www.vietnamvanhien.net
Học Giả
NGUYỄN HIẾN LÊ
(1912-1984)
Nguyễn Hiến Lê
Bách
khoa toàn thư mở Wikipedia
Bước tới điều hướngBước tới tìm kiếm
Nguyễn
Hiến Lê (ngày 20
tháng 11 năm 1912 – ngày 22 tháng 12 năm
1984) là nhà
văn, dịch
giả, nhà ngôn ngữ học, nhà giáo
dục và hoạt động văn hóa độc lập Việt
Nam, có 120 tác phẩm sáng tác, biên soạn
và dịch thuật thuộc nhiều lĩnh vực khác
nhau như giáo dục, văn học, ngữ học,
triết học, lịch sử, du ký, gương danh
nhân, chính trị, kinh tế, v.v.
Cuộc
đời
Trong hồi
ký, Nguyễn Hiến Lê viết:
- "...Tôi sinh ngày 20 tháng 11
ta, giờ Dậu, năm Tân Hợi (nhằm ngày 8 tháng 1 năm 1912). Đổi
ra bát tự để lấy lá số Tử Bình hay Hà Lạc thì
tôi sinh năm Tân Hợi,
tháng canh tý, ngày Quý Mùi,
giờ Tân Dậu"[1].
Nguyễn Hiến
Lê quê ở làng Phương Khê, phủ Quảng
Oai, tỉnh Sơn
Tây (nay thuộc
xã Phú
Phương, huyện Ba
Vì, Hà Nội). Thân
phụ ông tên Nguyễn Văn Bí, hiệu Đặc Như,
là con trai út của một nhà Nho. Thân mẫu
ông tên Sâm, làng Hạ Đình (nay là phường Hạ Đình, quận Thanh
Xuân, Hà Nội).
Xuất thân từ
một gia đình nhà
Nho, ông học tại Hà
Nội, trước ở trường Yên Phụ, sau
lên trường
Bưởi.
Năm 1934,
ông tốt nghiệp trường Cao đẳng Công
chính Hà Nội rồi vào làm việc tại các
tỉnh miền
Tây Nam Bộ, bắt đầu quãng đời nửa
thế kỷ gắn bó với Nam
bộ, gắn bó với Hòn ngọc Viễn Đông.
Sau Cách mạng tháng Tám năm 1945,
ông thôi làm ở sở, đi dạy học ở Long
Xuyên. Năm 1952 chuyển
lên Sài
Gòn mở nhà xuất
bản và biên dịch sách, sáng tác, viết
báo.
Những năm
trước 1975 và
cả trong thời gian sau này, Nguyễn Hiến
Lê luôn là một cây bút có tiếng, viết
miệt mài và là một nhân cách lớn.
Trong đời
cầm bút của mình, đến trước khi mất, ông
đã xuất bản được hơn một trăm bộ sách,
về nhiều lĩnh vực: văn học, ngôn
ngữ học, triết
học, tiểu luận phê bình, giáo dục, chính trị, kinh
tế, gương danh nhân, du ký, dịch
tiểu thuyết, học làm người... Tính ra,
số bộ sách của ông được xuất bản gần gấp
1,5 lần số tuổi của ông và tính từ năm
ông bắt đầu có sách in (đầu thập niên 1950),
trung bình mỗi năm ông hoàn thành ba bộ
sách với 800 trang bản thảo có giá trị
gửi tới người đọc.
Trong một số
tác phẩm của mình, Nguyễn Hiến Lê đề bút
danh Lộc Đình.
