Chương 7
Sự Tương Quan cuả Chính Trị
La politique c est jouer
aux hommes.
NAPOLÉON
Chính trị là công việc có liên quan
đến bốn mặt:
a) Cá nhân.
b) Quần chúng.
c) Dân tộc.
d) Lịch sử
Vậy tâm lý chính trị cũng có bốn mặt:
a) Tâm lý cá nhân.
b) Tâm lý quần chúng.
c) Tâm lý dân tộc
d) Tâm lý ảnh hưởng từ lịch sử
Vua U Vương nhà Chu thích giành được nụ cười của
Bao Tự, nên cho đốt lửa gọi chư hầu để đánh lừa làm
trò vui thú. Bao Tự khóai nghe tiếng lụa
xé, vua U Vương đem cả ngàn tấm lụa ra xé cho Bao
Tự nghe. Chẳng bao lâu những trò ấy khiến cho U Vương mất
nước.
Vua nhà Tống thích đá cầu, nên chọn người
đá cầu giỏi làm Tể tướng đó là Tể tướng Cao
Cầu nổi tiếng của bộ Thủy hử truyện. Ông Cao Cầu chỉ biết
đá cầu, không biết làm chính trị nên
đất nước mỗi ngày mỗi loạn.
Quan Công tính khí bộc trực hẹp hòi khinh bỉ
Tôn Quyền làm mất Kinh châu, vì mất Kinh
châu mà Ba thục cũng nhào theo.
Đó là những hành động theo tâm lý
cá nhân làm hỏng chính trị.
Vua Thang, vua Vũ khởi binh ở Mục dã, Minh điền để đánh
Kiệt Trụ, thế như chẻ tre. Cơ nghiệp Kiệt Trụ sụp đổ trong khoảnh khắc.
Vua Lê Lợi đánh quân nhà Minh cứu dân
thóat khỏi ách đô hộ.
Đó là những hành động thuận theo tâm
lý đại chúng để dựng nghiệp chính trị. Tranh thủ
nhân tâm cổ nhân phân ra làm hai lọai:
1) Cầu hiền: (vận dụng tâm lý cá nhân) Khương
Tử Nha nói: lấy mồi thơm câu cá mới có thể
bắt cá ăn thịt, lấy mồi thơm nhử người, người sẽ vì ta
mà hết lòng hết sức. Lưu Bị ba lần lội gió mưa đến
cầu Khổng Minh, nên khi Khổng Minh về với Lưu Bị làm việc
cúc cung tận tụy đến chết mới thôi.
2) Đắc dân: (vận dụng tâm lý quần chúng): Văn
Vương cảm thấy vua Trụ có ý ghét mình, vội
vàng vào xin với vua Trụ vào đất Lạc tây,
trả lại cho vua Trụ cả ngàn dặm đất đai phì nhiêu
để tránh họa. Khổng Minh (Khổng Tử?) phê bình Văn
Vương thật là người có nhân, biết khinh lợi lộc để
tránh hoạn nạn, Văn Vương thật là người mưu trí
biết bỏ ra hàng ngàn dặm đất để đổi lấy nhân
tâm. Vua Vũ dẹp xong nhà Thương, vào kho thấy ngọc
ngà châu báu nói đây là
châu báu của chư hầu, nên sai người trả lại cho chư
hầu. Thiên hạ đều khen vua Vũ không tham tiền. Vào
trong cung thấy bầy cung nữ, Vũ Vương nói đây là
những con cái và tì thiếp của chư hầu, bèn
sai người trả lại chư hầu. Thiên hạ đều khen vua Vũ là
người không tham sắc.
Đắc dân tâm là đừng ghét cái gì
dân thích và đừng thích cái gì
dân ghét. Hãy thuận ý dân.
Quản Trọng nói:
Vị nhân chủ đòi hỏi ở dân những gì?
Đòi dân vì mình mà cố gắng lao khổ,
vì mình mà cố gắng hy sinh. Còn dân
thì đòi hỏi người lãnh đạo những gì?
Đòi phải giải quyết cho dân no ấm, cho dân nghỉ
ngơi, có công thưởng công, có tội phạt tội.
Nay vị nhân chủ không thỏa mãn được những điều
đòi hỏi của dân thì cũng đừng hòng
đòi hỏi lại dân điều gì nữa.
Thay thế cờ búa liềm bằng hòa sự lão (hội
các bô lão đi dàn hòa cuộc tranh chấp
giữa nông dân và địa chủ) để thực hiện cải
cách ruộng đất.
Dưới chiêu bài giải phóng dân tộc để thực
hiện chủ nghĩa Cộng sản.
Đó là những chủ trương chính trị thuận theo
tâm lý dân tộc để đạt mục tiêu chính
trị.
Dựa theo phong trào giải phóng dân tộc chống đế
quốc.
Dựa theo phong trào dân chủ đang lên.
Đó là những chủ trương chính trị thuận theo
tâm lý lịch sử.
Căn cứ trên bốn mặt tâm lý trên đây,
Mạnh Tử đưa ra một quy luật:
Đắc hồ binh dân vi thiên tử.
Đắc hồ thiên tử vi chư hầu.
Đắc hồ chư hầu vi đại phu.
(Được dân làm quân lực có thể chiếm
ngôi thiên tử. Được lòng thiên tử, có
thể được vua phong đất cho làm chư hầu. Được lòng chư hầu
có thể làm quan đại phu).
Tranh thủ người có từng thứ bậc từ thấp đến cao. Những bậc ấy
không biệt lập, trái lại còn liên hệ chặt
chẽ, nó chỉ gián đoạn tùy theo chí
khí con người, biết hay không vận dụng theo thời thế.
De Gaulle đã đi với Salan và nhóm quân đội ở
Algérie đòi ly khai nước Pháp để lật đổ chế độ đệ
Tứ Cộng hòa. Như vậy là De Gaulle dựa vào thế lực
chư hầu. Machiavelli gọi là "Les grands" để đưa mình
lên ngôi thiên tử. Rồi sau đấy De Gaulle bắt Salan
trả lại Algérie độc lập. De Gaulle vẫn thắng vì ông
có dân chúng nhiệt liệt ủng hộ.
Kroutchev chỉ là một người nấp dưới bóng Staline, nhưng
cũng trèo lên địa vị cao nhất nước Nga Sô viết để
thực hiện một đường lối chính trị mới.
Cũng như xưa kia Trần Thủ Độ, nương nhờ nhà Lý rồi sau
cướp ngôi nhà Lý dựng lập nhà Trần.
Tư Mã Ý chỉ là một võ tướng của nhà
Ngụy, nhưng đã lật nhà Ngụy để lập nhà Tấn.
Chính trị
Tâm lý chính trị là gì?
Một người nghèo đầu tắt mặt tối suốt ngày không đủ
miếng ăn than trách về cảnh nghèo cho rằng số phận
mình cực khổ
Gánh cực khổ đem đổ lên non,
Cong lưng mà chạy cực còn theo sau.
Đó là tâm lý thông thường.
Một người nghèo than thân trách phận nghĩ
thân mình không bằng con trâu chó,
trong khi con cái nhà giàu ăn mặc sung sướng.
Phú nhân dưỡng kiều tử, cùng hán đương ngưu
sử.
(Nhà giàu chăm bẵm chiều chuộng con gái, tên
nghèo làm cực như trâu).
Đó là tâm lý bắt đầu chuyển sang
chính trị.
Một người nghèo lý luận:
Người nghèo lạy nhà giàu rồi không đứng dậy
được nữa.
Đó là tâm lý hoàn toàn
chính trị.
Một anh tá điền áo quanh năm không đủ che
thân, cơm không đủ ấm cật, trông thấy người
nào cũng hãi sợ cung kính, rồi có một
hôm hốt nhiên anh nghĩ:
Đả đảo địa chủ.
Đó là tâm lý của người đã họat động
chính trị, hay muốn họat động chính trị.
Tâm lý chính trị mang nhiều sắc thái,
ôn hòa, quá khích, phản động, tiến bộ,
không tưởng, thực tế, bị động, chủ động v.v...
Còn một lọai tâm lý chính trị khác
là tâm lý chán chường không cần biết
đến chính trị thường hiện ra ở những xã hội quá
nhiều tranh chấp chính trị mà không có lực
lượng nào khoẻ nhất, tốt nhất, giỏi nhất lãnh đạo,
dân chúng nhìn chính trị bằng con mắt thờ ơ,
họ hầu như đã tuyệt vọng, hoặc dân chúng bị đặt
vào một chế độ chính trị mà họ không muốn
chút nào, nhưng vì cuộc sống họ không thể
làm sao khác được. Về tâm lý này
sách Tấn Từ có kể một chuyện như sau:
Vua Tấn đi săn, đuổi con nai, hốt nhiên con nai chạy mất chợt
thấy bên đường có người nông phu, vua Tấn mới dừng
ngựa hỏi: Ta đuổi con nai nó chạy qua đây, nhà
ngươi có biết nó chạy về hướng nào chăng? Người
nông phu lấy chân đá một phía nói:
Hướng này. Vua Tấn bực bội vì cử chỉ xấc xược, nhưng dịu
giọng hỏi: Ta là vua nước Tấn, ta đi săn, tại sao nhà
ngươi chỉ cho ta bằng cử chỉ thiếu cung kính như vậy? Người
nông dân đáp: Tôi chẳng biết vua nước Tấn
là ai, chính sự của ông thế nào đâu ăn
nhập gì với tôi, vậy nay có người tự nhận là
vua nước Tấn hỏi thì tôi lấy chân mà chỉ
thì cũng được chứ gì.
Tâm lý thờ ơ chán chường với chính trị
thường hiện ra ở những khu vực chiếm đóng, hoặc chiến tranh
đã kéo dài quá lâu, hoặc khủng hoảng
chính trị triền miên.
Nhưng chính trị thì chỉ có một thái độ đối
với bất cứ lọai tâm lý nào. Đó là:
Nếu anh không lý đến chính trị, chính trị
cũng vẫn lý đến anh.
Tâm lý của những người họat động chính trị
Biến chuyển lịch sử do người tạo ra. Muốn có đổi thay, phải
làm chuyện đổi thay, muốn có cách mạng phải
làm cách mạng. Như vậy chính trị sẽ quyết định bởi
những người họat động chính trị.
Những phần tử nào sẵn sàng cho chính trị
bén rễ? Và dễ dàng gia nhập vận động? Eric Hoffer
kể ra mười lọai:
a) Những người nghèo khổ.
b) Thanh niên nhiệt huyết và trí thức phần tử.
c) Những người tham vọng.
d) Những người bị gạt ra ngòai xã hội (outcasts).
e) Những kẻ không thích ứng được với cuộc sống, với
xã hội (misfits).
f) Những kẻ ích kỷ quá độ.
g) Những người bị ám ảnh.
h) Những người bất túc về cơ thể hay tinh thần (impotents).
i) Những người hay phiền muộn.
j) Những tội phạm.
Bần dân
Không phải người nghèo nào cũng mang tâm
trạng bị hất hủi. Ở đồng ruộng, thiếu gì bần cố nông
làm lấm lưỡi áo rách tả tơi, nhưng tối nằm ổ rơm
ngủ kỹ, ăn no vỗ bụng hát nghêu ngao, ai hỏi gì
cũng cười và cười rất thành thực, rất yêu đời. Ở
thành thị, thiếu gì đám người sống chui sống nhủi,
tối về vùi đầu vào đánh bài đánh
bạc, hôm nào bữa cơm ngon thì vui như tết, chửi tục
vài câu rồi hít vài hơi thuốc là
quên hết, không nghĩ ngợi bất cứ điều gì. Còn
những người nghèo khác, sống an phận muốn yên
thân như thế mãi, xáo động làm chi
làm khổ thêm. Thấy hỗn loạn họ mở mắt ngạc nhiên, họ
không thể ngờ rồi đây lại có thể đảo lộn hết thảy.
Như vậy chứng tỏ rằng không phải người nghèo nào
cũng sẵn sàng lao vào chính trị. Phần tử sẵn
sàng lao vào chính trị là những bần
dân bị tỏa bại, có tâm trạng bị hắt hủi. Những kẻ
đó là những người mới nghèo. Thông thường
chỉ những người nào mới bị đọa đày vào cảnh khốn
cực mới sôi nổi với tâm trạng bị hất hủi. Nhớ đến thời oanh
liệt là ngọn lửa muốn đốt cháy mạch máu của họ
(trích lời Eric Hoffer).
(It is usually those whose poverty is relatively recent, the new poor
who throb with the ferment of frustration things is as a fire in their
veins).
Loại người mới sa vào cảnh nghèo lúc nào
cũng sẵn sàng gia nhập vào phong trào chính
trị bất kể màu sắc nào. Cuộc cách mạng Thanh
giáo (Puritant revolution) ở Anh vào thế kỷ 17 nổi
lên do những nông dân mới bị các địa chủ truất
ruộng làm đồng cỏ doanh nghiệp chăn nuôi. Đám
nông dân đó xưa kia vẫn sống bằng nghề nông
tang nay trở thành lao công hay phải ngửa tay đi xin ăn ở
các đô thị, nơi đây đầy rẫy sự cùng khốn.
Đám quần chúng này là chủ lực cho cuộc vũ
trang khởi nghĩa của Cromwell. Ở Ý, ở Đức bọn người tiểu tư sản
bị mạt nghiệp vì khủng hoảng hậu chiến ồ ạt theo tiếng gọi của
Phát xít và Quốc xã. Sau khủng hoảng kinh
tế 1929, thợ thuyền thất nghiệp, tư nhân phá sản nhiệt
liệt hưởng ứng chính sách "new deal" của Roosevelt. Sau
trận đói Ất dậu, mỗi thành phần nông dân từ
phú nông, trung nông, bần nông đều lao
mình theo lời khuyến dụ cách mạng xã hội của Việt
Minh.
Người thợ có việc làm, mặc dù cùng khốn
nhưng họ không cảm thấy bị hắt hủi vì họ quan niệm
cái nghèo của họ là cái nghèo cổ
truyền, họ ít phẫn nộ hơn người thợ bị mất việc, so về
cùng khốn cùng ở một mức với nhau thôi, nhưng so
trạng thái tâm lý khác hẳn. Người thợ bị mất
việc luôn luôn cảm thấy bị ức chế, bị sỉ nhục bởi
cái trật tự bất công trước mặt. Do đó người thợ mất
việc nghe ngay và theo ngay mọi ý kiến chính trị
chỉ nhằm thay đổi hiện tại.
Bây giờ nói đến kẻ nghèo mạt. Tâm lý
đám dân này là đấu tranh cho cái no
trông thấy đã. Họ chỉ cần một bữa ăn khá hơn bữa
cơm vẫn phải ăn, một chỗ ngủ ấm hơn chỗ ngủ vẫn phải ngủ và bất
cần đến chuyện xa xôi khác của chính trị của
xã hội. Đối với họ dạ dầy hôm nay no đầy là một
thắng lợi cho ngày hôm nay rồi. Cách mạng hay phong
trào đối với họ hệt như hiện tượng cướp cháo cúng
sinh. Họ sẵn sàng xô ra, lăn sả vào để giành
giật. Chính đám quần chúng nghèo mạt
này tụ tập ở Petersbourg và Moscou đông như kiến
đã làm khí thế cuộc cách mạng tháng
Mười to lên gấp trăm ngàn lần. Tại Ấn độ mỗi khi có
phong trào nào cũng có thể trở nên vĩ đại
ngay là nhờ đám ăn mày quây quần mong kiếm
chác. Loạn kiêu binh ở Bắc hà đời vua Lê
Chiêu Thống, bọn nông dân loạn lạc bỏ cầy bỏ cấy
lên kinh đô hoặc đón đường ăn cướp tứ tung khiến cho
tình trạng loạn càng nặng nề. Chúng không
đòi hỏi chính trị chi hết, gặp ai lột áo
bóc sống. Đến như bọn chèo thuyền gặp vua Lê
Chiêu Thống cũng cướp mất áo bào ngọc tỉ và
cả làng tranh nhau ra xin chức quận công.
Trí thức
Phần tử trí thức gọi nôm na là những người đọc
sách. Tâm lý của họ là tâm lý
rất nhậy ứng với hết thảy thống khổ gây nên bởi sự
áp bách của các ác thế lực, đối với sinh
họat vật chất cũng như tinh thần. Đọc sách, suy nghĩ và
phản ứng đối kháng với mọi ác thế lực đã khiến cho
phần tử trí thức mặc nhiên thành một lực lượng
chính trị và một giai cấp đặc thù không
phân biệt giàu nghèo, sang hèn. Giai cấp
trí thức, khi thất nghiệp thì nỗi thống khổ còn
thâm sâu hơn hết thảy mọi giai cấp khác. Đương
nhiên nhu cầu cách mạng đối với giai cấp trí thức
khẩn thiết hơn, tâm lý sinh tồn và tiến bộ nhiệt
liệt hơn.
Đợt sóng đầu tiên của cách mạng Sô viết
phát nguyên từ giai cấp trí thức tự do
(Intelligentzia libérale) với cuốn Kinh bổn cách mạng
(Catéchisme révolutionaire) với những người nổi tiếng như
Kropotkine, Bakounine, Plekanov, Herzen, Netchaev.
Tổ chức đấu tranh khủng bố chống lại Nga hoàng là tổ chức
nhân dân trả thù gồm những sinh viên đại học ở
hai trường Moscou và Saint-Petersbourg.
Đợt sóng đầu tiên chống lại chế độ Sô viết bây
giờ cũng phát nguyên từ tầng lớp trí thức với những
vụ Dudintsev, Pasternak, và Evtouchenko, vụ Milovan Djilas.
Những kẻ không thích ứng được với cuộc sống
Những anh chàng lâm vào ngõ bí
mà danh từ Trung Hoa gọi là Bĩ rất dễ bị lôi cuốn
vào phong trào đấu tranh chính trị, kẻ bí
có nhiều hình thái. Thanh niên đỗ tú
tài, đỗ trung học đệ nhất cấp rồi không đủ tiền tiếp tục
học hoặc không hào hứng theo đuổi sự học nữa.
Quân đội khi hòa bình trở lại bị giải ngũ
không biết làm gì kiếm sống.
Người lỡ thời kiểu vứt bút lông đi viết bút
chì, nhà nho trong thời buổi Tây sang.
Chàng võ sỹ đạo với lưỡi kiếm, khi kỹ thuật đã
phát minh ra chiếc súng.
Những kẻ đi giầy rách, mang ô rách, đánh bạc
mất cơ nghiệp ở hương thôn.
Loại người kể trên mang tâm trạng bị hất hủi rất mạnh,
nên dễ biến thành những phần tử quá khích
trong mọi phong trào chính trị.
Bọn có tâm lý ích kỷ quá sắc
bén
Càng ích kỷ bao nhiêu, càng cảm thấy
mình bị bỏ rơi bấy nhiêu, bọn người này khi vấp
vào một hoàn cảnh đối với họ kể như tuyệt vọng sẽ biến ra
cuồng tín. Họ sẽ lăn xả vào một lý tưởng
chính trị nào đó để chiến đấu chống lại tất cả
những gì đã khiến cho họ không thỏa mãn. Khi
yêu say mê mà bị cự tuyệt người con trai có
thể tự tử, đi lính chiến đấu gan dạ nhất, hay vùi đầu
vào sách để quyết đỗ đạt. Với lòng cương quyết ấy
mà nó trở thành người cách mạng, tất
nhiên sẽ là thứ cách mạng cuồng nhiệt. Khi bị sỉ
nhục như Tô Tần về nhà vợ dọn cơm nguội cho ăn hoặc như
Lưu Bình bị Dương Lễ mắng đuổi, cả hai tức giận đem hết sức
mình kiến tạo sự nghiệp.
