Ngươì Việt Ưu Tú  2

Mục Lục

9- Chu Hoàng Long
8- Võ Bá Ngự và Võ Bá Tường
7- Lê Thành Ân
6- Ngô Bảo Châu
5- Huỳnh Alexandria
4- Phillip Roesler
3- Trịnh Xuân Thuận
2- Võ Phi Sơn
1- Trịnh Hữu Châu Eugene




Tiến Sỹ Chu Hoàng Long đoạt giải Eureka 2011 của Australia



Tiến Sỹ Chu Hoàng Long

TS. Chu Hoàng Long cùng các cộng sự đoạt giải thưởng danh giá với công trình sử dụng lượng nước tưới cho nông nghiệp, mà không gây hại môi trường.

Công trình nghiên cứu “Mô hình lưu lượng dòng chảy đo lường lượng nước có thể sử dụng cho sản xuất nông nghiệp và lượng nước cần dự trữ để bảo vệ môi trường”, vừa được vinh dự trao giải thưởng danh giá Eureka 2011 của Australia, trong lĩnh vực quản lý và sử dụng nguồn nước vào ngày 6 – 7/9 vừa qua.

Công trình do GS. R.Quentin Grafton (chủ trì), GS. Tom Kompas, TS. Chu Hoàng Long, Đại học Quốc gia Australia (ANU) và GS. Michael Stewardson, Đại học Melbourne nghiên cứu.

Công trình của TS. Chu Hoàng Long và nhóm nghiên cứu giúp trả lời câu hỏi chính sách, đang gây tranh cãi lớn hiện nay của Australia trong lĩnh vực môi trường, là nên dành bao nhiêu lượng nước tưới cho nông nghiệp mà không gây nguy hại cho môi trường ?.

Nghiên cứu tập trung vào vùng lòng chảo Murray – Darling, Australia. Nông nghiệp vùng này có khoảng 16.000 trang trại, sử dụng đến gần 90% lượng nước sạch. Các dòng chảy đã giảm cả về lưu lượng và tần suất. Lượng nước hàng năm chảy ra biển chỉ còn khoảng 40%.

Dù nông nghiệp vùng này tạo ra giá trị khoảng 5 tỷ USD/năm, nhưng đây cũng chính là cái giá phải trả cho môi trường. Nghiên cứu cũng chỉ ra rằng, nếu trong giai đoạn 2001 – 2009 phân bổ ít nước hơn cho tưới tiêu nông nghiệp và nhiều hơn cho môi trường, thì có thể tạo ra lợi ích kinh tế từ 500 triệu đến 3 tỷ USD.

Ông Frank Howarth, Giám đốc Australia Museum đánh giá, điều quan trọng là mô hình này có ý nghĩa toàn cầu, bởi nó có thể áp dụng cho tất cả các hệ thống sông trên thế giới. Đây cũng là mô hình đầu tiên trên thế giới giúp các nhà lãnh đạo và hoạch định chính sách có căn cứ khoa học để đưa ra quyết sách phân bố nguồn nước có lợi cho cả môi trường và kinh tế.  

TS. Chu Hoàng Long là đồng tác giả người Việt duy nhất năm 2011 được nhận giải thưởng Eureka. Anh từng tốt nghiệp Đại học Ngoại thương Hà Nội, và hiện là giảng viên Trường Kinh tế và Quản trị Crawford, thuộc Đại học Quốc gia Australia.

TS. Chu Hoàng Long đã tham gia nhiều công trình nghiên cứu với các giáo sư và cộng sự ở Australia trong lĩnh vực môi trường, được các đồng nghiệp và giới khoa học Australia đánh giá cao.

Eureka là giải thưởng khoa học uy tín và danh giá nhất Australia, được tổ chức hàng năm trao cho những nghiên cứu suất sắc trong các lĩnh vực: Nghiên cứu và Đổi mới; Khoa học lãnh đạo; Triết học; Khoa học báo chí và truyền thông…

Năm 2010, hai anh em người Việt được nhận giải thưởng này là TS. Võ Bá Ngự và em trai là GS. TS. Võ Bá Tường của Trường Điện, Điện tử, và Điện toán, thuộc Đại học Tây Australia vì những đóng góp khoa học nổi bật trong lĩnh vực an ninh Australia.


Tiến sĩ Chu Hoàng Long hiện là giảng viên của Trường Kinh tế và Quản trị Crawford thuộc Trường Đại học Quốc gia Úc (ANU), có lĩnh vực chuyên môn về Toán kinh tế, Kinh tế thủy sản… Tiến sĩ Chu Hoàng Long từng tốt nghiệp Đại học Ngoại thương Hà Nội, hoàn thành chương trình Thạc sĩ, Tiến sĩ Kinh tế tại ANU (Australia National Univesity) thủ đô Canberra,

Theo: VOV









Hai Giáo Sư Võ Bá Ngự và Võ Bá Tường Đoạt Giải Thưởng Eureka 2010
 về
Kỹ Thuật Truy Tầm (tracking technology)

Hai giáo sư Võ Bá Ngự và Võ Bá Tường tại Đại học Tây Úc vừa đoạt giải thưởng Eureka Prize 2010 vì phát minh khoa học nổi bật giúp hỗ trợ bảo vệ an ninh quốc gia, do Tổ chức Khoa học và Công nghệ quốc phòng (DSTO) của Australia tài trợ.

Tiến Sĩ Võ Bá Ngữ và Tiến Sĩ Võ Bá Tường
 (Ảnh:Australian Museum Eureka Prizes)

 

 

Giáo sư Robert Clark của Bộ Quốc phòng Australia đã trao giải thưởng trị giá 10.000AUD (khoảng gần 9.000USD) cho nhóm nghiên cứu thuộc trường công trình điện, điện tử và kỹ thuật máy tính của Đại học Tây Úc trong một buổi lễ tổ chức tại Sydney vào tối 18/8.

 

Phát biểu tại lễ trao giải, giáo sư Clark đã ca ngợi nhóm nghiên cứu gồm giáo sư Võ Bá Ngự (trưởng nhóm), giáo sư Võ Bá Tường (bào đệ cuả GS Ngự) và giáo sư Antonio Cantoni đã phát triển một cách tiếp cận mới trong các thuật toán theo dõi, qua đó giúp tăng đáng kể khả năng theo dõi cùng một lúc nhiều mục tiêu, nhưng đòi hỏi ít công suất của máy tính hơn so với các phương pháp truy tầm (tracking) truyền thống.

 

Giáo sư Clark nói: "Tôi  chúc mừng giáo sư Võ Bá Ngự và các đồng nghiệp với phát triển nổi bật trên. Phát minh này có tiềm năng góp phần quan trọng trên lĩnh vực quốc phòng và an ninh quốc gia của Australia qua việc giúp dễ kiểm soát hơn những thách thức trong việc phát hiện một số lượng lớn mục tiêu trong khi đó phải cần đến nhiều cảm biến (sensor) hiện đại."

 

Phương pháp truy tầm  mục tiêu hiện tại gặp phải vấn đề "phức tạp về luật số mũ," vốn có thể nhanh chóng làm suy yếu công suất của các máy tính, thậm chí là các máy tính có cấu hình rất mạnh trong quá trình xử lý. Ngược lại, phương pháp mới có khả năng kiểm soát hàng ngàn mục tiêu mà chỉ sử dụng các máy tính sẵn có.

 

Theo giáo sư Clark, phát minh của giáo sư Võ Bá Ngự và nhóm cộng sự có thể mang lại nhiều lợi ích trong lĩnh vực quốc phòng, đặc biệt là cải thiện khả năng nhận diện ở tầm xa hơn, đặc biệt là trong môi trường đô thị nguy hiểm và bảo vệ tàu chiến, máy bay và xe quân sự.

 

Bên cạnh đó, những ứng dụng trong lĩnh vực dân sự của phương pháp này có thể góp phần tăng cường hiệu quả công tác quản lý giao thông, giám sát thái độ của đám đông, phân tích thể thao, cảm biến từ xa và nghiên cứu y sinh.

 

Nguồn: http://www.dsto.defence.gov.au/news/6294/



A team led by Professor Ba-Ngu Vo at the University of Western Australia has won the 2010 Eureka Prize for “Outstanding Science in support of Defence or National Security” sponsored by the Defence Science and Technology Organisation (DSTO).


Dr Ba-Ngu Vo and Dr Ba-Tuong Vo
 winners of the 2010 Eureka Prize for Outstanding Science in support of Defence or National Security.

Professor Robert Clark, Australia’s Chief Defence Scientist, presented the $10,000 prize to the research team from the university’s School of Electrical, Electronic and Computer Engineering during an awards ceremony in Sydney last night.

Professor Clark praised Professor Ba-Ngu Vo, Professor Ba-Tuong Vo and Professor Antonio Cantoni for developing an innovative approach to tracking algorithms that significantly increase the capacity to handle multiple objects of interest, using less demanding computing power than traditional tracking methods.

