Hiến
pháp 1946 vẫn c̣n giữ
nguyên giá trị của nó, nhưng là những
giá trị thiếu sót
Nguyễn
Học Tập
(VNN xin được giới thiệu
bài viết "Hiến Pháp 1946 Vẫn C̣n Giữ Nguyên
Giá Trị Của Nó, Nhưng Là Những Giá Trị
Thiếu Sót" nhân CSVN đang chuẩn bị vận động
bầu cử Quốc
Hội vào ngày 20-05-2007 tới đây, để mọi
người suy
nghĩ có nên bầu cử dưới một Hiến Pháp có
giá trị thiếu sót như vậy không. Bởi lẽ Hiến
Pháp 1946 là tiền thân của các biến thể,
trong đó có Hiến Pháp 1992 của CSVN đang áp
dụng hiện nay.)
Nhân đọc trên Net
bài phỏng vấn Luật Sư Trần Thanh Hiệp, "HĂY
TRẢ LẠI HIẾN
PHÁP 1946 CHO GIÁ TRị CỦA NÓ" do đài RFA
thực hiện và bài "VẬN ĐỘNG MộT HIẾN PHÁP CHO
VIỆT
NAM" của Gs Nguyễn Quang Duy (Úc), là những
bài
góp ư với Phó Giáo Sư Tiến Sĩ Phạm Duy
Nghĩa, Giáo Sư Đại Học Quốc Gia Hà Nội, được
đăng
trên báo Tuổi Trẻ online, người viết cũng xin
được
góp thêm một vài ư kiến để nhiều người
cùng suy nghĩ thêm cho tương lai tốt đẹp hơn
của đất nước.
Giáo sư Phạm Duy Nghĩa của Đại
Học Quốc Gia Hà Nội trên báo Tuổi Trẻ Online (www.tuoitre.com.vn)
ngày
thứ
sáu
02.09.2005
đă
tuyên
bố
như
sau:
"Hiến Pháp
năm 1946 vẫn
c̣n giữ nguyên giá trị cho một xă hội
dân chủ pháp quyền ở Việt Nam".
Về giá trị pháp
lư và giá trị chính trị, là một văn
bản bất hợp pháp v́ không được ban hành một
cách hợp pháp và là một văn bản có
giá trị chính trị, dân chủ "bánh vẽ", LS
Trần Thanh Hiệp đă phân tích và chứng minh
chí lư với những kinh nghiệm về luật học thâm
niêm của một luật gia (trg. 2-3), thiết tưởng
không cần lập
lại.
Cũng vậy, các giai đoạn tiến
tŕnh lịch sử soạn thảo, ra mắt, sửa đổi, áp
dụng
tùy hỷ Hiến Pháp 1946, thậm chí từ đó biến
thể thành các Hiến Pháp 1959, 1980,1992 CSVN
với "cái
đuôi
chuyên
chính" (trg 4), đă được GS
Nguyễn Quang Duy thu thập tài liệu và tŕnh
bày một cách mạch lạc (trg. 2-7) trong bài
viết
dài 13 trang của ông.
Và rồi GS Nguyễn Quang Duy
c̣n cho thấy dụng ư nguy hại độc tài của của
Hồ
Chí Minh qua các điều khoản:
Điều 49: "Quyền hạn của Chủ
Tịch
nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà:
a) Thay mặt cho nhà Nước.
b) Giữ quyền chỉ huy quân
đội toàn quốc, chỉ dịnh các chức tướng soái
trong
lục quân, hải quân, không quân.
c) Kư sắc lệnh bổ nhiệm thủ
tướng, nhân viên Nội các và nhân
viên cao cấp thuộc các cơ quan chính phủ...
Và điều 50: "Chủ tịch
nhà nước không phải chịu một trách nhiệm
nào, trừ khi phạm tội phản quốc".
Điều nầy quả đúng "đặt chủ
tịch lên trên cả hiến pháp hay luật pháp
quốc
gia..." (lời của GS Nguyễn Quang Duy).
GS Nguyễn Quang Duy c̣n cho
biết những sai lạc hoặc thiếu sót nguy hại
khác, khiến
cho "Hiến Pháp 1946 vẫn giữ nguyên giá trị
của
nó", dĩ nhiên là giá trị của Hiến
Pháp 1946, trong hoàn cảnh đất nước c̣n bị
đô hộ và nội chiến, do Phó Giáo Sư Tiến Sĩ
Phạm Duy Nghĩa Đại Học Hà Nội đề nghị. Hiến
Pháp như vậy
không thể là Hiến Pháp có giá trị
thiết định Thể Chế Nhân Bản và Dân Chủ, Tự Do
của
một Quốc Gia văn minh hiện đại trong Cộng Đồng
Quốc Gia Nhân Bản
và Dân Chủ trên thế giới.
Điều đó cho thấy càng
không thể chấp nhận những bản sao biến thể của
nó,
có dịp cho Hiến Pháp 1959, 1980, 1992 CSVN đặt
"Đảng
và Chủ Tịch Đảng trên cả hiến pháp và luật
pháp quốc gia ", như GS Nguyễn Quang
Duy nói.
Như vậy, giả sử CSVN có chịu
bỏ đi điều 4 Hiến Pháp 1992 hiện hành (và cả
điều
6, dân chủ tập trung nữa) đi nữa, vẫn chưa
phải là những
ǵ chúng ta mơ ước cho đất nước.
