Năm Thứ 4888
www.vietnamvanhien.org
www.vietnamvanhien.net
Trang Dân Chủ
Nội Dung
1- Dân Chủ
- Tài Liệu
2- Nền Tảng cuả Thể Chế Dân Chủ - Nguyễn Học Tập
3- Vận Động Can Thiệp Dân Chủ tại Việt Nam - RFA
4- Dân Chủ : Lương Tri và Định Chế - Đào Tăng Dực
5- Tại
Sao Cần Dân Chủ ? - Nguyễn Hưng Quốc
6- Việt
Nam có Dân Chủ Không?
7- Bao Giờ Việt Nam Có Dân Chủ ? - Người Nông Dân
8- Dân Chủ - Nguyễn Vũ
B́nh trang 2
|
Dân Chủ
Tư liệu dịch: Chính trị, xă
hội và văn hóa Mỹ
Ấn
phẩm của Chương tŕnh Thông tin Quốc tế, Bộ Ngọai
giao Hoa Kỳ, tháng 12/2007
Đề Mục:
DÂN CHỦ LÀ G̀?
Dân chủ -
theo tiếng Hy Lạp có nghĩa là “nhân dân” -
về cơ bản được định nghĩa là một h́nh thức
chính phủ trong đó quyền lực tối cao thuộc
về nhân dân. Dân chủ có thể do người dân
trực tiếp thực thi. Ở các xă hội lớn hơn,
dân chủ được thực thi bởi các quan chức do
nhân dân bầu ra. Hay theo như câu nói nổi
tiếng của Tổng thống Abraham Lincoln, dân
chủ là chính phủ “của nhân dân, do dân và
v́ dân”.
Tự do và dân
chủ thường được dùng thay thế cho nhau.
Thực ra hai khái niệm này không đồng
nghĩa. Dân chủ không chỉ là một loạt ư
tưởng và các nguyên tắc về tự do, mà c̣n
bao hàm cả những thực tiễn và các tiến
tŕnh đă được h́nh thành trong suốt chiều
dài lịch sử vốn phức tạp. Dân chủ là sự
thể chế hóa tự do.
Cuối cùng,
người dân sống trong một xă hội dân chủ
phải phục vụ với tư cách là người bảo vệ
chính quyền tự do của họ và hướng tới
những lư tưởng được đưa ra trong lời nói
đầu của Tuyên ngôn Nhân quyền Toàn cầu của
Liên Hợp Quốc, đó là “thừa nhận phẩm giá
vốn có và những quyền b́nh đẳng bất khả
xâm phạm của mọi thành viên trong đại gia
đ́nh nhân loại là nền tảng của tự do, công
lư và ḥa b́nh trên thế giới”.
NHỮNG
ĐẶC ĐIỂM CỦA DÂN CHỦ
Dân
chủ không chỉ đơn thuần là một
loạt thể chế quản lư cụ thể.
Dân chủ dựa trên nhóm giá trị,
quan điểm và thực tiễn đă được
nhận thức rơ. Tất cả các giá
trị, quan điểm và thực tiễn đó
được thể hiện dưới những h́nh
thức khác nhau tùy theo nền
văn hóa và các xă hội trên thế
giới. Các nền dân chủ phải dựa
trên những nguyên tắc cơ bản
chứ không phải những thực tiễn
thống nhất.
Những
đặc điểm dân chủ cơ bản
- Dân chủ
là h́nh thức chính phủ trong
đó quyền lực và trách nhiệm
công dân do công dân trưởng
thành trực tiếp thực hiện
hoặc thông qua các đại diện
của họ được bầu lên một cách
tự do.
- Dân chủ
dựa trên các nguyên tắc đa
số cai trị và các quyền cá
nhân. Các nền dân chủ chống
lại các chính phủ trung ương
tập quyền và phi tập trung
hóa chính quyền ở cấp khu
vực và địa phương, với nhận
thức rằng tất cả các cấp độ
chính quyền đều phải được
tiếp cận và phải đáp ứng
người dân khi có thể.
- Các nền
dân chủ nhận thức rằng một
trong những chức năng chính
của họ là bảo vệ các quyền
con người cơ bản như tự do
ngôn luận và tự do tôn giáo;
quyền được pháp luật bảo vệ
b́nh đẳng và cơ hội được tổ
chức và tham gia đầy đủ vào
đời sống kinh tế, chính trị
và văn hóa của xă hội.
- Các nền
dân chủ thường xuyên tổ chức
các cuộc bầu cử tự do và
công bằng cho công dân ở độ
tuổi bầu cử tham gia.
- Công
dân ở một nền dân chủ không
chỉ có các quyền, mà c̣n có
trách nhiệm tham gia hệ
thống chính trị. Đổi lại, hệ
thống chính trị đó bảo vệ
các quyền lợi và sự tự do
của họ.
- Các
xă
hội dân chủ cam kết với các
giá trị khoan dung, hợp tác
và thỏa hiệp. Theo lời của
Mahatma Gandhi: “Không khoan
dung là biểu hiện của t́nh
trạng bạo lực và cản trở
phát triển tinh thần dân chủ
thực sự”.
Hai
h́nh
thức
dân
chủ
Có
hai loại h́nh dân chủ cơ bản,
đó là dân chủ trực tiếp và dân
chủ đại diện. Trong nền dân
chủ trực tiếp, công dân có thể
tham gia quyết định công việc
chung mà không có sự can thiệp
của các quan chức được bầu lên
hoặc được bổ nhiệm. H́nh thức
dân chủ trực tiếp thực tế nhất
nếu áp dụng cho một nhóm ít
người như một tổ chức cộng
đồng, hội đồng bộ lạc, hoặc
đơn vị địa phương của một liên
đoàn lao động. Thành viên các
nhóm này có thể gặp gỡ nhau để
bàn bạc các vấn đề và đi đến
quyết định bằng sự đồng thuận
hoặc biểu quyết đa số.
Bên
cạnh đó, một số bang ở Mỹ cho
phép đưa ra trên phiếu bầu “đề
xuất” và “trưng cầu dân ư” -
yêu cầu thay đổi luật - hoặc
yêu cầu bầu lại các quan chức
đă được bầu trong các cuộc bầu
cử bang. Những hoạt động này
là biểu hiện của h́nh thức dân
chủ trực tiếp, tức là bày tỏ ư
chí của đại bộ phận dân chúng.
Có nhiều thực tiễn khác mang
yếu tố của nền dân chủ trực
tiếp. Ở Thụy Sĩ, nhiều quyết
định chính trị quan trọng về
các vấn đề, trong đó có y tế,
năng lượng và việc làm, là
những vấn đề lấy biểu quyết
của dân chúng cả nước. Một số
người có thể cho rằng Internet
đang tạo ra những h́nh tức dân
chủ trực tiếp mới, v́ nó cho
phép các nhóm chính trị gây
quỹ cho sự nghiệp của họ bằng
cách trực tiếp lôi cuốn những
người cùng chung chí hướng.
Tuy
nhiên, ngày nay cũng như trong
quá khứ, h́nh thức phổ biến
nhất của dân chủ - dù là của
một thành phố với 50.000 dân
hay một quốc gia 50 triệu dân
- là h́nh thức dân chủ đại
diện. Công dân bầu lên các
quan chức để đưa ra các quyết
định chính trị, xây dựng luật
và điều hành các chương tŕnh
v́ lợi ích chung.
Nguyên
tắc
đa
số
và
quyền
thiểu
số
Tất
cả các nền dân chủ đều là
những hệ thống trong đó công
dân tự do đưa ra các quyết
định chính trị theo nguyên tắc
đa số. Theo lời của nhà văn Mỹ
E.B. White: “Dân chủ là một
niềm tin rằng đa số mọi người
đều đúng trong hầu hết các
trường hợp”.
Bản
thân nguyên tắc đa số không tự
động mang tính dân chủ. Ví dụ,
không thể nói một hệ thống là
công bằng nếu nó cho phép 51%
dân số đàn áp 49% dân số c̣n
lại nhân danh đa số. Trong một
xă hội dân chủ, nguyên tắc đa
số phải gắn với việc đảm bảo
các quyền của cá nhân con
người. Đổi lại, các quyền của
người thiểu số và những người
bất đồng sẽ được bảo vệ - dù
đó là những người thiểu số,
tôn giáo hay đơn giản là những
người thua trong các cuộc
tranh luận chính trị. Quyền
của các nhóm thiểu số không
phụ thuộc vào thiện chí của đa
số và cũng không bị tước bỏ
bởi nguyên tắc đa số. Quyền
của các nhóm thiểu số được bảo
vệ bởi v́ luật pháp và các thể
chế dân chủ bảo vệ quyền của
mọi công dân.
Các
nhóm
thiểu số phải tin tưởng chính
phủ bảo vệ các quyền và sự an
toàn của họ. Một khi điều này
được thực hiện, các nhóm đó có
thể tham gia và đóng góp vào
việc xây dựng các thể chế dân
chủ của đất nước. Nguyên tắc
đa số và quyền thiểu số là đặc
trưng của tất cả các nền dân
chủ. Những khác biệt về lịch
sử, văn hóa, dân số và kinh tế
không ảnh hưởng đến những đặc
trưng này.
Đa
nguyên và xă hội dân chủ
Trong
một nền dân chủ, chính phủ chỉ
là một đầu mối trong mạng lưới
xă hội gồm rất nhiều thể chế
công và tư, các cơ quan luật
pháp, các đảng phái chính trị,
các tổ chức và các hiệp hội.
Sự đa dạng này gọi là đa
nguyên. Điều này có nghĩa là
các nhóm và các thể thế trong
một xă hội dân chủ không phải
phụ thuộc vào chính phủ mới
được tồn tại, mới mang tính
hợp pháp hoặc mới có quyền
lực. Hầu hết các xă hội dân
chủ đều có hàng ngàn các tổ
chức tư nhân ở cấp địa phương
và cấp bang. Nhiều tổ chức
trong số này có vai tṛ trung
gian giữa các cá nhân và các
thể chế xă hội và chính phủ
phức tạp của xă hội, thực hiện
những vai tṛ không phải của
chính phủ và mang đến cho cá
nhân cơ hội để trở thành một
phần trong xă hội mà không cần
phải tham gia vào chính phủ.
Trong
một xă hội độc tài, hầu hết
những tổ chức như vậy sẽ bị
kiểm soát, kiểm duyệt, theo
dơi và nếu không th́ phải chịu
trách nhiệm trước chính phủ. Ở
một nền dân chủ, theo luật
pháp quy định, quyền lực của
chính phủ được xác định rơ và
rất hạn chế. Do vậy, các tổ
chức tư nhân về cơ bản không
chịu sự kiểm soát của chính
phủ. Trong khu vực tư nhân bận
rộn này của xă hội dân chủ,
công dân có thể t́m kiếm khả
năng tự hoàn thành ước nguyện
của ḿnh và thực hiện trách
nhiệm đối với một cộng đồng mà
không chịu sự kiểm soát có thể
rất mạnh từ phía nhà nước hoặc
phải tuân theo ư chí của những
người có ảnh hưởng, quyền lực
hoặc tuân theo đa số.
CÁC QUYỀN
VÀ NGHĨA VỤ
Các
nền dân chủ dựa trên
nguyên tắc: chính phủ tồn
tại để phục vụ nhân dân.
Nói cách khác, người dân
là những công dân của nhà
nước dân chủ, chứ không
phải là những người bị
giám sát. Do nhà nước bảo
vệ các quyền của công dân,
nên đổi lại công dân trung
thành với nhà nước. Ngược
lại, trong hệ thống chuyên
quyền, nhà nước yêu cầu
dân chúng phải trung thành
và phục vụ nhà nước mà
không có nghĩa vụ có đi có
lại nào để đảm bảo người
dân thuận theo những hành
động của nhà nước.
Các
quyền cơ bản
Mối
quan hệ giữa nhà nước và
công dân là nhân tố cơ bản
của nền dân chủ. Theo
Tuyên ngôn Độc lập Mỹ của
Thomas Jefferson năm 1776:
Sự
thật hiển nhiên là mọi
người sinh ra đều có
quyền b́nh đẳng. Tạo
hóa ban cho họ những
quyền không ai có thể
xâm phạm được, trong
đó có quyền sống,
quyền tự do và quyền
mưu cầu hạnh phúc. Để
đảm bảo những quyền
này, các chính phủ
phải do dân bầu ra,
quyền lực là quyền lực
của nhân dân.
Quan
trọng hơn, ở các nền dân
chủ, các quyền cơ bản hay
bất khả xâm phạm này bao
gồm quyền tự do ngôn luận
và bày tỏ, quyền tự do tôn
giáo, tín ngưỡng, tự do
hội họp và quyền được bảo
vệ b́nh đẳng trước pháp
luật. Đây không phải là
một danh sách toàn diện
các quyền mà công dân được
hưởng ở một nền dân chủ,
mà là một tập hợp các
quyền chủ yếu và không thể
thiếu mà mỗi chính phủ dân
chủ phải tôn trọng nếu
muốn xứng đáng được gọi là
chính phủ dân chủ. Do các
quyền này tồn tại độc lập
với chính phủ, nên theo
quan điểm của Jefferson,
chúng phải được xây dựng
thành luật và không bị chi
phối bởi ư muốn nhất thời
của đa số cử tri.
Tự
do ngôn luận, hội họp
và biểu t́nh
Tự do
ngôn luận và bày tỏ, đặc
biệt về các vấn đề chính
trị và xă hội, là nguồn
sinh khí của bất cứ nền
dân chủ nào. Các chính phủ
dân chủ không kiểm soát
nội dung các phát biểu nói
hoặc viết. Do vậy, ở các
nền dân chủ luôn tồn tại
những quan điểm khác nhau,
những ư kiến và ư tưởng
trái ngược nhau. Các nền
dân chủ có xu hướng phức
tạp.
Dân
chủ phụ thuộc vào việc
công dân cần có tri thức,
hiểu biết và việc tiếp cận
thông tin cho phép họ tham
gia đầy đủ nhất có thể vào
đời sống chung của xă hội
và chỉ trích các quan chức
chính phủ hay các chính
sách bất hợp lư và mang
tính áp bức. Công dân và
các đại diện của họ công
nhận rằng nền dân chủ phụ
thuộc vào sự tiếp cận một
cách rộng răi nhất có thể
đối với các ư tưởng, dữ
liệu và quan điểm không bị
kiểm duyệt. Để người dân
tự do quản lư bản thân, họ
phải được tự do bày tỏ
chính kiến một cách cởi
mở, công khai và liên tục
- cả nói lẫn viết.
