Nhất Linh
|
Nhất Linh
(1954)
|
Sinh |
1906
Cẩm
Giàng, Hải
Dương |
Mất |
1963 (56 –
57 tuổi)
Sài
Gòn |
Bút danh |
Nhất Linh, Đông
Sơn, Tam Linh, Bảo Sơn, Lãng du, Tân
Việt. |
Công việc |
Nhà
văn, chính khách |
Quốc tịch |
Việt Nam |
Giai đoạn sáng tác |
1924 - 1963 |
Chủ đề |
Hiện thực xã hội,
lãng mạn |
Tác phẩm nổi bật |
Gánh hàng hoa, Đoạn tuyệt, Đôi bạn, Nho phong, Anh
phải sống, Thương chồng... |
Nguyễn Tường
Tam (chữ Hán: 阮祥三 hay 阮祥叄; 1906[1] - 7
tháng 7 năm 1963)
là một nhà văn, nhà báo với
bút danh Nhất Linh (一
靈), Tam Linh, Bảo
Sơn, Lãng du, Tân
Việt, Đông Sơn (khi
vẽ); và cũng là chính
trị gia nổi tiếng
của Việt Nam trong thế kỷ 20.
Ông là người
thành lập Tự Lực
văn đoàn và là cây
bút chính của nhóm, và từng là Chủ bút tờ
tuần báo Phong
Hóa, Ngày
Nay. Về sau, ông còn là người
sáng lập Đại
Việt Dân chính Đảng, từng làm Bí thư
trưởng của Việt
Nam Quốc dân Đảng (khi
Đại Việt Dân chính Đảng hợp nhất với Việt
Nam Quốc dân Đảng và Đại Việt Quốc dân Đảng)
và giữ chức Bộ trưởng Ngoại giao trong Chính
phủ Liên hiệp Kháng chiến.
Thân thế
Ông sinh ra tại
phố huyện Cẩm Giàng, tỉnh Hải Dương. Nguyên quán của ông
là làng Cẩm Phô, huyện Điện Bàn, tỉnh Quảng
Nam.[2]
Ông nội Nguyễn
Tường Tam là Nguyễn Tường Tiếp, làm tri
huyện Cẩm Giàng, gọi là Huyện Giám, rồi về
hưu tại đây. Cụ có người con trai duy nhất
là Nguyễn Tường Chiếu (húy Nhu) làm Thông
phán, nên được gọi là Thông Nhu, hay Phán
Nhu. Ông Nhu mất năm 1918 khi
mới 37 tuổi. Ông lập gia đình với bà Lê Thị
Sâm,[3] và
có được 7 người con:
Gia đình Nguyễn
Tường Tam sống ở Cẩm Giàng, một huyện nhỏ.
Cha ông mất sớm, cả nhà lâm vào cảnh khó
khăn. Từ bé, anh em Nguyễn Tường Tam đã tiếp
xúc với những người nông dân nghèo khổ, điều
đó ảnh hưởng đến văn học của Nhất Linh
(Nguyễn Tường Tam) và Thạch Lam sau này.
Cuộc đời và sự
nghiệp
Thời
niên thiếu
Thuở nhỏ, Nguyễn
Tường Tam theo học tiểu học ở Cẩm Giàng, học
trung học tại trường
Bưởi ở Hà Nội.
Năm 16 tuổi, Nguyễn Tường Tam làm thơ đăng
báo Trung Bắc Tân Văn,
và năm 18 tuổi ông có bài "Bình Luận Văn
Chương về Truyện Kiều" trên Nam
Phong tạp chí .
Cuối năm 1923 ông
đậu bằng Cao tiểu. Nhưng vì chưa đến tuổi
vào trường cao đẳng, nên ông làm thư ký ở sở
tài chính Hà Nội. Ông làm quen với Tú Mỡ và
viết cho tờ Nho Phong.
Thời gian đó, ông lập gia đình với bà Phạm
Thị Nguyên.
Năm 1924,
ông tiếp tục học ngành Y và Mỹ
thuật, nhưng chỉ một năm rồi bỏ. Năm 1926,
Nguyễn Tường Tam vào Nam, gặp Trần
Huy Liệu và Vũ Đình
Di định cùng làm báo. Nhưng vì tham dự đám
tang Phan
Chu Trinh nên hai
người này bị bắt, Nguyễn Tường Tam phải trốn
sang Cao Miên, sống bằng nghề vẽ và
tìm đường đi du học.
