Năm Thứ 4889

www.vietnamvanhien.org
www.vietnamvanhien.net
www.vietnamvanhien.info
www.vietnamvanhien.com




Tin Quốc Tế


 STT                                   Đề Tài  (bấm vào đọc tiếp)                        
 Tác Giả



  20
 Mỹ tuyên bố tham chiến nếu Trung Quốc gây hấn ở biển Đông
 DapLoiSongNui
 19
 Tân Thống Đốc Ngân Hàng Trữ Kim Liêng Bang Mỹ: Janet Yellon
 VOA
 18
 Giải Nobel Năm 2013
 sưu tầm
  17
  Vài Con Số Về Trung Quốc
 sưu tầm
  16
 Giải Nobel 2013
 sưu tầm
  15
 Vị Thủ Tướng Hay Xin Lỗi (bấm vào đọc tiếp)
 Phan Hạnh
 14
 Bầu Cử Ở Nga - Audio
 Phượng Hoàng/SBS
 13
 Hoa Kỳ Trở Lại Châu Á và Thái B́nh Dương
 Nam Phong
 12
 Báo Động Đỏ - Đại Họa Cho Nhân Lọai Xuất Phát Từ China!
 HuongVeChua
  11
  Qaddafi Nhà Độc Tài Nào cũng Sẽ Chết
Ngô Nhân Dụng
10
 Trung Quốc đe dọa một cuộc chiến thương mại với Mỹ ?
 RFA
9
 Một Thử Thách Cuả Barack Obama ?
Nam Phong
8
  Hoa Kỷ sẽ thông qua dự luật trừng phạt kính tế đối với Trung Quốc
 RFA
7  Tăm Xiả Răng Trung Quốc "ăn đứt" hàng Âu, Mỹ, Úc Châu
 Uyên Hạnh
6
  Hàng Không Mẫu Hạm Đầu Tiên Cuả Đế Quốc Hán   Sắp Hoạt Động  Nam Phong
5
 "Tháng Sáu" Sẽ Không Là Quá Khứ
 Uyên Hạnh
4
 Dân Ai Cập Hân Hoan Vỉ Mubarak Từ Chức BBC
3
 Ngướ Việt Noí Về Chính Biến Tại Ai Cập BBC
2
 Ai Cập Nam Phong
1
 Bài Học Tunisia
Nam Phong


  Hoa Kỳ Trở Lại Châu Á và Thái B́nh Dương



  Thứ Tư 16/11/2011
Tin Canberra (Reuter). Tổng thống Barack Obama cuả Hoa Kỳ vừa đến  thăm chính thức nước Úc lần đầu tiên kể từ khi nhậm chức (hai lần trước lên nghị tŕnh nhưng hủy bỏ giờ chót)


Tổng Thống Barack Obama được đón tiếp trước tiền đ́nh quốc hội Úc
(h́nh cuả AFP: Saul Loeb)


Tổng Thống Barack Obama đàm luận với Thủ Tướng Julia Gillard
(h́nh cuả AFP: Jim Watson)

Trong cuộc họp báo chung cuả hai nhà lănh đạo Mỹ - Úc đă tuyên bố sự trở lại chính thức một cách tích cực và sâu rộng cuả Mỹ tại Châu Á và Thái B́nh Dương (sau một thập niên bỏ ngỏ). Bằng cách tăng cường sự huấn luyện và thao diễn cuả lữ đoàn Thủy Quân Lục Chiến thường trực tại Darwin ( Darwin là thủ phủ cuả lănh điạ Bắc Úc ) vơí con số quân nhân là 2500. Darwin là một căn cứ chiến lược tại Nam Á và Thái B́nh Dương, bao gồm bộ binh, hải quân và không quân trong mục tiêu bảo vệ sự an ninh và phồn thịnh cuả khu vực, cũng như phát triển về kinh tế và cứu tế (nếu có thiên tai).


(RFA graphic-map Australia Gov.)

Raw Video: President Obama Arrives in Australia
Associated Press

 
 
Được biết Tổng Thống Obama đă chỉ trích nhà cầm quyền Bắc Kinh về sự cạnh tranh bất chính trong thương trường quốc tế qua việc d́m thấp giá nhân dân tệ (yuan), để trục lợi mà bất chấp những qui định quốc tế trong thương trường về sự cạnh tranh công bằng, tại hôị nghị APEC vưà qua  ngày14/11/11 ở Honolulu.

Nhiều quan sát viên cho rằng sự trở lại cuả Mỹ trong vùng châu Á và Thái B́nh Dương là một cái tát tai nhà cầm quyền Bắc Kinh về thái độ hung hăn và ngang tàn trên biển Đông và hành vi bất chính trong thương trường quốc tế qua việc d́m giá trị cuả nhân dân tệ.


Tổng Thống Barack Obama và Thủ Tướng Julia Gillard tại căn cứ không quân ở Darwin
(h́nh cuả AP ngày 17/11/2011)

Nam Phong tổng hợp
16/11/2011 và 17/11/2011



Qaddafi: Chế độ độc tài nào cũng sẽ chết

Friday, October 21, 2011 7:12:51 PM



Ngô Nhân Dụng

 

Các chế độ độc tài sớm muộn thế nào cũng sẽ bị lật đổ, nhưng ở mỗi nước có thể chấm dứt một cách khác nhau. Khi Mùa Xuân Á Rập bắt đầu từ Tunisie lan tới Ai Cập, nhiều người đă liên tưởng ngay đến những cuộc cách mạng nhung lật đổ chế độ cộng sản ở Đông Âu.

  Không phải cuộc cách mạng nào cũng bọc nhung. Tunisie và Ai Cập kết thúc ách độc tài một cách êm đềm giống Đông Đức, Ba Lan, Tiệp Khắc. Đến bây giờ Libya kết thúc giống kiểu Romanie.

Một điều khác biệt là Nicolae Ceau escu bị đem ra xử nhanh chóng trong ṿng bí mật rồi bị hành quyết. C̣n Gaddafi sau khi bị bắt ngoài mặt trận, đă bị bắn chết. Nhờ thế, có lẽ hàng ngàn người Libya giữ được mạng sống. Nếu chờ đến khi đưa ông ta ra ṭa rồi treo cổ như Saddam Hussein th́ tàn quân của ông ta sẽ c̣n kháng cự lâu hơn.

\
Muammar Gadhafi
(ảnh cuả reuter)

Năm 2008, Qaddafi c̣n tiếp kiến bà Condoleezza Rice (và sau đó tiết lộ ông “phải ḷng” bà ngoại trưởng Mỹ xinh đẹp). Năm 2009, ông ta c̣n đọc diễn văn trước đại hội đồng Liên Hiệp Quốc, lần đầu tiên và lần duy nhất. Sau khi nói 15 phút như mọi vị nguyên thủ quốc gia khác được phép sử dụng, ông tiếp tục nói thêm 80 phút nữa; coi cả thế giới cũng phải ngoan ngoăn lắng nghe như dân Libya dưới quyền ḿnh. Năm ngoái, ông c̣n công du sang Roma một cách vẻ vang. Thoáng chốc, tất cả trở về cát bụi.

Trong thế kỷ 20 khi nhiều nước giành lại độc lập, có những nước lo xây dựng các định chế chính trị, xă hội làm nền tảng lâu dài; những nước khác th́ có các “lănh tụ anh minh” xuất hiện đóng vai “anh hùng cứu quốc”. Một trong những Người Hùng đó là ông Qaddafi.

Sau khi ông Qaddafi chết, nước Libya sẽ ra thế nào, chưa ai biết chắc. Di sản của ông là một xă hội phân liệt, chỉ có dầu lửa phong phú ngoài ra không có một thứ ǵ khác để sống như một quốc gia. Những người cầm đầu cuộc nổi dậy chỉ chia sẻ một ư chí, là lật đổ Qaddafi; ngoài ra chưa biết họ sẽ làm ǵ với di sản ông ta để lại. V́ họ không được chuẩn bị. Cả nước Libya không được chuẩn bị, sau 42 năm sống dưới một chế độ độc tài khắc nghiệt.

Qaddafi rất giống những Người Hùng thuộc thế hệ trước ông, những Fidel Castro (c̣n sống), Pol Pot (đă chết), giống cả Mao Trạch Đông, Kim Nhật Thành và Kim Chính Nhật; hay xa hơn nữa, Stalin, Hitler. Họ lật đổ trật tự xă hội cũ và kêu gọi người dân theo ḿnh bằng giấc mộng xây dựng một quốc gia hùng cường trên những nền tảng hoàn toàn mới. Qaddafi chọn cho ḿnh những danh hiệu như Giảng sư (Imam) của Thế giới Hồi Giáo; Nhà Đại Cách Mạng; Khoa Trưởng của các Nhà Cai trị Á Rập; Anh Cả Lănh đạo (khi cướp chính quyền, Đại Tá Qaddafi chưa đầy 30 tuổi; nếu già hơn vài chục tuổi chắc ông ta cũng muốn được tôn xưng là Bác, hay là Cha già Dân tộc).

Qaddafi cũng đề cao một chủ nghĩa quốc tế, không tự giới hạn ḿnh trong phạm vi quốc gia, quá chật hẹp. Ông ta cũng tuyên bố một thứ Chủ nghĩa Xă hội; giống như Hitler cũng dùng cái tên hấp dẫn này. Dưới danh nghĩa một chủ nghĩa xă hội, ông cũng tịch thâu tài sản của tư nhân, một cách vừa tích lũy tiền bạc trong tay vừa bắt mọi người phải chịu làm nô lệ cho guồng máy ban phát cơm áo, nhà cửa và các thứ ân huệ khác. Theo gương của Stalin và Mao, Qaddafi biết rằng khi kiểm soát được nồi cơm là có phương pháp kiểm soát toàn thể xă hội hữu hiệu nhất. Nhưng nắm đầu kinh tế chưa đủ. Qaddafi cũng tạo ra một guồng máy công an, mật vụ, bắt, giết, tra tấn những người có ư kiến khác. Qaddafi sử dụng guồng máy chuyên chế của ḿnh để nuôi một đám thuộc hạ tham nhũng, tập trung quanh gia đ́nh ông ta; nhờ tài nguyên dầu lửa dồi dào. Giống các bác Mao, bác Kim, Qaddafi bên ngoài rất lăng mạn. Anh Cả đ̣i sống trong một cái lều. Chung quanh nuôi lạc đà, nuôi dê, cừu theo lối sống cổ truyền của những người du mục. Khi sang New York họp Đại Hội Đồng Liên Hiệp Quốc, Qaddafi đ̣i dựng một cái lều để ngủ chứ không vào khách sạn. Khi các dân quân nổi dậy chiếm Tripoli người dân Libya mới khám phá ra cả một cuộc sống xa hoa của gia đ́nh lănh tụ kính yêu.

Để bảo đảm bộ máy kềm chế xă hội, Qaddafi tất nhiên cũng dựng lên một bộ máy nói dối trá tuyên truyền cho chế độ. Theo gương cuốn Sách Đỏ của Mao Trạch Đông, ông ta xuất bản cuốn Sách Xanh năm 1975; bắt học sinh, sinh viên học tập “Tư tưởng Gaddafi,” môn học quan trọng nhất trong các khóa tŕnh. Qaddafi ra lệnh mỗi thành phố phải dựng tượng, không phải chỉ có h́nh ông ta mà cả h́nh bộ Sách Xanh của “Tư Tưởng Gia Cách Mạng” Qaddafi nữa.

Cũng giống như các bác Kim Chính Nhật, bác Pol Pot và bác Mao, Anh Cả Lănh đạo Qaddafi phải được tôn thờ, chiếm độc quyền niềm kính ngưỡng của dân chúng. Báo, đài không được nhắc đến, không được in h́nh một nhân vật nào khác ngoài lănh tụ anh minh. Cả đến các ngôi sao bóng đá cũng không được đề cao trong các phương tiện truyền thông.

Kinh nghiệm của các quốc gia sống dưới những Người Hùng như Qaddafi cho thấy di sản mà họ để lại là những xă hội tan ră, những quốc gia thiếu nền tảng. Tất cả guồng máy quốc gia được lập ra để phục vụ một cá nhân hay một đảng. Không có một định chế chính trị và xă hội nào đủ cứng cỏi và bền vững để thiết lập một guồng máy cai trị dựa trên luật pháp. Không một nhóm hay một tổ chức xă hội độc lập nào làm môi trường, làm khung cảnh cho người dân tham dự vào việc quốc gia. Cho nên sau khi chế độ độc tài sụp đổ th́ thường sinh ra hỗn loạn.

Ở những nước như Ba Lan, Tiệp Khắc, hoặc ở Nam Hàn, Đài Loan, ngay trong lúc chế độ độc tài c̣n cai trị, đă xuất hiện những hạt giống đang nẩy mầm của xă hội công dân. Giới trí thức Hiến Chương 77, Phong trào Công đoàn Đoàn Kết, hay các tổ chức sinh viên đại học, các công đoàn ở Nam Hàn đều là những tế bào đầu tiên sau này phát triển thành xă hội công dân, nền tảng của chế độ dân chủ. Ở các quốc gia thiếu những mầm mống của xă hội công dân, như Nelorussia, Ukraina, Iraq, hay các nước Trung Á thuộc Liên Xô cũ, sau khi lật đổ chế độ độc tài rồi, việc xây dựng các định chế dân chủ tự do rất khó khăn và chậm trễ.

Đó là những tấm gương mà người dân các nước sống trong chế độ độc tài phải suy ngẫm. Thay v́ chờ đợi những Người Hùng, người lănh đạo “tài đức vẹn toàn,” một dân tộc hăy lo xây dựng các định chế xă hội công dân ngay để tái thiết quốc gia sau khi lật đổ chế độ độc tài.

Những chính quyền độc tài chuyên chế c̣n sót lại trên thế giới cũng phải suy nghĩ. Họ muốn được kết thúc trong bàn tay bọc nhung như ở Đông Đức, Ba Lan, Tunisie, Ai Cập? Hay họ muốn theo số phận của Ceau escu và Qaddafi? Phải lựa chọn sớm, không thể nào nuôi măi giấc mộng “muôn năm trường trị” được. Muốn kết thúc êm thắm, tốt nhất nên dần dần trả tự do cho người dân được sinh hoạt đoàn thể, tụ họp, phát biểu, lập những hội đoàn để chuẩn bị cho một xă hội công dân tương lai.

 

Chú Thích: Cách viết tên nhà độc tài Libya bằng mẫu tự La tinh thay đổi. V́ mẫu tự tương đương với Q trong tiếng Á Rập có thể phát âm nhiều cách khác nhau, “q” hoặc “k” hay “g” và “gh” tùy theo vùng. Cho nên hăng thông tấn Associated Press, báo Wall Street Journal và công ty CNN hay viết là “Gadhafi”, báo Los Angeles Times viết “Kadafi.” Đài ti vi Á Rập Al Jazeera, viết “Gaddafi,” trong khi nhật báo New York Times viết “el-Qaddafi,” cho có vẻ Á Rập hơn!


Nguồn: http://www.nguoi-viet.com/absolutenm2/templates/?a=138834&z=7






Trung Quốc đe dọa một cuộc chiến thương mại với Mỹ?

Trung quốc hôm nay phản ứng một cách giận dữ trước việc Thượng viện Hoa Kỳ thông qua dự luật trừng phạt Trung Quốc về biện pháp thao túng tiền tệ.

Trung quốc cho rằng như thế là vi phạm qui định của Tổ chức Mậu dịch Thế giới, WTO, và có thể gây nên một cuộc chiến thương maị giữa hai phía.
Phát ngôn nhân Bộ Ngoại giao Trung Quốc, Mả Triêu Húc, cho rằng đó là một sự vi phạm nghiêm trọng qui định của WTO, mà không thể giải quyết t́nh trạng kinh tế cũng như thất nghiệp của Hoa Kỳ.
Bộ Thương Mại Trung Quốc cũng lên tiếng cho rằng việc Thượng viện Hoa Kỳ thông qua dự luật vừa nêu là vi phạm nghiêm trong các luật lệ quốc tế.

Nguồn : www.rfa.org




  Một Thử Thách Cuả Barack Obama ?

Hiện tại trong siêu thị cuả các nước lớn trên thế giới nhất các nước là thành viên cuả WTO (World Trade Organization) như là Mỹ, Canada, Liên Âu, Úc  v..v... Đều tràn ngập hàng hoá cuả Tàu với giá rẻ mạt,  giá một món hàng cuả Tàu bằng 1/3 hay 1/2 giá cuả một món hàng sản xuất nội địa, tại Việt Nam cũng như thế.! (Riêng Việt Nam th́ Hán tặc dùng chính sách khủng bố kinh tế đối với Hán nô !). 

V́ nhân công rẻ mạt và nhân dân tệ cuả Tàu quá thấp so với đồng đô la Mỹ (1 đô Mỹ = 6.4 nhân dân tệ, giá đổi ngày 13/10/2011), nên giá bán ra trên thị trường quá rẻ, tạo nên một sức hút giới tiêu thụ. Kết quả là những mặt hàng nội điạ không bán được và những công ty sản xuất đóng cửa hay di chuyễn đi các xứ khác, nhân công trong nghành sản xuất thất nghiệp càng ngày càng tăng !.

Nhiều dân biểu và chính khách cuả Mỹ đă nhiều lần yêu cầu và cảnh caó Tàu là phải tăng giá nhân dân tệ cuả tàu để có được một sự  trao đổi công bằng trong mậu dịch nhưng phiá Tàu làm ngơ ! (giá trao đổi tạm công bằng là 1 đô Mỹ = 3 hay 4 nhân dân tệ). Nên thượng viện Mỹ đề ra một dự luật trừng phạt Tàu bằng cách đánh thuế trên hàng Tàu nhập cảng vào Mỹ, để giá bán ra có thể tương đương so với hàng nội điạ;
(C̣n một cách thứ hai để giải quyết vấn đề nầy là in thêm tiền, làm giăm đô la Mỹ, nhưng cách nầy không nhắm vào Tàu một cách đích đáng và ảnh hửng đến thế siêu cường kinh tế cuả Mỹ) Tạo ra môt t́nh trạng cạnh tranh công bằng và hầu tái tạo việc làm trong nghành sản xuất hay ít ra th́ cũng có một ngân khoản để trợ cấp cho ngươỉ dân thất nghiệp, là nạn nhân cuả Tàu trong sự bành trướng bất chính.

Phiá Tàu th́ quen thói "láu cá" chỉ bắt nạt  được đám Hán nô tại Bắc Bộ phủ mà vẽ đường lưỡi ḅ trên biển Đông mà thôi, chứ dám làm ǵ chú sam tại toà Nhà Trắng. Về mặt tài chính th́ đám Hán tặc tại Trung Nam Hải đang ở thái thế cầm lưỡi cuả một con dao trong việc đầu tư công cố phiếu tại Mỹ!?. Chú sam tuyên chiến là đám Hán tặc tại Trung Nam Hải sạch tay!? Ngay cả việc tranh chấp trên biển Đông bọn Hán tặc chỉ hù doạ chú sam chứ dám làm ǵ, v́ đám Hán tặc đang trong thế bị động và thua trên cả hai mặt trận quân sự và tài chính nếu chú sam tuyên chiến !? Hán tặc "bố láo" để đỡ nhục mà thôi !