Bảo
vệ quyền tự do ngôn luận
là cái được gọi là "quyền
phủ định", theo đó chính
phủ không được hạn chế
quyền tự do ngôn luận.
Giới chức ở một nền dân
chủ không can thiệp vào
nội dung phát biểu dù nói
hay viết.
Sự
phản kháng là thước đo đối
với mỗi nền dân chủ. Do
vậy quyền hội họp ḥa b́nh
là thiết yếu và là một
phần thống nhất trong việc
thúc đẩy tự do ngôn luận.
Xă hội dân sự cho phép
những người bất đồng về
các vấn đề được tranh luận
sôi nổi. Ở nước Mỹ hiện
đại, ngay cả những vấn đề
cơ bản như an ninh quốc
gia, chiến tranh và ḥa
b́nh đều được thảo luận tự
do trên báo chí và trên
các phương tiện phát thanh
truyền h́nh. Qua đó, người
những người phản đối chính
sách đối ngoại của chính
quyền dễ dàng công khai
quan điểm của ḿnh.
Tự do
ngôn luận là một quyền cơ
bản, nhưng không phải là
tuyệt đối và không thể
viện dẫn để kích động bạo
lực. Tội vu khống và phỉ
báng nếu được chứng minh
sẽ do ṭa án xử lư. Ở các
nền dân chủ, nếu muốn cấm
phát ngôn hay các buổi tụ
họp được cho là có thể
kích động bạo lực, làm tổn
hại danh tiếng người khác
hoặc nhằm lật đổ một chính
phủ hợp hiến, th́ phải
chứng minh được mức độ đe
dọa lớn của những hành
động đó. Nhiều nền dân chủ
cấm phát ngôn gây phân
biệt chủng tộc hoặc hiềm
thù sắc tộc. Tuy nhiên,
thách thức với tất cả các
nền dân chủ là làm sao để
cân bằng giữa việc bảo vệ
tự do ngôn luận và hội
họp, đồng thời phải xử lư
những phát biểu thực sự
kích động bạo lực, đe dọa,
hoặc lật đổ các thể chế
dân chủ. Người dân có thể
phản ứng trước hành vi của
một quan chức một cách
công khai và mạnh mẽ;
nhưng việc kêu gọi ám sát
quan chức đó lại là phạm
tội.
Tự
do tôn giáo và khoan
dung
Mọi
công dân phải được tự do
tín ngưỡng. Tự do tôn giáo
bao gồm quyền hành đạo một
ḿnh hoặc với những người
khác, ở nơi công cộng hoặc
riêng tư, hoặc cả quyền
không theo tôn giáo nào cả
và tham gia vào các buổi
lễ tôn giáo, hành đạo và
giảng dạy tôn giáo mà
không sợ bị chính phủ hoặc
các nhóm khác trong xă hội
ngược đăi. Mọi người đều
có quyền hành đạo hoặc hội
họp với một tôn giáo hoặc
tín ngưỡng, có quyền xây
dựng và duy tŕ các địa
điểm dành riêng cho những
hoạt động này.
Giống
với các quyền con người cơ
bản khác, tự do tôn giáo
không phải do nhà nước tạo
ra hay ban cho, nhưng nhà
nước dân chủ nào cũng phải
bảo vệ quyền tự do đó. Mặc
dù nhiều nền dân chủ công
nhận có sự tách biệt chính
thức giữa nhà thờ và nhà
nước, nhưng những giá trị
của chính phủ và tôn giáo
không v́ thế mà xung đột
căn bản. Chính phủ nào bảo
vệ quyền tự do tôn giáo
cho mọi công dân th́ chắc
chắn bảo vệ được các quyền
khác cần thiết để có tự do
tôn giáo, chẳng hạn như
quyền tự do ngôn luận và
tự do hội họp. Các thuộc
địa Mỹ và hầu hết các nhà
nước chính trị thần quyền
thế kỷ XVII và XVIII, đă
phát triển các thuyết về
khoan dung tôn giáo và
thuyết dân chủ thế tục.
Ngược lại, một số chế độ
độc tài thế kỷ XX lại nỗ
lực xóa bỏ tôn giáo, coi
đó là h́nh thức tự biểu
hiện tín ngưỡng của cá
nhân, giống với ngôn luận
chính trị. Các nền dân chủ
thực sự nhận thức rằng
những khác biệt về tôn
giáo của mỗi cá nhân phải
được tôn trọng và vai tṛ
chủ chốt của chính phủ là
bảo vệ lựa chọn tôn giáo,
ngay cả trong những trường
hợp nhà nước cấm một tín
ngưỡng tôn giáo cụ thể.
Tuy nhiên, điều này không
có nghĩa là bản thân tôn
giáo có thể là cái cớ để
biện minh cho bạo lực
chống lại các tôn giáo
khác hoặc chống lại cả xă
hội. Tôn giáo được thực
thi trong bối cảnh một xă
hội dân chủ nhưng không
thể vượt lên trên xă hội.
Trách
nhiệm của công dân
Tư
cách công dân trong một
nền dân chủ đ̣i hỏi sự
tham gia, phép lịch sự và
sự kiên nhẫn, tức là đ̣i
hỏi cả quyền lẫn trách
nhiệm. Nhà khoa học chính
trị Benjamin Barber đă
khẳng định: “Dân chủ
thường được hiểu là nguyên
tắc đa số và các quyền
ngày càng được hiểu là sự
sở hữu tư nhân của mỗi cá
nhân… Nhưng như thế là đă
hiểu sai về cả các quyền
và về dân chủ”. Để một nền
dân chủ thành công, công
dân phải chủ động, chứ
không bị động, bởi v́ họ
biết rằng sự thành công
hay thất bại của chính phủ
là trách nhiệm của họ chứ
không phải của ai khác.
Tất
nhiên là cá nhân thực hiện
các quyền cơ bản như tự do
ngôn luận, hội họp và tự
do tôn giáo. Nhưng mặt
khác, các quyền - cũng
giống như các cá nhân -
không tự hoạt động một
cách biệt lập. Các quyền
được thực hiện trong khuôn
khổ xă hội, chính v́ vậy
mà quyền và nghĩa vụ luôn
đi liền với nhau.
Chính
phủ dân chủ - do dân bầu
ra và có trách nhiệm trước
nhân dân - bảo vệ các
quyền cá nhân, từ đó công
dân trong một nền dân chủ
có thể thực hiện nghĩa vụ
và trách nhiệm công dân
của ḿnh, góp phần củng cố
xă hội.
Ít
nhất th́ công dân cũng
phải tự nhận thức về những
vấn đề quan trọng mà xă
hội đang phải đối mặt. Chỉ
có vậy họ mới có thể biểu
quyết một cách sáng suốt.
Một số nghĩa vụ như tham
gia vào bồi thẩm đoàn tại
các ṭa án dân sự, h́nh sự
hoặc ṭa án quân đội, có
thể do luật pháp quy định,
nhưng cũng có thể là tự
nguyện.
Bản
chất của hành động dân chủ
là sự tham gia của công
dân vào đời sống chính trị
của cộng đồng và đất nước
họ một cách tự do, chủ
động và ḥa b́nh. Theo học
giả Diane Ravitch, “Dân
chủ là một tiến tŕnh, là
cách sống và làm việc. Dân
chủ tiến hóa, chứ không
phải bất biến. Dân chủ đ̣i
hỏi công dân phải hợp tác,
thỏa hiệp và khoan dung.
Làm sao để dân chủ vận
hành là công việc không hề
dễ dàng. Tự do có nghĩa là
trách nhiệm, không phải
không có trách nhiệm”.
Thực thi trách nhiệm này
nghĩa là can dự tích cực
vào các tổ chức hoặc theo
đuổi những mục tiêu cụ thể
của cộng đồng. Trên tất
cả, thực thi trách nhiệm
trong một nền dân chủ liên
quan đến một quan điểm
nhất định, tức là sẵn sàng
tin rằng những người khác
cũng có quyền giống như
bạn.
BẦU CỬ DÂN CHỦ
Các
cuộc
bầu cử tự do và công
bằng là yếu tố cơ bản
đảm bảo sự đồng thuận
của nhân dân, là trụ cột
của nền chính trị dân
chủ. Các cuộc bầu cử là
cơ chế chủ yếu để chuyển
hóa sự đồng thuận đó
thành quyền lực của
chính phủ.
Những
thành
tố
của
bầu cử dân chủ
Jeane
Kirkpatrick
từng là học giả và cựu
đại sứ Mỹ tại Liên Hợp
Quốc đă đưa ra định
nghĩa như sau: “Bầu cử
dân chủ không chỉ đơn
thuần là h́nh thức…
Chúng là những cuộc bầu
cử cạnh tranh, theo định
kỳ, với thành phần tham
gia mở và mang tính
quyết định, qua đó các
nhà hoạch định chính
sách của một chính phủ
được nhân dân bầu lên.
Nhân dân có quyền tự do
chỉ trích chính phủ,
công khai phê phán và đề
xuất các chính sách thay
thế.
Bầu
cử dân chủ mang tính
cạnh tranh. Các đảng
phái chính trị và các
ứng cử viên đối lập phải
có quyền tự do ngôn
luận, tự do hội họp và
đi lại để công khai chỉ
trích chính phủ và đưa
ra trước cử tri các
chính sách và các ứng cử
viên thay thế. Nếu chỉ
cho phép phe đối lập
tiếp cận lá phiếu th́
chưa đủ. Đảng cầm quyền
có thể có lợi thế v́
đang nắm quyền, nhưng
các nguyên tắc và thủ
tục tranh cử phải công
bằng. Mặt khác, quyền tự
do hội họp dành cho các
đảng đối lập không ám
chỉ t́nh trạng lộn xộn
hay bạo lực. Đó là tranh
luận.
Các
cuộc
bầu cử dân chủ diễn ra
định kỳ. Các nền dân chủ
không bầu lên các nhà
độc tài hay các tổng
thống suốt đời. Các quan
chức được bầu lên phải
có trách nhiệm trước
nhân dân. Nếu muốn tiếp
tục được ủy nhiệm nắm
quyền, họ phải quay trở
lại với cử tri tại các
cuộc bầu cử giữa kỳ và
phải đối diện với khả
năng không được bầu.
Các
cuộc
bầu cử dân chủ có tính
mở. Khái niệm tư cách
công dân và cử tri phải
đủ rộng để bao gồm tất
cả dân chúng trưởng
thành. Một chính phủ
được bầu lên bởi một
nhóm nhỏ, không nhiều
thành phần tham gia, th́
không phải là một nền
dân chủ - dù công việc
trong nước vận hành dân
chủ đến mức nào đi nữa.
Một trong những đặc điểm
quan trọng của dân chủ
trong lịch sử là cuộc
đấu tranh của các nhóm
bị đẩy ra ngoài lề - các
nhóm sắc tộc, chủng tộc
hoặc các nhóm tôn giáo
thiểu số, phụ nữ - nhằm
giành quyền công dân đầy
đủ và cùng với đó là
quyền được bầu cử, nắm
giữ các chức vụ và tham
gia đầy đủ vào đời sống
xă hội.
Các
cuộc
bầu cử có tính quyết
định. Chúng quyết định
giới lănh đạo của chính
phủ trong một thời gian
nhất định. Những quan
chức được bầu lên bằng
phổ thông đầu phiếu nắm
giữ quyền lực, chứ không
đơn thuần chỉ là các nhà
lănh đạo bù nh́n.
Các
nền
dân
chủ, phát triển dựa trên
sự cởi mở và tính trách
nhiệm, với một ngoại lệ
quan trọng nhất: bản
than việc bầu cử. Để hạn
chế tối đa khả năng bị
trả thù, các cử tri ở
một nền dân chủ phải
được bỏ phiếu kín. Đồng
thời, việc bảo vệ thùng
phiếu và kiểm phiếu phải
được tiến hành công khai
nhất có thể, để công dân
tin tưởng rằng kết quả
là chính xác và chính
phủ thực sự đă dựa vào
“sự đồng thuận” của họ.
Tôn
trọng đối thủ
Một
trong những khái niệm
khó chấp nhận nhất đối
với một số người, đặc
biệt là ở những quốc gia
mà việc chuyển giao
quyền lực thường diễn ra
bằng bạo lực, đó là
“chấp nhận đối thủ”. Tuy
nhiên, đây là một ư
tưởng quan trọng. Nó có
nghĩa là về cơ bản tất
cả các bên trong một nền
dân chủ đều có chung cam
kết đối với những giá
trị cơ bản. Các đối thủ
chính trị không nhất
thiết phải thích người
khác, nhưng họ phải có
thái độ khoan dung với
họ và thừa nhận rằng mỗi
người đều có một vai tṛ
quan trọng và hợp pháp.
Hơn thế nữa, các nguyên
tắc cơ bản của xă hội
phải khuyến khích sự
khoan dung và phép lịch
sự trong các cuộc tranh
luận công khai.
Khi
các
cuộc bầu cử đă xong,
người thua phải chấp
nhận quyết định của cử
tri. Nếu đảng cầm quyền
thất bại, đảng đó phải
chuyển giao quyền lực
ḥa b́nh. Bất chấp người
thắng là ai, cả hai bên
phải nhất trí hợp tác
trong việc giải quyết
những vấn đề chung của
xă hội. Phe đối lập tiếp
tục tham gia vào đời
sống chung với sự thừa
nhận rằng họ đóng vai
tṛ quan trọng ở bất cứ
nền dân chủ nào. Phe đối
lập không phải trung
thành với những chính
sách cụ thể của chính
phủ mà là trung thành
với tính hợp pháp cơ bản
của nhà nước và tiến
tŕnh dân chủ.
Rốt
cuộc th́ các cuộc bầu cử
dân chủ không phải là
một cuộc đấu tranh sinh
tồn mà là một cuộc cạnh
tranh để phục vụ.
Quản
lư
bầu
cử
Ở
mỗi nền dân chủ, cách
thức các quan chức được
bầu lên rất khác nhau.
Ví dụ, ở cấp độ quốc
gia, các nghị sĩ có thể
do các các khu vực bầu
cử bầu ra - trong đó mỗi
khu vực bầu một đại
diện. Quy định này được
gọi là hệ thống bầu cử
“người thắng được tất”.
Một cách khác, theo hệ
thống tỷ lệ đại diện, số
đại diện của mỗi đảng ở
cơ quan lập pháp tính
theo tổng phiếu bầu trên
toàn quốc. Các cuộc bầu
cử cấp tỉnh và địa
phương có thể theo mô
h́nh ở cấp quốc gia này.
