LỜI MỞ ĐẦU VỀ THỜI ĐẠI TỰ CHỦ
... Nay giở lại mấy
trang quốc sử
Ngẫm
những
điều
ấp
ủ
cao
xa
Ngàn
xưa
lưu
thế
hệ
ta
4. Lấy
câu "Văn hiến" mở ra vui bàn...
Ðất
Giao
Châu
hơn
ngàn
năm
cũ
Từ
Khúc
(1), Dương (2) đuổi lũ sài lang
Dựng
cờ
tự
chủ
vẻ
vang
8.
Nước non riêng cõi, Nam bang một nhà.
Nào
ngờ
họa
can
qua
chưa
dứt
Nam
Hán
quân
(3)
dốc lực kéo sang
Tiến
vào
cửa
Bạch
Ðằng
Giang
(4)
12. Chiến thuyền
chật nước kỳ quang rợp trời.
Hồi
trống
đồng
nung
sôi
lòng
Việt
Tiếng
thét
quân
oanh
liệt
khí
Hùng
Ầm
ầm
một
trận
thủy
công
16. Sạch cơn
sóng dữ cạn dòng kình ngư.
Bậc
danh
tướng
(5)
thiên tư un đúc
Xếp
nhung
y
hiển
đức
quân
vương
Dựng
nền
tự
chủ
Nam
phương
20. Khơi
dòng khí phách, mở đường tinh anh.
Kể
từ
thuở
Ngô,
Ðinh
dựng
nước,
Kế
Tiền
Lê
chặn
bước
Tống
quân,
Trải
qua
triều
đại
Lý,
Trần,
24. Hồ, Lê
nối nghiệp đến phần Tây-Sơn,
Vận
nước
trải
bao
cơn
nguy
biến,
Nỗi
dân
từng
chinh
chiến
thảm
thương
Vẫn
nuôi
dòng
máu
quật
cường,
28. Xây nền
văn hiến, khơi nguồn văn minh.
Ðất
ngàn
năm
đã
thành
sự
nghiệp,
Nền
kỷ
cương
phải
tiếp
đắp
bồi;
Làm
người
đạp
đất
đội
trời
32. Há mang
quốc phả ngàn đời bỏ đi.
Chữ
Văn
Hiến
khắc
ghi
gìn
giữ
Cho
ngàn
sau
tự
chủ
lưu
phương
Ấy
là
Lập
quốc
Hiến
chương
(6)
36. Làm
nên nền móng tự cường quốc gia.
NHÀ
NGÔ
*Ngô
Vương
Quyền
với
bước
đầu
dựng
nền
tự
chủ.
Năm
Tân-Hợi
(dl.939)
nước
nhà
độc
lập
Ðức
Ngô
Quyền
xứng
bậc
quân
vương
Cổ-Loa
mưu
việc
tự
cường
(7)
40. Lập triều nghi
dựng kỷ cương lâu bền.
Xây
xã
tắc
mở
nền
tự
chủ,
Vượng
dân
sinh
mưu
sự
thái
hoà,
Khởi
công
tạo
dựng
quốc
gia
44. Làm cho
tỏ mặt con nhà Rồng Tiên.
Tiếc
thay
mới
sáu
niên
ngắn
ngủi
Tiền
Ngô
Vương
đã
vội
về
trời
Ðem
lời
ký
thác
con
côi
48. Là
Ngô Xương-Ngập cho người Dương gia (8).
Nào
ngờ
Dương
Tam-Kha
cải
chiếu
Tự
lên
ngôi
xưng
hiệu
Bình-Vương
Ngô
Xương-Ngập
đã
cùng
đường
52. Mới tìm
chạy đến Hải-Dương lánh mình (9).
Ngô
Xương-Văn
cũng
tình
cốt
nhục
(10)
Lại
được
Kha
rất
mực
tin
dùng
Cho
cùng
tham
dự
quân
trung
56. Sai đi
đánh dẹp ở vùng Sơn-Tây.
Cơn
tao
loạn
ai
gây
nên
nỗi
?
Buổi
nhiễu
nhương
giặc
nổi
như
ong.
Nhân
khi
tiễu
giặc
vừa
xong
60. Ba quân
trở ngọn cờ hồng về Kinh.
Ðỗ
Cảnh-Thạc
hùng
binh
sẵn
khởi
Mưu
cùng
Dương
Cát-Lợi
tướng
quân
Giáo
gươm
thẳng
Cổ-Loa
thành
64. Dựng cờ
phò tá Xương-Văn trở về.
Tung
mẻ
lưới
kình
nghê
khôn
lọt
Bủa
rừng
gươm
beo
cọp
phải
tan
Ngô
triều
thu
lại
giang
san
68. Anh em
đoàn tụ nước non một nhà (11)
Ngô
Xương-Ngập
xưng
là
Thiên-Sách
Nắm
quyền
binh
đảm
trách
chính
triều
Bốn
năm
sống
chẳng
bao
nhiêu
72. Càng lo
gỡ rối càng nhiều khó khăn.
Nam-Tấn-Vương,
Xương-Văn
xưng
hiệu,
Lúc
lên
ngôi
dâng
biểu
cầu
phong
Ðang
khi
Nam-Hán
thịnh
hưng
76. Phong
Tiết-độ-sứ liệt trong chư hầu.
Việc
đánh
dẹp
trước
sau
trăm
trận
Gánh
sơn
hà
lận
đận
ngược
xuôi
Hoa-Lư
chưa
kịp
chiến
hồi
80.
Thái-Bình kia đã sục sôi chiến trường (12).
Vương
cậy
có
binh
cường
tướng
mạnh
Tự
đem
quân
tiến
đánh
Sơn-Tây
Cũng
vì
khinh
địch
hại
thay
84. Trúng
tên gục ngã ở ngay trận tiền.
Ngô
vương
mất
quân
quyền
xụp
đổ,
Sứ
quân
chia
lãnh
thổ
xưng
hùng,
Cổ-Loa
tàn
cuộc
phế
hưng
88. Cờ lau kia
đã hẹn cùng nước non.
THẬP NHỊ SỨ
QUÂN (945 -
967)
Ngô
Xương-Xí
là
con
Xương-Ngập
Bỏ
Cổ-Loa
giữ
đất
Bình-Kiều
Từ
nay
sự
nghiệp
Ngô
triều
92. Chỉ còn
một đám bọt bèo Sứ quân.
Họa
xâu
xé
tam
phân
ngũ
liệt
Mười
hai
phương
hào
kiệt
chia
phần
Gọi
là
Thập
Nhị
Sứ
Quân
96. Hai mươi năm
lẻ nước dân tiêu điều.
Ngô
Xương-Xí
Bình-kiều
phiêu
bạt
(13)
Ðỗ
Ðộng
giang,
Cảnh-Thạc
xưng
hùng
(14)
Bố
Hải
Khẩu
:
Trần
Minh-Công
(15)
100. Kiều
Công-Hãn đóng ở vùng Phong Châu (16)
Nguyễn
Khoan
giữ
địa
đầu
Tam
Ðái
(17)
Ngô
Lãm-Công
đóng
tại
Ðường
Lâm
(18)
Lý
Khuê
Siêu-loại
đồn
quân
(19)
104. Nguyễn Thủ-Tiệp chiếm
đóng phần Tiên Du (20)
Tế-giang
huyện
là
khu
Lữ
Tá
(21)
Phù-Liệt
thành
cát
cứ
Nguyễn
Siêu
(22)
Hồi-hồ,
sứ
Thuận
họ
Kiều
(23)
108. Phạm Bạch-Hổ chiếm
Ðằng-Châu quê nhà (24).
Cơn
thắng
bại
rượu
hoà
nước
mắt
Cuộc
hơn
thua
ruột
thắt
nguồn
đau
Cuồng
say
giấc
mộng
công
hầu
112. Hăm hai năm ấy (25) ngàn sau biếm truyền.
Thời
đại
loạn
bạo
quyền
thao
túng
Buổi
nhiễu
nhương
dân
chúng
lầm
than
Xót
thay
cốt
nhục
tương
tàn
116. Thảm thay giấc mộng
kê vàng phù du!
NHÀ ĐINH (968 - 980)
*
Ðinh Bộ Lĩnh dẹp loạn Sứ Quân
Thời
ấy
ở
Hoa-Lư
sơn
động
(26)
Có
một
người
vũ
dũng
hiên
ngang
Họ
Ðinh
quê
ở
châu
Hoan
120.
Tên
là
Bộ-Lĩnh
con
quan
cựu
triều
(27).
Cha
mất
sớm
về
theo
quê
mẹ,
Lúc
thiếu
thời
cùng
trẻ
chăn
trâu
Dàn
quân
tập
trận
cờ
lau
124.
Xẻ
cơm
khao
tốt,
mổ
trâu
đãi
hiền!
Ðường
sự
nghiệp
càng
nên
chí
lớn
Dời
quê
hương
tìm
chốn
tiến
thân
Theo
Bố-Hải-khẩu
Sứ-quân
(28)
128.
Ðược
cùng
dưới
trướng
dự
phần
binh
cơ.
Khi
Lãm
mất
cơ
đồ
trao
lại,
Ông
chuyển
quân
về
trại
Hoa
-Lư
Ðồn
lương,
đãi
mộ
sĩ
phu
132.