Nếu tổng thống Obama không đồng thuận để ban hành dự luật trừng phạt Tàu th́ bằng cách nào tạo ra được hàng triệu việc làm trong khi tỷ lệ thất nghiệp trong tháng 10/2011 là 9.1% (www.bls.gov) ?. Cơ hội tái đắc cử nhiệm kỷ 2 coi như không có và đảng Cộng Hoà sẽ lên cầm quyền trong năm 2013, Hán tặc sẽ phải bị trừng phạt. Nếu đồng thuận th́ hành xử ngược lại với hiến chương cuả tổ chức mậu dịch thế giới (WTO)?.

Một thử thách trong sự nghiệp chính trị cuả Barack Obama là làm tổng thống một nhiệm kỳ hay là một cuộc trừng phạt Tàu trong thương trường quốc tế sẽ phải diễn ra một cách hào hứng vậy ?.

Nam Phong
13/10/2011






Hoa Kỳ sẽ thông qua dự luật trừng phạt kinh tế đối với Trung Quốc

Bất chấp phản đối từ Bắc Kinh và cảnh báo từ Nhà Trắng, Thượng Viện Liên Bang Mỹ quyết định trong ngày hôm nay sẽ thông qua dự luật trừng phạt kinh tế đối với Trung Quốc.

Dự luật nói rằng Trung Quốc cố ư hạ giá đồng nhân dân tệ để trục lợi khi xuất khẩu hàng sang Mỹ, tạo thêm khó khăn cho người dân Hoa Kỳ trong lúc t́nh trạng thất nghiệp quá cao. V́ thế cho tới khi nào điều này được sửa đổi, chính phủ Hoa Kỳ phải đánh mức thuế cao hơn đối với các mặt hàng sản xuất từ Hoa Lục.
Mặc dù được các vị nghị sĩ Dân Chủ và Cộng Ḥa ủng hộ, nhưng dự luật không có cơ hội được thông qua ở Hạ Viện, đồng thời Nhà Trắng cũng báo trước là Tổng Thống Hoa Kỳ Barack Obama sẽ dùng quyền phủ quyết.
Bắc Kinh nhiều lần lên tiếng nói rằng các nghị sĩ Mỹ t́m cách chính trị hóa chuyện này, nói thêm rằng dự luật nếu được ban hành sẽ mở ra một cuộc chiến thương mại giữa 2 nước.

Nguồn: www.rfa.org




Tăm xỉa răng Trung Quốc ”ăn đứt” hàng Âu, Mỹ, Úc châu…
 
UYÊN HẠNH
 
 
Trong tuần rồi các diễn đàn thân hữu chuyển cho nhau bài viết của Wang Bin, một người tù cải tạo tại Trung Quốc, tả rơ việc các tù nhân, nhất là những tù nhân bị án tử h́nh, hoặc án chung thân được đưa qua các pḥng lao động trong tù làm việc như thế nào và những sản phẩm được ”sản xuất” từ nhà tù là loại ǵ. Những người tù yếu ốm ghẻ lở bệnh hoạn bị ép làm việc 15-16 tiếng mỗi ngày. Hai ngày một lần chỉ được phép làm vệ sinh 5 phút… Họ vô bao đóng gói các sản phẩm cho nhiều thương hiệu lớn. Từ các thương hiệu nầy chủ nhân cho phân phối hàng hóa của họ đi khắp các nơi trên thị trường thế giới. 
 
Một vật dụng chúng ta dùng hằng ngày, lại ít để ư đến, nên khó tránh, phải nói đến tăm xỉa răng, một nhu cầu thực tế nhất. Ở nhà hay đến hàng quán, chúng ta đều sử dụng tăm xỉa răng. Mua tăm xỉa răng, cũng như bất cứ hàng hóa nào khác, chúng ta thường muốn mua được loại tăm xỉa răng thứ tốt với giá rẻ. Đáp ứng ”đ̣i hỏi” nầy của người tiêu thụ, Trung Quốc có ngay giải pháp hữu hiệu, đó là nguồn nhân lực dồi dào và rẻ tiền tại các nhà tù. Các thương buôn bắt tay làm ăn với các  ”quan giữ ngục”, đặt hàng với số lượng tăm xỉa răng khổng lồ và giá thành rất thấp. Con buôn với một sản phẩm có giá thành rất rẻ do v́ ”nhà sản xuất” là các chủ ngục của nhà nước Trung Quốc không phải trả lương cho nhân công. Tung hàng nầy ra thị trường quốc tế, dĩ nhiên hàng Trung Quốc ”ăn đứt” hàng của các nhà sản xuất tại Âu, Mỹ, Úc châu… một phần cũng do v́ tre là nguyên liệu dồi dào ở Trung Quốc. Không cần phải thấy tận mắt, người tiêu thụ chúng ta cũng h́nh dung ra được những cây tăm xỉa răng ”Made in China” sạch sẽ ”vệ sinh” đến thế nào. V́ thế, tốt nhất nên tránh đừng mua tăm xỉa răng của Tàu. Tốt hơn nữa khi mua tăm xỉa răng loại tăm tre, chúng ta nên cho vào nồi nước đang sôi, đun khoảng 5 phút mới vớt ra. Rải số lượng tăm tre lên một chiếc khăn lau chén bát sạch, để chờ tăm khô. Khi tăm khô ráo, chúng ta cho vào một ống chứa tăm được rửa sạch. Bằng cách nầy chúng ta bảo đảm được một phần sức khỏe cho gia đ́nh. Đi ăn tiệm, nên ”gói” theo vài cây tăm được khử trùng nầy trong túi áo, ví xách. Sẽ an toàn hơn, thay v́ dùng tăm tre tại nhà hàng tiệm ăn. Nếu đă lỡ mua tăm tre của Tàu, và đang dùng bấy lâu nay, tốt nhất nên vất bỏ. Bởi v́ có nấu sôi, cũng chỉ sát trùng nhưng không ”sát” được những hóa chất độc hại do người Tàu ngâm tre vào sau khi đốn cây, để giữ cho sản phẩm tre khỏi mốc đen mốc thối. Chúng ta có thể mua dùng loại tăm xỉa răng bằng ny lông, sản phẩm của các quốc gia bảo vệ nhân quyền, biết tôn trọng mạng sống con người. Nên tránh tăm xỉa răng ny lông của Tàu, v́ vấn đề hóa chất.
 
Xin trích một vài đoạn trong lá thư của cựu tù nhân Wang Bin dưới đây để chúng ta cùng suy ngẫm, xem có nên sử dụng hàng Tàu hoặc nên ”nấu chín” tăm tre trước khi dùng hay không.
 
”Một số lượng sản phẩm lớn đến kinh ngạc, được làm ở Trung Hoa, được sản xuất trong những nhà tù và trại cải tạo lao động. Tôi đă bị sốc…các tù nhân lôi thôi, lem luốt, xám xịt trút bỏ quần áo... những vảy nến, ghẻ lở và các vết lở loét trên cơ thể họ bị phơi bày đầy đủ… Tù nhân phải đóng gói món đồ ăn mang tên “Orchid Beans”. Món snack này làm từ đậu tằm. Họ chở hằng xe tải đậu tằm tới nhà tù. Tại đây đậu tằm được ngâm trong các thùng nước lớn cho đến khi nó nở ra. Mỗi tù nhân được giao tối thiểu 10,000 hạt đậu tằm trong một ngày. Khi hối hả làm cho xong, th́ những thứ như rỉ mũi, nước dăi của tù nhân cũng lẫn cả vào đậu. Các hạt đậu đă qua xử lư ấy được cho vào túi, chuyển tới kho chứa, rồi được rang lên. Sau khi rang, đậu tằm trông vàng ươm, được đóng vào bao b́ đẹp mắt và bán cho khách hàng. Tôi thấy ở Mỹ quốc, nhiều người xài món đậu tằm nhập khẩu từ Trung Hoa, và tôi tự hỏi không biết họ có đang ăn món đậu tằm xuất xưởng từ nhà tù nơi ḿnh từng ở hay không…
Năm nào cũng vậy, rất nhiều đồ giáng sinh được xuất khẩu từ Trung Hoa sang các nước tây phương. Các chuổi nữ trang, dép lót đi trong nhà, thú nhồi bông, áo len, khăn len (xuất khẩu sang Châu Âu), đồ nệm thêu móc để kê tách trà, thêu mũ, thêu đệm ngồi…  Khi kết mũi chỉ hoặc xâu nữ trang tay của họ thường rớm máu… Cũng không cần phải nói, có nhiều bệnh truyền nhiễm t́nh dục mà tù nhân mang theo cũng đă dính lên bóng đèn và đồ chơi… tôi mong rằng quư bà không đeo chúng trên cổ và các cháu bé không đút chúng vào miệng…
 
Những sản phẩm tại Nhà tù Tuanhe ở Bắc Kinh đóng gói một số lượng rất lớn đũa (loại dùng một lần rồi bỏ), hầu hết là để xuất khẩu. Nhà tù Tuanhe không xét ǵ tới yêu cầu vệ sinh của người tiêu dùng, họ làm điều xấu này một cách ngang nhiên. Rất nhiều nhà hàng, khách sạn tại Bắc Kinh vẫn đang sử dụng loại đũa này. Thậm chí đũa của Trung Hoa c̣n được xuất khẩu đi khắp nơi trên thế giới, nhất là Nam Hàn-Nhật bản-Việt Nam- Taiwan-Singapore. Mỗi bận phải sản xuất là chúng tôi bị bắt làm đến nửa đêm hoặc 1 giờ sáng. Tù nhân sống sót trong trại tạm giam sẽ bị gửi đến các nhà tù để thi hành bản án và làm nô lệ lao động. Họ mang theo các căn bệnh truyền nhiễm và bệnh t́nh dục đến các nhà tù, trong khi họ làm ra các sản phẩm giá rẻ với một số lượng lớn.
 
Chúng tôi đă phải lao động không ngừng nghỉ. Công việc hàng ngày kéo dài từ 15 đến 16 tiếng. Căn pḥng chật ních người, và tù nhân không có thời gian để vệ sinh cá nhân. Hai ngày một lần, chúng tôi được dành ra 5 phút để làm vệ sinh cá nhân. Ai không hoàn tất công việc được giao sẽ bị cấm vệ sinh cá nhân. Do vậy, mọi người phải làm cho xong. Chúng tôi phải dậy từ sớm và làm đến khuya, không c̣n thời gian rửa ráy. Tay của tôi bị nửt nẻ, rớm máu và rộp nhiều chỗ v́ phải lao động cực nhọc nhiều giờ mỗi ngày làm đũa… Tôi thường phải làm tới nửa đêm. Điều kiện vệ sinh cực kỳ thấp kém. Mặc dù trên bao b́ của đũa ghi rằng sản phẩm đă được tẩy trùng, có thể dùng ngay xong rồi bỏ, nhưng thực ra toàn bộ quá tŕnh sản xuất cực kỳ dơ dáy. Chúng tôi không hề được rửa tay và những chiếc đũa được đóng gói ngay trên sàn.” (trích bài viết của Wing Bin, một cựu tù nhân trại tù Trung Quốc)
 
Cuối cùng chúng ta thấy rằng, không mua hàng Tàu, ngoài vấn đề sức khỏe chúng ta được bảo đảm, chúng ta c̣n đảm bảo được một phần nào về vấn đề sức khỏe cho những người tù bệnh hoạn, không bị cưỡng ép làm việc trong t́nh trạng vô nhân đạo nếu chúng ta tẩy chay các loại hàng hóa đó. Một hạt muối không làm cho biển mặn, nhưng biển mặn nhờ vô số các hạt muối kết hợp lại.
 
UYÊN HẠNH
31.08.2011     




--------------------------------------------------------

    Hàng Không Mẫu Hạm Đầu Tiên Cuả Đế Quốc Hán Sẽ Hoạt Động vào ngày 1/7/2011

Nam Phong tổng hợp



 LGT (11/6/2011). Một lần nửa cho thấy tập đoàn Hán nô tại Bắc Bộ Phủ quyết tâm thực hiện chính sách quốc pḥng "Ba Không" là một  "tử lệnh" cuả Trung Nam Hải ban phát. Trước sự bành trướng không ngừng, hung hăng và ngạo mạn cuà Hán quyền cho thấy rơ hơn khi chánh thức hạ thủy chiếc hàng không mẫu hạm đầu tiên vào ngày 1/7/2011 như h́nh trên.

Việc khống chế biển Đông ngày càng khắc khe hơn, tàn bạo hơn và coi thường công luận quốc tế hơn là chuyện phải xảy ra sau khi chiếc hàng không mẫu hạm nầy hoạt động ?.

Một chính sách quốc pḥng "Tứ Kết, Ngựa Sắt và Nỏ Thần"  mới có thể cứu nguy t́nh thế trước sự bành trướng cuả đế quốc Hán trên biển Đông ?

Làm thế nào để phá giặc Hán trên biển Đông ?  Không thể tin tưởng được vào ngướ Mỹ giữ ǵn thế quân b́nh và an ninh tại Đông Nam Á, v́ quyền lợi cuả ngướ Mỹ vẫn là trên hết ?

Xin mời xem tham luận Quốc Pḥng (bấm vào đây)

Xin mời xem chi tiết về tin nầy như dưới đây:

Hàng không mẫu hạm của TQ thách thức ai?

Trung Quốc dự kiến đưa Hàng không mẫu hạm đầu tiên vào hoạt động nhân lễ kỷ niệm ngày thành lập Đảng Cộng sản 1/7/2011.

Trung Quốc sắp đưa vào sử dụng hàng không mẫu hạm đầu tiên

Các nguồn tin chưa được xác nhận bởi chính quyền Trung Quốc tin rằng chiếc tàu chở trên 120 hỏa tiễn sẽ đến cảng ở đảo Hải Nam để phô trương uy lực của hải quân nước họ ra vùng biển Đông Nam Á.

Thách thức Hoa Kỳ

Hiện chiếc hàng không mẫu hạm loại Varyag (瓦良格号 - Kuznetsov class) mà Trung Quốc mua của Ukraina đang được hoàn tất ở cảng Đại Liên, miền Đông Bắc.

Cho đến ngày 18/4 năm nay, được biết chiếc tàu đã bắt đầu được sơn màu của Hải quân Quân Giải phóng, lực lượng mà lãnh tụ Đảng, ông Hồ Cẩm Đào cho là quan trọng bậc nhất cho chiến lược quốc phòng của Trung Quốc.

Cũng có tin chưa được kiểm chứng nói tên chiếc tàu sẽ được đặt là Thi Lang (1621 - 1696), kỷ niệm vị Đô đốc chỉ huy hạm đội Phúc Kiến thời nhà Minh bỏ quân của Trịnh Thành Công để về với nhà Thanh.

Hoa Kỳ đã cho rằng sự xuất hiện của hàng không mẫu hạm đầu tiên do Trung Quốc trang bị và đưa vào sử dụng là một "thách thức" với thế thượng phong trên Thái Bình Dương của nước Mỹ.

Dù hiện nay Bộ Tư lệnh Thái Bình Dương của Hoa Kỳ làm chủ năm tổ hợp tác chiến gồm các hàng không mẫu hạm, phi cơ và tàu ngầm, Đô đốc Tư lệnh Robert Willard đã nói Trung Quốc đang "biến đổi cán cân quyền lực trong vùng".

Chiếc tàu hạng Varyag được Trung Quốc mua năm 2001 ở dạng chưa hoàn tất và từ đó đem vào tái thiết kế và trang bị trong chiến lược thúc đẩy sức mạnh hải quân.

Hiện nay, giới quan sát chưa ngã ngũ về sự thách thức thực sự chiếc tàu này tạo ra với Hoa Kỳ và các nước Đông Nam Á.

Dù cùng chia sẻ quan tâm là "chủ quyền của Trung Hoa" tại vùng Biển Đông, báo Đài Loan hôm 12/4 nêu ra lo ngại rằng "hàng không mẫu hạm của Trung Quốc sắp hoàn tất sẽ làm suy yếu khả năng phòng thủ của Đài Bắc".

Cho tới nay, Đài Loan dựa vào sức mạnh của hải quân Hoa Kỳ để phòng ngừa Trung Quốc.

Người Việt Nam đang vừa cân bằng, vừa bám theo sức mạnh Trung Quốc và chú ý không thách thức trực diện trong lĩnh vực biển đảo

TS Richard Weitz

Trả lời BBC Tiếng Việt từ London hôm 18/4/2011, Tiến sĩ Richard Weitz, Giám đốc Viện nghiên cứu Hudson ở Washington DC, Hoa Kỳ, cho rằng "Một hàng không mẫu hạm thì chưa đủ để thách thức thế thượng phong của Hoa Kỳ trên Thái Bình Dương".

Tuy nhiên, ông cho rằng cả một hạm đội nhiều hàng không mẫu hạm của Trung Quốc sẽ làm được điều đó.

Hiện chưa rõ Trung Quốc sẽ thiết kế tiếp các tàu chiến và tàu sân bay ra sao nhưng có các nguồn tin nói Hải quân Quân Giải phóng đặt ra tham vọng lập một hạm đội vào 2016.

Ông Richard Weitz tin rằng "Người Trung Quốc biết được hạn chế của họ (về số hàng không mẫu hạm), nên sẽ không dừng lại, trừ khi họ dùng chiếc tàu mới nhất này chỉ vào việc huấn luyện và thử nghiệm".

'Cân bằng hoặc bám theo'

Trước câu hỏi sự xuất hiện của t̀àu sân bay đầu tiên Trung Quốc đem ra "trình làng" năm nay, các quốc gia nào khác ngoài Hoa Kỳ có thể đóng vai trò cân bằng lại thế lực quân sự của Trung Quốc, tiến sĩ Richard Weitz trả lời:

Tướng Trung Quốc, ông Quách Bá Hùng thăm lãnh đạo Việt Nam tại Hà Nội hôm 13/4

"Nga và Ấn Độ tự mình có thể cân bằng lại sức mạnh quân sự của Trung Quốc nhưng các nước láng giềng khác của Trung Quốc thì phải dựa vào thế lực bên ngoài, như Hoa Kỳ, hoặc chấp nhận làm chư hầu của Trung Quốc."

Tiến sĩ Weitz giải thích rằng theo cách nói trong tiếng Anh, các nước khác có sự lựa chọn: "cân bằng hoặc bám theo" (balance or bandwagon).

Trong các đánh giá của giới chức Hoa Kỳ, một phần đáng ngại của quá trình xây dựng sức mạnh quốc phòng Trung Quốc là hỏa tiễn đạn đạo và các cách tấn công bằng tin tặc và mạng Internet trong không gian ảo.

Ông Weitz cho rằng "đây là những thứ rất đáng ngại và đe dọa trực tiếp Hoa Kỳ, Nḥât Bản cùng một số nước khác".

Nhưng một trong những chủ đề tác động đến dư luận Việt Nam nhiều nhất vẫn là cuộc tranh chấp ở Biển Đông.

Trong những tuần qua, Đài Loan và Philippines cũng vào cuộc, lên tiếng mạnh hơn về chủ quyền của họ tại vùng quanh quần đảo Trường Sa.

Về phía mình, Trung Quốc hôm giữa tháng 4/2011 đã thẳng thừng bác bỏ thư Philippines gửi lên Liên Hiệp Quốc để phản đối yêu sách đường chín đoạn của Bắc Kinh.

Trong một thư ngoại giao (note verbale) gửi lên Liên Hiệp Quốc hồi đầu tháng, Manila viết rằng tuyên bố chủ quyền Biển Đông của Trung Quốc "không có cơ sở theo luật quốc tế".

Tiến sĩ Richard Weitz cho rằng chiến lược của Hà Nội là "khôn ngoan"

Bình luận về các bước đi ngoại giao này, tiến sĩ Richard Weitz cho rằng điều đáng chú ý là thực ra, căng thẳng về biển đảo trong vùng Đông Nam Á "giảm đáng kể những tháng qua và xu hướng này sẽ tiếp tục".