Dù
theo
hệ thống nào đi nữa, các
tiến tŕnh bầu cử phải
được đánh giá là công
bằng và cởi mở để kết
quả bầu cử được công
nhận là hợp pháp. Các
quan chức phải đảm bảo
quyền tự do rộng mở cho
người tham gia đăng kư
cử tri hoặc chạy đua vào
một chức vụ; điều hành
hệ thống công bằng nhằm
đảm bảo việc bỏ phiếu
kín nhưng kiểm phiếu mở,
công khai; ngăn chặn
gian lận phiếu bầu và
nếu cần thiết kiểm lại
phiếu và giải quyết
tranh chấp bầu cử.
PHÁP
QUYỀN
Trong phần lớn lịch sử nhân loại, luật pháp đơn
giản là ư chí
của tầng lớp
cai trị. Ngược
lại, các nền
dân chủ đă
định ra nguyên
tắc pháp trị
đối với cả kẻ
cai trị lẫn
người bị trị.
B́nh đẳng trước pháp luật
Pháp quyền bảo vệ các quyền kinh tế, chính trị và
xă hội cơ bản,
đồng thời bảo
vệ nhân dân
trước mối đe
dọa của chế độ
chuyên chế và
t́nh trạng
không luật
pháp. Pháp
quyền có nghĩa
là không một
cá nhân nào,
cả tổng thống
lẫn người dân,
được đứng trên
luật pháp. Các
chính phủ dân
chủ sử dụng
quyền lực theo
pháp quyền và
bản thân họ
chịu những
giới hạn mà
luật pháp quy
định.
Công dân sống ở các nền dân chủ sẵn sàng tuân theo
luật pháp của
xă hội bởi v́
họ đang tuân
thủ chính
những nguyên
tắc và quy
định của bản
thân. Công lư
được thực hiện
tốt nhất khi
luật pháp được
người dân xây
dựng nên và
chính họ phải
tuân theo luật
pháp đó. Dù
giàu hay
nghèo, dù là
người thuộc
phe đa số hay
phe thiểu số,
dù là đồng
minh chính trị
của nhà nước
hay là những
người đối lập
ḥa b́nh, tất
cả đều phải
tuân thủ luật
pháp.
Công dân của một nền dân chủ tuân thủ luật pháp bởi
v́ họ nhận
thức rằng, mặc
dù gián tiếp,
nhưng họ đang
tuân theo
chính họ với
tư cách là
những người
làm luật. Khi
luật pháp do
nhân dân xây
dựng nên và
sau đó bản
thân họ phải
tuân theo luật
pháp đó, th́
cả luật lẫn
nền dân chủ
đều được phục
vụ.
Tiến tŕnh xét xử đúng luật
Ở mọi xă hội trong lịch sử, những người điều hành
hệ thống tư
pháp nắm giữ
quyền lực có
khả năng lạm
dụng quyền lực
và trở nên
chuyên quyền.
Dưới danh
nghĩa nhà
nước, các cá
nhân bị bỏ tù,
bị tịch thu
tài sản, bị
tra tấn, trục
xuất và hành
quyết nhưng
không được
chứng minh là
có tội và
thường không
bị buộc tội
danh chính
thức nào cả.
Không một xă
hội dân chủ
nào cho phép
xảy ra t́nh
trạng lạm dụng
như vậy.
Các nhà nước phải có quyền lực để duy tŕ trật tự
và trừng phạt
những hành vi
phạm tội,
nhưng thủ tục
tố tục theo đó
nhà nước thực
thi luật phải
công khai và
rơ rang -
không được xử
kín, tùy tiện
hoặc bị chính
trị hóa - và
phải được áp
dụng như nhau
đối với tất cả
mọi người. Đó
chính là quy
tŕnh xét xử
đúng luật.
Để thực hiện tiến tŕnh xét xử đúng luật, dưới đây
là các nguyên
tắc đă phát
triển ở các
nền dân chủ
theo hợp hiến
- Cảnh sát không được vào nhà dân lục soát nếu không
có lệnh của
ṭa án cho
thấy có lư do
chính đáng để
tiến hành lục
soát. Ở một
nền dân chủ
không có việc
cảnh sát mật
được gơ cửa
các gia đ́nh
vào lúc nửa
đêm.
- Không ai bị giam giữ nếu không có những cáo buộc rơ
ràng, bằng văn
bản nêu rơ vi
phạm. Hơn thế
nữa, theo quy
định về lệnh
đ́nh quyền
giam giữ, tất
cả những ai bị
bắt đều có
quyền được đưa
ra ṭa xử và
phải được thả
nếu ṭa thấy
việc bắt giữ
là không có cơ
sở.
- Trước khi xét xử, không được giam giữ những người
bị cáo buộc
tội lâu trong
tù. Họ có
quyền được xét
xử công khai,
nhanh chóng và
đối chất với
nguyên đơn.
- Các nhà chức trách phải cho bảo lănh hoặc thả có
điều kiện bị
cáo đang chờ
xét xử nếu
thấy nghi phạm
khó có thể
trốn chạy hoặc
vi phạm các
tội khác.
- Người dân không bị ép buộc làm chứng chống lại bản
thân. Quy định
nhằm ngăn chặn
t́nh trạng tự
phân biệt đối
xử miễn cưỡng
này phải là
quy định dứt
khoát. Do vậy,
trong bất cứ
hoàn cảnh nào
cảnh sát cũng
không được tra
tấn hoặc xâm
phạm về thể
chất lẫn tâm
lư đối với
nghi phạm.
- Người dân không bị kết án hai lần, có nghĩa là
không thể bị
cáo buộc hai
lần cùng một
tội danh nếu
họ đă thụ án
tại một ṭa
án.
- Do có khả năng bị các nhà chức trách lạm dụng nên
cái gọi là
luật hồi tố
cũng được xây
dựng. Đây là
những điều
luật đưa ra
sau khi xảy ra
sự việc, tức
là một người
vẫn có thể bị
cáo buộc tội
danh ngay cả
khi hành vi
của anh ta ở
thời điểm xảy
ra chưa được
quy định là
phạm tội.
- Cấm các h́nh thức trừng phạt dă man hoặc bất b́nh
thường.
Không quy định nào trong số những quy định này có
nghĩa là nhà
nước thiếu
quyền lực cần
thiết để thực
thi luật và
trừng phạt
người vi phạm.
Trái lại, hệ
thống tư pháp
ở một nền dân
chủ sẽ hiệu
quả nếu việc
điều hành hệ
thống đó được
nhân dân đánh
giá là công
bằng và bảo vệ
được an toàn
cá nhân, cũng
như phục vụ
lợi ích
công
cộng.
CHỦ
NGHĨA HỢP HIẾN
Hiến pháp - văn kiện khẳng định những nghĩa vụ cơ
bản của chính
phủ và những
hạn chế đối
với quyền lực
của nhà nước -
là một thiết
chế quan trọng
đối với bất cứ
nền dân chủ
nào.
Các hiến pháp: Siêu luật
Hiến pháp quy định những mục đích và khát vọng cơ
bản của một xă
hội v́ lợi ích
chung của
người dân. Mọi
công dân, kể
cả các lănh
đạo nhà nước,
phải tuân thủ
hiến pháp quốc
gia. Hiến pháp
là bộ luật cao
nhất của quốc
gia.
Hiến pháp - thường được pháp điển hóa thành một văn
kiện riêng
biệt - quy
định quyền lực
của chính phủ
quốc gia, quy
định bảo vệ
các quyền con
người cơ bản
và quy định
tŕnh tự hoạt
động cơ bản
của chính phủ.
Các hiến pháp
thường được
dựa trên những
thực tiễn và
tiền lệ chưa
được pháp điển
hóa trước đó
nhưng đă được
chấp nhận rộng
răi. Ví dụ,
Hiến pháp Mỹ
được dựa trên
những khái
niệm xuất phát
từ thông luật
của Anh, cũng
như nỗ lực của
các triết gia
thế kỷ XVIII
nhằm định
nghĩa các
quyền con
người.
Chủ nghĩa hợp hiến công nhận rằng chính phủ dân chủ
và có trách
nhiệm phải
chịu những
giới hạn rơ
ràng. Bởi vậy,
mọi bộ luật
phải được soạn
thảo phù hợp
với hiến pháp.
Ở một nền dân
chủ, cơ quan
tư pháp độc
lập về chính
trị cho phép
công dân có
quyền đ̣i thay
đổi những bộ
luật mà họ cho
là không hợp
hiến và yêu
cầu ṭa án ra
phán quyết đối
với những hành
vi bất hợp
pháp của chính
phủ hoặc của
các quan chức
chính phủ.
Dù bản chất hiến pháp là lâu dài và có ư nghĩa rất
lớn, nhưng vẫn
phải có khả
năng thay đổi
và thích nghi
nếu chúng
không muốn trở
thành thứ đồ
cổ chỉ để ngắm
mà thôi. Hiến
pháp lâu đời
nhất trên thế
giới - Hiến
pháp Mỹ - bao
gồm 7 điều
khoản ngắn gọn
và 27 điều sửa
đổi bổ sung.
10 điều sửa
đổi bổ sung
đầu tiên của
Hiến pháp Mỹ
được gọi là
Tuyên ngôn
Nhân quyền.
Tuy nhiên, văn
kiện này cũng
là nền tảng
của cấu trúc
mang tính
“hiến pháp”
rộng lớn gồm
các quyết định
pháp lư, bộ
luật, hành
động của tổng
thống và những
thông lệ đă
được phát
triển trong
200 năm qua,
góp phần giữ
cho Hiến pháp
Mỹ phù hợp đến
hôm nay.
Nh́n chung, có hai trường phái liên quan đến tiến
tŕnh sửa đổi,
hoặc thay đổi
hiến pháp của
một quốc gia.
Một trường
phái cho rằng
tốt nhất là
đưa ra một quy
tŕnh khó
khăn, yêu cầu
phải qua nhiều
bước và phải
có sự chấp
thuận của đa
số lớn nếu
muốn sửa đổi.
Như vậy, hiến
pháp sẽ thay
đổi không
thường xuyên
và chỉ khi nào
có những lư do
thật bức xúc
th́ việc thay
đổi hiến pháp
mới nhận được
sự ủng hộ lớn
của dân chúng.
Đó là trường
phái Mỹ.
Phương pháp thay đổi hiến pháp đơn giản hơn, mà
nhiều nước sử
dụng là quy
định rằng bất
cứ điều sửa
đổi nào đều có
thể đưa ra để
quốc hội chấp
thuận và sau
đó cử tri
thông qua tại
cuộc bầu cử
tiếp theo.
Những hiến
pháp được sửa
đổi theo kiểu
này có thể sẽ
rất dài.
Chủ nghĩa liên bang: Phân tán quyền lực
Khi người dân tự do chọn sống theo một khuôn khổ
hiến pháp được
nhất trí,
khuôn khổ đó
có thể được
thực hiện theo
nhiều cách
khác nhau. Một
số nền dân chủ
có các cơ quan
quản lư đơn
nhất. Những
nền dân chủ
khác theo hệ
thống chính
phủ liên bang
- tức là quyền
lực được chia
sẻ ở cấp độ
địa phương,
khu vực và
quốc gia.
Ví dụ, Mỹ là một nền cộng ḥa liên bang trong đó
các bang có vị
trí pháp lư
của riêng họ
và quyền lực
độc lập với
chính phủ liên
bang. Không
giống với sự
phân chia
chính trị ở
các quốc gia
như Anh và
Pháp - những
nước có cấu
trúc chính trị
đơn nhất - ở
Mỹ chính quyền
liên bang
không có quyền
xóa bỏ hay
thay đổi các
bang. Ở Mỹ,
mặc dù quyền
lực ở cấp liên
bang ngày càng
gia tăng đáng
kể, nhưng các
bang vẫn có
những trách
nhiệm quan
trọng trong
những lĩnh vực
như giáo dục,
y tế, giao
thông và thực
thi luật. Đổi
lại, các bang
ngày càng đi
theo mô h́nh
liên bang khi
trao bớt chức
năng cho cộng
đồng địa
phương, chẳng
hạn như quản
lư các trường
học và cảnh
sát.
Sự phân chia quyền lực trong hệ thống liên bang
không bao giờ
là rơ ràng.
Các cơ quan
liên bang,
bang và địa
phương, tất cả
đều có các
chương tŕnh
nghị sự chồng
chéo nhau và
thậm chí là
xung đột trong
những lĩnh vực
như giáo dục
và luật h́nh
sự. Tuy nhiên,
h́nh thức liên
bang có thể
tối đa hóa cơ
hội tham gia
của người dân
- nhân tố vô
cùng quan
trọng đối với
sự vận hành
của xă hội dân
chủ. Người Mỹ
cho rằng cấu
trúc liên bang
của họ bảo vệ
được quyền tự
trị của cá
nhân.
BA
TRỤ CỘT CỦA
CHÍNH PHỦ
Như đă tŕnh bày, thông qua các cuộc bầu cử tự do,
công dân của
một nền dân
chủ chuyển
giao quyền lực
cho các nhà
lănh đạo của
họ theo quy
định của luật
pháp. Trong
một nền dân
chủ hợp hiến,
quyền lực của
chính phủ được
phân chia để
nhánh lập pháp
ban hành luật,
nhánh hành
pháp thi hành
luật và nhánh
tư pháp hoạt
động độc lập
ngang với hai
nhánh trên.
Những quy định
này đôi khi
được gọi là
“chia sẻ quyền
lực”. Tuy
nhiên trên
thực tế, sự
phân chia đó
hiếm khi rơ
ràng và ở hầu
hết các nhà
nước dân chủ
hiện đại,
những quyền
này vẫn bị
chồng chéo và
được chia sẻ
như chúng đă
được tách ra.
Các cơ quan
lập pháp có
thể muốn quản
lư các chương
tŕnh bằng
những quy định
chi tiết; các
cơ quan hành
pháp thường
xuyên tham gia
vào hoạt động
làm luật chi
tiết; cả các
nghị sĩ lẫn
các quan chức
chính phủ đều
tiến hành điều
trần theo kiểu
tư pháp về
hàng loạt vấn
đề.
Hành pháp
Ở các nền dân chủ hợp hiến, quyền hành pháp nh́n
chung bị giới
hạn ở ba
phương diện:
(i) Sự phân
chia quyền lực
giữa ngành
hành pháp, lập
pháp và tư
pháp như đă
tŕnh bày ở
trên trong đó
ngành lập pháp
và tư pháp có
thể kiểm soát
quyền lực của
ngành hành
pháp; (ii) Các
quy định của
hiến pháp về
việc bảo vệ
các quyền cơ
bản và (iii)
Các cuộc bầu
cử theo định
kỳ.