Năm 1927,
Nguyễn Tường Tam sang Pháp du
học. Ở nơi ấy, ông vừa học khoa học, vừa
nghiên cứu về nghề báo và nghề
xuất bản. Năm 1930,
ông đậu bằng Cử
nhân Khoa học Giáo
khoa (Lý, Hóa) và trở về nước trong năm
đó.
Hoạt động văn
chương
Trở về nước,
Nguyễn Tường Tam xin ra tờ báo trào phúng
"Tiếng cười", nhưng lần nào hỏi thăm đều
nghe Sở Báo chí của Phủ Thống sứ bảo rằng
"chờ xét".[4] Trong
thời gian chờ đợi giấy phép ra báo, ông xin
dạy học tại trường tư thục Thăng Long. Ở đó
ông quen biết với thầy giáo dạy Việt văn là
Trần Khánh Giư (tức Khái Hưng).
Năm 1932,
Nguyễn Tường Tam mua lại tờ tuần báo Phong
Hóa của Phạm Hữu
Ninh và Nguyễn Xuân Mai, và trở thành Giám
đốc kể từ số 14, ra ngày 22
tháng 9 năm 1932.[5] Ông
chủ trương dùng tiếng cười trào phúng để đả
kích các hủ tục phong kiến, hô hào "Âu hóa",
đề cao chủ nghĩa cá nhân....[6] Trong
năm ấy, ông và các cộng sự quyết định thành
lập Tự Lực
văn đoàn trên nguyên
tắc "dựa vào sức mình, theo tinh thần anh em
một nhà. Tổ chức không quá 10 người để không
phải xin phép Nhà nước, chỉ nêu ra trong nội
bộ mục đích tôn chỉ, anh em tự nguyện tự
giác noi theo".[7] Về
sau, tính chuyện lâu dài, văn đoàn này mới
chính thức tuyên bố thành lập ngày 2
tháng 3 năm 1934 (báo Phong
Hóa số 87).
Tháng 6 năm 1935,
báo Phong Hóa bị
nhà cầm quyền ra lệnh đóng cửa ba tháng vì
loạt bài "Đi xem mũ cánh chuồn " châm biếm Tổng đốc Hà Đông Hoàng
Trọng Phu. Sau đó ra tiếp được hơn một
năm, thì bị đóng cửa vĩnh viễn (số cuối 190
ra ngày 5 tháng 6 năm 1936)
cũng vì tội "chế nhạo".[8] Tờ
tuần báo Ngày Nay,[9] trước
ra kèm với Phong Hóa,
tiếp tục và kế tiếp Phong
Hóa. Tháng
12 năm 1936,
trên báo Ngày Nay,
Nguyễn Tường Tam cùng nhóm Tự Lực văn đoàn
phát động phong trào Ánh Sáng, một tổ chức
từ thiện với mục đích cải tạo nếp sống ở
thôn quê, trong đó có việc làm nhà hợp vệ
sinh cho dân nghèo...
Hoạt động chính
trị
Năm 1938,
Nguyễn Tường Tam thành lập Đảng Hưng Việt,
rồi đổi tên là Đại
Việt Dân chính Đảng năm 1939 mà
ông làm Tổng Thư ký. Hoạt động chống Pháp
của nhóm Tự Lực trở thành công khai.
Năm 1940,
Hoàng Đạo, Khái Hưng, Nguyễn
Gia Trí bị thực
dân Pháp bắt và đày
lên Sơn La, đến năm 1943 mới
được thả. Trong thời gian này, Thạch Lam và
Nguyễn Tường Bách tiếp tục quản trị tờ Ngày
Nay. Tháng 9 năm
ấy, báo Ngày Nay bị đóng cửa sau khi ra số
224.
Năm 1942 Nhất
Linh chạy sang Quảng
Châu. Thạch Lam mất tại Hà Nội vì bệnh
lao. Đại Việt Dân chính Đảng thì đã
gần như tan rã. Trong thời gian từ 1942 đến 1944,
ông học Anh Văn và Hán
văn.
