X. TRUYỆN HỒNG
BÀNG
1. Cháu ba đời
Viêm Đế họ Thần Nông tên
là Đế Minh, sinh ra
Đế Nghi, rồi đi nam tuần đến Ngũ Lĩnh, gặp
được nàng con
gái Vụ Tiên đem lòng
yêu mến mới cưới về,
sinh ra Lộc Tục, dung mạo đoan chính,
thông minh
túc thành; Đế Minh lấy
làm lạ, cho nối ngôi
vua; Lộc Tục cố nhường cho anh, Đế Minh lập Đế
Nghi làm tự
quân cai trị phương Bắc, phong Lộc Tục
làm Kinh Dương
Vương cai trị phương Nam, đặt quốc hiệu
là Xích Quỷ Quốc.
2. Kinh Dương Vương
xuống
Thủy Phủ, cưới con gái vua Động
Đình là Long Nữ,
sinh ra Sùng Lãm tức là
Lạc Long Quân; Lạc
Long Quân thay cha để trị nước,
còn Kinh Dương Vương
thì không biết đi đâu. Lạc
Long Quân dạy
dân ăn mặc, bắt đầu có trật tự về
quân thần,
tôn ty, có luân thường về
phụ tử, phu phụ; hoặc
có lúc đi về Thủy Phủ nhưng trăm
họ vẫn được yên
ổn. Dân lúc nào có
việc cần thời kêu
Lạc Long Quân: “Bố đi đàng
nào, không đến
mà cứu chúng ta” (người Nam gọi
cha bằng Bố, gọi
quân bằng vua là tự đấy),
thì Lạc Long Quân
lập tức đến ngay, uy linh cảm ứng không
ai có thể trắc
lượng được.
3. Đế Nghi truyền
ngôi cho Đế Lai cai trị phương Bắc;
nhân khi thiên hạ
vô sự, sực nhớ đến chuyện ông nội
là Đế Minh nam
tuần gặp được tiên nữ Đế Lai bèn
khiến Xi Vưu tác
chủ quốc sự mà nam tuần qua nước
Xích Quỷ, thấy Long
Quân đã về Thủy Phủ, trong nước
không vua, mới lưu
ái thê là Au Cơ
cùng với bộ chúng thị
thiếp ở lại hành tại. Đế Lai chu lưu
khắp thiên hạ, trải
xem tất cả hình thể, trông thấy
kỳ hoa, dị thảo,
trân cầm dị thú, tê tượng,
đồi mồi, kim ngân,
châu ngọc, hồ tiêu, nhũ hương,
trầm đàn, các
lọai sơn hào hải vị không thứ
nào là
không có; khí hậu bốn
mùa lại không
nóng không lạnh, Đế Lai ái
mộ quá,
quên cả ngày về.
4. Nhân
dân
nước Nam khổ về sự phiền nhiễu, không
yên ổn như xưa,
đêm ngày mong đợi Long Quân
về nên mới đem
nhau kêu rằng:
- Bố ở phương
nào,
nên mau về cứu nhân dân.
Lạc Long Quân
bỗng
nhiên lại về, thấy nàng Au Cơ ở
một mình, dung mạo
đẹp lạ lùng, yêu quá, mới
hóa ra một
chàng nhi lang phong tú mỹ lệ,
tả hữu thị tùng
đông đảo, tiếng đàn ca vang đến
hành tại. Au Cơ
trông thấy mà lòng cũng
ưng theo; Long Quân
bèn rước nàng về núi Long
Trang. Đế Lai về
không thấy Au Cơ bèn sai quần
thần tìm khắp
thiên hạ. Long Quân có thần
thuật, biến hiện trăm
cách, nào là yêu
tinh quỷ mị, nào
là long xà hổ tượng, kẻ đi
tìm úy cụ,
không dám lục đảo tận
cùng. Đế Lai trở về bắc
truyền ngôi cho Đế Du Võng. Du
Võng truyền lại cho
Xi Vưu cùng với Hòang Đế
đánh nhau ở Bản Tuyền
và Trác Lộc không hơn
nên tử trận. Họ Thần
Nông bèn mất.
5. Au Cơ ở với Lạc
Long
Quân giáp một năm, sinh ra một
bọc trứng, cho là
điềm không hay nên đem bỏ ra
ngòai đồng nội; hơn bảy
ngày, trong bọc nở ra một trăm trứng,
mỗi trứng là một
con trai, bà đem về nuôi nấng,
không cho ăn, cho
bú mà tự nhiên trường đại,
trí dũng song
tòan, ai cũng úy phục, bảo nhau
đó là những
anh em phi thường.
Long Quân ở
lâu dưới Thủy Phủ; mẹ con ở một
mình, nhớ về Bắc quốc liền
đi lên biên cảnh;
Hoàng Đế nghe tin lấy
làm sợ mới phân binh trấn ngự
quan tái; mẹ con
không về Bắc được, đêm ngày
gọi Long Quân:
- Bố ở phương
nào
làm cho mẹ con ta thương nhớ!
Long Quân hốt
nhiên lại đến, gặp mẹ con ở Tương
Dã. Au Cơ nói:
- Thiếp vốn người
Bắc,
cùng ở một nơi với quân, sinh
được một trăm trai mà
không có gì cúc
dưỡng, xin cùng theo
nhau chớ nên xa bỏ, khiến cho ta
là người không
chồng không vợ, một mình
vò võ.
Long Quân bảo:
- Ta là
loài
rồng, sinh trưởng ở thủy tộc; nàng
là giống tiên,
người ở trên đất, vốn chẳng như nhau,
tuy rằng khí
âm dương hợp lại mà có
con, nhưng phương viên
bất đồng, thủy hỏa tương khắc, khó
mà ở cùng nhau
trường cửu. Bây giờ phải ly biệt, ta đem
năm mươi trai về Thủy
Phủ phân trị các xứ, năm mươi
trai theo nàng ở
trên đất, chia nước mà cai trị,
dù lên
núi xuống nước nhưng có việc
thì cùng nghe,
không được bỏ nhau.
6. Trăm trai đều nghe
mệnh, rồi mới từ giã ra đi. Au Cơ
cùng với năm mươi người
con trai ở tại Phong Châu (bây giờ
là huyện Bạch
Hạc), tự suy tôn người hùng
trưởng lên làm
vua, hiệu là Hùng Vương, quốc
hiệu là Văn Lang; về
bờ cõi của nước thì Đông
giáp Nam Hải,
Tây đến Ba Thục, Bắc đến Động
Đình Hồ, Nam đến nước Hồ
Tôn Tinh (bây giờ là nước
Chiêm Thành),
chia trong nước làm mười lăm bộ
là: Giao Chỉ, Chu
Diên, Ninh Sơn, Phúc Lộc, Việt
Thường, Ninh Hải, Dương
Tuyền, Quế Dương, Vũ Ninh, Hòai Hoan,
Cửu Chân, Nhật Nam,
Quế Lâm, Tượng Quận, sai các em
phân trị, đặt em thứ
làm tướng võ, tướng văn; tường
văn gọi là Lạc Hầu,
tướng võ gọi là Lạc Tướng; con
trai vua gọi là
Quan Lang, con gái gọi là Mỵ
Nương, quan Hữu ty gọi
là Bố Chính, thần bộc nô
lệ gọi là nô
tỳ, xưng thần là khôi, đời đời
cha truyền con nối gọi
là phụ đạo, thay đời truyền cho nhau
đều hiệu là
Hùng Vương không đổi.
7. Dân ở rừng
núi xuống sông ngòi
đánh cá, thường
bị giao long làm hại nên bạch với
vua. Vua bảo rằng:
- Ở núi
là
lòai rồng cùng với thủy tộc
có khác, bọn
chúng ưa đồng mà ghét dị
cho nên mới
xâm hại.
Bèn khiến lấy
mực
châm hình trạng thủy quái
ở thân thể, từ
đó tránh được nạn giao long cắn
hại; cái tục văn
thân của Bách Việt thực khởi thủy
từ đấy.
8. Ban đầu quốc
dân
ăn mặc chưa đủ, phải lấy vỏ cây
làm áo mặc, dệt cỏ
ống làm chiếu nằm; lấy cốt gạo
làm rượu, lấy cây
quang lang, cây soa đồng làm
bánh; lấy cầm
thú, cá tôm làm
nước mắm, lấy rễ gừng
làm muối; lấy dao cày, lấy nước
cấy; đất trồng nhiều gạo
nếp, lấy ống tre thổi cơm, gác
cây làm nhà
để tránh nạn hổ lang; cắt ngắn đầu
tóc để tiện vào
rừng núi, con đẻ ra lót
lá chuối cho nằm;
nhà có người chết thì
giã cối gạo để cho
hàng xóm nghe mà chạy đến
cứu giúp; trai
gái cưới nhau trước hết lấy muối
làm lễ hỏi, rồi sau mới
giết trâu để làm lễ thành
hôn, đem cơm nếp
vào trong phòng cùng ăn
với nhau cho hết, rồi sau
mới tương thông; lúc bấy giờ chưa
có trầu cau
nên phải thế.
9. Bách Nam
là thủy tổ của Bách Việt vậy.
Chú
thích
2. Xích Quỷ:
xin
chớ hiểu quỷ là quỷ đỏ, mà phải
hiểu là lớn lao
và thường đi với chữ chủ để chỉ người
có quyền lớn lao ở
miền Nam (xem Việt Lý Tố Nguyên
tr.355). Còn
Xích là phần tinh hoa nhất, cự
phách nhất (xem tự
điển Thiều Chửu chữ Xích). Vậy
Xích Quỷ có nghĩa
là làm chủ chốt cái tinh
hoa của miền Nam,
có thể nói là miền
xích đạo, miền
nông nghiệp lúa Mễ.
