến tổng cầu.
- Chúng ta có thể định nghĩa
chương trình cân bằng
= tổng chi tiêu (ngoại trừ các khoản lãi) -
thuế.
= tổng cân bằng ? các khoản lãi.
Những vấn đề do Thâm hụt gây ra
Hình 9 dưới đây cho thấy cân bằng chung và
chương trình cân bằng gần đây, đến năm 1996 ?
sau năm 1996 cân bằng tổng nhanh chóng chuyển
đến thặng dư.
- Chúng ta có thể thấy rằng vấn đề thặng dư
bắt đầu từ cuối thập kỷ 70, khi chi tiêu để
trợ cấp giá dầu cao và những chương trình xã
hội đã dẫn đến thâm hụt nặng.
- Sự thâm hụt này làm tăng các khoản nợ chưa
trả hết, và do đó dẫn đến tăng không ngừng các
khoản lãi của nợ.
- Điều này chỉ ra một vấn đề khi ở trong sự
thâm hụt ? nó tạo thêm nhiều nợ, và thâm hụt
trong tương lai, một loại hiệu ứng quả bóng
tuyết.
- Đây là một trong những lý do chính phủ liên
bang và các tỉnh quyết định cố gắng giảm thâm
hụt của họ - tình huống càng trở nên trầm
trọng, và các khoản lãi tăng lên so với khoản
thu thuế của chính phủ.
- Bây giờ ngân sách đang thặng dư, tổng số nợ
giảm nhẹ, do đó các khoản lãi cũng giảm nhẹ.
- Tuy nhiên để cân bằng ngân sách, chính phủ
phải vận hành một chương trình thặng dư đủ
mạnh để vượt qua được các khoản lãi.
- Chương trình thặng dư này được tạo ra bằng
cách tăng thuế và cắt giảm chi tiêu của chính
phủ vào những vấn đề như bảo hiểm thất nghiệp,
và chuyển vấn đề chăm sóc y tế cho các tỉnh,
và vấn đề giáo dục sau trung học.
- Do đó, hiện tại bạn phải chi trả cho những
dịch vụ yếu kém của chính phủ, học phí cao hơn
đối với bố mẹ của bạn, thâm hụt lớn trong quá
khứ.
Hình 9 Cân bằng Ngân sách Liên bang[6]
Chúng ta cũng nên để ý rằng một khoản thâm
hụt lớn sẽ có nghĩa là có nhiều các khoản vay
thêm của chính phủ trong thị trường trái
phiếu, và có thể làm tăng lãi suất, và tạo ra
thậm chí càng nhiều sự chèn lấn đối với
đầu tư tư nhân.
- Sự chèn lấn tăng thêm này sẽ làm giảm tăng
trưởng kinh tế dài hạn nền kinh tế, và gây tổn
hại nghiêm trọng đến nền kinh tế về mặt dài
hạn.
- Đây một lý do nữa để chúng ta cần phải loại
bỏ sự thâm hụt.
5) Nghiên cứu thực tế: Chính sách tài chính
những năm 90.
Loại bỏ thâm hụt có thể cần thiết cho sự bảo
đảm dài hạn của nền kinh tế và chính phủ,
nhưng nó chắc chắn làm tổn thương nền kinh tế
trong nửa cuối của thập kỷ 90.
- Thực tế, rõ ràng rằng loại bỏ lạm phát cùng
lúc với nền kinh tế vừa thoát ra khỏi suy
thoái 1991-1992 là một trải nghiệm khó khăn
(kinh nghiệm thương đau).
- Nếu chúng ta xem xét Hình 9, chúng ta có
thể thấy hoạt động của nhân tố tự động ổn định
đã xảy ra trong khủng hoảng 1982-1984 và khủng
hoảng 1990-1992.
- Khi nền kinh tế đi vào khủng hoảng, thu
thuế giảm và chi phí cho phúc lợi và bảo hiểm
thất nghiệp tăng lên, tạo ra chương trình thâm
hụt được chỉ ra trong cả hai tình huống.
- Chương trình thâm hụt này có xu hướng thúc
đẩy tổng cầu, và tự động vận hành chống lại
khủng hoảng.
- Tuy nhiên chú ý rằng chương trình thâm hụt
trong khủng hoảng năm 1990 rất nhỏ, và hầu như
được can thiệp ngay lập tức bởi một chương
trình thặng dư lớn, khi chính phủ của Đảng tự
do cố gắng để cân bằng ngân sách.
- Chương trình lớn này được tạo ra bằng cách
tăng thuế và cắt giảm các khoản chi phí chuyển
đổi và chi tiêu của chính phủ ở mọi cấp độ.
- Như chúng ta đã biết từ phân tích trước đó,
hoạt động này sẽ gây ra áp lực giảm xuống đối
với tổng cầu, làm giảm sự phục hồi của nền
kinh tế từ khủng hoảng.
- Nếu chúng ta cố gắng thực hiện chính sách
ngược chu kỳ để thúc đẩy sự phục hồi kinh tế,
chúng ta sẽ tăng tổng cầu bằng chính
sách tài chính mở rộng.
- Tuy nhiên, chính sách chống lại thâm hụt
của chính phủ liên bang và cấp tỉnh có một tác
động phụ không mong muốn là việc tạo ra một
chính sách tài chính thắt chặt, điều
này chắc chắn sẽ giúp nền kinh tế duy trì sự
tăng trưởng chậm hơn rất nhiều so với bình
thường.
- Chắc chắn rằng nền kinh tế Canada thoát ra
khỏi khủng hoảng 1990-1991 chậm hơn rất nhiều
so với khủng hoảng năm 1982.
Tuy nhiên, nền kinh tế hiện tại tăng trưởng
rất tốt, ngân sách được cân bằng, chi tiêu của
chính phủ tăng lên và thuế được giảm xuống -
mọi thứ đều diễn ra rất tốt, chừng nào nền
kinh tế Hoa Kỳ không có biến cố.
6) Kết luận
Mô hình IS-LM đầy đủ cho phép chúng ta phân
tích hoạt động của chính sách tài chính và
tiền tệ trong nền kinh tế.
Chính sách tiền tệ mở rộng
Chúng ta đã thấy rằng chính sách tiền tệ mở
rộng được bắt đầu bằng việc ngân hàng trung
ương giảm Lãi suất Chiết khấu Ngân hàng, lãi
suất mà ngân hàng trung ương đặt ra khi cho
các ngân hàng tư nhân vay tiền.
- Lãi suất chiết khấu giảm xuống dẫn đến các
ngân hàng tư nhân quyết định giữ mức dự trữ
thấp hơn, và tăng việc cho các doanh nghiệp và
hộ gia đình vay tiền, với mức lãi suất cơ bản
thấp hơn.
- Sự thay đổi này của ngân hàng tư nhân dẫn
đến tăng các khoản tiền gửi trong hệ thống
ngân hàng, dẫn đến tăng cung ứng tiền.
- Điều này được thể hiện bằng sự dịch chuỷen
xuống đường LM.
- Lãi suất thấp hơn làm cho việc vay tiền rẻ
hơn, dẫn đến tăng cầu đầu tư, thể hiện bởi sự
dịch chuyển xuống dọc theo đường IS.
- Bây giờ tổng cầu đối với hàng hoá và dịch
vụ trong nền kinh tế cao hơn, thể hiện bởi sự
dịch chuyển sang phải của đường AD.
- Tổng cầu cao hơn tạo ra một áp lực tăng lên
đối với mức giá.
- Mức giá cao hơn làm giảm cung ứng tiền thực
tế, và giả định rằng chúng ta trong hoàn cảnh
mà sự thất nghiệp xảy ra trước hết, điều này
tác động một phần chính sách tiền tệ
ban đầu, và dịch chuyển đường LM sang trái.
- Kết quả cuối cùng của chính sách mở rộng là
mức lãi suất thấp đi, một mức GDP thực tế cao
hơn, và mức giá cao hơn.
Hãy chắc chắn rằng bạn cũng có thể tìm ra một
chính sách thắt chặt cho hoạt động trong toàn
bộ nền kinh tế như thế nào.
- Ngày nay có nhiều nhà kinh tế học lo lắng
rằng Canada đang ở trong hoặc vượt quá tình
trạng việc làm đầy đủ, và có thể phải chịu
những vấn đề lạm phát trong tương lai.
Ví dụ, Các số liệu thống kê ở Canada dự đoán
rằng chúng ta đang hoạt động gần với sử dụng
toàn bộ năng lực các nhà máy.
- Hơ
Copyright (c) 2006 by kinhtehoc.com
Nguồn:
http://www.kinhtehoc.com/index.php?name=News&file=article&sid=231
Định
Giá Trái Phiếu
Campbell
R. Harvey
Dịch
Viên: Nhân Thụy
1. Giới Thiệu
Bạn muốn nhận được $100 ngay hôm nay hay
vào năm tới? Hiển nhiên rằng bạn muốn nhận
được tiền ngay hôm nay rồi. Bạn có thể gửi
ngân hàng và năm tới giá trị tăng vượt mức
$100. Do đó thời gian là một nhân tố quan
trọng khi ta muốn đánh giá tiền tệ.
Chúng ta sẽ tìm câu trả lời cho hai vấn
đề sau: Giá trị hôm nay của $100 nhận được
vào năm sau và giá trị nhận được vào năm
sau của $100 hôm nay? Với câu hỏi đầu tiên
đề cập đến giá trị của ngày hôm nay và
được gọi là giá trị hiện tại.
Câu hỏi thứ hai đề cập đến giá trị của năm
tới và được gọi là giá trị tương lai.
2. Tính Lãi Kép Liên Tục và Lãi Kép
Không Liên Tục.
Trước hết ta cần thiết lập một số quy
ước:
V0 = là giá trị hiện
tại
Vt = là giá trị tương
lai tại thời điểm cuối những giai đoạn t
t = là số lượng giai đoạn
i = là lãi suất thực theo kỳ
hạn hay còn gọi là lãi suất thực
theo kỳ hạn tính lãi kép
R = là lãi suất năm (APR) hay đôi
khi còn gọi là "lãi suất danh nghĩa"
n = là số giai đoạn tính lãi kép
r = là lãi suất thực hàng
năm
Lãi suất thực theo kỳ hạn i bằng
với lãi suất danh nghĩa R chia cho
số giai đoạn tính lãi kép hàng năm:
Lãi suất thực hàng năm r là lãi
suất kép hàng năm bằng với lãi suất thực
theo kỳ hạn i được tính kép n
lần mỗi năm
Chú ý rằng n lớn hơn (được tính
lãi suất kép nhiều giai đoạn mỗi năm), thì
lãi suất thực hàng năm trở thành:
trong đó e là số mũ tự nhiên, e
xấp xỉ 2.718. Ta sẽ chứng minh công thức
này.