"Trung Quốc hiểu rằng họ đã sai lầm khi hành xử quá hung hăng trước đó. Nay họ trở lại dùng chiến lược câu giờ và đợi có cơ hội thích hợp để bành trướng ra khu vực."

Tại diễn đàn Bác Ngao trên đảo Hải Nam gần đây, lãnh đạo Bấm Hồ Cẩm Đào lên tiếng kêu gọi hợp tác tốt hơn ở châu Á để tránh bất đồng đang gia tăng vì tranh chấp lănh thổ.

Trong các bước đi quân ṣư - ngoại giao gần nhất, tướng lĩnh Trung Quốc đã sang thăm Việt Nam, nói chuyện với các lãnh đạo Đảng Cộng sản và Quân đội của nước chủ nhà.

Trong chuyến thăm của Ủy viên Bộ Chính trị, Phó Chủ tịch Quân ủy Trung ương Trung Quốc, Bấm Tướng Quách Bá Hùng đến Hà Nội, hai bên đã ra thông cáo cuối tuần trước, khẳng định hợp tác giữa quân đội hai nước.

Nhưng những năm qua, Việt Nam cũng tăng cường mua vũ khí và các tàu chiến, phi cơ chiến đấu trong chiến lược phòng ngừa và bảo vệ biên giới trên biển.

Ngoài ra, Việt Nam cũng tăng cường hợp tác với Philippines quanh vấn đề Trường Sa.

Theo tiến sĩ Weitz, đây là cách làm "khôn ngoan", vừa "cân bằng, vừa bám theo" trước sức mạnh quân sự đang lên của Trung Quốc và cố gắng không thách thức trực diện về biển đảo.

Tàu chiến Trung Quốc bắn hỏa tiễn C801 - hình tư liệu

Nguồn: http://www.bbc.co.uk/vietnamese/world/2011/04/110418_china_aircraftcarrier_challenge.shtml


Chinese Aircraft Carrier?


Pictures like the one above created quite a stir when they first appeared on the Internet, and blogs and forums were soon filled with stories of China secretly constructing thier first nuclear powered aircraft carrier. At first glance, this aircraft carrier looks quite real. The family resemblance to a US Navy Nimitz Class CVN is undeniable; however, upon examining the photos at the bottom of the page the viewer soon realizes that this ship, in fact, is landlocked.

So this is obviously not a real carrier. But what could it be? A non-functional prototype, the first step towards the PLN's first aircraft carrier? A stationary 'practice' carrier to train pilots? A life-sized simulation or 'proof of concept' platform?

Nope. Actually, it is just a really, really cool looking building. Namely, it is the award winning (for creative architecture) "Military Education Center" at the "Orient Green Boat After-School Camp for Youngsters."

Located about one hour west of Shanghai, the camp was constructed at the shores of Dianshan Lake. It covers 360 hectares, and had 8 major areas: Knowledge Boulevard; Bravery and Wisdom; Education on National Defense; Challenge to Survival; Scientific Exploration; Water Sports; Sports Training; and Practice in Living. The adjoining 5000-hectare campsite and village features a Global Village, with accommodation for 4,000 students in a series of hostels, cabins, and campsites themed to reflect the experience of being in 36 different countries. Sports facilities, a golf course, parasailing, windsurfing, a simulated gun range, rides in amphibious military vehicles, museum displays, video games, aircraft, replica spacecraft, ICBMs, and a park with statues of over 160 world-famous people are also included. Think of it as a cross between summer camp, a school field trip, and a communist EPCOT Center.

The "ship" itself is of traditional steel-frame building construction, and is a generic aircraft carrier about 7/8 scale to a Nimitz. Inside are military displays, exhibition halls, meeting rooms, games, and other attractions, and on the 'flight deck' there are Chinese military aircraft, such as helicopters, fighters, and attack planes.

If you ever get the chance, pay it a visit. Busses run from Shanghai and other nearby towns and cities, and admission is only 50 yuan, about $6 US.




Nguồn: http://www.bobhenneman.info




”THÁNG SÁU” SẼ KHÔNG LÀ QUÁ KHỨ 
 

UYÊN HẠNH 
 

Ngày 4 Tháng 6 là ngày đẫm máu tại Thiên An Môn. Vào ngày nầy mỗi năm thế giới nhắc nhở đến cái chết đau đớn của sinh viên học sinh những nhà dân chủ, những người đă can đảm đứng lên chống tham nhũng, đ̣i hỏi người dân Trung Quốc có được cơm ăn áo mặc và quyền làm người được tôn trọng. Nhà cầm quyền Trung Quốc hẳn đă quá sợ hăi trước sự nổi dậy của dân, các lănh đạo Trung Quốc đă tàn nhẫn ra lệnh phong tỏa Quảng Trường Thiên An Môn, chận hết các nẻo đường chung quanh đó, và chỉ thị cho quân đội bắn xối xả vào đám đông và xe tăng cày nát lên thân thể những người dân đang tụ tập tại đó.



                             H́nh ảnh Quảng Trường Thiên An Môn trước khi người dân bị tàn sát (1989) 

Đó là thời gian Đăng Tiểu B́nh và Lư Bằng cầm quyền đă nhẫn tâm bắn giết đồng bào ḿnh. Với t́nh trạng của Trung Quốc bây giờ th́ sao, nếu có một cuộc nổi dậy đ̣i tự do dân chủ. Trong bài xă luận của Đại tướng Lưu Quan (Liu Yuan) được đăng tải trên báo chí tuần vừa qua, cho thấy sự sắt máu trong đường hướng cai trị mới mà giới lănh đạo của Đảng Cộng Sản Trung Quốc đang quyết tâm củng cố. Điều nầy không khỏi đưa đến nhận xét rằng, nếu có một cuộc nổi dậy tại Trung Quốc ngày nay, giống như t́nh h́nh của Thiên An Môn năm 1989, máu của dân chúng có thể sẽ phải đổ nhiều hơn.

Lưu Quan được xem là  một ngôi sao đang lên trong Quân đội Nhân dân Giải phóng. Tướng Lưu lên tiếng kêu gọi Trung Quốc hăy tái lập ”truyền thống quân đội” và khẳng định ”lịch sử được viết bằng máu và sự tàn sát”. Trong bài xă luận của ḿnh, Họ Lưu mô tả quốc gia như là ”Một bộ máy quyền lực được tạo dựng bằng bạo động” và thách thức các lănh tụ của Đảng Cộng Sản mang ư hướng dân chủ là ”những người đang phản bội truyền thống cách mạng của họ”, và tuyên bố rằng ”chiến tranh là sự nối tiếp tự nhiên của các nền kinh tế chính trị, và con người không thể tồn tại nếu không chém giết”. Họ Lưu phát biểu: " Truyền thống quân đội đă có từ lâu đời và là sự khôn ngoan quan trọng nhất của con người. Không có chiến tranh làm sao có đại đoàn kết. Không có binh lực, làm ǵ có sự liên kết Quốc gia, Ḍng giống, Văn hóa, Bắc Nam có thể thành tựu?". Tướng Lưu Quan đă lớn tiếng kêu gọi các người kế vị của cuộc cách mạng cộng sản hăy tái khai phá tinh thần chiến đấu cố hữu của họ và sáng suốt khai phóng cho sự sống c̣n của họ: “Hỡi các thanh niên của Đảng Cộng Sản, đừng đầu hàng! Hăy bắt đầu trở lại".   

Chủ Tịch nhà  nước Hồ Cẩm Đào (Hu Jintao) trong năm nay đă tiến cử tướng Lưu Quan lên làm Chính Ủy của Tổng Cục Hậu Cần Quân Đội Nhân Dân Giải Phóng sau khi thăng cấp Đại Tướng cho Lưu Quan vào năm 2009. Một số giới chức tin rằng Lưu Quan sẽ nhận sự thăng thưởng trong hai giai đoạn bằng chiếc ghế trong Hội Đồng Quân Ủy Trung Ương, một bộ phận lănh đạo tối cao của Quân Đội.    

“JUNE”: Tháng Sáu đẫm máu tại Thiên An Môn. Nói về Biến cố Thiên An Môn, nhà văn kiêm nhà báo và nhà thơ Shi Tao đă viết bài thơ với tựa đề “JUNE” (THÁNG SÁU) tả về Tháng Sáu đẫm máu tại Thiên An Môn. Bài thơ đă được dịch ra rất nhiều thứ tiếng và chuyển đọc tại nhiều quốc gia trên thế giới. Bài thơ viết rất đơn giản nhưng tác dụng của nó thực sự mănh liệt. Đọc thơ Shi Tao về biến cố Thiên An Môn chúng ta thấy rơ lư tưởng tranh đấu cho Dân chủ của ông và không lạ ǵ về việc Shi Tao đă bị Nhà cầm quyền Trung Quốc bắt bỏ tù.  

Suốt  đời tôi Sẽ không bao giờ  có “Tháng sáu” quá  khứ (My whole life Will never get past “June”) Trong hai câu đầu ông đă truyền đạt hoàn toàn khối cảm xúc của ông cho người đọc. Ông viết rằng, cái Tháng Sáu đẫm máu đó luôn luôn là một sự kiện rất thực và sống động. Nó là Hiện Tại bởi v́ nó vẫn nằm trong mắt và trong tư tưởng, rất hiện thực và v́ thế đối với ông không thể nào “ Tháng Sáu” là một quá khứ.được. Nó là vết thương đang chảy máu và là vết thương đang đau. Với hai câu thơ đầu tiên trong bài ông đă đánh động ḷng dân và hô hào một sự nổi dậy. Khi con người chưa có cơm ăn áo mặc và quyền làm người, con người phải tranh đấu. 

Tháng sáu, mặt trời nung vỡ mảnh da trần Phơi bày rơ  nét, mặt thật vết thương tôi  (June, the scorching sun burns open my skin Revealing the true nature of my wound) Mặt Trời với người dân Trung Quốc tiêu biểu cho Thiên Hoàng, người có quyền lực tối cao trong tay, cầm quyền sinh sát và cai trị đất nước. Khi người dân có được sự no ấm, người dân yêu mến Hoàng Đế của ḿnh và gọi vua là Minh Quân. Một đấng minh quân sẽ đem no ấm cho dân, như sự ấm áp của Mặt Trời nuôi sống loài người muôn thú và cây cỏ. Trong bài thơ của ḿnh Shi Tao đă dùng chữ Mặt Trời rất cô đọng và hàm súc. Ông cho người đọc thấy rơ rằng, Nhà Cầm Quyền Trung Quốc thời bấy giờ đă không đem no ấm cho dân, ngược lại họ dùng quyền sinh sát của ḿnh làm vỡ da nát thịt người dân. Điểm nầy cho thấy rơ vết thương “dân chủ” đang chảy máu. Mặt Trời trong bài thơ nầy của ông không có sự ấm áp làm căn bản sinh tồn cho con người. Mặt Trời thời điểm đó đă dùng sức nóng cùng cực đốt cháy, gây bỏng rát đau đớn cho thân phận bé bỏng của người dân. Chữ “Tôi” (vết thương tôi) trong hai câu thơ nầy một lần nữa nhấn mạnh đến tính chất “hiện thực” trong quan điểm của Shi Tao về cái nh́n vào Tháng Sáu lịch sử, đưa lịch sử nhập vào vai tṛ hiện sử. 

Tháng sáu, con cá bơi vượt đại dương máu  đỏ Hướng về nơi xa ngủ giấc mùa đông (June, the fish swims out of the blood-red sea Toward another place to hibernate) Với cách dùng chữ, viết bằng trái tim ḿnh, Shi Tao vẽ ngay trong mắt chúng ta thân phận của người dân bất lực và ngộp thở trong quyền lực đỏ. Mỗi chữ trong bài thơ mang nhiều ư nghĩa, rất hàm súc v́ tiềm tàng h́nh ảnh. Con cá nói đến thân phận của người dân. Câu “bơi vượt đại đương máu đỏ” nói đến sự vượt thoát không tưởng. H́nh ảnh bé nhỏ đáng thương của con cá mang hy vọng sự sống, trong chủ ư “hướng về nơi xa”, là một nơi có nước xanh trong, giữa ngút ngàn vô tận của biển cả đỏ. Phải thoát khỏi đại dương đỏ, mới có giấc ngủ b́nh an.


Một thanh niên can đăm chận  đoàn xe tăng tiến vào quảng trường tàn sát
ngướ dân biểu t́nhvào ngày 3 -4/6/1989

Shi Tao đưa vào bài thơ cái thao thức trăn trở trước thời cuộc của ông và của bao người vẫn đang khát khao một đời sống ở đó quyền làm người được tôn trọng. H́nh ảnh con cá trong đại dương mênh mông ngoài sự tranh đấu để vượt thoát c̣n nhấn mạnh một điểm khác, ShiTao đă nhắc đến trong hai câu đầu tiên của bài thơ, đó là điểm luôn thức tỉnh. Chúng ta biết rằng cặp mắt loài cá không bao giờ khép lại, ngay cả khi ngủ. Chọn h́nh ảnh con cá trong bài thơ ḿnh Shi Tao đưa ra h́nh ảnh tiêu biểu cho sự thao thức. Lối dùng chữ của Shi Tao thật đúng bậc Thầy. Một biển cả trong xanh sẽ dễ dàng cho cá bơi lội. “Đại dương máu đỏ” trong bài thơ nhấn mạnh đến thể chế cộng sản tại Trung Quốc, sự mịt mờ không có lối thoát của người dân, cùng h́nh ảnh một Thiên An Môn tắm máu người vô tội. Biển cả đầy máu đỏ (Nhà cầm quyền Trung Quốc) sẽ chận đường hướng làm cho con cá (người dân) bị bưng bít mù ḷa tăm tối. Câu “hướng về nơi xa ngủ giấc mùa đông” đơn giản nói đến tư tưởng Tự do Dân chủ. “Giấc ngủ mùa đông” cho thấy thời gian tính của cuộc đấu tranh cho quyền làm người. 

Tháng sáu, qủa đất vẫn quay, nước những ḍng sông vẫn  đổ trong lặng lẽ Chất đống những bức thư chưa giao được cho người đă ĺa đời (June, the earth shifts, the rivers fall silent Piled up letters unable to be delivered to the dead) Hai câu thơ nầy tạo cho người đọc một nỗi đau quá lớn: Các hoạt động thường nhật vẫn tiếp tục, cũng có nghĩa là Nhà cầm quyền vẫn dửng dưng không rung động trước thảm cảnh thương tâm ngày 4/6. Số lượng sinh viên học sinh bị thảm sát tại Thiên An Môn nhiều vô số kể. H́nh ảnh người đưa thư phân phát những bức thư gửi về các cư xá sinh viên học sinh tràn ngập v́ không người nhận. Cho đến nay số người bị thảm sát tại Thiên An Môn vẫn chưa có một con số nhất định. Con số của Nhà cầm quyền Trung Quốc đưa ra th́ quá ít so với những con số của báo chí nước ngoài, của Cơ quan Hồng Thập Tự. Một con số chính xác nhất có thể thấy được, đó là: “chất đống những bức thư chưa giao được cho người đă ĺa đời”! 

 
THÁNG SÁU  

Suốt  đời tôi

Sẽ  không bao giờ có “Tháng sáu”  quá khứ 

Tháng sáu, khi tim tôi ngừng đập

Khi hồn thơ  vỡ nát

Khi người yêu tôi

Gục chết trong vũng máu nguồn t́nh  

Tháng sáu, mặt trời nung vỡ mảnh da trần 

Phơi bày rơ  nét, mặt thật vết thương tôi 

Tháng sáu, con cá  bơi vượt đại dương máu  đỏ

Hướng về  nơi xa ngủ giấc mùa  đông

Tháng sáu, qủa  đất vẫn quay, nước những ḍng

sông vẫn  đổ trong lặng lẽ

Chất  đống những bức thư chưa giao được cho người đă ĺa  đời 

JUNE của ShiTao, Uyên Hạnh chuyển dịch

 
JUNE By Shi Tao  

My whole life

Will never get past “June”  

June, when my heart died

When my poetry died

When my lover

Died in romance’s pool of blood  

June, the scorching sun burns open my skin

Revealing the true nature of my wound  

June, the fish swims out of the blood-red sea

Toward another place to hibernate

June, the earth shifts, the rivers fall silent

Piled up letters unable to be delivered to the

dead    

Translated from Chinese to English by Chip Rolley, Sydney PEN Centre 

 

Kỷ niệm Ngày 4 Tháng 6, xin nguyện cầu cho những người đă hy sinh cho Tự Do và Dân Chủ. H́nh ảnh những người dân vô tội ngă xuống và gục chết một cách thê thảm trên vũng máu chỉ v́ lư tưởng ḥa b́nh không bao giờ mất đi trong tư tưởng mọi người, như lời thơ của Shi Tao: ”Sẽ không là Quá Khứ”! 

UYÊN HẠNH

03.06.2011



Dân Ai Cập hân hoan v́ Mubarak từ chức

Thứ bảy, 12 tháng 2, 2011


Tổng thống Hosni Mubarak đã tuyên bố từ chức sau nhiều tuần biểu tình rầm rộ của người dân tại Cairo và các thành phố khác.

Tin đưa ra được hàng nghìn người dân có mặt tại quảng trường Tahrir ở thủ đô Cairo hò reo chào đón.

Quảng trường này trong mấy tuần nay đã trở thành trung tâm điểm của cuộc biểu tình chống chính phủ.

Ông Mubarak cầm quyền 30 năm nay, với chính sách dập tắt bất đồng và chống đối, đồng thời bỏ tù các nhân vật chỉ trích.

Tổng thống Barack Obama tuyên bố rằng nay Ai Cập cần chuyển sang chế độ dân sự và dân chủ.

Ông Obama nói đây không phải là dấu chấm hết, mà là sợ khởi đầu và nhiều khó khăn còn chồng chất ở phía trước. Thế nhưng ông tin rằng người dân sẽ tìm được câu trả lời.

Tổng thống Obama nói: "Người dân Ai Cập đã lên tiếng, tiếng nói của họ đã được nghe thấy".

"Ai Cập sẽ không bao giờ còn như trước kia nữa."

"Người dân đã nói rõ rằng họ sẽ chỉ chấp nhận một nền dân chủ thực sự."

'Cầu Thượng đế phù hộ'

Khi thông báo về việc ông Mubarak từ chức, Phó Tổng thống Omar Suleiman cho hay ông tổng thống đã trao quyền điều hành cho quân đội.

Ông Suleiman nói trên truyền hình nhà nước rằng chỉ huy quân đội đã lãnh trách nhiệm.

Ông nói: "Nhân danh Thượng đế nhân từ, trong những hoàn cảnh rất khó khăn mà Ai Cập đang phải gánh chịu hiện nay, Tổng thống Hosni Mubarak đã quyết định sẽ từ chức và đã trao cho ủy ban cao cấp của lực lượng vũ trang quyền lãnh đạo đất nước".

"Cầu Thượng đế phù hộ cho tất cả mọi người."

Sau đó, một sỹ quan quân đội đã đọc thông cáo, ca ngợi ông Mubarak về các cống hiến của ông nhưng thừa nhận quyền lực của người dân.

Thông cáo nói: "Không có gì cao hơn quyền lực của nhân dân".

Ủy ban cao cấp của quân đội do Bộ trưởng Quốc phòng Mohamed Hussein Tantawi lãnh đạo.