Những người chuyên quyền và những người chỉ trích
khác đều hiểu
sai khi cho
rằng các nền
dân chủ thiếu
quyền lực để
trấn áp, đồng
thời cũng
thiếu quyền
lực để cai
trị. Quan điểm
này hoàn toàn
sai lạc: Các
nền dân chủ
đ̣i phải giới
hạn quyền lực
của chính phủ,
chứ không phải
họ yếu kém.
Quyền hành pháp ở các nền dân chủ hiện đại nh́n
chung được tổ
chức theo một
trong hai cách
sau: hệ thống
nghị viện hoặc
tổng thống.
Trong hệ thống nghị viện, đảng đa số (hoặc liên
minh các đảng
sẵn sàng cùng
nhau nắm
quyền) trong
cơ quan lập
pháp sẽ thành
lập chính phủ,
đứng đầu là
một thủ tướng.
Ngành lập pháp
và hành pháp
không hoàn
toàn khác biệt
với nhau trong
hệ thống nghị
viện, do thủ
tướng và các
thành viên nội
các đều là
người của quốc
hội; dù vậy
nhưng thủ
tướng là
nguyên thủ
quốc gia.
Ngược lại, trong hệ thống tổng thống, tổng thống
thường được
bầu lên riêng
rẽ từ các
thành viên của
cơ quan lập
pháp. Cả tổng
thống lẫn cơ
quan lập pháp
đều có cơ sở
quyền lực và
các khu vực cử
tri riêng,
chúng kiểm
soát và cân
bằng lẫn nhau.
Mỗi hệ thống đều có những điểm mạnh, điểm yếu về
thể chế.
Đặc trưng cơ bản của hệ thống nghị viện mà cho đến
nay tạo nên đa
số các nền dân
chủ chính là
khả năng ứng
phó và linh
hoạt của
chúng. Các
chính phủ
trong hệ thống
nghị viện, đặc
biệt là nếu
được bầu lên
thông qua tỉ
lệ đại diện,
có xu hướng
h́nh thành các
hệ thống đa
đảng, trong đó
ngay cả những
đảng nhỏ cũng
có đại diện
tại cơ quan
lập pháp. Do
vậy, các nhóm
thiểu số vẫn
có thể tham
gia vào tiến
tŕnh chính
trị ở cấp cao
nhất của chính
phủ. Nếu như
liên minh cầm
quyền sụp đổ
hoặc đảng mạnh
nhất thất bại,
thủ tướng từ
chức và một
chính phủ mới
sẽ được h́nh
thành hoặc các
cuộc bầu cử
mới sẽ diễn ra
- tất cả điều
diễn ra trong
khoảng thời
gian ngắn.
Điểm yếu cơ bản đối với hệ thống nghị viện chính là
mặt trái của
sự linh hoạt
và chia sẻ
quyền lực, đó
là tính bất ổn
định. Các liên
minh đa đảng
có thể lỏng
lẻo và sụp đổ
ngay khi nổ ra
khủng hoảng
chính trị,
khiến cho các
chính phủ cầm
quyền chỉ tồn
tại trong thời
gian ngắn và
không có khả
năng giải
quyết các vấn
đề chính trị
khó khăn. Nói
cách khác, các
hệ thống nghị
viện khác sẽ
ổn định nhờ có
các đảng chiếm
đa số mạnh.
Đối với hệ thống tổng thống, điểm mạnh chủ yếu là
trách nhiệm
trực tiếp,
tính liên tục
và sức mạnh.
Các tổng thống
- được dân bầu
lên trong một
nhiệm kỳ cố
định - có thể
khẳng định
quyền lực từ
các cuộc bầu
cử trực tiếp,
bất chấp vị
thế của đảng
họ tại quốc
hội. Bằng việc
xây dựng các
nhánh chính
quyền riêng rẽ
và b́nh đẳng
về mặt lư
thuyết, hệ
thống tổng
thống muốn xây
dựng các thể
chế hành pháp
và lập pháp
mạnh, mỗi thể
chế đều được
nhân dân uỷ
quyền và có
khả năng kiểm
soát và cân
bằng lẫn nhau.
Điểm yếu của các tổng thống và cơ quan lập pháp
được bầu lên
riêng rẽ là
khả năng dẫn
đến bế tắc.
Các tổng thống
có thể không
lôi kéo đủ
đồng minh
chính trị
trong cơ quan
lập pháp để bỏ
phiếu thông
qua các chính
sách mà họ
muốn. Tuy
nhiên, với
việc sử dụng
quyền phủ
quyết (trong
các trường hợp
nhất định đây
là quyền được
bác bỏ các
luật do quốc
hội thông
qua), tổng
thống có thể
ngăn không cho
cơ quan lập
pháp ban hành
các chương
tŕnh làm luật
riêng của họ.
Nhà khoa học
chính trị
Richard
Neustadt đă mô
tả quyền lực
của tổng thống
Mỹ là “không
phải quyền ra
lệnh, mà là
quyền thuyết
phục”.
Neustadt muốn
nói rằng tổng
thống Mỹ nào
muốn Quốc hội
ban hành
chương tŕnh
nghị sự pháp
luật mà được
tổng thống ưa
thích - hoặc
ít nhất là
tránh ban hành
những luật mà
tổng thống
không nhất trí
v́ được các
đối thủ chính
trị thông qua
- đều phải có
được sự ủng hộ
chính trị của
dân chúng và
có khả năng
lôi kéo liên
minh hiệu quả
tại Quốc hội.
Lập pháp
Các cơ quan lập pháp được bầu lên - dù là theo hệ
thống nghị
viện hay tổng
thống - đều là
diễn đàn chủ
yếu để soạn
thảo, tranh
luận và thông
qua luật trong
một nền dân
chủ đại diện.
Những cơ quan
này không phải
là cái gọi là
những quốc hội
bù nh́n, chỉ
có việc thông
qua những
quyết định của
một lănh đạo
chuyên quyền.
Các nghị sĩ có thể chất vấn các quan chức chính phủ
về những hành
động và quyết
định của họ,
phê chuẩn ngân
sách quốc gia
và thông qua
thành viên
chính phủ bổ
nhiệm vào ṭa
án và các bộ.
Ở một số nền
dân chủ, các
ủy ban lập
pháp là diễn
đàn cho các
nhà làm luật
công khai xem
xét các vấn đề
quốc gia. Các
nghị sĩ có thể
ủng hộ chính
phủ đang nắm
quyền hoặc họ
có thể là lực
lượng chính
trị đối lập đề
xuất những
chính sách
hoặc các
chương tŕnh
thay thế.
Các nghị sĩ có trách nhiệm giải thích quan điểm của
họ một cách
hiệu quả nhất
có thể. Tuy
nhiên, họ phải
làm việc trong
khuôn khổ đạo
đức dân chủ
với sự khoan
dung, tôn
trọng và thỏa
hiệp để có
được sự nhất
trí có lợi v́
lợi ích chung
của người dân,
chứ không chỉ
v́ những người
ủng hộ họ về
mặt chính trị.
Mỗi nghị sĩ
phải tự ḿnh
quyết định
cách cân bằng
giữa lợi ích
chung và nhu
cầu của bộ
phận cử tri
địa phương.
Do thiếu đặc điểm phân chia quyền lực của hệ thống
tổng thống,
nên hệ thống
nghị viện phải
dựa nhiều hơn
vào động lực
chính trị bên
trong của hệ
thống này để
kiểm soát và
cân bằng quyền
lực của chính
phủ. Những
động lực này
thường là phe
đối lập được
tổ chức riêng
rẽ “bao vây”
chính phủ hoặc
cạnh tranh
giữa các đảng
đối lập.
Ngành tư pháp độc lập
Các thẩm phán có chuyên môn và độc lập là nền tảng
của một hệ
thống ṭa án
công bằng, vô
tư và được
hiến pháp bảo
vệ. Sự độc lập
này không có
nghĩa là các
thẩm phán có
thể đưa ra
những quyết
định dựa trên
ư muốn cá nhân
họ. Họ phải
được tự do đưa
ra các quyết
định pháp lư -
ngay cả khi
những quyết
định đó mâu
thuẫn với
chính phủ hoặc
các đảng có
quyền lực khác
có liên quan
tới vụ việc.
Ở các nền dân chủ, cấu trúc hiến pháp mang tính bảo
vệ và uy tín
của ngành tư
pháp bảo đảm
sự độc lập
trước áp lực
chính trị. Do
vậy, các phán
quyết của
ngành tư pháp
mới vô tư, dựa
trên thực tiễn
vụ việc, các
lập luận pháp
lư và các luật
liên quan,
không bị chính
phủ hoặc cơ
quan lập pháp
áp đặt hạn chế
hoặc gây áp
lực. Những
nguyên tắc này
đảm bảo mọi
người đều được
bảo vệ b́nh
đẳng trước
pháp luật.
Quyền của các thẩm phán được xem xét lại các bộ
luật và tuyên
bố các luật đó
vi phạm hiến
pháp là h́nh
thức kiểm soát
cơ bản khả
năng chính phủ
lạm dụng quyền
lực - ngay cả
khi chính phủ
đó được bầu
lên bằng đa
số. Tuy nhiên,
quyền này đ̣i
hỏi các ṭa án
phải được nh́n
nhận là độc
lập và phi
đảng phái và
có khả năng
đưa ra quyết
định dựa trên
luật pháp chứ
không phải các
tính toán
chính trị.
Dù được bầu lên hay được chỉ định, các thẩm phán
đều phải được
an toàn trong
nghề nghiệp
hoặc nhiệm kỳ
theo quy định
của luật pháp,
để họ có thể
đưa ra những
quyết định mà
không phải lo
ngại những
người có quyền
lực gây áp lực
hoặc tấn công.
Để đảm bảo sự
vô tư, không
thiên vị của
họ, đạo đức tư
pháp đ̣i hỏi
các thẩm phán
phải đứng bên
ngoài (hoặc
náu ḿnh)
không được ra
quyết định
trong các vụ
việc mà họ có
xung đột lợi
ích cá nhân.
Tin tưởng vào
sự vô tư,
không thiên vị
của hệ thống
ṭa án - tin
tưởng vào việc
nó được đánh
giá là một
nhánh chính
quyền “phi
chính trị” -
là nhân tố cơ
bản quyết định
sức mạnh và
tính hợp pháp
của ngành tư
pháp.
Thẩm phán ở một nền dân chủ không thể bị băi nhiệm
v́ những khiếu
nại nhỏ nhặt,
hoặc chỉ là
đáp ứng sự chỉ
trích chính
trị. Thay vào
đó, họ chỉ có
thể bị băi
nhiệm nếu vi
phạm những tội
ác nghiêm
trọng hoặc vi
phạm luật
thông qua thủ
tục luận tội
và xét xử kéo
dài và nhiều
bước (để đưa
ra các cáo
buộc) tại cơ
quan lập pháp
hoặc trước một
hội đồng ṭa
án riêng rẽ.
GIỚI
TRUYỀN THÔNG
ĐỘC LẬP VÀ TỰ
DO
Khi các xă hội hiện đại phát triển cả về quy mô lẫn
tính phức tạp,
lĩnh vực thông
tin, liên lạc
và tranh luận
công khai ngày
càng bị các
phương tiện
truyền thông
đă chi phối,
trong đó có
phát thanh,
truyền h́nh,
báo, tạp chí,
đặc biệt là
những phương
tiện truyền
thông mới như
Internet và
truyền h́nh vệ
tinh.
Dù là nhật kư điện tử hay sách in th́ trong xă hội
dân chủ chức
năng của
truyền thông
vẫn có sự
chồng chéo,
nhưng những
chức năng
riêng vốn có
của nó về cơ
bản vẫn giữ
nguyên, đó là
tính thông tin
và tính giáo
dục. Để đưa ra
những quyết
sách đúng đắn
về chính sách
công, người ta
cần thông tin
chính xác, kịp
thời và công
bằng. Tuy
nhiên, một
chức năng khác
nữa của truyền
thông là cổ
xúy, ngay cả
khi tỏ ra
thiếu khách
quan. Khán giả
của các phương
tiện truyền
thông có thể
tiếp cận những
ư kiến khác
nhau, thậm chí
xung đột nhau,
từ đó nắm bắt
nhiều loại
quan điểm khác
nhau. Vai tṛ
này của truyền
thông đặc biệt
quan trọng
trong các
chiến dịch vận
động tranh cử,
v́ rất ít cử
tri chỉ có cơ
hội nh́n thấy
các ứng cử
viên, nói ǵ
đến việc tṛ
chuyện với họ.
Chức năng thứ hai của truyền thông là giám sát hoạt
động của Chính
phủ và các thể
chế quyền lực
trong xă hội.
Nhờ có sự
khách quan và
độc lập - mặc
dù chưa hoàn
hảo - truyền
thông đă giúp
phơi bày sự
thật đằng sau
những tuyên bố
của chính phủ
và buộc các
quan chức
chính phủ phải
có trách nhiệm
về những hành
động của họ.
Truyền thông cũng có thể đóng một vai tṛ tích cực
hơn trong cuộc
tranh luận
công khai
thông qua các
bài xă luận
hoặc báo cáo
điều tra. Đồng
thời, nó là
một diễn đàn
để các cá nhân
và các nhóm
bày tỏ quan
điểm qua thư
và bài viết và
những thông
tin đưa lên
mạng, với rất
nhiều quan
điểm khác
nhau.
Các nhà b́nh luận c̣n chỉ ra một vai tṛ ngày càng
quan trọng nữa
của truyền
thông là “xây
dựng chương
tŕnh nghị
sự”. Do không
thể thông tin
về tất cả, nên
các phương
tiện truyền
thông phải
chọn vấn đề
nào cần nhấn
mạnh và vấn đề
nào nên bỏ
qua. Tóm lại,
họ có xu hướng
phải quyết
định cái ǵ là
tin tức và cái
ǵ không. Đổi
lại, những
quyết định này
sẽ ảnh hưởng
đến nhận thức
của công chúng
về vấn đề quan
trọng nhất.