Ông kể: "gần ngõ
Phất Lộc có một cái đình không biết
thờ vị thần nào mà kiến trúc rất đơn
sơ. Hai cánh cửa gỗ luôn đóng kín,
trên mái cổng tam quan có đắp một bầu
rượu khá lớn nằm giữa hai con rồng uốn
khúc châu đầu vào. Thuở bé, tôi được
theo bà ngoại vào đình mấy lần, tôi
thấy bên trong là một khoảng sân rộng
vắng ngắt. Tuy vậy, mà quang cảnh lạnh
lẽo trầm mặc thâm u của ngôi đình bỗng
nhiên len sâu trong tâm tư tôi những
khi ngồi học trong lớp, hoặc những khi
tôi đến chơi nơi nào đông vui là tôi
lại chạnh nghĩ đến ngôi đình, nhớ đến
bà ngoại tôi. Nhất là sau ngày cha tôi
và bà ngoại tôi vĩnh viễn ra đi trong
cái ngõ hẹp tối tăm ấy..." và "Bút
danh Lộc Đình tôi dùng ký dưới một bài
văn ngắn từ hồi trẻ... Lộc là ngõ Phất
Lộc, còn Đình là cái đình ấy."
Năm 1980 ông
về lại Long
Xuyên. Cùng năm ông bắt đầu viết Hồi
ký Nguyễn Hiến Lê, đến tháng 9 năm
1980 thì hoàn thành. Đồng thời ông tách
những đoạn nói về văn nghiệp ra riêng,
sửa chữa, bổ sung và biên tập lại thành
cuốn sách Đời viết
văn của tôi. Tác phẩm này được sửa
chữa xong vào năm 1981, sau đó sửa chữa
thêm và hoàn chỉnh vào năm 1983.[2]
Ông lâm bệnh
và mất lúc 8 giờ 50 phút[3] ngày 22 tháng 12 năm 1984 tại
Bệnh viện An Bình, Chợ Lớn,[4] Thành
phố Hồ Chí Minh, hưởng thọ 73
tuổi. Linh cữu của ông được hỏa thiêu
vào ngày 24
tháng 12 năm
1984 tại đài thiêu Thủ Đức.
Việc hỏa
táng và làm tang lễ, ma chay đơn giản là
ý nguyện của Nguyễn Hiến Lê lúc sinh
thời[5].
Trong một bức thư gửi nhà thơ Bàng Bá
Lân đề ngày 18 tháng 7 năm 1981 ông từng
viết:
“ |
Thời
xưa mong giữ được mộ 100 năm,
thời nay tôi sợ không được vài
chục năm. Cho nên tôi tính chết
thì hỏa táng, đỡ thắc mắc cho
con cháu ở xa. Và cúng giỗ, tôi
cũng bảo dẹp bớt đi ! Không
ngờ cái tục lệ thiêng liêng mấy
nghìn năm của mình bây giờ chỉ
trong có mấy năm mà thay đổi
hẳn. Ngay cả tâm trạng của mình
cũng thay đổi nữa ! |
” |
— Nguyễn Hiến Lê, [6] |
Sau khi hỏa
thiêu, di cốt của ông được đem về chôn cất trong
khuôn viên nhà bà Nguyễn Thị Liệp (người
vợ thứ hai của ông) ở thành phố Long
Xuyên. Năm Kỷ Mão (1999),
bà Liệp tạ thế và được an táng trong
khuôn viên chùa Phước Ân ở Rạch Cai
Bường (thuộc xã Vĩnh Thạnh, huyện Lấp
Vò, tỉnh Đồng
Tháp), thì tro cốt của ông cũng
được đặt bên trên phần mộ của bà.[7]
"Tự bạch"
- Đời
tôi có thể tóm tắt trong hai chữ HỌC
và VIẾT. Hai việc đó liên quan mật
thiết với nhau gần suốt đời, tôi VIẾT
ĐỂ HỌC và HỌC ĐỂ VIẾT - "Lời mở đầu"
của tác phẩm "Đời viết văn của tôi".
Trong hồi
ký của mình
Nguyễn Hiến Lê cũng đã viết lại nhân
sinh quan như sau:[8]
- Đời
sống tự nó vô ý nghĩa, trừ ý nghĩa
truyền chủng, nhưng mình phải tạo cho
nó một ý nghĩa. Từ hồi ăn lông ở lỗ
đến nay, nhân loại đã tiến về nhiều
phương diện. Chúng ta được hưởng công
lao, di sản của biết bao thế hệ thì
phải duy trì di sản đó và cải thiện nó
tùy khả năng mỗi người.