3. Tuy tả cảnh đất
phì nhiêu, khí hậu
không nóng
không lạnh, nhưng cũng nên hiểu cả
về môi sinh tinh
thần là không thái
quá hay bất cập v.v…
4. Có người sợ
mang tiếng cho Au Cơ
dâm loạn hai chồng… nên đổi chữ vợ
ra con gái, nhưng
không nên làm thế.
5&6. Đây
là lúc mẫu tộc chuyển sang phụ
tộc nhưng một cách
rất đặc biệt nên ảnh hưởng mẫu tộc
còn lại rất nhiều,
tô điểm cho văn hóa Kinh
Hùng nét đặc trưng
rất đáng quý (xem tòan
vài VII Còn
Mẹ). Có bản nói Long Quân
ở lâu dưới Thủy Phủ
quên mình có con,
các con cũng không
biết mình có cha. Nói vậy
là tỏ ra mẫu tộc
còn mạnh, lúc con mới biết
có mẹ.
7. Xâm
mình
là bước cuối cùng trên con
đường thờ vật tổ. Bước
trước lá ăn vật tổ theo nghi thức tham
dự linh thiêng
(communion sacramentelle) sau đến vẽ
hình vật tổ lên
mình, để rồi cuối cùng chuyển ra
vật biểu trong đợt minh
triết. Vẽ mình tức đã ra
vòng ngòai nhiều,
nên rồng ghét, nhưng nhờ vẽ
mình rồng (chỉ tiềm
thức) nên còn hòa giải
được. Không xảy ra vụ
giết rồng như Tây Au.
8. Gác
cây
làm nhà sàn: giá
mộc vi ốc. So với
câu “giá mộc kết thảo vi cư”, lại
so với hình vẽ
nhà sàn trên trống đồng
thì nhận ra
đó là nhà sàn,
và đã đủ dữ
kiện để biểu thị trời, người, đất rồi. Lấy
cây quang lang,
cây xoa đồng làm bánh.
Đây cũng hàm
ý siêu hình, cây
quang lang chỉ người
sáng suốt kiểu nữ thần mộc.
- Giã cối
làm hiệu: đó là tục sẽ
dẫn đến việc đúc
trống đồng.
XI. TRUYỆN NGƯ
TINH
10.
Trong biển Đông Hải
có loài Ngư tinh,
mình dài hơn năm
mươi
trượng, có nhiều chân
giồng như chân rết, biến
hóa vô cùng,
linh dị khó dò được;
mỗi
khi đi đâu thì nổi
cơn mưa gió, hay ăn thịt
người,
ai cũng đều sợ hãi.
11.
Thời thượng cổ có
loại
cá mặt giống như
mặt người, thường đi chơi
trên bờ
Đông Hải, hóa
thành hình
người, ngôn
ngữ thông hoạt dần
dần sinh lớn ra người trai
gái, lấy
cá tôm, hến
ốc làm vật ăn; lại
có giống
người mới sinh ở hải đảo
lấy sự bắt người
làm sinh nhai, cũng
thành ra người,
cùng với đàn
ông đổi
chác các
phẩm vật như muối gạo,
áo quần, dao
búa, thường qua lại
ở biển Đông Hải.
12.
Trong có núi Ngư
tinh, miệng răng nhô ra
ngoài bờ biển, ở dưới
núi
có một chiếc hang lớn,
đó là nơi cư
trú của
Ngư tinh; thuyền nhân
dân qua lại phần nhiều bị
hại; phong
ba hiểm yếu, họ không
có đàng nào
mà
tránh; muốn mở một lối đi
ngã khác
thì họ
lại gặp cát đá
không thể nào
đào
được.
Một
đêm kia, có
tiên xuống moi đá
làm kênh cho sự
thông
hành của loài
người được tiện lợi;
kênh sắp được
đào xong thì Ngư
tinh hóa ra một con
gà
trắng gáy ở trên
núi; quần tiên
nghe thấy ngỏ
là trời gần sáng
nên đều tự nhiên
bay đi hết,
nay gọi là đường Phật.
13.
Lạc Long Quân thương
dân bị hại mới làm
một con thuyền lớn, ra lệnh cho
Thuỷ Dạ
Xoa cấm thần biển không
được làm gió
sóng,
chèo thuyền đến
núi Ngư tinh, giả đem một
người đến cho
Ngư tinh ăn; Ngư tinh há
miệng toan nuốt, Long Quân
liền
lấy một khối sắt nướng đỏ liệng
vào miệng cá; Ngư
tinh
vùng vẫy nhảy đến
đánh thuyền; Long
Quân
chém được khúc
đuôi, lột da treo
lên
trên núi, nay gọi
là Bạch Long Vỹ;
khúc đầu
trôi ra ngoài biển,
hóa ra chó
mà
chạy mất; Long Quân lấy
đá lấp biển thì
chém
được, nó bèn
hóa ra đầu chó,
nay gọi
là Cẩu Đầu; khúc
mình trôi
vào Man
Cầu, nay gọi là Cầu Man
Cẩu là bởi đó vậy.
Chú
thích
11.
Trong
truyện
nói
cá
ăn
thịt
người
có thể do cướp
bể xa xưa mà có
hình ảnh này. Nhưng xem
huyền thoại Tàu thì
có lúc họ nhận
cá làm vật tổ, đến đời
nhà Tần còn nhận như
vậy và do đấy có những
truyện tế người cho Hà
Bá. Nên lưu ý
người Tàu xưa năng dùng
hoa văn cá là liên
hệ với tin tưởng ở đây. Về
phương diện này Lạc Long
Quân tiến sớm hơn phương bắc.
12.
Gà
trắng
sẽ
thấy
xuất
hiện
trong
truyện Kim Quy, cũng đều
không tốt: gà (cung Dậu)
cũng như sắc trắng đều nằm về
phía tây.
13.
Khối
sắt
nung
đỏ
ném
vào
miệng
cá có thể
chỉ văn hóa Viêm phương
hành hỏa chống lại văn minh
du mục bắc phương (cá là
hành thuỷ phương bắc).
XII. TRUYỆN HỒ
TINH
14.
Thành Thăng Long ngày
xưa gọi là đất Long
Biên, đời thượng cổ chưa
có người ở. Đến đời vua
Lý
Thái Tổ chèo thuyền ở
sông Nhị Hà, có
hai con rồng dẫn thuyền đi, nhân
đó mới đặt tên
là Thăng Long và
đóng đô ở đấy, tức
là kinh thành
ngày nay vậy.
15.
Buổi đầu, chỗ đất này về
phía Tây có một
ngọn núi đá, dưới
núi có một cái
hang, có một con hồ
chín đuôi sống hơn một
nghìn năm thành ra
yêu quái, biến
hóa
vạn trạng, có lúc
hóa người, lúc
hóa
khỉ, đi khắp cả nhân gian.
Lúc bấy giờ ở dưới chân
núi Tản Viên có
giống người mọi gác
cây kết cỏ mà ở,
trên núi có một
vị
thần được mọi người phụng thờ. Vị
thần ấy dạy cho mọi người cầy ruộng,
dệt vải, may áo trắng
mà mặc, nhân đó
gọi
là bạch y man.
16.
Hồ chín đuôi hóa
ra người áo trắng nhập
vào trong bọn mọi,
cùng lũ mọi ca hát, dụ
dỗ được
người con trai, con gái
nào thì đem về nhốt ở
hang
đá; người mọi lấy làm
khổ sở về việc ấy.
17.
Long Quân mới sai bộ hạ Thuỷ
Phủ dâng nước lên
đánh phá núi
Tiểu Thạch Sơn, đào
thành một cái đầm lớn,
chính giữa thành
có một chiếc vực sâu,
gọi là Thi Hồ Trạch (nay
là Hồ Tây) rồi lập
chùa quán để trấn yểm
nữa
(nay là Thiên
Niên Quán), bờ
phía
Tây bên đầm thì
đồng nội bằng phẳng, ruộng ao cầy
cấy, gọi là Lỗ Hồ Động. Chỗ
nào cao ráo thì
đều có dân cư, tục gọi
là Hồ Thôn. Còn
cái hang nay gọi là Lỗ
Hồ Đàm vậy.
Chú
thích
14.
Thăng Long thành đặt giữa hai
sông rõ ràng
bao hàm ý sông
Tương nước chảy hai dòng.
Còn sự giữ được nét
song trùng là nhờ
có Thăng Long tức Việt
lên siêu hình.
Xin nhớ
Lạc Long Quân với Âu Cơ
gặp nhau ở Tương Dã (H.5
thì cũng hàm ý
sông Tương.
15.
Phía tây chỉ mưu
trí liên hệ với
cáo
già, cũng gặp được trong lễ
Na có đoạn đánh hổ
rừng: “đả dã hổ”, nhưng nực
cười là chữ hổ bộ cẩu lại
cũng có nơi viết bộ cổ để chỉ
Hung Nô phía
tây bắc (Danses, 327). Hồ tinh
liên hệ với Ngư tinh (lẽ ra
phải nói Bắc mới là
hành thuỷ (nơi ở của
cá), thế mà
sách lại nói
đông
thì chắc là do
thói thường chỉ mạn
đông bắc)
cả hai loài Hồ tinh và
Ngư tinh không bị diệt hẳn
nên còn quấy phá
văn hóa phương nam đến tận
nay.
16.
Truyện này có thể
hàm ý du mục
phá
nông nghiệp. Óc du mục
quỷ quyệt được chỉ bằng hồ 9
đuôi, bắt người nhốt hang như
Cộng sản nhốt người ta vào
hang ý hệ
Mác-Lê, nói
là hang
vì trừ thuyết
Mác-Lê ra thì
không cho
dân nghe hay xem chi bên
ngoài. Các
sách vở khác đều đốt
hết như Tần Thuỷ Hoàng xưa.
17.
Long Quân truyền thuỷ bộ
phá Hồ. Có sách
thêm Long Quân truyền
cho “thuỷ phủ tam quan” làm
việc đó, thì tam chỉ
đạo ba của nông nghiệp.