Kẻ tham vọng
Phong trào chính trị trải ra trước mắt những cơ hội
vô cùng tận sẽ thu hút vô số kẻ tham vọng
ùa theo. Họ là những người muốn nhiều tiền, nhiều quyền,
vinh quang chói lọi. Bởi lẽ đó, xương cốt mới phơi trắng
dọc đường trong những cuộc săn vàng ở miền Tây nước Mỹ,
những vụ tìm dầu hỏa đã làm khá đông
người mất nghiệp. Hạng người có thể hy sinh hết thảy cho tham
vọng, đời sống êm ấm hạnh phúc mặc, thực hiện tham vọng
cái đã. Ngô Khởi giết vợ con để mong giữ chức tướng
súy. Lã Bất Vi gả vợ cho Công tử Dị Nhân để
cho đứa con trong bụng nối nghiệp vua.
Lọai phiền muộn
Trong vở kịch Lôi Vũ, tác giả Tào Ngu đã
lồng kịch vào khung cảnh của một khí hậu u uất mà
trong đó các nhân vật đều cảm thấy phiền muộn.
Trong vở kịch Ba chị em, Anton Tchekov cũng đưa ra những nhân vật
mang tâm trạng hoàn toàn phiền muộn.
Và tâm trạng phiền muộn nào cũng chỉ có một
ước mơ là đổi thay, ước mơ có chàng Trifimov
đánh chiếc xe troika đưa đến chân trời mới.
Cuộc sống trống rỗng khiến cho con người phiền muộn. Các
bà già trầu thường đến chùa cúng
vái, giúp việc làm cỗ chay và cũng
đã đấu tranh hăng hái nhất cho phong trào Phật
giáo. Những người vô công rồi nghề thường say
mê và táo bạo trong các sòng bạc,
luôn luôn đi lễ bái, lên đồng bóng.
Đó là những hành động để thóat khỏi phiền
muộn. Phong trào Quốc xã ở Đức có những người
đàn bà rất giàu có bỏ tiền trợ giúp
trước cả những ông chồng ý thức chính trị.
Khi phiền muộn xâm chiếm tâm hồn, con người có thể
lao vào bất cứ việc gì không kể xấu tốt miễn
là giải quyết nỗi phiền muộn. Néron chẳng đã
dám đốt thành Rome vì tâm hồn ông
quá ư nhậy ứng với phiền muộn đó ư. Cách mạng
Tân hợi được giới phụ nữ quý phái ủng hộ nhiệt
thành là bởi họ đã chán cảnh bó
chân ở trong nhà làm trò chơi cho nam giới.
Câu thơ trong Cung oán Ngâm khúc của Nguyễn
Gia Thiều:
Bực mình muốn đạp tiêu phòng mà ra
Thật đã nói lên hết cái phản ứng muốn
phá phách của một tâm trạng phiền muộn.
Những kẻ tội phạm
Đọc Tây Hán Chí người ta thấy lý do trước
nhất của việc Bái Công khởi nghĩa là đi chăn
tù, để tù chạy, sợ tội nên tụ hợp các
tù nhân lại chống trả chính quyền.
Trên Lương Sơn Bạc kể từ Tống Giang, Lỗ Trí Thâm,
Võ Tòng hầu hết đều là những phạm nhân đang
bị truy nã.
Trước hoàn cảnh thực tế họ lâm vào ngõ cụt.
Trên tâm lý họ muốn rửa hận đời sống không mấy
đẹp đẽ. Hai lẽ ấy đã khiến họ nung nấu một nhiệt tình
yêu nước, cách mạng hay tôn giáo.
Nguyễn Nhạc đánh bạc thua hết tiền thuế nên bàn với
hai em là Nguyễn Lữ, Nguyễn Huệ dùng mưu cướp
thành lấy đất khởi nghiệp dựng nên thời Tây Sơn oai
hùng.
Quan Vân Trường lúc cùng với Lưu Bị kết nghĩa tại
vườn đào đã tự thú mình là một tội
nhân tại đào.
Ai là người đã đỡ Chúa Jésus đầu tiên
khi Chúa mang cây thánh giá quá nặng
gục ngã bên đường, đó là người con
gái nhầy nhụa tội lỗi Marie Madeleine.
Theo Eric Hoffer, những phong trào mới, phong trào
nào cũng như giang tay đón đỡ kẻ phạm tội, không
những phong trào mới đó xoa dịu vết thương cho kẻ phạm
tội mà còn là một cơ hội tốt cho tài năng
của kẻ phạm tội nẩy nở nữa. Bởi thế người giỏi gây phong
trào là người biết diễn tả trật tự cũ như một bức tranh
đầy tật bệnh và tội lỗi, còn phong trào của
ông ta là phương thuốc thần hiệu cao quý.
Để chiêu mộ đạo quân Thập tự lần thứ hai, Saint Bernard
đã hiệu triệu bằng những lời này:
"Dù thế nào mặc lòng, đây cũng là một
nhiệm vụ thiêng liêng để thờ kính Chúa
dù đối với những kẻ ngọai tình, trộm cướp, giết người hay
đã phạm bất cứ tội ác nào khác. Tất cả
hãy tới đây theo lời Chúa gọi".
Chính trị Việt đã hoàn thành mỹ mãn
công cuộc Nam tiến nhờ chính sách mở lối
thóat cho đám người tội phạm, ra lệnh ai bằng lòng
di dân khai phá thì được giảm tội hay ân
xá.
Vận động quần chúng
Khi nào bất bình thì con người kêu
lên. Bất bình vì những dục cầu bị ngăn trở tỏa
triết (chiết?).
Khi nào xã hội mà dân chúng
phát sinh không khí ngột ngạt, những dục cầu căn
bản:
a) Đổi mới.
b) Danh vọng.
c) Tương lai.
d) Cơm ăn áo mặc.
e) Luyến ái.
f) An vui hạnh phúc.
Bị ức chế mà vọng trông chỉ thấy mơ hồ một giải đường mờ
tối buồn bực vô duyên cớ. Đời sống như mất hứng thú,
bực dọc nghi ngờ như căn bệnh truyền nhiễm lan rộng mãi ra.
Đó là triệu chứng của phong trào quần
chúng.
Không khí ngột ngạt ắt đã được ghi lại trong
các tiểu thuyết và thi ca nước Nga trong suốt thời kỳ hậu
bán thế kỷ 19.
Những cơn say điên cuồng của thanh niên, quân đội
mà Tolstoi diễn tả trong Chiến tranh và hòa
bình.
Sự sa đọa của ông già Karamazov, lòng hòai
nghi, nổi loạn của những Karamazov con. Nỗi phẫn uất của bác thợ
giầy. Quyết định giết người của sinh viên Raskolnikov.
Chán sống như Kirilov mà nhà văn lớn Dostoevsky
đã viết ra trong các cuốn Les frères Karamazov,
Les Démons, Les Pauvres gens, Crime et Châtiment.
Những giọt nước mắt âm thầm của nhà văn Tchekov gửi
vào các nhân vật truyện ngắn. Không
khí ngột ngạt tạo ra tâm lý quần chúng.
Tâm lý quần chúng trải ra thành một thứ dầu
hỏa để đợi mồi lửa là những sự kiện chính trị xảy ra
những bàn tay xách động, là nó bừng
cháy, đám cháy đó là quần
chúng vận động. Phong trào quần chúng nếu
không dẹp xuống hoặc không bị chế ngự sẽ chuyển
thành quần chúng bạo động.
Có năm nguyên nhân chính khiến cho quần
chúng bạo động:
Thứ nhất: Chính quyền suy yếu không biết quyết liệt đối
phó. Khi tình trạng suy yếu bộc lộ rõ rệt
là dân chúng không e dè nữa sấn đến
tấn công như vụ cướp ngục Bastille, vụ phá thuyền
trà ở Boston của chính phủ Anh. Nga hoàng Nicholas
đệ II từ tháng Ba trước phong trào dân chúng
ông loay hoay chẳng biết giải quyết ra sao nữa. Đáng lẽ
phải gọi đoàn quân trung thành với ông về
thì ông lại hoàn toàn giao vận mệnh
hoàng cung cho đoàn quân đã đi theo
cách mạng.
Thứ hai: Chính quyền không chịu tìm hiểu
tình tự vận động quần chúng, gán cho danh từ
làm loạn rồi chỉ biết cứng rắn đàn áp khiến cho cả
hai bên lâm vào thế cưỡi hổ nên phải liều sống
chết. Càng đàn áp, phong trào càng
lên dữ dội, như vụ Thanh giáo cách mạng bên
Anh, và chính phủ Anh đàn áp cách
mạng Mỹ. Chính phủ Anh lâm vào tình trạng
bên ngòai có vẻ mạnh, nhưng bên trong
đã kiệt sức.
(Hai điều nói trên có mâu thuẫn chăng? Điều
thứ nhất vì không quyết liệt nên vận động quần
chúng sấn lên tấn công. Điều thứ hai nói
vì chỉ biết đàn áp nên thất bại. Không
mâu thuẫn vì ở đây nói về thực lực
chính quyền chứ không nói về phương sách
giải quyết. Nếu có thực lực thì đàn áp,
đàn áp với thực lực thì vận động quần chúng
đành chỉ nuốt hận thôi. Nếu không có thực lực
thì giải quyết bằng thủ đoạn khác ngòai thủ đoạn
đàn áp).
Thứ ba: Quần chúng bạo động vì đã quá
cùng khổ, đói rét thúc bách sau
lưng. Vào cướp ngục Bastille đa số là dân
đói dân rét. Bằng chứng là trước ngày
cướp phá Bastille bọn này đã cướp phá tu
viện Lazarite để chiếm năm chục xe lúa mì. Ở Nga cũng
vậy, tháng ba 1917 cả trăm ngàn người đòi
bánh ăn trước hoàng thành và trước
các cơ sở chính quyền, náo loạn cả thành
phố Petersbourg. Cách mạng Thanh giáo tại Anh do
dân nghèo khổ oán hận bọn giáo sỹ vơ
vét làm giàu nên đứng dậy đòi cải
cách tôn giáo.
Thứ bốn: Dân chúng bạo động bởi những lời, những khẩu hiệu
khích lệ và hợp lý. Bài Marseillaise, khẩu
hiệu Tự do, Bình đẳng, Bác ái rất có
công với cuộc cách mạng Pháp.
(Lời người đánh máy: không có thứ năm).
Đặc tính của vận động quần chúng
Khi dân chúng đã chín mùi để
có thể biến thành một phong trào thì quần
chúng đó sẽ ào theo bất cứ phong trào
nào lãnh đạo một cách có hiệu lực. Tại Đức
đám thanh niên cuồng tín gia nhập hoặc phong
trào Quốc xã hoặc phong trào Cộng sản. Năm 1945,
Nhật đầu hàng, nếu vận động quốc gia đủ khả năng và
có quyết tâm lãnh đạo thì cách mạng
tháng Tám không phải là của Cộng sản Việt
Minh.
Còn một hiện tượng khác cần chú ý
lúc tình trạng đang cơn sôi động và đấu
tranh giữa nhiều khuynh hướng chưa ngã ngũ thì một người
dù đã theo Cộng sản rồi vẫn có thể cuồng
tín trở lại với Quốc xã. Cuộc nổi dậy của Phật
giáo cũng vậy, có rất nhiều người Công giáo
ủng hộ phong trào Phật giáo rất say sưa. Đại úy
Rohm thường nói ông ta có thể trong vài tuần
lễ chuyển hóa một đảng viên Cộng sản cuồng tín nhất
thành ra một chiến sỹ Quốc xã nhiệt thành nhất.
Ngược lại Karl Radek cũng hy vọng ở các đảng viên sơ mi
nâu của Quốc xã như những đảng viên Cộng sản tốt
tương lai.
Như vậy ta khả dĩ nhận ra những quy luật về phong trào quần
chúng như sau:
1-- Vận động quần chúng thường cạnh tranh bởi những khuynh hướng
chính trị khác nhau, trong cạnh tranh đó bên
này được người thì bên kia mất người.
2-- Những người tham gia vận động này có thể đổi
màu sắc để tham gia vận động khác mà vẫn
không kém phần cuồng tín.
3-- Vận động quần chúng có thể thay hình đổi dạng
từ vận động tôn giáo thành vận động cách
mạng xã hội hay vận động yêu nước, hay từ vận động
cách mạng xã hội thành vận động quốc gia
quá khích, hay từ vận động quốc gia quá
khích thành vận động tôn giáo. Bởi lẽ phong
trào quần chúng thường pha lẫn nhiều tính chất
khác biệt rất ít khi thuần một tính chất duy nhất.
Trường chinh xuất quốc của người Hébreus Ai cập là một
cuộc nổi loạn của nô lệ, đồng thời là một vận động
tôn giáo và phong trào quốc gia. Những chiến
sỹ Nhật bản hồi Đệ nhị Thế chiến đa số có cuồng tín
tôn giáo thần đạo. Cách mạng Pháp là
một vận động tôn giáo mới, tôn giáo tự do
bình đẳng, những buổi mít tinh dân chủ là
giáo đường, những người chết trong ngục Bastille là
các thánh tử đạo. Đồng thời cách mạng Pháp
cũng là phong trào quốc gia, khắp nơi người ta treo biểu
ngữ: Người Công giáo Pháp sống và chết cho
tổ quốc. Vận động canh cải tôn giáo ở Đức thời Luther liền
một lúc cũng là một vận động nông dân
và sự trỗi dậy của ý thức quốc gia. Cách mạng
vô sản Nga, cách mạng Quốc xã Đức đầy rẫy nhiệt
tình tôn giáo, cờ búa liềm, dấu chữ vạn được
thay thế cho cây thập tự.
Vận động quần chúng tại các nước Á châu
là phong trào yêu nước, nhưng đồng thời cũng
là những vận động cách mạng xã hội.
Tâm lý mong thay đổi
Sở dĩ người ta gia nhập vận động cách mạng là vì
người ta muốn thay đổi những điều kiện sinh họat hiện thời. Không
muốn trật tự cũ bởi trật tự cũ đặt địa vị của họ quá lép
vế. Không muốn số phận bị áp bức của một dân nước
lạc hậu. Không chấp nhận giá trị tinh thần cũ vì
nó đang bóp chết tự do của con người. Vận động
cách mạng là công cụ tốt cho ước vọng đổi thay.
Đạo Ki tô là cơn gió văn minh thổi vào những
bộ lạc man rợ ở Âu châu. Hồi giáo là tổ chức
thời đại hóa đời sống lạc hậu của các bộ lạc du mục để
thống nhất các bộ lạc này thành quốc gia.
Về tâm lý ước vọng đổi thay có điểm đáng
chú ý là mặc dầu mỗi người đều có những mục
tiêu rất thực hành nhưng nó chỉ trở thành
phong trào rộng lớn khi nào những mục tiêu thực
hành đó đuợc tôn giáo hóa nghĩa
là làm cho chúng huyền bí thiêng
liêng siêu việt. Vua Pierre la Grand của nước Nga mang văn
minh Tây phương về Nga để thay đổi Nga vào văn minh kỹ
nghệ, ông thất bại. Trái lại Lénine thành
công. Lý do Lénine đã khuấy động được nhiệt
tình dân chúng Nga bằng thứ tôn giáo
mới: Cộng sản chủ nghĩa.
Tính chất thiêng liêng của lòng yêu
nước đã đem Mustapha Kemal lực lượng vĩ đại hoàn
thành cách mạng quốc gia và đẩy mạnh công
cuộc tối tân hóa nước Thổ nhĩ kỳ thủ cựu.
Theo Eric Hoffer chính vì Anh Mỹ không nắm được
bí quyết "tôn giáo hóa" những mục tiêu
thực tế, nên thường bị chội tay khỏi nhiều phong trào tại
các nước Á châu. Chủ nghĩa dân chủ, triết
lý thực hành (pragmatisme) không có khả năng
đốt cháy lên lòng cuồng tín của hàng
bao nhiêu triệu người trên những xứ sở phương Đông.
Tại sao phải tôn giáo hóa, phải làm cuộc đổi
thay mang một ý nghĩa thiêng liêng thì mới
gây được phong trào quần chúng?
Ngàn xưa cổ học chính trị Đông phương đã đề
cập đến:
Thánh nhân dịch quỷ thần, ngu giả tín chi, dĩ
giáo dân.
(Thánh nhân sai quỷ thần, người ngu tin theo, dựa
vào lòng tin ấy mà khiến dân).
Thánh nhân dĩ thần đạo thiết hóa, nhi thiên
hạ phục hĩ.
(Thánh nhân dùng thần để dạy dỗ, thiên hạ
phải sợ phục).
Nhân tâm con người vẫn mong đổi thay, nhưng đồng thời cũng
lo sợ đổi thay vì không biết rằng nếu đổi thay số phận
mình còn được như cũ không? Ai ai cũng hãi
hùng cái bất trắc. Cho nên con người chỉ lao
vào họat động cho một cuộc xoay chuyển khi nào họ cảm
thấy bị thúc giục bởi một sức mạnh thiêng liêng
mà họ tin rằng không có gì chống cự nổi. Thế
hệ đã làm nên cuộc cách mạng Pháp
là thế hệ của tư tưởng khoa học chớm nở, trái đất
là hành tinh quay chung quanh mặt trời không phải
do bàn tay Thượng đế quay. Thế hệ say sưa với sức vạn năng của
lý luận và tin tưởng vô cùng vào bộ
óc thông minh của con người. Chủ nghĩa nhân bản
đã lấn át hẳn thần quyền và sự hiểu biết của tăng
lữ.
Thanh niên Nga, thợ thuyền Nga ồ ạt đứng dậy chống lại chế độ Nga
hoàng vì họ cho rằng chủ nghĩa Mác xít phải
thắng, chủ nghĩa Mác xít có sức mạnh bao la.
Thanh niên Đức nhìn thấy ở Hitler sức mạnh Thượng đế
và những cuộc hội họp đẹp như vườn thiên đàng.
Sức mạnh huyền bí thiêng liêng gây cho quần
chúng lòng tin mãnh liệt. Tuy nhiên thế cũng
chưa đủ, kèm bên cạnh tín ngưỡng phải có
trước mặt một tương lai huy hoàng đang chờ đón. Nếu
tâm lý quần chúng còn sợ hãi tương
lai thì vận động khó mà vùng lên khoẻ
khoắn. Phong trào Phật giáo xệp xuống một cách
thảm hại là vì phong trào này chỉ đem lại
cho quần chúng đức tin Phật, Đạo, Pháp, nhưng khi
nhìn vào tương lai thì cuộc đời đấu tranh cụt ngủn
và vô vị. Quân đội Mỹ lên, tiền Đô la
tung vào trải ra trước mặt mọi người, tương lai làm
giàu mau chóng, Phật Đạo Pháp bị bỏ rơi liền, số
đông sộ vào những phong trào kiếm tiền. Thậm
chí những công chức vốn là những con người ưa sống
bám chặt vào nếp cũ, coi đổi thay như hỗn loạn, cũng
không ngần ngại gì xin thôi việc để đi làm sở
Mỹ. Trước tương lai đầy hứa hẹn thì cả những anh nghèo
mạt rệp, cũng như những người có đôi chút tư sản
đều mang một tâm lý ưa đi tìm vàng
(ruée vers l or) giống hệt nhau. Ở Anh vào thế kỷ 17-18,
lúc công nghiệp Anh bắt đầu phát triển rộng
rãi anh bần cố nông bỏ ruộng lên đô thị mong
đổi đời, tay địa chủ không cầy cấy nữa để biến đất đai
thành những đồng cỏ tiện lợi cho ngành chăn nuôi,
cả giàu lẫn nghèo cùng làm cách
mạng.