“I congratulate Dr Ba-Ngu Vo and his colleagues for this outstanding development.  It has the potential to contribute significantly to Australia’s defence and national security, by making more tractable the challenges of detecting the large numbers of objects that modern sensors may typically detect,” Professor Clark said.

The existing approach to tracking suffers from the problem of “exponential complexity”, which can rapidly exhaust the capacity of even powerful computers to handle.  In contrast, the new approach offers the ability to handle thousands of objects using only off-the-shelf computers. 

“The innovative work of Professor Vo and his team could have many benefits in the defence domain.  This includes an improved identification capability at longer ranges, including in hazardous urban environments and for the protection of ships, aircraft and vehicles,” Professor Clark said.

Civilian applications that could benefit include traffic management, the monitoring of crowd behaviour, sports analysis, remote sensing and biomedical research.

Overall this year, the field of entrants for the DSTO Eureka Prize, seven in all, had been of a high quality.

Media note: Dr Ba-Ngu Vo and Dr Ba-Tuong Vo are pictured, courtesy of the Australian Museum Eureka Prizes. A production quality image is available in the Image Gallery.

Media contacts:

Jimmy Hafesjee (DSTO):   02 6128 6376 or 0404 042 457

Defence Media Liaison:       02 6265 3343 or 0408 498 664

The Defence Science and Technology Organisation (DSTO) is part of Australia's Department of Defence. DSTO's role is to ensure the expert, impartial and innovative application of science and technology to the defence of Australia and its national interests.

  Source: http://www.dsto.defence.gov.au/news/6294/





Ông Lê Thành Ân Được Bổ Nhiệm Làm
  Tổng Lãnh Sự Hoa Kỳ Tại Saì Gòn



Thạc Sĩ Lê Thành Ân

Ông Lê Ân, một viên chức ngoại giao cao cấp hàm Tham tán Công sứ đã đến Thành phố Hồ Chí Minh, Việt Nam, ngày 6 tháng 8 năm 2010 để bắt đầu nhiệm kỳ 3 năm làm Tổng Lãnh sư tại Thành phố. Ông đến từ bang Virginia, có bằng cử nhân Khoa học chuyên ngành Kỹ thuật điện năm 1976 và bằng Thạc sĩ Khoa học chuyên ngành Quản trị Kỹ thuật năm 1978 của trường Đại học George Washington, Washington DC. Ông tham gia ngành Ngoại giao năm 1991, sau 15 năm làm công chức trong Bộ Hải quân Hoa Kỳ. 

Suốt 35 năm công tác, Ông Lê Ân đã đạt được nhiều phần thưởng cao quý bao gồm Giải thưởng năm dành cho Kỹ sư liên bang trong năm 1990, bằng khen của Ngoại Trưởng dành cho viên chức xuất sắc. Ngoài ra, ông còn nhận được nhiều quyết định khen thưởng nâng lương cùng nhiều bằng khen danh dự khác. Ông được phong Viên chức Ngoại giao cao cấp năm 2001. Năm 2006 ông nhận giải thưởng Luther I. Replogle cho những thành tựu vượt bậc trong lĩnh vực quản lý. Đây là giải thưởng cao nhất của Bộ Ngoại giao dành cho nhà quản lý xuất sắc vì những đóng góp trong việc giúp Bộ Ngoại giao nâng cao hiệu quả trong thực hiện nhiệm vụ đối ngoại của mình.
 

Ông Lê Ân có nhiều kinh nghiệm về những vấn đề an ninh, chính trị, và kinh tế hiện nay tại khu vực Châu Á. Ông đã từng phục vụ tại Bắc Kinh (1991-1994), Tokyo (1994-1997), Kuala Lumpur (1997-2001), Singapore (2001-2004), Seoul (2004-2007), và Paris (2007-2010). Trong suốt thời gian công tác tại Bộ Ngoại giao, ông Ân đã làm việc rất chặt chẽ với cộng đồng doanh nghiệp Hoa Kỳ giúp giải quyết những mối quan tâm của các nhà đầu tư và doanh nghiệp Hoa Kỳ, các gia đình công dân Mỹ đang sống và làm việc tại nước ngoài. Một trong những vấn đề ông đặc biệt quan tâm là chuẩn bị và lên kế hoạch nhằm đáp ứng nhu cầu học tập của gia đình công dân Mỹ đang sinh sống ở nước ngoài. Trong thời gian công tác tại Paris, ông Lê Ân đã hoàn tất dự án hợp tác đầu tiên giữa Bộ Ngoại giao và tư nhân trong việc hiện đại hoá khách sạn lịch sử Talleyrand thuộc sở hữu của chính phủ Hoa Kỳ tại trung tâm Paris, vừa bảo đảm bảo tồn kiến trúc lại vừa có thể đáp ứng nhu cầu sử dụng toà nhà này làm trụ sở văn phòng hiện đại loại A. 
Ông Ân và vợ là bà Tâm sinh ra và lớn lên tại Việt Nam. Ông Bà có 3 con.

Nguồn: http://vietnamese.hochiminh.usconsulate.gov/tieusu.html






Giáo Sư Ngô Bảo Châu

Ngô Bảo Châu (sinh ngày 15 tháng 11 năm 1972) [4]giáo sư toán học trẻ nhất Việt Nam [5] [6] hiện nay, và nổi tiếng nhất với công trình chứng minh Bổ đề cơ bản Langlands. Ông cũng là người Việt Nam đầu tiên giành được Huy chương Fields.[7]


Giáo sư Ngô Bảo Châu

Ngô Bảo Châu năm 2007
Sinh 15 tháng 11, 1972 (37 tuổi)[1]
Hà Nội
Quốc tịch  Việt Nam[1][2],
 Pháp[1][3]
Ngành Toán học
Nơi công tác Université Paris-Sud 11
Viện nghiên cứu cao cấp Princeton
Đại học Chicago
Học trường École Normale Supérieure Paris
Université Paris-Sud 11
Nổi tiếng vì Chứng minh Bổ đề cơ bản Langlands
Giải thưởng Giải Clay (2004)
Giải thưởng Oberwolfach (2007)
Giải thưởng Sophie Germain (2007)
Huy chương Fields (2010)



Ngô Bảo Châu, sinh ngày 15 tháng 11 năm 1972 tại Hà Nội, miền Bắc Việt Nam. Thời niên thiếu, ông là học sinh Trường Thực nghiệm Giảng Võ, Trường THCS Trưng Vương, và sau đó học tại khối chuyên toán Trường Trung học phổ thông chuyên Khoa học Tự nhiên, Đại học Quốc gia Hà Nội. Ông đã hai lần đoạt huy chương vàng Olympic Toán học Quốc tế tại Australia năm 1988Cộng hòa Liên bang Đức năm 1989, và cũng là người Việt Nam đầu tiên giành 2 huy chương vàng Olympic Toán quốc tế.

Là sinh viên Trường Đại học Paris VI (Université Pierre et Marie Curie) và Trường Sư phạm Paris (École normale supérieure Paris, ENS Paris) từ năm 1992 đến năm 1994, rồi sau đó là sinh viên cao học và nghiên cứu sinh của Trường Đại học Paris XI (Université Paris-Sud 11) dưới sự hướng dẫn của Giáo sư Gérard Laumon, Ngô Bảo Châu bảo vệ Luận án tiến sĩ năm 1997, trở thành nghiên cứu viên của Trung tâm Nghiên cứu Khoa học Quốc gia Pháp (CNRS) từ năm 1998, lấy bằng Habilitation à Diriger les Recherches (HDR) năm 2003 và sau đó được bổ nhiệm là giáo sư toán học tại Trường Đại học Paris XI năm 2004. Cũng trong năm này, ông được trao tặng giải Nghiên cứu Clay của Viện Toán học Clay cùng với Giáo sư Gérard Laumon vì đã chứng minh được Bổ đề cơ bản cho các nhóm Unita. Năm 2005, khi được 33 tuổi, Ngô Bảo Châu được nhà nước Việt Nam phong đặc cách hàm giáo sư và trở thành vị giáo sư trẻ nhất của Việt Nam tính đến thời điểm đó.[8]

Năm 2007, ông đồng thời làm việc tại Trường Đại học Paris XI, Orsay, PhápViện nghiên cứu cao cấp Princeton, New Jersey, Hoa Kỳ[9]. Trong năm 2008, ông công bố chứng minh Bổ đề cơ bản cho các đại số Lie hay còn gọi là Bổ đề cơ bản Langlands. Cuối năm 2009, công trình này đã được tạp chí Time bình chọn là 1 trong 10 phát minh khoa học tiêu biểu của năm 2009.[10]

Với các công trình khoa học của mình, Giáo sư Ngô Bảo Châu được mời đọc báo cáo trong phiên họp toàn thể của Hội nghị toán học thế giới 2010 tổ chức ở Ấn Độ vào ngày 19 tháng 8 năm 2010.[11] Tại lễ khai mạc của Hội nghị này, giáo sư đã được tặng thưởng Huy chương Fields.[12] Năm 2010 cũng là năm ông nhập quốc tịch Pháp nhưng vẫn tiếp tục giữ quốc tịch Việt Nam[13][14]. Kể từ ngày 1 tháng 9 năm 2010, ông là giáo sư tại Khoa Toán Trường Đại học Chicago[15].