Thao
binh
luyện
tướng
chờ
cơ
vẫy
vùng.
Thời
thế
tạo
anh
hùng
mới
biết
Ðịa
linh
sinh
nhân
kiệt
ngờ
đâu
Non
xanh
nước
biếc
một
màu
136.
Hoa-Lư
tụ
cả
Giao-Châu
thất
hùng
(29).
Hậu
Ngô
Vương
đã
từng
chinh
phạt
Vào
Hoa-Lư
lại
rút
quân
về
(30)
Ðến
khi
Ngô
đại
suy
vi
140.
Hoa-Lư
quật
khởi
dựng
cờ
dấy
binh.
Cờ
Vạn-Thắng
(31) đông chinh tây phạt
Cõi
sa
trường
gió
cát
ngùi
bay
Ầm
ầm
trống
giục
chiêng
lay
144.
Lửa
thiêu
chất
ngất
khói
vây
chập
chùng.
Quân
Ðằng-Châu
(32) tuyệt đường tan vỡ
Ðỗ-động
giang
(33) huyện đổ thành nghiêng...
Hùng
binh
theo
ngọn
lửa
thiêng
148.
Một
năm
ròng
rã
dẹp
yên
cõi
bờ.
Xuân
Vạn
Thắng
cơ
đồ
một
mối
Nước
thanh
bình
vận
hội
canh
tân
Trải
qua
một
cuộc
phong
trần
152.
Trăm
hoa
nay
lại
muôn
phần
đẹp
tươi.
*
Ðinh
Tiên-Hoàng
dựng
đế
nghiệp
Ðinh
Bộ-Lĩnh
lên
ngôi
hoàng
đế
(34)
Lập
triều
nghi
định
kế
an
bang
Ngài
xưng
đế
hiệu
Tiên-Hoàng
156.
Nước:
Ðại
Cồ
Việt,
Kinh:
thành
Hoa-Lư.
Thuở
ấy
Tống
cũng
vừa
khởi
nghiệp
(35)
Họa
Bắc
phương
chưa
biết
xa
gần
Lại
vừa
dứt
loạn
Sứ-quân
160.
Bởi
nên
việc
võ
dự
phần
quan
ưu.
Các
chức
phẩm
đại
triều
khanh
tướng,
Các
tước
hàm
ân
thưởng
công
hầu
Ðều
ban
thứ
tự
trước
sau
164.
Cho
hàng
vũ
dũng
bấy
lâu
một
lòng.
Ðầu
triều
Ðịnh
Quốc
Công
Nguyễn
Bặc
Bậc
trung
lương
đệ
nhất
công
thần,
Lê
Hoàn
:
Thập
Ðạo
Tướng
Quân
168.
Hùng
binh
trăm
vạn
xa
gần
dưới
tay
(36).
Tuy
quân
thế
ngày
rầy
đã
mạnh
So
hùng
cường
khó
sánh
Bắc
phương;
Hai
lần
sứ
bộ
lên
đường
172.
Mang
đồ
phương
vật
tiến
dâng
Tống
triều
(37).
Việc
thông
hiếu
đã
nhiều
thuận
lợi,
Thuật
chăn
dân
càng
giỏi
liệu
bề
Ðặt
ra
luật
lệ
khắt
khe
176.
Dùng
hình
phạt
dữ
răn
đe
ác
hành
(38).
Tiên-Hoàng
lại
lập
ngành
tăng
thống
Phong
Quốc
sư,
trọng
dụng
nhân
tài
(39)
Cho
nên
nước
dưới
triều
ngài
180.
Dân
sinh
an
lạc
mười
hai
năm
ròng.
Mới
biết
bậc
anh
hùng
chí
cả
Dù
trên
lưng
chiến
mã
lập
công
Nào
riêng
đánh
Bắc
dẹp
Ðông
184.
Ðã
ngoài
mềm
mỏng
lại
trong
cương
cường.
* Nhà
Ðinh suy tàn
Tiếc
thay
đã
trăm
đường
liệu
định
Cũng
chỉ
trong
vụng
tính
phút
giây
Chọn
người
con
nhỏ
thơ
ngây
188.
Phong
làm
Thái-tử
mà
gây
tương
tàn
(40).
Trong
cốt
nhục
gia
cang
đã
mất
Ngoài
triều
cương
vị
tất
vẹn
toàn
Người
theo
Ðinh-Liễn
trưởng
nam
192.
Kẻ
hờn
ấu
chúa
Hạng-Lang
bỏ
mình.
Phúc
chẳng
nối,
họa
sinh
thêm
họa,
Trong
thịnh
cường
sẵn
đã
suy
vi;
Anh
hùng
trăm
trận
lừng
uy
196.
Hại
thay
chung
vận
chết
vì
tiểu
nhân.
Kể
Ðỗ-Thích
cận
thần
ti
tiện
Nằm
ngủ
mê
tính
chuyện
chiêm
bao
(41)
Ðêm
khuya
cung
cấm
lẻn
vào
200.
Giết
luôn
một
lượt
châu
Giao
nhị
hùng.
Tiên-Hoàng
đế
chết
cùng
Ðinh
Liễn
Chuyện
tầy
đình
suy
biện
dễ
thay:
Gian
thần
Ðỗ
Thích
đầu
bay
204.
Vệ
Vương
Ðinh
Tuệ
định
ngày
lên
ngôi
(42).
Ðinh
Thiếu-đế
đang
hồi
thơ
ấu,
Mẹ
là
Dương
Thái-hậu
lâm
triều
Xuân
xanh
đang
thuở
nhụy
kiều
208.
Chẳng
ba
đào
cũng
đắm
xiêu
anh
hùng.
Người
ấy
ngôi
binh
trung
tột
đỉnh,
Lại
đương
triều
Nhiếp
chính
đại
thần
Chính
là
Thập-đạo
Tướng-quân
(43)
212.
Vào
ra
thao
túng
mười
phần
tự
chuyên.
Bọn
Nguyễn
Bặc,
Ðinh
Ðiền,
Phạm
Hạp
Về
Ái-Châu
khẩn
cấp
khởi
binh;
Lê
Hoàn
sẵn
kế
Nam
chinh
216.
Lưới
dầy
hồ
dễ
dung
tình
hùm
beo.
Quân
nghĩa
dũng
Ái-Châu
tan
vỡ
(44)
Nghiệp
Ðinh
triều
cột
trụ
còn
đâu
Nước
non
man
mác
một
màu
220.
Hoa-Lư
gió
phất
ngàn
lau
xanh
rì!
NHÀ TIỀN
LÊ (980 -1009)
*Lê Hoàn phá
quân Tống
Buổi
triều
chính
suy
vi
chìm
nổi
Cõi
biên
thuỳ
quen
thói
phong
ba
Nhìn
vào
cơ
sự
nước
ta
224.
Bọn
biên
quan
Tống
dễ
tha
được
nào.
Truyền
văn
võ,
Tống
trào
nghị
sự,
Kén
tướng
tài
gấp
cử
đại
binh
Ầm
ầm
cờ
kéo
Nam
chinh
228.
Ðạo
xuôi
xứ
Lạng,
đạo
vòng
biển
khơi
(45).
Tin
chiến
sự
dập
dồi
quan
ải
Hồi
trống
khuya
khắc
khoải
canh
thâu
Lòng
riêng
gác
lại
bấy
lâu
232.
Ba
quân
thề
thốt
trước
sau
một
lòng.
Phạm
Cự-Lượng
nay
phong
đại
tướng
Lãnh
cẩm
nang
chấp
chưởng
binh
phù;
Trước
giờ
ban
lệnh
xuất
sư
236.
Họp
cùng
tướng
sĩ
phân
bua
ngọn
ngành:
Kẻ
chinh
chiến
vào
sanh
ra
tử
Vua
còn
thơ,
ai
xử
cho
đồng,
Hoặc
khi
tiến
thoái
đột
xông,
240.
Hoặc
là
tưởng
thưởng
chiến
công
chu
toàn.
Chi
bằng
trước
tôn
Hoàn
lên
chúa,
Sau
chiến
bào
yên
ngựa
xuất
chinh.
Ba
quân
vang
dậy
đồng
thanh,
244.
Hoàng
bào
phút
đã
trong
mành
trao
tay
(46).
Lê-Hoàn
bước
lên
ngai
quốc
tể
Xưng
Lê
triều
Hoàng-đế
Ðại-Hành
(47)
Sai
người
kíp
ruổi
Tống
kinh
248.
Dâng
thư,
dối
của
họ
Ðinh
phong
cầu.
Mồi
rước
mắt
dễ
đâu
buông
thả
Lời
sách
yêu
nghiệt
ngã
chẳng
vừa
Ðòi
Lê
Hoàn
đích
thân
đưa
252.
Mẹ
con
Ðinh
Tuệ
thẳng
qua
Tống
triều
(48).
Biết
giặc
Tống
đặt
điều
cự
tuyệt,
Chí
Nam
quân
đã
quyết
đá
vàng;
Mịt
mờ
khói
toả
Nam
hoang
256.
Nhấp
nhô
thuyền
chiến
rộn
ràng
vó
câu.
Quân
lên
Bắc
chống
Hầu-Nhân-Bảo,
Thuyền
sang
Ðông
ngăn
nẻo
Lưu-Trừng,
Ðại-Hành
Hoàng-đế
ung
dung
260.