Sức mạnh của căm thù
Người chính trị muốn khai thác sức mạnh quần chúng
để hướng vào mục tiêu chính trị nào
đó thì trước hết phải biết khai thác sức mạnh của
căm thù.
Chúa Christ giảng về tình thương, thương thân,
thương ai cùng đồng lọai, thương ai cùng hoàn
cảnh. Giáo dân càng nghe về tình thương bao
nhiêu càng căm thù bọn quân dữ, bọn thống
trị, bọn chủ nô bóc lột bấy nhiêu. Căm thù
đó lên đến cực độ, khi các con chiên
khóc thương Chúa bị đóng đinh trên
thánh giá. Cho đến tận bây giờ căm thù ấy
vẫn còn khi người Công giáo cuồng tín
nhìn những kẻ ngọai đạo và tưởng chừng như những kẻ ấy
là hậu thân của lũ người đã gây nên tội
ác kia.
Với lòng hận thù, con người có thể quên
quyền lợi thiết thực bản thân, con người nhắm mắt làm bất
cứ việc gì để trả hận.
Có một lần người ta hỏi Hitler: Tại sao phải tiêu diệt Do
thái?
Hitler trả lời: Chúng tôi bắt buộc phải tạo ra một kẻ
thù bằng xương bằng thịt để gây lòng thù
hận.
Rất đúng, nếu không có vận động thù hận Do
thái dĩ nhiên sức mạnh Quốc xã phải giảm đi nửa
phần. Trường hợp khác, một ký giả hỏi phái
đoàn Nhật bản sang nghiên cứu phong trào Quốc
xã về sự đã ghi nhận được gì ở phong trào
này? Vị Trưởng phái đoàn đáp: Thật
ghê gớm, chúng tôi cũng muốn có một phong
trào tương tự tại nước chúng tôi. Nhưng tiếc thay
nước chúng tôi lại không có người Do
thái.
Nếu không có tâm lý căm hận gia đình
họ Ngô, phong trào Phật giáo chắc không thể
lên chóng vánh thế. Tưởng Giới Thạch chỉ bị
dân chúng Trung quốc chán ghét sau khi Nhật
đã thua rồi, trước kia họ yêu Tưởng, họ theo Tưởng chỉ
vì lòng căm hận giặc lùn. Mối thù chung
có khả năng vô biên, nó đủ sức làm kết
hợp những phần tử khác biệt hẳn nhau về đời sống, về tính
tình, về trình độ sinh họat, về quyền lợi, do mối
thù chung mà những phần tử trên cảm thấy sự gần gũi
anh em.
Lúc yêu chúng ta không cần phải tìm
đồng minh, trái lại chúng ta còn ghét bỏ
ganh tị với những người cùng sung sướng trong sự được ân
sủng như ta. Nhưng lúc thù hận chúng ta thường kết
bạn với người nào cùng chung mối thù hận như ta.
Hận thù càng lên cao khi con người cảm thấy bất
lực, cảm thấy bị cô đơn, chới với và nhát sợ. Khi
ta nghĩ rằng ta hơn kẻ kia, nếu kẻ ấy có báng nhạo ta,
lừa đảo ta, ta có thể kinh bỉ nó nhưng không căm
thù. Khổng Minh không căm giận Chu Du bao giờ, ngược lại
Chu Du luôn luôn muốn rửa hận với Khổng Minh, lòng
căm thù sâu đến nỗi Chu Du thổ huyết ra chết.
Hận thù còn có nhiều biến thái khác.
Phương ngôn Việt có câu: Giận cá chém
thớt. Đau khổ và hận thù không nối liền với nhau
bằng hàng dây trực tiếp. Dân Nga bị mật vụ của
Staline hành hạ, lại nổi giận căm thù kẻ reo rắc chiến
tranh, căm thù tư bản. Dân Đức bị nhục nhã
vì hòa ước Versaiiles lại chuyển căm thù
vào dân Do thái.
Bị lòng thù hận xâm chiếm tâm hồn con người
chỉ muốn xáo trộn vì xáo trộn đem họ đến cảm
giác bình đẳng. Từ hận thù mới nẩy sinh
lòng nhiệt thành, tha thiết và hy vọng. Tranh của
Van Gogh đẹp tăng theo ý thức hận thù.
Tóm lại bản chất mỗi người là căm thù lẫn nhau
(all men by nature hate each other - Pascal) tình thương
và lòng từ bi hỷ sả chỉ là những ấn tượng giả dối
của cái rễ căm thù.
Hành vi hy sinh trong vận động quần chúng
Ôm bom ba càng lăn xả vào chiến xa, đem thân
lấp lỗ châu mai, lấy thân thể để chèn cho sơn
pháo khỏi lăn xuống vực. Đó là hành vi hy
sinh cuồng tín.
Kinh Kha sang hành thích Tần Thủy Hoàng. Đó
là hành vi hy sinh có suy nghĩ.
Hành vi hy sinh cuồng tín chỉ có khi nào
cá nhân đã hòa lẫn vào tập thể,
cá nhân không còn mang hiệu danh gì
nữa. Cá nhân hết là Hùng, là Dũng,
là Dự Nhượng, là Chuyên Chư v.v... Khi một người
đã chín mùi cho một hành vi hy sinh cuồng
tín, nếu có ai hỏi anh là ai, người ấy sẽ trả lời:
tôi là Cộng sản, tôi là thanh niên Quốc
xã, tôi là dân Hồi giáo, tôi
là Phật tử v.v... Nó đã tự xóa bỏ lý
lịch riêng tư, từ nay sự vui buồn của nó, lòng
kiêu hãnh và tin tưởng của nó hoàn
toàn tùy thuộc sự thắng lợi hay thất bại của tập thể. Nếu
bị xa lìa tập thể thì cũng chẳng khác gì xa
lìa cuộc sống.
Thế chiến thứ Hai, theo con số thống kê thì tại các
trại tập trung của Đức, hầu hết những người đứng lên tranh đấu
đều là những hội viên, đoàn viên hay đảng
viên của một tập thể. Khi bị đem ra hành hình, họ
hát bài quốc tế ca, họ trầm tĩnh đọc kinh, họ hô
lớn tên tuổi anh hùng của tổ chức.
Hitler giết sáu triệu người Do thái, nhưng tới Palestine
công cuộc bài trừ bị dừng lại vì người Do
thái kháng cự rất hung dữ. Tại sao? Tại ở Palestine người
Do thái sống tập thể khác với những người Do thái
Âu châu thuần phản ứng cá nhân. Ở Âu
châu họ là những người đơn chiếc. Ở Palestine họ là
con dân của một dân tộc thông minh nhất thế giới.
Dân tộc Nga run sợ trước mật vụ của Staline, nhưng cũng dân
tộc này đã hăng hái vô cùng khi
đánh nhau với quân đội Đức. Tại sao? Tại trước mật vụ của
Staline họ là những cá nhân bé nhỏ, nhưng
trước xâm lăng Đức họ là cả một dân tộc vĩ đại.
Nhân tâm
Nhân chi sơ tính bản ác.
Trong cạnh tranh sinh tồn, tâm lý con người là tham
sống, tham công danh, tham phú quý, tham lợi lộc.
Họ tranh đấu vì quyền lợi cá nhân.
Họ hy sinh vì sợ tập thể bỏ rơi.
Họ tin tưởng vì muốn trốn chạy sự cùng khổ của hiện tại.
Họ làm cách mạng vì muốn trả thù.
Tất cả tâm lý trên khi bị cuốn vào vận động
quần chúng trở nên một thứ đam mê cuồng vọng đến nỗi
có thể tin bất cứ một điều gì. Con người trong vận động
chẳng khác chi con thiêu thân trước ánh
đèn, anh chàng máu mê trước đám bạc.
Bởi vậy lương tâm luôn luôn chịu sự hiếp đáp
của những thủ đoạn chính trị.
Có những lý do kể dưới đây:
1) Nếp sống cũ, phong tục tập quán thường thao túng con
người, nếu họ có thể nhắm mắt tòng cổ thì họ cũng
có thể nhắm mắt theo sự quá khích mới mẻ, miễn
cái mới có sức hấp dẫn mạnh. Quần chúng đã
sẵn có nộ tính, nhất đán nổi dậy cũng vẫn
là nộ tính ấy nhưng theo sự dẫn dắt khác nhau
mà thành những hình thù khác nhau.
2) Tâm lý quần chúng xung động biến thành
vận động quần chúng. Vận động nếu cứ để nguyên không
một bàn tay chính trị nào lãnh đạo,
nó sẽ hệt như một người hành động vô mục
đích, vô định pháp, gặp gì làm nấy.
Nếu chỉ cái trường mà trước đây đã dạy dỗ
nó nên người và bảo: Đấy là hình thức
xâm lược văn hóa, thế là quần chúng
không nghĩ ất giáp gì nổi lửa đốt luôn. Bảo
bó chân là đẹp, tất cả đàn bà đều
bó chân mặc đau đớn khổ sở.
3) Quần chúng tình cảm dễ bị kích động, thiếu
bình hòa, giàu tính cấp bách,
làm bất cứ điều gì miễn là thỏa mãn
lòng say sưa, tâm trạng phản kháng và một hy
vọng háo hức. Năm 1789 quốc dân nghị hội quyết nghị bản
tuyên ngôn nhân quyền đưa lên vua, nhưng vua
còn trù trừ chưa phê chuẩn. Dân chúng
không được tin tức nên bàn tán ồn ào.
Lúc ấy đại điện Versailles lại mở yến tiệc tưng bừng, vui
đùa như không coi bản tuyên ngôn vào
đâu. Dân chúng hoàn toàn thất vọng,
thêm vào đấy là nạn đói. Danton dựa
đúng lúc lòng căm phẫn chín, lên diễn
đàn quy tội cho quốc vương, ông nói sở dĩ
chúng ta thiếu bánh ăn là tại vua cứ ở trong cung,
nay hãy đem vua ra chợ thì chúng ta sẽ chắc hết
đói. Các anh em hãy đến lôi người chịu
trách nhiệm về việc bánh ăn cùng vợ con hắn ra
chợ. Danton đang thao thao bất tuyệt, một thiếu nữ vừa đánh
thanh la vừa hô to hãy trả cho chúng tôi
bánh ăn, rồi một số thiếu nữ khác ùa theo, người
nào người nấy mang gậy gộc, dao nhọn, giáo mác.
Ngày nhà vua quyết liệt giải tán quốc dân
nghị hội, nên mang quân vào Ba lê đề
phòng dân chúng bạo động. Dân chúng
trông thấy quân đội vào thành nên
hãi sợ, chưa biết làm thế nào. Thấy tình
cảnh suy sụp đến nơi một luật sư theo phe cách mạng liền đứng
giữa đám đông hô hào. Chạy bây giờ
không được nữa, binh đội của bạo chúa sắp tàn
sát chúng ta đến nơi, chỉ còn một cách cứu
vãn tình thế là hãy vũ trang nhất tề
kiên quyết chiến đấu, để bảo vệ thân và bảo vệ những
người tranh đấu cho tự do, là quốc dân nghị hội. Dân
chúng nghe theo ồ ạt kéo đến phá ngục Bastille.
Chương tám
Đấu Tranh
Hứa Do rửa tai vì có
ông vua
muốn trao quyền chính cho
mình, Sào Phủ không cho trâu
uống nước ở nơi Hứa Do đã
rửa tai. Đó là câu chuyện chính
trị hoang đường.
Người ta thấy trên chính trị lúc nào cũng
có sự đấu tranh trên ba mặt:
1) Đấu tranh giữa những người, những phe nhóm trong chế độ.
2) Đấu tranh giữa những chế độ khác nhau.
3) Đấu tranh giữa quốc gia này với quốc gia khác.
Đấu tranh giữa Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ, Nguyễn Lữ.
Đấu tranh giữa Vũ Văn Nhậm, Nguyễn Hữu Chỉnh.
Đấu tranh giữa đảng Cộng hòa và đảng Dân chủ tại
Hoa kỳ, giữa đảng Dân chủ với nhau hay giữa đảng Cộng hòa
với nhau.
Đấu tranh giữa đảng Lao động và Bảo thủ tại Anh quốc.
Đấu tranh giữa những phe phái trong trung ương chính trị
cục tại Nga sô
đều là đấu tranh giữa cá nhân hay phe nhóm
trong một chế độ, động cơ đấu tranh có thể là ngôi
vị cá nhân, có thể là chính
sách.
Đấu tranh giữa Quốc Cộng tại Trung hoa, Nam Bắc Hàn, Nam Bắc
Việt nam.
Đấu tranh giữa đảng Bôn-sê-vích và Nga
hoàng.
Đấu tranh giữa ủy hội cách mạng Nasser và hoàng
gia Farouk
đều là đấu tranh giữa những chế độ khác nhau, động cơ đấu
tranh là đưa lớp người mới lên ngôi vị lý
tưởng, xây dựng một chế độ xã hội và một
chính quyền mới.
Đấu tranh giữa Nga-Mỹ.
Đấu tranh giữa Trung cộng-Mỹ, giữa Trung cộng-Nga sô.
Đấu tranh giữa Nam Tư-Nga sô, Pháp-Mỹ
đều là những đấu tranh giữa quốc gia này với quốc gia
khác, động cơ đấu tranh là độc lập và chủ quyền
của mỗi quốc gia, hay quyền lợi đất đai tiền bạc của mỗi quốc gia.
Cả ba mặt đấu tranh trên có liên hệ khắng
khít với nhau, liên hệ đó càng chặt chẽ
trong chính trị ngày nay.
Xưa kia quân Thanh tràn sang giúp vua Lê
Chiêu Thống là dùng nội chiến để xâm lược dựa
vào cuộc đấu tranh giữa hai cá nhân, hai phe
nhóm để giải quyết việc hai quốc gia.
Ngày nay người ta nói đấu tranh giải phóng
là hình thức cao nhất của đấu tranh giai cấp, tham chiến
ở Việt nam là để bảo vệ sự nguyên vẹn của Châu Mỹ La
tinh hay để Châu Mỹ La tinh vùng dậy chống Hoa kỳ.
Những yếu tố chi phối của các mặt đấu tranh gồm có:
Các lãnh tụ, các cường thần đại tộc, các
giai cấp, các đảng phái, các địa phương,
các lực lượng tài chính, các quân
đội, các bạn đồng minh, các chính phủ. Tính
chất đấu tranh không có gì đổi khác từ xưa
đến giờ. Nếu cách đây hai ngàn năm César bị
nhóm cường thần đâm chết thì sau hai ngàn
năm Kennedy cũng chết một cách tương tự ở Dallas. Nếu xưa kia
Đổng Trác được các triều thần vời vào cung để phục
binh mà giết thì bây giờ Béria cũng bị mai
phục bắn chết trong buổi hội.
Lề lối đấu tranh chỉ khác trên hình thức, nhưng bản
chất vẫn vậy. Ngày xưa đức của Nghiêu Thuấn đồn vang bốn
bể bằng lời truyền miệng thì ngày nay phát thanh,
điện thị sách vở cùng bộ máy quảng cáo
khổng lồ cũng làm in sâu hình ảnh vị tổng thống
trong tâm chí đại chúng.
Xưa kia thế lực là nhóm đại thần nhiều vây
cánh trong triều hoặc các lực lượng tự trị địa phương,
hoặc các ông tướng biên khu. Ngày nay thế lực
là những đại tư bản, những thống đốc, những quân khu
trưởng, những cán bộ cao cấp, những cán bộ công
nghiệp địa phương, những đoàn thể áp lực (groupe de
pression lobby).
Nói cho gọn lại một câu: Đấu tranh chính trị
là đấu tranh giữa các thế lực chính trị để đọat
quyền và giữ chính quyền.
Vũ khí đấu tranh
Muốn tranh đọat cái gì, điều kiện tiên quyết của
một cá nhân, một giai cấp, một đoàn thể phải
là một cá nhân có quyền lực, giai cấp
có quyền lực, đoàn thể có quyền lực. Quyền lực
có hai mặt: quyền lực vật lý và quyền lực
tâm lý. Khi nói có binh quyền tất có
quyền là nói quyền lực vật lý. Khi nói
dân chúng ủng hộ người ấy là nói quyền lực
tâm lý. Cả hai quyền lực tâm lý vật lý
không tách rời nhau trái lại chúng
phù trợ nhau. Nếu một chính quyền chỉ có quyền lực
vật lý không thôi, chính quyền đó đang
xuống dốc. Trái lại một thế lực mà quyền lực vật
lý chưa đáng kể, nhưng quyền tâm lý lớn mạnh
là thế lực đang lên. Danh từ uy thế chính trị để
chỉ chính quyền có đủ cả quyền lực vật lý lẫn
quyền lực tâm lý.
Tào Tháo trong lúc hãy còn
làm dũng sỹ đi dâng đao giết Đổng Trác, với
Tào Tháo sau khi đã bình định xong
Duyên châu rồi được triều thần gọi về phò
giá, mức chênh lệch nhau trên quyền lực đã
khác hẳn. Trước kia chỉ là một tên thích
khách, sau này đã trở nên kẻ đứng trong
đám người tranh thiên hạ.
Nông dân từng làng từng xóm trước kia
là những kẻ đói khát vất vưởng, khi theo Trương
Giốc chít khăn vàng đám nông dân
đói khát ấy đã trở thành một lực lượng
chính trị làm rung động cả chính quyền nhà
Hán. Hai trạng thái khác hẳn nhau gây
nên bởi quyền lực.
Nói đến quyền lực trước hết phải kể quyền lực vật lý,
làm chính trị là hữu binh tất hữu quyền. Xã
đoàn nào cũng bị chi phối bằng bạo lực vật lý,
trong đám du đãng kẻ bắn súng, kẻ ném dao
giỏi và có quả đấm chắc nịch là kẻ cầm đầu. Trong
một quốc gia phe chỉ huy là đoàn SS, lực lượng tontons
macoutes (danh từ để chỉ những đặc vụ ở các nước Phi
châu), quân đội cảnh sát v.v.... Nếu hỏi nhà
nước là gì? người ta có thể trả lời rằng
nhà nước là tổ chức có độc quyền những vũ
khí để cưỡng bách, những vũ khí này đem lại
quyền lực cho một nhóm người, một giai cấp hay một đảng ở trong
bộ máy nhà nước. Để chống lại với bộ máy
đó, phe chống lại cũng phải kiến tạo được một quyền lực khả dĩ
đương đầu đến thắng lợi với nó.
Trong đấu tranh chính trị những lực lượng đấu tranh thường được
ném vào đấu trường là: mật vụ chống với đảng,
quân đội chống với quần chúng vũ trang, phe nhóm vũ
trang ủng hộ cá nhân chống một cá nhân
khác, giai cấp chống giai cấp, chính sách chống
chính sách.
Quyền lực vật lý của những lực lượng ấy là gì?