Sau khi được danh dự nhận giải Fields, ông phát biểu: "Đến một lúc nào đó, bạn làm toán vì bạn thích chứ không phải để chứng tỏ một cái gì nữa”. Ông cũng nói thêm rằng mình nghiên cứu toán học không phải vì đam mê giàu có hay nổi tiếng. GS. Ngô Bảo Châu là nguồn cảm hứng cho rất nhiều thanh niên trẻ Việt Nam và là một gương sáng cần noi theo.[16]

Ngô Bảo Châu sinh ra trong một gia đình trí thức truyền thống, ông là con trai của Giáo sư, Tiến sĩ khoa học ngành cơ học chất lỏng Ngô Huy Cẩn, hiện đang làm việc tại Viện Cơ học Việt Nam. Mẹ của ông là Phó Giáo sư, Tiến sĩ dược Trần Lưu Vân Hiền, công tác tại Bệnh viện Y học cổ truyền Trung ương, Việt Nam.[2]

Giáo sư Ngô Bảo Châu lập gia đình năm 22 tuổi với Nguyễn Bảo Thanh, là người bạn gái cùng học thời phổ thông[17]. Đến tháng 8 năm 2010, hai người có với nhau ba người con gái[18].

Nguồn: http://vi.wikipedia.org/wiki/Ng%C3%B4_B%E1%BA%A3o_Ch%C3%A2u


Ngôi sao toán học Ngô Bảo Châu thích làm việc trong bóng mờ

Ngôi
                      sao toán học Việt Nam, giáo sư Ngô Bảo Châu
Hình: Wikipedia Commons
Ngôi sao toán học Việt Nam, giáo sư Ngô Bảo Châu
Tin liên hệ

Sau khi được tôn vinh trên khắp nước, giáo sư Ngô Bảo Châu, ngôi sao toán học Việt Nam vừa đoạt giải Fields, cho biết tuy ông muốn làm việc trong bóng mờ nhưng giải thưởng thường được gọi là Nobel Toán học này đã mang lại cho ông những trách nhiệm và nghĩa vụ đối với quê hương mình.

Theo tường thuật hôm thứ tư của hãng thông tấn Pháp, nhà toán học 38 tuổi này nói rằng từ nay ông có một trách nhiệm nặng nề vì ông sẽ được lắng nghe nhiều hơn.

Vị giáo sư đang giảng dạy tại Đại học Chicago của Mỹ cho biết ông dự định mỗi năm sẽ làm việc 3 tháng tại Việt Nam và tham gia một viện toán học do Bộ Giáo dục Việt Nam thành lập. Ông nói rằng “một trong các mục tiêu của viện là thu hút các nhà khoa học Việt Nam trở về nước làm việc.”

Ông cho biết việc ông đoạt được Giải Fields là một niềm tự hào vô song đối với người Việt Nam và là một cơ hội to lớn cho sự tiến bộ của công cuộc nghiên cứu ở Việt Nam.

Giáo sư Ngô Bảo Châu sinh ra và lớn lên ở Việt Nam nhưng đạt được sự đột phá về sự nghiệp ở Pháp và cảm thấy hãnh diện về mối liên hệ với cả hai nước.

Ông nói với hãng thông tấn Pháp rằng ông nhận lãnh vinh dự này trong tư cách một người Pháp gốc Việt. Ông cho biết ông “đã vội vã trở thành người Pháp” và đã lấy quốc tịch Pháp hồi tháng hai khi ông cảm thấy là sẽ đoạt giải Fields.

Ông giải thích rằng “sẽ là một điều không công bằng nếu thành tựu của ông không mang lại sự tuyên dương cho các nhà toán học Pháp”.

Nguồn: AFP, Dan Tri






Huỳnh Alexandria

Nữ sinh gốc Việt 17 tuổi được Harvard trao học bổng tiến sĩ

Thưa quý vị, nữ sinh người Mỹ gốc Việt 17 tuổi, Alexandria Huỳnh, mới được ba trường đại học hàng đầu của Hoa Kỳ, trong đó có Harvard, trao học bổng toàn phần để làm tiến sĩ về miễn dịch học. Ở tuổi 13, Alexandria đã học lấy bằng cử nhân theo một chương trình học sớm trước tuổi tại Đại học tiểu bang California ở Los Angeles. Mời quý vị theo dõi cuộc trao đổi của Nguyễn Trung với Alexandria Huỳnh về các nỗ lực trau dồi và học tập để đạt các thành tích như vậy.

Nữ sinh người Mỹ gốc Việt 17 tuổi Alexandria Huỳnh


VOA: Xin chúc mừng Alex. Cảm giác của bạn lúc được thông báo được các trường hàng đầu của Hoa Kỳ trao học bổng toàn phần, trong đó có YaleHarvard?

Alexandria Huỳnh: Tôi không tin đấy là sự thật. Tôi cảm thấy lâng lâng trong vài ngày liền, cảm giác không gì có thể diễn tả được. Rồi khi cảm giác đó qua đi thì tôi thực sự vui. Tôi biết đấy là giấc mơ của nhiều bạn trẻ, thế nên, tôi cảm thấy thực sự may mắn vì có được cơ hội tới Harvard học.

VOA: Ở tuổi 13, bạn bắt đầu theo học chương trình đại học sớm trước tuổi của California State University, Los Angeles. Làm sao bạn có thể duy trì được khối lượng bài vở của một sinh viên lớn tuổi hơn bạn?

Alexandria Huỳnh: Chương trình học sớm Early Entrance Program (EEP) mà tôi tham gia có một hệ thống hỗ trợ sinh viên rất hiệu quả. Nhiều sinh viên lớn tuổi hơn tôi, và từng trải qua việc học tập như tôi, đã chia sẻ nhiều kinh nghiệm bổ ích cho chúng tôi. Đấy là nguồn giúp đỡ lớn đối với các tân sinh viên.

Theo đuổi chương trình EEP rất khác so với những gì tôi từng tham gia, nhưng không phải là điều bất khả thi đối với một người còn ít tuổi như tôi. Tôi chỉ biết cố gắng và dành toàn bộ thời gian để học tập.

VOA
: Điều gì thôi thúc bạn cố gắng học tập tốt và đạt được nhiều thành tích đáng nể ở tuổi còn nhỏ như vậy?

Alexandria Huỳnh: Tôi luôn muốn làm được một điều gì đó quan trọng, nhất là trong việc tìm tòi, nghiên cứu, để có thể giúp ích cho các thế hệ tương lai. Thế nên, tôi luôn tâm niệm là phải làm việc hết sức để đạt được mục tiêu đó.

VOA: Có phải chính vì mục đích muốn giúp ích cho đời mà bạn theo đuổi ngành nghiên cứu y sinh?

Alexandria Huỳnh: Đúng là tôi rất thích nghiên cứu về lĩnh vực miễn dịch, vì ngành này đóng vai trò quan trọng trong việc chữa trị các loại bệnh. Tôi nghĩ rằng nếu chúng ta có thể tìm ra một giải pháp kiểm soát hệ thống miễn dịch, giúp mọi người chống chọi được với bệnh tật, thì điều đó sẽ giúp cho cuộc sống của nhiều người tốt hơn.

VOA
: Vậy điều bạn muốn thực hiện nhất trong tương lai?

Alexandria Huỳnh: Tôi hiện chưa rõ lắm, nhưng tôi muốn tham gia nghiên cứu để sản xuất ra thuốc và vaccine chữa bệnh.

VOA: Bạn từng tình nguyện tham gia làm việc tại một trung tâm y tế địa phương. Kinh nghiệm đó giúp ích bạn như thế nào trong tương lai?

Alexandria Huỳnh: Chính bởi muốn làm trong ngành y nên tôi muốn tiếp xúc với môi trường liên quan tới y tế và các bệnh viện. Làm tình nguyện tại đó giúp tôi hiểu rõ hơn về cách thức hoạt động của bệnh viện mà các bệnh nhân hay người nhà của họ có thể không biết được. Ngoài ra, chúng tôi còn được tiếp cận phòng nghiên cứu, và điều đó chắc chắn giúp ích trong công việc nghiên cứu sau này của tôi.

VOA: Một ngày bình thường của một sinh viên đại học như bạn diễn ra như thế nào?