Có
truyền
thuyết
nói
là
Kim
Ngưu
Tự
(chùa trâu
vàng). Trâu là
nông nghiệp. Vàng
là trung cung màu của
Việt tộc.
XIII. TRUYỆN MỘC
TINH
18.
Thuộc
địa
giới
Phong
Châu,
về
đời thượng cổ có một
cây đại thụ tên là
Chiên Đàn,
thân cao nghìn tầng,
cành lá xum xê
không biết mấy nghìn dặm,
có chim thước làm
ổ ở trên cây nên chỗ
đất ấy đặt tên là
Bạch Hạc. Cây Chiên
Đàn trải qua không biết
mấy nghìn năm đến khi khô
hủ thì hóa
làm yêu tinh, biến hiện
dũng mãnh, thường
sát nhân dân.
19.
Kinh Dương Vương dùng thần
thuật thắng được yêu tinh,
nhưng yêu tinh quỷ quyệt, nay
ở chỗ này, mai ở chỗ
khác, biến hóa bất
trác, thường ăn người sống,
dân phải lập đền thờ mà
cầu đảo. Mỗi năm đến ngày
ba mươi tháng chạp,
dùng một người sống
làm lễ tế
thì con tinh ấy mới chịu
thôi, mà nhân
dân cũng được yên ổn,
tương truyền với nhau là Thần
Xương Cuồng. Địa giới phía
tây nam gần nước Mi Hầu, người
trong nước khiến Bà Lộ Man
(nay là phủ Diễm Châu)
cướp lấy một người Lão tử nạp
làm lễ tế, năm nào
cũng lễ thường như vậy. Kịp đến khi
Tần Thuỷ Hoàng sai
Nhâm Ngao sang làm quan
Lệnh Long Xuyên, Nhâm
Ngao đổi cái lệ đó,
cấm không được đem người sống
mà tế. Thần giận, thần giết
đi, từ đó về sau sự tế thần
lại càng kính cẩn.
20.
Đến đời Đinh Tiên
Hoàng, có một
pháp sư
tên là Dũ Văn Mẫu người
Tàu, tu hành
chín chắn, tuổi hơn bốn mươi,
đã chu du các nước,
thông hiểu nhiều ngôn
ngữ, tập được phép
nãnh
vàng răng đồng, khi sang đến
nước ta thì đã
tám mươi tuổi; Tiên
Hoàng lấy lễ thượng mà
đãi đằng. Dũ Văn Mẫu dậy lấy
kỹ thuật phỉnh thần Xương Cuồng rồi
giết đi.
21
Từ đó miền được cái
họa dâng người hàng
năm,
mà sinh hoạt của nhân
dân được bảo toàn vậy.
Chú
thích
Ba
vĩ tích của Lạc Long
Quân cho vào một
nhóm
vì nó nói
lên bước xả một cách
có hàm ngụ cơ cấu, đi
theo lối khai quang sửa soạn (via
negativa) để cho Hùng Vương
xây nền nhân chủ sau
này.
Truyện
Mộc
tinh
có
hai
giai
đoạn
cuối
cùng mang tính chất
ma thuật đã thêm
vào sau nhiều bản bỏ. Vậy ở
đây cũng xin bỏ luôn.
Xét ra nó nghịch với
tinh thần xả bỏ bái vật ma
thuật của ba vĩ tích.
18.
Mộc tinh hiểu là “ma mộc” gỗ
khô, tức những gì hư
hóa, nhất là
các thứ dị đoan chỉ bằng
xương cuồng.
Lạc Long Quân cũng đuổi đi,
rồi sau có người dùng
ma thuật thì cũng chì
là tạm bợ, nên
nó còn lưu hành
trong dân chúng, tuy
nhiên cả ba thứ tinh
không còn nhô đầu
lên văn đàn được nữa
như bên Âu Tây. Hồ
tinh và Ngư tinh chỉ
còn tác hại dưới
hình
thức du mục võ biền.
XIV. TRUYỆN TRẦU
CAU
22.
Đời
thượng
cổ
có
một
chàng
tên là Quang
Lang trạng mạo cao lớn. Quốc vương cho
họ là Cao, nhân lấy
chữ Cao làm họ, sinh được hai
trai, người đầu tên
là Tân, người thứ
tên là Lang. Cha mẹ chết,
hai anh em sang trọ nhà thầy
đạo sĩ họ Lưu, cũng gọi là
Lưu Huyền.
23.
Nhà họ Lưu có một
người con gái, tuổi chừng
mười
bảy hay mười tám muốn
tìm đôi bạn, nhưng
không biết người nào
là anh em, bèn bưng
một
bát cháo và một
đôi đũa mời hai người ăn để
xem ai là anh ai là
em. Thấy người em nhường cho ngừơi
anh ăn trước, nàng bèn
ghi nhớ lấy, đem tình thực
trình bày với cha mẹ.
Cha mẹ gả cho người anh kết
làm vợ chồng, tình
ái càng ngày
càng thân mật.
24.
Sau đấy, người em thấy anh
đãi xử với mình
không
bằng lúc xưa, đem lòng
hờn giận mới bỏ anh mà đi.
Đi đến một nơi thôn dã
bỗng gặp một cái suối lớn:
không có thuyền để sang
ngang, người em ngồi một
mình khóc ròng
rồi chết hóa thành
một cái cây.
25.
Đến khi người anh mất em mới bỏ vợ
đi tìm chỉ thấy em đã
chết gieo mình bên gốc
cây, mà tự tận
hóa thành một tảng
đá quấn quanh gốc cây.
26.
Sau đấy, người vợ lấy làm lạ
sao chồng mình đi đã
lâu mà không thấy
về liền bỏ đi tìm, thấy
chồng đã chết, nàng
cũng gieo mình ôm lấy
tảng đá mà chết
luôn, hóa ra một sợi
dây leo vấn vít
trên đá, ngọn lá
mùi thơm và say.
27.
Cha mẹ Lưu thị đi tìm con,
đến đó cũng than khóc,
rồi lập đền thờ ở chỗ ấy mà
thờ, người đương thời đi qua đấy, ai
cũng đốt nhang vái lạy, khen
là anh em hòa thuần,
vợ chồng tiết nghĩa.
28.
Trong khỏang tháng bảy,
tháng tám, khí
nóng còn nồng,
Hùng Vương đi tuần
hành
thường nghỉ chân ở đấy để
tránh nắng. Trông thấy
trước đền im mát, dây
lá phủ trùm, Vương
lên tảng đá đứng ngắm
nghía, hỏi ra mới biết
công việc như thế, Vương lập
tức bảo cận thần hái một
trái cây và
hái một lá dây
leo,
Vương thân nhai đi rồi nhổ
trên đá, thấy có
sắc đỏ tươi biết là vị ngọn
mới lấy đem về, bảo lấy đá
lửa nung làm vôi,
cùng với trái
cây,
lá dây hợp làm
một mà ăn, thấy vị ngọt
béo, thơm cay, môi
mép sinh đỏ, mới truyền ban
ra
thiên hạ, phàm những lễ
giá thú, hội đồng
lớn nhỏ, đều phải lấy vật này
làm trước. Ngày nay
cây cau, cây trầu
không, đá vôi
là do đó. Từ bấy giờ
nước Nam có tục ăn trầu cau
là bắt đầu từ đấy.
Chú
thích
22&28.
Truyện
Trầu
Cau
nói
lên
tình
huynh
đệ cũng như
nghĩa vợ chồng rất đẹp dễ hiểu, lại
còn hàm ngụ
thêm ý nghĩa siêu
hình là Thái
Hòa trời đất được biểu thị
bằng sắc đỏ, như đã
bàn
trong bài Văn Lang Quốc.
Có bản thêm tên
cô gái là
Liên, còn thầy
tên
là Lưu Huyền, hoặc Lưu Đạo
Huyền thì càng
nói lên rõ
ý nghĩa: Liên là
lá trầu quấn quanh cây
và đá, tức làm
cho Kim (đá) Mộc (cây
cau) liên hệ với nhau để vươn
lên đạo huyền diệu vô
thanh vô xú. Có
thể vì chữ huyền mà
có chữ không trong trầu
không (xem Sứ Điệp, bài
V).
XV. TRUYỆN
ĐẦM NHẤT DẠ
29.
Hùng
Vương
truyền
ngôi
đến
vua
cháu
ba đời,
có sinh được một người
con gái tên
là
Tiên Dung Mỵ Nương, tuổi
vừa mười tám, dung mạo
tú
lệ, nguyện không lấy
chồng, chỉ thích ngao
du thiên
hạ. Vương chiều mà nghe
theo. Mỗi năm khỏang
tháng hai,
tháng ba, nàng
sửa soạn thuyền ghe,
lênh đênh
ngòai biển, vui chơi
quên cả ngày về.
30.
Lúc
bấy
giờ
ở
làng
Chử
Xá
có người
tên là Chử Vy
Vân sinh được một người
con trai
tên là Chử Đồng
Tử, hai cha con tính
vốn hiền
lành, nhà ngheo
lại gặp nhà
cháy, của cải
khánh kiệt tận chỉ
cò một cái khố
vải, cha con ra
vào thay đổi nhau
mà mặc. Bị bệnh
già, cha bảo con
rằng:
-
Ta chết thì chôn
lộ thể cũng được, để
cái khố lại
cho con mặc kẻo xấu hổ.
31.
Cha
chết,
người
con
không
nỡ
làm
thế, cứ để cả khố
mà chôn. Chử Đồng
Tử bấy giờ thân
hình trần
truồng, đói rét
khôn xiết, mới cầm cần
câu đi
đến bờ sông câu
cá, trông thấy
thuyền buồm đi
qua, đứng dưới nước mà
xin ăn. Nào ngờ thuyền
của
Tiên Dung bỗng đến
đó; nghe thấy tiếng
chuông trống
đàn sáo, thấy
những nghi trượng cờ
xí, Đồng Tử sợ
hãi, không biết
trốn vào đâu,
trông
thấy trong bãi
phù sa có
chòm lau sậy, lơ
thơ năm ba gốc, bèn ẩn
thân vào
đó,
đào cát thanh
huyệt để giấu mình, lại
lấy
cát vùi
lên trên.