Tổ chức - Tiền bạc - Phương tiện bạo lực.
Quyền lực tâm lý của những lực lượng ấy là
gì?
Chủ nghĩa - Tín ngưỡng - Uy danh - Truyền thống - Tập
quán.
Chính quyền
Cổ thư viết: Con rồng bay trên mây, nếu không
mây thì rồng cũng chẳng khác gì con rắn.
Người hiền hơn kẻ bất tiếu là nhờ ngôi vị. Kẻ bất tiếu
khuất phục người hiền bởi vì quyền cao vị tôn.
Sách Quỷ Cốc nói: Sự việc quý ở chỗ chế ngự được
người và không cho người chế ngự ta. Sở dĩ chế ngự được
người là nhờ nắm được quyền vậy.
Quyền là cái chất quan yếu của chúng lực,
nó ví như cái cổ áo, cái mối giềng
của lưới cá. Nắm được cái chốt quan yếu thì mọi
lực lượng đều quy tụ, giữ được mối giềng thì cả cái lưới
không bị rối loạn.
Ở chính trị đấu tranh là giành quyền, giữ quyền,
củng cố quyền.
Theo cổ học Đông phương nói về việc giành quyền
thường phân biệt:
Sảo thủ vi thượng, hảo đọat vi hạ.
(Khéo lấy là tốt nhất, phải tranh đọat là hạ
sách).
Thế nào là khéo lấy. Cổ nhân đưa ra tỉ dụ:
Vua Nghiêu nhường ngôi cho vua Thuấn. Thuấn không
tranh đọat ngôi của Nghiêu bằng vũ lực, ông chỉ
lên núi Lịch sơn đặt ra chính sách canh
tác để tranh dân của vua Nghiêu, nhiều người cảm
phục đức của Thuấn nên ùa lên Lịch sơn. Thấy
lòng dân đã ngã, vua Nghiêu liền
nhường ngôi cho Thuấn.
Như vậy gọi là dùng đức để giành quyền.
Thứ đến dụng công để giành quyền. Như vua Vũ trị thủy
thành công, danh vang bốn biển, khắp bàn dân
thiên hạ đều tôn Vũ làm thần chủ của núi
sông.
Thứ ba là dùng mưu để dành quyền.
Vua Tề Hoàn Công hỏi Quản Trọng rằng: Tại sao Thang một
lúc mà có thể nuốt được thiên hạ của Kiệt?
Quản Trọng đáp: Vua Kiệt không cho dân đủ no, đủ ấm
lại còn dùng hổ báo làm cho dân
chúng kinh sợ. Còn Thang trái lại thấy người
đói rét cho ăn cho mặc nên dân chúng
ùa theo.
Tề Hoàn lại hỏi: Việc làm của Thang không phải sớm
chiều mà xong, vậy tại sao Kiệt lại để yên cho Thang
làm thế?
Quản Trọng đáp: Vì Kiệt mê Nữ Hoa, nên Thang
đem vàng bạc đút lót. Vì Kiệt tin
Khúc Nghịch, nên Thang dùng châu báu
hối lộ. Nhờ dùng Nữ Hoa và Khúc Nghịch vào
âm mưu, nên Thang đã thắng. Thang thắng bởi
vì hai chính sách: một mặt giữ tín nghĩa
với dân, một mặt dùng âm mưu quật đổ vua Kiệt.
Còn như các vụ dùng chiến tranh để giải quyết vấn
đề, dùng bạo lực để giải quyết vấn đề đều bị coi là hạ
sách. Tuy nhiên danh từ hạ sách không hề chỉ
định tính chất xấu tốt, ác hay thiện. Tất cả tùy
thuộc vào thời thế. Thế không cho phép dùng
đức tất phải dùng lực như lời Khương Tử Nha: "Thuận giả nhiệm
chi dĩ đức. Nghịch giả tuyệt chi dĩ lực." (Kẻ thuận theo thì lấy
đức mà trị, kẻ nghịch ta thì dùng lực mà
tiêu diệt). "Dĩ chiến chỉ chiến, tuy chiến khả dã. Dĩ
sát chỉ sát, tuy sát khả dã. Dĩ hình
khứ hình, tuy trọng hình khả dã." (Lấy chiến tranh
để ngăn chận chiến tranh thì chiến tranh cũng tốt. Lấy giết để
ngăn chận sự giết chóc thì giết cũng được. Lấy
hình phạt để chống tàn bạo thì hình nặng
càng hay).
Liên hệ khắng khít giữa trong và ngòai
Cổ thư có câu:
"Đi thuyền, nước vào thuyền mà không trét
lại thì thuyền chìm, trét chỗ rỉ nước rồi
mà khinh sóng dữ của Thủy Thần thì thuyền đắm".
Trong bất cứ lọai đấu tranh chính trị nào người ta cũng
buộc phải đối phó với hai phía, phía trong
và phía ngòai. Phía trong là
công việc nội bộ, phía ngòai là ứng chiến
với địch. Bởi vì đấu tranh chính trị rút lại chỉ
là sự giải quyết mâu thuẫn. Nguyên nhân
và khởi điểm của đấu tranh là những mối mâu thuẫn.
Mâu thuẫn thì bao giờ cũng có hai mặt: một
là mâu thuẫn trong diễn tiến phát triển của hết
thảy sự vật, hết thảy hiện tượng, hai là mâu thuẫn nội tại
ở trong lòng mọi sự vật mọi hiện tượng. Nói dễ hiểu hơn
là mâu thuẫn nội bộ và mâu thuẫn với
ngòai. Tỷ dụ: Thục đánh nhau với Đông Ngô
là mâu thuẫn với ngòai. Tập đoàn Tiêu
Chu Hoàng Hạo và ấu chúa của Thục chống nhau với
tập đoàn Khổng Minh là mâu thuẫn nội bộ Thục. Cả
hai mâu thuẫn nội bộ, mâu thuẫn với ngòai kết hợp
tạo thành ra những biến động chính trị. Một tỷ dụ
khác: Mâu thuẫn giữa tập đoàn chống Staline với
chính sách của Staline đã khiến cho đại hội C.S.
chuyển hướng chính sách đối ngọai vào con đường
sống chung hòa bình. Chính sách
đúng, đều là kết quả của nhận thức chính
xác những mâu thuẫn và giải quyết thỏa đáng.
Nhiệm vụ của người lãnh đạo là sớm phát hiện
và phân biệt những mâu thuẫn.
Mọi hình thế chính trị nào cũng vậy, trước mặt ta
cũng có ba lọai mâu thuẫn:
1) Mâu thuẫn giữa địch và ta.
2) Mâu thuẫn nội bộ ta.
3) Mâu thuẫn nội bộ địch.
Những mâu thuẫn trên hoàn toàn không
giống nhau về tính chất cho nên phương pháp giải
quyết hay hình thức đấu tranh cũng không giống nhau.
Thông thường thì mâu thuẫn giữa ta và địch
là mâu thuẫn có đối kháng, phương
pháp giải quyết và hình thức đấu tranh phải quyết
liệt không đội trời chung. Còn mâu thuẫn nội bộ
là mâu thuẫn không đối kháng, có thể
dùng phương pháp và hình thức đấu tranh
hòa bình để giải quyết.
Tuy nhiên không phải chỉ đơn giản như thế. Có nhiều
tình thế chính trị phức tạp nên phương pháp
giải quyết cũng như hình thức đấu tranh cũng trở nên phức
tạp.
Tỷ dụ sự liên hiệp kháng Nhật giữa Trung cộng và
Quốc Dân đảng Trung hoa. Trung cộng và Quốc Dân đảng
vốn dĩ là mâu thuẫn đối kháng tuyệt đối. Nhưng cả
hai đứng trước cuộc xâm lăng của Nhật vào Trung quốc
thì mâu thuẫn giữa hai đảng trở thành mâu
thuẫn phụ và mâu thuẫn giữa Nhật với hai đảng mới
là mâu thuẫn chính. Ngược lại cuộc cách mạng
tháng Mười tại Nga, cuộc chiến tranh Nga Đức không
làm giảm tính đối kháng quyết liệt của phe
Bôn-sê-vích với chế độ Tsar. Những vụ gây rối
loạn trong nước còn làm cho Nga thất trận với Đức một
cách nhục nhã. Vấn đề không phải là Cộng sản
Tàu yêu nước hơn Cộng sản Nga, mà là phương
pháp giải quyết khác nhau để cùng đưa lên
thắng lợi. Giải quyết mâu thuẫn hay đấu tranh chính trị ở
đây không đánh giá bằng đạo đức, bằng
giá trị luân lý, mà đánh giá
bằng hiệu quả. Trung cộng lý luận giá trị của liên
hiệp kháng Nhật như sau:
- Tưởng Giới Thạch tập trung quân đội để đánh Nhật, sẽ
không còn sức để cố tình tiêu diệt Cộng sản.
- Với tư cách kháng chiến giải phóng dân
tộc, Cộng sản sẽ thu hút được cảm tình của toàn
dân thứ nhất là phần tử trí thức.
- Do hợp tác Quốc Cộng, Cộng sản khả dĩ mở rộng tuyên
truyền và phát triển bằng phương thức hợp pháp
trên toàn quốc.
- Chiến tranh kháng Nhật đem lại cơ hội khoáng triển lực
lượng vũ trang.
Trong khi ở Nga Lénine đưa ra khẩu hiệu: Biến chiến tranh đế
quốc thành ra nhân dân vũ trang cướp chính
quyền từ tay vua quan quý tộc. Quyết liệt đấu tranh cho
hòa bình. Nga càng thua trận đảng
Bôn-sê-vích càng ra sức phá họai
bên trong để lật đổ chế độ Nga hoàng. Chiến tranh Nga Đức
là chiến tranh đế quốc, mâu thuẫn giữa hai đế quốc
đâm lợi cho cách mạng vô sản rất lớn.
Thòa hiệp của đảng Cộng sản với phe Tưởng Giới Thạch và
không thỏa hiệp với chính quyền Nga hoàng để chống
xâm lược chứng minh rằng tính mâu thuẫn là
quy luật chung nhưng có những tính riêng biệt của
mỗi hoàn cảnh. Bởi thế mỗi khi nói đến giải quyết
mâu thuẫn hay đấu tranh chính trị việc làm
hàng đầu là phải phân tích cụ thể một
hoàn cảnh chính trị cụ thể (l analyse concrète d
une situation concrète).
Ngòai ra mỗi phát triển của một tình thế
còn hàng lọat mối mâu thuẫn khác nữa
làm cho tình thế càng rắc rối. Tỷ dụ nước Trung
hoa sau cách mạng Tân hợi, xã hội có nhiều
mâu thuẫn phức tạp như mâu thuẫn giữa xã hội cũ
và tư tưởng mới, mâu thuẫn giữa đế quốc với dân
chúng, mâu thuẫn giữa các đế quốc trên đất
Trung quốc, mâu thuẫn giữa thành thị và nông
thôn, mâu thuẫn giữa người giàu và người
nghèo, mâu thuẫn trong nội bộ của phe cách mạng,
v.vv... Và mỗi mâu thuẫn lại mang tính chất đặc
biệt. Nếu không phân tích cụ thể từng hoàn
cảnh cụ thể, tất không nắm vững tình thế. Không nắm
vững tình thế thì không thể có sách
lược đúng.
Cao lên từng nữa còn phải đặt vấn đề mâu thuẫn với
quan niệm sau đây: Đối kháng và mâu thuẫn
hoàn toàn không giống nhau; khi một tình thế
chính trị đã ổn định thì đối kháng
tiêu diệt nhưng mâu thuẫn vẫn tồn tại.
Những mâu thuẫn tồn tại đó là gì?
Trong xã hội của chủ nghĩa xã hội vẫn có những
mâu thuẫn giữa lợi ích quốc gia, lợi ích chung với
lợi ích cá nhân, mâu thuẫn giữa người
lãnh đạo và người bị lãnh đạo, mâu thuẫn
giữa lối làm việc quan liêu cán bộ chính phủ
với nhân dân v.v...
Để giải quyết những mâu thuẫn không đối kháng người
ta thường dùng phương pháp hòa bình
là thuyết phục và giáo dục với công thức:
Đoàn kết - Phê bình - Đoàn kết.
Vấn đề sách lược
Sách lược là gì?
Cuốn sách Que faire viết: Sách lược là kế họach
có hệ thống với những nguyên tắc vững vàng được đem
ra kiên quyết thực hành. Sách lược của một đảng
là phương hướng, phương pháp, tính chất họat động
cùng hành vi chính trị của đảng đó.
Lénine căn cứ vào tình thế chính trị đương
thời đấu tranh của ông, mặc dầu sách lược mang muôn
hình vạn trạng, nhưng ông đã khái
quát vào hai lọai:
- Từ dưới lên trên gồm những quảng đại quần chúng,
bãi công, biểu tình, vũ trang bạo động, vũ trang uy
hiếp, bộ đội cách mạng, vũ trang nổi dậy.
- Từ trên xuống dưới là thành lập công khai
những xã đoàn công hội, nông hội, thương hội
để trực diện đấu tranh, lợi dụng tuyển cử để đấu tranh nghị hội, để
tham gia chính quyền.
Cũng theo Lénine thì muốn giành thắng cho
sách lược phải kiện toàn bốn công cụ chủ yếu của
đấu tranh chính trị là:
a) Huấn luyện giáo dục.
b) Tổ chức.
c) Tuyên truyền cổ động.
d) Khẩu hiệu đấu tranh chính trị.
Sách lược đấu tranh trong kỷ nguyên cách mạng
và quốc tế chính trị ngày nay chứa đựng một
ý nghĩa rất lớn. Nó bao gồm chính trị sách
lược và chính trị chiến lược.
Danh từ sách lược chính trị do Lénine sáng
tạo.
Danh từ chiến lược chính trị do Staline sáng tạo.
Đương nhiên danh từ chiến lược chính trị của Staline
phát nguyên từ sách lược chính trị của
Lénine và danh từ sách lược chính trị của
Lénine cũng phát nguyên từ những tư tưởng của Marx
và Engels. Nhưng trong văn phẩm của Marx và Engels chỉ
nói về sách lược mà thôi và
không hề đề ra danh từ chính trị sách lược. Đến như
chiến lược chính trị thì Marx, Engels không
nói tới bao giờ, ngoại trừ những luận văn về chiến tranh mới
thấy có hai chữ chiến lược, như vậy chiến lược trong tư tưởng
của Marx, Engels chỉ là chiến lược chiến tranh. Kinh qua bao
cuộc đấu tranh đến đời Staline thì danh từ chiến lược
chính trị mới được sáng tạo. Dĩ nhiên bất cứ sự
sáng tạo nào cũng do nhu yếu cấp thiết của hoàn
cảnh thực tiễn. Danh từ chiến lược chính trị nói được
lên đặc tính thời đại mà trong đó đấu tranh
không còn phân biệt giữa chiến tranh và
chính trị như trước kia nữa.
Trước kia mọi người đều cho rằng chiến lược thuộc phạm vi quân
sự. Quan niệm này không còn giá trị nữa,
hiện tại người ta đề cập đến chiến lược với sự bao quát cả
chính trị lẫn quân sự.
Trong đấu tranh bây giờ, khi luận về sách lược tức thị
là luận cùng một lúc cả sách lược
chính trị lẫn sách lược quân sự. Chính trị
trong nhu yếu mới đã hẳn nhiên là một lọai chiến
tranh. Những cuộc bạo động ám sát, tuần hành thị
uy, bãi công bãi thị, du kích chiến
v.v...đòi hỏi sách lược chính trị phải đặt
trên luật tắc chiến lược của chiến tranh. Nếu đem chiến tranh
và chính trị tách rời nhau sẽ dễ dàng bị
rơi vào những hành động thiếu chính xác
trong cuộc đấu tranh phức tạp ngày nay.
Những điều không thể thiếu khi xây dựng sách lược
Tưởng Giới Thạch đem quân vây Thụy kim dẹp tan Cộng sản,
Cộng sản trước sức tấn công của quân đội Tưởng đã
chạy như chuột, vượt hàng vạn dặm để đi ngược lên miền
Bắc. Trận ấy Tưởng Giới Thạch toàn thắng. Nhưng nó tạo
nên một mặt khác của chính trị là trong
toàn trình lưu thoán của Cộng sản, nhờ sự
lãnh đạo đúng nên nó đã biến
thành cuộc vạn lý trường chinh, bởi vì Cộng sản
chạy đến đâu là gieo rắc chủ nghĩa đến đó, mỗi khi
dừng nơi nào Cộng sản lập tức cho thi hành chính
sách cải cách ruộng đất để phá uy thế chính
trị của phe Quốc Dân đảng, khi quân Quốc Dân đảng đến
đánh đuổi Cộng sản lại chạy nhưng chính sách của
họ đã tạo thành mầm mống chống đối của quần chúng
đối với chính quyền phe Tưởng.
Napoléon xâm lược Nga, Napoléon bị đánh bại
nhưng xã hội Nga đã chịu một thay đổi lớn lao do những tư
tưởng cách mạng Pháp theo đoàn quân
Napoléon vào đất Nga.
Bởi lẽ đó nên khi xây dựng một sách lược,
người ta không thể quên tính phát triển của
sự việc qua những nguyên tắc biện chứng pháp kể sau
đây để quan sát và nhận thức tình thế.
1) Thái độ hoàn toàn khách quan mà
đo tính quan hệ và vị thế của hết thảy mọi lực lượng
chính trị trong xã hội. Đo tính từng giai đoạn
phát triển khách quan của xã hội ấy. Đo
tính quan hệ giữa xã hội này với xã hội
khác.
2) Quan sát các lực lượng chính trị phải căn cứ
vào khả năng động của mỗi lực lượng. Không được căn cứ
vào tình trạng tĩnh chỉ của mỗi lực lượng mà
rút ra những nhận thức lạc quan một cách chủ quan.
3) Quan sát vận động không thể xuất phát từ
quá khứ mà xuất phát từ tương lai.
4) Phân biệt được toàn thể với cục bộ.
5) Phân biệt được điểm chính và điểm phụ.
6) Nắm giữ được vận động để vận dụng chính sách những
biến chuyển tương phản tương thành hay tương thành tương
phản của mỗi biến động chính trị.
Sáu yêu cầu của sách lược
Thứ nhất. -- Trong cuốn Tả phái Ấu trĩ bệnh Lénine viết:
Một quân đội khi lâm chiến mà chưa sẵn sàng
để học hiểu phương pháp, thủ đoạn, vũ khí của địch
nhân thì quân đội đó không thể thắng
được.
Chính trị cũng thế, mỗi sách lược đều mang hai tầng
ý nghĩa:
a) Nhận thức, học hỏi tất cả những thủ đoạn và sách lược
của địch.
b) Đánh những đòn chí mạng vào đối phương.
Thứ hai. -- Phải biết xử dụng giỏi giang tất cả mọi sách lược.
Trên chính trị, trong tương lai có những điều kiện
không giống nhau sẽ đặt ta vào những tình thế
hoàn toàn khác biệt, thủ đoạn hay sách lược
này không thể thích dụng cho một tình thế
khác. Nếu không biết chuyển, di, biến, động tất sẽ bị thất
bại. Tỷ dụ có lúc phải dùng thủ đoạn đấu tranh
công khai, hợp pháp, có lúc phải dùng
thủ đoạn đấu tranh bí mật, bất hợp pháp và
có lúc phải phối hợp thủ đoạn công khai, hợp
pháp với đấu tranh bí mật bất hợp pháp.