Người viết những ḍng dưới
đây không có ư lập lại những ǵ LS
Trần Thanh Hiệp đă phê b́nh và GS Nguyễn
Quang Duy đă tŕnh bài trong bài viết của
ông, mà ghi lại những nét đặc thù của một
vài Hiến Pháp Tây Âu, trong đó con
người được đối xử xứng đáng với nhân phẩm của
ḿnh,
khuôn mẫu cho xă hội tương lai, sau những ǵ
đang
tha hóa và đê tiện hoá con người như
nô lệ và súc vật, dưới Hiến Pháp hiện
hành của XHCNVN.
1- Trong Hiến Pháp 1946
không có con người.
Có lẽ chúng ta
nói quen miệng "Bản Tuyên Ngôn Nhân Quyền
và Quyền Công Dân Cách Mạng Pháp Quốc
1789 ", hay "Bản Tuyên Ngôn Quốc Tế
Nhân
Quyền của LHQ", nhưng không mấy khi
chúng ta suy nghĩ
tại người Pháp làm Cách Mạng lật đổ chế độ
Quân Chủ để lập nên nền Cộng Hoà Dân Chủ,
không chỉ đề cập đến "Quyền Công Dân",
chống
lại "Bổn Phận Thần Dân" phải phục vụ
đối với vua,
mà lại c̣n lo đề cập đến "Nhân Quyền"
hay
quyền con người, có tính cách phổ quát,
có giá trị cho và đối với bất cứ ai, bất cứ ở
đâu và bất cứ lúc nào, đều phải được
tôn trọng và bắt buộc phải tôn trọng?
Cũng vậy, tại sao LHQ không đề
cập đến "Bản Tuyên Ngôn Quốc Tế Quyền Công
Dân", mà lại tuyên bố "Bản Tuyên
Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền"?
Trong bài viết "CON NGƯỜI HAY
NGƯỜI CÔNG DÂN" chúng tôi đă có
dịp bàn luận với nhiều chi tiết hơn.
Ở đây chúng tôi
chỉ muốn lập lại là khi đề cập đến "Con
Người"
là chúng ta nói đến bất cứ ai có bản
tính nhân loại của họ xác định họ là người,
không phân biệt chủng tộc, phái giống, ngôn
ngữ, tôn giáo, chính kiến, điều kiện cá
nhân hay xă hội, đều có phẩm giá và
các quyền căn bản bất khả xâm phạm phải được
tôn
trọng, đối với bất cứ ai, bất cứ lúc nào và
bất cứ
ở đâu.
Trái lại, khi chúng ta
đề cập đến người "Công Dân" là
chúng ta đề cập đến người dân tùy thuộc vào
một thể chế và cơ chế tổ chức Quốc Gia cá
biệt, quyền
và bổn phận của họ tùy thuộc vào định chế của
Quốc
Gia liên hệ thiết định cho mới có, theo định
nghĩa Quốc
Gia trong chính trị học: "là một cộng đồng
dân
tộc, cùng sống trên một lănh thổ, được tổ
chức theo
một định chế.
Hiểu "người công dân"
theo
ư
nghĩa
chúng
ta
vừa
kể,
quyền
và
bổn
phận
của
họ
tùy
thuộc
vào
tổ
chức
quốc
gia
thiết
định
cho,
chúng
ta
sẽ
hiểu rằng, địa vị, quyền và bổn phận của "người
công
dân" phải do tổ chức Quốc Gia của họ
thiết định
cho mới có.
Như vậy, nếu Quốc Gia có quyền
thiết định địa vị, quyền và nhiệm vụ của "người
công
dân", th́ Quốc Gia cũng có quyền không
thiết định hay thiết định ít hay nhiều tùy hỷ.
C̣n nữa, nếu một người
nào đó không phải là "người công
dân" của Quốc Gia, người ngoại quốc hay
người không
chấp nhận định chế và cơ chế Quốc Gia đang
bàn,
thành phần ly khai chẳng hạn, sẽ là người
không
có được một địa vị, quyền và bổn phận nào đối
với
Quốc Gia.
Quốc Gia có thể coi họ bằng
không, họ có thể bị tiêu diệt.
Hiểu như vậy, chúng ta hiểu
được tại sao Cách Mạng Pháp 1789 nêu lên bản "Tuyên
Ngôn
Nhân
Quyền
và
Quyền
Công
Dân"
cũng như tổ chức LHQ tuyên bố trước thế giới "Bản
Tuyên
Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền" để nói lên
tính cách phổ quát điạ vị và quyền hạn của
con người phải được tôn trọng, không chỉ hạn
hẹp trong
khuôn viên và tùy thuộc vào tổ chức
Quốc Gia.
Với những ư nghĩa vừa kể, con
người đă là con người với nhân phẩm và
các quyền bất khả xâm phạm của ḿnh có trước
Quốc Gia, trước khi Quốc Gia được nhiều con
người cùng đồng
thuận nhau đứng ra thiết lập nên.
Đó là ư nghĩa
của điều 2 Hiến Pháp 1947 Ư Quốc:
"Quốc Gia
nhận biết (riconosce)
và bảo đảm (garantisce) các quyền bất khả
xâm phạm
của con người, con người như cá nhân hay con
người như
thành phần xă hội, nơi mỗi cá nhân
phát triển hoàn hảo con người của ḿnh"
(Điều
2, Hiến Pháp 1947 Ư Quốc).