32.
Giây
lát,
thuyền
của
Tiên
Dung
ghé
vào
đó; nàng dạo
chơi trên bãi
cát,
truyền lấy mùng
màn vây
kín cả chỗ lau sậy
để tắm.
33.
Tiên
Dung
vào
trong
màn,
cởi
áo
múc
nước dội tắm; cát chảy,
thân hình Đồng Tử
lộ ra,
hồi lâu Tiên Dung
biết là con trai.
Tiên Dung
nói:
-
Ta đã không
thích lấy chồng, nay
lại gặp người
này cùng lộ
thân với nhau trong một
huyệt
cát, có lẽ trời
khiến thế chăng? Thôi
ngươi
hãy dậy mà tắm
rửa đi.
Rồi
ban
cho
áo
quần,
cùng
nhau
xuống
thuyền ăn uống hoan lạc;
người trong thuyền đều cho
là một sự gặp gỡ tốt
lành xưa
nay chưa từng có.
34.
Đồng
Tử
nói
rõ
sự
tích
cho
Tiên Dung nghe;
Tiên Dung thương
xót, bảo làm vợ
chồng. Đồng Tử cố
từ. Tiên Dung
nói:
-
Việc này tự trời
tác hợp, việc gì
mà từ
chối?
35.
Những
người
tháp
tùng
vội
đem
việc
ấy tâu lên
với Hùng Vương;
Hùng Vương giận bảo
rằng:
-
Tiên Dung không
biết trọng danh tiết,
không biết tiếc
tiền của ta, đi chơi giữa
đường lại hạ giá, lấy
người
nghèo, còn mặt
mũi nào mà thấy
ta nữa, từ
nay mặc kệ nó,
không cho trở về nước
nữa.
36.
Tiên
Dung
nghe
tin,
sợ
không
dám
trở về mới
cùng với Đồng Tử mở chợ
búa, lập phố xá,
cùng nhân gian
mậu dịch, dần dần nơi ấy
thành một
ngôi chợ lớn (nay
là chợ Hà
Lõa); thương
nhân ngọai quốc qua lại
buôn bán,
kính sự
Tiên Dung Đồng Tử
làm chủ.
37.
Có
một
nhà
đại
thương
đến
nói
với Tiên Dung
rằng:
-
Quý nhân xuất ra
một thoi vàng, năm nay
cùng
với người nhà
buôn ra ngòai
biển mà mua vật
quý, sang năm sẽ lời
được một thoi.
Tiên
Dung
bảo
Đồng
Tử
rằng:
-
Vợ chồng ta do trời định
khiến, ăn mặc là của
trời cho,
bây giờ nên lấy
một thoi vàng
cùng với người
nhà buôn đi ra
biển mà mua hàng
đem về
làm kế sinh nhai.
38.
Đồng
Tử
bèn
cùng
đi
với
người
nhà buôn;
ngòai biển có
một hòn núi
tên
là Quỳnh Viên
Sơn; trên núi
có một
chiếc am nhỏ, người đi
buôn ghé thuyền ở
đấy mà
múc nước; Đồng Tử
lên chơi trên am,
có một
tiểu tăng tên là
Phật Quang truyền phép
cho Đồng
Tử. Đồng Tử mới lưu lại am
nghe thuyết pháp, giao
vàng
cho người đi buôn mua
hàng, dặn lúc
nào trở
về thì ghé lại
am để cho Đồng Tử về.
Nhà sư mới
tặng cho Đồng Tử một
cái gậy và một
cái
nón, bảo rằng:
-
Linh thông tại đây
đó.
Đồng
Tử
trở
về,
đem
chuyện
đạo
Phật
nói hết với Tiên
Dung, từ
đó giác ngộ, bỏ
chợ búa, nghề
buôn, đem nhau
đi tìm thầy học đạo.
Một hôm trời đã
tối mà
chưa đến nhà trọ, họ
mới ở lại giữa đường, cắm gậy
úp
nón lên
trên để che. Đêm
đến canh ba, thấy
hiện ra thành
quách, lầu son đền
báu, đài
các lăng miếu, kho
tàng miếu xà,
vàng bạc
châu ngọc, chiếu giường,
mùng màn,
tiên đồng
ngọc nữ, tướng sĩ thị vệ la
liệt đầy ở trước mặt.
39.
Sáng
ngày
ai
trông
thấy
cũng
lấy
làm kinh
dị, tranh nhau đem những vật
hoa hương, ngọc thực đến
dâng hiến
và xưng thần. Văn
võ bá quan
phân quân
túc vệ, biệt lập
thành một nước.
Hùng
Vương
hay
tin
cho
là
con
gái
mình
làm loạn
mới phát binh đi
đánh; quan quân
đến rồi, quần thần
xin phân quân
án ngữ.
40.
Tiên
Dung
rằng:
-
Chuyện này không
phải tự ta làm ra, cũng
là
trời giun gửi; sinh tử tại
thiên, ta đâu
dám chống
cha, phải thuận chịu điều
chính, chờ lệnh
chém giết.
Lúc
bấy
giờ
những
người
mới
tập
họp,
sợ
hãi mà chạy
tán loạn, chỉ
còn bọn người cũ ở lại
với Tiên Dung.
41.
Quan
quân
kéo
đến
đóng
doanh
ở
bãi Tự
Nhiên, chỉ còn
cách một con sông
lớn;
ngày sắp tối nên
chưa kịp tiến binh. Chừng đến
nửa
đêm, hốt nhiên
gió lớn thổi làm
nổi
sóng đổ cây; quan
quân đại loạn; bộ đảng,
thành quách của
nàng Tiên Dung
nhất thời nhổ
đi bay lên trời; đất ở
chỗ ấy sập xuống thành
một
cái đầm lớn.
Sáng ngày,
dân gian không
trông thấy thành
nữa, cho là linh dị
bèn lập
miếu đường, thời thường đến
tế, gọi đầm ấy là Nhất
Dạ Trạch,
châu ấy là Man
Trù Châu (hoặc
gọi là
Tự Nhiên Châu),
chợ ấy là Hà
Lõa Thị.
42.
Sau
đến
thời
Nam
Đế,
binh
nhà
Lương sang xâm chiếm
nước
ta, vua sai Triệu Quang Phục
làm tướng đem binh ngăn
giữ. Quang
Phục điều động dân
chúng tàng ẩn ở
trong đầm,
cái đầm ấy sâu
rộng bùn lầy,
khó bề tiến
lui; Quang Phục cỡi chiếc
thuyền độc mộc qua lại cho
tiện, thường
nhân đêm tối,
dùng thuyền mà
đột xuất
đánh phá cướp
lấy lương thực, làm kế
trĩ cửu cho
giặc kiệt quệ. Ba bốn năm
trường giặc không
đánh được.
Bá Tiên than
rằng:
-
Đời xưa gọi là đầm nhất
dạ thăng thiên,
ngày nay
lại là cái đầm
nhất dạ đạo kiếp.
43.
Gặp
lúc
Hầu
Cảnh
tác
loạn
bên
Trung Hoa, vua Lương
triệu Bá Tiên về,
ủy quyền cho tỳ tướng Dương
Sằn thống
lĩnh quần chúng.
Quang
Phục
trai
giới
thiết
đàn
ở
trong
đầm, đốt hương cầu đảo.
Thóat thấy thần
nhân cỡi rồng
giáng xuống giữa đầm,
bảo Quang Phục rằng:
-
Ta lên trời nhưng linh
dị còn ở đây,
người có
lòng thành cầu
đảo, ta đến để giúp
bình
loạn tặc.
Rồi
cởi
vuốt
rồng
đưa
cho
Quang
Phục
bảo giắt vào đầu
đâu
mâu, hễ đánh
đâu là được
đó.
Nói đoạn lại bay
lên trời. Quang Phục y
như lời dặn đem
binh đột kích, binh
Lương đại bại, chém
được tướng Dương
Sằn ở trận tiền, binh Lương
lui chạy.
Quang
Phục
nghe
tin
Nam
Đế
mất,
bèn
tự lập lên làm
Triệu
Vương, đóng đô ở
quận Vũ Ninh núi
Trâu Sơn.
Chú
thích
29.
Chử
Đồng
Tử
còn
bên
dưới
bậc
“khố rách áo
ôm”, tức khố cũng
không có để
mà rách,
vậy mà lấy được
công chúa
Hùng Vương
thì sự biểu lộ tinh
thần dân chủ cao độ
tuyệt không
có óc kỳ thị
đẳng phái giàu
sang. Đó
là điểm một.
35.
Điểm
hai
là
quyền
định
đoạt
và
sáng kiến của
Tiên Dung rất cao,
không những bên
trên Chử
Đồng Tử, mà còn
ngòai cả quyền cha.
Đó
là nói lên
giai đọan mẫu tộc còn
mạnh. Điểm
ba dầu vậy trời phật đều ủng
hộ, khi sống cho làm ăn
phát
đạt, khi chết còn được
linh ứng để giúp nước.
Từ số
37 đến 39 có nhiều pha
tạp lộn
xộn vừa trái với lịch
sử vì lúc ấy
đã
có đạo Phật đâu,
lại trái với môi
sinh
câu truyện quyền định
đoạt nơi Tiên Dung chứ
không
nơi Đồng Tử. Tuy nhiên
đoạn ấy nói lên
sự liên
lạc mật thiết sau này
giữa đạo Tiên và
đạo Phật.
XVI.
