Tác
Giả
PHAN BỘI CHÂU (1867-1940)
Tiểu Sử Phan Bội
Châu
Phan
Bội Châu sinh vào tháng Chạp năm Ðinh Mão,
tức là năm Tự Ðức thư 20 (1867), cha mẹ đặt tên
là Phan Văn San. Về sau, vì sợ phạm húy với
Hoàng tử Vĩnh San, tức vua Duy Tân, con thứ của
vua Thành Thái, nên đổi lại là Phan Bội Châụ
Bội-Châu có nghĩa là đeo ngọc.
Sinh
trưởng trong một gia đình lễ giáo, thân phụ ông
là Phan Văn Phổ, một nhà nho chân chính rất
trọng chữ thanh cần. Thân mẫu ông là bà Nguyễn
Thị Nhàn, một nữ sĩ được tiếng là người đức
hạnh.
Phan
Bội Châu quê ở xã Ðông Liệt, tỉnh Nghệ An. Năm
lên 3 tuổi, ông phải theo cha mẹ về ở nơi quê
của nội tổ ở làng Ðan Nhiệm, tổng Xuân Liễm,
huyện Nam Ðàn, tỉnh Nghệ An.
Từ
thuở bé, Phan Bội Châu đã được hấp thụ một nền
giáo dục rất chặt chẽ nhờ vào sự đảm đang nuôi
nấng, dạy dổ của mẫu thân, nhưng phần lớn cũng
nhờ vào sự nghiêm khắc của thân phụ, lúc bấy giờ
làm nghề dạy học.
Phan
Bội Châu rất mực thông minh. Năm lên 6 tuổi được
cho đi học, chỉ trong ba ngày, ông học
he^'t cuốn Tam Tự Kinh. Lên bảy tuổi học
đến sách Luận ngữ, ông đã mô phỏng để làm cuốn
Phan tiên sinh luận ngữ, có ý mỉa mai chúng bạn
nên bị phụ thân quở phạt. Năm 1874, ở Nghệ An có
phong trào Văn Thân, dù chỉ mới là một đứa bé
lên tám, Phan Bội Châu cũng muốn noi gương của
Trần Quốc Toản xưa đã giúp Hưng Ðạo Vương để đại
phá quân Nguyên ở Bến Chương Dương nêu cao lá cờ
phá cường tặc báo hoàng ân nên ông đã tụ tập bọn
trẻ con lại để tập trận giả bằng những súng đạn
do chính ông
làm
ra.
Năm
1885, hưởng ứng phong trào Cần Vương, Phan Bội
Châu tổ chức Sĩ-tử Cần Vương đội. Nhưng nhận
thấy rằng công cuộc Cần Vương chỉ có thể đem lại
kết quả tốt đẹp khi nào người lãnh đạo là một
nhân vật có chân khoa bảng xuất thân, nhất là
phải có danh vọng, ông phải đành quay về với lối
học cử nghiệp.
Dù rất
thông minh và hay chữ, Phan Bội châu thi Hương
bao nhiêu lần vẫn trượt. Sở dĩ có chuyện lạ như
thế vì :
* Lối
văn khoa cử không thích hợp với người đã có sẵn
một tinh thần cách mạng. Do đó, Phan Bội Châu
không chịu ép mình trong khuôn khổ của trường
quy.
* Nhà
nghèo, ông thường làm bài mướn để lấy tiền tại
trường thị Ðã có lần vì phạm húy, ông bị bôi tên
trong danh sách thí sinh trọn đời. Về sau, nhờ
sự vận động của quan Tế-Tửu Trường Quốc Tử Giám
là Khiêu Năng Tĩnh, thầy học của ông, ông được
đi thi lại. Khóa thi Hương năm Canh Tý (1900),
ông thi đỗ Thủ Khoa tại trường thi Nghệ An lúc
bấy giờ ông đã 33 tuổi.
Năm
1901, ông có thi Hội nhưng không đỗ, ông cũng
chẳng màng đến công danh nữa. Con đường cử
nghiệp đối với ông chỉ là phương tiện giúp cho
ông mưu đồ việc lớn, chớ chí khí của nhà cách
mạng lão thành Phan Bội Châu đâu đã chịu
gởi nơi trường khoa danh.
Tiếng
tăm hay chữ và mảnh bằng Giải nguyên đã giúp
Phan Bội Châu có uy tín trong việc lãnh đạo công
cuộc khởi nghĩa Cần Vương. Ông bắt đầu hoạt động
mạnh trong nước.
Sau
khi Phan Ðình Phùng mất, phong trào Cần Vương
xuống dần và cơ hồ tan rã, Phan Bội Châu đã nối
chí nhà lãnh đạo tiền bối. Phan Bội Châu đứng ra
kêu gọi dân chúng ở miền Thượng du khởi nghĩa.
Nhận
thấy con đường cử nghiệp làm cho dân tộc đi đến
chổ yếu hèn, Phan Bội Châu kêu gọi canh tân. Ðể
khích động lòng ái quốc của nhóm sĩ phu và nhân
dân trong nước, ông đã viết ra tập Lưu cầu huyết
lệ tâm thư. Ông đã vào Nam ra Bắc để liên lạc
với những nhà ái quốc trong nước để vận động cho
cuộc cách mạng có kết quả.