Alexandria Huỳnh: Tôi ngủ dậy lúc 6 giờ sáng. Vì tôi sống khá xa nơi học, nên tôi phải đi mất một tiếng mới tới được trường. Sau đó, tôi học cả ngày ở trường, và khi có thời gian rảnh, là tôi lại vào phòng thí nghiệm, tiến hành các nghiên cứu tôi thấy cần thiết. Bình thường, tôi ở trường từ 9 giờ sáng cho tới 7 giờ tối. Sau đó, tôi trở về nhà trong trạng thái thường là rất mệt mỏi.

Nếu cần thì học thêm còn không thì tôi đi ngủ. Khi có thời gian, tôi lại tới trao đổi với các bạn bè cùng khóa với tôi hoặc những bạn từ ngày xưa. Ngoài ra, tôi đi trượt băng nghệ thuật một buổi một tuần hoặc chơi piano.

VOA: Với những người bạn Việt Nam muốn đạt được những kết quả đáng nể như bạn, bạn có lời khuyên gì cho họ?

Alexandria Huỳnh: Nói có vẻ sáo rỗng, nhưng nếu một khi bạn quyết tâm hết sức để thực hiện một điều gì đó mình yêu thích, bạn có thể làm mọi điều. Có thể bạn không phải là người xuất sắc nhất, nhưng nếu bạn nỗ lực không mệt mỏi vì một mục tiêu nào đó, bạn có thể đạt được bất kỳ điều gì.

Đôi khi có thể bạn cảm thấy mệt mỏi, nhưng hãy luôn nghĩ tới các mục tiêu mình đề ra và thành quả cuối cùng mà mình đạt được để vượt qua những cảm giác đó.

Nguồn: http://www.voanews.com/vietnamese/news/vietnamese-student-harvard-08-03-2010-99831209.html

Danh sách thứ hạng 100 viện đại học

100 Viện Đại Học Tốt Nhất Thế Giới
http://www.usnews.com/articles/education/worlds-best-universities






Bộ Trưởng Phillip Roesler

Nếu Phillip Roesler còn ở Việt Nam...


2009-10-27

Truyền thông quốc tế mấy ngày hôm nay xôn xao vì tin ông Phillip Roesler, 36 tuổi, người Đức gốc Việt Nam đã được bổ nhiệm làm Bộ Trưởng Bộ Y Tế của Cộng Hòa Liên Bang Đức.

      
   Ông Phillip Roesler.

Photo courtesy of Wikipedia
Tin ông được clàm B Trưởng là mt ngc nhiên ngòai d đóan ca gii phân tích ngay ti th đô Bá Linh. Cũng là mt tin làm người Vit khp nơi trên thế gii hãnh din, và làm dư lun trong nứơc xót xa.

Ngạc nhiên thú vị


Không riêng ti Bá Linh, th đô ca nước Đc, mà dư lun nhiu nơi trên thế gii, my ngày nay ngc nhiên v mt tin ngòai d đóan ca mi người, là ông Philipp Roesler, thành viên ca Đng Dân Ch T Do (FDP)- người Đc gc Vit, hin đang là b trưởng kinh tế, lao đng và giao thông ti tiu bang Niedersachsen, va đựơc b nhim đ tr thành b trưởng y tế trong tân ni các ca chính ph Cng Hòa Liên Bang Đc.

Dù đã t lâu đựơc xem là mt ngôi sao ni bt, và là nim kỳ vng ca đng Dân Ch T Do, chính ông Roesler và ngay c ni b đng cũng t ra rt ngc nhiên khi ông được c làm b trưởng y tế liên bang, vì đây là mt b hin đang đương đu vi nhiu rt khó khăn.

Gii phân tích cho rng s dĩ ông đựơc b nhim là vì trong sut thi gian thương tho rt gt gao v vic thành lp tân ni các gia các liên minh, kéo dài hơn 3 tun l, ông Philipp Roesler đã chng t kh năng ca mình bng cách luôn t ra rt thông minh, thc tế, ôn hòa, có cái nhìn thu đáo cùng tài ng khu v nhiu đ tái, nht là v y tế. Ông Roesler còn được cho là người có tài khôi hài, khéo léo xoa du được nhng căng thng trong các cuc tho lun.

Trong vai trò b trưởng y tế. tui 36, ông Phillip Roesler là người B Trưởng tr nht nước Đc, và là người B trưởng đu tiên không phi là người gc Đc, là b trưởng đu tiên người gc Á Châu, và còn là là ngừơi gc Vit Nam..

Ông Röesler sinh năm 1973 Khánh Hòa, là ông là mt đa tr sng vin m côi, và vào lúc  mi có 9 tháng tui, đã được cha m nuôi đưa v Đc. Có ngun tin cũng cho rng cha m ông đã b đã b pháo kích chết và người hàng xóm đã b ông vào vin m côi ti Khánh Hòa, Nha Trang.

Niềm kiêu hãnh

Đi vi người Vit Nam sng ri rc khp nơi trên thế gii, thì câu chuyn “đa tr m côi Việt Nam thành ông B Trưởng nước Đc” là mt nim hãnh din vô biên.

Nhiu din đàn đin t đã đưa tin này vi nhng ta như: “Nim hãnh din chung ca người Vit Nam. Nhiu video clips v nhng cuc phng vn hay tin tc v ông đã được đưa lên trang mng You Tube vi nhng ta bt đu vi hai ch “Vit Nam pride” (dch là nim kiêu hãnh ca Vit Nam).

T Đc, tiến sĩ kinh tế Nguyn Ngc Hùng, phát biu:

“Ở ti Đc thì người ta kỳ th lm. Mt người tr, đng thi là mt người không phi là người Đc, mà h còn đt được đa v đó. Nhng người da trng khác cũng không đt được nhng đa v như ông Roesler này.

Ngừơi trứơc ông làm ch tch đng T Do Dân Ch tiu bang đã nói rng ông Roesler là người suy nghĩ và có li gii quyết rt nhanh. Và ông luôn luôn tìm được mt li gii quỵết tt đp nht và nhanh nht. Ông không bao gi trường hp nào c.”

Người Vit hi ngai còn quý mến ông Roesler v vic dù ông tuy đã được nuôi dưỡng như mt người Đc t nh, đã không quên ngun gc ca mình là mt người Vit Nam, và là mt nn nhân chiến tranh.

Cu đi tá CSVN, ông Bùi Tín, hin đang sng Pháp, k:

Nếu vn còn Khánh Hòa, chng bao gi anh tr thành mt trí thc được trng vng ch đng nói là có th làm B trưởng! Cơ chế Vit Nam t xưa đến nay ch cơ cu chc B trưởng cho tng lp con ông cháu cha.

Ô. Hà Văn Thịnh, Huế

“Khi ông ông Roesler tr thành mt người ni tiếng Cng Hòa Liên Bang Đc ông có d đnh tham d bui khai trương tượng đài thuyn nhân Hamburg đó. Thì s quán VN ti Berlin đã liên h vi ông, và gn như là hăm da và can ngăn thuyết phc ông y là không nên đến tham d bui khai trương đó, nhưng chính ông đã đến d, và mt tay cm lá c Đc, mt tay cm lá c VNCH mà bà con mà bà con thuyn nhân mang theo, và chp hình chung vi bà con.

Ông ta nói là s quán VN đã làm nhng cái chuyn vô duyên là đnh ép ông không d khai mc tượng đài như thế. Ri còn yêu cầu chính quyn đa phương là b cái ch ghi trên b là “thuyn nhân Vit Nam”, thế nhưng mà chính quyn đa phương h không nghe theo.”

Din đàn X-Càfe cũng có nhiu bloggers bình phm v s kin s quán VN không mun cho ông Roesler tham d bui l khánh thành tượng đài thuyn nhân ti Hamburg.

Nếu còn ở Việt Nam…

Nhưng dường như xen ln trong nim hãnh din dân tc và ni vui mng cho s thăng tiến ca ông Roeler, người ta có mt chút ngm ngùi, và nhng quan tâm sâu xa hơn.

Và ti Vit Nam, ông Hà Văn Thnh – thuc Đi hc Khoa hc Huế, trong bài có ta “Nghĩ V Phillip Roesler” được đăng trên trang mng BauxiteInfo viết:

“Nếu vn còn Khánh Hòa, hin ti ca Roesler (tm đt tên là Đc) là điu ai cũng biết: Chng bao gi anh tr thành mt trí thc được trng vng ch đng nói là có th làm B trưởng! Cơ chế Vit Nam t xưa đến nay ch cơ cu chc B trưởng cho tng lp con ông cháu cha.”