Đây là cơ hội vô cùng quý báu để kiến tạo một chính quyền có khả năng đoàn kết người dân

Thủ tướng Anh David Cameron

Các điện tín của sứ quán Mỹ tại Ai Cập rò rỉ trên Wikileaks từng mô tả Tướng Tantawi là "già nua và bảo thủ", nhưng cam kết không tham chiến thêm nữa với Israel.

Ông Mubarak đã rời Cairo và hiện có mặt tại khu nghỉ mát Sharm el-Sheikh trên bờ Hồng Hải, nơi ông có dinh thự riêng.

Tại thủ đô, hàng nghìn người tập trung bên ngoài dinh Tổng thống, tại quảng trường Tahrir và bên ngoài đài Truyền hình Trung ương.

Họ hò reo với thông điệp: "Nhân dân đã lật đổ chính quyền".

Lãnh đạo phe đối lập Mohamed ElBaradei thì nói: "Đây là ngày sung sướng nhất đời tôi."

Hosni Mubarak

Ông Hosni Mubarak
  • Từ phó tổng thống lên tổng thống sau khi ông Anwar Sadat bị ám sát năm 1981
  • Ủng hộ chính sách hòa bình Sadat với Israel
  • Duy trì luật tình trạng khẩn cấp trong suốt thời gian cầm quyền
  • Bị mưu sát năm 1995 tại Ethiopia
  • Thường xuyên đàn áp bất đồng chính kiến và giới chỉ trích

"Không thể tưởng tượng nổi niềm vui và hạnh phúc của mỗi người Ai Cập khi tự do và nhân quyền được khôi phục."

Tổ chức Huynh đệ Hồi giáo (Muslim Brotherhood), phong trào đối lập vốn bị cấm ở Ai Cập, thì khen ngợi quân đội đã giữ lời hứa.

Cựu lãnh đạo phong trào này tại Quốc hội Mohamed el-Katatni nói: "Tôi hoan nghênh người dân Ai Cập và tri ân các liệt sỹ. Đây là ngày chiến thắng của toàn dân Ai Cập. Mục tiêu cuối cùng của cách mạng đã đạt được".

Ayman Nour, đối thủ của ông Mubarak trong kỳ chạy đua chức tổng thống năm 2005, nói đây là ngày vĩ đại nhất trong lịch sử Ai Cập.

"Dân tộc này vừa tái sinh. Đất nước này vừa tái sinh, và đây là nước Ai Cập mới."

Amr Moussa, cựu ngoại trưởng Ai Cập, thì tuyên bố sẽ rời chức vụ tổng thư ký Liên đoàn Ả rập "trong vài tuần tới". Hãng thông tấn Mena của Ai Cập đưa tin ông có thể tranh cử chức tổng thống.

Phóng viên BBC tại Cairo nói thông báo của phó tổng thống đã khiến người dân ngỡ ngàng: trong cả thành phố, các lái xe bóp còi trong khi nhiều người bắn súng chỉ thiên.

Tuy nhiên phóng viên của chúng tôi nhận xét việc quân đội nay nắm quyền điều hành khiến mọi việc giống như một cuộc đảo chính quân sự.

Hiến pháp đã bị vi phạm vì đáng ra Chủ tịch Quốc hội phải nắm quyền lãnh đạo chứ không phải chỉ huy quân đội.

Thay đổi lịch sử

Trong khi đó trên toàn Trung Đông và Bắc Phi, kể cả Tunisia, người dân ăn mừng cho thay đổi tại Ai Cập.

Đại diện cho Liên đoàn Ả rập, ông Moussa nói các sự kiện tại Ai Cập cho cơ hội xây dựng đồng thuận trong nước.

Iran cũng mô tả đây là "chiến thắng vĩ đại".

Một quan chức cao cấp của Israel bày tỏ hy vọng rằng việc ông Mubarak ra đi sẽ không "thay đổi quan hệ vốn hòa bình với Cairo".

Tổng thư ký Liên Hiệp Quốc Ban Ki-moon thì nói ông tôn trọng "quyết định khó khăn" được đưa ra vì lợi ích của người dân, và kêu gọi một sự chuyển giao "hòa bình và có trật tự".

Lãnh đạo châu Âu cũng phản ứng tích cực trước thông tin ông Mubarak từ chức.

Người phụ trách chính sách đối ngoại của EU, Bá tước Ashton, nói châu Âu tôn trọng quyết định này.

Bà nói: "Điều quan trọng là quá trình đối thoại phải được thúc đẩy nhằm thiết lập một chính phủ nhiều thành phần, phản ánh được nguyện vọng và mang lại ổn định cho người dân Ai Cập".

Thủ tướng Anh David Cameron nói đây là "cơ hội vô cùng quý báu để kiến tạo một chính quyền có khả năng đoàn kết người dân".

Ông cũng kêu gọi chuyển tiếp sang một chế độ dân sự và dân chủ.

Thủ tướng Đức Angela Merkel đã hoan nghênh sự "thay đổi lịch sử" ở Ai Cập.

Phó Tổng thống Mỹ Joe Biden nói Ai Cập đã tiến tới một giai đoạn quan trọng của lịch sử.

Các cuộc biểu tình chống chính phủ bắt đầu hôm 25/01 nổ ra do tình trạng bất bình của người dân trước nạn thất nghiệp, nghèo đói và tham nhũng.

Trước đó, người dân Tunisia cũng đã biểu tình lật đổ Tổng thống Zine al-Abidine Ben Ali.

           Nguồn: http://www.bbc.co.uk/vietnamese/world/2011/02/110212_egypt_mubarak.shtml



Người Việt nói về chính biến ở Ai Cập

Nam Phong tổng hợp

Người dân Ai Cập ăn mừng

Quyền lực của người dân đã chiến thắng

Cho tới trưa thứ Bảy 12/02, Chính phủ Việt Nam chưa đưa ra tuyên bố chính thức về việc tổng thống Ai Cập từ chức, trong khi báo chí đưa tin dè dặt.

Quyết định ra đi của ông Hosni Mubarak được đưa ra vào gần nửa đêm 11/02, giờ Việt Nam.

Sáng sớm 12/02, hầu hết các báo điện tử trong nước đều đã chạy tin về sự kiện này, nhưng để ở bên trong chứ không nằm lớn trên trang chủ như báo nước ngoài.

Chạy nhiều bài liên quan tới diễn biến mới tại Ai Cập là tờ VnExpress, nhưng các bài đều nằm trong chuyên mục tin quốc tế phải rà chuột xuống cuối trang chính mới thấy.

Dường như các báo đang chờ đợi phát ngôn chính thức của Chính phủ.

Bộ Ngoại giao Việt Nam chưa có bình luận gì về việc ông Hosni Mubarak từ chức. Website của bộ này chỉ có phát biểu của Người phát ngôn đưa ra từ bốn hôm trước, rằng "Việt Nam quan tâm theo dơi những diễn biến gần đây tại Ai Cập và mong muốn t́nh h́nh Ai Cập sớm đi vào ổn định".

Cũng giống như Trung Quốc, Việt Nam đặt cao tầm quan trọng của ổn định xã hội-chính trị.

Dư luận quan tâm

Không như các kênh chính thống, các diễn đàn tiếng Việt tràn ngập bình luận của người quan tâm tới thời sự nói về tình hình Ai Cập.

Một blogger viết: "Bây giờ Ai Cập, bao giờ đến Việt Nam".

Người khác tỏ ra băn khoăn rằng cuộc chính biến tại Ai Cập hiện nay chưa có dấu hiệu của một cuộc "cách mạng dân chủ thực sự".

Mubarak ra đi, Thụy Sỹ phong tỏa tài sản - khi nào th́ nhân dân lấy lại được những ǵ đă bị cướp bởi những kẻ độc tài?

Blogger Osin

Có người quan ngại rằng việc mạng internet đóng vai trò quan trọng trong điều phối làn sóng biểu tình ở Ai Cập có thể dẫn tới hậu quả là trang Facebook sẽ tiếp tục bị chặn ở Việt Nam.

Nhà báo Huy Đức, hay blogger Osin, viết trên trang Facebook của mình: "Mubarak ra đi, Thụy Sỹ phong tỏa tài sản - khi nào th́ nhân dân lấy lại được những ǵ đă bị cướp bởi những kẻ độc tài?"

Nhà vận động dân chủ tại Mỹ Đoàn Viết Hoạt, trong bài viết mới gửi cho BBC, thì khẳng định: "Quần chúng Ai Cập đă thắng, sức mạnh của nhân dân đă thắng".

"Cuộc biểu t́nh của mấy trăm ngàn người kiên tŕ nhưng ôn ḥa bất bạo động, diễn ra trong trật tự, với sự đồng t́nh và bảo vệ của quân đội, đă biến thành những ngày hội dân chủ, một sự kiện độc đáo chưa từng có, đă làm nức ḷng mọi người yêu dân chủ trên toàn thế giới, nhất là tại những nước như Việt Nam."

Ông Hoạt viết: "Dù t́nh h́nh Ai cập c̣n nhiều bấp bênh nhưng sau những ǵ đă xẩy ra ngoài đường phố Cairo, chắc chắn không một thế lực độc tài nào c̣n có thể dễ dàng khuynh loát được sinh hoạt chính trị tại Ai Cập."

Quan điểm của giới bất đồng chính kiến

Theo ông Đoàn Viết Hoạt, "quần chúng là động lực, xuất phát điểm và mục đích cuối cùng của cuộc biểu dương dân chủ".

Chế độ độc tài ở Ai Cập còn non kém, khác xa với độc tài có khoa học của chủ nghĩa Lenin

Linh Mục Nguyễn Văn Lư

Ông cũng nhận định rằng biến chuyển chính trị tại Việt Nam đi theo một lộ tŕnh khác với Tunisia và Ai Cập, đó là "lộ tŕnh chuyển hóa dân chủ, vừa từ dưới lên, vừa từ trên xuống", và nó đang xảy ra.

Còn linh mục bất đồng chính kiến Nguyễn Văn Lý thì cho rằng liên quan của các diễn biến tại Bắc Phi như Tunisia và Ai Cập tới Việt Nam chỉ là "trong nhận thức của một số người có theo dõi, chứ chưa liên quan tới từng tế bào gân thịt của người dân".

"Đa số người dân vẫn không biết những gì đang xảy ra tại Tunisia hay Ai Cập."

Theo linh mục Lý, "chế độ độc tài ở Ai Cập còn non kém, khác xa với độc tài có khoa học của chủ nghĩa Lenin".

Linh mục Nguyễn Văn Lý cho rằng muốn có những thay đổi như ở Bắc Phi, các nhà hoạt động ở Việt Nam phải phấn đấu nhiều nữa, "làm sao để người dân Việt Nam thoát khỏi sợ hãi và dối trá", mà ông cho là hai nền tảng của chế độ xã hội trong nước hiện nay.

Nguồn: http://www.bbc.co.uk/vietnamese/vietnam/2011/02/110212_egypt_vietopinion.shtml




Ai Cập

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
جمهوريّة مصر العربيّة
Gomhuriat Misr Al-Arabiah
Cờ Ai
                                          Cập Huy hiệu Ai Cập
Cờ
Khẩu hiệu
Không có
Quốc ca
Bilady, Bilady, Bilady
Vị trí của Ai Cập
Thủ đô
(và là thành phố lớn nhất)
Cairo
30°2′B, 31°13′Đ
Ngôn ngữ chính thức Tiếng Ả Rập
Chính phủ Cộng ḥa bán tổng thống
 -  Quyền tổng thống
Thủ tướng
Mohamed Tantawi
Ahmed Shafik
Độc lập
 -  Từ Anh  
Diện tích
 -  Tổng số 1,001,450 km² (hạng 30)
 -  Nước (%) 0,6%
Dân số
 -  Ước lượng 2005 79.089.650 (hạng 15)
 -  Mật độ 77 /km² (hạng 93)
GDP (PPP) Ước tính 2004
 -  Tổng số 282.333 tỷ USD 
HDI (2003) 0,659 (trung b́nh) (hạng 119)
Đơn vị tiền tệ Bảng Ai Cập (EGP)
Múi giờ (UTC+2)
 -  Mùa hè (DST)  (UTC+3)
Tên miền Internet .eg
Mă số điện thoại +20

Ai Cập (tiếng Ả Rập: مصر, Misr), có tên chính thức là Cộng ḥa Ả Rập Ai Cập (جمهوريّة مصر العربيّة, Gumhūriyyat Misr al-'Arabiyyah), là một nước cộng ḥa nằm ở Bắc Phi, Trung ĐôngTây Nam Á. Nước này c̣n được người Việt trước thế kỷ 20 phiên âm là Y Diệp như trong sách Tây hành nhật kư của Phạm Phú Thứ.

Mục lục

Nguồn gốc và lịch sử tên gọi

km.t
bằng chữ tượng h́nh
km m t
niwt

Mir là tên chính thức theo tiếng Ả Rập của Ai Cập hiện đại, nó có nguồn gốc từ tiếng Semite cùng gốc trực tiếp với tiếng Hebrew מִצְרַיִם (Mitzráyim), có nghĩa là "hai đoạn thẳng" và cũng có thể có nghĩa là "một đất nước" hay "một quốc gia". Tên cổ của nước này là kemet, hay "miền đất đen," xuất phát từ lớp đất phù sa lắng đọng màu mỡ màu đen do những trận lụt của sông Nil đem đến, khác biệt so với 'miền đất đỏ' (deshret) của sa mạc. Ở giai đoạn sau, cái tên này trở thành keme trong tiếng Copt. Tên Egypt theo tiếng Anh bắt nguồn từ từ Aegyptus trong tiếng Latin và xuất phát từ Αίγυπτος (Aiguptos) trong tiếng Hy Lạp cổ. Từ này có thể lại có nguồn gốc từ câu ḥwt-k3-ptḥ ("Hwt ka Ptah") trong tiếng Ai Cập cổ có nghĩa là "ngôi nhà của Ka (một phần linh hồn) của Ptah," tên của một ngôi đền thánh Ptah tại Memphis (Ai Cập).

Xem thêm Copt

Lịch sử

Những trận lụt đều đặn hàng năm mang theo nhiều phù sa của sông Nil, cùng với t́nh trạng bán cô lập do sự ngăn cách của sa mạc phía đông và phía tây, dẫn tới sự phát triển của một trong những nền văn minh vĩ đại nhất thế giới. Nước Ai Cập được coi là lập quốc vào khoảng năm 3100 trước Công Nguyên bởi pharaong huyền thoại Menes, người đă cho xây thành Memphis và chọn đây làm kinh đô. Triều đại có nguồn gốc địa phương cuối cùng, được gọi là Vương triều thứ 30, đă sụp đổ trước sức tấn công của người Ba Tư năm 343 TCN và vị pharaong người Ai Cập cuối cùng là Nectanebo II phải thoái vị. Lúc ấy người Ai Cập đă đào nên nền móng đầu tiên của kênh Suez và nối liền Biển Đỏ với Địa Trung Hải. Sau đó, Ai Cập lần lượt bị cai trị bởi người Hy Lạp, La Mă, Đông La Mă (Byzantine) và một lần nữa bởi người Ba Tư.

Chính người Ả Rập Hồi giáo đă đưa Đạo Hồitiếng Ả Rập tới Ai Cập trong thế kỷ thứ 7, và người Ai Cập dần tiếp nhận cả hai ảnh hưởng đó. Những vị quan cai trị Hồi giáo do khalip chỉ định ra nắm quyền kiểm soát Ai Cập trong ba thế kỷ tiếp sau. Những triều đại tự chủ bắt đầu với những tổng đốc cha truyền con nối từ năm 868. Ai Cập đạt đến tột đỉnh hùng mạnh với ba triều đại Fatimid (trải từ Ma Rốc đến Xy Ri), Ayyubid (thắng được liên quân các nước Tây Âu), và Mamluk (thắng được Mông Cổ và Tây Âu). Từ năm 1517 Ai Cập bị lệ thuộc vào đế quốc Ottoman của người Thổ Nhĩ Kỳ, rồi lại thêm ảnh hưởng của PhápAnh cho đến thế kỷ 20.

Sau khi kênh đào Suez hoàn thành năm 1869, Ai Cập trở thành một đầu mối vận chuyển quan trọng của thế giới; tuy nhiên, nước này cũng có một gánh nặng nợ lần to lớn. Với lư do bảo vệ các khoản đầu tư của ḿnh, Anh Quốc đă chiếm quyền kiểm soát chính phủ Ai Cập năm 1882, nhưng trên danh nghĩa vẫn nó vẫn thuộc Đế chế Ottoman cho đến tận năm 1914.

Sau khi giành lại độc lập hoàn toàn từ tay Anh Quốc năm 1922, Nghị viện Ai Cập phác thảo và áp dụng một hiến pháp năm 1923 dưới sự lănh đạo của nhà cách mạng nhân dân Saad Zaghlul. Từ 1924 đến 1936, người Ai Cập đă thành công trong việc lập ra một chính phủ hành pháp theo kiểu chính phủ Châu Âu hiện đại; được gọi là Cuộc thử nghiệm tự do Ai Cập. Tuy nhiên, người Anh, vẫn giữ một số quyền kiểm soát khiến chính phủ không có độ ổn định cần thiết. Năm 1952, một cuộc đảo chính quân sự buộc vua Farouk, của chính thể quân chủ lập hiến, thoái vị nhường ngôi cho con trai là vua Ahmed Fuad II.

Cuối cùng, nước Cộng ḥa Ai Cập được tuyên bố thành lập ngày 18 tháng 6 năm 1953 với Tướng Muhammad Naguib là Tổng thống của nền cộng hoà. Sau đó Naguib cũng bị Gamal Abdel Nasser, kiến trúc sư của phong trào 1952 buộc phải từ chức năm 1954, Nasser lên nắm quyền Tổng thống và quốc hữu hoá kênh Suez dẫn tới cuộc khủng hoảng Suez năm 1956. Nasser ra khỏi chiến tranh với tư cách một anh hùng Ả Rập, và chủ nghĩa Nasser đă lan rộng ảnh hưởng trong vùng dù có gặp phải sự phản ứng từ phía một số người Ai Cập, đa số họ trước đó không hề quan tâm tới chủ nghĩa quốc gia Ả Rập.

Từ 1958 đến 1961, Nasser tiến hành xây dựng một liên minh giữa Ai Cập và Syria được gọi là Cộng ḥa Ả Rập Thống nhất. Nỗ lực này cũng gặp phải một số chống đối, và rơ ràng rằng nhiều người Ai Cập không bằng ḷng khi thấy rằng cái tên của tổ quốc ḿnh, vốn đă có từ hàng ngh́n năm, bỗng nhiên biến mất. Ba năm sau cuộc Chiến tranh sáu ngày năm 1967, trong đó Ai Cập mất bán đảo Sinai vào tay Israel, Nasser chết và được Anwar Sadat kế vị. Sadat bỏ liên minh với Liên Xô từ thời Chiến tranh Lạnh để quay sang Hoa Kỳ, trục xuất các cố vấn Liên Xô năm 1972, và tung ra cuộc cải cách kinh tế Infitah, trong khi tăng cường hành động đàn áp bạo lực đối với các hành động chống đối tôn giáo. Cái tên Ai Cập vẫn được giữ lại.