Tuy nhiên,
không giống
với các nước
mà ở đó truyền
thông bị chính
phủ quản lư,
truyền thông ở
một nền dân
chủ không thể
đơn giản cứ
theo ư muốn mà
xuyên tạc hay
làm ngơ trước
các vấn đề. V́
rút cục th́
các đối thủ
cạnh tranh
được tự do kêu
gọi sự quan
tâm, chú ư đối
với danh sách
những vấn đề
quan trọng của
họ.
Công dân ở một nền dân chủ tin tưởng rằng với sự
trao đổi cởi
mở các ư tưởng
và quan điểm,
cuối cùng sự
thật sẽ chiến
thắng, giá trị
của những
người khác sẽ
được hiểu rơ
hơn, những
lĩnh vực thỏa
hiệp sẽ được
xác định rơ
hơn và con
đường tiến bộ
sẽ mở ra. Mức
độ trao đổi
càng lớn càng
tốt. Nhà văn
E.B. White
nhận xét:
“Giới báo chí
ở đất nước tự
do của chúng
ta là đáng tin
cậy và hữu ích
không phải bởi
đặc điểm tốt
của nó mà bởi
chính tính đa
dạng của nó.
Chừng nào c̣n
nhiều người sở
hữu các phương
tiện truyền
thông, mà mỗi
người đều theo
đuổi lĩnh vực
t́m kiếm sự
thật riêng của
ḿnh, khi đó
chúng ta c̣n
cơ hội đến với
sự thật và
sống trong sự
thật… đông
người th́
không sợ ǵ
cả”.
CÁC
ĐẢNG PHÁI
CHÍNH TRỊ,
NHÓM LỢI ÍCH,
TỔ CHỨC PHI
CHÍNH PHỦ
Không
thể
yêu cầu công
dân tham gia
vào tiến tŕnh
chính trị,
nhưng nếu
không có hành
động của công
dân, nền dân
chủ sẽ bị suy
yếu. Công dân
có quyền tự do
hội họp và
thành lập
những tổ chức
của riêng ḿnh
nếu thấy phù
hợp. Đó là
nhân tố cơ bản
của dân chủ.
Các
đảng phái
chính trị
Các
đảng
phái chính trị
thu nạp, chỉ
định và vận
động tranh cử
để bầu lên các
quan chức; xây
dựng các đường
lối chính sách
cho chính phủ
nếu họ là đảng
nắm đa số; chỉ
trích hoặc đề
xuất các chính
sách thay thế
nếu họ là đảng
đối lập; huy
động các nhóm
lợi ích ủng hộ
các chính sách
chung; giải
thích cho công
chúng về những
vấn đề công;
xây dựng cơ
cấu và nguyên
tắc tiến hành
tranh luận
chính trị
trong xă hội.
Trong một số
hệ thống chính
trị, ư thức hệ
có thể là một
nhân tố quan
trọng trong
việc thu nạp
và khuyến
khích các
thành viên
trong đảng. Ở
các hệ thống
chính trị
khác, lợi ích
kinh tế hoặc
t́nh h́nh xă
hội có thể
quan trọng hơn
cam kết về ư
thức hệ.
Các
tổ
chức đảng và
những thủ tục
hoạt động
trong các đảng
phái rất khác
nhau. Ở một
góc độ, hệ
thống nghị
viện đa đảng
là tổ chức
được quy định
chặt chẽ nhất,
hoàn toàn do
các nhà chuyên
môn điều hành.
Ở góc độ khác
là nước Mỹ nơi
có Đảng Dân
chủ và Đảng
Cộng ḥa là
những tổ chức
phi tập trung
hóa hoạt động
phần lớn tại
Quốc hội và
cấp bang. Rồi
cứ bốn năm một
lần các tổ
chức này lại
tập hợp lại ở
cấp quốc gia
để khởi động
chiến dịch
tranh cử tổng
thống. Các
chiến dịch bầu
cử ở một nền
dân chủ thường
phức tạp, tốn
nhiều thời
gian và đôi
khi rất ngớ
ngẩn, nhưng
vai tṛ của
chúng rất quan
trọng. Bầu cử
là phương pháp
ḥa b́nh và
công bằng,
theo đó người
dân có thể lựa
chọn các nhà
lănh đạo và
quyết định
chính sách
công.
Các
nhóm
lợi
ích
và
tổ
chức
phi
chính
phủ
Công
dân
ở một nền dân
chủ có thể
tham gia các
tổ chức cá
nhân hoặc t́nh
nguyện, trong
đó có các nhóm
lợi ích. Các
nhóm lợi ích
cố gắng bằng
cách nào đó
gây ảnh hưởng
đối với chính
sách công và
thuyết phục
các quan chức
ủng hộ những
quan điểm của
họ. Chỉ trích
có thể làm
giảm ảnh hưởng
của những “lợi
ích đặc biệt”
nhưng nó giúp
người dân nhận
ra rằng nền
dân chủ bảo vệ
quyền của
những nhóm lợi
ích như vậy để
tổ chức và đấu
tranh cho
những quyền
lợi của họ.
Nhiều
nhóm
lợi ích truyền
thống đă được
tổ chức xuất
phát từ các
vần đề kinh
tế; các nhóm
kinh doanh và
nông nghiệp;
các liên đoàn
lao động tiếp
tục có ảnh
hưởng lớn
trong hầu hết
các hệ thống
dân chủ. Tuy
nhiên, trong
vài thập kỷ
gần đây, các
nhóm lợi ích
đă lớn mạnh cả
chất lượng lẫn
số lượng, bao
quát hầu hết
các lĩnh vực
như xă hội,
văn hóa, chính
trị và thậm
chí cả các
hoạt động tôn
giáo. Các tổ
chức chuyên
môn cũng lớn
mạnh cùng các
nhóm lợi ích
công ủng hộ sự
nghiệp của họ
từ cải thiện
việc chăm sóc
sức khoẻ cho
người nghèo
đến bảo vệ môi
trường - những
vấn đề có thể
không trực
tiếp đem lại
lợi ích cho
thành viên các
nhóm. Bản thân
các chính phủ
có thể cũng
hoạt động
giống các nhóm
lợi ích. Ở Mỹ,
các hiệp hội
thống đốc
bang, thị
trưởng những
thành phố lớn
và các cơ quan
lập pháp bang
thường xuyên
vận động quốc
hội Mỹ thông
qua những vấn
đề mà họ quan
tâm.
Động
lực của nền
chính trị nhóm
lợi ích khá
phức tạp. Quy
mô của các
nhóm có vai
tṛ quan
trọng, các
nhóm với số
lượng lớn
thành viên
trên cả nước
sẽ tự động lôi
kéo được sự
quan tâm chú ư
của các quan
chức. Tuy
nhiên, trong
một số trường
hợp, những
nhóm có quy mô
nhỏ, được tổ
chức chặt chẽ
và cam kết
mạnh mẽ đối
với những vấn
đề của họ cũng
có thể gây ảnh
hưởng lớn so
với số lượng
thành viên của
họ.
Một
trong những
phát triển
đáng kinh ngạc
nhất trong vài
thập kỷ gần
đây là sự xuất
hiện các tổ
chức phi chính
phủ trên quy
mô toàn cầu.
Với nỗ lực
phục vụ nhu
cầu của cộng
đồng, quốc gia
hay v́ một sự
nghiệp được
xác định là
những vấn đề
toàn cầu, các
tổ chức phi
chính phủ này
cố gắng hỗ
trợ, thậm chí
thách thức sự
điều hành của
chính phủ bằng
cách ủng hộ,
tuyên truyền
và thu hút sự
chú ư đối với
những vấn đề
chủ yếu và
giám sát hoạt
động của chính
phủ và khu vực
tư nhân.
Các
chính
phủ và tổ chức
phi chính phủ
luôn là đối
tác của nhau.
Các tổ chức
phi chính phủ
cung cấp
chuyên gia và
hướng dẫn
chuyên môn
nhằm thực hiện
những dự án do
chính phủ tài
trợ. Các tổ
chức phi chính
phủ có thể
không có liên
kết về chính
trị hoặc có
thể hoạt động
trên lư tưởng
đảng phái và
t́m cách thúc
đẩy một sự
nghiệp cụ thể
hoặc một loạt
sự nghiệp nào
đó v́ lợi ích
của nhân dân.
Dù hoạt động
theo hướng nào
th́ vấn đề mấu
chốt là ở chỗ
nhà nước kiểm
soát hoạt động
của các tổ
chức phi chính
phủ ở mức thấp
nhất.
QUAN
HỆ QUÂN SỰ VÀ
DÂN SỰ
Vấn đề chiến tranh và ḥa b́nh là vấn đề trọng yếu
nhất mà bất cứ
quốc gia nào
cũng có thể
phải đối mặt,
đặc biệt ở
những thời
điểm khủng
hoảng. Nhiều
quốc gia phải
đưa quân đội
lên nắm quyền
lănh đạo. Điều
đó không xảy
ra ở các nền
dân chủ.
Ở các nền dân chủ, vấn đề quốc pḥng và mối đe dọa
đối với an
ninh quốc gia
phải do nhân
dân quyết định
thông qua các
đại diện mà họ
bầu lên. Quân
đội ở một nền
dân chủ phải
phục vụ đất
nước chứ không
lănh đạo đất
nước. Các lănh
đạo quân đội
cố vấn cho các
nhà lănh đạo
được bầu lên
và thực hiện
những quyết
định của họ.
Chỉ có những
người được dân
bầu lên mới có
trách nhiệm và
quyền lực tối
cao trong việc
quyết định vận
mệnh của dân
tộc. Nguyên
tắc kiểm soát
dân sự đối với
quân đội là
nguyên tắc cơ
bản của nền
dân chủ.
Các lănh đạo dân sự cần lănh đạo quân đội quốc gia
và quyết định
những vấn đề
quốc pḥng
không phải bởi
v́ họ giỏi hơn
các chuyên gia
quân sự mà bởi
v́ họ là đại
diện của nhân
dân và do vậy
họ có trách
nhiệm đưa ra
những quyết
sách và chịu
trách nhiệm về
những quyết
định đó.
Ở một nền dân chủ, quân đội tồn tại để bảo vệ đất
nước và các
quyền tự do
của nhân dân.
Quân đội không
được đại diện
hay ủng hộ bất
cứ quan điểm
chính trị nào,
không được ủng
hộ các nhóm
sắc tộc hoặc
nhóm xă hội
nào. Quân đội
phải trung
thành với
những lư tưởng
lớn hơn của
dân tộc, trung
thành với pháp
quyền và
nguyên tắc dân
chủ. Mục tiêu
của quân đội
là bảo vệ xă
hội chứ không
phải định h́nh
xă hội.
Bất cứ một chính phủ dân chủ nào cũng coi trọng
chuyên môn và
tư vấn của các
chuyên gia
quân sự trong
việc thực hiện
các quyết sách
về quốc pḥng
và an ninh
quốc gia. Tuy
nhiên, chỉ có
lănh đạo dân
sự được bầu ra
mới có quyền
đưa ra những
quyết sách
cuối cùng về
pḥng thủ quốc
gia và quân
đội sau đó sẽ
thực hiện
những quyết
định đó.
Tất nhiên các tướng lĩnh quân đội cũng tham gia vào
đời sống chính
trị với tư
cách cá nhân
như các công
dân khác. Nhân
viên quân sự
có thể tham
gia bỏ phiếu
bầu cử. Tuy
nhiên, tất cả
nhân viên quân
sự phải ra
khỏi ngành
hoặc nghỉ hưu
mới có thể
tham gia chính
trị. Nghĩa vụ
quân sự phải
tách biệt với
chính trị.
Quân đội là
đầy tớ trung
lập của nhà
nước và là
người bảo vệ
xă hội.
NỀN
VĂN HÓA DÂN
CHỦ
Đôi khi con người có những mong muốn mâu thuẫn
nhau. Họ muốn
an toàn nhưng
lại thích thú
mạo hiểm; họ
muốn có tự do
cá nhân, nhưng
cũng đ̣i b́nh
đẳng xă hội.
Nền dân chủ
cũng vậy.
Nhưng điều
quan trọng là
phải nhận thức
được rằng
nhiều mâu
thuẫn này,
thậm chí cả
nghịch lư, đều
hiển hiện ở
mọi xă hội dân
chủ.
Xung đột và đồng thuận
Theo Larry Diamond - học giả đồng thời là nhà văn -
giữa xung đột
và đồng thuận
tồn tại một
nghịch lư cơ
bản. Ở nhiều
phương diện,
dân chủ chỉ là
một tập hợp
những quy định
quản lư xung
đột. Đồng
thời, mâu
thuẫn này phải
được quản lư
trong những
giới hạn nhất
định và dẫn
đến sự thỏa
hiệp, đồng
thuận hay
những h́nh
thức nhất trí
khác được tất
cả các bên
chấp nhận là
hợp pháp. Bất
cứ sự thiên vị
nào đều có thể
đe dọa sự cân
bằng. Nếu như
các nhóm coi
dân chủ chỉ là
một diễn đàn
để họ bày tỏ
nhu cầu th́ xă
hội có thể đổ
vỡ từ bên
trong. Nếu
chính phủ gây
sức ép lớn
nhằm đạt được
sự đồng thuận,
bất chấp ư
kiến của nhân
dân th́ xă hội
có thể bị đổ
vỡ từ bên
trên.
Không có giải pháp đơn giản nào để cân bằng xung
đột và đồng
thuận. Dân chủ
không phải là
một cỗ máy có
thể tự vận
hành được khi
những các
nguyên tắc hợp
lư được đưa
vào. Một xă
hội dân chủ
cần phải có sự
cam kết của
người dân,
theo đó chấp
nhận xung đột
chính trị và
tri thức là
điều tất yếu
và điều cần
thiết là phải
có sự khoan
dung. Từ góc
độ này, chúng
ta phải nhận
thức được rằng
nhiều xung đột
trong xă hội
dân chủ không
phải là sự
xung đột giữa
“đúng” hay
“sai”, mà là
xung đột về
cách diễn giải
thế nào là
quyền dân chủ
và ưu tiên xă
hội.
Giáo dục và dân chủ
Giáo dục là một phần thiết yếu của bất cứ xă hội
nào, đặc biệt
quan trọng đối
với một nền
dân chủ.
Thomas
Jeferson viết:
“Nếu một quốc
gia muốn được
ngu dốt và tự
do trong một
nền văn minh
hóa có nghĩa
là họ mong
muốn những ǵ
chưa bao giờ
xảy ra và sẽ
không bao giờ
xảy ra”.
Có sự gắn kết trực tiếp giữa giáo dục và các giá
trị dân chủ.