Ðem
binh
thuyền
xuống
đóng
vùng
Ðằng-giang.
Thuỷ
quân
giặc
đánh
sang
dữ
dội,
Chiến
thuyền
Nam
toàn
đội
phải
lui.
Ðằng-giang
sóng
bạc
sáng
ngời
264.
Quân
Nam
liều
chết
đền
bồi
núi
sông.
Mặt
trận
Bắc
giặc
công
càng
mạnh,
Ải
Chi-Lăng
cờ
lệnh
ngả
nghiêng;
Viện
quân
chưa
kịp
kéo
lên,
268.
Ðại
quân
Tống
đã
ngang
nhiên
tiến
vào.
Quân
Lê
vẫn
lùi
sâu
tuyệt
địa,
Bước
đường
cùng
người
ngựa
thảm
sao!
Tướng
quân
cởi
lớp
chiến
bào,
272.
Dâng
hàng
thư
tự
nạp
vào
Tống
doanh.
Hầu-Nhân-Bảo
hùng
oanh
lẫm
liệt
Kéo
quân
vào
sào
huyệt
Ôn-khâu;
Ầm
ầm
thác
đổ
bỗng
đâu
276.
Nam
quân
khắp
ngả
xuất
đầu
bổ
vây.
Cờ
Lê
chúa
tung
bay
phấp
phới,
Trận
trống
đồng
vang
dội
sơn
khê,
Giáo
gươm
sáng
quắc
chỉnh
tề
280.
Nam
quân
xung
trận
muôn
bề
hùng
uy.
Quân
nhà
Tống
hồn
phi
phách
tán,
Chết
thảm
thương
mấy
vạn
hùng
binh,
Ðại
quân
phút
đã
tan
tành,
284.
Sa
cơ
chủ
tướng
cũng
đành
đầu
rơi!
(49)
Thuỷ
quân
giặc
rụng
rời
tháo
chạy,
Sóng
Bạch-Ðằng
nay
lại
bình
yên.
Non
xanh
nước
bạc
ngoan
hiền,
288.
Ngàn
năm
công
nghiệp
còn
truyền
sử
xanh.
*Chính
sách
đối
ngoại: Ðánh
Chiêm, hoà Tống.
Năm
Thiên-Phúc
thăng
bình
mở
hội
(50)
Vầng
đẩu
tinh
chói
lọi
trời
Giao.
Vừa
yên
ổn
với
Bắc
trào
292.
Ðại-Hành
thân
dẫn
quân
vào
Nam
chinh.
Nguyên
năm
trước
Chiêm-Thành
đoạn
nghĩa,
Lại
giam
cầm
sứ
giả
Giao-Châu
(51);
Lòng
riêng
dẫu
chẳng
thù
sâu,
296.
Quốc
hờn
giục
giã
vó
câu
gập
ghềnh.
Gươm
xẻ
núi
bạt
thành
chém
tướng,
Giáo
chuyển
rừng
phá
chướng
khai
thông,
Ðánh
vào
cho
tới
Chiêm
cung,
300.
Ðánh
cho
tỏ
mặt
anh
hùng
Giao-Châu
(52).
Nam
Chiêm
đã
cúi
đầu
thần
phục,
Bắc
Tống
còn
e
lúc
đa
đoan;
Âu
là
cứ
kế
vẹn
toàn,
304.
Ngoài
hoà
cường
Tống
trong
an
cõi
bờ.
Sứ
Nam
đến
kinh
đô
nhà
Tống,
Xin
giữ
phần
tiến
cống
như
xưa,
Lại
đem
Quách,
Triệu
(53) trả qua,
308.
Trước
là
thông
hiếu,
sau
là
thị
oai.
Tống
đế
đã
gờm
tài
Lê
chúa,
Lại
đang
hồi
khói
lửa
Bắc
biên
(54),
Cho
nên
dưới
giải
Nam
thiên
312.
Mặc
giao
Lê
chúa
trọn
quyền
an
dân
(55).
Năm
Ư'ng-Thiên
Nam
quân
khởi
hấn,
Mang
chiến
thuyền
cướp
trấn
Như-Hồng
(56),
Lại
khi
quấy
nhiễu
châu
Ung,
316.
Khi
truy
nội
tặc
đến
vùng
Khâm-Châu.
Triều
đình
Tống
trước
sau
chẳng
hỏi,
Lại
ân
ban
ngọc
đới,
chiếu
thư.
Ðại-Hành
tạ
sứ,
phân
bua
320.
Rằng:
là
giặc
bể,
năm
xưa
Như-Hồng;
Nếu
Giao
quân,
Phiên-Ngung
thẳng
tiến,
Rồi
đại
quân,
Mân-Việt
tràn
lên,
Há
chi
một
mảnh
trấn
biên
324.
Chẳng
hay
văn
võ
Ngự
tiền
biết
chưa?
(57)
Nền
Bách-Bảo
nắng
mưa
dầu
dãi
(58),
Ngọn
Ðại-Văn
vạn
đại
trơ
trơ;
Nhân
dân
một
thuở
ơn
nhờ
328.
Công,
thương,
nông
nghiệp
bấy
giờ
mở
mang.
Dân
nô
nức
khai
hoang
lập
ấp,
Quân
mở
đường
ngăn
giặc
lập
công
(59),
Hai
mươi
năm
lẻ
mặn
nồng,
332.
Thịnh
suy
rồi
cũng
nối
vòng
tử
sinh
(60).
*
Nhà Tiền Lê suy: Lê Trung Tông và
Lê Ngoạ Triều.
Khi
Hoàng
đế
Ðại-Hành
mệnh
tuyệt,
Con
thứ
là
Long-Việt
nối
ngôi;
Nhà
Lê
đến
vận
suy
đồi
336.
Loạn
cung
em
mượn
tay
người
giết
anh
(61).
Trong
gia
đạo
đoạn
tình
cốt
nhục,
Chốn
cung
đình
nát
mục
ươn
hèn,
Triều
thần
văn
võ
bon
chen,
340.
Khóc
vua
riêng
có
Ðiện-tiền
Tướng-quân
(62).
Long-Ðĩnh
triệu
quần
thần
xưng
đế,
Học
đòi
theo
nghi
vệ
Tống
liêu.
Người
đâu
dâm
bạo
đủ
điều,
344.
Liệt
giường
nên
phải
ngoạ
triều
trị
dân!
(63)
Ngoài
trăm
họ
oán
than
bất
phục,
Trong
anh
em
quay
mặt
chống
nhau,
Phù-Lan
vừa
mỏi
vó
câu
348.
Giặc
Cử-Long
đã
vào
sâu
chiến
tràng
(64).
Tiếc
cho
kẻ
trụ
vàng
giáp
ngọc,
Thương
cho
người
bổng
lộc
ngựa
xe;
Triều
cung
bầy
một
trò
hề
352.
Ðắm
chìm
bể
khổ
sông
mê
mặc
lòng.
Thế
mà
cũng
viển
vông
kinh
kệ,
Cũng
ra
tài
tế
thế
kinh
bang
(65)
Canh
thâu
kinh
khuyết
mơ
màng
356.
Nào
ngờ
bụng
kẻ
sói
lang
biên
đình.
Sứ
Tống
rõ
nội
tình
Nam
thổ,
Xin
cất
quân
thủy
bộ
Nam
chinh.
May
thay
Tống
đế
thể
tình
360.
Lê
triều
một
dạ
chẳng
đành
binh
đao
(66).
Sai
sứ
xuống
đất
Giao
phủ
dụ,
Khuyên
anh
em
khá
giữ
luân
thường,
Lại
phong
Giao-Chỉ
Quận-vương,
364.
Ban
cho
ấn
tín
liệu
phương
trị
bình.
Lê
Long-Ðĩnh
bình
sinh
tàn
bạo,
Bốn
năm
trời
nắm
đạo
trị
dân
Chưa
hề
bố
đức
thi
ân
368.
Nên
khi
nằm
xuống
Lê
phần
đổ
theo
(67).
Mới
biết
lưới
trời
treo
lồng
lộng,
Càng
ác
tai
càng
chóng
suy
tàn,
Mất
lòng
dân
mất
giang
san,
372.
Gìn
tâm
đức
mới
muôn
vàn
bền
lâu.
NHÀ HẬU
LÝ(1010 - 1225)
* Lý Công Uẩn khởi
nghiệp:
Chữ
Tâm
ấy
mở
đầu
nhân
quả,
Nghiệp
theo
duyên
vay
trả,
trả
vay;
Người
trong
thiên
hạ
xưa
nay
376.
Giữ
điều
tâm
đức
mới
dầy
phúc
duyên.
Khi
ấy
vận
Lê
tiền
đã
dứt,
Có
một
người
đáng
bậc
mẫu
nghi
Ðức
tài
vẹn
đủ
ân
uy
380.
Tính
tình
trung
hậu,
dung
nghi
rỡ
ràng.
Người
ấy
vốn
quê
làng
Cổ-Pháp
(68)
Nhỏ
theo
hầu
sư
bác
Khánh-Vân
(69)
Ðược
làm
nghĩa
từ,
tình
thâm
384.
Mới
theo
họ
Lý
nối
phần
tục
gia
(70).