Ông Bùi Tín chia x nhn đnh ca Ông Hà Văn Thnh:

“Tôi nghĩ là nó gi cho ta rt nhiu suy nghĩ, là ch có dưới mt chế đ dân ch, dân ch thc s cơ, tài năng mi được biu l ra, và mi công dân mi được bình đng, và người ta la chn đúng là nhng nhân tài tinh hoa nht ca đt nước.

Tôi nghĩ là nếu mà ông Roesler còn Vit Nam, thì bây gi ông y còn gay go điêu đng lm. Tr m côi thì khó mà có th hc hành đựơc tn ti, và dù hc hành gii đến đâu đi na, cũng khó có th vào mt chc v cao được.”

Ông Hà Văn Thnh đt vn đ:

“Ti sao không thy lp tr đang gii giang hơn và h phi được trng dng hơn? Phi chăng vì nghĩ rng mình càng ngi trên cái ghế quyn lc lâu bao nhiêu thì bng lc còn nhiu chng đó, bt k cng đng, dân tc, tui tác, năng lc.

Mt trong nhng ni đau ln nht ca thc trng cán b ca ta hin nay là vô khi người không đ năng lc, thin đc, kém tài li giành được nhng v trí thơm tho đ tha h thao túng, trc li cá nhân.”

Nếu còn Vit Nam, thì liu ông Roesler s có cơ hi làm b trưởng không? Tiến Sĩ Nguyn Ngc Hùng phát biu:

“Nếu ông Phillip Roesler VN, không nhng ông không th tr thành B Trưởng, mà còn b cm hành ngh, và b kết án vi phm điu lut 88 ca b lut hình s là tuyên truyn chng đi nhà nứơc CHXHCNVN bi vì ông là thành viên ca đng T Do Dân Ch, ch không phi là thành viên ca đng CSVN.”

Nếu ông Phillip Roesler VN, không nhng ông không th tr thành B Trưởng, mà còn b cm hành ngh, và b kết án vi phm điu lut 88 ca b lut hình s là tuyên truyn chng đi nhà nứơc CHXHCNVN.

TS Nguyễn Ngọc Hùng

Mt người ký tên Nguyn Quang Lp viết trong din đàn X-Càfe:

“Nói tht giá nước ta có vài mươi anh như Philipp Roesler , kt lm thì năm by anh cũng được, gi nhng v trí quan trng thì đt nước mình chc s khá lên nhiu. Mt ông nhà văn nói chơi vui, nói lãnh đo nước mình không có ai đ mình gi bng thng c, toàn phi gi bng anh bng ông bng c, chán m đi.”

Theo ông Hà Văn Thnh thì s kin ông Roesler đựơc làm B Trưởng còn làm ni bt lên nim đau xót v nn giáo dc Vit Nam. Cũng trong bài “Nghĩ V Phillip Roesler”, ông viết:

“B GD-ĐT có cm thy bun không khi con nuôi, nhn ti Khánh Hòa, bng chc, “t nhiên” tr thành B trưởng ca nước Đc lng danh? Riêng tôi, đau và xót bi tôi biết chc rng trí tu người Vit Nam không kém nhưng nghèo và hèn, dt và nát bi nn giáo dc này kém ci.

Hai không ri bn không; nhng li có cánh. Vy mà, đc chép vn hoàn đc chép. Nói mà không có chế tài thì nói đ làm gì?

Tôi thy tht ti nghip cho ngài B trưởng. Khi lên chc v đó mà không được quyn thay bt kỳ ai ca cơ chế cũ, giàn khung cũ thì làm sao có th thay đi? Nếu mun có mt nn giáo dc vi hai vn Tiến sĩ tht thì làm sao có th khi 33% TS hin nay ch là giy như chính ông Bành Tiến Long, Th trưởng, đã tha nhn vi báo chí?

Thay mt cái cũ bng mt cái mi gi tưởng bng chính nhng con người kém ci c y, thin cn c y, bo th đến mc y, s mt bng lc đến chng y? Vô kh thi!”

S kin ông Phillip Roesler, 36 tui, mt người m côi không phi dân bn x đã được c làm B Trưởng B Y Tế ca nước Đc đã khiến nhiu trí thc Vit Nam suy nghĩ.

Điu gì đã ngăn cn không cho nước Vit Nam có nhng người lãnh đo tr như ông Phillip Roesler?  Và phi làm gì đ tui tr Vit Nam có thc tài có đựơc cơ hi lãnh đo đt nước.?

Chúng tôi xin mượn li phát biu ca Tiến Sĩ Nguyn Ngc Hùng thay cho li kết:

“Sự kiên ca ông Roesler ti Đc đã cho biết rng Vit Nam cn phi thay đi. Ti vì trong mt chế đ đc tài, thì con ngừơi không th phát trin được như vy. Ông Roesler ông y Đc thì ông y mi đựơc phát trin như vy, còn nếu ông y Vit Nam, thì chc chn ông y không được như vy. Cái nguyên nhân ca s chm phát trin là do đc tài. Đc tài cn tr s phát trin v mi mt.”

Chương trình Câu Chuyn Hàng Tun đến đây xin tm kết thúc, Hà Giang hn gp li quý v trong chương trình kỳ ti, mong quý v đón theo dõi.

Nguồn: http://www.rfa.org



Giáo Sư Trịnh Xuân Thuận

Người Việt Nam đọat giải thưởng Kalinga của UNESCO 2009

2009-10-30

Trịnh Xuân Thuận, nhà nghiên cứu vũ trụ đoạt giải Kalinga của UNESCO.

Vào ban đêm, mỗi khi ngắm nhìn bầu trời đầy tinh tú lấp lánh, có lẽ ai cũng đã một lần tự hỏi vũ trụ bao la đang chứa đựng những gì? Bên ngoài trái đất, các hành tinh và hàng nghìn thiên hà đầy bí ẩn vẫn đang là dấu hỏi lớn cho các nhà nghiên cứu vũ trụ.

Trịnh Xuân Thuận,
 nhà nghiên cứu vũ trụ đoạt giải Kalinga của UNESCO 2009. Photo courtesy trinhxuanthuan.com
Cùng với các nhà thiên văn học trên thế giới đang ngày đêm miệt mài với ống kính thiên văn, một giáo sư tiến sĩ người Việt, ông Trịnh Xuân Thuận, hiện đang dậy tại đại học Virginia, cũng say mê nghiên cứu vũ trụ không kém. Ông vừa được Tổ chức Giáo Dục, Khoa Học và Văn Hoá của Liên Hiệp Quốc, tức UNESCO quyết định trao giải Kalinga 2009 cho ông.
Ngày đêm miệt mài với ống kính thiên văn, một giáo sư tiến sĩ người Việt, ông Trịnh Xuân Thuận, hiện đang dậy tại đại học Virginia, cũng say mê nghiên cứu vũ trụ không kém. Ông vừa được Tổ chức Giáo Dục, Khoa Học và Văn Hoá của Liên Hiệp Quốc, tức UNESCO quyết định trao giải Kalinga 2009 cho ông.

Giáo sư Trịnh Xuân Thuận

Giải Kalinga là một giải thưởng dành cho những nhà khoa học đã có nhiều công trình nghiên cứu khoa học hữu ích đóng góp cho nhân loại. Giáo sư Trịnh Xuân Thuận là người Việt Nam đầu tiên đã đuợc vinh dự nhận giải thửơng này. Được biết, ông sinh năm 1948 tại Hà Nội rồi theo học các trường Pháp tại Việt Nam lúc bấy giờ. Ngay từ khi còn nhỏ, cậu bé Thuận đã luôn ngắm nhìn bầu trời bao la với muôn vàn tinh tú, những vì sao đổi ngôi, những biến chuyển không ngừng trong vũ trụ và tự đặt cho mình vô số câu hỏi. Từ thành phố Charlotville, bang Virginia, giáo sư Thuận kể lại:

Từ  nhỏ, bao giờ tôi cũng tự hỏi các câu hỏi về thiên nhiên, thắc mắc và muốn tìm hiểu tại sao vũ trụ lại có hiện tượng thế này thế kia, tôi rất để ý đến vật lý mặc dù tôi rất giỏi về văn chương, triết học, tôi giỏi về những cái đó, nhưng  tôi lại đi về khoa học vì tôi muốn tìm hiểu. Bố mẹ tôi bao giờ cũng hửơng ứng. Tôi đam mê vì tôi nghĩ là làm một chuyện gì thì phải đam mê, thì mình mới giỏi được, chứ còn  làm một cái gì để kiếm tiền không thì cái đó không phải theo đường lối của tôi.