Trong các xă
hội dân chủ,
nội dung và
thực tiễn giáo
dục hỗ trợ cho
những thực
tiễn trong
quản lư dân
chủ. Quá tŕnh
truyền bá giáo
dục này cực kỳ
quan trọng ở
một nền dân
chủ bởi v́ các
nền dân chủ
hiệu quả đều
năng động, xây
dựng những mô
h́nh quản lư
yêu cầu người
dân phải tư
duy một cách
độc lập. Cơ
hội tạo ra
những thay đổi
tích cực về
chính trị - xă
hội nằm trong
tay của người
dân. Chính phủ
không được coi
hệ thống giáo
dục là phương
tiện truyền bá
cho học sinh
mà cần dành
nguồn lực cho
giáo dục giống
như nỗ lực đảm
bảo những nhu
cầu cơ bản
khác của người
dân.
Đối lập với các xă hội chuyên chế t́m cách áp đặt
thái độ tiếp
thu bị động,
mục tiêu của
nền giáo dục
dân chủ là đào
tạo ra những
công dân độc
lập, biết đặt
vấn đề và thực
sự quen với
những quan
niệm và thực
tiễn dân chủ.
Chester.E.
Finn Jr.,
nghiên cứu
viên cao cấp
của Viện Chính
sách Giáo dục
Hoover nói:
“mọi người
sinh ra vốn đă
có ham muốn tự
do cá nhân,
nhưng lại
không biết về
những dàn xếp
chính trị và
xă hội giúp
mang lại tự do
lâu dài cho
bản thân và
con cái họ…Cần
phải có những
dàn xếp đó. Họ
cần phải biết
về chúng”. T́m
hiểu về dân
chủ bắt đầu từ
trường học và
tiếp tục khi
chúng ta tham
gia vào đời
sống công dân,
đồng thời xuất
phát từ sự ṭ
ṃ muốn biết
những loại
thông tin có
thể tiếp cận
được trong một
xă hội tự do.
Xă hội và dân chủ
Chủ nghĩa hợp hiến dân chủ về cơ bản là nền tảng
theo đó các xă
hội đạt đến sự
thật - dù
không hoàn
thiện - thông
qua xung đột
và thỏa hiệp
các ư tưởng,
các thể chế và
cá nhân. Dân
chủ là thực
dụng. Ư tưởng
và giải pháp
cho các vấn đề
không được
kiểm nghiệm
trên nền tảng
một hệ tư
tưởng cứng
nhắc mà được
kiểm nghiệm
trong một thế
giới thực, ở
đó người ta
tranh luận,
trao đổi, chấp
nhận hay loại
bỏ chúng.
Như học giả Diane Ravitch nhận xét: “xây dựng liên
minh là bản
chất của hành
động dân chủ.
Xây dựng liên
minh là chỉ
cách cho các
nhóm lợi ích
thương lượng
với nhau, thỏa
hiệp và vận
hành trong hệ
thống hiến
pháp. Bằng
việc thiết lập
liên minh, các
nhóm có quan
điểm khác nhau
t́m hiểu cách
tranh luận một
cách ḥa b́nh,
theo đuổi mục
tiêu của họ
một cách dân
chủ và cuối
cùng để tồn
tại trong một
thế giới đa
dạng”.
Chính phủ tự quản không phải lúc nào cũng tránh
được sai lầm,
chấm dứt được
xung đột dân
tộc, đảm bảo
phát triển
kinh tế hoặc
giữ vững hạnh
phúc. Tuy
nhiên, nó cho
phép tranh
luận công khai
để xác định và
sửa chữa những
sai lầm; cho
phép các nhóm
gặp gỡ và giải
quyết những
khác biệt;
mang đến cơ
hội phát triển
kinh tế và
giúp nâng cao
tiến bộ xă hội
và sự bày tỏ
của cá nhân.
Josef Brodsky, cố thi sĩ người Nga và là người đoạt
giải Nobel
viết: “Một
người tự do
khi thất bại
anh ta sẽ
không đổ lỗi
cho ai”. Điều
này hoàn toàn
đúng đối với
công dân ở các
nền dân chủ.
Họ phải chịu
trách nhiệm về
vận mệnh của
xă hội nơi họ
sinh sống.
Bản thân dân chủ không đảm bảo điều ǵ. Thay vào
đó, nó đưa đến
những cơ hội
thành công và
cả nguy cơ
thất bại.
Trong lời
khẳng định
mang tính cảnh
báo nhưng đầy
triết lư của
Thomas
Jeferson, dân
chủ hứa hẹn
“cuộc sống, sự
tự do và mưu
cầu hạnh
phúc”.
Dân chủ khi đó vừa là sự hứa hẹn và là một thách
thức. Dân chủ
hứa hẹn loài
người tự do,
hợp tác với
nhau, tự quản
lư theo cách
hướng tới thực
hiện những
khát vọng về
tự do cá nhân,
cơ hội kinh tế
và công bằng
xă hội. Dân
chủ là thách
thức bởi v́ sự
thành công của
nền dân chủ
phụ thuộc vào
chính các công
dân chứ không
phải ai khác.
Nguồn:
http://Vietnamese.vietnam.usembassy.gov
|
|
|
|
|
Tự Do Ngôn Luận, Quyền Căn Bản Của Con Người
và Nền Tảng Của Thể Chế Dân Chủ
Nguyễn Học Tập
A - Quyền căn bản của con người.
Ước vọng dân chủ,
quyền b́nh đẳng, quyền tự do ngôn luận cùng với một số
quan niệm về quyền tự do khác của con người được viết
thành văn bản trên dưới 200 năm nay, trong bản Tuyên Ngôn
Độc Lập Hoa Kỳ 1776 và Tuyên Ngôn Nhân Quyền và Quyền Công
Dân Cách mạng Pháp 1789. Nhưng những đ̣i hỏi của con người
được đối xử b́nh đẳng với người khác, có quyền tự do phát
biểu ư kiến để phổ biến tư tưởng của ḿnh đến người đồng
loại, nhứt là đến những người cùng sống gần gũi ḿnh, sống
trong cộng đồng với ḿnh, có quyền quyết định lấy đời sống
của cá nhân ḿnh, quyết định để bảo vệ người thân thuộc
ḿnh và bảo vệ nhà cửa, đất đai nơi ḿnh đang cư ngụ, là
những nhu cầu căn bản của con người đă có từ ngàn xưa, từ
thuở con người xuất hiện trên mặt đất.
Những nhu cầu căn
bản trên của con người chúng ta vừa liệt kê, không có ǵ
khác hơn là quyền b́nh đẳng, quyền tự do ngôn luận và thể
chế dân chủ.
Các tư tưởng đó
chúng ta có thể t́m thấy dấu vết ngay trong ngôn ngữ Hy
Lạp, từ thời Cộng Hoà Athene, thế kỷ thứ 2-3 sau Thiên
Chúa Giáng Sinh.
Ngoài ra từ
ngữ "Demokratía", là danh từ kép, do "demos": dân chúng;
"krátos": quyền hành. Quyền hành của Quốc Gia thuộc về dân
chúng hay dân chúng là chủ nhân của quyền lực Quốc Gia.
Hay "quyền tối thượng của Quốc Gia thuộc về dân" hay "Dân
Chủ", nói như ngôn từ của chúng ta,
Chúng ta cũng
có "Isonomía" là danh từ kép, do "ísos": như nhau;
"nómos": luật lệ. Luật lệ như nhau cho tất cả mọi người
hay "mọi người đều b́nh đẳng trước pháp luật"
Và chúng ta
cũng có "iségoria" là danh từ kép, do "ísos": như nhau;
"agorà": cộng đồng. Mọi người đều như nhau, ngang nhau
trong cộng đồng đang nhóm họp. Mọi người có quyền lên
tiếng, bày tỏ ư kiến và biểu quyết như nhau trong cộng
đồng đang tựu họp để quyết định mục đích và phương thức
phải có liên quan đến cuộc sống chúng trong Thị Xă
"Polis". Mọi người đều có quyền lên tiếng như nhau trong
các buổi họp của cộng đồng để quyết định đường lối tổ chức
(Politica, Politique, Policy, Politik) cho cuộc sống chung
trong cộng đồng Thị Xă (Polis) hay "tự do ngôn luận".
Thể chế dân chủ
tự do, quyền b́nh đẳng trước pháp luật, quyền tự do ngôn
luận vừa kể và những quyền căn bản khác bất khả xâm phạm
của con người, được Hiến Pháp Cộng Hoà Liên Bang Đức 1949
liệt kê từ điều 2 đến điều 19, trước khi định nghĩa thể
chế Quốc Gia ở điều 20. Điều đó cho thấy Hiến Pháp 1949
Cộng Hoà Liên Bang Đức đặt nhân vị và các quyền bất khả
xâm phạm của con người, trong đó có quyền tự do ngôn luận
là quyền tối quan trọng, ở địa vị trung tâm điểm và tối
thượng trong tổ chức Quốc Gia, ngay cả trước khi định
nghĩa để xác định thể chế Quốc Gia.
Quốc Gia được xây
dựng để phục vụ con người chớ không ngược lại. Do đó Quốc
Gia đứng ra bảo vệ con người ngay ở điều khoản đầu tiên
của Hiến Pháp: "Nhân phẩm con người bất khả xâm phạm"
Những quyền căn
bản bất khả xâm phạm của con người sẽ được kể sau đây là
những quyền có giá trị bắt buộc trực tiếp đối với lập
pháp, hành pháp và tư pháp" (Điều 1, đoạn 1 và 3, Hiến
Pháp 1949 Cộng Hoà Liên Bang Đức).
Các cơ chế quốc
gia là những chủ thể trực tiếp được quy trách cho việc tôn
trọng và bảo vệ các quyền bất khả xâm phạm của con người,
trong đó có quyền tự do ngôn luận.Tôn trọng và bảo vệ
không có nghĩa chỉ là bảo vệ khỏi bị vi phạm, đàn áp, mà
c̣n tạo các điều kiện thuận lợi để bảo đảm cho các quyền
trên có thể được thực thi và tồn tại.
B - Tự do ngôn luận nền tảng của thể chế
dân chủ.
Một trong những
đặc tính không thể thiếu của nền dân chủ, nếu muốn được
gọi là dân chủ thật sự, là những người lănh đạo Quốc Gia
nói chung và Chính Quyền nói riêng là những người lănh đạo
do sự đồng thuận của đa số.
Nói cách khác,
Chính Quyền trong thể chế dân chủ là Chính Quyền được
chính danh hóa (légitimé) do sự đồng thuận của đa số.
Trong thể chế dân
chủ, không ai tự cho ḿnh là đại diện của dân, hành xử
quyền của dân, do dân và v́ dân, là đội ngũ tiền phong của
nhân dân, nếu không được đa số dân chúng đồng thuận phong
tước cho.
Quyền hành của
thể chế dân chủ là quyền hành phát xuất từ hạ cấp, được
thành phần dân chúng bị trị phong cho, ngược với quyền
hành trong chế độ quân chủ hay độc tài tự tôn, cho rằng
quyền lực ḿnh hành xử là quyền bính do họ tộc, cha truyền
con nối hoặc do chính ḿnh đoạt được, do đảng ḿnh quy
cho, do thiên mệnh hoặc do dân chúng đồng thuận mặc nhiên
giao cho không cần kiểm chứng. Nói cách khác quyền hành
trong thể chế quân chủ hay độc tài là quyền hành phát xuất
từ bên trên.
Quyền hành không
do dân chúng đa số đồng thuận phong cho, không phải là
quyền hành dân chủ.
a) Tự do ngôn luận trong
tiến tŕnh chọn người lănh đạo.
Cách thức chọn
người đại diện ḿnh lănh đạo trong thể chế dân chủ được
Hiến Pháp 1949 Cộng Hoà Liên Bang Đức tuyên bố: "Các Dân
Biểu Hạ Viện (Bundestag) được tuyển chọn qua các cuộc đầu
phiếu phổ thông, trực tiếp, tự do, b́nh đẳng và kín" (Điều
38).
Các tĩnh từ "phổ
thông, trực tiếp, b́nh đẳng và kín" nêu lên những đặc tính
khá minh bạch, có lẽ chúng ta không cần hay chưa cần đề
cập đến, nếu chúng ta chưa xác định được thoả đáng tĩnh từ
"tự do".
Từ ngữ "tự do" ở
đây, không chỉ dùng để đề cập đến động tác bỏ phiếu không
bị giới hạn, không bị áp chế của người dân trong lúc bỏ
phiếu, mà c̣n hàm chứa những điều kiện phải có trước đó.
Bởi lẽ không có
những điều kiện phải có (sine qua non) trước đó, động tác
được coi là "tự do" trong ngày bỏ phiếu, sẽ không thể hiện
được "tự do" bao nhiêu để có thể tuyên bố và bảo đảm cho
dân chủ.
Đó là chưa kể đến
những h́nh thức "tự do giả tạo" của chính động tác bỏ
phiếu.
Những điều kiện
tiên quyết không thể thiếu, trước khi có cuộc bầu cử "tự
do", có khả năng phong tước một cách dân chủ cho những ai
đại diện dân lănh đạo Quốc Gia là trong thời gian chuẩn
bị, các quyền "tự do
ngôn luận, tự do truyền bá tư tưởng, tự do lập hội và
tự do gia nhập hội " phải được tôn
trọng.
Nói cách khác,
trong thời gian chuẩn bị, người dân phải có quyền lập đảng
và gia nhập đảng. Các chính đảng được tự do thành lập và
hoạt động, có quyền tự do ngôn luận để phổ biến đến dân
chúng lư tưởng dân chủ, các bậc thang giá
trị phải được tôn trọng, chính sách lănh đạo Quốc Gia và
các chương tŕnh khả thi và hữu hiệu mà ḿnh muốn thực
hiện cho Quốc Gia.
Muốn cho cuộc bầu
cử có ư nghĩa dân chủ thực sự, các chính đảng phải có thời
gian và tự do để phổ biến và thuyết phục dân chúng những
ǵ chúng ta vừa đề cập.
Các chính đảng
phải có quyền tự do ngôn luận, được xử dụng các phương
tiện truyền thông để chuyển đạt đến dân chúng chủ trương
và chương tŕnh thực hiện cho đất nước. Các chính đảng
phải được tự do thành lập, hoạt động, xử dụng các phương
tiện truyền thông mà không bị hâm doạ.
Các chính đảng
phải được tự do tạo ra dư luận quần chúng.