Lý
Công
Uẩn
nay
đà
thanh
thế
Cầm
Tả
quân,
Thân-vệ
Ðiện-tiền
(71)
Xem
ra
quả
bậc
nhân
hiền
388.
Quần
thần
mới
quyết
phò
lên
ngai
vàng.
Ấy
cũng
kế
Ðào
lang
(72) khuynh chánh,
Ấy
cũng
mưu
Vạn-Hạnh
thiền
sư
(73);
Tuy
nhiên
trong
cõi
phù
du
392.
Dân
là
quý
trọng,
quân
cư
xá
gì
(74).
Nợ
xã
tắc
thôi
thì
gánh
vác,
Nỗi
trăm
dân
phó
mặc
lẽ
nao;
Cửa
công
đã
bước
chân
vào,
396.
Càng
dầy
phúc
phận
càng
cao
nhọc
nhằn.
Triều
Hậu
Lý
hai
trăm
năm
lẻ
(75)
Ðại-Việt
ta
trăm
vẻ
hùng
anh.
Bông
sen
trắng
giữa
trời
xanh
400.
Tám
mùa
xuân
sắc
một
cành
thiên
hương
(76).
Lý
Thái
Tổ
(1010
- 1028)
*
Dời đô ra Thăng-Long.
Tan
giá
lạnh
vầng
dương
sáng
tỏ,
Dậy
xuân
thì
hoa
cỏ
đua
tươi,
Mây
lành
từ
độ
lên
ngôi,
404.
Gió
hoà
mưa
thuận,
người
người
cảm
an.
Sớm
Thuận-Thiên
vua
ban
chiếu
chỉ
(77),
Khắp
kinh
thành
chuẩn
bị
dời
đô;
Ðinh
triều
kinh
cũ
Hoa-Lư
408.
Lập
thành
biệt
phủ
đổi
là
Trường-Yên.
La-thành
xưa
dựng
nền
xã
tắc,
Ðất
ngàn
năm
văn
vật
từ
đây.
Xe
loan
vừa
đến
thôn
Tây
412.
Rồng
vàng
đã
hiện
ngàn
mây
đón
mừng
(78).
Bèn
lấy
chữ
Thăng-Long
khai
hiện
Mở
mang
nền
văn
hiến
Nam
phương,
Xây
Văn
miếu,
dựng
Phật
đường
(79),
416.
Mở
khoa
Tam-giáo
xiển
dương
đạo
hành
(80).
Lại
chia
nước
ra
thành
lộ,
trại
Thêm
cõi
nam
trại
mới
Ðịnh-Phiên;
Khuyến
nông,
khích
lệ
thợ
thuyền,
420.
Ðắp
đê
Cơ-xá,
vỗ
yên
dân
tình
(81).
Việc
binh
chế
ngày
càng
tinh
thục,
Kén
tướng
tài,
đôn
đốc
rèn
quân;
Phàm
trong
quốc
thích,
hoàng
thân,
424.
Nhà
nhà
đều
phải
dự
phần
quân
cơ.
Khi
nhà
Lý
gồm
thu
xã
tắc
Sai
sứ
sang
triều
Bắc
cầu
phong;
Bắc
triều
khó
nỗi
tư
dung
(82)
428.
Tống
vương
đành
cũng
thuận
đồng
biểu
chương
Phong
"Giao-chỉ
Quận-vương"
ban
chiếu
Sau
gia
phong
vương
hiệu
"Nam-Bình"
Nhân
khi
Dực-Thánh
xuất
chinh
432.
Phá
hai
mươi
vạn
Man
binh
Dương,
Ðoàn
(83).
Miền
châu
Diễn
lại
toan
gây
rối
(84)
Rợ
Cử-Long
cũng
nổi
đao
binh
(85)
Vua
bèn
ngự
giá
thân
chinh
436.
Phong
ba
lại
lắng,
bất
bình
lại
yên.
Các
hoàng
tử
binh
quyền
chấp
chưởng,
Khi
đánh
Chiêm
chém
tướng
Bồ-Linh,
Khi
bình
Man
ở
biên
đình,
440.
Tràn
qua
đất
Tống
san
bằng
đụn
kho
(86).
Trải
mười
chín
xuân
thu
biến
đổi
Dưới
trời
Nam
một
mối
sơn
hà;
Mục
đồng
vẳng
khúc
âu
ca,
444.
Cỏ
cây
dầu
cũng
chan
hòa
móc
mưa.
Lý
Thái
Tông (1028 -
1054)
* Lê Phụng Hiểu dẹp loạn triều
đình.
Vua
Thái
Tổ
mới
vừa
tạ
thế
(87),
Trong
hoàng
triều
huynh
đệ
tranh
ngôi.
Ðông-cung
tuy
đã
định
rồi,
448.
Nọc
tham
xui
khiến
lòng
người
đảo
điên.
Bởi
sẵn
nắm
binh
quyền
vây
cánh,
Võ-Ðức
vương,
Dực-Thánh,
Ðông-Chinh
Mang
quân
vây
kín
thành
kinh,
452.
Triều
cung
rối
loạn,
dân
sinh
phiền
hà.
Ðau
xót
cảnh
nồi
da
xáo
thịt,
Gánh
cương
thường
dẫu
biết
nặng
vai,
Trong
hàng
Võ
vệ
có
người
456.
Chỉ
gươm
dõng
dạc
mấy
lời
trung
ngôn:
"Các
ngươi
trước
quên
ơn
tiên
đế,
Sau
sinh
lòng
khi
dễ
tự
quân;
Ðã
không
giữ
đạo
quân
thần,
460.
Vậy
Lê
Phụng-Hiểu
xin
dâng
gươm
này!".
Quát
một
tiếng
chém
ngay
Võ-Ðức,
Vòng
trùng
vi
lập
tức
vỡ
tan,
Ðông-Chinh,
Dực-Thánh
kinh
hoàng,
464.
Buông
gươm
bỏ
giáp
dậm
ngàn
cao
bay.
Lý
Phật-Mã
lên
thay
ngôi
vị
(88),
Vốn
am
tường
chính
trị,
lược
thao,
Thái
Tông
cũng
bậc
anh
hào
468.
Ðáng
cho
hậu
thế
liệt
vào
minh
quân.
Vua
vì
đạo
quân
thần,
cốt
nhục
Lấy
khoan
dung
mở
đức
hiếu
sinh;
Một
nền
Ðồng-Cổ
u
linh
472.
Treo
cao
Hiếu,
Nghĩa,
Trung,
Trinh
sáng
ngời
(89).
Năm
hoạn
nạn
cứu
người
nghèo
đói,
Lại
thường
khi
xá
tội
giải
oan,
Sửa
điều
luật
pháp
đa
đoan
476.
Ðúc
tiền
Minh-Ðạo,
sửa
sang
cầu
đường.
* Giặc
Nùng : Nùng Tồn Phúc, Nùng Trí Cao
Mười
năm
lẻ
bốn
phương
phẳng
lặng,
Giải
Trung
châu
mưa
nắng
thuận
hoà,
Ðất
bằng
bỗng
nổi
can
qua
480.
Một
miền
sơn
cước
chàm
pha
máu
đào.
Ðất
Quảng-Nguyên
bấy
lâu
nội
thuộc,
Nay
biến
thành
cõi
nước
Tràng-Sinh
(90);
Người
Nùng
một
thuở
liệt
oanh,
484.
Vạch
riêng
bờ
cõi,
đắp
thành
chiêu
quân.
Năm
Minh-Ðạo
Mậu
Dần
(dl.1038)
vừa
lúc
Người
Nùng
tên
Tồn-Phúc
quật
cường
Xưng
là
Chiêu-Thánh
Ðế-vương
488.
Ngang
nhiên
chống
lại
triều
đường
Thăng-Long
(91).
Ðầu
Kỷ
Mão
Thái
Tông
ngự
giá,
Tiến
quân
vào
biên
địa
Quảng-Nguyên,
Ðạp
bằng
một
giải
lâm
tuyền,
492.
Bắt
Nùng
Tồn-Phúc
dẹp
yên
cõi
bờ
(92).
Ngọn
sóng
gió
vẫn
chưa
chịu
lắng,
Vợ
con
còn
mật
đắng
nấu
nung;
Trí-Cao
cũng
kẻ
anh
hùng,
496.
Quật
cường
chiếm
lại
một
vùng
Ðảng-Ro
(93).
Ðại-Lịch
quốc
lập
cơ
nghiệp
mới,
Vạch
sơn
hà,
chí
nối
cha
anh.
Thái
Tông
lần
nữa
thân
chinh,
500.
Bắt
rồi
lại
thả
chẳng
đành
chu
di
(94).
Mười
năm
thoáng
qua
đi
như
chớp
Nùng
Trí-Cao
lập
nước
Ðại-Nam
Xưng
Nhân-Huệ
Ðế
Thánh
-hoàng
(95)
504.
Lâm
tuyền
lại
đổi
sa
tràng,
thảm
chưa!
Quách
Thịnh-Dật
xuất
sư
tiễu
giặc,
Hai
bên
cùng
tổn
thất
bất
phân.
Trí-Cao
bèn
cử
sứ
thần
508.
Xin
quy
phục
Tống
toan
phần
dựa
nương.
Triều
đình
Tống
tìm
phương
cự
tuyệt,
Nùng
Trí-Cao
bèn
quyết
điều
quân,
Tiến
sang
vây
hãm
Ung,
Tân
512.