Từ  nhỏ, bao giờ tôi cũng tự hỏi các câu hỏi về thiên nhiên, thắc mắc và muốn tìm hiểu tại sao vũ trụ lại có hiện tượng thế này thế kia, tôi rất để ý đến vật lý mặc dù tôi rất giỏi về văn chương, triết học, tôi giỏi về những cái đó, nhưng  tôi lại đi về khoa học vì tôi muốn tìm hiểu.
Giáo sư Trịnh Xuân Thuận

Sau khi đỗ tú tài rồi đựơc sang Thụy Sĩ du học vào năm 18 tuổi, chàng sinh viên Thuận  quyết định chọn ngành vật lý. Với khả năng học tập xuất sắc cộng với niềm đam mê mãnh liệt về vật lý thiên nhiên, chỉ sau một năm học tập, Trịnh Xuân Thuận đã đựơc học bổng của các trường đại học danh tiếng nhất của Mỹ lúc bấy giờ. Vì muốn được học hỏi từ các bậc thầy đã từng đoạt giải Nobel, nhất là trong lãnh vực vật lý thiên nhiên, ông quyết định theo học tại California Institute of Technology.

Theo lời ông kể lại, lúc đầu, ông gặp muôn vàn khó khăn vì bị trở ngại về ngôn ngữ cũng như văn hoá khác biệt, một thân một mình, không hề có chỗ dựa về tinh thần.  Nhưng với ý chí và lòng quỵết tâm theo đuổi mơ ước của mình, ông đã hoàn tất bằng tiến sĩ xuất sắc tại đại học Princeton. Ông kể lại những ngày đầu làm quen với vũ trụ:   

Lúc đó, ở trong campus có kính thiên văn lớn nhất ở trên thế giới, đường kính 5 thước, nhìn xa nhất về vũ trụ,  xa nhất về quá khứ của vũ trụ nữa thành ra bắt đầu tôi để ý đến thiên văn. Lúc tôi đang học là 18 tuổi, cuối các năm 1960, ngành vật lý thiên văn khám phá ra rất nhiều chuyện như ánh sáng còn lại của vụ nổ vũ trụ, Big Bang, các hiện tượng  rất hào hứng, tôi nghĩ là nếu mình khám phá ra những cái gì trong vũ trụ bao la thì rất là hay, chính vì thế tôi mới đi vào ngành vật lý thiên nhiên.

Lúc đầu, ông gặp muôn vàn khó khăn vì bị trở ngại về ngôn ngữ cũng như văn hoá khác biệt, một thân một mình, không hề có chỗ dựa về tinh thần.  Nhưng với ý chí và lòng quỵết tâm theo đuổi mơ ước của mình, ông đã hoàn tất bằng tiến sĩ xuất sắc tại đại học Princeton

Từ năm 1976 đến nay, ông là giáo sư ngành vật lý thiên văn tại đại học Virginia. Ông cho biết vể công việc hiện nay của mình:    

Hoạt động của tôi trong 3 lãnh vực, một là dậy học , truyền bá những điều đã học hỏi cho những người trẻ, thứ nhì là khảo cứu vì tôi hay dùng kính thiên văn như kính thiên văn Hebble chẳng hạn để tìm hiểu về vũ trụ. Tôi làm việc với  những thiên hà li ti, rất trẻ, Mấy năm trước, tôi cũng khám phá ra thiên hà li ti trẻ nhất trong vũ trụ, tức là mới sinh  ra kém một tỷ năm, rất là trẻ vì thông thường mấy thiên hà li ti là 14 tỉ năm về trước. Thứ ba là tôi viết sách vì tôi nghĩ rằng, vật lý thiên văn cho biết trước nguồn gốc của con người trong vũ trụ, cho biết lịch sử của con người, tôi muốn giảng giải điều đó cho mọi người vì thế tôi viết sách là như vậy.

Nhiều công trình nghiên cứu giá trị

Thực vậy, không chỉ nổi tiếng là một trong những nhà vật lý thiên văn hàng đầu trên thế giới với nhiều công trình nghiên cứu rất có giá trị, giáo sư Trịnh Xuân Thuận còn là tác giả của hàng trăm bài tiểu luận và những cuốn sách về sự hình thành vũ trụ, với những thiên hà và sự phát triển của chúng. Các tác phẩm của ông được dịch ra nhiều thứ tiếng trên thế giới, có cuốn đã dịch sang 20 thứ tiếng. Tuy sinh sống và dậy học ở Hoa Kỳ, viết các công trình nghiên cứu bằng tiếng Anh, nhưng các tác phẩm của ông đều được viết bằng tiếng Pháp và được độc giả khắp nơi rất ưa chuộng. Mới đây nhất, ông đã soạn ra cuốn từ điển về vũ trụ. Ông cho hay:

Cuốn tự điển đó tôi vừa xuất bản ở Paris, bây giờ cũng đựơc xếp vào danh sách sách bán chạy nhất, best seller, ở nước Pháp, tôi cũng có rất nhiều độc giả bên Pháp mến chuộng sách của tôi.

Cuốn tự điển đó tôi vừa xuất bản ở Paris, bây giờ cũng đựơc xếp vào danh sách sách bán chạy nhất, best seller, ở nước Pháp, tôi cũng có rất nhiều độc giả bên Pháp mến chuộng sách của tôi.

Giáo sư Trịnh Xuân Thuận

Cái quỵển đó tôi tìm những mục nào tôi thích như là Big Bang, ngôi sao này ngôi sao kia, tôi viết độ chừng một hai trang về cái đó thôi, người nào mở mục nào thích ra coi thì người ta đọc chừng một hai trang là thích rồi, có những thần tượng của tôi chẳng hạn như ông Einstein, ông Einstein  là người khi tôi còn ở Việt Nam, bắt đầu đọc sách của ông Einstein thì sách ông đã hướng tôi về vật lý thiên nhiên, rồi Hubble là người kiếm ra vụ nổ của vũ trụ, tôi viết về mấy người đó, rồi tôi cũng nói về sự liên hệ giữa khoa học và đạo Phật chẳng hạn, vì tôi có viết một cuốn sách đã dịch sang tiếng Việt Nam tựa đề là Vô Hạn Trong Lòng Bàn Tay, trong đó tôi nói chuyện với một nhà sư người Pháp, về những liên hệ giữa khoa học và đạo Phật, những lối đạo Phật nhìn vũ trụ khác hay không khác, hay nó giống lối nhìn của khoa học, liên hệ giữa khoa học với các nhà thơ, các họa sĩ, cái lối nhìn của mỗi người về vũ trụ đều tăng cường sự hiểu biết của mình về vũ trụ. 

Vũ trụ được sắp xếp một cách rất trật tự như một qui luật

Theo ông, sự kết cấu hoàn hảo và hài hoà rất tuyệt vời của vũ trụ không phải ngẫu nhiên mà phải có một cái gì đó đã sắp xếp tất cả một cách rất trật tự như một qui luật mà không ai có thể chứng minh được. Ông nói:

Khoa học không thể chứng minh điều đó . Tôi nghĩ là có cái gì đưa các luật lệ về vũ trụ. Mỗi lần tôi nhìn về vũ trụ, tôi thấy nó rất hài hoà, rất điều hoà, tôi nghĩ là đối với một người khoa học có physical law, khoa học không thể chứng minh đựơc điều đó, mình không thể nhìn qua một cái kính thiên văn chẳng hạn, mình chỉ biết là trong vũ trụ, nó rất hài hoà, nó có những cái luật lệ, ai làm ra những cái luật lệ đó thì đó là một câu hỏi , vì nó không phải hỗn độn.

Được biết, giáo sư Trịnh Xuân Thuận cũng từng được mời về Việt Nam để giảng dậy cho các sinh viên tại Hà Nội và thành phố HCM, cùng  thuyết trình về vũ trụ và vật lý thiên văn tại các trường đại học. Nhân đây, khi hỏi về ngành vât lý thiên văn trong nước, ông phát biểu: 

Khoa học không thể chứng minh điều đó . Tôi nghĩ là có cái gì đưa các luật lệ về vũ trụ. Mỗi lần tôi nhìn về vũ trụ, tôi thấy nó rất hài hoà, rất điều hoà, tôi nghĩ là đối với một người khoa học có physical law, khoa học không thể chứng minh đựơc điều đó, mình chỉ biết là trong vũ trụ, nó rất hài hoà, nó có những cái luật lệ, ai làm ra những cái luật lệ đó thì đó là một câu hỏi
Giáo sư Trịnh Xuân Thuận

Hiện giờ Việt Nam chưa có vật lý thiên văn, chỉ có vật lý thôi,. Lúc tôi về Việt Nam để giảng cho các sinh viên ưu tú ở các trường đại học ở Việt Nam thì phần đông các sinh viên trong môn Vật Lý, chưa có thiên văn. Tôi nghĩ là đầu tiên cần phải bành trướng môn vật lý trước cho vững chắc vì giáo dục rất cần thiết, cái đó là tương lai của nước ta, những người trẻ ,nếu một ngày kia muốn Việt Nam vào  những nước tân tiến thì phải có nền giáo dục rất mạnh, khoa học cũng phải mạnh và vật lý là đầu tiên, một ngày kia tôi cũng mong vật lý thiên văn bành trướng ở Việt Nam.