Chứng minh
Chúng ta sẽ chứng minh rằng
Trong trường hợp đặc biệt R=0, thì kết
quả này quá hiển nhiên. Ta xét những
trường hợp R khác 0. Lấy logarit vế phải
của hàm này
Chia và nhân cho R và chú ý rằng logarit
của 1 bằng 0, chúng ta có thể viết lại như
sau
Điều quan trọng trong chứng minh công
thức này là thương số hiệu của hàm
logarit. Vì thế
Sau khi tính toán và biết rằng:
và ta lấy trường hợp x=1. Có nghĩa là
và ngược lại:
Ví dụ
Giả sử một ngân hàng trả lãi số tiền gửi
của bạn với lãi suất danh nghĩa 4%
(R=.04). Bảng sau đây thể hiện những lãi
suất thực khác nhau tuỳ theo số lần tính
lãi mỗi năm
Tính lãi kép theo Công thức Lãi suất thực
1=theo năm
4=theo quý
12=theo tháng
52=theo tuần
365=theo ngày
8760=theo giờ
=liên tục
Vì thế nhà đầu tư nào cũng muốn số lần
tính lãi kép càng nhiều. Lãi suất kép liên
tục luôn cao hơn lãi suất có kỳ hạn.
3. Giá Trị Tương Lai
Giá trị tương lai được tính theo như ví
dụ sau. Giả sử rằng bạn gửi $1000 và được
trả lãi suất hàng năm là 4%. Vậy giá trị
của số tiền gửi của bạn vào sau 6 năm là
bao nhiêu?
Giá trị tương lai được tính theo công
thức của ví dụ này:
Vì thế giá trị tương lai của số tiền gửi
V0 hôm nay vào
cuối thời điểm T là (1+R)^TV0.
Nếu tiền gửi được trả lãi theo lãi suất
liên tục thì công thức tính sẽ là
Theo ví dụ trên thì giá trị tương lai của
$1000 với lãi suất liên tục là $1271.25.
Lưu ý rằng giá trị tương lai sẽ cao hơn
nếu lãi suất được tính kép liên tục bởi vì
như thế thì lãi suất thực sẽ cao hơn.
(1+R)^T hay e^{RT} đôi khi
còn được gọi là nhân tố tích luỹ hay hệ số
nhân tiền tệ.
4. Hệ Số Nhân của Tiền[1]
Như cái tên của nó, hệ số nhân của tiền
dùng để đo nhân tố dùng để nhân với số
tiền của bạn trong tương lai theo lãi suất
R và thời hạn T cho trước.
Thường thì lợi nhuận từ vốn đầu tư tuỳ
thuộc vào thời gian mà số tiền bạn được
giữ. Hãy quan sát bảng phụ lục lãi suất
của ngân hàng bên dưới. Các mức lãi suất
từ 1 đến 5 năm do Wachovia quy định.
Chú ý rằng hệ số nhân của thị trường tiền
tệ sẽ tăng theo luỹ thừa cùng với kỳ hạn
thanh toán. Hơn nữa, tỉ lệ gia tăng cũng
phụ thuộc vào mức lãi suất.
5. Giá Trị Hiện Tại
Giả sử rằng chúng ta biết được giá trị
tương lai (V_T) của số vốn đầu tư, thì giá
trị hiện tại của nó cũng dễ dàng tính
được. Từ công thức tính giá trị tương lai:
Ta chia hai vế cho hệ số nhân của tiền và
ta sẽ có công thức tính giá trị hiện tại:
Trong trường hợp lãi suất với kỳ hạn liên
tục, ta có công thức sau:
Ví dụ
Một người cần $200,000 trong 10 năm nửa
để có tiền cho con của cô ta theo học MBA.
Vậy hôm nay cô ta cần đầu tư bao nhiêu để
nhận được $200,000 trong tương lai, biết
lãi suất là 8%?
6. Mức Giá Của Trái Phiếu Chiết Khấu
Chúng ta có thể sử dụng những công cụ có
sẵn tính giá trị hiện tại và giá trị tương
lai để đánh giá trái phiếu chiết khấu. Trái
phiếu chiết khấu là loại trái
phiếu được trả $1 vào thời điểm T
và lãi suất không được trả trước thời gian
này. Loại trái phiếu này được bán tại Mỹ
với những cái tên như zeros, money
multipliers, CATs, TIGRs,
và STRIP. CATs là Các Chứng
Chỉ Chứng Khoán Kho Bạc Tích Luỹ Của
Salomon Bros. TIGRs là Trái
Phiếu Đầu Tư Phát Triển Của Merill Lynch,
và TRIPS là Lãi Và Vốn Cổ Phần Đã Đăng
Ký Giao Dịch Độc Lập.
Các loại chứng khoán này được bán với giá
chiết khấu so với mệnh giá là $1. Phần
tiền chiết khấu thể hiện số lợi nhuận kiếm
được từ phần vốn đầu tư. Và bây giờ ta sẽ
tìm hiểu công thức tính lợi nhuận khi biết
được mức giá của trái phiếu chiết khấu
(zero). Từ giá trị tại, chúng ta có thể
tính được dòng tiền tương lai so với hiện
tại với một lãi suất cho sẵn. Từ giá trị
tương lai, ta cũng có thể tính được giá
trị hiện tại (trị giá trái phiếu) và giá
trị tương lai (mệnh giá trái phiếu tại
thời điểm đáo hạn) và ta có thể tính được
mức lãi suất. Xét công thức tính lãi suất
sau:
Chia hai vế cho giá trị hiện tại và chia
cả hai vế cho giá trị nghịch đảo của hệ số
nhân tiền:
Sau đó chuyển thời gian đáo hạn sang vế
bên phải:
Đây là công thức tính lãi suất tại thời
điểm đáo hạn của trái phiếu chiết khấu.
Trong trường hợp tính lãi liên tục, thì ta
có công thức:
Ví dụ
Giả sử trái phiếu CAT có kỳ hạn là sáu
năm tính từ hiện tại được giao dịch với
giá $55 và giả sử mệnh giá của nó là $100.
Thì lãi suất của nó được tính như sau:
Trong trường hợp lãi liên tục:
Chú ý rằng lãi suất liên tục luôn thấp
hơn.
Ta hãy xét bảng mức giá của CATs (chứng
chỉ trái phiếu thực) đựơc trích từ thời
báo Wall Street.
Chú ý rằng giá của trái phiếu giảm theo
thời gian.
7. Mức Giá Của Trái Phiếu Chiết Khấu và
Hệ Số Nhân Tiền
Chúng ta có thể dễ dàng liên hệ công thức
tính hệ số nhân của tiền với trái phiếu.
Ta xét ví dụ sau. Giả sử một trái phiếu
chiết khấu kỳ hạn 12 năm được bán với giá
$0.25 (và 12 năm sẽ được trả là $1.00) Nếu
ngay bây giờ nhà đầu tư có $1.00 để đi đầu
tư, thì ông có thể mua được 4 cái trái
phiếu. Vì thế với $1.00 đầu tư hiện tại sẽ
lời được $4.00 trong 12 năm. Vậy hệ số
nhân tiền là 4.
Trái phiếu chiết khấu và hệ số nhân tiền
được thể hiện ở công thức sau:
trong đó Z_T là giá trị của trái
phiếu chiết khấu vào thời điểm hiện tại và
M_T là hệ số nhân tiền trong T
giai đoạn. Chúng ta có công thức tính hệ
số nhân:
Và kết quả là : lãi suất càng cao thì hệ
số nhân càng lớn và mức giá của trái phiếu
càng thấp.
8. Sử Dụng Trái Phiếu Chiết Khấu Để Tính
Giá Trị Lưu Lượng Tiền
Giả sử bạn đang đầu tư với mức độ rủi ro
bằng 0, với số vốn này trong 5 năm tới nó
sẽ thu về một số lưu lượng tiền sau (phần
tiền thu được)
CF_1 = 10
CF_2 = 20
CF_3 = 30
CF_4 = 40
CF_5 = 50
Thế giá trị hiện tại của số vốn đầu tư là
bao nhiêu?
Để biết câu trả lời, ta có thể nghĩ ngay
đến những lưu lượng tiền trên mà được xem
là danh mục đầu tư vào trái phiếu với kỳ
hạn trong suốt từ 1 đến 5 năm. Chúng ta có
thể lập danh mục tái tạo lại bắng cách mua
trái phiếu chiết khấu (Zero) với mệnh giá
$1
Giả sử rằng đều có những mức giá khác
nhau cho các trái phiếu chiết khấu với kỳ
hạn khác nhau mà ta đang xét:
Vì thế khi bạn bỏ ra số tiền $96.96 vào
ngay hôm nay và mua trái phiếu chiết khấu,
số trái phiếu này cũng trả cho bạn số tiền
như thế ngay vào thời điểm bạn bắt đầu đầu
tư. Đây là phương pháp tìm giá trị hiện
tại khi biết được lưu lượng tiền. Trước
đó, ta đã xét qua một lưu lượng tiền tại
thời điểm T và ta cũng đã biết tính giá
trị hiện tại của lưu lượng tiền đó. Rõ
ràng rằng ta có thể nghĩ đến phương pháp
mua ngay trái phiếu chiết khấu hôm nay. Rõ
ràng là chúng ta có thể dùng đến phương
pháp đó là mua trái phiếu chiết khấu hôm
nay để nhận được các lưu lượng tiền.
9.Trường Hợp Không Có Chênh Lệch Giá[2]
Chúng ta có thể định giá các lưu lượng
tiền bằng cách lập ra danh mục tài sản
giao dịch được tái tạo lại. Với giả định không
có chênh lệch giá, danh mục tái tạo
phải có cùng một giá trị như dự án. Những
lưu lượng tiền tại các nước khác nhau trên
thế giới phải có cùng một giá trị. Nếu có
dòng nào mang giá trị cao hơn thì giá của
nó sẽ giảm xuống vì các nhà đầu tư đều
muốn hưởng lợi từ mức chênh lệch giá như
thế. Số vốn đầu tư thấp hơn sẽ bị các nhà
đầu tư tìm cách phá giá và đẩy nó lên cao
hơn. Kết quả là các mức giá đều bằng nhau
cả.