Tràn
binh
chiếm
lấy
phủ
thành
tám
châu
(96).
Vua
Ðại
Tống
toan
cầu
nhà
Lý
Khởi
Nam
quân
bình
trị
biên
đình.
Bấy
giờ
Tống
tướng
Ðịch-Thanh
516.
Can,
xin
Lưỡng
Quảng
cử
binh
đánh
vào.
Quân
Lưỡng
Quảng
binh
đao
chểnh
mảng
Khiến
Tống
triều
hốt
hoảng
càng
thêm;
Trí-Cao
dâng
biểu
ngang
nhiên
520.
Ðòi
phong
Tiết-độ
hai
miền
Quý,
Ung.
Thế
mà
Tống
toan
ưng
cho
ổn,
E
đánh
càng
hao
tổn
thiệt
thua.
Ðịch-Thanh
lần
nữa
can
vua,
524.
Xin
cầm
quân
lệnh
liệu
mà
phản
công.
Tống
Ðịch-Thanh
vốn
dòng
danh
tướng,
Cầm
đại
quân
trụ
vững
như
non,
Ðợi
khi
giặc
đã
mỏi
mòn
528.
Mới
điều
quân,
cửa
Côn-Lôn
đánh
vào.
Giặc
đang
lúc
trí
kiêu
ý
mãn,
Chia
tướng
tài
phân
tán
đại
binh;
Vừa
toan
bổ
cứu
tình
hình,
532.
Kỵ
binh
Tống
đã
cắt
ngang
bên
sườn.
Hoàng
Sư-Mật
tử
thương
trên
ngựa,
Nùng
Trí-Cao
nổi
lửa
bỏ
thành.
Vạn
quân
phút
đã
tan
tành,
536.
Ngổn
ngang
chiến
địa
một
vùng
tang
thương!
(97)
*
Lý Thái Tông đánh Chiêm, vào
thành Phật-Thệ.
Lại
nhắc
chuyện
Chiêm
vương
ngày
trước,
Dưới
tiền
triều
gây
cuộc
binh
đao
(98).
Hai
mươi
năm
lẻ
về
sau,
540.
Chưa
nguôi
khói
lửa
siết
bao
hãi
hùng.
Năm
Giáp
Thân
(dl.1044)
Thái
Tông
ngự
giá,
Mang
chiến
thuyền
qua
cửa
Ngũ-Bồ;
Tướng
thành,
ôi
vạn
cốt
khô!
544.
Việt
quân
dẵm
nát
cơ
đồ
nước
Chiêm
(99).
Cảnh
quốc
phá
càng
thêm
tan
nát,
Phản
tướng
Chiêm
hạ
sát
vua
Chiêm
(100);
Bó
thân
hàng
trước
trận
tiền,
548.
Kinh
thành
Phật-Thệ
lại
phen
điêu
tàn
(101).
Quân
Việt
bắt
mấy
ngàn
người
ngựa,
Cùng
Chiêm
triều
nhạc
nữ,
vương
phi
(102)
Ngự
thuyền
rong
ruổi
về
quê,
552.
Rượu
vui
vua
bắt
Mỵ-Ê
sang
chầu.
Ðau
nhục
nước
lòng
sầu
dạ
hận,
Mảnh
chăn
chiên
gói
phận
thuyền
quyên,
Nước
sâu
rửa
sạch
ưu
phiền,
556.
Nêu
cao
tiết
liệt
lưu
truyền
ngàn
thu
(103).
Lý
Thánh
Tông (1054 - 1072)
*
Ðổi quốc hiệu là Ðại-Việt: thời toàn thịnh của
nước nhà.
Trải
mưa
nắng
mấy
mùa
dầu
dãi,
Sen
Tây
hồ
nay
lại
trổ
bông,
Ðắm
say
ngàn
biếc
chen
hồng,
560.
Vành
khuyên
thỏ
thẻ,
bướm
ong
tự
tình.
Năm
Long-Thụy
Thái-bình
mở
hội,
Lý
Thánh
Tông
lên
nối
ngôi
vua
(104),
Ơn
trời
hòa
gió
thuận
mưa,
564.
Vườn
xuân
Văn-Hiến
được
mùa
trổ
hoa.
Nước
từ
nay
gọi
là
Ðại-Việt
(105),
Dân
bây
giờ
càng
biết
văn
phong,
Phạm
nhân
cũng
được
khoan
hồng,
568.
Hình
quan
cũng
được
dậy
lòng
thanh
liêm.
Ðịnh
quan
chế,
trang
nghiêm
phẩm
phục,
Soạn
binh
thư,
bổ
túc
quân
cơ
(106),
Nổi
danh
binh
chế
bấy
giờ
572.
Tống
triều
cũng
phải
thăm
dò
học
theo.
Cửa
từ
bi
cũng
nhiều
công
đức,
Chẳng
những
xây
mấy
bậc
phù
đồ,
Dựng
bia
Phật
ở
Tiên-Du,
576.
Mà
còn
thương
xót
trùng
tu
lòng
người.
Nền
Nho
học
đến
thời
vinh
vượng,
Thờ
thánh
hiền,
đắp
tượng
Chu-Công,
Xây
miếu
Khổng
ở
Thăng-Long,
580.
Khơi
nguồn
đạo
sống
từ
trong
luân
thường
(107).
*
Chính sách biên thùy: Cứng rắn với phương
Bắc, mở rộng bờ cõi về phương Nam.
*
Lý Thường Kiệt bình Chiêm.
Việc
giao
hiếu
Bắc
phương
cũng
khéo,
Hội
Ung-Châu
dễ
chịu
kém
ai;
Năm
xưa
Tống
tướng
Bảo-Tài
584.
Bị
quân
Việt
bắt
ở
ngoài
biên
cương...
Nay
Tống
phái
Thị-lang
Dư-Tĩnh,
Ðến
Ung-châu
bàn
định
thảo
thương;
Việt
không
trao
trả
họ
Dương
588.
Hiển
nhiên
đã
có
chủ
trương
Bắc
thùy
(108).
Người
Chiêm
quốc
lắm
khi
quật
khởi,
Vượt
biển
khơi
gây
rối
ven
duyên;
Tiền
triều
hai
cuộc
chinh
yên
592.
Vẫn
chưa
nguôi
chí
cương
kiên
phục
thù.
Từ
dạo
Tống
cho
mua
lừa
ngựa,
Ban
bảo
câu,
nâng
đỡ
tinh
thần,
Giúp
ngầm
lực
lượng
Chiêm
quân,
596.
Chiêm
vương
Chế
Củ
định
phần
tuyệt
giao.
Thế
là
cuộc
binh
đao
Chiêm-Việt
Do
Lý
triều
Thường
Kiệt
thảo
nghiên
Bệ
rồng
nay
đã
dâng
lên,
600.
Vua
cho
chuẩn
bị
chiến
thuyền
vượt
khơi
(109).
Năm
bữa
tới
chân
trời
Nhật-Lệ
(110)
Thuỷ
lực
Chiêm
ra
bể
cản
nghênh,
Rồng
thiêng
một
trận
tung
hoành
604.
Ba
đào
thắt
đã
an
bình
như
không.
Bốn
ngày
tới
Tư-Dung
duyên
hải,
Thêm
ba
ngày
Thị-Nại
hiện
ra,
Mênh
mông
một
giải
cát
ngà,
608.
Việt
quân
đổ
bộ
vượt
qua
chiến
hào.
Tướng
Chiêm
dựa
Tu-Mao
dàn
trận
(111),
Quân
Thăng-Long
thừa
vận
tràn
lên,
Ầm
ầm
thác
đạn
mưa
tên,
612.
Việt
quân
rầm
rộ
thẳng
miền
kinh
đô.
Chế
Củ
thấy
cơ
đồ
đã
nát,
Bỏ
kinh
thành
lưu
lạc
Nam
phương;
Việt
quân
đuổi
đến
cùng
đường,
616.
Vua
Chiêm
phải
dắt
vợ
con
xin
hàng
(112).
Thành
Phật-Thệ
thêm
trang
quốc
phá,
Hận
Ðồ-Bàn
vay
trả
rồi
đây,
Vua
tôi
năm
vạn
bó
tay,
620.
Mây
thành
theo
ngọn
gió
bay
thảm
sầu!
Ðoạn
trường
có
qua
cầu
mới
biết,
Khí
hùng
thời
oanh
liệt
còn
đâu,
Mũ
gai,
áo
vải
gục
đầu,
624.
Theo
xe
vua
Lý
mà
đau
nỗi
nhà!
Chiêm
vương
phải
dâng
ba
châu
huyện
(113)
Mới
được
cùng
gia
quyến
hồi
hương;
Từ
nay
Ðại-Việt
hùng
cường,
628.
Tìm
đường
Nam
tiến,
mở
mang
Nam
thuỳ
(114).
* Ỷ-Lan
Thái phi.
Lý
Thánh
Tông
khi
về
cõi
phúc,
Thái
tử
là
Càn-Ðức
nối
ngôi.
Nhân
Tông
đang
thuở
thiếu
thời,
632.
Buông
rèm
giám
quốc
ấy
người
Ỷ-Lan
(115).