Động từ "nhận biết" (hay
"nhận
ra", riconoscere), là động từ kép, gồm "ri":
một
lần nữa; "conoscere": biết.
Như vậy, riconoscere là biết
lại thêm một lần nữa, những ǵ đă có trước
ḿnh: nhân phẩm và các quyền bất khả
xâm phạm của con người là những ǵ đă hiện
hữu nơi con người, trước khi Quốc Gia được
thành lập.
Một khi Quốc Gia mở mắt chào
đời, nh́n thấy, nhận ra con người với nhân
phẩm và
quyền hạn của mỗi người có trước ḿnh, như là
những giá trị cao cả của các chủ nhân đứng ra
tạo
dựng nên ḿnh (dân chủ), và do đó tổ
chức Quốc Gia có bổn phận "nhận biết"
và "bảo
đảm".
Điều vừa kể cho thấy tại sao
Hiến
Pháp 1949 Cộng Hoà Liên Bang Đức tuyên bố
nhân phẩm con người ngay ở điều khoản đầu tiên
của Hiến
Pháp:
"Nhân phẩm
con người bất khả
xâm phạm" (Điều 1, đoạn 1 Hiến Pháp Cộng
Hoà
Liên Bang Đức). Và tiếp tục tuyên bố và quy
trách cho cơ chế Quốc Gia phải thực thi và bảo
vệ
liên tiếp trong 19 điều khoản kế tiếp, trước
khi định nghĩa thể
chế và phương thức tổ chức cơ chế Quốc Gia như
là
môi trường và phương tiện thích hợp để bảo đảm
và thực thi những ǵ ḿnh tuyên bố về con
người:
"Các quyền
căn bản được kể sau
đây có giá trị bắt buộc đối với lập pháp,
hành pháp và tư pháp, là những quyền
bắt buộc trực tiếp" (Điều 1, đoạn 3,
id.).
Như vậy, trong tổ chức Quốc Gia,
mỗi
cá nhân, trước khi là "người công dân"
của
Quốc
Gia
đang
bàn
(Ư
Quốc,
chẳng
hạn),
cá
nhân
đó
đă
là con người với
nhân phẩm và các quyền bất khả xâm phạm
của
ḿnh, mà Quốc Gia có nhiệm
vụ "nhận
biết" và "bảo đảm".
Hiểu như vậy, chúng ta hiểu
được tại sao khi đề cập đến các quyền tự do cá
nhân, trong các Hiến Pháp văn minh Tây
Âu, người ta đề cập đến phẩm giá và các
quyền bất khả xâm phạm của con người. Kế đến
Hiến Pháp mới
đề cập đến các quyền công dân gồm một số tự do
chính trị (droits politiques) và tự do kinh tế
(droits
économiques).
các quyền của
con người (công
dân
hay
không
công
dân
cũng
vậy):
* "Quốc Gia nhận biết và
bảo đảm các quyền bất khả xâm phạm của con
người..."
(Điều 2, Hiến Pháp 1947 Ư Quốc)
* "Tự do cá nhân
là quyền bất khả xâm phạm..." (Điều 13,
id.)
* "Mọi người đều có quyền
tự do tuyên xưng đức tin của ḿnh dưới bất
cứ h́nh
thức nào, cá nhân hay tập thể, tự do truyền
bá và tự do cử hành phụng tự nơi riêng tư
cũng như công cộng, miễn là không trái với
thuần phong mỹ tục" (Điều 19, id.).
* "Mọi người đều có quyền
tự do phát biểu tư tưởng của ḿnh bằng lời
nói,
bằng chữ viết và mọi phương tiện truyền
thông khác..."
(Điều
21,
đoạn
1
id.).
* "Mọi người đều có quyền
khởi tố trước công lư để bảo vệ quyền và lợi
thú chính đáng của ḿnh" (Điều 24, đoạn
1, id.)...
và các quyền
"người
công dân" (hay tự do chính trị và
tự
do kinh tế)
* "Mọi công dân
có quyền tự do gia nhập chính đảng, để cùng
nhau
cộng tác theo phương thức dân chủ định đoạt
đường lối
chính trị quốc gia " (Điều 49, id.)
* "Mọi công dân thuộc
phái nầy hay phái kia đều có quyền được thu
nhận
vào các chức vụ công và các chức vụ
được tuyển chọn, với các điều kiện đồng đều
như nhau, tùy
theo các tiêu chuẩn luật định" (Điều 51,
đoạn 1,
id.)...
* "Mọi công dân, nam
cũng như nữ, đến tuổi trưởng thành đều là
những cử tri..."
(Điều
48,
đoạn
1,
id.)
Sau khi t́m hiểu sự
khác biệt giữa quan niệm "con người"
và "người
công
dân" như vừa kể, chúng ta thử đọc
một
số điều khoản Hiến Pháp 1946 được chính GS
Nguyễn Quang
Duy trích dẫn trong bài viết trên của ông
(trg. 4):
"Mọi công dân
đều
b́nh đẳng trước pháp luật, đều được tham gia
chính
quyền và được tùy theo tài năng và đức hạnh
của ḿnh" (Điều 7, Hiến Pháp 1946),
"Công dân
Việt Nam
có quyền: Tự do ngôn luận - Tự do xuất bản -
Tự do tổ chức
và hội họp - Tự do tín ngưỡng - Tự do cư trú
- đi
lại trong nước và ngoài nước" (Điều 10,
id.).