Nhưng không phải lúc nào cũng có trái
phiếu chiết khấu để chúng ta sử dụng đều
cho việc phát triển dự án. Thật ra các mức
giá dùng trong phần trước đã được tìm với
giả thuyết lãi suất là 13%. Hãy xét những
lưu lượng tiền tương tự:
Chú ý rằng giá trị hiện tại ròng mà chúng
ta vừa tìm được ở đây hoàn toàn giống với
kết quả mà chúng ta đã tính trước đó, do
những mức giá trái phiếu mà chúng ta sử
dụng ở đây có lãi suất là 13%.
10. Hoạch Định Ngân Sách Vốn
Chúng ta có thể dùng lại cách thẩm định
dự án đầu tư hay cách định giá những gì mà
công ty thu được. Đối với dự án đầu tư, ta
đều biết trước chi phí và doanh thu. Còn
giá trị hiện tại ròng là giá trị số vốn
đầu tư mà bạn bỏ ra ngay hôm nay - cũng
đồng nghĩa với chí phí ròng.
NPV= PV(doanh thu) - PV(chi phí)
Xém ví dụ sau. Bạn chủ trì một cuộc họp
bàn về một kế hoạch thu mua. Đó là mua lại
một công ty, sau hợp thức hoá và đưa nó
vào hoạt động cùng với công ty của bạn sau
một khoản thời gian là 2 năm rồi bán nó
đi. Chi phí phải bỏ ra hôm nay là $100
triệu. Vào cuối một năm sẽ đạt lợi nhuận
là 10 triệu. Công ty đó sẽ được bán với
giá là 160 triệu. Tỷ lệ chiết khấu của nó
là 10%. Bỏ qua thuế, thì giá trị hiện tại
ròng của dự án này là $41.322 triệu.
Một điểm quan trọng cần chú ý là bất kỳ
một dự án nào mà giá trị hiện tại của nó
là một số dương cũng có thể tự thân huy
động vốn, tức là tự bản thân của dự án đó
có thể thanh toán tất cả các chi phí. Hơn
nữa, một khi dự án được tiến hành, giá trị
hiện tại ròng -số dương- chính là doanh
thu đạt được vào chính ngày hôm nay và
được tính bằng đôla. Để hiểu thêm, ta xét
lại ví dụ trên. Giả sử rằng bạn có thể
mượn ngân hàng 100triệu với lãi suất 10%
trong 2 năm. Bạn dự tính mua công ty đó.
Bạn dùng doanh thu có được từ dự án đó để
trả lãi năm đầu tiên. Vào cuối năm thứ
hai, bạn vẫn nợ ngân hàng 110 triệu và bạn
phải bán dự án của bạn với giá 160 triệu.
Doanh thu của năm thứ 2 là 50 triệu. Do đó
giá trị hịên tại của nó là 41.322 triệu.
Hãy nhớ rằng, trong những nghiệp vụ mà
chúng ta thực hiện, thì ta không cần đụng
đến số vốn của chúng ta. Tuy nhiên, tài
sản của chúng ta sẽ tăng lên 41.322 triệu.
Rõ ràng rằng:
Quy luật giá trị hiện tại ròng:
(a). Nếu giá trị của dự án là một số
dương, thì ta nên tiến hành thực hiện dự
án đó, nếu là số âm thì nên bỏ.
(b). Trong số những dự án mà giá trị của
chúng đều dương, thì nên tiến hành thực
hiện dự án nào có NPV cao nhất.
Chúng ta sẽ bàn thêm về thẩm định dự án
đầu tư vào khoá sau. Trên trang
www.kinhtehoc.com, đọc phần phân tích chi
phí-lợi ích.
11. Động Thái Của Mức Giá Trái Phiếu
Ta nên chú ý đến chiều hướng mà giá trị
hiện tại của các lưu lượng tiền thu từ dự
án hay giá trị hiện tại của lưu lượng tiền
thu được từ trái phiếu, thay đổi như thế
nào khi lãi suất thay đổi. Bởi vì chúng ta
đã biểu diễn công thức tính giá trị thực
tại dưới hai dạng là lãi suất và lưu lượng
tiền thu vào, nên chiều hướng thay đổi có
thể được xác định bởi đạo hàm bậc nhất:
Tương tự với số hạng của trái phiếu chiết
khấu
Chú ý rằng những đạo hàm trên đều mang
dấu âm. Điều này nghĩa là giá của trái
phiếu chiết khấu hoặc giá trị hiện tại của
dòng tiền thu vào sẽ giảm khi lãi suất
tăng. Hơn nữa, thời điểm đáo hạn T cũng
ảnh hưởng đến tỷ lệ tăng giảm. Trái phiếu
chiết khấu dài hạn sẽ giảm nhiều hơn so
với ngắn hạn.
Để giải thích thêm điểm này, ta xét đến
những động thái biến đổi của trái phiếu
chiết khấu cũng như động thái của trái
phiếu thường. Chú ý rằng những mức giá này
luôn giảm khi lãi suất tăng cao. Mức giá
giảm với tốc độ rất nhanh trong suốt một
vài năm đầu và sẽ hạ dần khi thời gian đáo
hạn tăng lên 30 năm.
Chúng ta cần có ví dụ làm rõ điểm này. Ta
hãy xét một trái phiếu thường có kỳ hạn là
5 năm, lãi suất 12% và được trả lãi hàng
năm. Chúng ta sẽ tính trị giá của trái
phiếu này với hai mức lãi suất 12% và 13%.
Do lãi suất tăng nên giá của trái phiếu
sẽ giảm. Với lãi suất 12%, giá trái phiếu
sẽ bằng với mệnh giá, nhưng nếu lãi suất
13% thì phần lãi lẫn phần vốn sẽ ít hơn và
do đó giá của nó thấp hơn.
Để đo lừơng mức biến chuyển của trái
phiếu này ta dùng công thức tính lợi nhuận
được trả theo kỳ hạn nắm giữ trái phiếu.
Công thức này cho ta biết được lãi suất
nhận được khi thời gian nắm giữ một khối
tài sản trong tay trong một thời gian nhất
định. Công thức này cũng có thể tính đến
cả sự thay đổi về giá cũng như lãi suất.
Ví dụ, một trái phiếu kỳ hạn 6 năm lãi
suất 12% được bán với mệnh giá $100 và nó
được giữ trong thời gian 1 năm. Biết rằng
lãi trả mỗi năm một lần. Giả định vào cuối
thời điểm nắm giữ, lãi suất tăng từ 12 lên
13%. Thì lãi suất hiện giá sẽ được tính
như sau:
Vì thế trong khi nhà đầu tư được hưởng
mức lãi suất 12%, thì giá giảm sẽ làm cho
tiền lãi theo kỳ hạn nắm giữ giảm xuống
8.5%
12. Giá Trị Của Dòng Niên Kim
Dòng niên kim là dòng tiền tệ
bao gồm các khoản thu bằng nhau xảy ra
trong các thời kỳ như nhau. Ví dụ như
khoản vay thế chấp $70,000 với lãi suất
14%/12=1.166% có nghĩa là khoản phải trả
của bạn là một dòng niên kim trong đó bạn
phải trả mỗi tháng $932.22 trong 180
tháng.
Trước hết ta điểm qua một số định nghĩa
m= số lần tính lãi kép mỗi năm
k= số năm tính niên kim
n= tổng số kỳ tính lãi kép, n=m
x k
R= Lãi suất % hàng năm (APR) hay
"lãi suất niêm yết"
An= Giá trị hiện tại
của n kỳ của dòng niên kim $1
Giả sử ta xét một dòng niên kim với dòng
thu $1 cho mỗi kỳ. Chúng ta đều biết cách
tính chiết khấu trong mỗi kỳ bằng cách
tính giá trái phiếu chiết khấu
Vì thế giá trị hiện tại của một dòng niên
kim n kỳ có thể được tính bằng
cách tính tổng luu lượng tiền thu vào đã
được tính chiết khấu
Nhưng nếu tính như thế quá dài dòng. Ta
có thể tính đơn giản hơn khi vận dụng quy
tắc tính tổng các chuỗi số. Mẹo ở đây là
nhân tổng đó cho Z sau đó lấy hai đại
lượng này trừ cho nhau:
trừ đi
Chia hai vế cho (1-Z)
Với dòng niên kim với dòng thu $1 từng kỳ,
nên ta có thể làm theo các bước trên và
tính giá trị của dòng niên kim này:
Trong đó a là giá trị thu chi của
dòng niên kim. Chúng ta cũng có thể dùng
công thức này tính các mức lãi suất. Với i
là lãi suất của kỳ hạn tính lãi R/m.
Chú ý rằng nếu tổng dòng chi là vô hạn,
thì giá trị của dòng niên kim là
Một ví dụ của dòng niên kim vĩnh cữu là
trái phiếu hợp nhất của Anh
(British consol bond). Trái phiếu này trả
lãi vào cuối mỗi năm và không có kỳ hạn.
Bây giờ ta quay trở lại với ví dụ $70,000
vay thế chấp. Giả sử bạn mượn $70,000 và
trả trong 15 năm. Lãi suất là 14% và bạn
phải trả lãi hàng tháng. Thì lãi suất thực
của kỳ hạn tính lãi là 14/12=1.167%. Ta sẽ
tính đến số tiền "a" phải thanh toán hàng
tháng cho đến khi trả dứt khoản nợ. Từ
công thức tính giá trị hiện tại của dòng
niên kim ta biết
Với công thức này ta sẽ thay tất cả các
biến số như A_n, n, Z và giữ lại một biến
số a. Đầu tiên ta biết rằng giá trị hiện
tại là $70,000. Kế đến ta tính giá của
trái phiếu chiết khấu
Do n=180, nên
Chia cả hai vế cho 75.09
Bây giờ ta xét một ví dụ khác. Ví dụ này
liệt kê rõ hơn về dòng chi. Giả sử rằng số
tiền vay bây giờ là $1,000. Số nợ này được
chia thành 5 khoản bằng nhau trong 5 năm
để hoàn trả (bao gồm cả vốn lẫn lời) Lãi
suất 10% mỗi năm. Trước tiên, tính giá
trái phiếu chiết khấu trong một kỳ
Giờ ta thay vào công thức
Giải tìm a
Giờ ta có thể biết chi tiết hơn khi lập
bảng liệt kê các khoản phải trả
Ví dụ này giải thích rõ cách tính nhẫm
khi vận dụng dòng niên kim. Chú ý rằng có
sai số.