Thứ ba. -- Một mặt xử dụng giỏi giang tất cả mọi sách lược, mọi
thủ đoạn, mặt khác lại phải biết những khâu chính
yếu và trọng điểm. Sự kiện chính trị rất phức tạp
và rối loạn buộc ta phải tìm ra đầu mối, tìm ra
khâu chính yếu, tìm ra trọng điểm. Tỷ dụ: Năm 1917
Lénine đề ra trọng điểm chính trị là thóat
ly chiến tranh, những năm 1919-20 thì trọng điểm chính
trị là vũ trang tự vệ và đến năm 1921 Lénine đặt
trọng điểm chính trị là thóai rút có
trật tự.
Thứ bốn. -- Mọi sách lược, mọi thủ đoạn đều căn cứ trên
nhu yếu của hoàn cảnh hiện thực. Đấu tranh là đối diện
với những biến thiên của cục diện xã hội, đối đầu với
hoàn cảnh cụ thể cho nên sự vận dụng sách lược, vận
dụng thủ đoạn đều phải căn cứ trên quan hệ thực lực. Thay đổi
sách lược, thay đổi thủ đoạn cũng căn cứ trên sự chuyển di
của những quan hệ thực lực ấy.
Thứ năm. -- Lợi dụng nhược điểm của địch. Nhược điểm quan trọng nhất
trên chính trị là sự xâu xé nội bộ,
và mâu thuẫn hàng ngũ. Lénine viết: Muốn
chiến thắng một lực lượng mạnh hơn, dĩ nhiên chúng ta phải
hết sức mở rộng lực lượng của ta, phải xem xét từng chi tiết nhỏ
nhất, phải phòng vệ chu mật. Nhưng cần thiết hơn nữa là
phải chộp thật nhanh cơ hội chia rẽ của địch, phải tìm
cách phát hiện rồi khoét sâu mâu thuẫn
của địch.
Thứ sáu. -- Trong nguy hiểm, trong hy sinh học tập và
tôi luyện sách lược, bất cứ phương thức đấu tranh
nào cũng đều dẫn đến những hy sinh và nguy hiểm mới, đều
bị đe dọa bị phá họai bởi sự thiếu chuẩn bị và thiếu tổ
chức. Bởi vậy luôn luôn nên đặt vấn đề học tập
và tôi luyện sách lược trong cơn nguy hiểm
và hy sinh. Mỗi lần gặp gãy đổ là mỗi lần phải
xét lại và biến đổi thủ đoạn.Nếu như không biết
tôi luyện trong máu, trong lửa thì không thể
có năng lực nắm được việc thực hành bạo động. Một chiến
sỹ hy sinh là để cho trăm chiến sỹ tiến bộ.
Bạo động
Hãy dùng mắt đối mắt, răng đối răng. Bạo động là
kết quả tự nhiên của những đấu tranh chính trị. Nhưng
trong lịch sử thường thấy rất nhiều vụ bạo động chẳng đưa đến kết quả
gì ngòai chết chóc. Cho nên nói đến
bạo động không phải là đem bất bạo động vào thay
thế mà cần là nói phương pháp của bạo động,
tổ chức của bạo động.
Cần nhận định bạo động như thế nào?
A) Phân biệt cá nhân bạo động và quần
chúng bạo động.
B) Phân biệt bạo động với khủng bố.
Đọc truyện kiếm hiệp, người ta thấy những hành động giết bọn
tham quan ô lại do các tay nghĩa hiệp thi hành. Đọc
Zoro, người ta thấy những hành động cứu khốn phò nguy của
hiệp sỹ Zoro. Đấy cũng là những hành vi bạo động, nhưng
những hành vi này chứa đựng rất ít chính
trị tính.
Đọc Đông Chu liệt quốc, hồi Kinh Kha sang Tần để hành
thích Tần vương, Yên Thái tử Đan cùng ba
ngàn người tiễn đưa Kinh Kha bên bờ sông Dịch.
Đó là hành vi bạo động hoàn toàn
chứa đựng chính trị tính nhưng là chính trị
giữa Yên Thái tử và Tần Vương.
Đọc Tam Quốc Chí, có giặc khăn vàng nổi lên
khả dĩ gọi là quần chúng bạo động chống chính
quyền Đông Hán. Đọc sử Pháp có vụ cướp ngục
Bastille, đó là hành vi bạo động của quần
chúng. Vậy có thể nói bạo động trong đấu tranh
chính trị không phải là có những hành
vi Zoro hay thích khách trong các truyện kiếm hiệp
Tây hoặc trả ơn trả oán như Kinh Kha. Bạo động trong đấu
tranh chính trị chỉ có một mục tiêu duy nhất
làm yếu chính quyền thống trị và cướp đọat thống
trị quyền.
Lấy một trường hợp điển hình, vụ mưu sát Tsar
hoàng Alexandre đệ Nhị. Kể từ mùa thu 1879, tất cả họat
động của phe cách mạng Alexandre II(?). Trong vòng hai
năm trời, có tới gần một trăm mưu toan, cuối cùng
Alexandre II mới chết. Tiếp sau đó hàng ngàn vụ
khủng bố khác. Tuy nhiên chính quyền chuyên
chế quân chủ Nga vẫn chẳng nao núng. Chính
sách khủng bố chỉ có tác dụng rất hạn chế
không đủ làm cho chế độ sụp đổ. Ngược lại phe cách
mạng để đạt đến những kết quả hạn chế đó cũng phải trả bằng một
giá rất đắt. Rút kinh nghiệm, Lénine đã
không chấp nhận bạo động như một thứ chính sách
khủng bố, ông nói: Bạo động khác hẳn sự khủng bố
cá nhân. Cá nhân khủng bố chỉ là sản
phẩm của những phần tử trí thức yếu ớt không biết đấu
tranh lâu dài và cương quyết. Hiện tại bạo động
là kết hợp, tổ chức đông đảo quần chúng để tiến
hành động tác quân sự. Bạo động từ nay không
còn mang những hình ảnh liều mạng đâm chém,
hay bắn giết để thỏa lòng căm phẫn nữa. Từ nay bạo động
là kế họach quân sự giữa hai đội ngũ.
Trong lịch sử có rất nhiều vụ bạo động bị đàn áp
như: Vụ Spartacus, vụ Pugatchev, vụ Nghĩa Hòa Đoàn, Bạch
Liên Giáo, Hồng Cân, Hoàng Cân v.v...
tuy có nhiều nguyên nhân khác nhau và
điều kiện lịch sữ khác nhau, nhưng vụ nào cũng có
một nguyên nhân chính là thiếu phương
pháp.
Với cái vốn học vấn về lịch sử rộng lớn nên Marx và
Engels là hai người đầu tiên đã đề ra một
cách chu đáo vấn đề phương pháp bạo động. Đại
khái phương pháp ấy như sau:
1) Trước hết phải nhận bạo động là một nghệ thuật. Như chiến
tranh nó phải được thi hành cùng với sự tuân
thủ triệt để một số nguyên tắc, nếu sơ hở sẽ bị tiêu diệt.
2) Bạo động là việc cực hệ trọng, cho nên khi đã
phát khởi bạo động là phải có quyết tâm sắt
đá tiến tới cùng. Nếu chưa đủ quyết tâm đó
thì không được phát khởi bạo động. Tại sao? Bởi
vì bạo động bao giờ cũng bị đặt trước một phương trình
biến đổi đầy nguy hiểm, không thể nhất định biết trước sẽ tiến
đến đâu.
3) Phải tụ tập được một lực lượng chống đối với địch càng lớn
càng tốt. Lực lượng nhỏ yếu, vô kỷ luật, vô tổ chức
chỉ làm mồi ngon cho địch tiêu diệt.
4) Chỉ có tấn công không có phòng thủ.
Một khi bạo động đã được phát khởi rồi thì chỉ
còn nước tiến là cùng, phòng thủ là
con đường chết của bạo động.
5) Thừa lúc địch không chuẩn bị mà đánh bất
thần. Nghĩa là không để thì giờ cho địch có
thể tập trung quân về bảo vệ chính quyền.
6) Mỗi ngày giành thêm mỗi thắng mới. Thiếu sự
thắng lợi mỗi ngày tinh thần phe bạo động rất dễ suy sụp.
7) Tranh thủ bằng mọi cách những phần tử giao động và do
dự. Khi bạo động phát khởi, số đông đợi chờ kẻ chiến thắng
mà ngã theo, vậy phải làm thế nào cho ta
có bộ mặt kẻ chiến thắng đó.
Dũng cảm là điều kiện quan trọng nhất. Lúc
bạo động chỉ có một điều phải theo đó là
dám làm, dám làm và dám
làm.
Bốn khả năng
Khái quát nghệ thuật đấu tranh chính trị người ta
có thể đưa ra bốn điểm chính yếu:
a) Khả năng làm việc bên cạnh quần chúng
Thời đại bây giờ là thời đại của quần chúng đấu
tranh. Thời kỳ đấu tranh đan thuần giữa các chính phủ,
giữa các quân đội, giữa các tướng lãnh, giữa
các giai cấp đã qua rồi. Ngày nay, bất luận
chính phủ, quân đội, tướng lãnh, chính đảng
hay giai cấp nếu đấu tranh phải có cơ sở quần chúng
nhân dân rộng lớn.
Để làm tốt, làm giỏi bên cạnh quần chúng
thì việc phải làm phù hợp với ý thức
và nguyện vọng của số đông. Hãy dùng đủ mọi
phương pháp, phương tiện để hiểu quần chúng, học quần
chúng và lãnh đạo quần chúng. Hãy
chú ý đến việc đào tạo cán bộ ngay trong
lực lượng quần chúng.
b) Khả năng hợp tán với những đồng minh chính trị
Không bao giờ làm việc cô lập. Đấu tranh
chính trị là chứng tỏ năng lực xây dựng liên
tục những trận tuyến, biết sát cánh làm việc với
hết thảy những đồng chí, những bạn đường, những tập thể
và đảng phái đồng minh.
c) Khả năng đưa ra một hình thức đấu tranh thích hợp
Mọi hình thức đấu tranh đều phải thích hợp với
hoàn cảnh và điều kiện thực tiễn và phát
triển khả năng thích hợp đó đến mức có thể biến
đổi rất nhanh mỗi khi cấp thời. Tuyệt đối không ngồi chờ quả
rụng. Đấu tranh phải làm sức nóng để ấp cho gà con
nở. Dù gặp trường hợp mà điều kiện không mấy thuận
lợi cũng phải cố gắng tích cực họat động, vì chỉ
có sự tích cực họat động mới thay đổi điều kiện từ
khó khăn eo hẹp đến dễ dàng rộng rãi. Ngay cả
lúc vận đang đi xuống, chớ khoanh tay mà nhìn,
hãy phấn đấu đặt nền móng cho thắng lợi tương lai.
Phải nắm vững nghệ thuật tấn công cũng như nghệ thuật
thóai rút. Phải nắm vững nghệ thuật tiêu diệt cũng
như nghệ thuật thỏa hiệp. Nên hiểu rằng chiến thắng bao giờ cũng
là kết quả của cả hai mặt tấn công và thóai
rút. Tấn công chính xác, thóai
rút hợp thời, không thóai rút kiểu chạy
dài, không tấn công kiểu liều mạng (Il s agit de
comprende que l on ne peut vaincre, sans avoir appris au
préalable à attaquer convenablement et à se
retirer convenablement).
d) Khả năng phát hiện được những khâu chính của
dây xích (principal maillon de la chaine).
Phát hiện những khâu chính của dây
xích là tìm thấy trong sự biến động phức tạp những
vấn đề chính trị quan trọng nhất để tập trung lực lượng
vào nhiệm vụ chính yếu.
Nói về đảng
Đấu tranh chính trị trước hết là đấu tranh tổ chức.
Không tổ chức không thể gọi là đấu tranh
chính trị được. Những người giác đấu (gladiateur) nếu
không kết hợp vào chủ trương của Spartacus thì cuộc
vùng dậy không thể xảy đến, họ mãi mãi chỉ
là những tên giác đấu mua vui cho giai cấp thống
trị của đế quốc La Mã. Những đám thợ thuyền tranh đấu lẻ
tẻ thì tranh đấu của họ có tính cách tranh
chấp kinh tế của đời sống hàng ngày, nhưng khi kết tụ lại
thành một lực lượng thợ thuyền rộng lớn trên toàn
quốc thì mới thật là đấu tranh chính trị. Trong
đấu tranh chính trị có cả muôn ngàn
hình thức từ việc tham gia bầu cử, đến chiếm đọat nghị trường.
Từ bãi công thị uy đến bạo động cách mạng cướp
chính quyền. Để hoàn thành những việc đó
phải có tổ chức.
Không một cuộc vận động chính trị nào có thể
hoàn thành nếu không có một tổ chức
lãnh đạo vững vàng để duy trì sự liên tục
đấu tranh. Không có một đảng sắt thép được
tôi luyện trong đấu tranh được lòng tin cậy của quần
chúng và giới lãnh đạo quần chúng
thì không thể đấu tranh chính trị.
Một đảng như thế có ba đặc tính:
1) Đi tiền phong (tiến bộ dũng cảm).
2) Quyết liệt (không làm nửa chừng).
3) Có một ý thức hệ kiện toàn (lý thuyết
đấu tranh).
Đối kháng với tổ chức thì phải biết vận dụng tổ chức.
Đảng tức là thủ đoạn vận dụng tổ chức cao nhất. Phê
bình về chiến tranh Quốc Cộng ở Trung quốc, các phê
bình gia cho rằng sở dĩ Cộng sản thắng là nhờ ba
pháp bảo: Sách lược thống nhất chiến tuyến, đấu tranh vũ
trang và kiến thiết đảng. Trong ba pháp bảo ấy thì
kiến thiết đảng là chủ yếu.
Tất cả mọi mục đích thuộc xã hội tính hay văn
hóa tính, tất cả những công việc kinh tế,
chính trị, tất cả những chủ nghĩa, tôn chỉ, chính
sách, phương châm hay ý đồ thực hiện được hay
không đều nhờ tổ chức. Chỉ có tổ chức mới đem lại hiệu
quả. Làm việc có tổ chức là thế nào?
Là phối hợp chính xác (sau khi đã
phân công hợp lý), là cấu thông
ý chí (làm cho mỗi người cùng một
lòng nhất tâm nhất đức) là đưa ra quyết định chung,
là gây dựng một quyền uy cho công việc.
Muốn giải quyết những đòi hỏi trên, nhất là những
đòi hỏi ấy trong đấu tranh chính trị thì chỉ
có đảng đầy đủ khả năng đáp ứng hơn hết.
Đảo chính
Hiện tượng chính trị dị thường phức tạp, nhưng nếu phân
tích kỹ càng thì ta khả dĩ nói được rằng:
Từ cổ xưa đến bây giờ hết thảy mọi hiện tượng chính trị
đều có chung một đặc chất, đó là Thống trị. Thống
trị là một phía ra mệnh lệnh và một phía
phục tùng. Muốn sự ra lệnh được phục tùng thì phải
có cưỡng chế. Cho nên thống trị gọi là quan hệ
cưỡng chế giữa mệnh lệnh và phục tùng.
Làm sao mà quan hệ cưỡng chế ấy phát sinh ra được?
Lòai người sống trong xã hội đều có quan hệ
liên đới, nhưng đồng thời cũng chống đối lẫn nhau. Quan hệ
liên đới đem đến cho chính trị những công việc của
chúng nhân. Sự chống đối đem lại cho chính trị
nhiệm vụ thống nhất hòa giải, hòa bình. Muốn thống
nhất ý kiến, muốn dẹp tan tranh chấp, chính trị phải đọat
được quyền cưỡng chế để buộc mọi người phục tùng. Quyền cưỡng
chế thể hiện vào một guồng máy chính trị gọi
là nhà nước (Etat).
Như thế chứng tỏ rằng chính trị là sự xử dụng quyền lực
để cưỡng chế tiêu diệt hay ổn định những phân hóa
đối lập trong dân chúng mà duy trì
hòa bình xã hội. Cướp chính quyền tức
là cướp quyền cưỡng chế nói trên. Chiến tranh,
cách mạng và đảo chính là những thủ đoạn
khác nhau tùy theo hoàn cảnh để cướp đọat
chính quyền. Cách mạng và đảo chính
là hai thủ đoạn cướp chính quyền.
Cuộc cách mạng nào cũng phải tiến đến đảo chính.
Tất cả mọi cuộc đảo chính không nhất thiết là sẽ
có cách mạng.
Vậy thì kỹ thuật cướp chính quyền là kỹ thuật đảo
chính (coup d Etat).
Trong tự điển Littré giảng về nghĩa danh từ Coup d Etat như sau:
Le coup d Etat est une action qui décide de quelque chose d
important pour le bien d Etat.
(Đảo chính là một hành động có tính
quyết định một điều quan trọng cho lợi ích quốc gia).
Lời giảng này mơ hồ không xác thực khi
Littré nhấn mạnh vào hai chữ lợi ích. Những sự
kiện chính trị rắc rối ngày nay chứng minh không
phải chỉ có lợi ích. Bởi thế tốt hơn hãy hiểu đảo
chính như một kỹ thuật để đọat thủ chính quyền.
Đảo chính là chuyện thường thấy trong lịch sử. Chỉ đọc
trong Tam Quốc người ta tìm thấy nhiều vụ đảo chính, tạm
kể sơ lược dưới đây:
Vụ thứ nhất. -- Hà Tiến vào cung vây bắt Kiển Thạc
và thập họan quan.
Vụ thứ hai.-- Bọn họan quan Trương Nhượng phục binh giết Hà
Tiến.
Vụ thứ ba. -- Ngô Khương và Viên Thiệu tấn
công giết bọn họan quan Trương Nhượng.
Vụ thứ bốn. -- Đổng Trác bỏ Thiếu Đế lập Trần Lưu Vương.
Vụ thứ năm. -- Tào Tháo và Viên Thiệu khởi
binh đánh Đổng Trác buộc Đổng Trác phải
thiên đô.
Vụ thứ sáu. -- Vương Tư Đồ dùng kế liên hòan
giết Đổng Trác.
Vụ thứ bảy. -- Lý Thôi Quách Dĩ đem binh về bắt
Vương Doãn.
Vụ thứ tám. -- Chiếu chỉ đai áo và Tào
Tháo giết Đổng Phi.
Vụ thứ chín. -- Bàng Thống cùng Lưu Bị cướp
chính quyền Tây Thục.
Vụ thứ mười. -- Tư Mã Ý lật Tào Sảng cướp
ngôi nhà Ngụy.
Vụ thứ mười một. -- Binh biến Ngụy Diên.
Vụ thứ mười hai.-- Hòang Hạo dìm Khương Duy.
Nhìn những vụ đảo chính trong Tam Quốc, người ta thấy
nhiều sắc thái khác biệt nhau. Đảo chính để cướp
ngôi, đảo chính để phế lập, đảo chính chiếm đất
làm vốn chính trị, đảo chính vì mâu
thuẫn giữa các thế lực mới cũ trong triều v.v... Sở dĩ
khác nhau vì nó cần đáp ứng với nhu yếu của
cuộc thế chính trị, nó tùy thuộc tâm
lý con người và tùy thuộc những điều kiện
cùng khả năng hành động.