Lúc đó cũng phải bỏ nhiều phương tiện vào cái đó, thí dụ như vật lý thiên văn thì phải có kính thiên văn, cả trăm triệu đô la hay là lên không trung. Mấy chuyện đó tốn rất nhiều tiền, tôi mong là Việt Nam sẽ đến cái mức đó  như nước Tàu chẳng hạn, mấy chục năm  trước, họ nghèo nàn, bây giờ đã lên không gian, rồi  họ đang làm mấy cái kính thiên văn lớn ngang hàng với Mỹ, với Nhật.

Tôi mong là Việt Nam sẽ đến mức đó, sau kinh tế thì phải lo về giáo dục, khảo cứu là chuyện thứ ba. Tôi nghĩ là nếu những người lãnh đạo có đường lối,  nhìn xa cho nước. Có người nào nhìn xa , có quyền hành nhìn xa vào tương lai của nước ta thì sẽ đạt tới đó được.

Với niềm đam mê vũ trụ và dành cả đời mình để nghiên cứu thiên văn hầu cống hiến cho nhân loại những công trình khoa học của mình, giáo sư Trịnh Xuân Thuận sẽ đựơc tổ chức UNESCO trao giải Kalinga 2009 vào ngày 5 tháng 11 sắp tới tại Diễn Đàn Khoa Học Thế Giới ở Budapest, Hungary. Thật là một niềm tự hào cho người Việt của chúng ta. Mục ĐSNVKN xin ngừng nơi đây. Hẹn gặp quí vị vào kỳ sau.                        

Nguồn: http://www.rfa.org

 Trở lại trang mặt


Trung Tá Võ Phi Sơn
 Huấn Luyện Viên Phi Hành /Quân Đội Mỹ

     
                                 SVSQ Võ Phi Sơn                                             Trung Tá Võ Phi Sơn    
 

Võ Phi Sơn vừa được vinh thăng Trung Tá vào tháng 3 năm nay 2009 và đang đảm trách việc cố vấn, huấn luyện cho một nước Ả Rập.

Là con của cựu Trung tá Phi Công Võ Phi Hổ, khóa 17 Võ Bị Quốc Gia Việt Nam, Sơn cùng gia đình may mắn thoát được khỏi Việt Nam vào những ngày tang thương cuối tháng 4 năm 1975. Sơn đến Hoa Kỳ khi mới lên 5 tuổi, ngơ ngác trước cuộc sống mới xa lạ.

Nhưng nhờ truyền thống gia đình và theo gương bố, là một hoa tiêu khu trục phản lực lỗi lạc của Phi Đoàn 534 thuộc Không Đoàn 92 Chiến Thuật ở Phan Rang, Sơn và các anh chị em lớn lên, học hành thành đạt nơi quê hương mới.

Từ lớp 9, Sơn đã giữ vai trò Chủ tịch của National Honor Society và Science Society tại trường Trung Học. Năm 1985, Sơn đỗ thủ khoa tại W.R. Thomas Junior High với nhiều giải thưởng lớn của lien bang như: Award of Honor do The National Leadership Organization trao tặng; The American Legion School Award do The American Legion trao tặng.

Tiếp theo những năm chót trung học, việc học của Sơn thăng tiến mạnh hơn. Sơn còn là một boyscout với các cấp hiệu cao nhất. Sơn đoạt đai nâu Karate. Sơn chơi Trumpet rất xuất sắc, đoạt nhiểu giải tại địa phương  và cấp tiểu bang.

Đặc biệt, Sơn cũng là một cầu thủ football giỏi. Sơn từng đem giải nhất cho trường về môn chạy bộ.

Ngoài thể lực, Sơn còn giỏi về việc học, nhất là môn toán.

Sơn đã tốt nghiệp Tối Ưu trên tổng số 597 học sinh của lớp 1988; đoạt giải The Best Student of the Year và Outstanding Math Student Award cùng rất nhiều giải khác với nhiều hiện kim.Noi theo gương bố, Sơn tình nguyện vào quân đội và được các Nghị sĩ giới thiệu theo học trường Võ Bị West Point khoá 92.

Ra trường, Thiếu Úy Võ Phi Sơn lần lượt phục vụ tại nhiều đơn vị như Sư đoàn 2 Thiết Giáp, Sư đoàn 4 Bộ Binh, Sư đoàn 82 Nhảy Dù. Anh lái các phi cơ trực thăng OH-58 AC, Apache  tham chiến tại chiến trường Afghanistan. Lần lượt từ cấp Trung đội trưởng, đại đội trưởng, Phụ tá ban 3, Ban 1 cấp Trung đoàn. Hiện Trung tá Võ Phi Sơn là Cố vấn phụ trách huấn luyện Trực thăng cho quân đội các nước Ả Rập đồng minh.

Võ Phi Sơn đã được báo The Miami News giới thiệu với nhiều lời ca ngợi về sự thành công của anh nói riêng và gia đình nói chung.

Đặc biệt, tuy hành quân xa xôi, lúc nào Sơn cũng mang theo trong người lá cờ vàng thân yêu của Tổ quốc Việt Nam (xem ảnh). Bên cạnh những người con ưu tú thế hệ 2 như Đại Tá Lương Việt, Đại Úy Elizabeth Phạm, Phi hành gia Eugene Trịnh…, Võ Phi Sơn đang làm rạng danh người Việt tại quê người.

Bên cạnh những người con ưu tú thế hệ 2 như Đại Tá Lương Xuân Việt, Đại Úy  Elizabeth Phạm, Phi hành gia Eugene Trịnh…, Võ Phi Sơn đang làm rạng danh người Việt tại quê người.

Chúng tôi chúc mừng Trung tá Võ Phi Sơn. Cầu mong sẽ có ngày nghe đến nhiều vị tướng tài ba mang các họ Việt Nam trong quân đội Hoa Kỳ.

Đỗ Văn Phúc
Nguồn: http://thangmomedia.com/page-id-4387.html






Tiến Sĩ Trịnh Hữu Châu Eugene






        Dr Eugene Trinh
(ảnh:wikipedia.org)
Trịnh Hữu Châu (tên tiếng Anh: Eugene Trinh; sinh năm 1950) là nhà vật lý thiên văn. Là người tham gia vào chuyến bay STS-50 của NASA, ông trở thành người Mỹ gốc Việt đầu tiên bay vào vũ trụ vào ngày 25 tháng 6 năm 1992. Ông ở ngoài vũ trụ 13 ngày 19 giờ 30 phút

Eugene Trinh sinh ngày 14 tháng 9 năm 1950 tại Sài Gòn và lớn lên ở Paris, Pháp từ năm 2 tuổi. Ông là con trai út trong gia đình kỹ sư Trịnh Ngọc Sang. Từ năm 1968, ông sang định cư tại Mỹ.

Ông tốt nghiệp Đại học Columbia năm 1972, rồi sau đó nhận học bổng và hoàn thành luận án thạc sĩ vật lýtriết học trong hai năm 1974 và 1975. Hai năm sau (1977), ông tiếp tục nhận bằng tiến sĩ vật lý ứng dụng ở Đại học Yale.

Năm 1979, ông được nhận vào làm việc tại NASA tại phòng thí nghiệm về sức đẩy phản lực. Hiện tại, ông đang làm giám đốc bộ phận khoa học tự nhiên tại trụ sở của NASA ở thủ đô Washington.

Cùng với phi hành đoàn tàu Columbia STS-50, ông đã tiến hành các thí nghiệm về động lực học chất lỏng, kỹ thuật điều khiển chất lỏng trong điều kiện không bình chứa ở trên quỹ đạo trong thời gian gần 14 ngày (từ cuối tháng 6 đến đầu tháng 7 năm 1992).

Trong một buổi thuyết trình, khi được hỏi là ông đã nhìn thấy gì khi ở trên quỹ đạo. Trịnh Hữu Châu đã trả lời rằng: "Đó là Việt Nam! Tôi đã nhìn thấy quê hương tôi. Nó mới hiền hòa làm sao!"

Dr. Eugene Trinh, Ph.D. NASA Astronaut. Dr. Trinh is also the Director of the Physical Sciences Research Division in the Biological and Physical Research Enterprise at NASA Headquarters

Born in Saigon, South Vietnam, Trinh moved with his parents to Paris, France, when he was two years old. He came to the United States to study when he was 18 and later became an American citizen.

Trinh graduated from Lycee Michelet in Paris, France, in 1968 with a baccalaureate degree. He received a Bachelor of Science degree in Mechanical Engineering-Applied Physics from Columbia University in 1972. He then studied at Yale University, earning a Masters of Science in 1974, a Masters of Philosophy in 1975, and a Doctorate of Philosophy in Applied Physics in 1977.