13. Định Giá Trái Phiếu
Trái phiếu luôn được trả một khoản lãi
nhất định thường kỳ và đó chính là lãi
suất của trái phiếu. Vào ngày đáo hạn, lần
trả lãi cuối sẽ đựơc trả chung với số vốn
ban đầu.
Trái phiếu chính phủ và thương phiếu luôn
được trả định kỳ nửa năm một lần, vào
tháng 5 và tháng 11. Trái phiếu với lãi
suất 8.5% được trả với lãi suất theo kỳ
hạn là 8.5/2 hay trả $4.25 hai lần một năm
cho một trái phiếu mệnh giá $100.
Những người giao dịch trái phiếu sẽ định
giá % trên mệnh giá. Ví dụ với mức giá
102-8 của một trái phiếu nghĩa là trị giá
của nó là 102.25% so với mệnh giá. Nếu
mệnh giá là 10 triệu thì trị giá của trái
phiếu đó là 10,225,000. Xét bảng liệt kê
các khoản lãi được trả cho một trái phiếu
kỳ hạn 4 năm lãi suất 8%.
Rõ ràng quan sát bảng trên ta có thể định
giá trái phiếu bằng cách tính giá trị hiện
tại của một dòng niên kim trả lãi sau và
giá trị hiện tại của số vốn.
Giờ ta sẽ biểu diễn công thức tổng quát
tính giá trị trái phiếu. Đầu tiên ta xem
qua một số ghi chú ký hiệu:
C= lãi suất thường niên của trái
phiếu
m= số lần phải trả trong năm
c= lãi kỳ được trả
R= APR hôm nay của lưu lượng tiền
(được nhân cho m mỗi năm để tính lãi kép)
i= lãi suất thực theo kỳ
k= số năm đáo hạn
n= tổng số lần trả lãi (k x
m) cũng như tổng số kỳ cho đến ngày
đáo hạn
A= giá trị hiện tại của dòng niên
kim n=k x m kỳ với lãi
suất i =R/m
Z= giá của trái phiếu chiết khấu
đáo hạn 1 kỳ
Xem giá trị của trái phiếu bao gồm tổng
của giá trị hiện tại của một dòng niên kim
và giá trị hiện tại của vốn, chúng ta có
thể tính giá trị của trái phiếu:
Bây giờ ta áp dụng tính giá trị của một
số trái phiếu. Giả sử rằng lãi suất là
12.5% được tính lãi kép trả lãi định kỳ
nửa năm một lần. Trên thị trường có hai
loại trái phiếu có kỳ hạn 12 năm. Trái
phiếu A có lãi suất 8.75% (trả lãi kép 2
lần 1 năm), trái phiếu B lãi suất 12.625%
(trả lãi kép 2 lần 1 năm) Trước khi bắt
đầu tính, ta nhận thấy rằng giá trị của
trái phiếu B có lớn hơn của A. Lãi suất
của B lại cao hơn lãi suất trên thị
trường, và chúng ta mong rằng nó sẽ được
bán cao hơn so với mệnh giá. Mặt khác, lãi
suất của A thấp hơn và có thể đựơc bán với
giá thấp hơn mệnh giá.
Trứơc tiên ta tính giá trị trái phiếu
chiết khấu trong kỳ thứ nhất
Giá trị của trái phiếu trong kỳ 24 cũng
phải tính để tính giá trị hiện tại của vốn
gốc.
Giờ thì ta tính giá trị của dòng niên kim
với dòng chi là $1 cho mỗi kỳ (a=$1)
Ta dễ dàng tính đươc tiền thu vào từng kỳ
và
Giờ thì ta có thể thay vào công thức tính
giá trị của trái phiếu
14. Lãi Suất Đến Hạn Hay Tỉ Suất Sinh
Lời Nội Bộ
Lãi suất đến hạn hay tỉ suất sinh lời nội
bộ đựơc tính theo công thức sau:
Trong những ví dụ trước, chúng ta đã đựơc
cho sẵn lãi suất áp dụng và sau đó tính
giá trái phiếu. Bây giờ ta biết trước giá
trái phiếu, và ta phải tính lãi suất đến
hạn của trái phiếu này.
Chúng ta cũng có thể xem tỉ suất sinh lời
nội bộ như mức lãi suất làm cho giá trị
hiện tại của một trái phiếu trừ đi giá của
trái phiếu thì bằng 0.
Để tính tỉ suất này thì không đơn giản
chút nào. Nhưng nếu có máy vi tính thì dễ
dàng giải phương trình với nhiều số hạng .
[Bảng tính Exel có sẵn hàm IRR có thể giải
được phương trình với nhiều số hạng]. Ta
nên nhớ rằng tỷ suất sinh lời nội bộ cho
ta một chuỗi các số hạng đều nhau cũng cho
ta biết những tỷ suất tương lai khác. Khi
sử dụng IRR cũng có một số mặt thuận lợi
và bất thuận lợi. Thứ nhất là chúng ta có
thể giải tìm ngay mức lãi suất mà không
cần phải thay vào công thức. Thứ hai, nó
được sử dụng rộng rãi, ví dụ như thường
thấy trong các bài báo.
Giờ ta sẽ giải một số bài toán sử dụng
IRR. Giả sử ta có hai trái phiếu A và B và
giá của nó là $1000.
Chú ý rằng cả hai trái phiếu này đều trị
giá $1000. Hơn nữa, chúng lại có cùng thời
hạn đầu tư là 3 năm. Nhưng dường như trái
phiếu A tốt hơn vì có lãi suất cao hơn.
Nhưng điều này không quan trọng.
Giả sử rằng các số hạng là một chuỗi
không đều. Ví dụ như chúng ta có chuỗi các
số hạng sau. Mức lãi suất dự tính trong
từng kỳ là:
Năm nhất = i_1 = 10%
Năm hai = f_2 = 20%
Năm ba = f_3 = 15%
Giờ ta tìm giá trị hiện tại:
Từ đó cho thấy giá trị tương lai của trái
phiếu B cao hơn A và giá trị hiện tại của
B cũng lớn hơn A.
15. Phân Loại Trái Phiếu Và Lãi Suất
Chúng ta đều biết giá trái phiếu biến
động theo lãi suất. Một điều nữa là khi
phân loại trái phiếu ta cũng chú ý đến
dạng chuỗi thời gian của lưu lượng
tiền mặt. Nếu lưu lượng tiền mặt
của trái phiếu B chủ yếu tập trung ở tương
lai xa, thì mức giá của nó sẽ biến động
mạnh so với các lãi suất. Ngược lại, nếu
lưư lượng tiền của trái phiếu A tập trung
vào tương lai gần thì giá của nó sẽ biến
động ít hơn so với lãi suất.
Xét ví dụ sau
Giờ ta tìm giá trị hiện tại của lưu lượng
tiền này với những mức lãi suất chiết khấu
khác nhau.
Vì thế ta thấy rằng chuỗi thời gian của
lưu lượng tiền là rất quan trọng. Ta biểu
diễn giá trị hiện tại của A và B bằng đồ
thị bên dưới
Chúng ta thấy rằng chỉ số thời hạn
của trái phiếu B lớn hơn của A.
16. Lãi Suất Dự Tính[3]
Lãi suất dự tính là phần lãi
tăng thêm khi tăng thêm một kỳ hạn tiền
gửi, ví dụ như đầu tư thêm t kỳ
thay vì t-1 kỳ. Mức lãi suất dự
tính hàng năm giữa kỳ 1 và kỳ 2 được viết
như sau:
Ta dễ dàng tìm được lãi suất dự tính
Chúng ta cũng có thể tính được các mức
lãi suất dự tính trong nhiều kỳ (hàng
năm). Mức lãi suất dự tính giữa năm 1 và 3
là:
Sau cùng nếu các mức lãi suất được tính
lãi kép nửa năm một lần, thì mức lãi suất
dự tính giữa năm 3 và 4 là:
Lưu ý rằng tôi đã sử dụng mức lãi suất
theo kỳ thực tế i và dùng chữ f
viết thường để thể hiện mức lãi suất dự
tính cho kỳ hạn dưới một năm.
Ta giải thích thêm một điểm quan trọng
của lãi suất dự tính. Giả sử rằng chúng ta
có một thương phiếu chiết khấu và nhận lãi
chiết khấu một năm (mệnh giá $100) được
bán với giá $92.59 (lãi 8% một năm và
không tính lãi kép) và nhận lãi chiết khấu
2 năm thì được bán với giá $79.72 (lãi 12%
một năm không tính kép). Ta đánh giá như
sau. Chúng ta bán hay bán khống
(short) phần trái phiếu kỳ
hạn một năm mệnh giá $100 triệu. Chúng ta
dùng phần tiền lãi ($92.59) để mua trái
phiếu kỳ hạn 2 năm nhiều ít tuỳ theo số
tiền có được. Vào cuối năm thứ nhất, chúng
ta dùng $100 triệu tiền túi để trả dứt
phần nợ (trả phần bán khống). Vào năm thứ
hai, ta có thể nhận thấy rằng ta có thể
nhận được lợi nhuận từ những trái phiếu kỳ
hạn hai năm.
Hiểu rõ hơn, đầu tiên cần biết bán
không là gì? Đó là buôn bán những
thứ mà mình chưa có. Bạn muốn mua một trái
phiếu chiết khấu kỳ hạn 1 năm. Bạn có thể
mua từ chính phủ với giá $92.59. Bạn sẽ
nhận được một giấy chứng nhận sở hữu trái
phiếu. Năm sau bạn bán lại loại trái phiếu
đó với giá $100. Bạn có lời. Nhưng thay vì
làm như thế, bạn có thể trả cho tôi
$92.59, tôi sẽ đưa cho bạn một giấy bảo
chứng rằng bạn sẽ nhận được giấy
chứng nhận quyền sở hữu chính thức vào năm
sau. Năm sau tôi mua một trái phiếu của
chính phủ với giá $100 (bởi vì không có
thời gian đáo hạn) và giao nó cho bạn.