"Tư pháp chưa
quyết định
th́ không được bắt bớ và giam cầm người công
dân Việt Nam. Nhà ở và thư tín của
công dân Việt Nam không ai được xâm phạm một
cách trái luật pháp" (Điều 11, id.)
Đọc những điều vừa kể của Hiến
Pháp 1946, chúng ta có thể đặt dấu hỏi:
"Mọi công dân
đều
b́nh đẳng trước pháp luật..." (Điều 7,
Hiến
Pháp 1946), nếu người đương cuộc không phải là
người công dân th́ sao?
Sẽ bị thiệt tḥi, thấp
kém, ngược đăi chăng? Người ngoại quốc đến
Việt Nam, lở
có xung đột với "người công dân" Việt
Nam,
chắc chắn sẽ phải bị thua thiệt và xét xử oan
ức chăng?
Tư tưởng vừa kể trái với điều
21, đoạn 1, Hiến Pháp 1947 Ư Quốc, được trích
dẫn
ở trên,
"Mọi người
đều có quyền khởi
xướng hành động tư pháp để bảo vệ quyền và
lợi
thú chính đáng của ḿnh", không
cứ ǵ phải là "công dân Việt Nam".
"Công dân
Việt Nam
có quyền tự do ngôn luận...tự do tín ngưỡng,
tự do
cư trú..." (Điều 10, id.).
Như vậy ai không phải là
"công dân" Việt Nam sẽ phải là những
người
câm, hoặc bị bịt miệng, không được cho phép
thờ
phương Trời Đất, Thần Thánh, Tiên Phật và bị
c̣ng tay chân không được di chuyển và cũng
không có quyền được ở trong nhà chăng?
Những ǵ vừa nói,
trái với tinh thần điều 19, Hiến Pháp 1947 Ư
Quốc,
bảo đảm cho
"Mọi người
đều có quyền tự do
tuyên xưng đức tin... tự do truyền bá và cử
hành phụng tự...".
"Nhà ở và thư
tín của công dân Việt Nam không ai được
xâm phạm một cách trái luât pháp"
(Điều 11, id.), c̣n nhà cửa và thư tín của
con người không phải là công dân Việt Nam ai
muốn xông vào cũng được, và thư tín ai muốn
bốc ra coi cũng được sao?
Tự do gia cư vừa kể trái với
điều 14, đoạn 1 Hiến Pháp 1947 Ư Quốc, bảo đảm
"Tự do gia cư
bất khả xâm phạm"
cho
tất
cả
mọi
người,
không
nhứt
thiết ǵ phải là "người
công
dân
Việt
Nam".
Qua những ví dụ vừa kể
và những trích dẫn ở trên của Hiến Pháp 1947
Ư Quốc, chúng ta thấy rằng các Hiến Pháp
Nhân Bản và Dân Chủ Tây Âu "nhận biết
và bảo đảm" hầu hết các quyền dân sự cho
tất cả
mọi người, người công dân hay không công
dân cũng vậy, để bảo đảm nhân phẩm và các
quyền bất khả xâm phạm của tất cả, với những
lời tuyên bố
"Mọi người
đều có quyền..."
Trong khi đó các Hiến
Pháp chỉ dành lại các quyền tự do chính trị
(thành lập và tham gia chính đảng, quyền bầu
cử
và ứng cử, quyền được tham dự vào các cơ chế
quốc
gia, hướng dẫn, kiểm soát và quản trị đường
lối
lănh đạo quốc gia...) và các quyền tự do kinh
tế,
với các lời phát biểu được khởi đầu bằng
"Mọi công dân
có
quyền..."
Hiểu như vậy, chúng ta hiểu
được thấm thía ư nghĩa của tựa đề bài viết LS
Trần
Thanh Hiệp, "Hăy trả lại Hiến pháp 1946 cho
giá
trị đích thực của nó".
Giá trị đích thực của
Hiến pháp 1946 chỉ đến đó.
Chúng ta không thể mơ
ước một Quốc Gia Việt Nam văn minh tôn trọng
nhân bản
và dân chủ trong tương lai sẽ được tổ chức,
dựa trên
định chế của Hiến Pháp không có con người như
vừa
kể.
Và càng không thể
có ảo vọng một Quốc Gia được định chế bằng các
Hiến
Pháp biến thể từ Hiến Pháp 1946, các Hiến
Pháp 1959, 1980, 1992 CSVN, dù có bỏ điều 4,
điều
6 hay điều ǵ khác cũng vậy.
Tất cả các Hiến Pháp
CSVN, kể cả Hiến Pháp 1977 Cộng Hoà Liên
Bang
Sô Viết là những Hiến Pháp trong đó
không có con người hay trong đó con
người bị
xem như thú vật.
Hay nói như linh mục tiến sĩ
ḍng tên, cha Hortz S.J.:
"Trong ư thức
hệ Cộng Sản
không có con người" (Hortz S.J., La
Nuova Costituzione
Sovietica, in Civiltà Cattolica, 1978, 40).
Một Quốc Gia với Hiến Pháp như
vậy, không thể nào là một Quốc Gia văn minh,
sống
trong thân hữu và hoà b́nh trong cộng đồng
quốc tế với những quốc gia khác.
Điều kiện tiên quyết đó
đă được Hiến Pháp 1949 Cộng Hoà Liên Bang
Đức long trọng tuyên bố và khẳng định ở điều
khoản đầu
tiên của Hiến Pháp, như một điều luật bắt buộc
đối với bất
cứ quốc gia nào muốn sống hoà b́nh và
thân hữu với dân tộc Đức và với các cộng đồng
văn minh của nhân loại.