Dr. Trinh is currently the Director of the Physical Sciences Research Division in the Biological and Physical Research Enterprise at NASA headquarters. He started with NASA in 1999, as a Senior Research Scientist at the Jet Propulsion Laboratory. He conducted experimental and theoretical research in Fluid Dynamics, Fundamental Materials Science, and Levitation Technology for 20 years. He performed hands-on experimental investigations in laboratories aboard the NASA KC-135 aircraft, and on the Space Shuttle Columbia. Dr. Trinh was a Payload Specialist crew member on the STS-50/United States Microgravity Lab-1 Space Shuttle flight in 1992.

As Director of the Physical Sciences Research Division at NASA, Dr. Trinh leads the effort to develop an innovative peer-reviewed scientific program focusing on the effects of gravity on physical, chemical, and biological systems. The results of this program will enable the human exploration and development of space, providing the scientific basis for technologies permitting humankind to explore the vast expanses of our solar system and beyond.

In May 2004, Eugene H. Trinh received the Golden Torch Award from the Vietnamese American National Gala in Washington, D.C.

Trinh formerly resided in Culver City, California, but now makes his home in McLean, Virginia. He is married to the former Yvette Fabry and has one child.

Nguồn: http://vi.wikipedia.org/wiki/Tr%E1%BB%8Bnh_H%E1%BB%AFu_Ch%C3%A2u


Eugene Trịnh - Người Việt thứ hai chinh phục không gian

TT - Câu chuyện văn hóa của Tuổi Trẻ số ngày 14-2 có nhắc đến người Việt thứ hai chinh phục không gian thành công sau Phạm Tuân. Đó chính là Eugene Trịnh, nhà khoa học gốc Việt làm việc tại Cơ quan Hàng không - vũ trụ Mỹ (NASA). Chúng tôi đã tìm kiếm thêm thông tin về ông và đang tìm cách trao đổi trực tiếp với ông.

Từ Sài Gòn đi đến đỉnh cao

Eugene Trịnh (tên khai sinh là Trịnh Hữu Châu) ra đời ngày 24-9-1950 tại Sài Gòn. Anh là con trai út của kỹ sư công chánh Trịnh Ngọc Sang. Năm 1953, gia đình anh đến định cư trên đất Pháp.

Anh học trung học tại Trường Michelet, Paris và lấy bằng năm 1968. Sau đó, anh sang Mỹ học ngành chế tạo máy và vật lý ứng dụng tại Đại học Columbia, tốt nghiệp năm 1972. Sức học của anh rất khỏe.

Trong hai năm liên tiếp 1974 và 1975, anh nhận học bổng và bảo vệ thành công các luận án thạc sĩ khoa học và triết học. Anh tiếp tục học lên tiến sĩ và năm 1977 lấy được bằng vật lý ứng dụng của Đại học Yale lừng danh. Nhận thấy được năng lực nghiên cứu khoa học xuất sắc của Eugene Trịnh, năm 1979 NASA mời anh vào làm việc tại phòng thí nghiệm về sức đẩy phản lực. Cũng trong thời gian này, anh kết thúc khóa học hậu tiến sĩ và tham gia các hoạt động nghiên cứu của Viện Kỹ thuật California.

Năm 1983 NASA chọn anh để huấn luyện thành chuyên viên sức đẩy làm việc cho phòng thí nghiệm không gian 3 (Spacelab 3) của mình. Anh trở thành người dự khuyết cho chuyên viên sức đẩy nổi tiếng Taylor Wang. Một lần nọ, Spacelab 3 thực hiện chuyến bay ra ngoài không gian và anh túc trực tại trạm kiểm soát không gian Johnson ở Houston để liên lạc với tiến sĩ Wang và trợ giúp những hoạt động sửa chữa trên quĩ đạo.

Với những kinh nghiệm dồi dào tích lũy được, năm 1985 anh được bổ nhiệm làm trưởng nhóm kỹ thuật và giữ cương vị này trong ba năm.

Tháng 8-1990, NASA thông báo chọn Eugene Trịnh vào danh sách bổ sung cho hai chức vụ nghiên cứu sức đẩy tại phòng thí nghiệm vi trọng lực của tàu con thoi.

Sự nghiệp của anh lên đến đỉnh cao vào ngày 25-6-1992 khi anh có mặt trong chuyến bay của tàu con thoi Columbia bay lên không gian. Như thế, anh đã trở thành người Việt thứ hai có mặt trên quĩ đạo trái đất 12 năm sau khi Phạm Tuân làm được điều kỳ diệu tương tự.

Cả thế giới càng thêm tâm phục tài trí của người Việt. Báo chí Mỹ đưa hình ảnh Eugene Trịnh lên trang nhất và hàng chục viện nghiên cứu, trường đại học đã mời anh đến thuyết trình.

13 ngày, 19 giờ...

“Tôi đã nhìn thấy quê hương tôi. Nó mới hiền hòa làm sao!”, Eugene Trịnh trả lời như thế khi được hỏi anh đã nhìn thấy gì lúc trên quĩ đạo trái đất.

Người con xa quê hương từ lúc hai tuổi này tự nhận mình không phải là một người nặng về tình cảm, song “luôn có một cái gì đó, nhất là khi đang bay trên không trung, làm ta nhớ đến nguồn gốc của mình”.

Trang web của NASA cho biết chuyến bay STS-50 của Eugene Trịnh kéo dài đúng 13 ngày, 19 giờ, 30 phút và 4 giây. Trong chuyến bay này, tại khoang vật lý DPM anh đã thực hiện và theo dõi cùng lúc ba thí nghiệm về sức đẩy, sự rơi của chất lỏng và kỹ thuật điều khiển chất lỏng không bình chứa do anh nghĩ ra.

Anh cũng đã dành thời gian nhìn ngắm và chụp hình Trái đất từ không trung. Anh kể lại: “Chúng tôi đã bay vòng quanh thế giới... bay nhiều lần ngang vùng Đông Nam Á. Tuy phần lớn thời gian vùng này bị mây che phủ, song tôi nhớ đã ba lần chúng tôi bay bên trên VN. Những lúc ấy làm tôi nghĩ đến sợi dây liên hệ của mình, đến đất nước quê hương, nơi mình đã sinh ra...”.

Hiện tại anh làm giám đốc bộ phận khoa học tự nhiên tại trụ sở của NASA ở thủ đô Washington. Anh kết hôn với người phụ nữ gốc Việt Yvette Fabry. Trang web giới thiệu Eugene Trịnh của NASA cho biết sở thích của anh là sửa sang nhà cửa, nghe nhạc, kịch nghệ, tennis, bơi lội, bóng chuyền, bóng đá, leo núi và chụp ảnh.

Phạm vi nghiên cứu của Eugene Trịnh rất rộng và sâu, từ khoa học vật liệu, động lực học chất lỏng, hệ thống chân không cho đến vật lý truyền âm. Đặc biệt nhất có lẽ là nghiên cứu của anh về những mẫu vật liệu thể lỏng hoặc đặc mà không cần đến hộp đựng.

Từ đó anh cho thay đổi hình dạng những mẫu này và nâng chúng lên bằng những lực điện hoặc âm. Một số nghiên cứu của anh về vật lý truyền âm đã được ứng dụng vào các lĩnh vực điều tra bề mặt Trái đất. Về nguyên liệu học, anh đã khảo nghiệm sự cấu tạo hạt nhân, sự kết tinh và hiện tượng đông đặc.

Đến nay, hơn 40 công trình khoa học của anh đã được công bố trên các tạp chí khoa học lớn của Mỹ và châu Âu. Anh là thành viên của các hiệp hội nghiên cứu không gian như Tổ chức Nghiên cứu Sigma Xi, Hội Vật lý Mỹ, Hội Cơ học Mỹ, Viện Hàng không và không gian Mỹ, Hiệp hội Nghiên cứu về nguyên liệu, Hiệp hội Khám phá không gian... NASA đã trao tặng anh huy chương phi hành gia, huy chương thành tựu khoa học đặc biệt và bốn bằng phát minh cùng với các đồng nghiệp.

Anh cũng đã nhận được bảy giải thưởng công nghệ của NASA từ năm 1985 tới nay, trong đó có dụng cụ đo lường về trọng lực thấp được đặt trong máy bay phản lực KC-135 của NASA.

SƠN NGUYỄN

Nguồn: http://tuoitre.vn/The-gioi/Nguoi-Viet-xa-que/124569

Trang mạng Việt Nam Văn Hiến
Trang Ngươì Việt Ưu Tú
www.vietnamvanhien.net
Email: thuky@vietnamvanhien.org

Trang mạng Việt Nam Văn Hiến là nơi bảo tồn di sản văn hóa của Việt tộc
và phục hồi nền An Lạc & Tự Chủ.



Trở lên đầu trang

Trở Lại Trang Mặt

Trang [ 1 ] [ 2 ]