Tại Quảng Châu và Liễu
Châu ông gặp Nguyễn
Hải Thần và Hồ
Chí Minh mới ở tù
ra. Nguyễn Tường Tam cũng bị giam bốn tháng
ở Liễu Châu, được Nguyễn Hải Thần bảo lãnh
mới được Trương Phát Khuê thả ra. Nguyễn
Tường Tam hoạt động trong Việt
Nam Cách mạng Đồng minh Hội, rồi về Côn
Minh hoạt động trong
hàng ngũ Việt
Nam Quốc dân đảng, tá túc với Vũ
Hồng Khanh. Tháng 3 năm 1944,
tại Liễu Châu, Nguyễn Tường Tam
được bầu làm ủy viên dự khuyết Ban Chấp hành
Trung ương Việt Nam Cách mạng Đồng minh hội,
tức Việt Cách.
Giữa năm 1945,
Nguyễn Tường Tam trở về Hà
Giang cùng quân đội,
nhưng rồi lại quay lại Côn
Minh và đi Trùng
Khánh. Giai đoạn này đã được phản ánh
trong tiểu thuyết Giòng
sông Thanh Thủy. Theo lệnh của Nhất
Linh từ Trung Quốc gửi về, báo Ngày Nay, với Hoàng
Đạo, Khái Hưng, Nguyễn
Gia Trí và Nguyễn
Tường Bách, lại tục bản, khổ nhỏ, ngày 5
tháng 3 năm 1945 và
trở thành cơ quan ngôn luận của Việt Nam
Quốc Dân Đảng.
Tháng 5 năm
1945, tại Trùng
Khánh, Đại Việt Dân chính đảng sáp
nhập với Việt Nam Quốc dân đảng, đồng thời
Việt Nam Quốc dân Đảng liên minh với Đại
Việt Quốc dân Đảng. Nguyễn Tường Tam làm Bí
thư Trưởng[10] của
Việt Nam Quốc dân Đảng. Cuối năm 1945, Đại
Việt Quốc dân Đảng và Việt Nam Quốc dân Đảng
thành lập Mặt
trận Quốc dân Đảng.
Sau khi quân
Tưởng vào Việt Nam, đầu năm 1946 Nguyễn
Tường Tam trở về Hà Nội, tổ chức hoạt động
đối lập chính quyền Việt Nam Dân chủ Cộng
hòa, xuất bản báo Việt
Nam. Tháng 3 năm 1946,
sau khi đàm phán với chính phủ, ông giữ chức
Bộ trưởng Ngoại giao trong Chính
phủ Liên hiệp Kháng chiến.[11]
Ông cũng tham
gia Quốc
hội khóa I đặc cách
không qua bầu cử.
Nguyễn Tường Tam
được cử làm Trưởng đoàn Việt Nam dự Hội
nghị trù bị Đà Lạt đàm
phán với Pháp, mặc dù trên thực tế Võ Nguyên
Giáp là người lãnh đạo phái đoàn.[12] Theo
đại tướng Võ Nguyên Giáp, do bất đồng Tam đã
không tham gia hầu hết các phiên họp còn
theo David G. Marr Tam là người phát ngôn có
năng lực và giúp giải quyết một số tranh cãi
về chiến thuật đàm phán trong đoàn.[12][13] Ông
được cử đứng đầu Phái đoàn Việt Nam dự Hội
nghị Fontainebleau nhưng
cáo bệnh không đi mà rời bỏ Chính phủ Liên
hiệp Kháng chiến, lưu vong sang Trung Quốc
tháng 5 năm 1946 và ở lại Hồng
Kông cho tới 1951.