- Chúng
ta làm điều phải vì tin nó là điều
phải chứ không phải vì ý muốn của Thượng
đế hay một vị
thần linh nào, cũng không phải vì mong
chết rồi được lên Niết
bàn hay Thiên
đàng.
- Quan
niệm thiện ác thay đổi tùy nơi, tùy
thời. Cái gì ích lợi cho một xã hội
vào một thời nào đó thì được xã hội đó
cho là thiện, cũng cái đó qua thời
khác không còn ích lợi nữa mà hóa ra
có hại thì bị coi là ác. Ví dụ đạo
tòng phu, tòng tử của phụ nữ có lợi
cho gia đình, xã hội thời nông nghiệp;
tới thời kỹ nghệ không còn lợi cho gia
đình, xã hội nên mất giá trị. Khi sản
xuất được ít, đức tiết kiệm được đề
cao; ngày nay ở Âu Mỹ, sản xuất vật
dụng thừa thãi quá, nên sự phung phí
gần thành một bổn phận đối với xã hội.
Tuy nhiên vẫn có một số giá trị vĩnh
cửu, từ hồi loài người bắt đầu văn
minh, dân tộc nào cũng trọng, như đức
nhân, khoan hồng, công bằng, tự do, tự
chủ,...
- Đạo
nào cũng phải hợp tình, hợp lý (bất
viễn nhân) thì mới gọi là đạo được.
Tôi không tin rằng hết thảy loài người
chỉ thấy đời toàn là khổ thôi; cũng
không tin rằng hết thảy loài người
thích sống tập thể, không có của
riêng.
- Đạo
Khổng thực tế
nhất, hợp tình hợp lý nhất, đầy đủ
nhất, xét cả về việc tu thân, trị gia,
trị quốc. Vậy mà tới nay lý tưởng của
ông, nhân loại vẫn chưa theo được. Về
tu thân, ba đức nhân, trí, dũng, luyện
được đủ tình cảm, trí tuệ và nghị lực
của con người.
- Nên
trọng dư luận nhưng cũng không nên
nhắm mắt theo dư luận. Biết đắc nhân
tâm, nhưng cũng có lúc phải tỏ nỗi bất
bình của mình mà không sợ thất nhân
tâm.
- Mỗi
người đã phải đóng một vai trò trong
xã hội thì tôi lựa vai trò thư sinh.
Sống trong một gia đình êm ấm giữa
sách và hoa, được lòng quý mến, tin
cậy của một số bạn và độc giả, tôi cho
là sướng hơn làm một chính khách mà
được hàng vạn người hoan hô, mà còn có
phần giúp ích cho xã hội được nhiều
hơn bạn chính khách nữa. Nhưng làm nhà
văn thì phải độc lập, không nhận một
chức tước gì của chính quyền.
- Ghi
được một vẻ đẹp của thiên nhiên, của
tâm hồn, tả được một nỗi khổ của con
người khiến cho đời sau cảm động, bấy
nhiêu cũng đủ mang danh nghệ sĩ rồi.
- Văn
thơ phải tự nhiên, cảm động, có tư
tưởng thì mới hay. Ở Trung
Hoa, thơ Lý
Bạch, văn Tô Đông Pha hay
nhất. Ở nước ta, thơ Nguyễn
Du tự nhiên,
bình dị mà bài nào cũng có giọng buồn
man mác.
- Tôi
khuyên con cháu đừng làm chính trị, nhưng nếu làm
thì luôn luôn phải đứng về phía nhân
dân.
- Một xã
hội văn minh thì
nhà cầm quyền không đàn áp đối lập,
cùng lắm chỉ có thể ngăn cản họ để họ
đừng gây rối thôi; tuyệt nhiên không
được tra tấn họ. Phải tuyệt đối tôn
trọng chính kiến của một người.