"Nhân phẩm
con người bất khả
xâm phạm. Bổn phận của mọi quyền lực quốc
gia là
kính trọng và bảo vệ nhân phẩm đó.
Như vậy dân tộc Đức nhận
biết các quyền bất khả xâm phạm và bất khả
nhượng
của con người như là nền tảng của mọi cộng
đồng nhân loại,
của hoà b́nh và công chính trên
thế giới" (Điều 1, đoạn 1 và 2 Hiến Pháp
1949 Cộng
Hoà Liên Bang Đức).
2 - Hiến Pháp 1946 thiếu
tính cách bảo chứng.
Hiến Pháp là văn bản
nền tảng thiết định thể chế tổ chức Quốc Gia.
Bởi đó
chúng ta hiểu được tại sao người Đức không gọi
Hiến
Pháp 1949 Cộng Hoà Liên Bang Đức hiện hành
của họ là Hiến Pháp (Konstitution), mà lại gọi
bằng bản văn Luật Lệ Nền Tảng (Grundgesetz).
Văn Bản Nền Tảng đó,
ngoài ra thiết định thể chế tổ chức Quốc Gia,
c̣n phải
mang một đặc tính khác không thể thiếu, đó
là tính cách bảo chứng, bảo đảm
các quyền tự do bất khả xâm phạm của con người
sống dưới
cơ chế Quốc Gia.
Đó là những ǵ
GS Giovanni Sartori, một Giáo sư chính trị học
lỗi lạc
của Ư đă nêu lên:
"Hiến Pháp
được người dân
Tây Âu luôn luôn hiểu đồng nghĩa là một
văn bản bảo chứng (Garantismo).
Ở Tây Âu, người
dân đ̣i buộc phải có Hiến Pháp, nếu muốn
thiết lập Quốc Gia. Hiến Pháp đối với họ là
một văn bản
nền tảng, hay một loạt các nguyên tắc cơ bản
thể hiện một
thể chế tổ chức Quốc Gia, nhằm giới hạn mọi
cách xử dụng quyền
hành tự tung tự tác tùy hỷ và bảo đảm một
Chính Quyền có giới hạn" (Giovanni
Sartori, Elementi
di teoria politica, III ed., Il Mulino,
Bologna 1995, 18).
Dựa trên đặc tính bảo
chứng mà Giáo Sư Sartori nêu lên,
chúng ta thử đọc lại các điều khoản mà
chúng ta có được do Giáo Sư Nguyễn Quang Duy
trích dẫn trong bài viết và than phiền Hiến
Pháp 1946 là một Hiến Pháp thiếu sót đưa
đến độc tài hay "đặt Đảng và Chủ Tịch Đảng
trên
cả Hiến Pháp và Luật Pháp Quốc Gia "
(trg.6).
"Tất cả mọi
công dân Việt
Nam đều ngang quyền về mọi phương diện:
chính trị, kinh tế, văn
hóa" (Điều 6, Hiến Pháp 1946)
"Công dân
Việt Nam
có quyền: Tự do ngôn luận - Tự do xuất bản -
Tự do tổ chức
và hội họp - Tự do tín ngưỡng - Tự do cư
trú, đi
lại trong nước và ngoài nước" (Điều 10,
id.)...
Đọc th́ nghe thật êm
tai, nhưng nếu "công dân" không
ngang
quyền về mọi phương diện:
chính trị, kinh tế, văn
hoá..., không được "Tự do ngôn luận
- Tự do
xuất bản - Tự do tổ chức và hội họp - Tự do
tín ngưỡng...",
ai
chịu
trách
nhiệm?
Ai làm ǵ được ai, nếu
Hiến Pháp không quy trách ai là chủ thể đừng
ra chịu trách nhiệm trước Hiến Pháp tiên khởi
và trước luật pháp sau nầy?
Đó là những ǵ
Hiến Pháp 1949 Cộng Hoà Liên Bang Đức đă
đứng ra tiền liệu ngay ở điều khoản đầu tiên,
ngay cả trước khi
kể ra những quyền, mà ḿnh sẽ quy trách cho ai
chịu trách nhiệm:
"Nhân phẩm
con người bất khả
xâm phạm. Bổn phận của mọi quyền lực quốc
gia là
kính trọng và bảo vệ nhân phẩm đó.
"Các quyền sẽ được kể sau
đây là những quyền bắt buộc đối với lập
pháp,
hành pháp và tư pháp, như là quyền
có giá trị bắt buộc trực tiếp" (Điều 1,
đoạn 1
và 3 Hiến Pháp 1949 Cộng Hoà Liên Bang Đức).
"...như là quyền có
giá trị bắt buộc trực tiếp", điều đó có
nghĩa
là nếu con người (bất cứ ai, công dân hay
không công dân Đức cũng vậy) bị vi phạm nhân
phẩm và các quyền con người của ḿnh, đều
có thể đứng ra đ̣i buộc tổ chức Quốc Gia, bị
bắt buộc
trước Hiến Pháp và luật pháp, phải đền bù
và tạo điều kiện thuận lợi để con người được
hưởng những
ǵ Hiến Pháp đứng ra bảo vệ:
"Ai bị cơ
quan công quyền
làm tổn thương đến các quyền của ḿnh, đều
có thể đứng ra tố cáo với cơ quan tư pháp.