Sau đó xảy ra sự
kiện vụ án
phố Ôn Như Hầu, lực lượng công an khám
xét các của cơ sở của Việt Nam Quốc dân Đảng
và Đại Việt Quốc dân Đảng, bắt giữ nhiều
đảng viên hai đảng này, và tịch thu được
nhiều vũ khí truyền đơn khẩu hiệu chống
chính quyền. Khi Nguyễn Tường Tam rời bỏ
chính phủ, chính phủ đã tuyên bố ông đào
nhiệm và biển thủ công quỹ, tiền chi phí cho
phái đoàn sang Pháp đàm phán.[14] Tuy
nhiên, theo sử gia David G. Marr, việc biển
thủ công quỹ này khó xảy ra, vì ông khó lòng
được giao trách nhiệm giữ tiền của phái
đoàn.[12]
Năm 1947,
Nguyễn Tường Tam cùng Trần Văn Tuyên, Phan
Quang Đán, Nguyễn Văn Hợi, Nguyễn
Hải Thần, Lưu Đức Trung thành lập Mặt
trận Thống nhất Quốc gia Liên hiệp ủng
hộ giải pháp Bảo Đại thành
lập Quốc
gia Việt Nam, chống cả Việt Minh lẫn
Pháp, nhưng đến năm 1950 thì mặt trận này
giải thể.
Năm 1951,
ông từ Hồng Kông về nước, mở nhà xuất bản
Phượng Giang, tái bản sách của Tự Lực văn
đoàn, và tuyên bố không tham gia các hoạt
động chính trị nữa. Năm 1953,
Nguyễn Tường Tam lên sống tại Đà Lạt.
Tuy nhiên trong Quốc dân Đảng vẫn tồn tại
phái Nguyễn Tường Tam, cạnh tranh với hai
phái khác.
Năm 1958,
ông rời Đà Lạt về Sài Gòn, ông mở giai phẩm
Văn hóa Ngày Nay ở Sài
Gòn, phát hành được 11 số thì bị đình
bản. Năm 1960 ông
thành lập Mặt
trận Quốc dân Đoàn kết, ủng hộ cuộc
đảo chính của Đại tá Nguyễn
Chánh Thi và Trung
tá Vương Văn Đông. Đảo chính thất
bại, ông bị chính quyền Ngô
Đình Diệm giam lỏng
tại nhà riêng.
Ông bị chính phủ
Ngô Đình Diệm gọi ra xử ngày mùng 8
tháng 7 năm 1963.
Đêm 7 tháng 7, tại nhà riêng, nghe
tin sẽ bị đưa ra tòa xét xử, Nguyễn Tường
Tam dùng thuốc
độc quyên sinh để
phản đối chính quyền độc tài của Ngô
Đình Diệm, để lại phát biểu nổi tiếng:
“ |
"Đời tôi
để lịch sử xử. Tôi không chịu để ai
xử tôi cả. Sự bắt bớ và xử tội những
phần tử quốc gia đối lập là một tội
nặng, sẽ làm cho nước mất về tay
Cộng sản. Vì thế tôi tự hủy mình
cũng như Hòa Thượng Thích Quảng Đức đã
tự thiêu là để cảnh cáo những ai chà
đạp mọi thứ tự do."[15] |
” |
Gia đình]
Vợ ông là bà
Phạm Thị Nguyên (1909-1981),
quê làng Phượng Dực, Thường Tín, tỉnh Hà
Đông. Tuy là người Tây học, nhưng cuộc
hôn nhân này do cha mẹ ông quyết định. Vợ
ông trước năm 1945 là chủ hiệu buôn cau khô
có tiếng ở Hà Nội mang tên Cẩm Lợi ở số 15
phố Hàng Bè. Bà mất tại Pháp ngày 6
tháng 5 năm 1981.
Ông và bà Phạm
Thị Nguyên có bảy người con, gồm năm con
trai (Nguyễn Tường Việt, Nguyễn Tường Triệu,
Nguyễn Tường Thạch, Nguyễn Tường Thiết,
Nguyễn Tường Thái) và hai con gái (Nguyễn
Kim Thư, Nguyễn Kim Thoa).[16]
Nơi
an nghỉ
Đêm 7
tháng 7 năm 1963,
Nhất Linh đã quyên sinh bằng rượu pha độc
dược. Theo lệnh của nhà cầm quyền lúc bấy
giờ, gia đình phải chôn ông gấp tại nghĩa
trang chùa Giác Minh ở Gò Vấp,
không cho đợi người con cả của ông ở Pháp về
dự lễ tang.