- Một xã
hội mà nghề cầm bút, nghề luật sư không
phải là nghề tự do thì không gọi là xã
hội tự do được.
- Khi
nghèo thì phải tận lực chiến đấu với
cảnh nghèo vì phải đủ ăn mới giữ được
sự độc lập và tư cách của mình. Nhưng
khi đã đủ ăn rồi thì đừng nên làm
giàu, phải để thì giờ làm những việc
hữu ích mà không vì danh và lợi. Giá
trị của ta ở chỗ làm được nhiều việc
như vậy hay không.
- Chỉ
nên hưởng cái phần xứng đáng với tài
đức của mình thôi. Nếu tài đức tầm
thường mà được phú quý hoặc được nhiều
người ngưỡng mộ thì sẽ mang họa vào
thân.
- Hôn
nhân bao giờ cũng là một sự may rủi.
Dù sáng suốt và chịu tốn công thì cũng
không chắc gì kiếm được người hợp ý
mình; phải chung sống năm ba năm mới
rõ được tính tình của nhau. Từ xưa tới
nay tôi thấy cuộc hôn nhân của ông bà Curie là
đẹp nhất, thành công nhất cho cả cá
nhân ông bà lẫn xã hội. Hiện nay ở Mỹ
có phong trang kết hôn thử, tôi cho
rằng chưa chắc đã có lợi cho cá nhân
mà có thể gây nhiều xáo trộn cho xã
hội.
- Có
những hoa hữu sắc vô hương mà ai cũng
quý như hoa hải đường, hoa đào; nhưng
đàn bà nếu chỉ có sắc đẹp thôi, mà
không được một nét gì thì là hạng rất
tầm thường. Chơi hoa tôi thích nhất
loại cây cao; có bóng mát, dễ trồng và
có hương quanh năm như ngọc lan, hoàng
lan. Ở đâu tôi cũng trồng hai
loại đó.
- Rất ít
khi con người rút được kinh nghiệm của
người trước. Ai cũng phải tự rút kinh
nghiệm của mình rồi mới khôn, vì vậy
mà thường vấp té. Nhưng phải như vậy
thì loài người mới tiến được.
- Cơ hồ
không thay đổi được bản tính con
người: người nóng nảy thì tới già vẫn
nóng nảy, người nhu nhược thì tới già
vẫn nhu nhược. Nhưng giáo dục vẫn có
ích. Không nên cho trẻ sung sướng quá.
Phải tập cho chúng có quy củ, kỷ luật,
biết tự chủ và hiểu rằng ở đời có
những việc mình không thích làm nhưng
vẫn phải làm; và làm thì phải làm
ngay, làm đàng hoàng, làm cho xong.
- Thay
đổi bản tính con người như Mặc Tử, như Karl
Marx muốn là
chuyện không dễ một sớm một chiều. Thế
giới còn những nước nhược tiểu nhiều
tài nguyên thì còn bọn thực dân họ chỉ
thay đổi chính sách thôi. Thực dân nào
cũng vậy. Khi họ khai thác hết trên
mặt đất, trong lòng đất thì họ sẽ khai
thác biển, đáy biển, Họ còn sống lâu.
Tuy nhiên cũng phải nhận rằng sự bóc
lột trong một nước tân tiến thời nay
đã giảm nhiều, thì sau này sự bóc lột
các dân tộc nhược tiểu cũng sẽ giảm đi
lần lần.
- Xã hội
bao giờ cũng có người tốt và kẻ xấu.
Như Kinh
Dịch nói, lúc
thì âm (xấu) thắng, lúc thì dương
(tốt) thắng; mà việc đời sau khi giải
quyết xong việc này thì lại sinh ra
việc khác liền; sau quẻ Ký tế (đã
xong) tiếp ngay quẻ Vị tế (chưa xong).
Mình cứ làm hết sức mình thôi, còn thì
để lại cho các thế hệ sau.