Thái-sư
Lý
Ðạo-Thành
phụ
chánh,
Vốn
vẹn
toàn
đức
thịnh
tài
cao;
Võ
thần
thêm
bậc
lược
thao
636.
Một
tay
Thường-Kiệt
trào
đình
vững
yên
(116).
Nay
nhắc
chuyện
nhân
duyên
thuở
trước,
Buổi
thái
hoà,
dân
nước
bình
an;
Thánh
Tông
phải
nỗi
muộn
màng
640.
Mới
cầu
tự
khắp
chùa
làng,
miếu
kinh.
Một
hôm
ngự
phương
đình
Thổ-Lội
(117),
Cho
bàn
dân
chiêm
bái
long
nhan;
Thôi
thì
nô
nức
hân
hoan,
644.
Trẻ
già,
trai
gái
mấy
làng
chen
nhau.
Hương
đồng
nội
hoa
cau
thanh
thoát,
Sắc
quê
mùa
xanh
ngát
vườn
ai,
Có
người
thôn
nữ
trâm
cài,
648.
Thản
nhiên
dựa
bụi
lan
đài
hái
dâu.
Cảnh
xa
mã
trước
sau
chẳng
ngó,
Sắc
khuynh
thành
chưa
tỏ
dung
nhan;
Vua
bèn
vời
đến
hỏi
han,
652.
Mới
hay
ngôn
hạnh
đoan
trang
tuyệt
vời.
Trúc
xanh
ngắm
càng
tươi
nét
trúc,
Lan
nụ
nhìn
thêm
tạc
vẻ
lan;
Tình
trong
thôi
đã
chứa
chan,
656.
Vua
cho
xa
mã
vời
nàng
về
kinh.
Yến
nương
vốn
thông
minh
ưu
tú,
Chẳng
bao
lâu
kinh
sử
lầu
thông,
Nào
hay
người
chốn
ruộng
đồng,
660.
Cũng
trang
liệt
nữ
đứng
trong
đất
trời.
Khi
thuyền
ngự
vượt
khơi
Nam
tiến,
Mấy
tháng
trời
chinh
chiến
cầm
quân,
Ỷ-Lan
giờ
bậc
phu
nhân
664.
Sau
rèm
định
việc
quân
thần
thay
vua
(118).
Nay
tự
quân
mới
vừa
bẩy
tuổi
Nước
nhà
lâm
thời
buổi
khó
khăn,
Trong
thì
chính
kiến
đôi
phân
(119),
668.
Ngoài
thì
giặc
Tống
chuyển
quân
đắp
đường.
Thái
-phi
vẫn
cương
cường
trung
chánh
Vừa
dậy
con
vừa
gánh
sơn
hà
(120);
Mới
hay
trong
đạo
đàn
bà
672.
Tam
tòng,
tứ
đức,
nước,
nhà
...
dễ
đâu.
Thế
mới
biết
nối
sau
Trưng,
Triệu
Khách
má
hồng
nào
thiếu
tinh
hoa;
Lẽ
thường
cọp
chết
để
da,
676.
Tiếng
thơm
là
cái
người
ta
để
đời.
Lý
Nhân
Tông
(1072 - 1127):
*Triều
đại
hùng
cường,
đánh
Tống
bình
Chiêm.
Khi
Càn-Ðức
lên
ngôi
cửu
ngũ,
Phò
Lý
triều
văn
võ
trung
lương,
Lập
nên
triều
đại
hùng
cường,
680.
Văn
tài
hiển
đạt,
võ
công
rạng
ngời.
Tuy
chinh
chiến
chẳng
dời
chính
trị,
Ngoài
đê
điều
trị
thủy
ích
dân,
Vua
còn
xứng
bậc
anh
quân,
684.
Mở
khoa
chọn
kẻ
chính
nhân
hiền
tài
(121).
Lớp
sĩ
tử
chen
vai
từ
đó,
Khoá
Tam-trường
rộng
mở
Nho
tâm;
Quốc-tử-giám,
viện
Hàn-lâm
688.
Là
nơi
kiến
tạo
mống
mầm
quốc
gia.
Kẻ
trên
ngựa
xông
pha
cũng
lắm
Ðem
máu
đào
tô
thắm
non
sông
Thời
nay
con
cháu
Lạc-Hồng
692.
Bình
Nam
đánh
Bắc
chiến
công
chưa
từng.
* Lý Thường Kiệt đánh
Tống
Nguyên,
Tể-tướng
Tống
Vương
An-Thạch
Nuôi
hùng
tâm
quét
sạch
biên
thùy,
Cử
người
Thẩm-Khởi
chỉ
huy,
696.
Toàn
vùng
biên
địa
tùy
nghi
tiến
hành
(122).
Thẩm
ban
lệnh
tuyển
binh
lập
trại,
Ðắp
cầu
đường,
triệt
thoái
biên
dân,
Sung
công
thuyền
muối
tập
quân,
700.
Xuất
tiền
mua
chuộc
thành
phần
nước
đôi
(123).
Việc
chuẩn
bị
đang
hồi
tiến
triển
Bỗng
xẩy
cơn
binh
biến
Hạ,
Liêu
Quảng,
Ung
ta
thán
cũng
nhiều
704.
Cho
nên
việc
đánh
Lý
triều
tạm
ngưng.
Lý
lên
tiếng
đòi
Nùng
Thiện-Mỹ
Ðem
về
triều
xử
trị
dậy
răn;
Kẻ
kia
chưa
chịu
phân
trần
708.
Còn
thêm
chiêu
dụ
thích
thân
họ
Nùng.
Cuộc
Bắc
phạt
đã
trong
định
kế:
Thủy
quân
từ
cửa
bể
Ðồ-Sơn,
Chiến
thuyền
dựa
vách
núi
non
712.
Tiến
lên
đánh
úp
thủy
đồn
Khâm-Châu.
Lục
quân
cũng
ba
đầu
Bắc
tiến,
Từ
Quảng-Nguyên,
Cổ-Vạn,
Quảng-Lăng;
Ðại
quân
thẳng
nẻo
Tư-Minh,
716.
Hợp
cùng
thủy
lực
đánh
thành
Ung-Châu.
Lý
Thường-Kiệt
cầm
đầu
hạm
đội,
Tôn
Ðản
thân
phân
phối
lục
quân;
Việt
quân
mười
vạn
giáp
nhân
720.
Tràn
lên
tựa
ngọn
sóng
thần
bủa
vây.
Phòng
tuyến
địch
Quảng-Tây
tan
vỡ
Mặt
Ðông-Nam
toàn
bộ
tan
tành.
Lục
quân
Ðại-Việt
tung
hoành,
724.
Bảy
ngày
đã
tới
vây
thành
Ung-Châu.
Quân
thủy
lực
càng
mau
tốc
chiến,
Ðánh
tràn
vào
ven
biển
Quảng-Ðông,
Khâm,
Liêm
hai
mặt
tiến
công,
728.
Ung-châu
thoắt
đã
ở
trong
tầm
nhìn.
Tống
triều
mới
hay
tin
hoảng
hốt,
Hạ
lệnh
cho
sĩ,
tốt,
quân,
dân;
Khắp
nơi
tử
thủ
liều
thân,
732.
Chờ
quân
tiếp
viện
Quế,
Tân
đổ
về.
Trời
tháng
chạp
lạnh
tê
chiến
bãi,
Tuyết
pha
màu
quan
tái
thê
lương,
Nửa
đêm
trống
giục
đoạn
trường,
736.
Thành
Ung
thôi
đã
vô
phương
sống
còn!
Quân
tiếp
viện
mỏi
mòn
chẳng
thấy,
Phút
tử
ly
trông
đấy
mà
đau.
Tô-Giàm
mượn
ngọn
lửa
sầu,
740.
Ðền
xong
nợ
nước
vẹn
câu
anh
hùng
(124).
Quân
Lý
đánh
hỏa
công
tiêu
diệt,
Dân
thành
Ung
một
chết
không
hàng.
Thương
thay
mấy
vạn
hồn
oan
,
744.
Ghi
trong
chiến
sử
một
trang
não
lòng!
Việc
đánh
Tống
cũng
trong
chiến
sách,
Cốt
phá
tan
kế
hoạch
Nam
chinh.
Tháng
ba
vừa
tiết
Thanh-Minh,
748.
Lý
Thường
Kiệt
kéo
đại
binh
trở
về.
*
Nhà Tống phục thù.
Việc
châu
chấu
đá
xe
gây
hấn
Khiến
Tống
vương
nổi
trận
lôi
đình,
Cấp
thời
kén
tướng
điểm
binh,
752.
Xuất
quân
tinh
nhuệ
Nam
chinh
phục
thù.
Quân
Ðại-Việt
còn
chưa
cởi
giáp,
Lấy
binh
nhàn
cường
tập
sau
lưng,
Hai
bề
Nam
Bắc
giáp
công,
756.
Ấy
là
kế
sách
bàn
trong
Tống
triều.
Cử
Triệu
Tiết
làm
Chiêu-thảo-sứ
Cùng
Quách
Quỳ
chức
Phó
nguyên
nhung
Cờ
bay,
tám
vạn
binh
hùng
760.
Hội
quân
Chiêm,
Lạp
trùng
trùng
kéo
sang.