Năm 1975,
Nguyễn Tường Thạch (con trai Nhất Linh) đã
hỏa thiêu di cốt của cha, rồi gửi bình tro
tại chùa Kim Cương, đường Trần
Quang Diệu, Quận 3, Thành
phố Hồ Chí Minh. Năm 1981,
vợ ông sang Pháp đoàn tụ với các con, rồi
qua đời và an táng tại đó. Năm 2001,
các con của ông quyết định đưa di cốt của
cha mẹ và của chị gái lớn là Nguyễn Thị Thư
về trong khu mộ của dòng họ Nguyễn Tường tại Hội An (Quảng
Nam).[17]
Tác phẩm
- Gánh
hàng hoa (cùng Khái Hưng, 1934),
13 chương
- Đời
mưa gió (cùng Khái Hưng, 1934),
3 chương
- Nắng
thu (1934)
- Đoạn
tuyệt (1934-1935), 28 chương
- Lạnh
lùng (1935-1936), 7 chương
- Đôi bạn (1936-1937),
19 chương
- Bướm
trắng (1938-1939), 9 chương
- Con
đường sáng (cùng Hoàng
Đạo, 1940), 19 chương
- Xóm
cầu mới (1949-1957),
trường thiên, viết dở dang, 24 chương
- Giòng
sông Thanh Thủy (1960-1961).
Trường thiên, tác phẩm cuối cùng, gồm ba
tập:
- Ba
người bộ hành (1960),
13 chương
- Chi
bộ hai người (1960),
13 chương
- Vọng
quốc (1961), 12
chương
- Nho
phong (1924)
- Người
quay tơ (1926), 11 truyện
- Anh
phải sống (cùng
Khái Hưng, 1932 - 1933),
13 truyện
- Đi Tây (1935)
- Tối tăm (1936)
- Hai
buổi chiều vàng (1934-1937),
6 truyện
- Thế rồi
một buổi chiều (1934-1937)
- Thương
chồng (1961), 6 truyện
- Những
ngày diễm áo (1973)
Tiểu
luận
- Viết và
đọc tiểu thuyết (1952-1961),
5 bài
Dịch
phẩm
Di cảo
Hội họa
Mặc dầu thời
gian theo học Trường Mỹ thuật không lâu,
Nhất Linh cũng đã để lại một số tranh vẽ
trong đó có bức Scène
de Marché de rue Indochinois (Cảnh
Phố Chợ Đông Dương) vẽ trên lụa thực hiện
khoảng 1926-1929. Bức tranh này năm 2010 được
hãng Sotheby's bán đấu giá ở Hương
Cảng với giá 596.000 Đô la
Hồng Kông, tương đương với 75.000 Mỹ kim.[19]
Chú
thích
- ^ Căn cứ lá số tử
vi lập cho cả nhà từ cuối những năm
40, thì ông sinh vào "giờ Dậu ngày 25
tháng 7 năm Bính Ngọ, tức khoảng hơn
17 giờ ngày 13 tháng 9 năm 1906" (Vu
Gia, Nhất linh
trong tiến trình hiện đại hóa văn
học, Nhà xuất bản Văn hóa, 1995,
tr. 5). Trong quyển Hồi
ký họ Nguyễn Tường của
Nguyễn Thị Thế (em ruột Nhất Linh) do
Sóng xuất bản năm 1974 tại Sài
Gòn cũng ghi
ông sinh năm 1906, còn thẻ căn cước số
F 13108 (lập ngày 19 tháng 2 năm 1951)
ghi ngày 1 tháng 2 năm 1905, là do ông
làm lại giấy khai sinh để đủ tuổi dự
thi. Tuy nhiên, không biết lấy nguồn
từ đâu, trang web của Bộ ngoại giao
Việt Nam và sách Lược
truyện tác gia Việt Nam (Nhà
xuất bản. Khoa học xã hội, Hà Nội,
1972) đều ghi ông sinh ngày 25 tháng 7
năm 1925. Sách Từ
điển văn học (bộ
mới, tr. 1255) cũng ghi ông sinh vào
ngày 27 tháng 5, nhưng lại là năm 1906.
- ^ Họ Nguyễn
Tường, một dòng dõi quan từ đời ông
Nguyễn Tường Vân là Binh bộ Thượng thư
của vua Gia
Long. Chữ Tường là bởi vua Gia
Long đi đến chân núi Phước Tường (Hội
An) thì hỏi mọi người núi này là
núi gì, ông trả lời "Thưa Chúa đây là
núi Phước Tường". Vua Gia Long nói với
ông Nguyễn Tường Vân đi bên cạnh là
hầu cận rất thân "Phước là họ ta nhưng
Tường thì ta ban cho nhà ngươi". Từ đó
trở đi thì mới là họ Nguyễn Tường,
trước thì chỉ Nguyễn không thôi.