Lúc
bấy giờ, những người cùng chí hướng với Phan Bội
Châu ở miền Trung như Ðặng Nguyên Cản, Ðặng Thái
Thân, Trần Quý Cáp, Ngô Ðức Kế, Huỳnh Thúc
Kháng, Phan Chu Trinh, Nguyễn Cần, ở miền Bắc có
Nguyễn Thượng Hiền, Lê Ðại, Nguyễn Quyên, Lương
Văn Can, ở miền Nam có Nguyễn Thần Hiến, Trần
Chánh Chiếu. Phan Bội Châu cũng đã lên tận Yên
Thế xin gặp Hoàng Hoa Thám. Ðể cho công cuộc Cần
Vương được thống nhất, ông bàn với ông Tiểu La
Nguyễn Văn Thành đồng tôn Kỳ Ngoại Hầu Cường Ðể
lên làm Hội Chủ.
Nhận
thấy còn phải có sự viện trợ của ngoại bang
trong việc cách mạng kháng Pháp, ông bàn với các
bạn cho ông được xuất dương.
Năm
1905, Phan Bội Châu xuống tàu, giả làm thương
khách qua Tàu rồi sau đó sang Nhật.
Sau
khi xuống tàu sang Hương Cảng rồi đến Nhật, Phan
Bội Châu đến gặp Lương Khải Siêu, người lãnh đạo
công cuộc duy tân của Trung Hoa và sau cuộc
chính biến phải lưu vong sang Nhật. Tại đây,
Lương Khải Siêu giới thiệu Phan Bội Châu với
những vị chính khách Nhật như Bá tước Ðại Ôi và
Khuyển Dương Nghị. Hai vị này khuyên ông nên về
nước mời Kỳ Ngoại Hầu sang Nhật. Sau đó ít lâu,
ông lại sang Nhật.
Năm
1906, Kỳ Ngọai Hầu Cường Ðể và nhiều du học sinh
sang Nhật. Phan Bội Châu lại xin cho các du học
sinh vào học ở Chấn Võ Học Hiệu và Ðồng Vạn Thư
Viện. Cũng trong năm ấy, ông Phan Chu Trinh sang
Hương Cảng và qua Nhật. Hai nhà cách mạng cùng
họ Phan đã gặp nhau và luận bàn quốc sự. Dù Phan
Chu Trinh và Phan Bội Châu có bất đồng ý kiến,
nhưng cả hai đều rất quý mến nhaụ
Cuối
năm 1906, Phan Bội Châu lại về nước một lần nữa
để dọ đường hầu để chở khí giới về cho Hoàng Hoa
Thám ở Yên Thế.
Năm
1907, Phan Bội Châu lại trở sang Nhật. Sau khi
ký thương ước với Pháp xong (năm 1908) chính phủ
Nhật đã ra lệnh trục xuất những nhà cách mạng
Việt Nam ra khỏi lãnh thổ. Phan Bội Châu và các
đồng chí phải trở lại Trung Hoa hoạt động.
Năm
1912, do theo lời yêu cầu của các bạn, Phan Bội
Châu qua Xiêm (Thái Lan) một thời gian. Cũng
trong năm này, cuộc cách mệnh Tân Hợi của Trung
Hoa thành công. Từ Xiêm, ông trở lại Trung Hoa,
lập ra Việt Nam Quang Phục Hội chủ trương theo
chính thể dân chủ.
Năm
1912, Trung Hoa Dân Quốc được thành lập, Phan
Bội Châu được đốc quản tại Thượng Hải là Trần Kỳ
Mỹ và đô đốc Auq?ng Tây là Hồ Hán Dân giúp đỡ về
tài chánh và tinh thần. Trong thời gian này,
Phan Bội Châu giữ chức quyền Tổng lý
Việt-Nam-Quang-Phục Hội.
Năm
1913, nhân việc ném bom ở Thái Bình HàNoi Hotel,
Hội đồng Ðề Hình của thực dân Pháp xử tất cả 14
án chém, Phan Bội Châu và Kỳ Ngoại Hầu Cường Ðể
đứng đầu sổ.
Quân
lính ở tỉnh thành Quảng Ðông gây biến, Long Tế
Quang đem binh đến dẹp và nhậm chức đô đốc Quảng
Ðông. Vì ăn của lót của thực dân Pháp, Long Tế
Quang bắt Phan Bội Châu giam vào ngục. Chính
trong thời gian bi giam giữ, ông đã viết ra tập
Ngục Trung Thư Cuộc thương thuyết của Pháp và
Long Tế Quang chưa xong thì chiến cuộc Âu châu
bùng nổ (1914-1918), Long tế Quang bị hạ, đảng
cách mạng Trung Hoa cứu Phan Bội Châu ra khỏi
ngục Quảng Châụ
Năm
1914, Phan Bội Châu lập tại Quảng Châu một cơ
quan lấy tên là Tâm Tâm Xã dùng làm nơi liên lạc
với những đồng chí và dự định viết sách gởi về
nước để giục lòng yêu nước của đồng bào và tuyên
truyền tinh thần dân nước.