Năm 1973, Ai Cập cùng với Syria tung ra một cuộc tấn công bất ngờ vào Israel trong cuộc Chiến tranh tháng 10 (cũng được gọi là Chiến tranh Yom Kippur), dù nó hoàn toàn là một thắng lợi quân sự, nhưng về mặt chính trị lại không mang lại kết quả. Cả Hoa Kỳ và Liên Xô đều can thiệp vào, và đạt tới một thỏa thuận ngừng bắn giữa Ai Cập và Israel. Năm 1979, Sadat kư hiệp ước ḥa b́nh với Israel để đổi lấy bán đảo Sinai, một hành động đă làm nảy sinh nhiều mâu thuẫn trong thế giới Ả Rập dẫn tới việc Ai Cập bị loại trừ khỏi Liên đoàn Ả Rập (Ai Cập đă tái gia nhập năm 1989). Sadat bị những kẻ theo tôn giáo chính thống ám sát năm 1981, người kế tục ông là Hosni Mubarak.

Chính trị

Ai Cập đă là một nước cộng ḥa từ ngày 18 tháng 6, 1953. Tổng thống Mohamed Hosni Mubarak đă làm Tổng thống nền Cộng hoà từ 14 tháng 10, 1981, sau vụ ám sát cựu Tổng thống Mohammed Anwar El-Sadat. Mubarak hiện đang ở nhiệm kỳ thứ năm. Ông là lănh đạo đảng cầm quyền Đảng Dân chủ Quốc gia. Thủ tướng Dr. Ahmed Nazif lên cầm quyền ngày 9 tháng 7, 2004, sau khi Dr. Atef Ebeid từ chức.

Chính quyền Ai Cập bị nhiều nước coi là độc tài quân sự. Dù quyền lực trên danh nghĩa được tổ chức theo hệ thống bán tổng thống đa đảng, theo đó quyền hành pháp trên lư thuyết được phân chia giữa Tổng thống và Thủ tướng, trên thực tế hầu như chỉ một ḿnh Tổng thống được bầu ra trong những cuộc bầu cử chỉ có một ứng cử viên trong ṿng hơn năm mươi năm qua. Ai Cập cũng có những cuộc bầu cử nghị viện đa đảng thường xuyên. Cuộc bầu cử tổng thống gần đây nhất, trong đó Mubarak thắng cử nhiệm kỳ thứ năm liên tiếp, được tổ chức vào tháng 9 năm 2005 (xem dưới đây).

Cuối tháng 2 năm 2005, Mubarak thông báo trên một chương tŕnh truyền h́nh rằng ông đă ra lệnh cải tổ luật bầu cử tổng thống của đất nước, dọn đường cho những cuộc bầu cử đa ứng cử viên trong tương lai. Lần đầu tiên kể từ phong trào năm 1952, dân chúng Ai Cập có cơ hội thực sự để bầu ra một nhà lănh đạo từ một danh sách ứng cử viên. Tổng thống nói rằng ư định này của ông xuất phát từ "nhận thức đầy đủ của tôi về sự cần thiết phải củng cố những nỗ lực để tăng cường hơn nữa tự do và dân chủ." Tuy nhiên, luật mới đặt ra những hạn chế khắc nghiệt đối với người muốn ra tranh cử, và đă được toan tính trước nhằm ngăn chặn các ứng cử viên đă rất nổi tiếng như Ayman Nour không thể ra tranh cử chống lại Mubarak, và dọn đường để ông dễ dàng được tái tranh cử.

Những lo ngại một lần nữa lại dấy lên sau cuộc bầu cử năm 2005 về sự can thiệp của chính phủ vào quá tŕnh bầu cử thông qua việc gian lận và lừa gạt. Hơn nữa, bạo lực do những người ủng hộ Mubarak tiến hành chống lại những người đối lập và sự tàn bạo của cảnh sát đă xảy ra trong quá tŕnh bầu cử. Điều này đặt ra nghi vấn về cam kết mà chính phủ đă loan báo về một quá tŕnh dân chủ.

V́ vậy, đa số người dân Ai Cập vẫn c̣n hoài nghi về quá tŕnh dân chủ hóa và vai tṛ của các cuộc bầu cử. Một tỷ lệ rất nhỏ những người đủ tư cách bầu cử trên thực tế đă bị gạt ra khỏi danh sách cuộc bầu cử năm 2005. Tuy nhiên, báo chí đă cho thấy họ ngày càng tự do hơn trong việc chỉ trích tổng thống, và những kết quả của cuộc bầu cử nghị viện gần đây cho thấy những đảng Hồi giáo như đảng hiện bị cấm Anh Em Hồi giáo đă thắng nhiều ghế, việc này chứng tỏ một sự thay đổi thật sự đang diễn ra.

Quốc tế

Trụ sở thường trực của Liên đoàn các quốc gia Ả rập (Liên đoàn Ả rập) đóng tại Cairo. Tổng thư kư Liên đoàn từ lâu theo truyền thống đều là người Ai Cập. Cựu Bộ trưởng ngoại giao Ai Cập Amr Moussa hiện là Tổng thư kư Liên đoàn Ả rập. Liên đoàn Ả rập đă rời khỏi Ai Cập sang Siry trong một giai đoạn ngắn năm 1978 để phản đối hiệp ước ḥa b́nh của Ai Cập với Israel nhưng đă quay trở lại năm 1989.

Ai Cập là nước Ả rập đầu tiên thiết lập quan hệ ngoại giao với nhà nước Israel, sau khi kư kết Hiệp ước ḥa b́nh Ai Cập-Israel theo Thỏa thuận trại David. Ai Cập có ảnh hưởng lớn đối với các quốc gia Ả rập, và từ lâu đă đóng một vai tṛ quan trọng làm người ḥa giải các tranh chấp giữa các nước Ả rập, và tranh chấp Israel-Palestine. Đa số các quốc gia Ả rập vẫn tin tưởng Ai Cập trong vai tṛ này, dù ảnh hưởng của nó thường bị hạn chế.

Cựu Phó thủ tướng Ai Cập Boutros Boutros-Ghali đă làm Tổng thư kư Liên hiệp quốc từ 1991 đến 1996.

Một tranh chấp lănh thổ với Sudan về vùng được gọi là Tam giác Hala'ib, khiến quan hệ ngoại giao giữa hai nước vẫn c̣n nhiều trở ngại.

Quân đội

Bài chi tiết: Quân đội Ai Cập

Quân đội Ai Cập có lẽ là lực lượng quân sự mạnh nhất trên lục địa Châu Phi, và là một trong những lực lượng lớn nhất vùng Trung Đông. Các lực lượng quân sự Ai Cập cũng có nhiều kinh nghiệm chiến trường hơn đa số các quân đội khác trong vùng. Quân đội Ai Cập có khoảng 450.000 người phục vụ thường xuyên.

Chỉ huy tối cao là Tổng thống, hiện tại Hosni Mubarak, trong thời chiến kiêm luôn chức Nguyên soái quân đội, Đô đốc hải quân, Nguyên soái (Colonel General) các lực lượng Pḥng không và Không quân. Trong thời b́nh, tước vị Chỉ huy tối cao chỉ là danh nghĩa.

Nghĩa vụ quân sự là bắt buộc đối với đàn ông Ai Cập từ tuổi 19. Những sinh viên có thể lùi thời hạn nhập ngũ tới tuổi 28. Thời gian nghĩa vụ phụ thuộc vào mức độ giáo dục của từng người.

Ai Cập có mối hợp tác quân sự mạnh với Hoa Kỳ, và trong nhiều lĩnh vực chiến lược, gồm quá tŕnh hợp tác đang thực hiện nhằm hiện đại hóa trang bị vũ khí và huấn luyện các lực lượng Ai Cập.

Ai Cập tham gia thường xuyên vào các cuộc tập trận với Hoa Kỳ và các nước Châu Âu cũng như các đồng minh Ả rập, gồm những cuộc thao diễn hai năm một lần diễn ra tại Ai Cập.

Ai Cập liên tục tham gia vào các chiến dịch ǵn giữ ḥa b́nh của Liên hiệp quốc, gần đây nhất là tại Đông Timor, Sierra Leone, và Liberia.

Hành chính

Bài chi tiết: Tỉnh của Ai Cập
Bản đồ Ai Cập

Ai Cập được chia thành 26 tỉnh và thành phố Al Uqsur (Luxor), được xếp hạng là một thành phố chứ không phải một vùng thủ hiến. Dưới tỉnh là các khu. Dưới khu là các thành phố và các tổng. Dưới thành phố là các quận. Dưới tổng là các xă.

Kinh tế

Bài chi tiết: Kinh tế Ai Cập

Ai Cập là một thị trường được các công ty quốc gia xem là trọng điễm trong khu vực Trung ĐôngBắc Phi. Kinh tế Ai Cập phụ thuộc chủ yếu vào nông nghiệp, môi giới trung gian, xuất khẩu dầu mỏ và du lịch; cũng có hơn 5 triệu người Ai Cập đang làm việc ở nước ngoài, đa số tại Ả rập Xê út, vùng Vịnh như UAE, và Châu Âu. Hoa Kỳ cũng có một lượng lớn dân nhập cư Ai Cập.Ai Cập có thu nhập GDP đầu người ở mức 5800 USD, đứng thứ 133 trên thế giới.Ngoài ra, hiện tại Ai Cập cung cấp khoảng 55% sản lượng vải cotton trên thế giới.

Đập Aswan được hoàn thành năm 1971 và Hồ Nasser được h́nh thành từ đó đă thay đổi vị trí của ḍng sông Nile lâu đời đối với nông nghiệp và sinh thái Ai Cập. Với một dân số tăng trưởng nhanh chóng (đông nhất thế giới Ả rập), hạn chế về đất canh tác, và sự phụ thuộc vào sông Nile khiến các nguồn tài nguyên và kinh tế nước này phải chịu nhiều sức ép lớn.

Chính phủ đă gắng sức đẩy mạnh phát triển kinh tế trong thiên niên kỷ mới thông qua cải cách kinh tế và đầu tư ồ ạt vào viễn thông và hạ tầng cơ sở, đa số nguồn tài chính có được từ viện trợ nước ngoài của Hoa Kỳ (từ 1979, khoảng $2.2 tỷ mỗi năm). Ai Cập là nước nhận viện trợ lớn thứ ba của Hoa Kỳ từ sau chiến tranh Iraq. Các điều kiện kinh tế đang bắt đầu được cải thiện nhiều sau một giai đoạn tŕ trệ nhờ việc tự do hóa các chính sách kinh tế của chính phủ, cũng như tăng nguồn thu từ du lịch và sự bùng nổ của thị trường chứng khoán. Trong bản báo cáo hàng năm của ḿnh, IMF đă xếp hạng Ai Cập là một trong những nước dẫn đầu thế giới về thực hiện cải cách kinh tế.

Dân cư

Ai Cập là nước đông dân thứ hai ở Châu Phi, với khoảng 83 triệu người. Hầu hết dân số tập trung dọc theo hai bờ sông Nile (nhất là tại Alexandria và Cairo) và tại Châu thổ và vùng gần Kênh đào Suez. Gần 90% dân số theo Đạo Hồi và đa số c̣n lại theo Thiên chúa giáo (nhiều nhất là giáo phái Coptic Chính thống). Ngoài việc phân chia theo tôn giáo, người Ai Cập có thể được xếp loại theo nhân khẩu thành những người sống ở vùng thành thị và nông dân (fellahin) hay các chủ trại ở các làng nông nghiệp.

Từ thời cổ đại, đặc biệt trước khi Thượng và Hạ Ai Cập thống nhất, những ảnh hưởng từ Bắc PhiĐịa Trung Hải đă trở thành thống trị ở phía bắc, trong khi người Ai Cập ở phía Nam vẫn giữ quan hệ với người NubiansEthiopians. Dù có những khác biệt đó, người Ai Cập hiện đại đang ngày càng có quan hệ gần gũi hơn với nhau và đều là con cháu của xă hội Ai Cập cổ, luôn gắn với nông nghiệp và đông đúc so với các vùng xung quanh [1], [2]. Dân Ai Cập đă sử dụng nhiều loại ngôn ngữ từ hệ ngôn ngữ Afro-Asiatic trong suốt lịch sử của họ bắt đầu từ Ai Cập Cổ cho tới Ai Cập Ả rập hiện đại.

Sự Ả Rập hoá Ai Cập là một quá tŕnh văn hóa đă bắt đầu với việc du nhập Đạo Hồingôn ngữ Ả rập sau khi người Ả rập Hồi giáo chinh phục họ vào thế kỷ thứ 7. Trong các thế kỷ tiếp theo, một hệ thống thứ bậc xă hội đă được tạo ra theo đó người Ai Cập đă cải đạo Hồi giáo có được vị trí mawali hay "khách hàng" đối với tầng lớp Ả rập cai trị, trong khi những người vẫn theo Thiên chúa giáo, Copts, bị gọi là dhimmis. Sự ưu tiên của cộng đồng Ả rập thiểu số tiếp tục biến đổi thành một h́nh thức mới trong giai đoạn hiện đại ở vùng nông thôn, nơi những tàn tích của các bộ lạc Ả rập Bedouin tồn tại song song với các nông dân Ai Cập. Một tác giả đă miêu tả nhân khẩu học xă hội nông thôn vùng Thượng Ai Cập như sau:

Thượng Ai Cập bao gồm tám vùng thủ hiến xa nhất về phía nam. ... lịch sử vùng này là một trong những trung tâm cách biệt nhất khỏi trung tâm đời sống quốc gia. Mối quan hệ địa phương h́nh thành từ điều kiện đó trong nhiều thế kỷ đă khiến Thượng Ai Cập có một nét riêng biệt bên trong quốc gia Ai Cập hiện đại. Bên cạnh đó, sự hiện diện từ xa xưa của người Copts, những nhóm bộ tộc từ thời chinh phục của người Ả rập đă h́nh thành nên một tôn ti trật tự đặt hai nhóm [thiểu số], ashraf và Ả rập lên vị trí thống trị. Trật tự này được các bộ tộc nhỏ hơn tuân theo, với người nông dân [Ai Cập] ở vị trí thấp nhất trong xă hội(28) [...] Tôn giáo là trung tâm của sự phát triển xă hội Thượng Ai Cập. Ashraf tuyên bố họ là con cháu trực tiếp của Prophet, trong khi Ả rập cho rằng họ có nguồn gốc từ một nhóm bộ tộc ở Ả rập. Mặt khác, người nông dân (fellahin) vẫn bị cho là con cháu của các cộng đồng tiền Hồi giáo Ai Cập và đă cải sang Hồi giáo, một lịch sử khiến họ không thể vượt lên cả ashraf lẫn Ả rập. [...] Trong các cộng đồng Hồi giáo cũng như Thiên chúa giáo, và đặc biệt ở mức độ kinh tế xă hội thấp hơn, việc thực thi tôn giáo rất quan trọng đối với những yếu tố dân gian không chính thống, một trong những nguồn gốc từ thời pharaoh. [3]

Fellah có nghĩa là "nông dân", "tá điền", trong tiếng Ả rập nó chỉ những người dân vùng nông thôn tại những nơi người Ả rập đă chinh phục được. 60% dân số Ai Cập [4], là fellahin (số nhiều của fellah???) có cuộc sống khổ cực và tiếp tục sống trong những ngôi nhà làm bằng gạch bùn giống như tổ tiên xưa kia của họ. Đầu thế kỷ 20, con số này c̣n cao hơn, trước khi có làn sóng nhập cư của họ vào các thành thị và thị trấn. Năm 1927, nhà nhân loại học Winifred Blackman, tác giả cuốn Người Fellahin Thượng Ai Cập, đă tiến hành một nghiên cứu dân tộc học về cuộc sống của những người nông dân Thượng Ai Cập và kết luận rằng có một sự tiếp nối giữa các đức tin và sự thi hành văn hóa và tôn giáo trong những người fellahin với những thời Ai Cập cổ đại [5].

Các nhóm dân tộc thiểu số ở Ai Cập gồm một lượng nhỏ bộ tộc Ả rập Bedouin sống ở phía đông và phía tây sa mạc và Bán đảo Sinai, người SiwisỐc đảo Siwa nói ngôn ngữ Berber và các cộng đồng Nubian cổ tụ tập dọc theo sông Nile vùng cực nam Ai Cập. Ai Cập cũng có khoảng 90.000 người tị nạn, đa số là 70.000 người tị nạn Palestine và 20.000 người tị nạn Sudan. Một cộng đồng Do Thái từng rất mạnh mẽ đă hoàn toàn biến mất, hiện chỉ c̣n một số lượng nhỏ ở lại Ai Cập và những người chỉ tới đó vào các dịp lễ hội tôn giáo. Nhiều địa điểm khảo cổ học và lịch sử quan trọng của Do Thái hiện vẫn c̣n tại đó.

Tôn giáo

Bài chi tiết: Tôn giáo tại Ai Cập

Theo hiến pháp, bất kỳ một thể chế mới nào đều phải tuân theo luật Hồi giáo (tiếng Ả rập: الإسلام). Ai Cập là một nước Hồi giáo với gần 90% dân số theo đạo này, phần lớn thuộc ḍng Sunni một nhánh của Hồi giáo [6]. Người theo Thiên chúa giáo chiếm khoảng 10% dân số, phần lớn là ḍng Coptic với 9%, 1% c̣n lại gồm Công giáo, Hy Lạp Chính thống, Syri Chính thống, và Armenia Chính Thống, phần lớn sống tại AlexandriaCairo.

Hiện vẫn c̣n một cộng đồng Do Thái nhỏ, với khoảng 300 người Ai Cập.

Có những người Ai Cập tự coi ḿnh là vô thần và theo thuyết bất khả tri, nhưng không thể biết số lượng của họ v́ việc công khai điều này đồng nghĩa với việc bị trừng phạt. Năm 2000, một nhà văn Ai Cập vô thần công khai, kêu gọi thành lập một hiệp hội những người vô thần ở Ai Cập, đă bị kết tội lăng mạ Hồi giáo và những nhà tiên tri trong bốn cuốn sách của ông [7].

Trường phái Hanafi của Hồi giáo Sunni được nhà nước tổ chức rộng răi thông qua Wizaret Al-Awkaf (Bộ các vấn đề tôn giáo). Al-Awkaf kiểm soát mọi thánh đường và quản lư mọi tu sĩ Hồi giáo. Các Imams được đào tạo trong những trường hướng nghiệp Imam và tại Đại học Al-Azhar. Ủy ban này ủng hộ Hồi giáo Sunni và có nhiệm vụ đưa ra những lời phán quyết Fatwa về các vấn đề.

Ai Cập có hai thể chế tôn giáo chính. Đại học Al-Azhar (Arabic: جامعة الأزهر) là thể chế Hồi giáo cổ nhất và là viện nghiên cứu cấp cao nhất (đă được thành lập từ khoảng năm 970 sau Công Nguyên). Ai Cập cũng có nhiều di sản Thiên chúa giáo với sự hiện diện của Nhà thờ Coptic Chính thống do Giáo trưởng Alexandria lănh đạo, với khoảng gần 50 tín đồ Thiên chúa giáo trên khắp thế giới (Một trong những Nhà thờ Coptic Chính thống nổi tiếng khác là Nhà thờ Thánh Takla Haimanot tại Alexandria [8]).

Bahá'ís ở Ai Cập với số người theo khoảng vài trăm ngh́n, nhưng các thể chế và hoạt động cộng đồng của họ bị cấm ngặt; họ cũng không được phép có chứng minh thư. Tháng 4, 2006 một ṭa án đă công nhận Đức tin Bahá'í nhưng chính phủ đă quyết định tái thẩm lại trường hợp đó. Một thành viên nghị viện, Gamal Akl của đảng chính trị đối lập Anh Em Hồi giáo, đă nói Bahá'ís là những người vô đạo và phải bị giết trên mảnh đất mà họ đă quyết định thay đổi tôn giáo của ḿnh [9].

Địa lư

Bài chi tiết: Địa lư Ai Cập
Miền quê Ai Cập, phía nam Cairo.