Bởi
v́ không có thẩm quyền nào khác hơn
là thẩm quyền tư pháp thường nhiệm"
(Điều 19, đoạn 4
Hiến Pháp 1949 Cộng Hoà Liên Bang Đức).
Những ǵ chúng
tôi vừa trích dẫn của Hiến Pháp 1949 Cộng
Hoà Liên Bang Đức cho thấy trong cơ chế Quốc
Gia, giới
hành xử quyền lực không thể muốn làm ǵ
th́ làm, làm hay không làm cũng được.
Cơ chế Quốc Gia bị Hiến Pháp
quy trách bắt buộc phải "kính trọng và bảo
vệ"
các
quyền
bất
khả
xâm
phạm
của
con
người,
đứng
ra
chịu
trách
nhiệm
trực
tiếp
và
là
chủ
thể
bị
quy
trách
có
thể
bị
con
người
tố
cáo
trước pháp
luật, trước Quốc Hội và trước Viện Bảo Hiến.
Người dân trong thể chế
Nhân Bản và Dân Chủ của Cộng Hoà Liên
Bang Đức phải được hưởng mọi quyền hạn của
ḿnh, và tổ
chức Quốc Gia phải đứng ra chịu trách nhiệm,
nếu nhân phẩm
và quyền tự do của người dân bị tổn thương.
Kinh nghiệm qúy giá của
Hiến Pháp 1949 Cộng Hoà Liên Bang Đức vừa kể
cho
chúng ta thấy đâu là lổ hỏng thiếu sót của
Hiến Pháp 1946.
Lấy Hiến Pháp 1946 xác
định thể chế tổ chức Quốc Gia Việt Nam trong
tương lai, một lần nữa,
chúng ta đặt "người công dân Việt Nam"
(chớ
đừng nói ǵ đến con người, người ngoại quốc
chẳng hạn)
trong tư thế bấp bênh, không có ǵ "làm
bảo
chứng" (garantismo) cho con người có
được một cuộc sống
cho ra người.
C̣n nói ǵ đến
những áp dụng từ các Hiến Pháp biến thể 1959,
1980, 1992 của Hiến Pháp 1946, đă và đang được
áp dụng trên đất nước mấy mươi năm nay dưới
chế độ Cộng
Sản?
Dân chúng ở Việt Nam
có được bảo đảm các tối thiểu bất khả xâm phạm
và bất khả nhượng của ḿnh không?
Phiên toà "bịt
miêng" Cha Nguyễn văn Lư
hôm
30.03.2007
vừa
qua
là
một
vi
phạm
trắng
trợn
"Quyền mọi người
được biện hộ và tự biện hộ ở mọi trạng thái
và
trước mọi đẳng cấp của phiên toà xử kiện"
(Điều 24, đoạn 2
Hiến Pháp 1947 Ư Quốc).
Hiến Pháp 1946 và
các Hiến Pháp biến thể kế tiếp của CSVN có
ǵ làm bảo chứng cho con người hay không?
Hỏi để mọi người chúng ta tự
trả lời!
3- Hiến Pháp 1946
không có tự do tích cực.
a) Tuyên bố dưới
h́nh thức tiêu cực.
Đọc các điều khoản được
Giáo Sư Nguyễn Quang Duy trích dẫn ở trang 4
trong
bài viết, người đọc có ư nghĩ ngay rằng Hiến
Pháp 1946 do Hồ Chí Minh và một số người
khác soạn thảo lúc đó, chưa thoát khỏi được
quan niệm tiêu cực của các Hiến Pháp đương
thời
lúc đó.
Có lẽ hầu hết các Hiến
Pháp lúc đó đều tuyên bố các quyền tự
do của con người dưới h́nh thức tiêu cực, nên
Hồ
Chí Minh và các "đồng chí " của
ông không biết được khá hơn những ǵ
các khuôn mẫu ḿnh có trước mắt cung cấp
cho, nên họ cứ chép nguyên văn.
Đọc các điều khoản Hiến
Pháp 1946 như:
"Tất cả mọi
công dânViệt
Nam đều ngang quyền về mọi phương diện..."
(Điều 6, Hiến
Pháp 1946),
"Tất cả mọi
công dân đều
b́nh đẳng trước pháp luật..." (Điều 7,
id.),
"Công dân
Việt Nam
có quyền: Tự do ngôn luận..." (Điều 10,
id.)...
và c̣n nhiều điều
khác nữa cũng được tuyên bố một cách tương tợ.
Cách tuyên bố các
điều khoản như vừa kể, được gọi là tuyên bố
các
quyền tự do dưới h́nh thức tiêu cực.
Tuyên bố "Công
dân Việt Nam có quyền tự do ngôn luận...",
điều
đó có nghĩa là "Chính Quyền (hay
bất
cứ
ai
khác
cũng
vậy)
không được can thiệp, cản trở người
dân
tự
do ăn nói, tự do theo
tôn giáo, tự do cư trú..., không được can
thiệp, cản trở người dân được hưởng
quyền b́nh đẳng...
Nhưng người dân trong thể chế
dân chủ không phải là thần dân nô lệ của
các lănh chúa hét ra lửa, nên phải
nơm nớp lo sợ tổ chức Quốc Gia hiếp đáp, đàn
áp,
biến thành nô lệ, phải nhờ Hiến Pháp cấm cản,
bảo
vệ, c̣ng tay, bóp cổ, bắt nó "không được".