TRUYỆN PHÙ
ĐỔNG THIÊN VƯƠNG
44. Đời Hùng
Vương thứ
ba, thiên hạ thái
bình, dân vật đầy
đủ. An
Vương lấy sự thiếu lễ triều
cống, giả đi tuần thú
để xâm
chiếm nước ta.
45.
Hùng Vương nghe được
mới triệu
quần thần hỏi về kế hoạch
đánh hay giữ.
Có nhà
phương sĩ dâng lời
rằng:
-
Không gì bằng
cầu Long
Quân để nhờ âm
phù.
Hùng
Vương nghe theo mới đắp
đàn trai giới, đặt
vàng bạc lụa
là ở trên
bàn, đốt hương cầu tế
ba ngày thì
trời cảm sấm
mưa, thoắt thấy một
ông già cao hơn
sáu thước mặt
vuông, bụng lớn,
râu mày bạc
phơ, ngồi ở ngã
ba mà nói cười
ca múa; người ta
trông thấy,
ngờ là người phi
thường mới tâu với
vua. Vua thân
hành ra bái
yết, rước vào trong
đàn;
ông già
không ăn uống,
không nói năng
gì cả.
Hùng
Vương đến trước hỏi rằng:
-
Nay binh nhà An sắp
sang
đánh, hơn thua ra
sao, nếu có kiến thức
gì xin
bày cao cho.
46.
Ong già giây
lát
mò thẻ ra bói,
thưa với vua rằng:
-
Sau ba năm giặc mới qua
đánh.
Vua
lại hỏi kế hoạch để
đánh giặc,
ông già
đáp rằng:
-
Nếu có giặc đến
thì phải
nghiêm chỉnh
khí giới, tinh luyện
sĩ tốt để cho nước
có uy thế, rồi
tìm khắp thiên
hạ có ai dẹp
được giặc thì phong
cho tước ấp, hễ được người
ấy thì dẹp
được giặc ngay.
Nói
đoạn, bay lên
không
mà đi, mới biết
đó là Long
Quân.
47.
Vừa đúng ba năm,
biên binh
cáo cấp có
quân An sang,
Hùng Vương y theo
lời nói của
lão nhân, sai
sứ đi khắp thiên hạ
để tìm người dẹp
giặc.
48.
Sứ giả đến làng
Phù Đổng,
quận Vũ Ninh, trong
làng có một
ông nhà
giàu đã hơn
sáu mươi tuổi mới
sinh được một người
con trai ba tuổi không
biết nói, chỉ nằm
ngửa không
ngồi dậy được. Bà mẹ
nghe Sứ giả đến, nói
bỡn với con
rằng:
-
Sinh được thằng này
thì chỉ
biết ăn uống chớ không
biết đánh giặc để
lĩnh thưởng của
triều đình mà
đền ơn bú mớm.
Đứa
trẻ nghe mẹ, thình
lình
nói lên rằng:
-
Mẹ hãy gọi Sứ giả
vào
đây, con hỏi thử xem
là việc gì.
Bà
mẹ cả kinh, mừng rỡ
báo với
xóm làng:
-
Con tôi đã biết
nói.
Xóm
giềng cũng lấy làm lạ
mới
rước Sứ giả về nhà.
49.
Sứ giả hỏi rằng:
-
Mầy là đứa trẻ mới
biết nói
mà bảo kêu ta
đến làm gì?
Đứa
trẻ mới ngồi dậy bảo Sứ giả
rằng:
-
Lập tức về tâu với vua
đúc cho
ta một con ngựa sắt cao mười
tám thước, một gươm
sắt dài
bảy thước, một cái
nón sắt, trẻ
này cỡi ngựa, đội
nón đi đánh
giặc cho, giặc sẽ phải tan
tành,
nhà vua việc
gì mà lo.
50.
Sứ giả chạy về trình
cáo
với vua. Vua mừng bảo rằng:
-
Thế thì ta
không lo gì
vậy.
Quần
thần đều tâu:
-
Một người đánh giặc
làm sao
phá nổi?
Vua
nói:
-
Đó là Long
Quân
giúp ta, lời
lão nhân
đã nói trước
không phải là
lời nói không,
các ngươi
không nên ngờ.
Rồi
sai người tìm sắt cho
được năm
mươi cân luyện
thành ngựa sắt, gươm
sắt và
nón sắt; Sứ giả đem
tất cả đến; bà mẹ
thấy thế cả kinh,
sợ họa đến cho mình,
lo sợ hỏi con.
Đứa
trẻ cả cười nói rằng:
-
Mẹ đem cơm thật nhiều cho
con ăn, con đi
đánh giặc, mẹ đừng lo
sợ.
51.
Rồi đứa trẻ lớn rất mau,
áo cơm
hàng ngày
bà mẹ cung cấp
không đủ,
hàng xóm nấu
thêm cơm, làm
thịt trâu,
rượu, bánh,
trái, thế mà
đứa trẻ vẫn không
no bụng; vải lụa gấm
vóc mặc chẳng
kín hình, đều
phải lấy thêm hoa
cây hoa lau mà
che nữa.
52.
Đến khi quân
nhà An
kéo đến Trâu
Sơn, đứa trẻ mới duỗi
chân đứng dậy,
mình cao hơn mười
trượng, nghểnh mũi mà
nhẩy, nhẩy mũi
hơn mười tiếng rồi tuốt gươm
nói lớn lên
rằng:
-
Ta là Thiên
Tướng đây!
Bèn
đội nón nhảy
lên
ngựa, ngựa phi như bay,
múa gươm xông
đến trước, quan
quân theo sau đến
sát lũy giặc,
dàn trận dưới
núi Trâu Sơn.
Quân An cả vỡ, trở
giáo chạy
lùi, An Vương chết ở
Trâu Sơn, còn
dư đảng
thì la liệt sụp lạy
và hô rằng:
-
Thiên tướng,
chúng tôi
hết thảy xin đầu
hàng.
53.
Đứa trẻ đi đến núi
Việt Sóc
mới cởi áo mặc rồi
cưỡi ngựa bay lên
trời, chỉ lưu dấu
chân trên
đá ở dưới núi
mà thôi.
Hùng
Vương nhớ đến công
lao,
không biết lấy
gì đền báo mới
tôn làm
Phù Đổng Thiên
Vương, lập đền thờ ở vườn
nhà
làng ấy, cho ruộng
một trăm khỏanh để
làm lễ hưởng tế
xuân thu.
Đời
nhà An hai mươi bảy
vua, trải qua
sáu trăm bốn mươi
năm, không dám
đem binh sang
đánh nữa.
54.
Man Di bốn phương nghe được
như vậy cũng
đều thần phục, về phụ với
Vương. Sau vua Lý
Thái Tổ phong
làm Xung Thiên
Thần Vương, lập miếu tại
Phù Đổng
(nay ở huyện Tiên Du)
bên chùa Kiến
Phúc, tạc
tượng ở núi Vệ Linh,
xuân thu đều có
tế lễ vậy.
Có
bài thơ rằng:
Vệ
Linh năm tháng
đám mây
nhàn.
Muôn
tía nghìn hồng
chói thế gian.
Ngựa
sắt ở trời, danh ở sử.
Uy
linh lừng lẫy khắp giang
san.
Chú
thích
44.
Có bản chỉ nói
Hùng
Vương. Bản khác
nói Hùng Vương
thứ 6, thế
là sai với
tòan bích
nói đến số 3 năm lần:
-
Cầu đảo 3 ngày.
-
Ngồi ở ngã ba đường.
- 3
năm nữa giặc đến.
-
Ba năm sau.
-
Trẻ 3 năm mới nói.
Như
vậy đủ biết là
ý ẩn trong
số 3 đã quá
rõ.
45.
Có bản nói
ông
già cao hơn 9 thước
thì đúng hơn 6
thước,
vì tự 3 tới 9
là bộ huyền số đi
đôi.
50.
50 cân sắt làm
sao đủ
đúc ngựa, kiếm, mũ,
roi? Vậy quả là nghĩa
huyền sử 3, 5,
9 đầy đủ.
51&54.
Ý sâu xa
là
tòan dân
ngày thường chỉ biết
ăn làm những
khi giặc đến nhà
thì đàn
bà còn phải
đánh nữa là
đàn ông.
Câu truyện
nói lên
tình đòan kết
quốc gia mà hội
nghị Diên Hồng
là thí dụ.
Thánh Dóng
như vậy đã hiện
hình đẩy xâm
lăng rất nhiều lần.
XVII.
TRUYỆN BÁNH
DÀY BÁNH CHƯNG
55. Sau khi Hùng Vương
đãphá giặc An
rồi, trong nước thái
bình mới
lo việc truyền ngôi cho
con, hội hai mươi hai vị
công tử
lại mà bảo rằng:
-
Ta muốn truyền ngôi
cho đứa
nào làm vừa
lòng ta là đến
kỳ cuối năm biết
đem trân cam mỹ vị đến
dân cúng
Tiên vương để
tròn đạo hiếu
thì ta sẽ truyền
ngôi cho.
56.
Các công tử lo
đi tìm
các vị trân kỳ,
hoặc săn bắn, chài
lưới, hoặc mua ở
chợ, vụ được nhiều của ngon
vật lạ không biết bao
nhiều mà
kể. Duy có công
tử thứ chín tên
là
Lang Liêu, bà
mẹ hàn vi đã
lâm bệnh
mà quá cố rồi,
tả hữu lại ít người
nên
khó bề toan
tính, ngày
đêm thao thức ăn ngủ
không yên.
57.
Hốt nhiên mộng thấy
thần nhân
bảo rằng:
-
Trong trời đất không
có vật
gì quý bằng
gạo, vì gạo là
của để
nuôi dân, người
ta ăn mãi không
chán,
không có vật
gì đứng trước được;
nếu lấy gạo nếp
hoặc gói làm
hình tròn để
tượng trời, hoặc
gói làm
hình vuông để
tượng đất, ở trong
làm nhân cho
thật ngon, bắt chước
hình trạng trời
đất bao hàm vạn vật,
ngụ ý cái ơn
trời đất
phát dục vạn vật, như
thế thì lòng
cha sẽ vui,
tôn vị chắc được.