Thuyền
Tống
ngược
tiểu
giang
Như-Nguyệt,
Gặp
thủy
quân
Ðại-Việt
đón
đường,
Việt
quân
làm
chủ
chiến
trường
764.
Ðánh
cho
giặc
Tống
tổn
thương
hơn
ngàn.
Ðại
quân
Tống
tiến
sang
sông
Nhị
Cũng
bị
quân
nhà
Lý
bổ
vây;
Ầm
ầm
sóng
dập,
tên
bay,
768.
Lửa
chan
mặt
sóng,
khói
dầy
cồn
hoang.
Trận
mưa
đá
bắn
sang
như
bấc,
Chiến
thuyền
Nam
thủng
nát
tơi
bời,
Mấy
ngàn
tử
sĩ
thây
phơi,
772.
Hồn
thiêng
thét
sóng
đáp
lời
núi
sông.
Ðêm
bãi
chiến
chập
chùng
sương
cát,
Nhìn
trại
thù
san
sát
vây
quanh;
Bỗng
nghe
vang
vọng
âm
thanh
776.
Từ
đền
Trương-Hát
bên
ghềnh
khói
lam:
"Nước
Nam
Việt
vua
Nam
làm
chủ,
Ðã
tiệt
nhiên
định
ở
Thiên
thư;
Kẻ
kia
xâm
phạm
cõi
bờ
780.
Trước
sau
cũng
bại,
chỉ
mua
nhục
nhằn!"
(125).
Lời
sông
núi
muôn
phần
linh
ứng,
Thủy
quân
ta
chặn
đứng
quân
thù;
Từ
miền
biên
địa
hoang
vu,
784.
Ðến
vùng
châu
thổ
dựng
cờ
phản
công...
Xuân
vừa
đấy
đã
nung
lửa
hạ,
Cuộc
tranh
hùng
chưa
ngả
hơn
thua;
Ðầy
đồng
bao
bãi
xương
khô,
788.
Cỏ
vàng
chen
lộn
nấm
mồ
không
tên.
Buồn
nghe
giọng
đỗ-quyên
thảm
thiết
Nẻo
quê
nhà
biền
biệt
thêm
xa;
Vì
chưng
thể
diện
quốc
gia,
792.
Ðược
thua
cũng
hổ
tiếng
là
ngoại
xâm.
Triều
đình
Lý
biết
tâm
dạ
giặc,
Cử
sứ
thần
sang
Bắc
nghị
hoà,
Cũng
là
điều
Tống
thiết
tha,
796.
Ngày
đi
tám
vạn
nay
đà
nửa
vơi.
Ðại
quân
Tống
phải
dời
Nam
thổ,
Song
rút
về
còn
giữ
mấy
châu
Quảng,
Tư,
Tô...
mạn
địa
đầu
(126)
800.
Hẳn
mong
vớt
lại
nửa
câu
anh
hùng.
Năm
Mậu
Ngọ
(dl.1078)
Nhân
Tông
cử
sứ
Sang
Bắc
triều
nối
sự
bang
giao;
Năm
voi
đổi
Quảng-Nguyên
Châu,
804.
Mấy
vùng
còn
lại
cũng
sau
đòi
về
(127).
* Lý Thường Kiệt đánh
Chiêm Thành.
Nhắc
lại
việc
trước
khi
đánh
Tống
Giặc
Chiêm-Thành
đã
động
binh
đao.
Dù
chưa
thoả
chí
lược
thao,
808.
Hùng
binh
Lý
đã
tiến
vào
ba
châu.
Gần
ba
chục
năm
sau
Lý
Giác
Lại
gây
mầm
loạn
lạc
Nam
biên;
Quân
triều
đánh
dẹp
đã
yên
812.
Nào
ngờ
Giác
đã
sang
miền
Chiêm
vương.
Chế
Ma-Na
quật
cường
nuôi
chí,
Nay
được
lời
họ
Lý
hưng
binh
Mang
quân
lấy
lại
ba
thành
816.
Ầm
ầm
kinh
động
triều
đình
Thăng-Long.
Việc
chinh
phạt
nhọc
công
lão
tướng
(128)
Lại
đem
quân
kéo
xuống
biên
thùy.
Chiêm
vương
bại
trận
khiếp
uy
820.
Ba
châu
xin
lại
quy
về
nước
Nam.
Lý
Thần
Tông (1128 - 1138)
Giai đoạn thịnh
trị.
Cuộc
trần
thế
trăm
năm
cũng
ngắn,
Cõi
con
người
ba
vạn
thoáng
qua;
Vua
Nhân
Tông
lúc
băng
hà,
824.
Không
con
nối
dõi
nghiệp
nhà
lên
ngôi.
Triều
đình
mới
lập
người
dưỡng
tử,
Cũng
là
con
đệ
ngự
Sùng-Hiền,
Tên
là
Dương-Hoán,
tôn
lên
828.
Mới
mười
một
tuổi,
vẹn
tuyền
nết
na.
Thần
Tông,
niên
hiệu
là
Thiên-Thuận,
Mở
từ
tâm
khai
vận
thái
hoà,
Truyền
đem
tội
phạm
thả
ra,
832.
Ruộng
công
cũng
được
trả
về
cho
dân.
Năm
đại
hạn
mấy
lần
thí
xá,
E
có
người
tội
vạ
oan
khiên;
Xem
ra
quả
bậc
vua
hiền,
836.
Mới
còn
nhỏ
tuổi
tuy
nhiên
rộng
lòng.
Tống
sắc
phong
Quận-Vương
Giao-Chỉ,
Sau
gia
phong
vương
vị
Nam-Bình.
Nước
nhà
ít
việc
chiến
chinh,
840.
Tướng
tài
có
Lý
Công-Bình
lược
thao.
Chân-Lạp
bốn
phen
vào
cướp
phá,
Có
lần
đem
hơn
cả
vạn
quân,
Chiến
thuyền
ước
bẩy
tám
trăm;
844.
Ta
đem
quân
Nghệ
bốn
lần
đánh
lui.
Người
Chiêm
cũng
chưa
nguôi
hùng
khí,
Tiến
quân
vào
biên
địa
Nghệ-an,
Vua
bèn
kén
chọn
võ
quan,
848.
Cử
Dương
Anh-Nhị
xuất
quân
tiễu
trừ.
Từ
mấy
bận
ban
sư
đắc
thắng,
Cửa
Nam
thùy
gió
lặng
sóng
yên.
Mới
vừa
qua
một
thập
niên,
852.
Thần
Tông
sớm
đã
quy
tiên
về
trời.
Lý
Anh
Tông (1138 -1175)
* Việc Ðỗ Anh-Vũ và
công nghiệp Tô Hiến-Thành
Thần
Tông
đã
ra
người
vạn
cổ,
Thái-tử
là
Thiên-Tộ
nối
ngôi.
Anh
Tông
đang
thuở
ấu
thời,
856.
Bà
Lê
Thái-hậu
ấy
người
trị
dân.
Bấy
giờ
kẻ
cận
thần
Anh-Vũ,
Vốn
cùng
người
quả
phụ
tư
thông,
Lạm
quyền
tính
chuyện
cuồng
ngông,
860.
Triều
đình
thao
túng,
cửa
công
kéo
phường.
Bọn
Vũ
Ðại,
Nguyễn
Dương,
Nguyễn
Quốc,...
Ðã
toan
vì
đại
cuộc
trừ
gian,
Chẳng
may
hành
sự
đa
đoan,
864.
Cơ
mưu
bại
lộ
thác
oan
mấy
người.
Ấy
có
phải
lòng
trời
xui
khiến,
Mới
gieo
cơn
tai
biến
thử
xem,
Hay
là
nhân
thuật
đảo
điên,
868.
Mới
gây
nên
nỗi
oan
khiên
lật
lường?
May
còn
bậc
trung
lương
chính
trực,
Gánh
cương
thường
tận
lực
phò
nguy,
Mới
qua
bến
mộng
bờ
mê,
872.
Nước
nhà
thoát
cảnh
rẽ
chia
tương
tàn.
Người
ấy
hiện
làm
quan
Thái-úy,
Tên
Hiến-Thành,
nguyên
thủy
họ
Tô
(129),
Chính
là
một
bậc
chân
Nho,
876.
Thân
dân,
minh
đức
chăm
lo
chuyên
cần.
Khi
quốc
biến
cầm
quân
lên
ngựa,
Lúc
thái
bình
khai
hoá
dân
tâm;
Ngẫm
trong
sự
nghiệp
ngàn
năm
880.
Cũng
là
một
bậc
chính
nhân
đại
hiền.
Nhờ
vận
nước
đã
yên
chính
sự,
Bởi
tôi
hiền
giặc
dữ
gờm
e;
Quân
Lào,
giặc
Hống
đôi
khi
884.
Nhọc
công
đánh
dẹp
đuổi
về
ngoại
biên.
Riêng
ở
mạn
Thái-nguyên,
Thân-Hợi
Tự
xưng
là
hậu
bối
Nhân
Tông
(130),
Khởi
binh
chống
lại
Thăng-Long,
888.
Triều
đình
đã
phải
mấy
công
tiễu
trừ.
Ðỗ
Anh-Vũ
xuất
sư
đánh
giặc,
Thân-Hợi
thua
bỏ
mặt
Phú-lương
Ðưa
quân
lên
đóng
Lạng-sơn,
892.