Ai Cập có biên giới với Li bi ở phía tây, Sudan ở phía nam, với Israel ở đông bắc. Vai tṛ địa chính trị quan trọng của Ai Cập xuất phát từ vị trí chiến lược của nó: là một quốc gia liên lục địa, họ sở hữu một cầu nối lục địa (Eo đất Suez) giữa Châu PhiChâu Á, và một cầu nối đường thuỷ (Kênh Suez) nối giữa Biển Địa Trung Hải và Ấn Độ Dương thông qua Biển Đỏ.

Các thành phố và thị trấn gồm Alexandria, một trong những thành phố cổ vĩ đại nhất, Aswan, Asyut, Cairo, thủ đô Ai Cập hiện đại, El-Mahalla El-Kubra, Giza, nơi có Kim tự tháp Khufu, Hurghada, Luxor, Kom Ombo, Port Safaga, Port Said, Sharm el Sheikh, Shubra-El-Khema, Suez,nơi có Kênh Suez, Zagazig, và Al-Minya.

Các sa mạc: Ai Cập chiếm một phần Sa mạc SaharaSa mạc Libya. Các sa mạc này được coi là "vùng đất đỏ" trong thời Ai Cập cổ đại, và nó bảo vệ Vương quốc của các Pharaohs tránh khỏi các mối đe dọa từ phía tây.

Ốc đảo gồm: Ốc đảo Bahariya, Ốc đảo Dakhleh, Ốc đảo Farafra, Ốc đảo Kharga, Ốc đảo Siwa. Một ốc đảo là một vùng đất xanh tươi và màu mỡ ở giữa sa mạc.

Văn hoá

Bài chi tiết: Văn hoá Ai Cập

Thủ đô Cairo của Ai Cập là thành phố lớn nhất Châu Phi và từ nhiều thế kỷ đă nổi tiếng là một trung tâm học thuật, văn hóa và thương mại. Viện hàn lâm ngôn ngữ Ả rập của Ai Cập chịu trách nhiệm chỉnh lư ngôn ngữ Ả rập (Arabic:اللغة العربية ) trên khắp thế giới.

Ai Cập có một nền công nghiệp truyền thông và nghệ thuật phát triển từ cuối thế kỷ 19, hiện nay có hơn 30 kênh truyền h́nh vệ tinh và 100 phim truyện sản xuất hàng năm. Trên thực tế Cairo từ lâu đă được gọi là "Hollywood của phương Đông." Để phát triển hơn nữa ngành truyền thông của ḿnh, đặc biệt với sự cạnh tranh mạnh mẽ từ Các quốc gia Ả rập vùng VịnhLi băng, một thành phố điện ảnh lớn đă được xây dựng. Ai Cập là nước Ả rập duy nhất có nhà hát opera.

Một số người Ai Cập nổi tiếng:

Để biết thêm những người nổi tiếng khác, xem Danh sách người Ai Cập


Nguồn: http://vi.wikipedia.org/wiki/Ai_C%E1%BA%ADp


Trở lên đầu trang

Bài học Tunisia

Biểu tình
                        ở Tunisia

Một cuộc "cách mạng hoa nhài"?

Tình trạng bất ổn thời gian qua tại Tunisia, quốc gia Ả rập châu Phi, đã thu hút sự chú ý của dư luận trên thế giới.

Kinh tế gia, nhà nghiên cứu nổi tiếng của Pháp, Jacques Attali đưa ra cái nhìn của ông về sự kiện mà ông gọi là "cuộc cách mạng hoa nhài".

Bài viết tựa đề "Tunisia, rồi sau đó?" của Attali đăng trên tờ L'Express hôm 19/01, bình luận rằng những gì xảy ra tại Tunisia không phải là điều bất ngờ.

"Cả thế giới biết rằng thực tế trong ít nhất hai mươi năm nay, làn sóng dân chủ đã tràn qua cả thế giới."

Theo tác giả, lý do không phải bởi các diễn biến chính trị, mà chính vì nền kinh tế thị trường.

"Về lý thuyết, theo phân tích của Karl Marx thì thị trường tạo tiền đề cho dân chủ xuất hiện."

"Đó là bởi vì sự hình thành của một tầng lớp tư sản, vốn cần có sự ổn định về luật pháp cùng với tự do để sáng tạo."

Attali nhìn nhận rằng quan điểm này của tác giả cuốn "Tư bản luận" đã được chứng thực bằng những gì xảy ra tại châu Âu và phương Tây nói chung, rồi đến phương Đông, nước Nga, Nam Mỹ và cuối cùng là nhiều nơi ở châu Phi và châu Á.

Một số lớn các nước châu Phi, châu Á và các nước Ảrập lâu nay không có cơ sở cho nền dân chủ, thậm chí những sự kiện như ở Iran, Thiên An Môn ở Trung Quốc hay tình hình khó khăn tại Miến Điện khiến nhiều người cho rằng kết cục sẽ là chế độ độc tài.

Thế nhưng tác giả bài viết cho rằng diễn biến hiện thời tại Tunisia chứng minh rằng lý thuyết của Marx vẫn còn có giá trị.

"Đất nước Tunisia, chuyển sang kinh tế thị trường, chỉ có thể trở thành một quốc gia dân chủ."

Attali viết, sau đó sẽ là các trường hợp của Ai Cập, của Việt Nam, Trung Quốc, các nước hạ Sahara ở châu Phi; và sau nữa có thể tới Algeria rồi Syria.

Lúc nào?

Tác giả bài viết cho rằng cần xem xét các điều kiện cho một cuộc cách mạng thành công. Theo ông, có năm yếu tố.

Đó là:
 1/ Tầng lớp tư sản được hình thành và phát triển mạnh.
 2/ Một quân đội phi tôn giáo.
 3/ Một tầng lớp thanh niên không có gì để mất.
 4/ Sự thiếu vắng một nhân vật lãnh đạo có uy tín và được lòng người dân; và
 5/ Môi trường quốc tế thuận lợi.

Muốn có chuyển đổi dân chủ tại các quốc gia nước ngoài, theo Attali, chính phủ Pháp cần khuyến khích các thay đổi đó.

"Pháp phải nói rõ rằng dân chủ là hệ thống xã hội duy nhất có thể chấp nhận được, rằng một vị lãnh đạo không thể cầm quyền cả hai mươi năm rồi chuyển giao cho con cái của mình."

Theo ông, chính phủ Pháp cần cho thấy họ không phải là bạn bè của nhân vật lãnh đạo, mà là của người dân các nước, cho dù việc thay đổi lãnh đạo có thể trước mắt sẽ ảnh hưởng quyền lợi của các doanh nghiệp Pháp.

"Hy vọng là người ta không quên những bài học này trước khi một cuộc cách mạng hoa giấy hay cách mạng cây sậy..."

Jacques Attali (sinh năm 1943 tại Algiers, Algeria) là kinh tế gia và học giả Pháp. Từ 1981 tới 1991, ông là cố vấn cho Tổng thống François Mitterrand.


Tunisia

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
الجمهورية التونسية
Al-Jumhūriyyah at-Tūnisiyyah
Cộng ḥa Tunisia
Cờ
                                          Tunisia Coat of Arms Tunisia


Khẩu hiệu
حرية، نظام، عدالة (Hurriya, Nidham, 'Adala)
"Tự do, Trật tự, Công bằng"
Quốc ca
Himat Al Hima
Vị trí của Tunisia
Thủ đô
(và là thành phố lớn nhất)
Tunis
36°50′B, 10°9′Đ
Ngôn ngữ chính thức tiếng Ả Rập
Tên dân tộc Tunisian
Chính phủ Cộng ḥa tổng thống
 -  Quyền Tổng thống Fouad Mebazaa
 -  Thủ tướng Mohamed Ghannouchi
Độc lập
 -  từ Pháp 20 tháng 3 năm 1956 
Diện tích
 -  Tổng số 163.610 km² (hạng 92)
63.170 mi² 
 -  Nước (%) 5.0
Dân số
 -  Ước lượng tháng 7 năm 2005 10.102.000 (hạng thứ 78)
 -  Điều tra 1994 8.785.711 (hạng thứ 78)
 -  Mật độ 62 /km² (hạng thứ 133 (2005))
161 /sq mi
GDP (PPP) Ước tính 2007
 -  Tổng số 97,74 tỷ USD (hạng thứ 60)
 -  B́nh quân đầu người 9.630 (hạng thứ 73)
Gini? (2000) 39.8 (medium) 
HDI (2007) Green Arrow Up
                                  Darker.svg 0,766 (medium) (hạng thứ 91)
Đơn vị tiền tệ Dinar Tunisia (TND)
Múi giờ CET (UTC+1)
 -  Mùa hè (DST) CEST (UTC+2)
Tên miền Internet .tn
Mă số điện thoại +216
Bản đồ
                            của Tunisia

Tunisia (Ả Rập: تونسTūnis), tên chính thức Cộng hoà Tunisia (الجمهورية التونسيةal-Jumhūriyya at-Tūnisiyya), là một quốc gia ở thượng châu Phi. Bắc Phi. Nước này giáp với Algeria ở phía tây, Libya ở phía đông nam, và Biển Địa Trung Hải ở phía bắc và phía đông. Tunisia có diện tích 165,000 km² với dân số ước tính chỉ hơn 10.3 triệu người. Tên nước xuất phát từ tên thủ đô Tunis nằm ở phía đông bắc.

Tunisia là nước nằm ở cực bắc lục địa châu Phi, và là quốc gia nhỏ nhất trong số các quốc gia nằm dọc theo dăy núi Atlas. Miền nam nước này gồm một phần của sa mạc Sahara, và hầu hết phần c̣n lại gồm đất đai đặc biệt màu mỡ và 1,300 km bờ biển. Từng hai lần đóng vai tṛ đặc biệt quan trọng trong thời cổ đại, đầu tiên với thành phố Phoenicia nổi tiếng của Carthage, sau đó như Tỉnh châu Phi được gọi là "giỏ bánh ḿ" của Đế chế La Mă. Sau này, Tunisia bị những kẻ cướp bóc xâm chiếm ở thế kỷ thứ 5, người Byzantine ở thế kỷ thứ 6 và người Ả Rập ở thế kỷ thứ 7.

Dưới thời Đế chế Ottoman, Tunisia được gọi là "Nhiếp chính Tunis". Nó được chuyển sang thuộc quyền bảo hộ của Pháp năm 1881. Sau khi giành được độc lập năm 1956, nước này lấy tên chính thức là "Vương quốc Tunisia" ở cuối thời kỳ cầm quyền của Lamine BeyTriều đại Husainid. Với tuyên bố đưa nhà nước trở thành cộng hoà Tunisia ngày 25 tháng 7 năm 1957, nhà lănh đạo quốc gia Habib Bourguiba trở thành tổng thống đầu tiên và lănh đạo cuộc hiện đại hoá đất nước. Ngày nay Tunisia là một quốc gia hướng theo xuất hẩu, trong quá tŕnh tự do hoá nền kinh tế của ḿnh [1].

Tunisia có những quan hệ thân cận với cả Liên minh châu ÂuBản mẫu:Emdash và đă có một thoả thuận kết hợp với tổ chức nàyBản mẫu:Emdashthế giới Ả Rập. Tunisia cũng là một thành viên của Liên đoàn Ả RậpLiên minh châu Phi.

Mục lục


Từ nguyên

Từ Tunisia xuất xứ từ Tunis; một thành phố thủ đô của Tunisia hiện đại. H́nh thức tên hiện nay, với hậu tố Latinh -ia, xuất phát từ chữ Tunisie của tiếng Pháp.[2] Cái tên này đă được các nhà địa lư, sử học Pháp sử dụng như một phần nỗ lực của họ nhằm tạo ra những cái tên mới cho những lănh thổ và khu vực bảo hộ mà họ mới chiếm được. Từ Pháp Tunisie đă được chấp nhận trong một số ngôn ngữ châu Âu với một ít sửa đổi để tạo ra một cái tên riêng biệt để chỉ nước này. Các ngôn ngữ khác không liên quan tới việc này như trong tiếng Tây Ban Nha Túnez. Trong trường hợp này, cái tên được dùng cho cả quốc gia và thành phố như trong tiếng Ả Rập : تونس và chỉ theo ngữ cảnh, th́ mọi người mới phân biệt được sự khác biệt.[2]

Cái tên Tunis có thể được gán cho nhiều nguồn gốc khác nhau. Nó có thể liên quan tới vị nữ thần Phoenician Tanith (aka Tunit), thành phố cổ Tynes hay với nguồn gốc Berber ens có nghĩa "nằm xuống".

Xem thêm thông tin tại: Từ nguyên của Tunis

Lịch sử

Bài chi tiết: Lịch sử Tunisia

Vào thời điểm bắt đầu có việc chép sử, Tunisia là nơi sinh sống của các bộ lạc Berber. Ven biển đă có người Phoenicia định cư từ thế kỷ 10 trước Công nguyên. Thành phố Carthage đă được thành lập vào thế kỷ 9 trước Công nguyên bởi những người định cư từ Tyre, ngày nay là Liban. Truyền thuyết cho rằng Nữ hoàng Elissa đă thành lập thành phố vào năm 814 trước Công nguyên và được nhắc lại bởi nhà văn Hy Lạp Timaeus của Tauromenium. Những người định cư Carthage mang văn hóa và tôn giáo của họ từ những người Phoenicia và Canaan.

Sau một loạt các cuộc chiến với các thành bang Hy Lạp Sicily vào thế kỷ 5 trước Công nguyên, quyền lực của Carthage đă mạnh lên và cuối cùng đă trở thành nền văn minh chủ đạo ở phía tây Địa Trung Hải. Người Carthage thờ cúng các vị thần Trung Đông, bao gồm BaalTanit. Biểu tượng của thần Tanit, một h́nh tượng phụ nữ đơn giản với cánh tay dang ra và mặc váy dài là một h́nh tượng phổ biến được t́m thấy ở các địa điểm cổ. Những người sáng lập của Carthage cũng lập nên một Tophet và được thay đổi vào thời kỳ La Mă.

Dù người La Mă đề cập đến đế quốc mới phát triển ở thành phố Carthage là Punic hay Phoenician, nhưng đế quốc được xây xung quanh Carthage là một chính thể độc lập khỏi các khu định cư Phoenicia ở phía tây Địa Trung Hải.

Tháp thánh đường Zitouna, Tunis

Một cuộc xâm lược Italia của Carthage do Hannibal chỉ huy trong cuộc chiến tranh Punic thứ hai, một trong một loạt các cuộc chiến với La Mă, gần như làm tê liệt Đế chế La Mă . Carthage cuối cùng đă bị La Mă chinh phục vào thế kỷ 2 trước Công nguyên, một bước ngoặt dẫn đến việc nền văn minh Địa Trung Hải cổ chủ yếu chịu ảnh hưởng của các nền văn hóa châu Âu thay v́ châu Phi. Sau khi La Mă chinh phục, khu vực này đă trở thành một trong những vựa lúa của La Mă và đă bị Latinh hóa và Thiên Chúa giáo hóa hoàn toàn. Lănh thổ này bị Vandals chinh phục vào thế kỷ 5 sau Công nguyên và lại bị chinh phục bởi Belisarius một lần nữa vào thế kỷ 6 trong thời kỳ trị v́ của hoàng đế Byzantine Justinian.

Vào thế kỷ 7, vùng này bị những người Hồi giáo Ả Rập, những người đă lập thành phố Kairouan chinh phục. Các triều đại Hồi đă bị gián đoạn bởi các cuộc nổi loạn của người Berber. Những thời kỳ cai trị của người Aghlabid (thế kỷ thứ 9) và của người Zirid (từ năm 972), những người Fatimid theo Berber, đặc biệt thịnh vượng. Khi những người Zirid làm người Fatimid tức giận ở Cairo (1050), người Fatimid đă gửi bộ tộc Banu Hilal tới trả thù Tunisia.

Những vùng ven biển đă có thời gian ngắn bị người Norman của Sicily kiểm soát vào thế kỷ 12 và việc tái chinh phục của người Ả Rập đă làm cho những tín đồ Thiên Chúa giáo cuối cùng ở biến mất. Năm 1159, Tunisia bị vua Hồi giáo Almohad chinh phục. Sau đó là Hafsids (khoảng 1230 – 1574) của Berber, dưới thời này Tunisia đă thịnh vượng. Cuối thế kỷ 16, vùng ven biển thành một căn cứ địa của cướp biển. Trong những năm cuối cùng của Hafsids, Tây Ban Nha đă chiếm đóng nhiều thành phố ven biển nhưng lại bị đế chế Ottoman chiếm lại. Dưới thời các toàn quyền người Thổ Nhĩ Kỳ, Beys, Tunisia đă lấy lại độc lập thực sự. Triều đại Hussein của Beys, được thành lập năm 1705, tồn tại đến năm 1957.

Thuộc địa Pháp

Giữa thập kỷ 1800, chính quyền Tunisia dưới sự cai trị của Bey đă thỏa hiệp thông qua các quyết định tài chính gây tranh căi đă dẫn tới sự suy thoái của Tunisia. Pháp bắt đầu toan tính kiểm soát Tunisia khi Bey lần đầu vay mối khoản tiền lớn để phương Tây hóa đất nước. Những người định cư châu Âu ở nước này được đặc biệt khuyến khích; số lượng người Pháp tăng từ 34,000 năm 1906 lên 144,000 năm 1945. Năm 1910 có 105,000 người Italia ở Tunisia.[3]

Thế chiến II

Bài chi tiết: Chiến dịch Tunisia

Năm 1942– 1943, Tunisia là nơi diễn ra những chiến dịch lớn của các lực lượng Đồng Minh (Đế chế Anh và Hoa Kỳ) chống lại các cường quốc Phe Trục (Italia và Đức) trong Thế chiến thứ hai. Lực lượng chính của quân đội Anh, tiến lên sau chiến thắng của họ trong Trận El Alamein thứ hai dưới sự chỉ huy của Tướng Montgomery, tiến vào Tunisia từ hướng nam. Hoa Kỳ và các đồng minh khác, sau những cuộc xâm lược của họ ở Algeria và Morocco trong Chiến dịch Ngọn đuốc, tiến vào từ phía tây.

Tướng Rommel, chỉ huy các lực lượng Phe Trục ở Bắc Phi, đă hy vọng giáng cho đồng minh một thất bại ở Tunisia như các lực lượng Đức từng thực hiện ở Trận nước Pháp năm 1940. Trước trận El Alamein, các lực lượng đồng minh đă buộc phải rút về hướng Ai Cập. V́ thế trận Tunisia là thử thách lớn cho quân đồng minh. Họ biết rằng để đánh bại các lực lượng phe Trục họ phải phối hợp hành động và nhanh chóng hồi phục từ những thất bại không thể tránh được mà các lực lượng Đức-Italia sẽ gây ra.

Ngày 19 tháng 2 năm 1943, Tướng Rommel tung ra một cuộc tấn công vào các lực lượng Mỹ ở vùng Đèo Kasserine ở phía tây Tunisia, hy vọng giáng cho một đ̣n làm mất tinh thần của quân đồng minh như người Đức từng làm được tại Ba Lan và Pháp. Những kết quả ban đầu mang tính thảm hoạ cho người Mỹ; vùng xung quanh Đèo Kasserine là nơi có nhiều nghĩa trang chiến tranh của người Mỹ từ thời điểm đó.