Thực sự, chính là tôi trả cho bạn $100.
Cái này gọi là trả lại phần bán
khống.
Trở lại ví dụ của chúng ta. Chúng ta bán
khống phần trái phiếu mệnh giá $100 triệu
kỳ hạn một năm. Làm như thế, ta được người
khác trả một số tiền $92.59 triệu. Chúng
ta sẽ dùng số tiền này mua trái phiếu kỳ
hạn hai năm. Chúng ta có thể mua
{$92,592,590/$79.71938}=1,161,480 trái
phiếu kỳ hạn hai năm. Vào cuối năm nhất,
chúng ta trả dùng $100 triệu riêng của ta
để trả phần bán khống . Vào cuối năm hai,
chúng ta bán lại $116,148,000 trái phiếu
này. Lãi suất kỳ hạn một năm từ năm thứ
nhất đến năm thứ hai là
(116.148-100)/100=16.148%. Đây chính là
mức lãi suất dự tính từ năm nhất đến năm
hai. Do vậy, lãi suất dự tính cũng là lãi
suất cho chiến lượt đầu tư trong đó bao
gồm bán khống và mua các loại trái phiếu
với nhiều kỳ hạn khác nhau.
17. Chuỗi Các Mức Lãi Suất
Chuỗi các mức lãi suất[4]
hay đường cong lãi suất là mối
liên hệ giữa những mức lãi suất được quan
sát ngày hôm nay của các loại trái phiếu
nhiều kỳ hạn khác nhau. Đường cong
lãi suất là một đường cong có
chiều hướng lên nếu trái phiếu dài hạn có
lãi suất cao hơn trái phiếu ngắn hạn hay
trái phiếu chính phủ. Đường cong sẽ biến
thành đường thẳng nếu tất cả các mức lãi
suất đều xấp xỉ ngang nhau. Và sẽ ngược
lại nếu lãi suất của trái phiếu ngắn hạn
cao hơn trái phiếu dài hạn.
Có nhiều giả thuyết được đưa ra để giải
thích chuỗi các mức lãi suất này. Như hình
bên dưới, nó hoàn toàn là biến số. Có ba
giả thuyết mà bạn đã học trong khoá kinh
tế vĩ mô: kỳ vọng, sự
ham thích giữ tiền mặt và thói
quen ưa thích. Thuyết kỳ vọng cho
rằng đường cong lãi suất hướng lên nghĩa
là các nhà đầu tư kỳ vọng lãi suất tăng.
Thuyết về sự ham thích giữ tiền mặt cho
rằng tiền lãi được trả kèm theo với trái
phiếu dài hạn bởi vì chúng không có tính
ổn định hơn so với ngắn hạn. Thói quen ưa
thích cho rằng các mức lãi suất khác nhau
cùng với kỳ hạn khác nhau tuỳ thuộc vào
nhu cầu khác nhau của các nhà đầu tư về
thời gian đáo hạn nhất định.
Tuy nhiên những thuyết này vẫn tồn tại
một số vấn đề. Ta xem qua câu chuyện sau.
Đường cong lãi suất cho chúng ta biết về
viễn cảnh kinh tế thời tương lai. Nếu
đường cong này bị nghịch đảo do nhiều
người từ bỏ các dự án đầu tư ngắn hạn và
chuyển sang đầu tư dài hạn để khắc phục
tình trạng suy sụp kinh tế tiềm năng ngắn
hạn. Đây chỉ là một khía cạnh nào đó. Khi
nền kinh tế đang trong tình tiến triển
tốt, bạn chịu bỏ đi một số tài sản để khắc
phục tình trạng suy sụp tiềm năng ngắn
hạn. Bạn muốn có cuộc sống bình đặng hơn
là cuộc sống biến động. Thuyết này có
trong luận án Harvey của tôi (1988, Thời
Báo Kinh Tế Tài Chính) [P1] và các luận
văn khác sử dụng (1991, Thời Báo Thu Nhập
Cố Định [p6]).
Tôi nhận ra rằng đường cong lãi suất
nghịch đảo xuất hiện trước mỗi kỳ khủng
hoảng ngắn hạn trong 25 năm qua. Chúng ta
xem chu kỳ kinh tế gần đây nhất (là bài
kiểm tra về lý thuyết của tôi mà không cần
đưa ra ví dụ). Đường cong lãi suất bị
nghịch đảo một lần vào mùa hè năm 1989.
Nhưng nó chỉ bị đảo ít thôi (nhỏ hơn 1%)
và kéo dài trong 9 tháng. Và điểm đỉnh của
chu kỳ kinh tế này là vào tháng 7 năm 1990
và xuống thấp vào tháng 3 năm 1991. Đường
cong lãi suất dự báo thời gian, chỉ số
thời hạn và cường độ của khủng hoảng ngắn
hạn.
18. Những Chuyển Biến Của Giá Trái Phiếu
Và Kỳ Hạn
Chúng ta đã tính được những gì xãy ra
liên quan đến giá trái phiếu khi lãi suất
thay đổi. Tham khảo ví dụ, ta đã xét qua
trước đó:
Khi lãi suất tăng, thì giá của trái phiếu
sẽ giảm. Với lãi suất 12%, thì giá của
trái phiếu sẽ bằng với mệnh giá - nhưng
nếu là 13% thì các khoản lãi và phần vốn
gốc mà nhà đầu tư nhận được sẽ nhỏ ít hơn
và do đó giá của nó sẽ giảm. Mức giá sẽ
còn giảm nhiều hơn nếu lãi suất tăng lên
14%. Lợi nhuận theo kỳ cũng sẽ giảm. Nếu
đây là trái phiếu kỳ hạn sáu năm được mua
với giá danh nghĩa (mệnh giá) và được giữ
trong một năm, thì lợi nhuận theo kỳ với
thời gian nắm giữ đó là 8.52% nếu lãi suất
là 13% và là 5.13% nếu lãi suất là 14%.
Bạn có thể mường tượng rằng lãi suất biến
động càng lớn thì sẽ gây những ảnh hưởng
xấu đến thời kỳ nắm giữ trái phiếu. Trong
trường hợp đó, phần vốn bị lỗ còn nhiều
hơn phần lãi thu về. Kỳ hạn của trái phiếu
càng dài thì giá của nó biến động càng
nhiều khi lãi suất thay đổi.
Số hạng để đo lường sự biến động của giá
trái phiếu là giá trị. Chúng ta xét hai số
hạng sau: chỉ số thời hạn và độ
co giãn. Cả hai đều cho ta biết được
quỹ tích những biến động xấp xỉ, tức là
chúng sẽ đo chính xác đến độ từng biến
động nhỏ của lãi suất.
Trước tiên ta xem qua công thức tính giá
trái phiếu.
Giá trị hiện tại của phiếu nợ với lưu
lượng tiền Ct:t=1,…,T
trong đó B là giá của phiếu nợ. Lưu ý,
lưu lượng tiền có thể chính là lãi và vốn
gốc nhận được. Thường để đo mức độ biến
đổi của trái phiếu khi lãi suất thay đổi
thì trước tiên ta lấy đạo hàm bậc nhất của
B đối với r. Chúng ta có
thể viết công thức tính giá trái phiếu như
sau:
Giá trị hiện tại của trái phiếu với lưu
lượng tiền Ct:t=1,…,T
Đạo hàm bậc nhất theo lãi suất:
Nếu chúng ta sửa lại công thức này khi
chia cho giá trái phiếu và nhân với một
cộng lãi suất thị trường, ta đựơc công
thức tính chỉ số thời hạn mà Macaulay giới
thiệu lần đầu tiên năm 1938.
Chỉ số thời hạn đựơc tạo ra như một cách
tính khoản thời gian của lưu lượng tiền tệ
nhận đựơc từ trái phiếu. Nhưng cái khó khi
sử dụng thời hạn trái phiếu như một phép
đo khoản thời gian chính là nó chỉ xét đến
phần vốn gốc được hoàn trả chứ không tính
đến phần lãi đựơc trả. Macaulay cho rằng
khi sử dụng chỉ số thời hạn thì cũng cần
tính đến tất cả lưu lượng tiền tệ kỳ vọng.
Chỉ số thời hạn là một số hạng trung bình
công trong thời gian phải thanh toán mà
trong đó lưu lượng tiền là những số hạng
thể hiện giá trị hiện tại. Chúng ta có thể
viết lại phương trình trên giản lượt hơn:
trong đó PVCF_1 thể hiện giá trị hiện tại
của lưu lượng tiền tệ trong kỳ một và
PVTCF thể hiện giá trị hiện tại của tất cả
lưu lượng tiền tệ hay giá của trái phiếu.
Giờ ta hãy xét các ví dụ tính chỉ số thời
hạn. Chúng ta sẽ tính chỉ số thời hạn cho
trái phiếu A và B. Giả sử lãi suất thị
trường là 8%.Cả hai trái phiếu đều có kỳ
hạn là 10 năm. Lãi suất của A là 4% và của
B là 8%. Trước khi tính chỉ số thời hạn,
ta biết rằng trái phiếu B sẽ có chỉ số
thời hạn ngắn hơn trái phiếu A. Lưu lượng
tiền tệ từ năm 1 đến năm 9 cũng sẽ lớn hơn
nhưng vốn gốc thì bằng nhau. Nào bây giờ
ta bắt đầu tính.
Như đã biết trước, trái phiếu nào có lãi
suất cao hơn thì có chỉ số thời hạn ngắn
hơn. Ví dụ này nhằm giải thích hai đặc
tính của chỉ số thời hạn. Thứ nhất, chỉ số
thời hạn của một trái phiếu sẽ nhỏ hơn
thời gian đáo hạn (ngoại trừ trái phiếu
chiết khấu). Thứ hai, chỉ số thời hạn của
trái phiếu sẽ giảm khi lãi suất tăng cao.
Ta có thể minh hoạ bằng đồ thị sau:
Lưu ý rằng chỉ số thời hạn và kỳ hạn là
như nhau đối với trái phiếu chiết khấu và
chỉ số thời hạn giảm khi lãi suất tăng.
Điều này do giá trị các khoản lãi được
thanh toán cao hơn (Trọng lượng giá trị
hiện tại).