Bởi v́ nếu chúng
ta đồng ư rằng đặc tính không thể thiếu của thể chế dân
chủ là "Chính Quyền của thể chế dân chủ là chính quyền
được phát sinh do sự đồng thuận của đa số dân chúng"
(Giovanni Sartori, Democrazia, Che Cosa è?, Milano,
Rizzoli, 61), th́ "... nền tảng của Chính Quyền dân chủ là
sự đồng thuận của quần chúng" (Dicey, A.V., Lectures on
the Relation Between Law and Public Opinion in England
during the XIX Century, London, MacMilan, 1905,3).
Chúng ta nên lưu
ư là chúng ta đang dùng danh từ "sự đồng thuận"
(consensus) của dân chúng thay v́ "dư luận quần chúng"
(opinio).
Dân chúng đồng
thuận (consensus, do từ ngữ La Tinh cum: với nhau, và
sensus (sentire): cảm thấy. Như vậy "đồng thuận"
(consensus): cùng chung với nhau cảm thấy, cảm thấy như
nhau, từ đó liên kết nhau, chung nhiệm vụ với nhau).
Đồng thuận với
nhau hay cùng cảm thấy như nhau về những ǵ:
đồng
thuận
nhau về các bậc thang giá trị và lư tưởng phải hướng đến
trong việc tổ chức Quốc Gia,
đồng
thuận
nhau về định chế để thực hiện các lư tưởng và giá trị đó
vào cuộc sống thực tế của cộng đồng Quốc Gia,
đồng
thuận
chọn người đại diện ḿnh để thừa hành.
Nhưng muốn đồng
thuận phải có ư kiến. Đồng thuận về vấn đề ǵ? Ư kiến là
đối tượng của sự đồng thuận.
Nhưng ư kiến
không tự dưng có được. Ư kiến được phát sinh sau khi chúng
ta được thông tin, suy tư, chọn lọc, đúc kết.
Muốn có ư kiến
quần chúng thật sự được tự do kết thành trong thể chế dân
chủ, chúng ta cần có 3 điều kiện:
tự
do tư tưởng,
tự
do ngôn luận để truyền bá tư tưởng,
các
nguồn thông tin đa nguyên.
Người dân phải
được tự do thu thập các nguồn tư tưởng và có quyền kiểm
soát những ǵ được nói ra, viết ra xem có phù hợp với sự
thật hay không, những ǵ được nói được viết ra có phù hợp
với sự thật đă được nói ra, đă xảy ra hay không.
Tầm mức quan
trọng đó đă được Hiến Pháp 1949 Cộng Hoà Liên Bang Đức
đứng ra bảo đảm: "Mọi công dân đều có quyền phát biểu và
truyền bá một cách tự do ư kiến của ḿnh bằng lời nói,
bằng chữ viết và h́nh ảnh, và được tự do thông tin mà
không bị cản trở, từ các nguồn truyền thông mà ai cũng
tham dự được. Tự do báo chí và tự do truyền thông bằng đài
phát thanh (phương tiện tân tiến nhứt đến năm 1949) và
điện ảnh được bảo đảm. Không có một sự kiểm duyệt nào có
thể được chấp nhận" (Điều 5, Hiến Pháp 1949 CHLBĐ).
Thiếu quyền kiểm
chứng sự thật làm bảo chứng, tự do tư tưởng và tự do ngôn
luận để truyền bá tư tưởng sẽ biến thành tự do lường gạt,
tự do mạ lỵ, tự do truyền bá những điều thất thiệt.
Do đó quyền tự do
ngôn luận được gắn liền với quyền tự do kiểm chứng sự thật
và tố giác những tuyên truyền thất thiệt, lường gạt và mạ
lỵ.
Nhà Nước XHCN với
chế độ độc quyền giáo dục, kiểm soát phương tiện truyền
thông, độc tôn về ư thức hệ XHCN, nghiêm cấm văn hoá và tư
tuởng, tin tức của các "người nước ngoài", có tôn trọng tự
do ngôn luận, phương tiện chính yếu để đưa đến sự đồng
thuận đích thực, nền tảng của thể chế dân chủ không? Hỏi
để chúng ta trả lời.
Tự do tư tưởng và
tự do ngôn luận để truyền bá tư tưởng để kiến tạo dân chủ
như vừa thấy, phải được bầu không khí an ninh che chở.
Được luật pháp
che chở chưa đủ (giả sử luật pháp có giá trị thực hữu
trong cơ chế XHCN), cần phải có môi trường sống không làm
cho con người phải sợ sệt. Hệ thống công an dày đặc kiểm
soát từ thành thị đến thôn quê, một cử chỉ, một lời nói
không "nhất trí" với Đảng và Nhà Nước đều không thể qua
khỏi cặp mắt cú vọ của công an và đương sự sẽ được công an
chiếu cố mời đi "làm việc" ở văn pḥng công an phường,
công an xóm.
Và ai có đặc ân
được Đảng chiếu cố kỹ hơn, sẽ được Đảng cho đi "học tập
cải tạo" không biết ngày về.
Trong bầu không
khí vừa kể, người dân có được an tâm, che chở hay "bảo
đảm" của điều 5 Hiến Pháp 1949 CHLBĐ vừa kể không?
Hỏi để chúng ta trả lời.
Bởi lẽ "một khi
sợ không dám nói ra những điều ḿnh suy nghĩ, dần dần
nguời ta cũng sẽ không c̣n muốn suy nghĩ những điều ḿnh
không dám nói nữa" (Giovanni Sartori, op. cit., 69).
Câu văn vừa trích
dẫn của giáo sư Giovanni Sartori cho thấy sự liên hệ giữa
tự do tư tưởng và tự do ngôn luận.
Không có điều
kiện để con người được tự do tư tưởng, th́ tự do ngôn luận
cũng không thể có được. Và không có tự do ngôn luận, sẽ
không thể có tự do tạo dư luận và không có sự đồng thuận
đích thực, yếu tố thiết yếu để chọn người đại diện một
cách dân chủ lănh đạo Quốc Gia.
Nói tóm lại,
không có tự do tư tưởng, tự do ngôn luận, sẽ không có Quốc
Gia dân chủ đích thực.
b) Tự do ngôn luận và dân
chủ luân phiên.
Ai trong chúng ta
cũng biết, trong một thể chế dân chủ, khi có cuộc bầu cử
th́ có kẻ thắng người thua.
Nhưng thua, không
có nghĩa là bị loại khỏi ṿng chiến, bị loại khỏi môi
trường và đường lối chính trị lănh đạo Quốc Gia. Thành
phần thiểu số không thắng cử cũng cần thiết cho cuộc sống
dân chủ như nhóm người đắc cử đương quyền (G. Sartori, op.
cit., 59-78).
Người Anh thường
gọi thành phần thua cuộc, thiểu số đối lập, thất cử trong
cuộc bầu cử Quốc Hội vừa qua là Chính Phủ Trong Bóng Tối
(Shadow Government).
Chính Phủ Trong
Bóng Tối đang chờ để chuẩn bị ra ánh sáng lănh đạo Quốc
Gia trong nhiệm kỳ tới, với chương tŕnh hiệu năng hơn và
hấp dẫn hơn những ǵ giới đương nhiệm đang làm.
Thành phần đối
lập hành xử quyền đối lập của ḿnh bằng cách chỉ trích,
kiểm soát, thắng bớt, cân bằng, điều chỉnh chính hướng
lănh đạo Quốc Gia sao cho đường lối chính trị đó "thích
hợp và hiệu năng", mưu lợi ích cho xứ sở.
Ngay cả việc
thành phần đối lập phản đối hay cắt giảm ngân sách công
qũy hàng năm cũng đă là tiếng nói cảnh tỉnh cho "thích hợp
và hiệu năng" đối với đường lối và hoạt động của giới
đương nhiệm. Đó là chưa nói đến những ư kiến đồng thuận,
sửa đổi hay phản đối trên những lănh vực khác, đối nội
cũng như đối ngoại.
Với khả năng
trung hoà, hạn chế quyền lực Quốc Gia mà giới đương nhiệm
đang hành xử bằng những hoạt động của ḿnh, thành phần
thiểu số đối lập cộng tác tăng cường "hiệu năng" cho
nguyên tắc dân chủ và pháp trị để bảo toàn và nới rộng
thêm khuôn thước tự do của cá nhân (Gherig, Gewalenteilung
zwissen Regierung und parlamentarische Opposition, in
DVBL, 1971, 633s).
Sự hiện diện của
thành phần thiểu số đối lập là tiếng chuông cảnh tỉnh luôn
gióng lên bên tai rằng thời gian hành quyền của Chính Phủ
đương nhiệm được tính từng ngày một. Cuộc đời của Chính
Phủ đương nhiệm sẽ cáo chúng vào dịp tuyển cử tới, nếu họ
không tuân luật pháp, đi ngược lại nhu cầu và ước vọng của
dân chúng, nếu họ không quản trị hiệu năng và v́ lợi ích
chung, thay v́ thiên vị, bè phái như họ đang làm.
Xác tính được vai
tṛ trọng yếu không thể thiếu đó của thành phần thiểu số
đối lập trong thể chế dân chủ, Hiến Pháp 1949 CHLBĐ dành
cho thành phần đối lập khả năng thực hữu để "chỉ trích,
kiểm soát, thắng bớt, cân bằng, điều chỉnh chính hướng
Quốc Gia" đối đầu với các âm mưu lạm quyền lúc nào cũng có
đối với giới đương quyền.
Và đây là bằng
chứng: "Viện Bảo Hiến Liên Bang sẽ quyết định) trong
trường hợp bất đồng ư kiến hay nghi vấn về các vấn đề hợp
hiến hay bất hợp hiến giữa luật pháp Liên Bang hay luật
pháp của Tiểu Bang đối với Hiến Pháp hiện tại, hoặc giữa
luật pháp của Tiểu Bang với các đạo luật của Liên Bang,
nếu được Chính Phủ Liên Bang, Chính Phủ của một Tiểu Bang
hay 1/ 3 Nghị Sĩ Hạ Viện Liên Bang yêu cầu" (Điều 93, Hiến
Pháp 1949 CHLBĐ).
Đoạn văn "Chính
Phủ của một Tiểu Bang hay 1/3 nghị sĩ của Hạ Viện Liên
Bang yêu cầu" cho thấy Hiến Pháp 1949 CHLBĐ nâng cao khả
năng "đối lập" của thành phần thiểu số đối lập lên lằn mức
"khả thi".
Trong một Quốc
Gia Liên Bang như CHLBĐ hay Hoa Kỳ, thành phần đa số đang
chiếm đa số ghế trong Quốc Hội và lănh đạo Chính Phủ Liên
Bang. Nhưng thành phần thiểu số đối lập có thể đang lănh
đạo Chính Phủ ở một hay nhiều Tiểu Bang nào đó, cũng như
đang chiếm 1/3 số ghế trong Hạ Viện Liên Bang.
Hiến Pháp xác
định là mỗi khi có một Chính Phủ của một Tiểu Bang hay 1/3
nghị sĩ Hạ Viện Liên Bang yêu cầu là Viện Bảo Hiến sẽ
duyệt xét tính cách hợp hiến hay vi hiến của các đạo luật
mà giới đương quyền đưa ra.
Quyết định như
vậy là Hiến Pháp trao cho thành phần thiểu số đối lập khả
năng thực hữu kiểm soát tính các hợp hiến hay vi hiến các
luật pháp được ban hành và hoạt động của Chính Phủ cũng
như thành phần đa số trong Quốc Hội.
Nói cách khác
Hiến Pháp 1949 CHLBĐ đă trao cho thành phần đối lập có
thực quyền để thừa hành "quyền và nhiệm vụ" đối lập của
ḿnh, bênh vực quyền lợi cho xứ sở, bênh vực quyền và tự
do cho người dân.
Thành phần thiểu
số đối lập trong Hiến Pháp 1949 CHLBĐ không phải chỉ là
"nghị gù, nghị gật", và cũng không phải là nô bộc "vâng,
dạ", luôn luôn "nhất trí" của Đảng và Nhà Nước, trong thể
chế trong đó:
"Đảng là Bậc Thầy
không thể sai lầm về phương diện ư thức hệ; về phương diện
áp dụng thực hành, Đảng là sự Chính Xác Tuyệt Đỉnh; về
phương diện trí thức, Đảng là Thần Thánh" (R.G. Wesson,
Lenin’s Legacy: The Story of CPSU, in The Breznev Party,
Standford Univ., Standford, California, 1978, 255).
Như vậy, thiểu số
đối lập là yếu tố không thể thiếu để "chỉ trích, kiểm
soát, thắng bớt, cân bằng và điều chỉnh" cũng như là yếu
tố "dân chủ luân phiên" (Alternanzdemokratie) của nền dân
chủ đích thực, khác với lối hành xử độc tài, độc đảng, tự
tôn và tự phong tước cho ḿnh để cố bám lấy quyền lực
(Schneider- Zeh, Parlamentsrecht und Parlamentspraxis in
der Bundesrepublik Deutschland, Berlin - New York, 1989,
1063-1064).
Thiểu số đối lập
không có quyền tự do đối lập, không có dân chủ luân phiên,
sẽ không có dân chủ.
Sự hiện diện của
thành phần thiểu số đối lập là h́nh thức bảo vệ dân chủ và
làm cho "Dân Chủ Cầu Tiến, Dân Chủ Hiệu Năng" thay v́ "Dân
Chủ Ngủ Gà Ngủ Gật, Dân Chủ Bè Phái, Dân Chủ Đảng trị" và
"Dân Chủ Giả Dạng" (Gherig, op. cit., id.).
Nhưng tất cả
những ǵ cao đẹp vừa kể được Hiến Pháp giao cho thành phần
thiểu số đối lập để bảo vệ và làm cho dân chủ được phát
huy sẽ trở nên vô dụng, nếu Hiến Pháp không đứng ra bảo vệ
quyền tự do ngôn luận.
Và đó là những ǵ
Hiến Pháp 1949 CHLBĐ đă tiên liệu: "Mọi người đều có quyền
phát biểu tư tưởng của ḿnh bằng lời nói, chữ viết và mọi
phương tiện truyền thông khác, có quyền được thông tin, mà
không ai được cấm cản, từ những nguồn tin mà ai cũng có
thể biết được. Mọi hành vi cắt xén, kiểm duyệt đều không
thể được chấp nhận" (Điều 5, đoạn 1, Hiến Pháp 1949
CHLBĐ).
Không có quyền
bày tỏ ư kiến để "chỉ trích, kiểm soát, thắng bớt, cân
bằng, điều chỉnh", thực quyền Hiến Pháp dành cho, thành
phần thiểu số đối lập sẽ trở thành vô dụng.
c) Tự do ngôn luận và kiểm
soát hạn chế quyền lực.