- Hồi
trẻ, quan niệm của tôi về hạnh phúc là
được tự do, độc lập, làm một công việc
hữu ích mà mình thích, gia đình êm ấm,
con cái học được, phong lưu một chút
chứ đừng giàu quá. Nhưng hồi năm mươi
tuổi tôi thấy bấy nhiêu chưa đủ, cần
thêm điều kiện này nữa: sống trong một
xã hội lành mạnh, ổn định và tương đối
thịnh vượng.
Nhận
xét
Người thầy
Nguyễn Hiến Lê trước 1975 rất có cảm
tình với Hồ Chí Minh và Cộng sản[cần dẫn nguồn],
Nguyễn Hiến Lê không giấu diếm điều này,
và chính phủ Việt Nam Cộng Hòa không bắt
ông vì quan điểm chính trị của ông. Dù
là người có quan điểm thiên cộng nhưng
ông vẫn dám nói thật, viết thẳng theo
tinh thần "phú quí bất năng dâm, bần
tiện bất năng di, uy vũ bất năng khuất".
Sau 30-04-1975, Nguyễn Hiến Lê viết:[cần dẫn nguồn]
“ |
Người
ta nhận định sai về tình trạng
miền Nam. Trước ngày 30-4-75,
miền Nam rất chia rẽ: nhiều giáo
phái, đảng phái nhưng tiến bộ
hơn miền Bắc nhiều về mức sống,
kĩ thuật, nghệ thuật, văn hoá;
nhờ ngôn luận được tương đối tự
do, nhờ được đọc sách báo ngoại
quốc, biết tin tức thế giới, du
lịch ngoại quốc, tiếp xúc với
người ngoại quốc…; cả về đạo đức
nữa: vì đủ ăn, người ta ít thèm
khát mọi thứ, ít gian tham (tôi
nói số đông), ít chịu làm cái
việc bỉ ổi là tố cáo người hàng
xóm [Một thím làm tổ phó lo về
đời sống, được công an phường
gọi đi học tập. Mới hết buổi
đầu, thấy công an chỉ dạy cách
dò xét, tố cáo đồng bào (ăn uống
ra sao, chỉ trích chính phủ
không, khách khứa là hạng người
nào…), thím ta xin thôi liền, về
nói với bạn: “Tôi không làm công
việc thất đức đó được”. Lớp học
đó bỏ luôn] chứ đừng nói người
thân, nói chung là không có hành
động nhơ nhớp như nhiều cán bộ ở
Bắc tôi đã kể ở trên. Tôi còn
nhận thấy vì người Nam bị coi là
nguỵ hết, nên càng đoàn kết với
nhau, thương nhau: cùng là nguỵ
với nhau mà ![cần dẫn
nguồn] |
” |
— Nguyễn Hiến Lê |
Tác
phẩm
Phần
trên ngôi tháp nhỏ này là nơi lưu
giữ di cốt của học giả Nguyễn Hiến
Lê.
Bản
quyền
Các tác phẩm
của Nguyễn Hiến Lê đang được Công ty cổ
phần Sách BIZBooks nắm giữ.