Đặc tính cuối là, do lãi suất thị trường
tăng, nên chỉ số thời hạn trái phiếu sẽ
giảm. Điều này quá rõ do khi ta chiết khấu
lưu lượng tiền với một tỷ lệ cao hơn nghĩa
là ta tính giá trị thấp hơn cho lưu lượng
tiền trong một tương lai xa. Do vậy, đo
lường giá trị lưu lượng tiền tệ sẽ thay
thế dần cho lưu lượng tiền tệ trước đó --
chỉ số thời hạn sẽ giảm.
Từ đạo hàm bậc nhất mà chúng ta sử dụng
để tính chỉ số thời hạn đã cho ta thấy rõ
mối liên kết giữa chỉ số thời hạn và tính
bất định. Ở đây ta có hai công thức tính
đáng chú ý. Thứ nhất là là tính chỉ số
thời hạn thay đổi. Ta tính bằng cách chia
chỉ số thời hạn cho một cộng lãi suất hiện
tại của thị trường
trong đó i là lãi suất
Thứ hai là độ co giãn. Được tính như sau:
Thực tế, giá trị độ co giãn gần bằng với
chỉ số thời hạn biến đổi. Chúng bằng nhau
hay không tuỳ thuộc vào mức độ biến động
của lãi suất. Do vậy, chúng ta có thể thấy
được mối liên kết giữa chỉ số thời hạn,
chỉ số thời hạn biến đổi, và độ co giản.
Giờ ta hãy xét một ví dụ khác. Chúng ta sẽ
xét các loại trái phiếu có kỳ hạn khác
nhau. Trái phiếu A có kỳ hạn 10 với lãi
suất 12% và trái phiếu B kỳ hạn 5 năm với
lãi suất 12%. Giả sử lãi suất chiết khấu
thị trường là 13%.
Lưu ý rằng giá trị co giản theo giá gần
bằng với giá trị của chỉ số thời hạn biến
đổi. Cũng chú ý rằng chúng có bằng nhau
hay không phụ thuộc vào mức độ biến động
của lãi suất. Nếu chúng ta quay lại tính
độ co giãn cho ví dụ trước với trái phiếu
lãi suất 4% và lãi suất chiết khấu liên
quan là 8% - mẫu số hiện tại là 4% và phép
tính xấp xỉ này không chính xác lắm.
Chúng ta sẽ dùng chỉ số thời hạn biến đổi
để tính mức biến động xấp xỉ của giá trái
phiếu khi lãi suất thay đổi. Phép tính xấp
xỉ này chỉ thật sự chính xác khi lãi suất
dao động ít. Đối với những dao động thay
đổi lớn chẳng hạn như 5%, thì phép tính
này không còn chính xác nữa. Điều này là
do giá trái phiếu là một độ thị lồi theo
lãi suất. Chúng ta thấy độ lồi này khi
quan sát đồ thị giá trái phiếu với những
mức lãi suất tới hạn khác nhau. Bên dưới
là đồ thị minh hoạ tính sai số
Tương tự vậy, nếu lãi suất niêm yết được
tính kép bán niên, thì cùng một cách tính
nhưng ta tính chỉ số thời hạn trong nửa
năm. Chỉ số thời hạn năm được chuyển thành
nửa năm (bằng cách chia cho 2) sau đó là
biến đổi thành chỉ số thời hạn biến đổi
bằng cách chia cho lãi suất thực bán niên
theo kỳ.
Ta có thể tự hỏi tại sao chúng ta lại
chia cho lãi suất bán niên mà không chia
cho lãi suất thường niên hay lãi suất thực
thường niên. Nhưng câu trả lời là đây là
quy ước. Hầu hết các nhà đầu tư lớn đều
tính chỉ số thời hạn biến đổi bằng cách
chia cho lãi suất bán niên - thậm chí nếu
tính kép theo quý hay theo tháng). Hầu hết
trong những ví dụ của tôi, tôi đều tính
lãi kép thường niên, vì vậy tôi không phải
bận tâm về quy ước này.
Những ví dụ sau là minh hoạ cho cách sử
dụng lãi suất thường niên. Giả sử rằng
chúng ta có hai lại trái phiếu đều có lãi
suất là 10%. Trái phiếu A có kỳ hạn là 5
năm và trái phiếu B có kỳ hạn là 10 năm.
Ta hãy ước tính sai số của phép tính giá
trị chỉ số thời hạn xấp xỉ trong trường
hợp giá thay đổi do lãi suất chiết khấu
tăng 5%.
Lý do sai số chính là độ lồi của giá trái
phiếu. Khi lãi suất biến động mạnh, độ lồi
này tăng đáng kể. Độ lồi là thước đo độ
dốc của giá trái phiếu - đồ thị lãi suất
luôn thay đổi. Chỉ số thời hạn cho chúng
ta phép tính xấp xỉ tuyến tính. Nhưng nếu
đồ thị này là một hàm lồi thì phép xấp xỉ
tuyến tính này có thể không chính xác lắm.
Để tính độ lồi, ta mở rộng từ công thức
tính giá trái phiếu:
Công thức chung mà Taylor Series mở rộng
là:
Nếu công thức này không giống, thì bạn có
thể xem lại trong bài khoá của bạn. Ở đó
có một phần về Taylor series. Gọi f(x)
là hàm định giá trái phiếu. Giá là một hàm
số của lãi suất (x). Gọi biến h là
mức thay đổi của lãi suất. Tôi không tính
phép xấp xỉ sau số hạng thứ hai. Trong
phần đầu, f'(x), có liên quan đến
chỉ số thời hạn của trái phiếu và phần thứ
hai f''(x) có liên quan đến độ lồi
của trái phiếu. Và sẽ tồn tại phần giá
trị còn lại bởi vì Taylor series chỉ
là một phép tính xấp xỉ. Ông ta cung cấp
cho ta một số bảng phụ lục trong đó ông ta
tính từng phần trên nhằm giải thích rõ hơn
cho những biến đổi của giá trái phiếu với
kỳ hạn khác nhau. Chú ý rằng chỉ số thời
hạn mà ông ta tính là chỉ số thời hạn biến
đổi.
19. Chỉ Số Thời Hạn và Mua Bán Rào
Giả sử rằng, để đầu tư, bạn đang có $10
triệu đồng trái phiếu kỳ hạn 30 năm với
lãi suất 8%. Chỉ số thời hạn biến đổi là
12. Giá thị trường bằng với mệnh giá là
$10 triệu. Tuy nhiên, bạn tin rằng lãi
suất sẽ tăng lên vào năm tới. Nếu bạn
không làm gì cả và lãi suất tăng từ 8% lên
9%, thì đối với giá trị thị trường mà bạn
đầu tư bạn sẽ bị lỗ $1.2triệu. Bạn không
muốn bán trái phiếu, nhưng bạn lại muốn tự
bảo vệ khỏi nguy cơ bị thua lỗ vào năm
tới. Đây chính là trường hợp ta nên mua
bán
rào[5].
Giả sử trong 2 năm tới bạn định mua một
ngôi nhà. Bạn biết rằng lãi suất thế chấp
sẽ thấp trong vòng 15 năm và bạn muốn giữ
lại mức lãi suất này. Nếu bạn không làm gì
cả và mức lãi suất tăng lên, thì bạn phải
đối mặt với vấn đề phải trả thêm nhiều
tiền hơn. Bạn sẽ muốn tự bảo vệ mình tránh
nguy cơ phải gánh chi phí quá cao như thế.
Bằng cách mua bán rào bạn có
thể giữ lại mức lãi suất thế chấp của ngày
hôm nay.
Mục đích của mua bán rào là
để cung cấp một lưu lượng tiền chắc chắn
trong trường hợp xảy ra chuyện xấu. Trong
ví dụ đầu tiên, cách mua bán rào của chúng
ta sau 1 năm sẽ cho ta lại một khoản tiền
bù vào số tiền $1.2triệu bị lỗ. Trong ví
dụ thứ hai, mua bán rào sẽ mang về cho ta
một khoản tiền nếu lãi suất tăng lên. Thậm
chí nếu bạn phải trả lãi thế chấp cao, thì
bạn cũng sẽ được đền bù bằng khoản thu
được từ mua bán rào.
Chúng ta luôn sử dụng hợp đồng tương lai
hay hợp đồng quyền chọn để mua bán rào.
Trong ví dụ đầu tiên, ta đang giao dịch
hợp đồng trái phiếu kỳ hạn 20 năm theo
CBOT. Trái phiếu có chỉ số thời hạn xấp xỉ
8.00 Chúng ta sẽ đồng ý bán $15 triệu hoặc
150 hợp đồng. Nhìn chung mà nói (chúng ta
sẽ đi sâu hơn vào chi tiết sau) chúng ta
có thể tính đến điều này khi tạo ra lưu
lượng tiền $15 triệu -- giống như bất kỳ
một trường hợp bán khống. Giả sư rằng lãi
xuất tăng lên 9% sang năm, giá trái phiếu
giảm xuống còn $13.8 triệu. Để mua lại
phần bán không, bạn chỉ cần $13.8 triệu.
Số thu được là $1.2 sẽ bù lỗ vào phần bạn
bị thua lỗ trái phiếu. Đối với hợp đồng
tương lai, số tiền $15 triệu thu vào và số
chi $13.8 triệu về mặt thực tế mà nói thì
không thể thực hiện chuyển qua chuyển lại,
bạn chỉ có thể nhận khoảng chênh lệch.
Chú ý rằng, chúng ta bán $15 triệu bằng
hợp đồng tương lai. Làm sao tôi có thể
tính ra số đó? Chúng ta đều biết rằng trái
phiếu đang nằm giữ có mức độ biến đổi cao
hơn trái phiếu trong tương lai 50%. Do tôi
đang nắm $10 triệu trái phiếu kỳ hạn 30
năm, nên tôi phải bán đi $15triệu hợp bằng
hợp đồng tương lai (50% hoặc hơn) Công
thức tính chính xác bắt đầu với cách tính
toán bạn sẽ thua lỗ bao nhiêu (trường hợp
không rào) khi lãi suất thay đổi 1%
Trong đó A là số lượng hợp đồng.
Trong ví dụ của ta, thì
do giá trị thị trường của loại hợp đồng
CBOT là $100,000, nên A=150. Dĩ
nhiên, nếu lãi suất thay đổi ra sao, thì
lợi nhuận thu được từ loại tài sản ta đang
giữ đều có thể mất đi do hợp đồng tương
lai bị thua lỗ. Chúng ta đã giữ mức lãi
suất 8% một cách có hiệu quả.