Nguồn: Theo nhà văn, họa sĩ Duy Lam
(gọi Nhất Linh là cậu). [1].
- ^ Xem chi tiết ở
đây [2] và
thông tin về dòng họ Nguyễn Tường ở
trang Thạch
Lam.
- ^ Theo Tú Mỡ (Vu
Gia dẫn lại, tr. 24).
- ^ Xem và download
tại đây [3].
- ^ Theo Nguyễn
Hoành Khung, mục từ "Nhất Linh" trong Từ
điển văn học (bộ
mới). Nhà xuất bản Thế giới, 2004, tr.
1255.,
- ^ Theo Vu Gia,
sách đã dẫn, tr. 26.
- ^ Theo GS. Phạm
Thế Ngũ, Việt
Nam văn học sử giản ước tân biên (tập
3, Sài Gòn, 1965, tr. 442) và Khúc Hà
Linh, Anh em
Nguyễn Tường Tam... (Nhà
xuất bản Thanh niên, 2008). Ông Linh
cho biết: nhà thơ Tú Mỡ từng hồi ức
rằng, dạo ấy báo Phong
Hóa liên tục
xoáy sâu vào chế nhạo và châm biếm
triều đình Huế, nên nhà cầm quyền Pháp
lấy cớ tờ báo đăng truyện "Hậu Tây
du", nói cạnh khoé đến những nhân vật
mới trong triều đình thân Pháp ấy mà
đóng cửa báo. Xem online ở đây: [4].
- ^ Tuần báo Ngày
Nay ra số đầu
ngày 30
tháng 1 năm 1935,
ra số cuối 224 ngày 7
tháng 9 năm 1940.
- ^ Có tài liệu nói
ông giữ chức Tổng Thư ký
- ^ Có tài liệu gọi
đây là Chính phủ liên hiệp quốc gia.
- ^ a ă â David G. Marr,
Vietnam: State, War, and Revolution
(1945–1946), page 422, California:
University of California Press, 2013
- ^ Đại tướng Võ
Nguyên Giáp, Tổng tập Hồi Ký, Những
năm tháng không thể nào quên, trang
274
- ^ Bộ trưởng
Nguyễn Tường Tam, Trang web Bộ Ngoại
giao
- ^ Tự điển danh
nhân thế giới, phần nói về Nhất Linh -
sách của Trịnh Chuyết, Thế giới xuất
bản năm 1970 tại
Saigon.
- ^ Nguyễn Tường
Thiết. Nhất Linh
cha tôi. Gardena, CA: Văn Mới,
2006.
- ^ Theo sách Anh
em Nguyễn Tường Tam... của
Khúc Hà Linh (Nhà xuất bản Thanh niên,
2008, tr. 59) và bài viết Nắm
đất đưa về tất đất xưa của
nhà văn Phạm Phú Minh in trong tạp chí Thế
kỷ 21, số tháng 7 năm 2002.
- ^ Nhất Linh bắt
đầu dịch từ năm 1952, đăng một phần
trên Nguyệt san Tân Phong, Sài Gòn,
1960. Bản thảo còn lại cho thấy ông
vẫn tiếp tục dịch vào năm 1962 nhưng
không kết thúc. Ông Nguyễn Tường Thiết
nhờ nhà văn Bảo Sơn dịch bổ sung để
xuất bản: Nhà xuất bản Phượng Giang,
Sài Gòn, 1974. Sau 1975, ông Thiết
không có ấn bản 1974 nên tự dịch lại
phần bổ sung. Nguồn: Emily Bronte,
Đỉnh Gió Hú, Nhất Linh, Nguyễn Tường
Thiết dịch
- ^ “"Hai
vẻ đẹp của Nhất Linh" đăng trên DCV”. Bản gốc lưu
trữ ngày 12 tháng 1 năm 2011.
Truy cập ngày 10 tháng 1 năm 2011.
Xem thêm
Liên
kết ngoài