Những lọai hình đảo chính (type)
Đảo chính hay bất cứ hiện tượng chính trị nào
không bao giờ có thể hòan tòan giống nhau,
vì nó bị chi phối bởi những điều kiện khác biệt
hẳn như thời gian lịch sử, không gian, tình thế, chế độ
và trình độ xã hội, mục tiêu chính
trị và những vị thế của những quyền lực đấu tranh.
Nhưng chẳng phải vì vậy mà không thể nói đến
vấn đề lọai hình của hiện tượng đảo chính. Nếu
cách đây hơn hai ngàn năm có Pisistrate ở Hy
lạp đem một đòan người vũ trang gậy gộc vào thành
Athènes cướp chính quyền từ tay Solon và bọn
hào phú quý tộc thì ngày nay cũng
có Mussolini với đòan sơ mi đen tiến vào
thành Rome.
Có thể tạm phân những lọai hình đảo chính
thấy trong lịch sử như dưới đây:
- Đảo chính thâm cung.
(Giết chóc bằng đầu độc, bằng ám sát trong
hòang cung để tranh đọat quyền hành như quyền thừa kế,
quyền tôn thất ngọai thích v.v... Tỉ dụ hòang hậu
Agrippine Pasyratis trong cổ sử La mã và Ba tư, Võ
Tắc Thiên, Tây Thái hậu ở Trung hoa, Cù thị
và Lữ Gia ở Việt nam v.v...
- Đảo chính Catalinaire.
(Kết hợp các lực lượng trong chế độ để chống lại chính
quyền, kết hợp đấu tranh nghị trường với quần chúng để suy đảo
chính quyền (Catalina chống Ciceron).
- Đảo chính quân đội Césarisme.
(Tình thế hỗn lọan, một ông lớn có uy tín,
có quân quyền về lật chính phủ trung ương đặt chế
độ khác.)
- Đảo chính để chống lại một cường thần mà thế lực đang
lên quá mạnh (Vua Louis 14 lật thế lực Fouquet).
- Đảo chính Cromwell.
(Vua Charles I lạm dụng quyền hành, Cromwell lãnh đạo một
số lãnh chúa đem quân tấn công Luân
đôn bắt vua Charles I đem xử chém).
- Đảo chính Bonapartisme.
(Kết hợp đấu tranh nghị hội với áp lực quân đội để
tiêu diệt một tình trạng chính trị quá
phân tán - Napoléon đệ Nhất ngày 19,
Brumaire - Napoléon đệ Tam ngày 2 Déceembre 1851).
- Pronunciamientos.
(Quân đội đảo chính, cầm đầu bởi bộ máy junta do
một số sỹ quan hợp lại thường thấy ở vùng Nam Mỹ).
- Đảo chính bằng sự cướp chính quyền theo phương thức hợp
pháp. Hitler được Hindenburg mời làm thủ tướng, Mussolini
được vua Ý thỏa thuận cho lập nội các.
- Đảo chính quân nhân cách mạng.
Mustapha Kémal tại Thổ nhĩ kỳ.
Néguib và Nasser tại Ai cập.
- Đảo chính khởi nghĩa đưa đến cách mạng.
Tháng Mười 1917 tại Nga.
- Đảo chính trấn áp khởi nghĩa cách mạng
Franco tại Espagne năm 1936.
Kỹ thuận đảo chính của Trotsky
Trotsky là người họach định ra kế họach đảo chính
và đưa cách mạng tháng Mười của Nga đến
thành công.
Ngày 24, giữa thanh thiên bạch nhật, Trotsky hạ lệnh tấn
công. Chưa đầy bốn tiếng đồng hồ tất cả các cơ sở kỹ thuật
đã bị vệ binh đỏ chiếm xong trong khi Kérensky vẫn giữ
được hòan tòan mọi cơ sở hành chính. Những
cơ sở kỹ thuật như giao thông, điện tín, các
nhà máy thất thủ đã làm tê liệt
các cơ cấu hành chính. Bị cú bất ngờ
đó, nội các Kérensky chạy ẩn vào lâu
đài mùa Đông và bị cô lập. Tình
hình lúc ấy thật là lạ. Nội các
Kérensky vẫn còn giữ chính quyền nhưng không
cai trị được nữa. Đường xe lửa, trung tâm điện lực, kho than, kho
lúa, kho dầu, v.v... hết thảy đều rơi vào tay phe
Bôn-sê-vích. Dân chúng ùa ra
đường, sự rối trật tự ghê gớm làm cho bộ máy
nhà nước của Kérensky tê liệt hẳn. Trận quyết định
thắng lợi về tay Bôn-sê-vích. Thắng lợi đó
phần lớn nhờ tư tưởng kỹ thuật của Trotsky.
Trong một lần đàm thọai với Lénine về cuộc khởi nghĩa,
Lénine nói: Cuộc khởi nghĩa của chúng ta nhất định
không thể chỉ dựa trên âm mưu của một nhóm
người, chúng ta phải đặt nó lên cơ sở của một giai
cấp tiền phong. Cuộc khởi nghĩa phải dựa trên đà
cách mạng của tòan nhân dân. Cuộc khởi nghĩa
phải nổ ra lúc cao trào cách mạng lên tột
đỉnh.
Trotsky cười nói:
Hay lắm. Nhưng nên nhớ rằng tòan nhân dân quả
là quá thừa đối với cuộc khởi nghĩa. Theo tôi, điều
cần của chúng ta là một nhóm người quyết
tâm, lạnh lùng và bạo động đã được huấn
luyện kỹ càng về kỹ thuật khởi nghĩa. Những người được
huấn luyện sẽ chia từng tóan nhỏ đến chiếm ngay đô thị
bằng hết các điểm chiến lược thứ nhất là những trung
tâm kỹ thuật. Chúng ta phải khởi nghĩa theo cái
nghĩa của một cuộc đảo chính. Sự huy động ồn ào sẽ biến
khởi nghĩa thành chiến tranh mất.
Và Trotsky tiếp:
Điều quan trọng cho tất cả mọi Catalinaires trong lịch sử là đập
mạnh bất ngờ không cho địch kéo dài thời gian. Tổ
chức khởi nghĩa là bộ máy đảo chính lạnh
lùng và lặng lẽ. Bộ máy ấy điều khiển bởi
các tay chuyên viên.
Giọng thật thân mật với Lénine, Trotsky tiếp thêm:
Chiến lược của đồng chí phức tạp và đòi hỏi nhiều
cơ hội tốt quá, còn với tôi khởi nghĩa không
cần nhiều như vậy, chỉ cần bộ máy tinh vi, hành động mau
lẹ như trái đấm mạnh vào bụng kẻ tê liệt. Thế
thôi!
Cách mạng và thủ đọan
Cách mạng là một biến động chính trị lớn lao, xẩy
ra khi mà chế độ, tổ chức, càng ngày càng
tỏ ra áp bách dân chúng, càng
ngày càng bất lực trong việc giải quyết sự sinh sống của
dân.
Tuy nhiên cách mạng không tự nhiên xảy ra,
phải do người tranh đấu.
Tranh đấu không chỉ nhờ chính nghĩa, thuận lòng
trời hợp lòng người mà phải có thủ đọan mới thắng.
Thủ đọan quan trọng nhất của cách mạng để chống với chính
quyền áp bách là thủ đọan đối phó với tổ
chức áp bách, ngược lại chính quyền áp
bách có thể tiêu diệt được kẻ phản kháng
mình hay không là tùy thuộc tổ chức
áp bách có hiệu quả đến mức độ nào.
Tổ chức áp bách đó là lực lượng cảnh
sát chính trị (la police politique).
Trong tập Hồi ký, Fouché viết:
Bất cứ chính phủ nào muốn an tòan vững chãi
thì trước hết phải có một tổ chức mật vụ hết sức tinh
tường với những người chỉ huy nó thật sáng suốt. Nhiệm vụ
của tổ chức cảnh sát cấp cao ấy rất lớn. Có lúc
nó nhúng tay vào tất cả những âm mưu của
chính quyền đại nghị và ném vào tay những
phe phái các lọai "vũ khí" cần thiết để các
phe phái chống lẫn nhau mà điều khiển chế độ. Có
lúc nó quyết liệt ủng hộ một chế độ độc đóan.
Cái khó khăn là hết thảy mọi hành động đều
tiến hành trong bóng tối, trong bí mật đồng thời
phải khám phá mọi dấu vết của chống đối. Ở mọi
tình thế người lãnh đạo giỏi là người xử dụng được
màng lưới mật vụ kia. Phần tôi, bằng tiền bạc đi
xuyên qua những tội lỗi đầy rẫy của đô thị, tôi
đã biến cả thành phố Ba lê là mật vụ của
tôi...
Cũng bởi những lý do trên mà vào những năm
1904-1907, cuộc đấu trí giữa tổ chức mật vụ Okhrana với
phe cách mạng diễn ra rất khốc liệt và phe cách
mạng đã rút được khá nhiều kinh nghiệm cần thiết
cho đấu tranh bóng tối sau này.
Để chống lại tổ chức Okhrana, phe cách mạng thành lập tổ
chức Naraidnaia Volia và sau đó là tổ chức O.C.
(Organisation de Combat).
Ngày 15 tháng 7-1904, Guerchouni, người cầm đầu tổ chức
O.C. hạ lệnh ám sát bộ trưởng nội vụ Plehve và
khâm sai Bogdanovitch, các người này đều là
những tay cự phách của tổ chức Okhrana.
Ngược lại Okhrana cũng trả lại tổ chức O.C. những đòn khủng
khiếp, hết tổ này đến tổ khác bị khám phá.
Trong văn khố của Okhrana người ta thấy hàng vạn tấm "fiches"
ghi rõ tông tích lý lịch gia thế bạn hữu của
hầu hết anh em cách mạng. Từ đó những mưu mô, những
cạm bẫy được tung ra. Cuối cùng do thế lực tiền bạc, do phương
pháp làm việc chặt chẽ Okhrana tòan thắng
và cách mạng chịu một khỏang thời gian thóai
trào cho tới khi cuộc đại chiến 1914-1918, chế độ Tsar mỗi
ngày thêm suy vì chia rẽ nội bộ, tổ chức Okhrana
không còn đắc lực như trước thì chế độ Tsar sụp đổ.
Cái nguy hiểm của Okhrana đối với phe cách mạng là
những kẻ điều khiển nó đã rất đắc lực trong việc biến
những người cách mạng thành mật vụ của họ, biến nhiệt
tình cách mạng thành sự thích thú
tiêu diệt cách mạng, thích thú nguy hiểm đi
hàng đôi (Appetit de duplicité).
Hồi ấy người ta đọc thấy trong nhiều tấm fiche của Okhrana những
dòng tương tự dưới đây:
"Okladski tên cách mạng thiếu đức tính cứng rắn,
sống đói rách vô gia đình, có nhiều
quan hệ đáng chú ý. Có thể dùng y
mà không bắt y phải bỏ lý tưởng chính trị,
chỉ cần y bằng lòng nhận vài sứ mạng để khỏi bị kết
án tử."
Ít lâu sau Okladski vượt ngục nhờ bàn tay bí
mật của Okhrana, cùng với mấy người khác nữa, số người
này Okhrana dùng để che đậy cho việc vượt ngục của
Okladski có lý. Qua bốn năm cái fiche của Okladski
được viết thêm:
Thật là một agent có biệt tài. Rất thích,
rất lanh lợi lại rất khá về văn hóa. Y biết khắp mặt
trong tổ chức Narodnaia Volia. Nhờ y mà chúng ta
đã bắt được nhiều vụ quan trọng. Y say sưa với công việc
tìm tòi. Với số lương 230 rúp hàng
tháng so với các người khác đã quá
lớn, nhưng thành tích của y đáng được tưởng thưởng
hơn như vậy.
Bao vụ na ná đã làm cho lực lượng chống đối yếu
dần đến nỗi gần như tiêu trầm nếu không có cuộc Thế
chiến I bùng nổ.
Chương chín
Chiến tranh
Chiến tranh là một trong
những
hình thức đấu tranh cao nhất để
ổn định những mâu thuẫn giữa
các giai cấp, các quốc gia và các
thế lực chính trị.
M.T.Đ.
Chính trị xây dựng trên tương
quan lực lượng. Những tư tưởng
không mùi vị chiến đấu, sợ chiến
tranh, lẩn tránh ánh sáng của
lưỡi lê đều không phải là những
tư tưởng có khả năng điều khiển
xã hội.
PROUDHON
Chiến tranh
Chiến tranh là kết quả của chính trị đã đến một
giai đọan mà tính quyết liệt nhiều lên, tính
thỏa hiệp bớt đi, đấu tranh chính trị đã đi vào
giai đọan vũ trang để thực hiện một đường lối đổ máu.
Ngày nay chiến tranh là một hình thức đấu tranh
cao nhất, tính chất đấu tranh của nó mỗi ngày mỗi
tăng. Nguời khám phá ra tính chất đấu tranh trong
chiến tranh và có tư tưởng hệ thống đầu tiên
là một quân sự gia người Đức, ông Carl Von
Clausewitz với cuốn sách De la guerre. Ông viết:
- Chiến tranh không có cứu cánh riêng của
nó, chiến thắng quân sự không có mục
đích tự nó. Sự giao thương giữa các nước vẫn tiếp
tục đều đều mặc dầu thùng thuốc súng đã nổ.
- Chiến tranh không những là một hành vi
chính trị, mà còn là một công cụ của
chính trị, một sự tiếp nối các quan hệ chính trị,
và thực hiện những đường lối chính trị bằng một cung
cách khác.
- Chiến tranh phải khắng khít gắn liền với những mưu đồ
chính trị và chính trị phải phù hợp với
những phương tiện chiến tranh sẵn có.
- Cái yếu tố đam mê xúc động của chiến tranh
là để giành cho dân chúng, yếu tố may rủi
thắng bại là dành cho vị tướng chỉ huy, còn yếu tố
trí thức chính trị là của chính phủ,
và chính yếu tố này mới điều khiển tòan bộ
chiến tranh.
- Quân đội bao giờ cũng là một tổ chức xã hội.
Những hiện tượng của nhiều cuộc chiến tranh "napoléonienne"
trên tòan cõi Âu châu, Ai cập v.v...
đã đem lại cho Clausewitz nhiều nhận xét mới về
tính chất chiến tranh. Quân đội của Napoléon
trên chiến trường không còn phải là
quân đội đánh thuê của các lãnh
chúa trước đây nữa, quân sỹ chiến đấu với một
lòng tin chiến đấu cho chính bản thân của họ. Tư
tưởng của cuộc cách mạng Pháp cũng là những sức
mạnh phi thường làm lung lay đến cỗi rễ chế độ phong kiến Trung
cổ Âu châu, đồng thời chúng cũng giúp cho
Napoléon thắng lợi dễ dàng.
..................................
Lúc Pháp kháng chiến chống Đức, tướng De Gaulle
đã rất đồng tình với ông Léon Blum về bức
thư mà Blum gửi De Gaulle với lời lẽ dưới đây:
"Tất cả những người chiến đấu bên cạnh ông, xa hay gần đều
cùng chung ý nguyện về sự thắng lợi tối hậu là
dành lại cho nước Pháp nền độc lập, cho dân tộc
Pháp đầy đủ chủ quyền. Tuy nhiên, như vậy không
có nghĩa là tất cả những gì của nước Pháp
cũ mà chúng ta sẽ xây dựng lại với cái lối
sửa chữa cái máy sau thời gian gián đọan vì
hư hại. Nước Pháp dân chủ tương lai phải khác hẳn
trước..."
Trong chiến tranh ngày nay, tính chất chiến tranh chiến
đấu (guerre combat) đang giảm dần và tính chất chiến
tranh đấu tranh (guerre lutte) càng lúc càng tăng.
Giấc mơ 1945
Thần thọai Hy lạp ghi rằng:
Các vị thần trên trời thường có một lối trừng phạt
rất quái ác đối với lòai người là ban cho
họ vượt quá mức những điều họ ước muốn.
Trái bom nguyên tử xuất hiện, rồi đến bom khinh khí
thành hình, theo ước lượng thì sức mạnh của mỗi
trái bom, mặc dầu bé nhỏ nhưng sức tàn phá
ngang bằng nhiều triệu tấn chất nổ. Lòai người vui mừng
vì họ cho rằng quyền lực của vũ khí nguyên tử sẽ
là khả năng tốt nhất để bảo đảm vĩnh cửu nền hòa
bình thế giới. Nhưng một lần nữa sức mạnh nguyên tử
thêm lần nữa chứng minh cho thấy lối trừng phạt quái
ác kia. Sức mạnh nguyên tử chỉ đem đến cho lòai
người một thời gian hòa bình quá ngắn ngủi như
giấc mơ. Kể từ năm 1945, năm mà tất cả đều nghĩ là
hòa bình trở lại vĩnh cửu trên trái đất,
thực ra chỉ là năm đầu cho một cuộc chiến tranh khác giữa
những thế lực khác.
Trong một bài diễn văn quan trọng, Tổng thống J.F. Kennedy
nói:
"Trên thực tế năng lực trả đũa bằng bom nguyên tử của
chúng ta chưa đủ. Nó không thể ngăn cản cuộc
xâm lăng của Cộng sản khi cuộc xâm lăng đó
quá nhỏ để có thể dùng võ khí
nguyên tử được. Nó không thể bảo vệ những quốc gia
trung lập chống lại một cuộc cướp chính quyền của Cộng sản bằng
cách xử dụng những lực lượng địa phương hoặc những lực lượng du
kích. Nó không thể đem ra dùng được trong
những cuộc bao vây vẫn được mệnh danh là quét lửa.
Nó không được dùng tại Hàn quốc, Đông
dương, Hung gia lợi, Suez, Liban, Kim môn, Tây tạng hoặc
Lào. Tóm lại nó không thể ngăn ngừa Cộng sản
gặm nhấm dần dần lãnh thổ của thế giới tự do, cho đến khi nền an
ninh của chúng ta bị tiêu hao dần từng mảnh vì mỗi
cuộc tiến binh của Cộng sản đều quá nhỏ để có đủ
lý do chúng ta trả đũa ào ạt có thể
gây ra những hậu quả lớn lao. Và lịch sử chứng minh rằng
đó mới là mối đe dọa lớn lao chứ một cuộc tấn công
nguyên tử tòan diện đâu phải là mối đe dọa
đáng kể?"
Đặc điểm một loại chiến tranh mà Tổng thống Kennedy nói
bao gồm nhiều yếu tố mới. Nó đã vượt ra ngòai "tầm
tay" của trận mạc rất xa. Nó chính là hành
vi chính trị tinh vi nhất cùng với những họat động
xã hội phức tạp. Những nguyên lý quân sự để
vận dụng trận mạc tuy không hẳn lui xuống hàng thứ yếu,
nhưng cũng không đứng địa vị chủ yếu như trước nữa.
Trước kia với chiến tranh chiến đấu trận mạc, vấn đề đặt định chiến
lược người ta không cần một sách lược chính trị bao
trùm lên, người ta chỉ việc điều nghiên năm yếu tố
thường lệ thuộc kỹ thuật quân sự như:
- Tinh thần (tâm lý chiến đấu)
- Vật lý (trang bị và lực chiến đấu)
- Số học (quy luật kỷ hà về dốc độ tuyến tác chiến)
- Địa lý (hình thế đất đai)
- Thống kê (những thủ đọan cấp dưỡng).
Bây giờ, đấu tranh xã hội làm chủ động việc quyết
định hình thể chiến tranh đồng thời quyết định việc thắng lợi,
nghĩa là những yếu tố xã hội quyết định chiến lược hay
sách lược chính trị bao trùm lên chiến lược
quân sự.