Văn học -
Tiểu thuyết
- Hương
sắc trong vườn văn (2 quyển) - 1962
- Đại
cương văn học sử Trung Quốc (3 quyển)
- 1955
- Cổ văn
Trung Quốc - 1966
- Chiến
Quốc sách (viết chung với Giản
Chi) - 1968
- Sử Ký Tư
Mã Thiên (viết
chung với Giản Chi) - 1970
- Tô
Đông Pha - 1970
- Nhân
sinh quan và thơ văn Trung Hoa (dịch)
- 1970
- Kiếp
người (dịch Somerset
Maugham) - 1962
- Mưa
(tuyển dịch nhiều tác giả) - 1969
- Chiến
tranh và hoà bình (dịch Lev
Nikolayevich Tolstoy) - 1968
- Khóc
lên đi ôi quê hương yêu dấu (dịch Alan
Paton) 1969
- Quê
hương tan rã (dịch C. Acheba) - 1970
- Cầu
sông Drina (dịch I. Andritch) - 1972
- Bí mật
dầu lửa (dịch Gaillard) - 1968
- Con
đường thiên lý - (Xuất bản 1990)
- Mùa hè
vắng bóng chim (dịch Hansuyn)
- Những
quần đảo thần tiên (dịch Somerset
Maugham) - (Xuất bản 2002)
- Kinh
Dịch
- Đắc
Nhân Tâm (dịch Dale Carnegie) - (Xuất
bản 1951)
Triết
học
- Nho
giáo một triết lý chính trị - 1958
- Đại
cương triết học Trung Quốc (viết chung
với Giản Chi) - 1965
- Nhà
giáo họ Khổng - 1972
- Liệt
tử và Dương tử - 1972
- Một
lương tâm nổi loạn - 1970
- Thế
giới ngày mai và tương lai nhân loại -
1971
- Mạnh
Tử - 1975
- Trang
Tử - (Xuất bản
1994)
- Hàn Phi Tử -
(Xuất bản 1994)
- Tuân
Tử - (Xuất bản
1994)
- Mặc
học - (Xuất bản 1995)
- Lão
Tử - (Xuất bản
1994)
- Luận
ngữ - (Xuất
bản 1995)
- Khổng
Tử - (Xuất bản
1992)
- Kinh
Dịch, đạo của người quân tử -
(Xuất bản 1990)
Lịch
sử
- Lịch
sử thế giới (viết với Thiên Giang) -
1955
- Đông
Kinh Nghĩa Thục -
1956
- Bài
học Israel - 1968
- Bán
đảo Ả Rập - 1969
- Lịch
sử văn minh Ấn Độ (dịch Will
Durant) - 1971
- Bài
học lịch sử (dịch Will Durant) - 1972
- Nguồn
gốc văn minh (dịch Will Durant) - 1974
- Văn
minh Ả Rập (dịch Will Durant) - 1975
- Lịch
sử văn minh Trung Quốc (dịch Will
Durant) - (Xuất bản 1997)
- Sử
Trung Quốc (3 tập) 1982
Giáo dục –
giáo khoa
- Thế hệ
ngày mai - 1953
- Thời
mới dạy con theo lối mới - 1958
- Tìm
hiểu con chúng ta - 1966
- Săn
sóc sự học của con em - 1954
- Tự học
để thành công - 1954
- 33 câu
chuyện với các bà mẹ - 1971
- Thế
giới bí mật của trẻ em - 1972
- Lời
khuyên thanh niên - 1967
- Kim
chỉ nam của học sinh - 1951
- Bí
quyết thi đậu - 1956
- Để
hiểu văn phạm - 1952
- Luyện
văn I (1953), II & III (1957)
- Khảo
luận về ngữ pháp Việt Nam (viết với T.
V. Chình) - 1963
- Tôi
tập viết tiếng Việt - 1990
- Muốn
giỏi toán hình học phẳng - 1956
- Muốn
giỏi toán hình học không gian - 1959
- Muốn
giỏi toán đại số - 1958
Chính trị -
Kinh tế
- Một
niềm tin - 1965
- Xung
đột trong đời sống quốc tế - 1962
Gương danh nhân
- Gương
danh nhân - 1959
- Gương
hi sinh - 1962
- Gương
kiên nhẫn - 1964
- Gương
chiến đấu - 1966
- Ý chí
sắt đá - 1971
- 40