Tuy nhiên, các lực lượng Mỹ cuối cùng đă có thể đảo ngược t́nh thế. Biết được một chiến lược chiến tranh xe tăng tối quan trọng, quân Đồng minh đột phá qua giới tuyến Mareth ngày 20 tháng 3 năm 1943. Sau đó quân đồng minh đă có thể liên kết với nhau vào ngày 8 tháng 4 và vào ngày 2 tháng 5 quân đội Đức-Italia ở Tunisia đầu hàng. Nhờ thế, Hoa Kỳ, Anh Quốc, Pháp tự do và Ba Lan (cũng như các lực lượng khác) đă có thể giành được thắng lợi trong một trận đánh lớn như một đội quân đồng minh.

Trận đánh này, dù thường bị Trận Stalingrad làm lu mờ, là một thắng lợi lớn của đồng minh trong Thế chiến II phần lớn bởi nó cho phép Đồng Minh trong một ngày sắp tới sẽ giải phóng Tây Âu.

Chính trị hiện thời


Bài chi tiết: Chính trị Tunisia

Tunisia là một nền dân chủ theo thủ tục. Trên giấy tờ đây là một hệ thống cộng hoà tổng thống có đặc điểm ở hệ thống nghị viện lưỡng viện, gồm Viện Đại biểu và Viện Cố vấn. Tổng thống độc tài Zine El Abidine Ben Ali, trước kia là một nhân vật quân sự, đă nắm quyền từ năm 1987, năm ông lên nhận chức vụ hành pháp của Habib Bourguiba sau khi một đội chuyên gia y tế cho rằng Bourguiba không thích hợp để thực hiện các chức năng của chức vụ này. Trước thời điểm đó Ben Ali là một bộ trưởng của Bourguiba. Ngày nhậm chức, mùng 7 tháng 11, được chào mừng như một ngày lễ quốc gia, với nhiều toà nhà công cộng và thậm chí cả đồng tiền tệ quốc gia và hăng hàng không tư nhân cùng đài truyền h́nh tư nhân duy nhất (cả hai đều thuộc sở hữu của gia đ́nh đệ nhất phu nhân) đều mang logo '7 tháng 11'.

Tại Tunisia, Tổng thống được bầu lại với đại đa số phiếu sau mỗi nhiệm kỳ 5 năm. Ông chỉ định một Thủ tướng và nội các, thủ tướng không đóng vai tṛ quan trọng trong việc thiết lập chính sách. Các thống đốc vùng và các cơ quan hành chính địa phương cũng do chính phủ trung ương chỉ định. Phần lớn các thị trưởng và các hội đồng thành phố được bầu ra với hầu như tất cả các ghế đều thuộc đảng của Tổng thống. Có một cơ cấu nghị viện lưỡng viện, Viện Đại biểu, có 182 ghế, 20% trong số đó được dành cho các đảng đối lập, và Viện Cố vấn gồm các đại diện của các đảng chính trị, các tổ chức chuyên nghiệp do Tổng thống kiểm soát và các cá nhân do Tổng thống của nền Cộng hoà chỉ định. Cả hai viện đều gồm hơn 20% nữ, khiến đây là nước hiếm hoi trong thế giới Ả Rập nơi phụ nữ có các quyền b́nh đẳng. Khá bất ngờ, đây cũng là quốc gia duy nhất trong thế giới Ả RẬp nơi chế độ đa thê bị luật pháp ngăn cấm. Đây là một phần của nội dung Luật Vị thế Cá nhân của quốc gia được cựu Tổng thống Bourguiba đưa ra năm 1956.

Tư pháp không độc lập về các vấn đề hiến pháp và thường tham nhũng trong những vụ án dân sự. Quân đội không đóng một vai tṛ rơ ràng trong chính trị và để vị Tổng thống cựu quân nhân mặc sức điều hành đất nước. Hàng trăm hay hàng ngàn thanh niên đă trốn tránh nghĩa vụ quân sự và sống với mối lo sợ thường xuyên về việc bị bắt giữ mặc dù bề ngoài cảnh sát chỉ truy đuổi họ trong một số thời điểm trong năm và thường để họ đi nếu nhận được một khoản hối lộ.

Chế độ liên tục thông qua các điều luật khiến họ có vẻ là dân chủ với những nhà quan sát từ bên ngoài. Từ năm 1987, Tunisia đă nhiều lần cải cách hệ thống chính trị. Họ đă chính thức xoá bỏ hệ thống tổng thống trọn đời và mở cửa nghị viện cho các đảng đối lập. Tuy nhiên, trên thực tế mọi quyền lực được tập trung chính thức trong tay tổng thống và đảng của ông - với văn pḥng tổng thống và đảng của tổng thống đang đóng ở toà nhà cao nhất Tunis - và nằm dưới sự ảnh hưởng không chính thức của các gia đ́nh như nhà Trabelsis phía họ vợ tổng thống, Leila, một người hành nghề cắt tóc trước kia. Gần đây Tunisia đă từ chối một yêu cầu cùa Pháp nhằm dẫn độ hai người cháu của Tổng thống, cháu bên phía Leila, vốn bị các công tố nhà nước Pháp buộc tội ăn cắp hai du thuyền lớn từ một bến cảng của Pháp [4]

Đảng của Tổng thống, được gọi là Tập hợp Dân chủ Hiến pháp (RCD) trong tiếng Pháp, gồm khoảng 2 triệu thành viên và hơn 6000 văn pḥng đại diện trên khắp nước và chiếm hầu hết các định chế quan trọng của nhà nước. Dù đảng đă được đổi tên lại (trong thời Bourguiba nó thường được gọi là ĐẢng Xă hội Destourian), các chính sách của nó vẫn bị coi là hầu như thế tục. Hiện có tám 'đảng chính trị' nhỏ khác ở Tunisia, sáu trong số đó có đại diện trong nghị viện với vẻ ngoài mang tính hợp pháp. Từ năm 2007, toàn bộ các đảng có đại diện trong nghị viện đều được nhà nước trợ cấp để bù cho các chi phí đang gia tăng về giấy in và mở rộng sự xuất bản của họ. Tháng 7 năm 2008, những đề xuất hiến pháp mới đă được 'nghị viện' quốc gia bỏ phiếu.

Trên thực tế không ai từng công khai đưa ra lời chỉ trích chế độ và mọi sự phản kháng đều bị đàn áp mạnh tay và không được truyền thông đưa tin. Việc tự kiểm duyệt được đa số người dân sợ hăi lực lượng cảnh sát thực hiện, và cảnh sát hiện diện ở khắp mọi nơi và thường chặn và lục soát các cá nhân cũng như phương tiện của họ - và thường đ̣i một khoản tiền hối lộ nhỏ để bù đắp cho khoản lương ít ỏi của họ. Những tờ báo hàng ngày có đăng những bài viết ca tụng vị Tổng thống với chân dung thường được đăng trên trang nhất. Những bức ảnh lớn của tổng thống Ben Ali và những băng rôn 'tự phát' được dựng lên để ca tụng ông xuất hiện tại mọi công tŕnh công cộng và các phố lớn.

Internet bị giới hạn chặt chẽ, gồm cả các site như YouTube. Tuy nhiên, internet đă có sự phát triển vượt bậc với hơn 1,1 triệu người sử dụng và hàng trăm quán cafe internet, được gọi là ‘publinet.’ Điều này phần lớn liên quan tới nạn thất nghiệp trên diện rộng và thiếu dân chủ cùng các cơ hội khiến hàng triệu người bị thất nghiệp.[cần dẫn nguồn] Các nhóm nhân quyền độc lập, như Ân xá Quốc tế, đă đưa ra tài liệu rằng các quyền cá nhân không được tôn trọng.[cần dẫn nguồn]

Bầu cử quốc gia năm 2009

Ngày 25 tháng 10 năm 2009, cuộc tuyển cử quốc gia đă được tổ chức tại Tunisia. Cuộc tuyển cử gồm một cuộc bầu cử tổng thống và một cuộc bầu cử nghị viện. Tổng thống đương nhiệm Zinedine Ben Ali giành một thắng lợi lớn, với 89.62% số phiếu. Đối thủ chính của ông, Mohamed Bouchiha, nhận được 5.01% số phiếu. Đảng của Tổng thống, CDR, cũng giành một thắng lợi lớn với đa số 84.59% trong nghị viện. Phong trào của Đảng Dân chủ Xă hội giành được 4.63% số phiếu[cần dẫn nguồn].

Cuộc bầu cử bị cả truyền thông trong nước và quốc tế chỉ trích[cần dẫn nguồn]. Human Rights Watch đă thông báo rằng các đảng và các ứng cử viên đă bị cấm xuất hiện ở mức ngang bằng với tổng thống đương nhiệm, và rằng tờ tuần báo của đảng Ettajdid,Ettarik al-Jadid, đă bị chính quyền nắm giữ [5].

Bốn ứng cử viên tổng thống trong cuộc bầu cử năm 2009 gồm:

Ứng cử viên↓ Phần trăm phiếu bầu (%)↓
Zine El Abidine Ben Ali (RCD) 89.62%
Mohamed Bouchiha (PPU) 5.01%
Ahmed Linoubli (UDU) 3.80%
Ahmed Ibrahim (ME) 1.57%

Những cuộc biểu t́nh và sự từ chức của Ben Ali 2010-2011

Để ứng phó với các cuộc biểu t́nh dâng cao ở Tunisia vào cuối năm 2010, đầu năm 2011, Ben Ali tuyên bố t́nh trạng khẩn cấp trong cả nước, giải thể chính phủ vào ngày 14 tháng 1 năm 2011 và hứa tổ chức các cuộc bầu cử lập pháp mới trong ṿng sáu tháng. Sau đó cùng ngày trong bài phát biểu đọc trên truyền h́nh chiều thứ sáu 14 tháng 1 năm 2011, thủ tướng Tunisia Mohamed Ghannouchi loan báo ông sẽ nắm quyền thay tổng thống Ben Ali đă rời đất nước. Tuy nhiên, người đứng đầu Ṭa án Hiến pháp của Tunisia, Fethi Abdennadher, xác nhận rằng Gannouchi đă vi phạm Hiến pháp.

Ṭa án Hiến pháp Tunisia ngày 15 tháng 1 năm 2011 đă quyết định băi nhiệm Tổng thống Ben Ali, người bị lật đổ v́ các cuộc biểu t́nh và bạo động chống ông - được giới truyền thông gọi là cuộc “Cách mạng hoa nhài”. Đây cũng là nhà lănh đạo đầu tiên trong thế giới Arab bị lật đổ bởi biểu t́nh của nhân dân. [2]

Theo Hiến pháp Tunisia, Chủ tịch Quốc hội Fouad Mebazaa đă đảm trách quyền điều hành đất nước và tổ chức tổng tuyển cử trong ṿng 60 ngày. Quyền Tổng thống Mebazaa cũng ngay lập tức yêu cầu Thủ tướng Mohammed Ghannouchi thành lập một chính phủ liên minh đoàn kết dân tộc để lănh đạo đất nước cho tới khi bầu được chính quyền mới.

Kinh tế

Bài chi tiết: Kinh tế Tunisia

Tunisia có một nền kinh tế đa dạng, từ nông nghiệp, khai thác mỏ, chế tạo, các sản phẩm hoá dầu và du lịch. Năm 2008 nước này có GDP trị giá $41 tỷ (các tỷ giá trao đổi chính thức), hay $82 tỷ (sức mua tương đương) [6]. It also has one of Africa and the Middle East's highest per-capita GDPs (PPP) [7]. Lĩnh vực nông nghiệp chiếm 11,6% GDP, công nghiệp 25,7%, và dịch vụ 62,8%. Lĩnh vực công nghiệp chủ yếu gồm sản xuất vải vóc và giày da, sản xuất phụ tùng ô tô và máy điện. Dù Tunisia có mức tăng trưởng trung b́nh 5% trong thập kỷ qua, nước này vẫn tiếp tục gặp khó khăn với một tỷ lệ thất nghiệp cao đặc biệt trong giới trẻ.

Tỷ lệ tăng trưởng GDP (%)

Tunisia được xếp hạng là nền kinh tế có tính cạnh tranh cao nhất châu Phi và đứng hàng 40 thế giới theo xếp hạng của Diễn đàn Kinh tế Thế giới[8]. Tunisia đă t́m cáhc thu hút nhiều công ty quốc tế như Airbus[9]Hewlett-Packard[10].

Liên minh châu Âu vẫn là đối tác thương mại hàng đầu của Tunisia, hiện tại chiếm 72.5% nhập khẩu của Tunisian và 75% xuất khẩu của nước này. Tunisia là một trong những đối tác thương mại lâu đời nhất của Liên minh châu Âu tại vùng Địa Trung Hải và là đối tác thương mại lớn thứ 30 của tổ chức này. Tunisia là quốc gia Địa Trung Hải đầu tiên kư Hiệp ước Liên kết với Liên minh châu Âu, tháng 7 năm 1995, dù thậm chí trước ngày hiệp ước này có hiệu lực, Tunisia đă bắt đầu băi bỏ các biểu thuế trên thương mại song phương với EU. Tunisia đă kết thúc quá tŕnh băi bỏ thuế quan cho các sản phẩm công nghiệp năm 2008 và v́ thế là quốc gia Địa Trung Hải đầu tiên tham gia vào một vùng thương mại tự do với EU[11].

Tunisia cũng thu hút những khoản đầu tư lớn từ Vịnh Péc xích (đặc biệt từ Các tiểu Vương quốc Ả Rập Thống nhất) những dự án lớn nhất gồm:

  • Cổng Địa Trung Hải: một dự án trị giá US$ 25 tỷ, để xây dựng một thành phố mới ở phía nam Tunis [12].
  • Thành phố Thể thao Tunis: một thành phố hoàn toàn thể thao hiện đang được xây dựng ở phía nam Tunis, Tunisia. Thành phố này sẽ gồm các toà nhà cũng như nhiều cơ sở thể thao và sẽ do Bukhatir Group xây dựng với chi phí 5 tỷ $5[13].
  • Cảng Tài chính Tunis: sẽ thực hiện trung tâm tài chính ngoài khơi đầu tiên của Bắc Phi tại Vịnh Tunis trong một dự án với giá trị tổng thể US$ 3 tỷ[14].
  • Thành phố Viễn thông Tunis: Một dự án trị giá US$ 3 để tạo ra một cổng Công nghệ Thông tin ở Tunis[15].

[sửa] Thị trường bất động sản

Trong những năm gần đây Tunisia đă phát triển một thị trường mới. Từ đầu những năm 2000, thị trường bất động sản đă có bước tăng trưởng. Thị trường tập trung một phần vào nhà ở cho những cá nhân, những cũng gồm cả các dự án lớn có mục tiêu phục vụ du lịch và thị trường buôn bán. Những nhà đầu tư đáng chú ư nằm trong Các quốc gia Ả Rập Vịnh Péc xích.

[sửa] Khai thác dầu và khí đốt

Sản lượng dầu của Tunisia khoảng 97,600 barrel/ngày. Giếng dầu chính là El bourma.[16]

Năng lượng

Các nguồn sản xuất điện[17]

Đa phần lượng điện được sử dụng ở Tunisia đều do nước này tự sản xuất, bởi công ty thuộc sở hữu nhà nước STEG (Société Tunisienne de l´Electricité et du Gaz).Năm 2008 tổng cộng 13,747 GHW điện được sản xuất tại nước này,[18].

[sửa] Dầu mỏ và khí đốt

Sản xuất dầu mỏ bắt đầu năm 1966 tại Tunisia. Hiện tại có 12 giếng dầu[19]. Dưới đây là danh sách các giếng dầu:

Giếng dầu↓ Giếng dầu↓
Giếng 7 tháng 11 Giếng El Menzah
Giếng Ashtart Giếng Belli
Giếng Bouri Giếng Cercina
Giếng El Biban Giếng El Borma
Giếng Ezzaouia Giếng Miskar
Giếng Sidi El Kilani Giếng Tazarka

[sửa] Năng lượng hạt nhân

Tunisia đang trong quá tŕnh phát triển hai nhà máy điện hạt nhân trong một giai đoạn kéo dài 10 năm. Mỗi nhà máy trong số đó dự tính có sản lượng 900-1000 MW. Trong nỗ lực của họ nhằm phát triển năng lượng hạt nhân, Pháp được coi là một đối tác quan trọng. Tunisia và Pháp đă kư kết các thoả thuận, theo đó Pháp sẽ cung cấp huấn luyện, kỹ thuật cũng nhiều hỗ trợ khác [20][21].

Dự án Desertec

Dự án Desertec là một dự án năng lượng trên diện rộng có mục tiêu lắp đặt các panel năng lượng mặt trời, và một hệ thống đường dây nối Bắc Phi với châu Âu. Tunisia sẽ là một bên trong dự án này, nhưng chính xác những lợi ích họ sẽ được hưởng vẫn chưa được biết.

Giao thông

Bài chi tiết: Giao thông tại Tunisia
Xem thêm thông tin: Giao thông đường sắt tại Tunisia
Cầu Radés-La Goulette mới đang được xây dựng ở Tunis.
  • Nước này có 19,232 km đường bộ,[22] và A1 Tunis-Sfax, P1 Tunis-Libya và P7 Tunis-Algeria là những đường cao tốc chính.
  • Có 30 sân bay tại Tunisia, và Sân bay Quốc tế Tunis CarthageSân bay Quốc tế Monastir là hai sân bay quan trọng nhất. Một sân bay mới, Sân bay Quốc tế Zine El Abidine Ben Ali, đă được hoàn thành vào cuối tháng 10 năm 2009, và dự định mở cửa tháng 12 năm 2009. Tuy nhiên, có lẽ các chuyến bay sẽ không bắt đầu trước mùa Lễ Phục sinh năm 2010. Sân bay nằm ở phía bắc Sousse tại Enfidha, và có lẽ sẽ phục vụ cho các khu resort Hamammet và Port El Kantoui, cùng với các thành phố nội địa như Kairouan. Có bốn hăng hàng không đóng trụ sở tại Tunisia: Tunisair, Karthago Airlines, NouvelairSevenair.
  • Mạng lưới đường sắt do SNCFT điều hành, và tổng chiều dài đường sắt là 2135 km[22]. Vùng Tunis có một mạng lưới tàu điện, được gọi là Metro Leger.

Tôn giáo

Bài chi tiết: Tôn giáo tại Tunisia

Hiến pháp quy định Hồi giáotôn giáo chính thức của nhà nước và đ̣i hỏi tổng thống phải là một tín đồ Hồi giáo. Tunisia có mức tự do tôn giáo khá cao, một quyền được quy định và bảo vệ trong hiến pháp đảm bảo quyền tự do tín ngưỡng của mỗi người.[23] Nước này có một nền văn hoá khuyến khích chấp nhận các tôn giáo khác; tự do tôn giáo được thực hiện rộng răi. Tuy nhiên, chính phủ đă bị cáo buộc[cần dẫn nguồn] hạn chế tự do của các tín đồ Hồi giáo khi cấm quàng khăn trùm đầu (Hijab). Chính phủ tin rằng Hijab là một "loại trang phục có nguồn gốc từ bên ngoài và có một ư nghĩa đảng phái".[24]

Các cá nhân người Tunisian được khoan dung về tự do tôn giáo và nói chung không bị yêu cầu về những đức tin cá nhân.[23]

Đa số dân Tunisia (98%) là tín đồ Hồi giáo, khoảng 1% theo Thiên chúa giáo và số c̣n lại (1%) theo Do Thái giáo hay các tôn giáo khác.[25] Tuy nhiên, không có dữ liệu đáng tin cậy về số người thực hiện các nghi thức Hồi giáo. Một số báo cáo cho rằng người vô thần là nhóm lớn thứ hai trong nước (khiến nước này có thể đứng hạng cao trong số các quốc gia Bắc Phi) về vấn đề này[26].