Hãy lấy tỷ dụ như quy định tính chất kẻ thù chẳng
hạn:
Lúc chiến đấu chống Nhật bản, các nhà lãnh
đạo Trung quốc đã đánh giá trị quân Nhật
và chính phủ chủ trương chiến tranh như một tập
đòan chính trị đại biểu cho quyền lợi thiểu số tư bản
Nhật, chứ không phải đại biểu cho tòan thể nhân
dân Nhật. Cho nên nếu bị sa lầy, chủ trương hiếu chiến tất
sẽ bị dân chúng Nhật phản đối. Bị dân chúng
phản đối, phe quân phiệt Nhật đương nhiên sẽ mất ưu thế.
Chiến tranh Quốc Cộng, Cộng sản Trung quốc nhận định Quốc dân
đảng Trung hoa là một tập đòan đại biểu quyền lợi thiểu
số mại bản quan liêu tư bản địa chủ, cho nên cái lực
mạnh ban đầu của Quốc dân đảng chẳng qua chỉ là ưu thế giả.
Chiến tranh bây giờ, điều quan hệ hàng đầu là phải
quy định được đúng tính chất chính trị kẻ
thù, có như thế mới phát hiện được những nhược
điểm và nhận biết những ưu điểm của lực lượng địch để xây
dựng chiến lược. Những ưu và nhược điểm đó nằm trong quan
hệ giữa những giai tầng xã hội. Phải tấn công vào
các nhược điểm xã hội của địch mà làm băng
họai xã hội địch cùng bộ máy chiến tranh của
nó.
Quy định tính chất chính trị kẻ thù là
xét xem nó đại biểu cho lực lượng nào trong
xã hội? Bất kể kẻ thù ấy thuộc màu sắc gì,
đỏ đen hay trắng, Cộng sản, trung lập, đế quốc, phản động, đều
có thể là những đòn bẩy tốt khả dĩ dựa vào
đấy tạo sức mạnh.
Trải qua nhiều thất bại, thừa dịp Nhật xâm lăng, đảng Cộng sản
Trung quốc liền đưa ra chủ trương: đòan kết kháng Nhật để
dựa vào danh nghĩa dân tộc, một mặt cứu vãn nguy cơ
quân sự, một mặt làm điểm tựa cho đòn bẩy mà
phát triển lực lượng. Thủ đoạn này, Trung cộng mệnh danh
là sách lược thống nhất chiến tuyến gồm tám điều:
a) Đả đảo chủ nghĩa đế quốc Nhật bản, đổ tới giọt máu cuối
cùng, phản đối mọi thỏa hiệp.
b) Tổng động viên nhân sự tòan diện, phát
khởi kháng chiến tòan diện. Phát triển chiến tranh
du kích. Cải cách công tác chính trị
quân đội.
c) Tổng động viên nhân dân tòan quốc.
Đòi tự do vũ trang, tự do kết đảng, tự do ngôn luận, xuất
bản, tập hội thực hành kháng Nhật cứu nước. Phế bỏ
pháp lệnh cũ, ban bố pháp lệnh cách mạng. Giải
phóng chính trị phạm.
d) Cải cách cơ cấu chính trị. Triệu tập đại hội quốc
dân. Ban hành hiến pháp dân chủ. Quyết định
phương châm kháng Nhật cứu nước. Tuyển cử chính phủ
quốc phòng. Chấp hành chính sách
cách mạng.
e) Cải thiện sinh họat nhân dân. Đặt lại chính
sách đãi ngộ quân đội, công nhân,
v.v... Phế bỏ sưu cao thuế nặng, giảm tô, giảm tức, cứu tế thất
nghiệp.
f) Thực hiện kế họach huấn luyện vũ trang học sinh tòan quốc. Đề
cao giáo dục kháng Nhật.
g) Tiêu trừ bọn Hán gian thân Nhật.
h) Trên cơ sở hợp tác Quốc Cộng, kiến lập trận tuyến thống
nhất với các đảng, các phái, lãnh đạo chiến
tranh kháng Nhật.
Với tám điều trên, C.S. Trung quốc đã xuyên
qua ý thức và nhiệt tình kháng Nhật của
dân tộc làm chiếc đòn bẩy lợi hại làm bật rễ
chế độ Quốc dân đảng sau này. Giảm tô, giảm tức,
chống sưu cao thuế nặng đi đôi với tự do vũ trang, kết đảng, lập
hội là tái thiết thực hiện nội chiến ngay trong
kháng chiến một độ cao hơn trước. Chiếc đòn bẩy Cộng sản
len lỏi vào tất cả các cơ tầng xã hội Trung hoa để
rồi chế tạo sự nổi lên chống chế độ Tưởng tùy theo quyền
lợi và bản chất của mỗi cơ tầng.
Cá với nước
Trong sách Chiến tranh và vấn đề chiến lược, Mao Trạch
Đông viết: "Hình thức đấu tranh chủ yếu tại Trung quốc
là chiến tranh, hình thức tổ chức chủ yếu là
quân đội. Quân đội của nhân dân, quân đội
với nhân dân khắng khít như cá với nước." Sở
dĩ nhân dân có quân đội là vì
"yếu tố" xã hội làm chủ động chiến tranh. Nhưng giới
lãnh đạo của Tưởng đã không nghĩ thế, họ cho rằng
sức mạnh quân sự làm chủ động chiến tranh. Họ nghĩ
cá với nước ư? Ta sẽ mang đại đội binh mã đi bắt những
con cá ấy ra khỏi nước, hoặc sẽ giết hết cá. Ít
lâu sau chắc cá không còn. Kết quả của
ý nghĩ sai lầm ấy là họ Tưởng đã ra Đài
loan nằm. Gần đây có một quan niệm khá mới
trông bên ngòai mang vẻ tiến bộ, nhưng thật ra
vô hiệu quả: tât nước ra cho cá chết cạn.
Đàng rằng cá với nước là hai vật hoàn
tòan khác hẳn nhau, và vật nọ không sinh ra
vật kia được. Tuy nhiên cũng không thể phủ nhận một sự thực
hiển nhiên: có nước mới có cá và
cá chỉ sống ở trong nước. Mang nước đi đâu, cá sẽ
nhờ nước mà sinh ra nếu gặp điều kiện thuận lợi. Bắt cá
hay tát nước cho cá chết cạn đều thất bại, bởi tại vấn đề
không ở đấy. Vấn đề ở nơi làm sao cho cá với nước
không chịu nhau. Cá nước mặn vào nước ngọt tất hết
sống, ngược lại cá nước ngọt ra nước mặn cũng chẳng thể
nào tồn tại.
Đặc điểm hai
Cách đây bốn chục năm Lénine bảo rằng muốn tiến đến
Ba lê chúng ta phải vòng qua ngả Bắc kinh. Thật
thế, ít năm gần đây, Hồng quân Sô viết rất
ít khi trực tiếp công khai đánh chiếm nước
nào, tuy nhiên thế lực Cộng sản đã mở rộng
biên giới không ngừng. Ngược lại các nước thuộc thế
giới tự do đang nỗ lực để bảo vệ cho xứ sở của mình ở trên
một nước khác ở cách xa hàng vạn cây số,
hoặc phải giúp một quốc gia khác chống giặc. Hiện tượng
này các nhà báo đặt tên cho nó
là chiến tranh ủy nhiệm (war by proxy). Chiến tranh ủy nhiệm tuy
mới lạ nhưng nguồn gốc của nó vẫn chỉ là một phương
pháp chiến tranh đã có tự ngàn xưa: chiến
lược tấn công gián tiếp (indirect approach). Những thế lực
nắm trong tay vũ khí nguyên tử không muốn tự
sát, trong khi trên thế giới còn bao nhiêu
vấn đề chưa được giải quyết thỏa đáng. Chính trị
còn đầy rẫy mầm mống đấu tranh. Để giải quyết họ trở về với
hình thức chiến tranh quy ước cũ với phương pháp tấn
công gián tiếp đã được đưa đến mức độ cao nhất.
Muốn tiến đến Ba lê chúng ta phải vòng qua Bắc
kinh. Nhà lý thuyết quân sự, ông Liddell
Hart, viết:
"Lịch sử chiến lược, trên căn bản chỉ là công việc
ghi nhận những cách áp dụng và sự tiến hóa
của lối ứng chiến gián tiếp. Sau khi đã tìm hiểu
trong nhiều chiến dịch tôi nhận thấy rằng tính gián
tiếp hơn hẳn tính trực tiếp đối với chiến tranh là một
điều không thể chối cãi được. Bởi vậy tôi lấy
tính gián tiếp làm ánh sáng cho
những tìm tòi về chiến lược. Thật vậy tính
gián tiếp từ ngàn xưa vẫn được áp dụng rất nhiều ở
mọi cuộc chiến tranh. Từ lớn nhất là tòan bộ sách
lược chiến tranh đến nhỏ nhất là chiến thuật chiến đấu, hết thảy
đều có mặt tính gián tiếp và chính
tính ấy xây dựng nên nghệ thuật cao cho khoa
quân sự."
Vây nước Ngụy, cứu nước Triệu là một sách lược hao
tổn ít lại dành lợi nhiều. Đọc Tam Quốc Chí chắc
ít người quên Tào Tháo không
giáp chiến với chủ lực Viên Thiệu ở Quan độ mà
thắng Thiệu bằng việc đánh kho lương Ô sào. Đặng
Ngải không đi đưởng chính để vào Ba thục, mà
vượt núi Âm bình.
Tôn Tử nói: Phải tránh chỗ thực để đánh
vào chỗ hư. Tránh chỗ mạnh để đánh vào chỗ
yếu. Đó là nguyên tắc căn bản để vận dụng
tính gián tiếp.
Chiến tranh ngày nay do những vận dụng mới mẻ và
tài tình tính gián tiếp vào
chính trị để dành ưu thế quân sự nên
đã nẩy ra những hiện tượng: chiến tranh khởi nghĩa, chiến tranh
lật đổ, chiến tranh cách mạng, chiến tranh du kích v.v...
nghĩa là những lọai chiến tranh do chính trị làm
chủ động. Ở những lọai chiến tranh mới này kẻ đối địch
không phải chỉ là một chiến tuyến, một quân đội đứng
phía bên kia mà là một tập đòan
có những quyền lợi về lề lối sinh họat xã hội hợp
lý hơn, là sự thay thế giữa hai chế độ, trong đó
có những lý do và yếu tố xã hội giữ vai
trò chủ động đối với việc quyết định hình thể chiến lược
và thắng lợi của chiến tranh. Chính vì thế
mà năm 1814 khi trở về Ba lê, Napoléon đã
vòng qua dãy núi Alpes chứ không đi
vào thung lũng miền Rhône, bởi lẽ vùng Alpes
có nhiều người theo chính trị cộng hòa, còn
vùng Rhône thì là khu vực của phe bảo
hòang. Trotsky sửa sọan tổng phản công Denikine, nhưng
phải chờ Denikine đến vùng Donetz mới đánh, chứ
không đánh ở Kouban. Nguyên do, Kouban là
vùng dân Cô giắc lúc ấy đang chống chế độ
Sô viết mà Donetz là nơi phong trào Sô
viết lên mạnh nhất.
Chiến tranh bây giờ không phải là chuyện thắng bại
giữa hai bộ đội mà của quần chúng rộng lớn căn cứ
trên quyền lợi xã hội và chiều hướng lịch sử.
Đặc điểm ba
...................................................................................................
Chiến tranh gắn liền với đấu tranh chính trị, đấu tranh
không chỉ hạn chế trong quan hệ giữa những người cùng một
nước mà nó dũi dài vào tranh chấp quốc tế.
Ở mỗi cuộc chiến đều có liên hệ tới đấu tranh chính
trị đối nội và đối ngoại. Chiến lược trong chiến tranh hiện tại
sẽ không mang một giá trị nào nếu nó chỉ
được đặt trên cơ sở thuần túy quân sự mà
không chấp nhận thực tiễn xã hội trong nước và
xã hội quốc tế làm chủ đề.
Chiến tranh ngày nay có một đặc điểm rất quan hệ
là cùng một lúc nó thực hiện cách
mạng xã hội, cùng một lúc nó trở
thành một khâu trong xâu chuỗi tranh chấp nhiều
nước. Xung đột nội bộ ảnh hưởng từ tranh chấp quốc tế. Nội chiến để
giải quyết một chính sách đối ngọai. Chính cũng
vì những lẽ trên nên Cộng sản mới lý luận:
Chiến tranh giải phóng dân tộc là hình thức
đấu tranh cao nhất của cách mạng giai cấp. Ranh giới giữa nội
chiến, chiến tranh quốc gia và tranh chấp quốc tế nay đã
trộn lẫn với nhau. Tranh chấp quốc tế dũi dài vào nội
chiến, nội chiến cũng không hạn chế ảnh hưởng trong riêng
một nước mà dũi dài tới tranh chấp quốc tế. Mọi xung đột
xã hội được khơi lên thành đấu tranh vũ trang,
gây thành nội chiến. Từ nội chiến chuyển vào chiến
tranh giải quyết tranh chấp quốc tế. Sự tuần hòan ấy, kết hợp
cùng các đấu tranh trên mọi mặt đã mang lại
cho chiến tranh hiện tại ý nghĩa vô hạn trong đó
bao gồm tư tưởng chiến, chính trị chiến, ngọai giao chiến, kinh
tế chiến, tuyên truyền chiến, gián điệp chiến v.v...
Năm 1945 Nhật đầu hàng. Hòa bình chưa trở lại đất
Trung quốc được bao lâu thì đảng Quốc dân của Tưởng
Giới Thạch liền phát động chiến tranh tiễu cộng và đảng
Cộng sản của Mao Trạch Đông cũng phát động chiến tranh lật
đổ chính quyền Tưởng Giới Thạch. Chiến tranh giữa Quốc Cộng ở
Trung hoa có hai mặt. Mặt quốc tế nó là cuộc chiến
tranh uỷ nhiệm của hai khối tư bản và xã hội. Mặt quốc
nội nó là cuộc đấu tranh giữa những lực lượng xã
hội, giữa những hòan cảnh sinh họat trái nghịch nhau.
Thắng bại của nội chiến Trung quốc đã ảnh hưởng rất lớn đến
tương quan lực lượng quốc tế.
Đặc điểm bốn
Các nhà xã hội học từ bao lâu nay vẫn thường
đặc biệt chú ý đến hiện tượng chiến tranh và
không ngớt đi tìm cho nó một định nghĩa
chính xác. Đại khái trên sách vở
người ta tìm thấy những định nghĩa sau đây:
- Cuộc chiến đấu giữa những con người (Martens)
- Cuộc chiến đấu giữa nhiều nước độc lập (Blunt-Schili, Twins, Pradier)
- Giao tranh giữa những tổ hợp người như bộ lạc, quốc gia (Bogulawsky)
- Xung đột giữa hai lực lượng vũ trang của những nền văn hóa,
của những tình cảm khác biệt (Quincy, Wright)
Tất cả những định nghĩa trên đã không làm
thỏa mãn khi được đem ra để giải thích chiến tranh hiện
tại. Sở dĩ như vậy là bởi tại các định nghĩa đó
hòan tòan dựa trên nhận thức các chứng kiện
lịch sử đối với bây giờ đã trở nên quá cũ.
Riêng định nghĩa của Kamarowsky đúng nhất. Kamarowsky
viết: Chiến tranh là đấu tranh vũ trang giữa những đảng
chính trị. (Luttes armées partis organisés
politiquement).
Tác dụng của đảng đối với chiến tranh ngày nay đã
hiển hiện rõ rệt lắm. Người ta có thể chứng minh bằng
những sự kiện hiển nhiên.
a) Bộ máy chiến tranh ngày nay chẳng những đại biểu cho
lực lượng và uy thế quốc phòng, uy thế nhà nước
mà còn là đại biểu cho một lực lượng xã
hội, một đường lối xây dựng xã hội.
b) Bộ máy chiến tranh là một lực lượng cách mạng
vũ trang đấu tranh với lực lượng chống cản nó.
c) Mục đích chiến tranh trong tranh chấp quốc tế không
còn đặt trọng tâm vào việc xử dụng bộ máy
chiến tranh để tấn công chiếm cứ, cướp bóc và khai
thác của một quốc gia này đối với một quốc gia
khác. Chiến tranh ngày nay tìm đến kết
thúc, đến thắng lợi bằng sự phát triển một phương
pháp xây dựng cơ sở xã hội mới, phương pháp
phát triển kinh tế, lề lối sinh họat, đặt lại quan hệ nhân
quần.
.......................................................................................
Trong cuốn Entre la peur et l espoir, Tibor Mende cũng ghi những
dòng sau đây:
Sự giúp đỡ của các nước mạnh cho các nước hậu tiến
không chỉ thuần túy là vật chất. Điều quan hệ hơn
cả chính là một phương pháp, kỹ thuật để đẩy mạnh
tiến bộ xã hội, cải tạo xã hội.
Tiêu chuẩn thắng lợi của chiến tranh ngày nay cũng biến
đổi hẳn. Chiến thắng không hòan tòan đặt trên
vấn đề tiêu diệt được bộ máy chiến tranh hay lực lượng bộ
đội của địch chưa? Mà phải đặt trên một tầng cao hơn
là: Bộ máy chiến tranh của địch đã mất uy thế
chính trị chưa? Nếu uy thế chính trị mất thì bộ
máy chiến tranh tất sẽ dần mòn tiêu diệt. Nếu uy
thế chính trị còn thì dù bộ máy
chiến tranh có thể tạm thời yếu đi, nhưng không bao giờ
tiêu diệt cả. Một ngày nào đó, cơ hội thuận
tiện, chiến tranh lại dấy lên tiếp tục những vấn đề còn bỏ
dở. Cộng sản T.Q. sau những thảm bại ở các vụ Nam xương, Lưỡng
hồ Thu thâu, Quảng châu, bộ máy chiến tranh hầu như
tan rã, nhưng cộng sản còn bộ máy đấu tranh. Cho
nên chỉ ít lâu sau, nhờ đường lối chính trị
đúng đắn như: thống nhất chiến tuyến kháng Nhật,
chính sách ruộng đất v.v... Cộng sản lại dần dần
gây uy thế chính trị, dựa vào uy thế chính
trị mà tái lập vũ trang rất nhanh để tiếp tục cuộc chiến
tranh với Quốc dân đảng.
Tiêu chuẩn thắng lợi biến đổi, lực lượng quân sự thêm
một mặt đại biểu là đại biểu cho lực lượng xã hội đang
lên bên cạnh trách nhiệm đại biểu cho lực lượng quốc
phòng đã khiến cho bộ máy lãnh đạo chiến
tranh cũng biến đổi tính chất. Nó chuyển từ tổ chức
nhà nước sang tổ chức đảng và nhu yếu đảng lồng
vào nhu yếu nhà nước. Bên cạnh công
tác quân sự có công tác chính
trị, vì bên cạnh chiến tranh có đấu tranh.
Tính chất đấu tranh càng nặng, chiến tranh chiến dịch,
chiến đấu càng phản ảnh tính quyết liệt của tình
trạng đối nghịch xã hội thì yếu tố đảng càng hệ
trọng.
Đặc điểm năm
Ở bất cứ biến động lịch sử nào người ta cũng thấy tổ chức
quân sự cũng bị tiêu hủy theo chế độ chính trị.