Lang
Liêu kinh sợ tỉnh dậy,
mừng rằng
“Thần minh giúp ta,
ta nên bắt chước theo
mà
làm”.
58.
Lang Liêu mới lựa hột
nếp
nào trắng tinh,
hoàn toàn
không sứt mẻ đem
vo cho sạch, rồi lấy
lá xanh gói
thành hình
vuông, bỏ nhân
ngon vào giữa, đem
nấu đi cho
chín, gọi là
bánh chưng. Lại lấy
nếp nấu xôi
đem quết cho thực nhuyễn,
nặn làm hình
tròn để
tượng trưng hình
trời, gọi là
bánh dầy.
59.
Đúng kỳ, Vương hội
các con
lại trưng bày phẩm
vật; các con đem
dâng
không thiếu thứ
gì, duy chỉ có
Lang Liêu đem
bánh tròn,
bánh vuông đến
dâng.
Hùng Vương lấy
làm lạ hỏi Lang
Liêu. Lang
Liêu trình
bày như lời thần
nhân đã
bảo. Vương thân
hành nếm thử
thì thấy vị ngon vừa
miệng ăn không
chán, phẩm vật của
các công tử
khác không sao
hơn được. Vương khen ngợi
giây
lát, rồi cho Lang
Liêu được giải nhất.
60.
Năm hết, Vương dùng
bánh ấy
dâng lên
Tiên Miếu và
cung phụng cha mẹ,
thiên hạ bắt chước
truyền đến bây giờ,
lấy tên của
Lang Liêu để gọi
là Tiết Liệu.
61.
Hùng Vương truyền
ngôi cho
Lang Liêu; hai mươi
mốt anh em đều giữ
các phiên
trấn, lập làm bộ
đảng, cứ thủ núi
sông để
làm hiểm cố.
62.
Về sau, họ hàng tranh
nhau
làm trưởng, mỗi người
dựng mộc sách để che
kính
bởi vậy gọi là
sách, là trại,
là trang,
là phường khởi thuỷ
từ đấy vậy.
Chú
thích
55.
Truyện Bánh
Dày Bánh
Chưng nói lên
nền triết lý bao la
như trời đất
nhưng lại gần gũi và
cụ thể như miếng ăn. Truyện
này dễ
hiểu nên đã
được khai thác nhiều
nhất. Nhưng huyền
số thì chưa được nắm
vững nên có
người nói
là Hùng Vương
thứ 8 thay vì thứ 3,
còn
Công Tử thì thứ
6! Mất hết ý nghĩa.
Đó
là vì chưa
nhìn ra liên hệ
3-9 là cả
một cơ cấu nền tảng
và sinh động từ 3 tới
9. Chữ Lang Liêu
nên đọc là
Liêu, tuy đọc Liệu
không sai
vì có cả 2
âm Liêu
và Liệu, nhưng
nên đọc Liêu cho
phân với Tiết Liệu
sau. Vả chữ
Liêu (bộ nhân)
đúng với ý
hơn: liêu
có nghĩa là
quan, lang Liêu
là quan Lang;
còn chữ Liệu (bộ hỏa)
không hợp nghĩa. Chắc
là
chép sai. Chú
ý câu:
“Thiên địa chi
vật dĩ mễ vi quý” tỏ
ra tinh thần nông
nghiệp trổi vượt
hơn cả những vật
khác. Nên nhớ
trong khoa bảng “Cổ
Nhân Chi Tượng” (kinh
Thư, thiên Ích
Tắc, câu
4) thì phấn mễ (bột
gạo) là một trong 12
tượng
đáng kính
tôn.
XVIII. TRUYỆN
DƯA HẤU
63. Ngày xưa, đời
Hùng
Vương có một
người tên
là Mai An
Tiêm, người
ngoại quốc, mới được bảy
tuổi, do thuyền
buôn chở đến.
Vương mua
về làm đầy tớ,
kịp lúc lớn
lên thì
diện mạo
đoan chính, nhớ
biết nhiều việc.
64.
Vương đặt tên
là Yển,
tên chữ là
An Tiêm và
cho một người thiếp,
sinh được một trai,
Vương yêu
dùng để sai bảo,
dần dần Yển
thành phú
quý, ai cũng
úy phục,
và
chen nhau đến dâng
lễ vật không thức
gì là
không có;
Yển sinh ra kiêu
mạn, thường tự bảo rằng:
-
Của cải này
là vật tiền
thân của ta, ta
không từng
trông nhờ
vào ơn
chúa.
65.
Hùng Vương nghe
được, cả giận
nói rằng:
-
Làm thần tử
mà nó
không biết ơn
chúa, sinh ra
kiêu mạn,
nói
rằng của cải đều
là vật tiền
thân của
nó. Bây
giờ ta đem bỏ nó
ra ngòai biển, ra
cái chỗ
không người ấy coi
thử nó có
còn cái
vật tiền thân của
nó nữa hay
không?
66.
Bèn đày
Mai Yển ra
ngòai bãi
cát của biển Nga
Sơn, tứ phía
không có
dấu chân người đi
đến, chỉ để cho lương
thực đủ dùng
trong bốn năm
tháng mà
thôi, ăn
hết là chết
đói. Chị vợ
khóc ầm
lên, bảo
rằng ta chắc chết ở
đây không
lý gì sống
được.
Tiêm
nói:
-
Trời đã sinh
thì trời phải
dưỡng, có lo
gì?
67.
Ở chưa bao lâu,
đương lúc
tháng tư, bỗng
thấy một con bạch hạc từ
phương tây bay
lại, đậu lên mỏm
núi cao,
kêu lên ba
bốn tiếng
thì sáu
bảy hạt dưa rơi
trên mặt
cát,
đâm chồi nẩy lộc,
lan trên
cát, xanh tốt
rườm
rà, rồi kết
thành trái
dưa, nhiều không
kể
xiết.
68.
An Tiêm mừng rỡ
nói:
-
Đây đâu phải
quái vật,
đó là trời
cho để nuôi ta
đó.
Bổ
dưa ra ăn thì
mùi vị thơm
tho ngọt ngào, ăn
vào thì
tinh thần khỏe khoắn,
rồi cứ mỗi năm trỉa
thêm, ăn
không hết
thì đem đổi
lấy lúa gạo
nuôi vợ con. Nhưng
không biết dưa ấy
tên là
gì, mới
nhân chim tha từ
phương
tây đem đến
nên đặt tên
là Tây qua.
69.
Những khách
chài lưới,
buôn bán,
ưa mùi vị của
nó đều đem phẩm
vật
của mình để đổi
lấy dưa. Nhân
dân xa gần,
trên
rừng dưới bến tranh nhau
mua hạt, bắt chước trồng
tỉa khắp bốn phương;
dân gian suy
tôn An Tiêm
làm “Tây
Qua
phụ mẫu”.
70.
Lâu ngày,
Vương nhớ đến An
Tiêm, sai người
đến chỗ An Tiêm ở
hỏi thăm có
còn sống hay
không.
Người
ấy về tâu lại với
Vương. Vương
than thở hồi lâu
mới nói rằng:
-
Nó bảo là
vật tiền thân
của nó, thực
là không
nói dối vậy.
Vương
bèn triệu An
Tiêm về, trả
quan chức lại và
cho tỳ thiếp, đặt
tên chỗ An
Tiêm ở
là “An Tiêm
Sa Châu”;
thôn ấy gọi
là
Mai An, đến nay
còn lấy tây
qua tôn phụng tổ
khảo
mà tế tự,
là khởi từ An
Tiêm vậy.
Chú
thích
Truyện
này nói
lên đức tự
lực cánh sinh gần
được như các con
của Au Cơ nghi mẫu: mẹ
không nuôi
chỉ vất ra ngòai
đồng vậy mà con
nào cũng lớn
mạnh. Đây
là muốn cụ thể
vào
một việc cho rõ
đạo tự cường tự lực tuy
đã nhiễm mầu
Phật, nhưng cũng
còn cậy
vào công cũ
nên vẫn
giữ được vẻ tự cường tự
lực của nhân
thoại.
XIX.
TRUYỆN BẠCH
TRĨ
71. Thời
Thành
Vương nhà
Chu, Hùng
Vương sai sứ
thần đem qua
dâng cho
nhà
Chu giống chim
Bạch Trĩ, nhưng
ngôn ngữ
bất thông,
Chu
Công sai
người dịch hai
lần mới hiểu.
72. Chu
Công hỏi
rằng:
- Người
Giao Chỉ cắt
tóc, vẽ
hình, để
đầu trần, đi
chân
không
là tại
làm sao?
Sứ giả
thưa rằng:
- Cắt
tóc để
tiện vào
rừng; vẽ
mình để
làm
hình
rồng, khi lặn
lội dưới nước
thì giao
long không
dám phạm
đến; đi
chân
không để
tiện trèo
cây,
cày dao,
đốt lửa,
gieo lúa;
đầu trần để khử
nóng bức,
ăn cau trầu để
trừ
ô uế
và
làm cho
răng đen.
73. Chu
Công hỏi:
-
Vì sao
mà đến
đây?
Sứ giả
thưa:
- Trời
không
gió lớn
mưa dầm,
biển không
nổi sóng
nay đã ba
năm, ngỡ
là
Trung Quốc
có
thánh
nhân
nên mới
sang
đây.
Chu
Công than
rằng:
-
Chính
lệnh không
đến,
quân tử
không bắt
người xa
làm
tôi, đức
trạch
không
thêm,
quân tử
không
hưởng của cống.