Người dân trong thể chế
dân chủ là chủ nhân của quyền lực Quốc Gia, "quyền
tối
thượng
của
Quốc
Gia
thuộc
về
dân".
Tổ chức Quốc Gia, Lập Pháp,
Hành Pháp, Tư Pháp, được người dân đồng
thuận lập nên để phục vụ ḿnh và phục vụ đồng
bào ḿnh. Do đó không có lư do
ǵ tổ chức Quốc Gia có lư chứng tồn tại và
ḿnh chỉ phải lo cấm cản nó "không được".
Tổ chức Quốc Gia không phải
là con ác thú ngông cuồng, cần phải
trói buộc bằng mọi cách để nó không
làm hại ḿnh.
Tổ chức Quốc Gia được chính
ḿnh tạo ra để phục vụ ḿnh và phục vụ đồng
bào minh, phải biết kính trọng và bảo vệ
nhân phẩm và các quyền bất khả xâm phạm của
con người:
"Nhân phẩm
con người bất khả
xâm phạm. Bổn phận của mọi quyền lực Quốc
Gia là
kính trọng và bảo vệ nhân phẩm đó" (Điều
1, đoạn 1 Hiến Pháp 1949 Cộng Hoà Liên Bang
Đức).
Hiểu như vậy, chúng ta sẽ hiểu
rằng các Hiến Pháp văn minh Tây Âu
không chỉ tuyên bố nhân phẩm và các
quyền bất khả xâm phạm của người dân "dưới
h́nh
thức tiêu cực", như những ǵ
chúng ta t́m thấy trong Hiến Pháp 1946, mà
con tuyên bố "dưới h́nh thức tích cực":
"...Bổn phận
của mọi quyền lực Quốc Gia
là kính trọng và bảo vệ ".
Không những "kính
trọng" (không được vi phạm), mà
c̣n "bảo
vệ" (tạo mọi điều kiện thuận
lợi, thích ứng để
các quyền của người dân được thực hiện
dễ dàng).
b) Tuyên bố dưới
h́nh thức tích cực.
Đó là những ǵ
chúng ta có thể t́m thấy đó đây trong
khắp các điều khoản Hiến Pháp 1947 Ư Quốc.
Nếu ở đoạn 1, điều 3 Hiến Pháp
1947 Ư Quốc chúng ta có lời tuyên bố quyền
b́nh đẳng dưới h́nh thức tiêu cực:
- "Mọi người đều có
địa vị xă hội ngang nhau và b́nh đẳng trước
pháp luật, không phân biệt phái giống, chủng
tộc, ngôn ngữ, tôn giáo, chính kiến, điều
kiện cá nhân hay xă hội. "
(hay Chính Quyền không
được đối xử bất b́nh đẳng đối với địa vị xă hội
và
trước luật pháp...), th́ ngay ở đoạn kế tiếp của
cùng một điều khoản, Hiến Pháp quy trách cho tổ
chức Quốc Gia dưới h́nh thức tích cực:
"Bổn phận của
Quốc Gia là dẹp bỏ
đi những chướng ngại vật về phương diện kinh
tế và xă
hội, là những chướng ngại, trong khi thật sự
giới hạn tự do
và b́nh đẳng của người dân, không cho
phép họ triển nở hoàn hảo con người của ḿnh
và tham gia một cách thiết thực vào tổ chức
chính trị, kinh tế và xă hội của xứ sở"
(Điều
3, đoạn 2 Hiến Pháp 1947 Ư Quốc).
Quốc Gia bị quy trách,
có bổn phận, phải tạo mọi điều kiện dễ
dàng về
phương diện kinh tế và xă hội để
người dân
phát triển hoàn hảo nhân cách của
ḿnh và hành xử mọi quyền tự do chính trị,
tham gia thật sự vào đời sống Quốc Gia.
Cũng vậy, nếu Hiến Pháp 1946
tuyên bố dưới h́nh thức tiêu cực quyền tự do lập
hội
và gia nhập hội:
"Công dân Việt
Nam
có quyền...tự do tổ chức và hội hợp..."
(Điều 10,
Hiến Pháp 1946) (có nghĩa là Chính
Quyền không được cấm cản người dân Việt
Nam có
quyền tổ chức và hội họp..., gia nhập hội...),
th́ Hiến
Pháp 1947 Ư Quốc không những cấm Chính
Quyền không được, mà c̣n bắt Chính
Quyền
phải
tạo
mọi
điều
kiện
thuận
tiện
và
khuyến
khích
người
dân hăy tham gia chính đảng để
góp phần lănh đạo Quốc Gia:
"Mọi công dân
đều có
quyền tự do gia nhập chính đảng để cùng cộng
tác
theo phương thức dân chủ xác định đường lối
chính
trị Quốc Gia" (Điều 49, Hiến Pháp 1947 Ư
Quốc).
c) quyền tự do thực hữu.
Ngoài ra, không những
Hiến Pháp tuyên bố các quyền tự do trên
lư thuyết (liberté formelle) các quyền bất khả
xâm phạm của con người, mà c̣n tiền liệu các
quyền ḿnh tuyên bố có được các điều kiện
thuận lợi cần thiết để thực hiện (liberté
substantielle).