Đây là ví dụ đầu tiên của mua bán rào.
Trong thực tế, các nhà đầu tư thường quan
tâm về độ lồi phù hợp (và đôi khi là độ
nghiêng và độ lồi cao)
Tham khảo
Các tài liệu tham khảo trong bài giảng
này lấy từ "Toán Lãi Suất", của Douglas
Breeden, "Chứng Khoán Phái Sinh và Cách
Sử Dụng Công Thức Tính Lãi Suất" của
Robert Whaley, "Giá Trị Thời Gian Của
Tiền Tệ" của Cambell R.Harvey và Guofu
Zhou.
[3]
Forward Interest Rate
[4]
Term Structure of Interest Rates
Copyright (c) 2006 by kinhtehoc.com Copyright
(c) 2006 by kinhtehoc.com
Nguồn:http://www.kinhtehoc.com/index.php?name=News&file=article&sid=249
Công Cụ Tài
Chính, Thị Trường Và Thông Tin
Campbell R. Harvey
Dịch Viên: Nhân Thụy
1.1 Giới thiệu
Đối với những nhà đầu tư và những nhà
quản trị tài chính thì có vô số công cụ
tài chính khác nhau. Mỗi năm trên thị
trường đều có những loại công cụ tài chính
mới xuất hiện, và một số thì mất đi. Nhiều
nhà đầu tư lớn đều có những nghiên cứu
phát triển những loại công cụ tài chính
mới. Một ví dụ điển hình gần đây là Caput.
Loại này là một quyền lựa chọn trong một
quyền lựa chọn (option on an option). Một
số nhà đầu tư bán quyền lựa chọn mua
(quyền lựa chọn mua vào với một mức giá
định trước) bằng quyền lựa chọn bán (quyền
lựa chọn bán ra với mức giá định trước)
Chúng ta sẽ xem xét những phương pháp định
giá những loại công cụ kỳ lạ này sau trong
khoá học.
Sau đây tôi có liệt kê ngắn về những loại
công cụ hiện hành. Tôi cũng phân loại
chúng. Đầu tiên là những công cụ trên thị
trường tiền tệ. Đây là loại công cụ thay
thế tiền mặt ngắn hạn. Thời gian đáo hạn
của chúng luôn ngắn (ít hơn hay bằng 1
năm), ít hoặc không có xảy ra tình trạng
rủi ro không được thanh toán, và có tính
thanh khoản cao. Thứ hai là những công cụ
trên thị trường vốn. Đặc điểm của loại này
là thời gian đáo hạn dài (hơn một năm),
rủi ro không được thanh toán của nó đôi
khi cao hơn và tính thanh khoản thấp. Loại
thứ ba là chứng khoán vốn. Loại này thể
hiện quyền sở hữu một phần tài sản của
công ty cổ phần, tức là công ty phải có
trách nhiệm chi trả thu nhập cố định
trước. Loại thứ tư là bao gồm tất cả những
công cụ còn khác còn lại như hợp đồng về
quyền lựa chọn và hợp đồng tương lai.
(a)
Những
công cụ trên thị trường tiền tệ
1. Trái phiếu kho bạc
2. Chứng khoán Liên Bang
3. Trái phiếu đô thị
4. Chứng chỉ tiền gửi
5. Thương phiếu
6. Hợp đồng mua lại
7. Những chấp nhận của ngân hàng
8. Euro-đôla
9. Các quỹ dự phòng của Liên Bang
(b) Những
công cụ trên thị trường vốn
1. Trái phiếu tiết kiệm
2. Tín phiếu kho bạc
3. Trái phiếu kho bạc
4. Trái phiếu do các cơ quan Mỹ phát hành
5. Trái phiếu đô thị
6. Trái phiếu công ty
7. Trái phiếu Euro
(c)
Chứng khoán vốn
1. Cổ phiếu ưu đãi
2. Cổ phiếu thông thường
(d) Những loại
công cụ khác
1. Cổ phần công ty đầu tư
2. Hợp đồng quyền chọn lựa
3. Chứng chỉ quỹ đầu tư
4. Hợp đồng mua trước và hợp đồng tương
lai
1.2 Những Công Cụ Trên Thị Trường Tiền
Tệ
Trái phiếu kho bạc có thời hạn dưới 1
năm. Chúng được bán với giá chiết khấu so
với giá trị danh nghĩa. Trái phiếu kho bạc
luôn bán với những đơn vị $10.000đ.
Chứng khoán Liên Bang như Hệ Thống Ngân
Hàng Liên Bang Tại Nhà (cho các Ngân Hàng
Cho Vay và các Quỹ Tiết Kiệm vay) thường
phát hành những thương phiếu giống như
trái phiếu kho bạc.
Trái phiếu đô thị là loại chứng khoán nợ
do chính quyền địa phương phát hành. Nó có
thời hạn từ một tháng đến hơn một năm. Lợi
tức từ loại trái phiếu này được miễn thuế
liên bang và thuế thu nhập tiểu bang.
Chứng chỉ tiền gửi (CD) là những khoản
tiền gửi lớn ($100.000 hoặc cao hơn) tại
những ngân hàng thương mại với một lãi
suất nhất định. Cũng có nhiều loại CD khác
nhau. Ví dụ như loại CD tháng có giá trị
thanh toán trong 30 ngày. Loại CD thứ ba
là CD Euro-đôla. Nó đơn giản chỉ là loại
chứng chỉ tiền gửi bằng đôla Mỹ do ngân
hàng ngoài nước phát hành (luôn do chi
nhánh của Mỹ tại Luân Đôn hay vùng Caribê)
Thương phiếu thì do những công ty lớn
phát hành nhằm đảm bảo trả những khoản vay
ngắn hạn từ ngân hàng. Thương phiếu là
loại công cụ không được đảm bảo và luôn
bán với giá chiết khấu. Hầu hết chúng có
thời hạn là 30 mặc dù chúng có thể lên đến
270 ngày.
Hợp đồng mua lại là những giao kèo giữa
hai bên mua bán chứng khoán chính phủ Mỹ
tại những thời điểm nhất định nào đó.
Chúng luôn được những người buôn bán sử
dụng. Nếu một người có một số lớn trái
phiếu kho bạc tồn kho (giá trị có thể vượt
qua số vốn của công ty), thì số này cần
được giải quyết. Người đó có thể đến ngân
hàng vay hoặc ký giao kèo làm hợp đồng mua
lại với một đối tác có sẵn tiền khác (có
thể là chính phủ). Người đó sẽ bán đi số
trái phiếu tồn này cho đối tác này theo
mức giá nhất định vào một ngày nào đó được
định sẵn.
Các chấp nhận ngân hàng được phát sinh từ
quá trình mậu dịch quốc tế. Đây là một hối
phiếu được ngân hàng bảo lãnh thanh toán
vào một thời điểm nhất định trong tương
lai. Tốt nhất là tôi đưa ra ví dụ minh
hoạ. Giả sử rằng tôi muốn nhập khẩu máy
cát-sét từ Nhật. Tôi yêu cầu ngân hàng Mỹ
bên tôi mở một tín dụng thư cho ngân hàng
của nhà xuất khẩu bên Nhật nhằm đảm bảo
thanh toán cho số hàng trên. Sau khi nhận
được thư tín dụng, nhà xuất khẩu sẽ giao
hàng đến và chuẩn bị gửi hối phiếu cho
ngân hàng bên Mỹ. Ngân hàng bên Nhật sẽ
thanh toán cho người xuất khẩu. Sau đó hối
phiếu sẽ được gủi đến ngân hàng Mỹ - nơi
bảo lãnh thanh toán. Đây chính là một chấp
nhận ngân hàng. Tín chấp này có thể gửi
lại cho ngân hàng Nhật (nếu nó muốn giữ
lại xem như đó là vốn đầu tư), hoặc ngân
hàng Mỹ có thể giử lại (nếu ngân hàng Nhật
muốn được trả tiền ngay) hoặc nó cũng có
thể đem bán trên thị trường tự do. Chấp
nhận ngân hàng thực chất là một thương
phiếu trong đó có quy định ngày và số
lượng tiền cần thanh toán. Những người đi
vay thường sử dụng loại chấp nhận ngân
hàng này bởi vì quy mô tài chính của họ
quá hạn hẹp hoặc quá mạo hiểm khi tự mình
phát hành thương phiếu.
Euro-đôla đơn giản là những khoản tiền ký
gửi bằng đồng đôla tại những ngân hàng
nước ngoài. Những khoản này thường được
gửi trong một thời hạn nhất định với một
lãi xuất cho trước. Thị trường Euro-đôla
mang tính thanh khoản rất cao và nó cho ta
những lợi nhuận mà chính phủ Mỹ không hề
quy định.
Các quỹ dự phòng Liên Bang được dành cho
các ngân hàng, chúng đều nằm Hệ Thống Dự
Trữ Liên Bang. Các ngân hàng nào thuộc hệ
thống này đều buộc phải giữ lại các khoản
dự phòng cho nó. Do các khoản dự phòng này
không được trả lãi, nên những khoản dự
phòng này khá ít để đảm bảo lợi ích cho
các ngân hàng thành viên. Do các ngân hàng
không thể dự đoán được số tiền rút ra hay
được gửi vào hàng ngày nên một số ngân
hàng sẽ bị thiếu hụt hay có thặng dư. Thị
trường các quỹ dự phòng này cho phép những
ngân hàng nào có thặng dư cho các ngân
hàng bị thiếu hụt vay. Hầu hết việc buôn
bán trên thị trường các quỹ dự phòng đều
được thực hiện nhanh chóng.
1.3 Thị Trường Vốn
Trái phiếu tiết kiệm Mỹ
phần lớn bán ra đều không thể chuyển
nhượng được. Các loại trái phiếu EE thực
chất là những trái phiếu chiết khấu (chi
trả tiền mặt không kỳ hạn) trong khi các
loại trái phiếu HH trả lãi nửa năm một
lần.
Tín phiếu kho bạc Mỹ có
thời hạn từ 1 đến 10 năm và trả lãi nửa
năm một lần.