74. Kịp
nhớ đến
Hoàng Đế
có lời
thề rằng: “Giao
Chỉ ở phường
ngoại
không được
xâm phạm”,
mới thưởng cho
trọng vật,
khuyên răn
rồi bảo về. Sứ
giả
quên mất
đường về, Chu
Công cho
một cỗ xe hai
ngựa, khiến
cứ chỉ hướng Nam
mà về.
Đức Khổng
Tử làm
sách
Xuân Thu,
cho nước Văn
Lang là
đất yêu
hoang, văn
vật chưa
hoàn bị
nên bỏ
mà
không
chép
vậy.
Chú
thích
71.
Truyện Bạch Trĩ,
nói
lên ảnh
hưởng của Việt
Đạo lên
Bắc nhưng
đã
quá lu mờ
không
còn sắc
nét như
truyện cống
rùa (xin
xem lại
bài VIII
Vang Vọng Của
Nước Văn Lang)
nên người
chép
đã
thêm một
câu cuối
cùng về
Khổng Tử biểu lộ
sự quên
gốc trọn vẹn.
XX.
TRUYỆN
LÝ
ÔNG
TRỌNG
75. Cuối đời
Hùng
Vương, ở
huyện Từ
Liêm,
quận Giao Chỉ,
có một
người họ
Lý
tên
là
Thân,
sinh ra to
lớn, cao hai
trượng ba
thước, hung
tợn.
Thân
giết người,
tội
đáng tử
hình,
nhưng
Hùng
Vương tiếc
không nỡ
giết.
76. Đến
đời An Dương
Vương, Tần
Thủy
Hoàng
muốn đem binh
sang
đánh
nước ta, An
Dương Vương
bèn đem
Lý
Thân
cống hiến;
Thủy
Hoàng
được
Lý
Thân rất
mừng,
dùng
làm
quan Ty Lệ
Hiệu
Uy. Kịp
lúc
Thủy
Hoàng
thống nhất
thiên
hạ,
Thân
được sai đem
binh ra giữ
Lâm
Thao, Hung
Nô
không
dám gần
biên
tái
nên
Thân
được phong
tước Vạn
Tín
Hầu, và
được cho trở
về nước.
77. Sau
Hung Nô
xâm phạm
bờ
cõi,
Thủy
Hoàng
nhớ đến
Lý
Thân sai
sứ sang
vời;
Thân
không
chịu đi mới
trốn
vào
rừng khe; vua
Tần
trách
hỏi; An Dương
Vương
tìm
lâu
không
được,
nói dối
là
Thân
đã chết
rồi. Vua Tần
hỏi chết
vì cớ
gì, An
Dương Vương
trả lời
là đau
bệnh tả. Thủy
Hoàng
sai sứ sang
nghiệm xem
có phải
không
thì An
Dương cho nấu
cháo đổ
xuống ao để
làm
thực
tích.
Thủy
Hoàng
bảo lấy
thây đưa
qua; Lý
Thân bất
đắc dĩ phải tự
tận mà
chết; người
ta lấy thủy
ngân ướp
vào
thây
Lý
Thân
đưa sang nạp.
Thủy
Hoàng
than tiếc, bảo
đúc
đồng
làm
tượng
ông, ban
hiệu là
Lý Ong
Trọng;
tượng đặt ở
cửa Tư
Mã đất
Hàm
Dương, ruột
tượng
có
thể chứa được
vài
mươi người;
mỗi khi
có sứ
bốn phương
đến, vua sai
người
lén
vào
làm cho
tượng dao
động;
Hung Nô
tưởng
là Hiệu
Uy còn
sống,
không
dám đến
gần. Đến đời
nhà
Đường, Triệu
Xương sang
làm
Đô Hộ
Giao
Châu,
đêm mộng
thấy
cùng
với Lý
Thân
giảng
sách
Xuân Thu
của họ Tả,
nhân
đó hỏi
nhà cũ
ở đâu
rồi lập đền
thờ
phụng.
78. Kịp
lúc Cao
Biền
bình
Nam
Chiếu,
Lý
Thân
thường hiển
linh ứng; Cao
Biền
trùng
tu miếu vũ,
khắc gỗ
làm
tượng, gọi
là đền
thờ Lý
Hiệu Uy,
bây giờ
ở tại huyện Từ
Liêm,
xã Thị
Hiện
(nay là
xã Thụy
Hương)
cách
phía
tây
kinh
thành
năm mươi dặm,
mỗi năm đến tế
vậy.
Chú
thích
Truyện
này
còn
muộn hơn
truyện
Bạch Trĩ
và cũng
hàm
ý ảnh
hưởng của Việt
Thường
lên mạn
bắc, nhưng mạn
bắc cũng chỉ
tiếp nhận được
có
cái
xác,
còn hồn
thiêng
thì ở
lại
Việt. Hồn
Lý
Thân
có thể
tìm
trong con số
hai ba (cao
hai trượng ba
thước). Phần
xác lớn
lao hung tợn
(hai
trượng).
Còn hồn
thì
biểu lộ trong
vụ đọc
sách Tả
Thị tức tinh
thần tả nhậm
đại diện bằng
Tả Khâu
Minh quê
nước Sở (Kinh
Việt xưa) nơi
đề cao
phía tả
(tức
nguyên
lý mẹ).
XXI.
TRUYỆN VIỆT
TỈNH
79.
Việt
Tỉnh
ở
núi
Trâu
Sơn,
quận Vũ Ninh;
đời
Hùng
Vương thứ ba,
An Vương cử
binh nam
xâm,
đóng
quân ở
núi
Trâu
Sơn;
Hùng
Vương cầu Long
Quân
giúp,
Long
Quân bảo
tìm
khắp
thiên
hạ, nếu được
người kỳ
tài
thì dẹp
được giặc; đến
kỳ cầu
được Đổng
Thiên
Vương cỡi ngựa
sắt đi
đánh,
tướng sĩ
nhà An
đều tan vỡ. An
Vương chết ở
dưới
núi,
làm
Địa Phủ
Quân;
dân lập
đền thờ, bốn
mùa
cúng
tế nhưng
lâu năm
suy dần bỏ
thành
chùa
hoang.
80.
Người
bản
quốc
tên
là
Thôi
Lang
làm
quan
nhà Tần
đến chức Ngự
Sử Đại Phu
thường đi
ngang qua
đây,
thương cảnh
điêu
tàn mới
trùng
tu miếu vũ
lại,
nhân
đó
có đề
một bài
thơ:
Cổ
nhân
truyền
tụng
chuyện
An
Vương.
Tuần
thú
năm
kia
đến
địa
phương.
Núi
rậm,
nước
trôi
không
thấy
miếu;
Hồn
thăng,
dấu
để
vẫn
nghe
hương,
Một
mai
thắng
bại
không
An
đức,
Muôn
thưở
uy
linh
trấn
Việt
Thường.
Trăm
họ
từ
đây
đều
phụng
tự.
Am
phù
vận
nước
vững
vô
cương.
81.
Sau
đến
đời
Nhâm
Hiêu,
Triệu
Đà
nam xâm
lại
đóng
quân ở
núi
này,
lại
trùng
tu
miếu mạo,
cúng tế
hậu hĩnh; An
Vương cảm đức,
muốn đền
công cho
Thôi
Lạng mới sai
Ma Cô
Tiên đi
khắp
nơi.
Lúc bấy
giờ Thôi
Lạng đã
chết, chỉ
còn
con là
Thôi Vỹ.
82.
Tiết
thượng
nguyên
tháng
giêng,
phương
dân
đi
lễ đền,
có
người
cúng
một cặp
bình
pha lê.
Ma Cô
cầm lên
tay ngắm
nghía,
bỗng
bình
rơi
xuống đất, vỡ
sứt một mảnh;
người ta bắt
Ma Cô
lại đòi
bồi
thường; Ma
Cô mặc
áo
rách,
không ai
biết
là
người
tiên; họ
mới lấy roi
đánh.
83.
Thôi
Vỹ
thấy
thế
thương
hại,
cởi
áo đền
hộ
nàng;
Ma
Cô được
khỏi
đánh,
nhân
đó hỏi
đến chỗ ở của
Thôi Vỹ,
Thôi Vỹ
nói đến
tên cha
thì
nàng
mới hay
là con
Thôi
Lang.
84.
Nàng
mừng
bảo
rằng:
-
Ta bây
giờ
không
có lấy
gì để
đền ơn, sau
này
chàng
sẽ được hậu
báo.
Bèn
đưa
cho
Thôi
Vỹ
một
tấm
lá
ngãi
và dặn
rằng:
-
Hãy giữ
lấy vật
này cho
cẩn thận,
lúc
nào
cũng để trong
mình,
gặp bệnh nhục
ảnh
(cái
biếu)
mà đem
cứu tất khỏi,
rồi thế
nào
cũng được
giàu
sang
phú
quý.
Thôi
Vỹ
cầm
lấy
lá
ngải
nhưng
cũng
chẳng
biết đó
là
thuốc
tiên.
85.
Một
hôm
đi
đến
nhà
đạo
sĩ
Ứng Huyền,
thấy Huyền
có
một cái
nhọt
trên
đầu, Vỹ
nói:
-
Tôi
có
lá ngải
trị được bệnh
này, để
tôi trừ
cho.
Thôi
Vỹ
lấy
ngải
cứu
cho
Ứng
Huyền,
cái
nhọt của Ứng
Huyền liền
tiêu
tan. Ưng Huyền
nói:
-
Ay là
thứ thuốc
tiên
vậy, tôi
không
có
gì đền
đáp cho
anh, tôi
có một
người
thân
thích
cũng đau bệnh
này,
thường
nói
rằng ai chữa
cho bệnh
lành
được
thì dầu
hết gia
tài
cũng chẳng hề
tiếc,
tôi đem
anh qua
đó để
chữa
cho họ
và để
đền ơn anh.
86.