Ở điều 3 Hiến Pháp 1947
Ư Quốc tuyên bố quyền b́nh đẳng của mọi người ở
đoạn 1, liền sau đó ở đoạn 2 Hiến Pháp tiền
liệu
người dân khỏi bị hoàn cảnh xă hội và kinh
tế cách biệt làm cho họ không được
hưởng
quyền b́nh đẳng và tự do mà Hiến Pháp vừa
đứng ra bảo đảm:
"Bổn phận của
Quốc Gia là dẹp bỏ
đi những chướng ngại vật về phương diện kinh
tế và xă
hội, là những chướng ngại, trong khi giới hạn
thật sự tự do
và b́nh đẳng của người dân..." (Điều 3,
đoạn 2,
Hiến Pháp 1947 Ư Quốc). C̣n nữa, nếu "mọi
người
đều có địa vị xă hội ngang nhau và b́nh
đẳng trước pháp luật..." (Điều 3, đoạn 1,
id.), th́
không có lư do ǵ tổ chức Quốc Gia
không đứng ra đảm trách lo cho những người không
may
mắn, tàn tật, yếu thế, bởi v́ họ cũng là người,
là công dân của Quốc Gia:
"Mọi công dân
không
có khả năng làm việc..., những công dân
khuyết tật và những công dân yếu kém, đều
được nuôi sống và bảo trợ xă hội..., có
quyền được giáo dục và khởi công nghề nghiệp".
"Các bổn phận được tiền
liệu trong điều khoản nầy sẽ được các cơ quan
được thiết lập
thực thi hay do Quốc Gia bổ khuyết" (Điều
38, đọan 1, 3 và
4, Hiến Pháp 1947 Ư Quốc).
Cũng vậy, nếu Hiến Pháp 1946
do Hồ Chí Minh và các "đồng chí "
soạn thảo lo cho những ai bị cáo là phạm nhân
được
quyền mướn luật sư:
"Các phiên toà
đều
công khai, trừ những trường hợp đặc biệt.
Người bị cáo
được quyền tự bào chữa lấy hoặc mướn luật
sư "
(Điều 67, Hiến Pháp 1946), th́ Hiến Pháp 1947
Ư Quốc c̣n đi xa hơn.
Bởi lẽ, nếu "người bị cáo",
không
quen
biết
hay
không
có
khả
năng
tài
chánh
để
"mượn" hay "mướn luật sư "
biện hộ cho th́ sao?
Đâu là "Mọi
công dân Việt Nam đều b́nh đẳng trước pháp
luật...?" (Điều 7, Hiến Pháp 1946). Phải
chăng quyền
b́nh đẳng của Hiến Pháp 1946 chỉ là tự do
thuyết lư (liberté formelle)? Hay tuyên
bố để
mà tuyên bố? Và đây là câu trả
lời của Hiến Pháp 1947 Ư Quốc cho lời tuyên bố:
"Mọi
người
đều
có
địa
vị
xă
hội
ngang
nhau
và
b́nh
đẳng
trước
pháp
luật..." (Điều 3, đoạn 1 Hiến
Pháp 1947 Ư quốc):
"Mọi người đều
có quyền khởi
xướng hành động trước pháp luật để bảo vệ
quyền và
lợi thú chính đáng của ḿnh.
- "Quyền được biện hộ (tự biện
hộ)
là quyền bất khả xâm phạm ở mọi đẳng cấp và
tiến
tŕnh tư pháp.
- "Những ai thiếu khả năng cũng
sẽ
được bảo đảm bằng các cơ quan và phương tiện
để
hành xử và tự vệ trước mọi phiên toà"
(Điều 24, đoạn 1, 2 và 3 Hiến Pháp 1947 Ư Quốc).
Một xă hội trong đó
những kẻ yếu thế, "thiếu khả năng", "không có
khả năng
làm việc..., khuyết tật và yếu kém"
không được bảo đảm, là xă hội trong đó "cá
lớn
nuốt
cá
bé" hay xă hội
"Nước trong leo
lẻo, các đớp
cá
Trời nắng chang chang, người
đánh người" (Cao Bá Quát).
Phải chăng đó là
xă hội lư tưởng mà chúng ta mơ ước cho
tương lai Việt Nam?
Hay chúng ta muốn cho Việt Nam
có được một xă hội, sống trong b́nh đẳng trong
t́nh liên đới hỗ tương?
Nói tóm lại, trong Hiến
Pháp 1946 do Hồ Chí Minh và các "đồng
chí" soạn thảo
không có con
người,
không có tính
cách bảo chứng
không có tự do
tích cực
không có tự do
thực hữu,
không có t́nh
liên đới hỗ tương.
Luật Sư Trần Thanh Hiệp rất
thâm thúy, khi ông viết bài nói
lên ư hướng của ông: "Hăy trả lại Hiến
Pháp 1946 cho giá trị đích thực của nó",
giá
trị
của
thời
điểm
đó
và
giá
trị
tương
đương
với
tầm
hiểu
biết
về
Hiến
Pháp
Nhân
Bản
và
Dân
Chủ
của
Hồ
Chí
Minh
và
những
người
soạn thảo ra
nó, ở khoảng thời điểm nó được soạn thảo.
Với những giá trị, nhưng
là những giá trị thiếu sót vừa kể, Hiến
Pháp 1946 không thể là Hiến Pháp tương lai
cho một Quốc Gia Việt Nam văn minh trong cộng
đồng nhân loại,
tôn trọng con người và tôn trọng dân chủ,
ư nghĩa của Điều 1, đoạn 2 Hiến Pháp 1949 Cộng
Hoà
Liên Bang Đức.
Nguyễn
Học Tập
Nguồn:
http://www.lenduong.net