Quân đội quý tộc của vương triều Bourbon trong cách
mạng Pháp được thay thế bởi quân đội quốc dân. Đảng
Bôn-sê-vích khi đọat chính quyền nước Nga
đã biến lập ngay quân đội mới mệnh danh là
quân đội của giai cấp nông dân vô sản để thay
thế quân đội hòang gia của các Tsars. Tào
Tháo phải tiêu diệt các quân đội thuộc
khuôn khổ bộ khúc để kiến lập quân ngũ thống nhất.
Trong các biến động lớn, những lực lượng sinh động của xã
hội tham gia chiến tranh không chỉ trên tư cách
chiến đấu hay cấp dưỡng cho chiến trường mà còn
trên tư cách một thế chính trị mới, hay nói
một cách khác đi là mỗi thế chính trị đều
cần phải có một quân đội riêng cho mình (une
armée pour sa politique).
Cách đây mấy trăm năm, trong cuốn sách nhan đề The
art of war, Machiavel là người Tây phương đầu tiên
đã phát biểu trên bút mực phổ biến quan niệm
về quan hệ chặt chẽ giữa tổ chức chính trị với tổ chức
quân sự. Theo ông thì mỗi tổ chức xã hội
và mỗi tổ chức chính trị đều có một tổ chức
quân sự riêng biệt. Chính trị nào quân
đội ấy. Thời kỳ quân quyền tuyệt đối hay Trung cổ, với quan niệm
chiến tranh bảo vệ tôn giáo, người ta thấy quân đội
do giai cấp kỵ sỹ (chevalier) nắm giữ. Thời kỳ thương nghiệp bắt đầu
hưng thịnh, giai cấp kỵ sỹ dần dần xuống thế trong khi tổ chức
quân sự chuyển sang hình thức dân quân được
mua chuộc bằng tiền bạc.
Bây giờ các nhà xã hội học sau khi
đào sâu vấn đề cũng đều công nhận như Machiavel với
định luật:
"Une armée est toujours une organisation sociale l expression de
la collectivité tout entière".
Như vậy ta có thể khẳng định rằng:
Nếu không có một đường lối chính trị thực tâm
thực sự phục vụ cách mạng thì không khi nào
có quân đội cách mạng được.
Chiến trường chủ yếu
Quân sự gia người Đức Von Bulow nói rằng: "Chiến tranh
là một sự rối loạn đuợc tổ chức và có tổ chức. Mục
đích của chiến tranh bây giờ là đấu tranh vũ trang
giành lấy quyền thực hiện một sinh họat xã hội mới thay
thế cho sinh họat xã hội cũ. Sự thay cũ đổi mới đó, thể
hiện lên qua tổ chức xã hội, khi tổ chức xã hội cũ
không còn thích hợp với tiến bộ của thời đại
trên các mặt sinh họat, kể cả mặt ý thức, tổ chức
của chế độ cũ sẽ trở thành một thứ chướng ngại. Nó
đòi hỏi sự tham gia đấu tranh của tất cả các lực lượng
sinh động xã hội từ văn hóa, chính trị, kinh tế,
xã hội đến quân sự. Vì tính chất tòan
diện đó nên chiến trường chủ yếu của chiến tranh bây
giờ là đấu tranh tổ chức."
Vấn đề tổ chức hết sức phức tạp vì ở chiến tranh hiện đại
có sự tham dự của nhiều ý thức hệ, sự tham dự của nhiều
lực lượng đối lập nhau ở trong cũng như ở ngòai nước cho
nên muốn lãnh đạo chiến tranh trước hết phải khắc phục
được vấn đề tổ chức gay gắt và khó khăn.
Làm thế nào nắm vững được quy luật sinh họat xã
hội với các mặt đối lập và thoả hiệp, vì thế
công tác tổ chức phải đi sâu vào các
ngành sinh họat xã hội từ hẹp đến rộng, từ thấp đến cao,
từ nông thôn đến thành thị để hoàn
thành một hệ thống đấu tranh suốt mặt: Tổ chức hay là
thua! Đó là điều kiện gốc cho chiến tranh ngày nay.
Nói rằng: Chiến tranh trên căn bản phải giữ được
liên hệ mật thiết với quần chúng rộng lớn... Nói
rằng ngòai mặt trận thì quân đội xung phong
đánh giặc, miền hậu tuyến thì dân chúng ra
sức tăng gia sản xuất, nông dân ngòai đồng ruộng,
công nhân trong xưởng máy đều cùng một nhịp
họat động phục vụ tiền tuyến... Nói rằng lực lượng vũ trang gồm
có quân đội chủ lực, quân đội địa phương, và
dân quân vũ trang, mỗi người dân là một chiến
sỹ, mỗi làng xã là một căn cứ quân sự, mỗi
tổ chức thôn xã là một bộ tham mưu.... Nói
rằng hết sức thêm bạn bớt thù, đòan kết mọi lực
lượng có thể đòan kết được, trung lập mọi lực lượng
có thể trung lập được, phân hóa mọi lực lượng
có thể phân hóa được, phát triển và
củng cố lực lượng vũ trang.
Hết thảy đều là vấn đề đấu tranh tổ chức vậy.
Đấu tranh tổ chức gồm hai mặt:
Một mặt tổ chức, củng cố tổ chức, phát triển tổ chức để
không ngừng mở rộng, thêm sức mạnh cho lực lượng ta, đồng
thời chống phân hóa chia rẽ nội bộ. Lúc nào
cũng có khả năng đối phó kịp thời với những đột biến. Một
mặt vận dụng tổ chức để phân hóa chia rẽ hàng ngũ
địch, làm thối nát đời sống địch, làm rối lọan,
gieo mâu thuẫn khắp nơi, gieo xung đột nội bộ địch trên mọi
mặt văn hóa, chính trị, kinh tế, quân đội v.v...
Những điều kể trên, ngàn xưa cũng đã có,
nhưng ngày nay những điều đó phức tạp hơn nhiều và
để thực hiện chúng, công việc đòi hỏi một kế họach
hành động mà kỹ thuật đạt tới mức tuyệt hảo. Ngày
nay chiến tranh trên sự thực đã rõ rệt là
một hình thức đấu tranh cao nhất, chiến tuyến quân sự với
chiến tuyến chính trị như đã trộn lẫn với nhau cho
nên ở mỗi giai đoạn lại thóat ra những mâu thuẫn,
những thỏa hiệp mới. Ở mỗi hình thế lại có những bạn mới,
thù mới, những kẻ thù phụ, thù chính,
thù sau lưng và thù trước mặt. Điều kiện tiến
hành chiến tranh theo với đà phát triển của
chính trị quốc tế, quốc nội và diễn tiến của chiến lược
mà biến đổi bất thường. Những yếu tố chính trị, kinh tế,
tâm lý v.v... đòi hỏi tổ chức chính trị phải
thích ứng được với hòan cảnh chiến tranh và tổ
chức quân sự phải hòa hợp được với hòan cảnh đấu
tranh.
Thủ đọan tổ chức
Đề cập đến tổ chức phần lớn người ta, thứ nhất là các học
gia phương Tây, chỉ đưa ra vận dụng nguyên lý
và kỹ thuật tổ chức, mà quên mất thủ đoạn đối với
vấn đề ấy, như vậy không thể dùng danh từ đấu tranh tổ
chức. Thủ đọan của vấn đề tổ chức là:
1) Vận dụng chính trị vào đấu tranh tổ chức
2) Vận dụng lý luận vào đấu tranh tổ chức
3) Đấu tranh cán bộ - đấu tranh tổ chức.
Một đường lối chính sách đúng có thể cho
lực lượng lớn mạnh thêm. Một đường lối chính sách
sai có thể làm cho lực lượng nhỏ yếu đi. Chính trị
ảnh hưởng to tát đến vấn đề tổ chức như vậy.
Làm thế nào để sự rối lọan theo định nghĩa Bulow được tổ
chức và có tổ chức?
Phải dựa vào đường lối chính trị và công
tác chính trị. Có đường lối chính trị
thì chiến tranh mới có mục đích rõ
ràng. Có đường lối chính trị thì mới
phát hiện được trong mỗi hình thế những mâu thuẫn
và thỏa hiệp để định rõ kẻ thù, định rõ bạn
đồng minh. Từ đó mà gây ra phân hóa
cô lập kẻ thù, tranh thủ thật rộng rãi bạn đồng
minh để đánh ngã kẻ thù trước mắt.
Vào thời đại Clausewitz và Luddendorf các nước
đã hòan thành thống nhất nội bộ, ý thức
quốc gia đang lên cao. Chỉ cần đứng dưới một màu cờ, một
nhung phục là bạn thù đã phân biệt rõ
rệt. Cuộc nổi dậy năm 1848 sở dĩ thất bại cũng vì lực lượng thợ
thuyền chưa bị hoàn tòan lôi cuốn vào thuyết
đấu tranh giai cấp và phe chống đối nổi dậy còn
quá mạnh với ý thức quốc gia dân tộc đang
bành trướng.
Bây giờ khác hẳn, đấu tranh với chiến tranh không
còn ranh giới rõ rệt nữa. Chiến tranh giữa các
nước tiến hành cùng một lúc với chiến tranh trong
nước. Do đó vấn đề tổ chức trở nên phức tạp hơn. Dân
tộc hay quốc gia nếu không mang một nội dung chính trị đấu
tranh nào sẽ thành vô vị và nhạt nhẽo.
Trong hình thức chiến tranh hiện tại, vấn đề tổ chức không
chỉ để cung cấp cho nhu yếu chiến tranh mà nhiệm vụ chính
là cung cấp cho nhu yếu đấu tranh. Vấn đề tổ chức không
chỉ ở trên mặt đấu tranh quân sự mà còn rộng
rãi ở trên nhiều mặt đấu tranh khác.
Tổ chức rộng rãi quần chúng nhân dân
đòan kết thành một trận tuyến thống nhất, mở rộng chiến
trường ra khắp nơi và khắp các lãnh vực.
Dùng tổ chức để khóang triển lực lượng chiến đấu,
dùng tổ chức để phân tán kẻ thù, dùng
tổ chức để vũ trang quần chúng đánh đối phương bất cứ chỗ
nào, dùng tổ chức để biết rõ cơ mưu của địch,
phá họai cơ cấu bảo vệ của địch đồng thời bảo vệ cơ sở tổ chức
của ta, còn dùng tổ chức để làm tan rã sức
đối kháng của địch trên tư tưởng, trên quan niệm,
trên ý thức, trên hứng thú, trên sinh
họat v.v... Hành động nào cũng do lý luận
mà ra, lý luận đúng, hành động đúng,
lý luận sai hành động sai, không đưa đến kết quả.
Mặt khác, muốn tổ chức trước hết phải thuyết phục người
có tiếp nhận ta thì mới chịu tổ chức. Cho nên đấu
tranh tổ chức chỉ đúng có thể thực hiện được hòan
hảo khi nào ta đã thắng địch trên mặt trận
lý luận. Hay nói khác đi nếu đấu tranh lý
luận, đấu tranh giáo dục, đấu tranh tuyên truyền là
suy động cơ của đấu tranh tổ chức (?)
Đấu tranh lý luận giữ vai trò cực quan hệ trong đấu tranh
tổ chức. Nội chiến Trung quốc chứng minh điều này. Khi phe Quốc
dân đảng đã mất lục địa, đa số nhân vật lãnh
đạo thuộc phái duy vũ lực cho rằng thất bại của họ là
thất bại về quân sự. Sự thất bại quân sự chỉ là hậu
quả của thất bại đấu tranh lý luận tuyên truyền và
giáo dục. Hàng vạn phần tử trí thức, hàng
trăm vạn nông dân vì nghe lý luận và
tuyên truyền cộng sản đã không sợ nguy hiểm vuợt
vòng phong tỏa để chạy về khu vực cộng sản, đem đến cho cộng sản
một lực lượng quân đội lớn lao và một lực lượng cán
bộ phong phú. Sự kiện đó chứng tỏ cộng sản đã nắm
vững được mối liên hệ giữa đấu tranh lý luận, tuyên
truyền với đấu tranh vũ trang.
Trong khu vực do Quốc dân đảng kiểm sóat, vì bị
mê hoặc bởi lý luận và tuyên truyền cộng sản
mà nhân dân các giới không sợ
tróc nã, hình tội đã gia nhập các tổ
chức địa hạ của cộng sản mà phá họai, mà vận động
quần chúng nổi lên đấu tranh chính trị, đấu tranh
vũ trang ngay trong lòng địch thì đó là sự
thất bại quân sự hay vì cộng sản đã kết hợp được
liên hệ đấu tranh lý luận, đấu tranh tuyên truyền
với đấu tranh tổ chức?
Cộng sản nhờ lý luận và tuyên truyền thẩm thấu
mà đặt nhân sự lọt sâu được vào những cơ cấu
lãnh đạo chính trị, quân sự để phá họai đến
trung tâm các vấn đề quân sự, chính trị, kinh
tế của Quốc dân đảng thì đó là thất bại
quân sự, tình báo hay vì Cộng sản đã
khéo vận dụng được liên hệ đấu tranh lý luận,
tuyên truyền với đấu tranh bảo vệ?
Phe Quốc dân đảng thất bại bởi đã không thắng
trên trận tuyến văn hóa. Đấu tranh lý luận của phe
Quốc dân đảng thất bại bởi nó thiếu tính
hòan chỉnh, tính hệ thống, và tính chiến
đấu cao độ. Cũng do nguyên nhân này mà bản
thân Quốc dân đảng càng ngày càng hủ
hóa, các phái bộ đảng tranh giành nhau
quyền lợi riêng lẻ bỏ quên quyền lợi chung.
Đấu tranh tuyên truyền của Quốc dân đảng thất bại bởi
tuyên truyền chỉ để tuyên truyền chứ không để tổ
chức, tuyên truyền chỉ có tính cách phiến
diện chứ không có tính chất giáo dục để
lãnh đạo quần chúng. Đấu tranh lý luận, đấu tranh
tuyên truyền làm nhân quả cho nhau. Đấu tranh
lý luận, đấu tranh tuyên truyền phải phối hợp chặt chẽ với
đấu tranh tổ chức.
Đó là nguyên tắc cơ bản để tranh thủ lực lượng quần
chúng để đọat được về mình lợi khí làm ung
thối và tan rã kẻ thù.
Phạm vi đấu tranh rộng lớn và phức tạp như vậy, để gánh
vác nó, đương nhiên phải có một lực lượng
đã được củng cố vững chắc trên tư tưởng, trên
chính trị và trên tổ chức. Lực lượng ấy có
hay không tất cả tùy thuộc vào đấu tranh cán
bộ. Cán bộ sẽ đi bên cạnh quần chúng để giáo
dục, đi sâu vào trận doanh địch mà phát
triển các tổ chức tế bào. Do thắng lợi từ đấu tranh
cán bộ sẽ đem lại cho ta bảy điều có tại khắp nơi:
a) Có uy thế chính trị
b) Có quyền lực xã hội
c) Có lực lượng bổ sung
d) Có phương tiện vật chất
e) Có tai mắt
f) Có lực lượng chiến đấu ngay trong lòng địch
g) Có chiến trường đã chuẩn bị trước.
Và quan trọng hơn hết là bộ máy cán bộ đem
đến khả năng thích ứng chiến tranh vào những ý
nguyện chính trị để tiến hành một cuộc đấu tranh
đúng mức.
Hòa bình
Chiến tranh là công cụ của chính trị, nhưng nếu coi
nó là công cụ duy nhất và tuyệt đối
thì chính trị sẽ phá sản. Ở đây vấn đề
hòa bình hiện lên. Nhưng nói đến hoà
bình đa số thường mang một quan niệm rất sai lầm là khi
đem nó đối chiếu với chiến tranh thì nhất định chiến
tranh là một màu đen ảm đạm, còn hòa
bình là một màu hồng hạnh phúc, nghĩ
hòa bình là thiên đường còn chiến
tranh là địa ngục. Và chỉ chấp nhận hẳn hoi là một
sự trái ngược chứ không chịu là một sự liên
hệ tương bằng giữa chiến tranh và hòa bình. Sự
thật hòa bình hòan tòan là một thực
tế chính trị, nó cũng như chiến tranh, nó
là một mặt khác nữa của đấu tranh nhằm giải quyết những
xung đột chính trị. Hòa bình chỉ là sự tạm
im hơi của tiếng súng để chuyển chiến tranh vào
các chiến tranh khác như:
Chiến tranh tư tưởng (Ideological war)
Chiến tranh chính trị (Political war)
Chiến tranh ngọai giao (Diplomatic war)
Chiến tranh văn hóa (Cultural war)
Chiến tranh kinh tế (Economic war)
Chiến tranh tuyên truyền (Publicity war)
Chiến tranh gián điệp (Intelligence war)
và ở hòa bình tính quyết liệt mặc dù
máu đã bớt đổ, cũng không giảm đi, mọi hình
thức đấu tranh như: Thủ đọan mưu mô, áp lực đe dọa, trừng
phạt vẫn còn. Người xưa với câu nói: Bình
thời giảng võ, lọan thế độc thư; thật quả đã ý
thức minh bạch sự liên hệ (notions corrélatives) của chiến
tranh với hòa bình.
Vậy hòa bình là đấu tranh (La paix est lutte) đọc
sách lúc lọan là để đấu tranh khi hòa
bình. Hòa bình mang muôn hình vạn
trạng, không có một kiểu mẫu nhất định nào,
nó tùy thuộc những đổi thay của các tương quan lực
lượng (Il n y a pas d arché type unique de la paix mais autant
de formes qu il y a de types de rapports de forces ou de puissances).
Có những hòa bình vì thế quân
bình, có những hòa bình vì rơi
vào liệt thế, có những hòa bình để tiến
hành một âm mưu lật đổ v.v...
LỜI KẾT
Chính trị xưa và nay đều được tiến hành bằng sức
mạnh và mưu mẹo
Nhưng sức mạnh phải được biến thành quyền lực, nếu không,
sức mạnh chỉ là những gì tàn nhẫn, thô bạo
và man rợ. Sức mạnh ví như quặng và quyền lực
là luyện kim, bởi vậy nên sức mạnh bộc lộ, còn
quyền lực thì huyền diệu. Dĩ nhiên không có
quyền lực nào lại không chứa đựng sức mạnh cũng như
không có luyện kim nào lại không lọc từ quặng
ra, cho nên không thể quan niệm sức mạnh (force) với quyền
lực (puissance) như hai điều tương phản (notions antithétiques),
trái lại quyền lực là sức mạnh đã được biến chế
bằng tư tưởng, bằng trí thức. Quyền lực là sức mạnh
đã thăng hoa.
Và mưu mẹo phải được biến thành thủ đọan nghĩa là
không lừa lọc, gian xảo vặt vãnh. Thủ đọan là mưu
mẹo đã được tôi luyện bằng mẫn đạt (l intelligence)
và quyền uy (authorité). Thủ đọan là mưu mẹo
đã thăng hoa.Sức mạnh dựa vào thủ đọan để thăng hoa. Thủ
đọan dựa vào sức mạnh để bền vững.
|
-------------------------------------------------
Hết
------------------------------------------
|
Nguồn:
http://diendan.phongthuyquan.com
|
|
Trang
mạng Việt Nam Văn Hiến là nơi bảo tồn di sản văn hóa của
Việt tộc
và phục hồi nền An Lạc
& Tự Chủ.
|