Tunisia có một cộng đồng Thiên chúa giáo khá lớn khoảng 25,000 người; chủ yếu là Cơ đốc (20,000) và ở một mức độ thấp hơn là Tin Lành. Đạo Do Thái là tôn giáo lớn thứ ba trong nước với 1,500 tín đồ. Một phần ba dân số Do Thái sống tại hay xung quanh thủ đô. Số c̣n lại sống trên ḥn đảo Djerba, nơi cộng đồng Do Thái có mặt từ khoảng 2,500 năm trước[23].

Djerba, một ḥn đảo trong Vịnh Gabès, là quê hương của Hội đạo Do Thái El Ghriba, một trong những hội đạo Do Thái cổ nhất thế giới. Nhiều người Do Thái coi đó là một địa điểm hành hương với các nghi lễ được tiến hành mỗi năm một lần.

Các vùng thủ hiến và thành phố

Các vùng thủ hiến

Các vùng thủ hiến của Tunisia

Tunisia được chia thành 24 vùng thủ hiến, chúng gồm:

  1. Ariana
  2. Béja
  3. Ben Arous
  4. Bizerte
  5. Gabès
  6. Gafsa
  7. Jendouba
  8. Kairouan
  9. Kasserine
  10. Kebili
  11. Kef
  12. Mahdia
  1. Manouba
  2. Medenine
  3. Monastir
  4. Nabeul
  5. Sfax
  6. Sidi Bou Zid
  7. Siliana
  8. Sousse
  9. Tataouine
  10. Tozeur
  11. Tunis
  12. Zaghouan

Các vùng thủ hiến được chia thành 264 "phái đoàn" hay "các quận" (mutamadiyat), và được chia nhỏ tiếp thành các khu vực đô thị (shaykhats)[27] và các khu vực (imadats).[28]

Các thành phố lớn

Thành phố Dân số
Tunis 1 200 000
Sfax 277 278

[29]

Sousse 164 123

[30]

Kairouan 119 794

[31]

At Tadaman 118 487

[32]

 Quân đội

Bài chi tiết: Quân đội Tunisia

Các lực lượng vũ trang Tunisia được chia thành ba nhánh:

Chi tiêu quân sự của Tunisia chiếm 1.6% GDP (2006). Quân đội chịu trách nhiệm bảo vệ quốc gia và đảm bảo an ninh nội địa. Có vẻ trong những năm gần đây các lực lượng quốc pḥng Tunisia đă tập trung hơn vào các nhóm Hồi giáo ở Bắc Phi. Hoa Kỳ đă tiến hành những cuộc tập trận với các lực lượng vũ trang Tunisia v́ mối lo ngại này.[cần dẫn nguồn]

Địa lư

Bản đồ địa h́nh Tunisia.
Vịnh Tunis
Núi Ressas từ Hồ Tunis
Bài chi tiết: Địa lư Tunisia

Tunisia là một quốc gia nằm ở bờ biển Địa Trung Hải của Bắc Phi, giữa đường giữa Đại Tây Dương và Châu thổ sông Nile. Tunisia giáp biên giới với Algeria ở phía tây và Libya ở phía đông nam. Đường bờ biển ngoặt gấp phía nam của nó khiến Tunisia có hai mặt giáp với Địa Trung Hải.

Dù có kích thước khá nhỏ, Tunisia có sự đa dạng địa lư và khí hậu khá lớn. Dorsal, một dải mở rộng của Dăy núi Atlas, chạy ngang Tunisia theo hướng đông bắc từ biên giới Algeria ở phía tây tới bán đảo Cape Bon. Phía bắc Dorsal là Tell, một vùng có đặc điểm ở những quả đồi và đồng bằng thấp, dù góc phía tây bắc của Tunisia, nơi đất đai đạt tới độ cao 1,050 mét.

Sahil là một đồng bằng dọc theo bờ biển Địa Trung Hải phía đông Tunisia nổi tiếng với sự độc canh cây oliu. Bên trong nội địa từ Sahil, giữa Dorsal và một rặng đồi phía nam Gafsa, là các thảo nguyên. Đa phần vùng phía nam là đất đai bán khô cằnsa mạc.

Tunisia có đường bờ biển dài 1,148 kilômét. Theo các thuật ngữ hàng hải, nước này tuyên bố một vùng tiếp giáp 24 hải lư, và một hải phận 12 hải lư.

Tunisia có khí hậu ôn hoà ở phía bắc, với mùa đông dễ chịu và nhiều mưa và một mùa hè nóng và khô. Miền nam đất nước là sa mạc. Đất đai phía bắc chủ yếu là núi non, đi dần về phía nam, tạo ra một đồng bằng trung tâm nóng và khô. Miền nam là bán khô cằn, và nhập vào Sahara. Một loạt các hồ muối, được gọi là chotts hay shatts, nằm ở đường phía đông tây ở mũi phía bắc Sahara, trải dài từ Vịnh Gabes vào trong Algeria. Điểm thấp nhất là Shatt al Gharsah, ở độ cao -17 m, và điểm cao nhất là Jebel ech Chambi, 1544 mét.

Vùng

Vùng Tunisia có một số sa mạc, gồm một phần của Sa mạc Sahara ở phía nam. Ở phía bắc và trung được bao quanh bởi Biển Địa Trung Hải. Tunisia không quá lạnh vào mùa đông để có tuyết, nhưng nhiệt độ vẫn hạ xuống dưới |0 °C. Vào mùa hè nhiệt độ có thể lên tới 32 °C. Đa phần lănh thổ Tunisia có bốn mùa.

Nhân khẩu

Bài chi tiết: Nhân khẩu Tunisia

Đa số (98%[33]) người Tunisia hiện đại là người Ả Rập hay người Berber đă Ả Rập hoá,[34] và là những người nói tiếng Tunisia Ả Rập. Tuy nhiên, cũng có một cộng đồng nhỏ (nhiều nhất là 1%[35]) người Berber sống tại vùng núi Jabal Dahar ở phía đông nam và trên ḥn đảo Jerba, dù c̣n có nhiều người hơn nữa có tổ tiên là người Berber. Người Berber chủ yếu nói các ngôn ngữ Berber, thường được gọi là Shelha.

Cộng đồng châu Âu nhỏ (1%) gồm chủ yếu người Pháp và người Italia. Cũng có một cộng đồng Do Thái đă sống từ lâu ở nước này, lịch sử người Do Thái tại Tunisia có từ khoảng 2,000 năm trước. Năm 1948 số người Do Thái ước tính là 105,000, nhưng tới năm 2003 chỉ c̣n khoảng 1,500 người ở lại.[36]

Người đầu tiên trong lịch sử được biết tới sống ở Tunisia hiện nay là người Berber. Nhiều nền văn minh và sắc tộc đă từng xâm lược, di cư tới, và đă bị đồng hoá trong nhiều thiên niên kỷ, với nhiều làn sóng dân cư qua chinh phục và định cư từ người Phoenicia/Carthaginia, La Mă, Vandal, Ả Rập, người Thổ Nhĩ Kỳ Ottoman, và người Pháp.

Ngoài ra, sau thời kỳ Reconquista và sự trục xuất những người phi Thiên chúa và người Morisco khỏi Tây Ban Nha, nhiều người Moor Tây Ban Nha và người Do Thái đă tới đây ở cuối thế kỷ 15. Ngoài ra, từ cuối những năm 1800 tới sau Thế chiến II, Tunisia là nơi sinh sống của nhiều người Phápngười Italia (255,000 người châu Âu năm 1956[37]), hầu như toàn bộ trong số họ, cùng với cộng đồng dân cư Do Thái, đă rời đi sau khi Tunisia độc lập.

Tôn giáo tại Tunisia chủ yếu là Hồi giáo, với đa số dân Tunisia (98%) là tín đồ.[38] Một trong những cộng đồng Do Thái cổ nhất thế giới sống tại Jerba, nơi sự đa dạng tôn giáo phát triển. Ḥn đảo phía nam Tunisia là nơi cư trú của 39 cộng đồng tôn giáo.

Ngôn ngữ

Tập tin:Tunisian Arabic advert.JPG
Quảng cáo chủ yếu bằng tiếng Tunisia Ả Rập

Tiếng Ả Rập là ngôn ngữ chính thức của Tunisia. Như tại toàn bộ các quốc gia khác thuộc thế giới Ả Rập, một biến thể địa phương của tiếng Ả Rập được công chúng sử dụng. Tiếng Ả Rập Tunisia rất gần gũi với ngôn ngữ Maltese.[39] Cũng có một cộng đồng thiểu số nhỏ những người nói tiếng Shelha, một ngôn ngữ Berber.[40]

V́ từng là thuộc địa của Pháp, tiếng Pháp cũng đóng một vai tṛ quan trọng ở nước này, dù không có vị thế chính thức. Nó được sử dụng rộng răi trong giáo dục (ví dụ như ngôn ngữ giảng dạy khoa học tại các trường cấp hai), báo chí và trong kinh doanh. Đa phần người Tunisia có thể nói tiếng Pháp. Nhiều người Tunisia, đặc biệt là những người sống tại các vùng đô thị, dễ dàng sử dụng một ngôn ngữ pha trộn giữa tiếng Ả Rập Tunisia và tiếng Pháp, một loại ngôn ngữ lai thường được gọi không chính thức là 'Frarabic'.

Giáo dục

Giáo dục được ưu tiên lớn và chiếm 6% GNP. Một nền giáo dục căn bản cho trẻ em trong độ tuổi từ 6 đến 16 đă được quy định bắt buộc từ năm 1991. Tunisia xếp hạng 17 về "chất lượng hệ thống giáo dục [cao học]" và 21 về "chất lượng giáo dục tiểu học" trong Báo cáo Cạnh tranh Toàn cầu 2008-9, do Diễn đàn Kinh tế Thế giới đưa ra.[41]

Tuy trẻ em nói chung được học tiếng Tunisia Ả Rập tại gia đ́nh, khi bắt đầu theo học lúc 6 tuổi, chúng được dạy đọc và viết theo tiếng Ả Rập tiêu chuẩn. Từ 8 tuổi, trẻ em được dạy tiếng Pháp trong khi tiếng Anh được dạy khi trẻ lên 12.

Các trường cao đẳng và đại học tại Tunisia gồm:

  • Ecole Polytechnique de Tunisie
  • International University of Tunis
  • Université Libre de Tunis
  • Université de l'Aviation et Technologie de Tunisie
  • Institut National d'Agronomie de Tunis
  • Université des Sciences de Tunis

Văn hoá

Bài chi tiết: Văn hoá Tunisia
Nhà hát Quốc gia, ở trung tâm Tunis.

Tunisia có một nền văn hoá pha trộn v́ một lịch sử lâu dài với những cuộc chinh phục như của người Phoenicia, La Mă, Vandal, Byzantine, Ả Rập, Thổ Nhĩ Kỳ, Tây Ban Nha và người Pháp, tất cả đều để lại dấu ấn tại quốc gia này.

Thể thao

Tập tin:Tunisian FA 2006.png
Logo đội tuyển quốc gia.

Môn thể thao phổ biến nhất ở Tunisia là bóng đá. Đội tuyển bóng đá quốc gia, cũng được gọi là "Những chú đại bàng Carthage" đă tham gia vào bốn ṿng chung kết World Cup. Thành tích của đội tuyển được liệt kê dưới đây:

Năm trong World Cup↓ Kết quả↓
1978 Ṿng 1
1998 Ṿng 1
2002 Ṿng 1
2006 Ṿng 1
Sân vận động 7 tháng 11 Radès
Oussama Mellouli, vận động viên giành huy chương vàng tại Olympic mùa hè Bắc Kinh

Giải đấu hàng đầu của Tunisia là "Tunisian Ligue Professionnelle 1". Các câu lạc bộ lớn gồm Espérance Sportive de Tunis, Club Africain, và Étoile Sportive du Sahel.

Bóng ném

Wissem Hmam

Đội tuyển quốc gia đă tham gia nhiều ṿng chung kết bóng ném thế giới. Năm 2005 Tunisia giành hạng 4. Giải bóng ném quốc gia gồm 12 đội, với ES. Sahel và Esperance S.Tunis là các đội thống trị.

Vận động viên bóng ném Tunisia nổi tiếng nhất là Wissem Hmam. Tại giải vô địch bóng ném thế giới nam năm 2005 ở Tunis, Wisam Hmam là vận động viên có thành tích ghi điểm cao nhất giải.

Bơi lội

Tại Olympic năm 2008, vận động viên người Tunisia Oussama Mellouli đă giành một huy chương vàng nội dung bơi tự do 1500 mét.

Lễ hội

  • Lễ Matmata - Matmata (tháng 3)
  • Lễ Oriljazz (tháng 4)
  • Lễ "Tozeur, the Oriental, the African" (tháng 4)
  • Lễ hội Mùa xuân Quốc tế - Sbeitla (tháng 4)
  • Lễ hội thi ca Ả Rập - Tozeur - (tháng 4)
  • Lễ hội Jazz Carthage - Gammarth (tháng 4)
  • Tozeur’s International Oasis Festival - Tozeur (tháng 12)
  • Techno House festival - Gammarth (tháng 12)
  • Dar Sebastian celebrates opera festival - lyrical festival -(tháng 12)
  • Lễ hội Caravana Latina” - Tozeur (tháng 12)
  • Lễ hội Truyền thống Sahara - Douz (tháng 12)

Thành viên

Tunisia là một thành viên của các tổ chức sau:

Tổ chức Ngày
Liên hiệp quốc từ 12 tháng 11 năm 1956
Liên đoàn Ả Rập từ năm 1958
Tổ chức Hội nghị Hồi giáo từ năm 1969
Tổ chức Thương mại Thế giới từ 29 tháng 3 năm 1995
Nhóm Đối thoại Địa Trung Hải từ tháng 2 năm 1995

Xem thêm

Bài chi tiết: Đề cương Tunisia

Bản mẫu:Các chủ đề Tunisia

Tham khảo

  1. ^ “Financial Times report on Tunisia”. Truy cập 31 tháng 10 năm 2009.
  2. ^ a b Room, Adrian (2006). Placenames of the World: Origins and Meanings of the Names for 6,600 Countries, Cities, Territories, Natural Features, and Historic Sites. McFarland. 385. ISBN 0786422483.
  3. ^ Smeaton Munro, Ion. Through Fascism to World Power: A History of the Revolution in Italy. pag 221
  4. ^ “Ajaccio - Un trafic de yachts entre la France et la Tunisie en procès” (bằng French) (30 September 2009).
  5. ^ “HRW, Tunisia: Elections in an Atmosphere of Repression”. Truy cập 30 tháng 10 năm 2009.
  6. ^ “cia world factbook, Tunisia”. Truy cập 16 tháng 9 năm 2009.
  7. ^ “Wikipedia-list GDP per capita”. Truy cập 19 tháng 1 năm 2009.
  8. ^ “The Global Competitiveness Index 2009–2010 rankings”. Truy cập 16 tháng 9 năm 2009.
  9. ^ “Airbus build plant in tunisia”. Truy cập 16 tháng 9 năm 2009.
  10. ^ “HP to open customer service center in Tunisia”. Truy cập 16 tháng 9 năm 2009.
  11. ^ “Bilateral relations Tunisia EU”. Truy cập 16 tháng 9 năm 2009.
  12. ^ “Mediterranean Gate”. Truy cập 16 tháng 9 năm 2009.
  13. ^ “Tunis Sport City”. Truy cập 16 tháng 9 năm 2009.
  14. ^ “Tunis Financial Harbour”. Truy cập 16 tháng 9 năm 2009.
  15. ^ “Vision 3 announces Tunis Telecom City”. Truy cập 16 tháng 9 năm 2009.
  16. ^ “Oil and Gas in Tunisia”. Truy cập 9 tháng 10 năm 2009.
  17. ^ “STEG, CEO speech”. Truy cập 12 tháng 11 năm 2009.
  18. ^ “STEG, company website”. Truy cập 28 tháng 10 năm 2009.
  19. ^ “MBendi oilfields in Tunisia”. Truy cập 31 tháng 10 năm 2009.
  20. ^ “Reuters, Tunisias nuclear plans”. Truy cập 4 tháng 11 năm 2009.
  21. ^ “Tunisia : A civil nuclear station of 1000 Megawatt and two sites are selected”. Truy cập 4 tháng 11 năm 2009.
  22. ^ a b “cia world factbook, Tunisia”. Truy cập 23 tháng 1 năm 2009.
  23. ^ a b c Bureau of Democracy, Human Rights, and Labor (2008), “Report on Tunisia”, International Religious Freedom Report 2008, US State Department, http://www.state.gov/g/drl/rls/irf/2008/108494.htm 
  24. ^ US Department of State http://www.state.gov/g/drl/rls/irf/2005/51611.htm
  25. ^ CIA - The World Factbook -- Tunisia
  26. ^ “Religions in Tunisia”. Truy cập 5 tháng 1 năm 2009.
  27. ^ Tunisia Governorates
  28. ^ Portail de l'industrie Tunisienne, in French
  29. ^ “Mongabay.com, population of Sfax”. Truy cập 9 tháng 10 năm 2009.
  30. ^ “Mongabay.com, population of Sousse”. Truy cập 9 tháng 10 năm 2009.
  31. ^ “Mongabay.com, population of Kairouan”. Truy cập 9 tháng 10 năm 2009.
  32. ^ “FITA, population of At Tadaman”. Truy cập 9 tháng 10 năm 2009.
  33. ^ Tunisia.. CIA – The World Factbook.
  34. ^ Columbia Gazetteer
  35. ^ Q&A: The Berbers. BBC News. March 12, 2004.
  36. ^ The Jews of Tunisia. Jewish Virtual Library.
  37. ^ Tunisia. Worldmark Encyclopedia of the Nations. Thomson Gale. 2007. Encyclopedia.com.
  38. ^ “CIA — The World Factbook — Tunisia”. Truy cập 13 tháng 1 năm 2007.
  39. ^ Borg and Azzopardi-Alexander Maltese (1997:xiii) "The immediate source for the Arabic vernacular spoken in Malta was Muslim Sicily, but its ultimate origin appears to have been Tunisia. In fact, Maltese displays some areal traits typical of Maghrebine Arabic, although during the past eight hundred years of independent evolution it has drifted apart from Tunisian Arabic."
  40. ^ Gabsi, Zouhir (2003) 'An outline of the Shilha (Berber) vernacular of Douiret (Southern Tunisia)' [1]
  41. ^ http://www.weforum.org/en/initiatives/gcp/Global%20Competitiveness%20Report/index.htm

Liên kết ngoài

Photography gallery



Biểu đồ gió  Algeria  Italy
Biển Địa Trung Hải
 Italy Malta
Biển Địa Trung Hải
Biểu đồ gió
 Algeria B Biển Địa Trung Hải
T    Cờ của
                                        Tunisia Tunisia    Đ
N
 Algeria  Algeria Libya  Libya
Enclave: {{{enclave}}}





Trang mạng Việt Nam Văn Hiến
Trang : Tin Quốc Tế
www.vietnamvanhien.net
www.vietnamvanhien.org
www.vietnamvanhien.info
www.vietnamvanhien.com
Email: thuky@vietnamvanhien.net

Trang mạng Việt Nam Văn Hiến là nơi bảo tồn di sản văn hóa của Việt tộc. Thắp sáng niềm tin Diên Hồng và nếp sống Văn Hiến hầu phục hồi nền "An Lạc & Tự Chủ" ngàn đời cuả Việt tộc.


Trở lên đầu trang

Trở Lại Trang Mặt