gương thành công - 1968
- Những
cuộc đời ngoại hạng - 1969
- 15
gương phụ nữ - 1970
- Einstein
- 1971
- Bertrand
Russell - 1972
- Đời
nghệ sĩ - (Xuất bản 1993)
- Khổng
Tử - (Xuất bản 1995)
- Gogol
- (Xuất bản 2000)
- Tourgueniev
- (Xuất bản 2000)
- Tchekhov
- (Xuất bản 2000)
Khảo
luận – tùy bút – du ký
- Đế
Thiên Đế Thích – 1968
- Bảy
ngày trong Đồng Tháp Mười - 1954
- Nghề
viết văn - 1956
- Vấn đề
xây dựng văn hoá - 1967
- Chinh
phục hạnh phúc (dịch Bertrand Russell)
- 1971
- Sống
đẹp - 1964
- Thư
ngỏ tuổi đôi mươi (dịch André Maurois)
- 1968
- Chấp
nhận cuộc đời (dịch L. Rinser) - 1971
- Làm
con nên nhớ (viết với Đông Hồ) - 1970
- Hoa
đào năm trước - 1970
- Con
đường hoà bình - 1971
- Cháu
bà nội tội bà ngoại - 1974
- Ý
cao tình đẹp -
1972
- Thư
gởi người đàn bà không quen (dịch
André Maurois) - 1970
- 10 câu
chuyện văn chương - 1975
- Đời
viết văn của tôi - (Xuất bản 1996)
- Hồi ký
Nguyễn Hiến Lê - (Xuất bản 1992)
- Để tôi
đọc lại - (Xuất bản 2001)
Tự luyện
– Học làm người
- Tương
lai trong tay ta - 1962
- Luyện
lý trí - 1965
- Rèn
nghị lực -
1956
- Sống
365 ngày một năm - 1968
- Nghệ
thuật nói trước công chúng - 1953
- Sống
24 giờ một ngày (dịch Arnold
Bennett) - 1955
- Luyện
tình cảm (dịch F. Thomas) - 1951
- Luyện
tinh thần (dịch Dorothy
Carnegie) - 1957
- Đắc
nhân tâm (dịch Dale
Carnegie) - 1951
- Quẳng
gánh lo đi và vui sống (dịch
Dale Carnegie) - 1955
- Giúp
chồng thành công (dịch Dorothy
Carnegie) - 1956
- Bảy
bước đến thành công (dịch G. Byron) -
1952
- Cách
xử thế của người nay (dịch Ingram) -
1965
- Xây
dựng hạnh phúc (dịch Aldous
Huxley) - 1966
- Sống
đời sống mới (dịch Powers) - 1965
- Thẳng
tiến trên đường đời (dịch Lurton) -
1967
- Trút
nỗi sợ đi (dịch Coleman) - 1969
- Con
đường lập thân (dịch Ennever) - 1969
- Sống
theo sở thích (dịch Steinckrohn) -
1971
- Giữ
tình yêu của chồng (dịch Kaufmann) -
1971
- Tổ
chức gia đình - 1953
Các bài
đăng trên tạp chí
242 bài trên
tạp chí Bách Khoa,
50 bài trên các tạp chí Mai, Tin
Văn, Văn, Giáo
dục Phổ Thông, Giữ
Thơm Quê Mẹ. Ngoài ra ông còn viết
lời giới thiệu cho 23 quyển sách.
Chú
thích
- ^ Sách Hồi
ký Nguyễn Hiến Lê, NXb Văn
học, 1993, tr. 16.
- ^ Châu Hải
Kỳ, trang 361-362
- ^ Châu Hải
Kỳ, trang 412
- ^ Châu Hải
Kỳ, trang 408
- ^ Châu Hải
Kỳ, trang 414
- ^ Châu Hải
Kỳ, trang 408.
- ^ Tìm mộ cụ
Nguyễn Hiến Lê
- ^ Nguyễn Hiến
Lê, trang 730-734
Tham
khảo
- Nguyễn
Hiến Lê (2006). Hồi
ký Nguyễn Hiến Lê. Thành phố
Hồ Chí Minh: Nhà xuất bản Văn học.
- Châu Hải
Kỳ (2007). Nguyễn
Hiến Lê - Cuộc đời & Tác phẩm.
Thành phố Hồ Chí Minh: Nhà xuất bản
Văn học.
Liên kết ngoài
Nguồn:https://vi.wikipedia.org/wiki/Nguy%E1%BB%85n_Hi%E1%BA%BFn_L%C3%AA
THƯ MỤC
|