Hai yếu tố vừa
được bàn đến, tự do bầu cử và tự do đối lập, trong thể chế
dân chủ không có mục đích ǵ khác hơn là tạo được một nhóm
người đại diện lănh đạo Quốc Gia nói chung và Chính Quyền
nói riêng được sự đồng thuận của đa số chính danh hoá cho
việc thừa hành quyền lực Quốc Gia, hành xử trong giới mức
hiến định và hiệu năng để bảo vệ người dân và đem lại lợi
ích chung cho xứ sở.
Nhưng trong thể
chế dân chủ, quyền lực Quốc Gia được trao cho các người
đại diện thừa hành phải được người dân, chủ nhân của quyền
lực tối thượng Quốc Gia luôn luôn kiểm soát và hạn chế,
nếu không chủ nhân của quyền lực Quốc Gia có thể trở thành
nô bộc cho giới cầm quyền, bị đàn áp và tước đoạt bởi
những người đại diện, thay v́ được họ phục vụ.
Đặc tính trước
tiên của các Hiến Pháp của các Quốc Gia dân chủ Tây Âu là
đặc tính bảo chứng (garantisme), áp dụng nhiều kỹ thuật
bắt buộc giới hành quyền đương nhiệm phải tuân theo, xác
định lằn mức không thể vượt qua cũng như những điều khoản
bắt buộc phải thi hành, để bảo vệ quyền và tự do của người
dân, cũng như định hướng đường lối cai trị hiệu năng và
không thiên vị. Nhưng điều chúng tôi muốn đề cập ở đây
không phải là nghiên cứu và b́nh luận những kỹ thuật hiệu
năng được áp dụng để bênh vực con người và tạo nên thể chế
dân chủ thực hữu (démocratie substantielle) trong các Hiến
Pháp vừa được đề cập (chúng tôi đă có dịp bàn đến trong
bài SOẠN THẢO VÀ TU CHÍNH HIẾN PHÁP).
Điều mà chúng tôi
muốn suy tư ở đây, liên quan đến quyền tự do ngôn luận
đang bàn, là tự do ngôn luận, yếu tố tối quan trọng để
chọn người đại diện lănh đạo quốc gia một cách dân chủ
thực sự và bảo đảm cho nền dân chủ cầu tiến và hiệu năng,
qua vai tṛ của thành phần đối lập, như đă nói.
Ngoài ra quyền tự
do ngôn luận được các Hiến Pháp dân chủ Tây Âu dành cho
dân chúng như là dụng cụ để kiểm soát hành vi của giới
đương quyền lănh đạo.
Ai trong chúng ta
cũng biết để tránh quyền lực tập trung vào tay một chủ thể
duy nhứt, vua trong thời quân chủ hay Đảng ở các Quốc Gia
Cộng Sản, các Quốc Gia dân chủ hiện nay phân chia quyền
lực Quốc Gia theo hàng ngang, lập pháp, hành pháp và tư
pháp. Các quyền lực Quốc Gia được chia như vậy độc lập, để
kiểm soát và cân bằng nhau (Checks and Balances) theo tinh
thần của Hiến Pháp Philadelphia 1787.
Ngoài ra cách
phân chia hàng ngang như vừa nói, các Hiến Pháp dân chủ
Tây Âu hiện nay c̣n phân chia quyền lực Quốc Gia theo hàng
dọc, từ trung ương đến địa phương, cộng đồng địa phương
(vùng, tỉnh, quận, tổ chức xă hội trung gian, công đoàn,
tổ chức kỷ nghệ và kinh tế).
Nói cách khác
Hiến Pháp đă trao cho các cộng đồng địa phương quyền tự do
ngôn luận để cộng tác xác định đường lối chính trị Quốc
Gia.
Tiếng nói của
cộng đồng điạ phương không phải là tiếng nói của người dân
địa phương chỉ liên quan đến nhu cầu và ước vọng dân chúng
sở tại, mà c̣n là tiếng nói của những người dân cư ngụ
trên một phần lănh thổ Quốc Gia bày tỏ ư kiến và đồng
thuận liên quan đến đường lối lănh đạo cho cả đất nước, để
kiểm soát, hảm thắng, định hướng và quyết định trợ giúp
giới lănh đạo đương quyền.
Đó là những ǵ
Hiến Pháp 1947 Ư giao phó cho người dân địa phương
quyền
đề xướng dự án luật Quốc Gia:
* "Quyền đề xướng luật pháp thuộc về Chính Quyền, mỗi
thành viên của Lưỡng Viện Quốc Hội và các cơ quan và tổ
chức được luật hiến pháp giao cho.
Dân chúng hành xử quyền đề xướng luật pháp, qua sự yêu cầu
của ít nhứt 50.000 cử tri, bằng một dự thảo luật viết
thành điều khoản" (Điều 71, Hiến Pháp 1947 Ư).
* "Hội Đồng Địa Phương Vùng) hành xử quyền lập pháp và
thiết định quy chế được giao cho địa phương và các vai tṛ
khác được Hiến Pháp và Luật Pháp quy trách cho. Hội Đồng
Địa Phương có thể tŕnh bày các dự thảo đến Lưỡng Viện
quốc Hội" (Điều 121, id.).
quyền triệu
tập trưng cầu dân ư, băi bỏ những đạo luật không thích ứng
với nhu cầu và ước vọng dân chúng: "Trưng cầu dân ư để băi
bỏ toàn diện hay một phần điều khoản luật pháp hoặc các
sắc lệnh có hiệu lực pháp định sẽ được đề xướng, khi có
50.000 cử tri hoặc 5 Cộng Đồng Địa Phương vùng yêu cầu"
(Điều 75, đoạn 1, id.).
quyền đại
diện của Cộng Đồng Địa Phương tham dự bầu cử Tổng Thống:
"Tổng Thống Cộng Hoà được Lưỡng Viện Quốc Hội bầu ra trong
phiên họp chung của các thành viên.
Mỗi Cộng Đồng Địa Phương Vùng có ba đại diện được Hội Đồng
Vùng tuyển chọn tham dự cuộc bỏ phiếu, thế nào cho các
thành phần thiểu số cũng được đại diện" (Điều 83, đoạn 1
và 2, id.)
quyền thay
đổi và bổ túc Hiến Pháp: "Các luật về sửa đổi Hiến Pháp và
các luật hiến pháp khác được mỗi Viện Quốc Hội áp dụng đều
phải được Quốc Hội bỏ phiếu tán đồng qua hai cuộc bỏ phiếu
trong khoản thời gian không dưới ba tháng. Các luật vừa kể
phải được tán đồng của mỗi Viện Quốc Hội với đa số tuyệt
đối (50%+1 phiếu) ở lần bỏ phiếu thứ hai.
Các luật trên có thể được đưa ra trưng cầu dân ư, nếu
trong ṿng 3 tháng sau ngày công bố có 1/5 nghị sĩ của một
Viện quốc Hội, 50.000 cử tri hoặc 5 Cộng Đồng Địa Phương
Vùng yêu cầu" (Điều 138, đoạn 1 và 2, id.).
quyền các vị
Chủ Tịch Cộng Đồng Địa Phương phải được mời tham dự các
phiên họp của Nội Các Chính Phủ (Temistocle Martines,
Lineamento di diritto regionale, Milano, 1997, 99).
Nói tóm lại, tất
cả những kỹ thuật giới hạn và dành quyền hạn rộng rải cho
nhiều chủ thể khác nhau trong Cộng Đồng Quốc Gia với quyền
tự do ngôn luận là dụng cụ, Hiến Pháp không có mục đích ǵ
khác hơn là quy trách, kiểm soát và hạn chế những ai đại
diện người dân hành xử quyền lực Quốc Gia thay cho họ, để
bảo đảm việc tôn trọng và thực thi các quyền bất khả xâm
phạm của con người và hiệu năng hoạt động của giới hành
quyền, theo thể thức dân chủ và cho mọi thành phần dân
chúng có quyền và có phương tiện tham dự thiết thực vào
đường lối chính trị lănh đạo Quốc Gia.
Dân chủ, có nghĩa
là người dân là chủ nhân quyền lực Quốc Gia bất cứ lúc
nào, trước khi, đang khi và sau khi trao quyền cho người
đại diện. Bất cứ lúc nào Hiến Pháp cũng phải tiên liệu cho
người dân có phương tiện, và quyền tự do ngôn luận là
phương tiện thiết yếu không thể thiếu, để góp phần tích
cực để phát huy và hoàn hảo hóa chính hướng, cũng như hảm
thắng, cắt bớt, kiểm soát hay khai trừ trong giới mức hiến
định, mọi lạm quyền chống lại phương thức hành xử thiếu
hiệu năng, bè phái và không tôn trọng nhân vị con người.
d) Tự do ngôn luận, quyền
tự vệ của người dân.
"Bất cứ ai tạm
thời bị bắt giam v́ bị nghi ngờ có hành vi phạm pháp, nội
trong ngày hôm sau, đều phải được dẫn đến trước quan toà.
Vị quan toà phải thông báo cho đương sự biết lư do bị bắt
giam, phải nghe đương sự tŕnh bày hay làm cách nào để
đương sự có thể biện minh. Sau đó quan toà hoặc phải đưa
ra trác án giam giữ bằng chữ viết hoặc phải ra lệnh phóng
thích tức khắc" (Điều 104, đoạn 3 Hiến Pháp 1949 CHLBĐ).
Điều khoản vừa
được trích dẫn cho thấy tầm quan trọng của quyền tự do
ngôn luận trong việc bảo vệ quyền tự do của người dân,
"Quan toà... phải nghe đương sự tŕnh bày hay làm cách nào
để đương sự có thể biện minh".
Cũng vậy: "Mọi
người có quyền hành xử quyền của ḿnh ở toà án để bảo vệ
chính ḿnh và lợi thú chính đáng của ḿnh. Quyền tự vệ là
quyền bất khả xâm phạm ở bất cứ t́nh trạng và đẳng cấp nào
trong tiến tŕnh xử án. Đối với những ai không có phương
tiện, Quốc Gia có bổn phận thiết lập ra các cơ quan,
phương tiện để họ có thể hành xử để bênh vực ḿnh trước
bất cứ phiên toà nào" (Điều 24, đoạn 1,2 và 3 Hiến Pháp
1947 Ư quốc).
"Quốc Gia có bổn
phận thiết lập ra các cơ quan, phương tiện" để họ hành xử,
điều đó cho thấy không những quốc Gia đứng ra tuyên bố
"... nhận biết và bảo vệ các quyền bất khả xâm phạm của
con người..." (Điều 2 Hiến Pháp 1947 Ư Quốc), mà c̣n quy
trách cho chính ḿnh phải tạo các phương tiện cần thiết để
bảo đảm cho các quyền căn bản của con người được thực hiện
và được bảo vệ cho tồn tại, trong đó quyền tự do ngôn luận
là một.
Không có tự do
ngôn luận, người dân bị tước đoạt quyền tự vệ, một trong
những quyền căn bản của con người.
Và trước toà án:
"Trước
toà
án, mọi người có quyền phải được các thẩm phán lắng nghe
theo thể thức luật định" (Điều 103, đoạn 1, Hiến Pháp 1949
CHLBĐ.).
C̣n nữa, trong
cuộc sống thường nhật, ai cảm thấy các quyền tự do của
ḿnh bị cơ chế Quốc Gia xúc phạm, có thể đệ đơn tố cáo:
"Ai
thấy các quyền của ḿnh bị cơ quan công quyền vi phạm, có
thể đệ đơn tố cáo với cơ quan tư pháp. Bởi v́ không có một
cơ quan thẩm quyền nào khác hơn là thẩm quyền của quyền tư
pháp thường nhiệm" (Điều 19, đoạn 4, id.).
Quyền tự do ngôn
luận của người dân trong thể chế dân chủ được quan niệm
dưới h́nh thức tiêu cực trong các Hiến Pháp dân chủ Tây
Âu, như là dụng cụ để bảo vệ công chính cho người dân bị
t́nh nghi phạm pháp, hay trong trường hợp bị cơ quan công
quyền làm tổn thương các quyền tự do của ḿnh, như chúng
ta vừa thấy.
Quyền tự do ngôn
luận được các Hiến Pháp Tây Âu c̣n được quan niệm tích cực
hơn, tự do phát biểu tư tưởng của ḿnh để góp phần xây
dựng Quốc Gia, sữa chửa những thiếu sót, bất toàn và đề
nghị những phương thức, mục đích hữu hiệu và lợi ích hơn
cho đất nước:
"Mỗi
người
đều có quyền đệ đơn, tự ḿnh hay cùng hợp tác với những
người khác, thỉnh nguyện thư hoặc kháng thư đến cơ quan
công quyền có thẩm quyền cũng như đến cơ quan đại diện dân
cử " (Điều 17 Hiến Pháp 1949 CHLBĐ).
Người dân hành xử
quyền tự do ngôn luận của ḿnh một cách có hiệu quả hơn,
nếu họ cùng chung hành xử quyền tự do đó với người khác.
Đó là những ǵ
Hiến Pháp 1947 Ư Quốc, không những không cấm cản mà c̣n
khuyến khích người dân của ḿnh hành xử quyền tự do ngôn
luận, tham gia vào các tổ chức chính đảng:
"Mọi
công
dân đều được tự do gia nhập thành chính đảng để cộng tác
theo phương thức dân chủ xác định chính hướng Quốc Gia"
(Điều 49, Hiến Pháp 1947 Ư Quốc).
Nói tóm lại,
không có tự do ngôn luận sẽ không có dân chủ, các quyền
căn bản của con người không được bảo đảm và người dân
không có phương tiện tối quan trọng để góp phần hữu hiệu
và hoàn hảo hóa đường lối chính trị lănh đạo Quốc Gia.
Nên tham gia bầu
cử hay không, câu hỏi hàm chứa ư nghĩa của một câu hỏi
khác: người dân Việt Nam đang được hưởng quyền tự do ngôn
luận, tự do lập hội và gia nhập hội, các chính đảng có
được tự do hoạt động, có thời gian chuẩn bị tự do tạo ư
kiến và sự đồng thuận của quần chúng, để bầu cử hay không?
Nếu câu trả lời
cho những điều kiện tiên quyết vừa kể là câu trả lời phủ
quyết, tự nó cũng là câu trả lời phủ quyết của việc tham
gia bầu cử
Nguồn:
http://www.lenduong.net
|