Trái phiếu kho bạc Mỹ
cũng giống với tín phiếu kho bạc với thời
hạn từ 5 đến 35 năm. Một số trái phiếu đưa
ra những điều khoản cho phép chính phủ
liên ban thu hồi chúng sớm hơn kỳ hạn
nhiều nhất là 5 năm theo mệnh giá.
Trái phiếu do các cơ quan Mỹ phát
hành: các cơ quan chính phủ bán
ra nhằm huy động tiền cho những hoạt động
của họ. Mặc dù không phải chứng khoán nào
của các cơ quan này đều do chính phủ trợ
cấp, nhưng chúng vẫn được xem là có rủi ro
thấp bởi vì chúng được hiểu là có sự hỗ
trợ của chính phủ. Những cơ quan bán những
loại chứng khoán thị trường này là:
1. Hội cho vay thế chấp quốc gia thuộc
liên bang
2. Liên hiệp các ngân hàng cho vay tại
nhà
3. Ngân hàng nhà đất liên bang
4. Liên ngân hàng tín dụng quốc tế
5. Ngân hàng liên hợp
6. Hiệp hội cho vay thế chấp quốc gia
trực thuộc trung ương
7. Quỹ liên hiệp cho sinh viên vay
Trái phiếu đô thị do các tiểu
bang, thành phố, địa phương và các tổ chức
chính trị khác phát hành. Đặc tính quan
trọng nhất của chúng là cách tính thuế.
Trái phiếu công ty
thường có thời hạn là 5 năm hoặc hơn. Bản
thoả ước của loại trái phiếu này có đề ra
thời điểm hoàn vốn, những điều khoản,
những hạn chế trong việc chi trả cổ tức và
những phần ký quỹ khác. Những loại trái
phiếu không bảo đảm được xem là một loại
giấy nợ. Khi muốn thanh khoản, chủ nợ sẽ
được thanh toán sau khi những chủ nợ khác
(những ngưới có ký quỹ) được hoàn tiền.
Trái phiếu euro là những
trái phiếu được mua bằng đồng đôla được
phát hành ngoài nước Mỹ. Do thị trường
Euro-đôla không được kiểm soát và không bị
đánh thuế, nên sử dụng những loại công cụ
này có thể xem như khá thuận tiện.
1.4 Chứng Khoán Vốn
Cổ phiếu ưu đãi là là một loại chứng nhận
được nhận một mức thu nhập cố định theo
định kỳ từ một công ty. Người sở hữu cổ
phiếu ưu đãi sẽ được nhận cổ tức trước so
với cổ phiếu thông thường.
Cổ phiếu thông thường chứng nhận quyền
được nhận một phần lợi nhuận từ lợi nhuận
kiếm được của một công ty cổ phần. Việc
chi trả cổ tức bao nhiêu tuỳ thuộc quyết
định.
1.5 Những Loại Chứng Khoán Khác
Các cổ phần tại công ty đầu tư có 2 loại:
cổ phần giới hạn và cổ phần
không giới hạn.Những công ty đầu
tư bán cổ phần ra công chúng và sử dụng
phần tiền thu vào này dành trang trải
những khoản nợ và các công cụ vốn khác của
chúng. Những công ty bán cổ phần không
giới hạn được xem là những quỹ đầu tư
tương trợ. Tất cả các nghiệp vụ được diễn
ra giữa quỹ tương trợ và nhà đầu tư. Mức
giá mà quỹ tương trợ mua hay bán cổ phần
được tính theo mức giá sàn danh mục đầu tư
chứng khoán của nó. Quỹ đầu tư có giới hạn
bao gồm tất cả vốn của nó với một phần vốn
ban đầu lấy từ công chúng. Sau khi thu từ
công chúng, những cổ phần này sẽ được trao
đổi buôn bán tại thị trường thứ cấp.
Hợp đồng quyền chọn cho phép
người mua hợp đồng quyền mua hay bán một
loại chứng khoán được lựa chọn theo giá đã
được xác định trước vào thời điểm trước
hoặc ngày ký hợp đồng. Chú ý rằng hợp đồng
quyền chọn không được nhận lợi nhuận trực
tiếp từ tài sản của công ty. Vì lẽ đó, hợp
đồng quyền chọn đôi khi còn được cho là
chứng khoán thứ cấp. Chứng được giao dịch
bởi các nhà đầu tư chứ không phải công ty.
Hợp đồng quyền chọn mua cho
phép người mua mua cổ phiếu theo giá định
trước trong khi hợp đồng quyền chọn bán
cho phép người mua bán cổ phiếu theo giá
cố định.
Chứng chỉ quỹ đầu tư là những hợp
đồng quyền chọn mua do một công ty
bán ra. Nó cho phép người mua quyền mua cổ
phần của công ty đó với một mức giá đã xác
định trước. Chú ý rằng chứng chỉ này là
loại chứng khoán sơ cấp, nó thể hiện quyền
sở hữu một phần tài sản của công ty.
Hợp đồng mua trước và hợp
đồng tương lai cho phép người mua
được mua hay bán một loại hàng hoá được
xác định trước theo mức giá trần vào một
ngày đã được định sẵn.
1.6 Phân Loại Thị Trường
Có hai loại thị trường khác nhau: thị
trường
sơ cấp và thị trường thứ cấp.
Hai loại thị trường giao dịch chứng khoán
lớn nhất là: Sở Giao Dịch Chứng Khoán New
York (NYSE) và Sở Giao Dịch Chứng Khoán Mỹ
(AMEX). Cũng có một số thị trường giao
dịch hợp đồng quyền chọn: Sở Giao Dịch Hợp
Đồng Quyền Chọn Uỷ Ban Chicago (CBOE), Sở
Giao Dịch Chứng Khoán Mỹ, Sở Giao Dịch
Chứng Khoán Philadelphia và Sở Giao Dịch
Chứng Khoán Bờ Thái Bình Dương. Còn hợp
đồng tương lai được giao dịch tại Sở Giao
Dịch Buôn Bán Chicago, Uỷ Ban Mậu Dịch
Chicago và Sở Giao Dịch Hợp Đồng Tương Lai
New York.
Thị trường qua quầy (OTC) là
một mạng lưới người giao dịch các loại
chứng khoán đặc biệt nào đó. Các loại
chứng khoán không được giao dịch tại sở
chứng khoán sẽ giao dịch tại OTC. Mức giá
được định ra thông qua Hiệp Hội Quốc Gia
Giao Dịch Chứng Khoán Tự Định Giá
(NASDAQ).
1.7 Thông Tin
Thông tin phản ánh mức hoạt động các loại
thị trường vốn. Mức giá sẽ biến động theo
các thông tin mới. Thông tin được phân
thành hai loại: thông tin chung và thông
tin cá nhân.
Thông tin chung như những
thông báo, tin tức kinh tế vĩ mô được cập
nhật thường xuyên. Bản tóm tắt các thông
báo đựơc cập nhật hàng tuần và những dự
báo thị trường đều có trong trang 2 Thời
Báo Wall Street. Hầu hết những thông báo
có từ 8 giờ 30 sáng giờ Đông (Eastern
Time) (trước khi thị trường chứng khoán Mỹ
mở cửa nhưng kém 10 phút sau khi những hợp
đồng tương lai bắt đầu được giao dịch).
Hầu như trong giới tài chính người ta đều
theo dõi những thông báo kinh tế vĩ mô
quan trọng. Những tình huống bất ngờ
(những dự báo sai) sẽ làm khuấy động thị
trường. Ví dụ như nếu tình trạng lạm phát
cao hơn dự kiến, thì chứng khoán thu nhập
cố định hầu như sẽ luôn rớt giá (do những
nhà đầu tư muốn có lợi nhuận cao hơn để bù
vào mức lạm phát cao).
Còn thông tin cá nhân rất khó
kiểm soát. Nó luôn được thể hiện qua hoạt
động giao dịch. Ví dụ như một nhà đầu tư
có những thông tin xấu về việc trong thời
gian tới một công ty có thể sẽ bán ra một
lượng lớn cổ phần. Khi đó thị trường sẽ
quan tâm đến số lượng cổ phần này và giá
của nó sẽ hạ, họ sẽ cho rằng đây là thông
tin tiêu cực. Tuy nhiên, người bán các
thông tin cá nhân đều hoạt động có chiến
lượt hẳn hoi. Không phải phần lớn các cổ
phần sẽ bị đánh hạ giá. Việc giao dịch sẽ
có thể được thực hiện rời rạc hơn (và thậm
chí còn được che đậy bằng những giao dịch
mua vào nửa). [Việc phân tích các thông
tin và mức bất định một cách toàn diện
được bàn trong bài nghiên cứu "Giao Dịch
Thông Tin Và Mức Bất Định Của Thu Nhập Cố
Định" của Campbell R.Harvey và Roger
D.Huang]
1.8 Công Nghệ Tin Học
Thông tin đúng lúc chính là chìa
khoá thành công của bạn. Với
điều kiện tối thiểu là bạn phải đọc báo
Wall Street hàng ngày. Bạn nên chú ý tập
trung vào mục thứ ba "Tiền Tệ và Đầu Tư".
Bạn cũng nên đọc WSJ hàng ngày. Tuần san
Barron's cũng có nhiều những thông tin tài
chính hữu ích.
Về phía thông tin quốc tế, tôi khuyên bạn
chú ý đến báo Financial Times. Nó luôn
phát hành trễ một ngày (tuy nhiên nó chỉ
phát hành đúng tại những thành phố lớn).
Tờ Wall Street Châu Âu cũng có trong thư
viện nhà trường.
Dĩ nhiên về mặt trao đổi thông tin thì
bấy nhiêu cũng vẫn chưa đủ. Hầu hết những
người muốn tìm thông tin đều tìm đến
Reuters, và hầu hết những người giao dịch
trên thị trường thu nhập cố định đều sử
dụng điện tín. Datastream cũng là một dịch
vụ cung cấp thông tin tốt. Thư viện trường
đều có các loại này.
Copyright (c) 2006 by kinhtehoc.com
Nguồn:http://www.kinhtehoc.com/index.php?name=News&file=article&sid=248
Trang mạng Việt
Nam Văn Hiến
Trang Kinh Tế
www.vietnamvanhien.net
Email: thuky@vietnamvanhien.net
Lấy Nhân Tâm làm
phương tiện, dụng Dân Tâm làm kế sách
"An Dân - Lạc Quốc"
là kim chỉ nam của thể chế Dân
Chủ Văn Hiến.
|