Trong
tháng ba năm ấy, được biết tin toàn quyền Merlin
sang công cán bên Nhựt, Phan Bội Châu liền triệu
tập các đồng chí quyết đón đường hạ sát Merlin.
Phạm Hồng Thái được chọn thì hành việc này. Quả
bom ở Sa-Ðiện nổ, tuy không giết được Merlin
nhưng đã thức tỉnh được sự say ngủ của đồng bào
trong nước và gây một tiếng vang khắp thế giới
đều biết.
Năm
1925, nghe theo lời Lý Thụy và Lâm Ðức Thụ, Phan
Bội Châu gia nhập vào tổ chức Toàn thế giới bị
áp bức nhược tiểu dân tộc nhưng sau đó Lý Thụy
và các đồng chí lập mưu bắt Phan Bội Châu nộp
cho thực dân Pháp để :
1. Tổ
chức lấy được một số tiền thưởng (vào khoảng 15
vạn bạc) hầu có đủ phương tiện hoạt động.
2. Gây
một ảnh hưởng sâu rộng trong việc tuyên truyền
tinh thần ái quốc trong quốc dân.
Thế là
Phan Bội Châu bị bắt tại Thượng Hải, bị giải về
Hương Cảng rồi về Hải Phòng, sau cùng bị giam
tại nhà giam Hỏa Lò, Hà Nội. Ðể tránh việc làm
cho dư luận quá xôn xao về tin Phan Bội Châu bị
bắt, thực dân Pháp gắn cho ông cái tên tù quốc
phạm là Trần Văn Ðức.
Hội
Ðồng Ðề Hình nhóm xử ngày 25 tháng 11 năm 1925
dưới sự chủ tọa của viên giám đốc Brida, Ðốc lý
Hàno^.i là Dupuy và đại úy Bollie làm phụ thẩm,
Boyer làm bồi thẩm và Arnoux Patrick làm lục sự.
Hội Ðồng Ðề Hình cử luật sư Bona ở Hànoi và luật
sư Larre ở Hải Phòng biện hộ cho Phan Bội Châu.
Trước
những lời lẽ buộc tội gắt gao của Hội Ðồng Ðề
Hình, Phan Bội Châu ung dung và chẫm rãi đối đáp
một cách rõ ràng khúc chiết. Ðể bênh vực cho
hành động hợp lý và quang minh chính đại của
mình.
Sau
khi hay tin Phan Bội Châu bi án tử hình, phong
trào vận động ân xá cho ông nổi lên rầm rộ. Hội
Thanh Niên Việt Nam in ra bốn ngàn lá đơn gởi
đến các cơ quan chính phủ Pháp, các sứ thần liệt
quốc ở Ba Lê, các tổ chức quốc tế yêu cầu can
thiệp. Việt kiều ở Pháp họp đại hội bênh vực
Phan Bội Châu, gởi điện tín kháng nghị hoặc yêu
cầu tới những cơ quan có liên hệ đến vụ án Phan
Bội Châụ
Trước
sự công phẩn của quốc dân, ngày 24/12/1925, Toàn
quyền Varenne, sau khi đề nghị về Pháp, quyết
định xin ân xá cho nhà chí sĩ yêu nước. Sau khi
được ân xá, Toàn quyền Varenne đưa Phan Bội Châu
về an trí ở miền sông Hương núi Ngự (Huế) gọi là
để di dưởng tuổi già nhưng kỳ thật chúng định
giam lỏng ông.
Tuy
nhiên, tấm lòng thiết tha yêu nước của ông không
vì thế mà chịu lu mờ. Ông đã âm thầm nhận lãnh
chức Cố vấn của Việt-Nam-QuốcDDân Ðảng. Ðã có
lần V.N.Q.D.DD định âm mưu đem ông trốn thoát ra
ngoại quốc nhưng không thành vì không sao thoát
được sự dòm ngó của thực dân Pháp.
Năm
1940, khi phái bộ Nhật tiến vào Ðông Dương thì
cũng chính là lúc thời cuộc đã chuyển sang giai
đoạn mới cho cuộc Cách mạng dân tộc. Tiếc thay,
trong giờ phút nghiêm trọng của lịch sử này, nhà
cách mạng lão thành Phan Bội Châu đã lìa bỏ cõi
đời theo tiền nhân về bên kia thế giới, lưu lại
cho hậu thế một tấm gương sáng và nổi niềm
thương nhớ không nguôi.
Trước
giờ sắp lâm chung, ông đã cố gắng lấy hết hơi
tàn và góp nhặt thần trí, đọc lên một bài khẩu
chiếm có những lời lẽ thống thiết như sau :
Nay
đang lúc tử thần chờ trước của
Có vài
lời ghi nhớ về sau
Chúc
phường hậu tử tiến mau.
Phan Bội Châu
mất vào ngày 29/10/1940.
Nguồn:
http://xuquang.com/dialinhnk/danhsi/pbcts.htm
THƯ MỤC
|