Hiến-Thành
đuổi
đến
cùng
đường
đánh
tan.
Từ
đấy
được
bình
an
trăm
họ;
Năm
Mão,
Thìn
vua
ngự
long
xa,
Thăm
dân,
xem
cảnh
nước
nhà,
896.
Sai
người
lưu
họa
quốc
gia
địa
đồ
(131).
Thời
ấy
nước
gọi
là
Ðại-Việt,
Từ
Hán,
Ðường
vẫn
liệt
quận
châu,
An-Nam
gọi
cũng
từ
lâu,
900.
Tống
triều
nay
đã
bắt
đầu
đổi
thay
(132).
An-Nam
Quốc
từ
rầy
thay
Phủ,
Phong
Anh
Tông
hai
chữ
"Quốc-Vương"...
Ở
ngôi
ba
bảy
năm
trường,
904.
Vua
Anh
Tông
mất,
ngôi
nhường
Cao
Tông.
Lý
Cao-Tông (1176-1210)
*
Mầm loạn trong lòng người
Long-Cán
được
tấn
phong
Thái-tử,
Cũng
tuổi
vừa
mới
độ
lên
ba;
Theo
như
di
chúc
vua
cha,
908.
Truất
ngôi
Long-Xưởng
cũng
là
cơ
duyên
(133).
Tuy
Thái-hậu
đòi
phen
phế
lập,
Tô
Hiến-Thành
một
mực
trung
kiên.
Ðến
khi
ông
sắp
quy
tiên,
912.
Cử
Trần
Trung-Tá
thay
quyền
phò
vua
(134).
Khi
ông
mất,
triều
thừa
Thái
lệnh,
Cử
Yên-Di
phụ
chính
tự
quân.
Tuy
nhiên
còn
lắm
trung
thần,
916.
Nên
điều
phế
lập
mới
đành
bỏ
qua.
Cao-Tông
lớn,
xa
hoa
ngang
ngạnh,
Thiếu
đức
tài,
tánh
hạnh
quân
vương,
Mua
quan,
bán
tước
nhũng
nhương;
920.
Lý
triều
nghiêng
mạch,
đổ
tường
từ
đây.
Người
Mường,
Mán
thường
hay
nổi
loạn;
Quân
Chiêm-Thành
hung
hãn
thừa
cơ;
Nghệ-An
có
gã
Phạm
Du
924.
Kéo
phường
vong
mạng
mưu
đồ
dã
tâm.
Quan
Phụng-ngự
điều
quân
đánh
diết,
Phá
tan
tành
sào
huyệt
nghịch
quân.
Phạm
Du
bỏ
chạy
thoát
thân,
928.
Sai
người
đút
lót
triều
thần,
cung
vi...
Vu
cho
Phạm
Bỉnh-Gi
hung
bạo,
Giết
lương
dân,
trái
đạo
quân
thần.
Cao-Tông
trong,
đục
bất
phân,
932.
Triệu
quan
Phụng-ngự
lao
trần
tống
giam.
Thấy
chủ
tướng
hàm
oan
mắc
nạn,
Quách-Bốc
bèn
vây
hãm
kinh
sư.
Cao-Tông
hạ
lệnh
giết
tù
936.
Rồi
mang
Thái-tử
chạy
về
sông
Thao.
Nhà
Trần
Lý,
gởi
vào
nương
náu,
Ấy
lòng
Trời
đã
báo
việc
sau.
Họ
Trần
nguyên
đã
từ
lâu
940.
Ở
làng
Tức-Mặc
sông
sâu
lưới
chài.
Từ
vận
nước
hoạ
tai
hỗn
độn
Người
Trần
gia
việc
lớn
sinh
tâm;
Lâu
nay
tính
chuyện
âm
thầm,
944.
Tung
tiền
mộ
cả
những
quân
bán
trời.
Trần
tiểu
thư
vốn
người
nhan
sắc,
Mảnh
lưới
tình
ai
thắt
dây
oan.
Người
trong
cuộc,
kẻ
mơ
màng,
948.
Khiến
gây
nên
cuộc
giang
san
đổi
dời.
Thái-tử
Sảm
lấy
người
Trần
thị
(135),
Cha
vợ
phong
tước
vị,
binh
quyền,
Lại
phong
quan
chức
Ðiện-tiền
952.
Cho
người
cậu
ruột
vốn
tên
Trung-Từ.
Trần
dấy
nghĩa
phò
vua
dẹp
loạn,
Khởi
nghiã
binh
cứu
nạn
kinh
sư.
Một
cơn
khói
lửa
mịt
mù,
956.
Lý
triều
nay
lại
trùng
tu
ngai
vàng.
Năm
sau
cơn
kinh
hoàng
biến
động
Cao-Tông
lâm
bệnh
trọng
lìa
trần.
Ba
mươi
năm
lẻ
phù
vân,
960.
Sen
hồ
xưa
đã
phai
tàn
từ
đây!
Lý
Huệ
Tông (1211 1225) :
*Nhà Lý bị họ Trần lấn át.
Thái-tử
Sảm
lên
thay
hoàng
phụ,
Trên
ngai
vàng
áo
mũ,
cân
đai;
Huệ
Tông
nhu
nhược
bất
tài
964.
Chính
triều
trao
cả
vào
tay
họ
Trần.
Trần-Lý
đã
mãn
phần
tục
cảnh
(136)
Con
thứ
là
Tự-Khánh
cầm
binh
Anh
em
chú
bác
hiển
vinh
968.
Chẳng
công
hầu
cũng
loát
khuynh
đại
thần
(137).
Thái-hậu
đã
đôi
phần
nghi
ngại,
Thường
dầy
vò
hạch
hỏi
Nguyên-phi;
Khánh
đem
quân
rước
vua
đi,
972.
Huệ
Tông
cũng
đã
sinh
nghi
ngấm
ngầm...
Giáng
Trần
thị
xuống
làm
ngự
nữ,
Rồi
mẹ
con
lên
ở
Lạng-Sơn
Lạ
chi
cái
cảnh
giận
hờn
976.
Mẹ
chồng
khi
cũng
nổi
cơn
tam
bành.
Ðã
trót
nỗi
sâu
tình
nặng
nghĩa,
Lòng
dạ
nào
chia
rẽ
uyên
ương;
Bách
nhau
đến
chỗ
cùng
đường
980.
Dẫu
tình
mẫu
tử
cũng
mang
thương
lòng
(138).
Huệ
Tông
lén
về
cung
từ
đấy,
Như
cá
tôm
trong
đáy
thu
mình;
Nguyên-phi
nay
gọi
Thuận-Trinh,
984.
Phong
làm
hoàng-hậu
mặc
tình
báo
ân.
Người
em
họ
là
Trần
Thủ-Ðộ,
Ðiện-tiền
quan
nắm
giữ
trọng
quyền
Dụ
vua
lánh
cảnh
ưu
phiền
988.
Vào
chùa
Chân-Giáo
ngẫm
nghiền
lý
Không!
Thế
mới
biết
dù
trong
quyền
quý
Chẳng
ngoài
vòng
tục
lụy
tử
sinh
Trót
mang
hạt
giống
hữu
tình
992.
Ðố
ai
thoát
khỏi
ngục
hình
tự
tâm.
Triều
Hậu
Lý
hai
trăm
năm
lẻ
Rực
rỡ
nền
văn
trị,
võ
công,
Khởi
từ
cửa
Phật
ruổi
rong
996.
Ngựa
xe
rồi
lại
cửa
Không
mà
về.
Lý
Chiêu
Hoàng (1225)
Nhường
ngôi cho chồng.
Thuận-Trinh
ngôi
chính
thê
Hoàng-hậu
Sanh
được
hai
gái
thảo
ngoan
hiền
Chị
là
công
chúa
Thuận-Thiên
1000.
Gả
cho
Trần
Liễu
kết
duyên
họ
nhà
(139).
Nhị
công
chúa
hiệu
là
Chiêu-Thánh,
Tên
Phật-Kim,
dung
hạnh
nhu
kiều
Huệ
Tông
rất
mực
quý
yêu
1004
.Mới đem ngôi báu Lý triều truyền cho.
Lý
Chiêu-Hoàng
tuổi
vừa
lên
bảy,
Dẫu
ngôi
cao
cũng
gái
ngây
thơ,
Cung
vi,
triều
chính
bấy
giờ
1008.
Một
tay
Thủ-Ðộ
tha
hồ
tác
tung.
Ðộ
lập
kế,
mưu
cùng
Trần
thị,
Thay
đá
vàng,
vương
vị
đổi
trao;
Nội
cung
Trần
Cảnh
đưa
vào,
1012.
Làm
quan
Chính-thủ
cận
hầu
nữ
vương
(140).
Rồi
bầy
cảnh
uyên
ương
tác
hợp
Khắp
hoàng
cung
hoa
đuốc
rỡ
ràng;
Nữa
sau
là
lễ
đăng
quang,
1016.
Rành
rành
chiếu
chỉ
nữ-hoàng
truyền
ngôi!
Chuyện
vật
đổi
sao
dời
riêng
để
Ngàn
năm
sau
miệng
thế
còn
bưng
:
"Trống
chùa
ai
đánh
thùng
thùng,
1020.
Của
chung
ai
khéo
vẫy
vùng
nên
riêng!"
(141).
|