Ứng
Huyền
đem
Thôi
Vỹ
sang
nhà
Nhâm
Hiêu
(*),
Thôi Vỹ
lấy ngải ra
cứu,
cái
nhọt lập tức
lành
ngay.
Nhâm
Hiêu rất
mừng,
nuôi Vỹ
làm
con, mở
trường để dạy
Vỹ;
tính Vỹ
thông
minh, ưa
thích
đàn
cầm, thấy con
gái
Nhâm
Hiêu
là
Phương Dung
mới đem
lòng
yêu dấu,
nhân
cùng
nàng tư
thông,
tình
ý quyến
luyến, con
Hiêu
là
Nhâm Phu
biết được,
muốn
làm cho
Vỵ
chết.
87.
Đến
cuối
năm,
có
lễ
tế
thần
Xương Cuồng,
người ta chưa
tìm
được người tế
nên
Nhâm Phu
bảo Vỹ:
-
Ngày
nay
không
nên đi
ra
ngoài,
hay
vào
Công
sảnh mà
tránh
đi thì
sau
này
khỏi hối.
Thôi
Vỹ
chưa
hiểu
ý
là
làm
sao,
Nhâm
Phu
đã
khóa
chặt cửa lại,
bảo
không
được ra.
Phương
Dung biết
ý,
lén lấy
con dao đưa
cho Vỹ, bảo
đục
vách
mà ra.
88.
Đên
khuya,
Thôi
Vỹ
trốn
đi,
muốn
đến nhà
Ứng Huyền,
lật đật đi
trên
núi,
rủi rơi
vào
trong một
cái
hang, tứ
phía
đều là
vách
đá
không
có chỗ
nào
trèo
lên
được, ở
trên
có một
khối đá
rỏ sữa
đá chảy
xuống một
chiếc
mâm
đá,
có một
con rắn trắng
dài
trăm
thước, mỏ
vàng
miệng đỏ, vẩy
bạc, dưới cầm
có một
cái
bướu thịt,
trên
trán
có ba
chữ
vàng:
“Vương Tử
Xà”,
bò ra
ăn thạch nhũ;
thấy
trên
thạch
bàn hết
cả, rắn cất
đấu lên
thấy Vỹ toan
nuốt đi;
Thôi Vỹ
sợ quá,
quỳ xuống lạy
rằng:
89.
–
Thần
tỵ
nạn,
lầm
rơi
xuống
đây,
đó bụng
nên
có ăn
trộm vương
vật, thực
là
có tội,
dưới cầm
vương
có một
cái
nhọt, thần xin
lấy ngải cứu
lành,
xin tha tội để
thần trổ nghề
mọn
này.
90.
Bạch
Xà
lập
tức
ngẩng
đầu
lên
cho Vỹ cứu,
bỗng thấy đồng
nội bị
cháy,
một tia lửa
bay vào
trong hang, Vỹ
lấy lửa
cứu cho rắn,
cái
nhọt liền
tiêu
ngay. Rắn mới
khom
mình
đến trước Vỹ,
ý muốn
bảo Vỹ cỡi
lên, Vỹ
cỡi
lên lưng
rắn, rắn
bò ra
hang, ước một
canh
thì đến
trên bờ,
bờ vắng vẻ
không
có
người
nào đi
lại; rắn quấn
đuôi trở
về hang.
91.
Vỹ
đi
một
mình,
lạc
đường,
bỗng
thấy
trên cửa
thành
có một
cái lầu
cao,
ngói đỏ
lóng
lánh,
đèn
sáng
rực rỡ, trước
cửa có
treo
một tấm biển
đỏ chữ
vàng đề
là “An
Vương
Thành”.
Vỹ ngồi
bên cửa
thành,
hồi lâu
không
thấy
có
người
nào qua
lại mới bước
vào cửa
sân,
thấy bên
sân
có một
cái ao,
trong ao
có hoa
sen năm sắc,
trên bờ
có
nhiều rặng
hòa
liễu, đường
lát
bằng phẳng,
ngọc điện
châu
cung,
tòa
ngang
dãy
dọc;
trên
điện đặt hai
cái
giường
vàng
trải chiếu hoa
bạc,
trên
tường
có treo
một cây
đàn cầm
đàn
sắt. Vỹ thong
thả bước đến
lấy cây
đàn gảy
một hồi
lâu.
92.
Kim
đồng,
ngọc
nữ
vài
trăm
người
hầu, bà
An Vương cười
bảo rằng:
-
Thôi
Quan
Nhân ở
đâu lại?
Sai
người
mời
lên
trên
điện,
bảo
rằng:
-
Đền thờ của An
Vương ta
lâu đời
bỏ hoang phế,
nhờ sức của
Tiền
thân Ngự
Sử
trùng
tu lại, người
đời mới bắt
chước thờ
cúng
luôn
luôn.
Vương
đã sai
Ma Cô đi
tìm để
báo đức
nhưng
không
gặp được Ngự
Sử,
thì gặp
Công tử
nên chưa
có dịp
đền
đáp,
nay thân
được thấy mặt
thì
Thượng Đế
đòi
Vương
lên chầu
trời rồi,
thôi
Công tử
ở
lại đây
đợi vậy.
Rồi
lưu
Thôi
Vỹ
ở
lại
ăn
uống
no say.
93.
Bỗng
thấy
một
người
râu
dài
bụng
lớn, cầm một
tờ biểu quỳ
mà
tâu
rằng:
-
Tháng
giêng
ngày
mồng ba,
Nhâm
Ngao bị thần
Xương Cuồng
đánh
chết.
94.
Nghe
tâu
xong,
Hậu
bảo
rằng:
-
Dương Quan Hậu
đưa Thôi
Vỹ về trần.
Vỹ
cáo
tạ
mà
về.
Dương
Quan
bảo
Vỹ nhắm mắt
ngồi lên
trên một
chiếc quạt,
hơn một khắc
đã đến
trên
núi;
Dương Quan
Nhân
hóa
làm
dê
đá,
đứng ở
trên
núi,
ngày
nay hãy
còn sau
đền thờ Triệu
Việt Vương ở
núi
Trâu
Sơn.
95.
Sau
Vỹ
về
đến
nhà
Ứng
Huyền
thuật chuyện
cho Ứng Huyền
nghe. Đến
ngày
mồng một
tháng
tám, Vỹ
cùng
với Huyền
đi chơi
thì gặp
Ma Cô
Tiên dắt
một người con
gái cho
Thôi Vỹ,
bảo đem về
làm vợ
chồng, lại cho
hòn
ngọc Long
Toại,
nói
đó
là ngọc
châu, từ
thưở trời đất
mới khai tịch
đã
có một
cặp
trống
mái từ
đời
Hoàng
Đế trải đến
đời An truyền
làm thế
bảo; trong
trận
đánh
Trâu
Sơn, An Vương
đeo
nó
mà
chết, ngọc
châu dấu
trong đất
mà tia
sáng
chiếu thẳng
lên
trời. Thời
nhà
Tần, binh hỏa
liên
miên,
những vật
trân bảo
đều bị đốt
cháy;
các
nhà
vọng
khí đều
biết
hòn
ngọc Long
Toại
còn ở
phương nam.
Người
Tàu đem
vàng
bạc gấm
vóc trị
giá
trăm vạn để
tìm
mua; Vỹ
nhân đấy
đại
phú.
96.
Sau
Ma
Cô
Tiên
rước
vợ
chồng
Thôi Vỹ
đi không
biết là
đi đâu.
Nay giếng bỏ
hoang
thành
bẩn thỉu,
hang
thì
còn ở
núi
Trâu
Sơn. Người đời
gọi
là Việt
Tỉnh Cương
vậy.
Chú
thích
79.
Truyện
Việt
Tỉnh
có
tính
chất
triết
lý cao
độ nhất
vì vẽ
lại những
chặng tiến của
tâm thức
con người tự
xương
cuồng (chỉ đợt
bái
vật) qua nhục
ảnh (chỉ
ý hệ)
mà
lên tới
tâm linh
chỉ bằng
Thôi Vỹ
lấy được
tiên
nữ với
quà
tặng là
Ngọc Long Toại
(xem
bài
VIII
Vang Vọng của
Nước Văn
Lang).
Chữ
Cương
làm
liên
tưởng
tới
Hồng
Phạm
cửu
trù,
người
ta cũng quen
gọi trì
là đại
cương. Mỗi đại
cương lại bao
gồm một số
tiểu tiết
kêu
là điều
mục. Vì
thế khi
đọc Việt Tỉnh
Cương
thì
nó gợi
lại cơ cấu của
Hồng Phạm
với Lạc Thư
cũng như lược
đồ Loa
Thành
đều có
liên
hệ ngầm sẽ
bàn
trong quyển
“Sứ Điệp”.
Chú
ý
tới
nét
song
trùng
biểu
lộ
ở
Ngọc Long Toại
vẫn
đi đôi
sống
mái,
và khi
giao thoa
thì
làm ra
dạng tự chữ
ngải cứu.
86.
Nhớ
chữ
ngải
viết
với
bộ
thảo
trên chữ
nghệ,
nên
có
sức cứu
thoát.
Rồi cũng
nét
song
trùng
đó
kép
lên
thành
chữ tỉnh
nhái
lại
hình
chòm
sao tỉnh
(hình
vẽ) ở phương
nam đứng đầu
chòm
7 sao (Tỉnh,
Quỷ, Liễu,
Tinh, Trương,
Dực, Chẩn).
Nét
song
trùng
còn
hiện ra ở
lá cờ
Si Vưu (mỏ
vàng
miệng đỏ) nơi
con rắn
dài
trăm thước
(Bách
Việt thờ
rồng). Rồi
các số
3 là
nhịn ba
ngày,
ngải
hái
đã ba
năm. Bộ số hai
ba chuyển vận
đê
thành
Việt Tỉnh
Cương,
nên cuối
truyện giếng
hiện ra
cách
đột ngột.
Có
thể
truyện
“Việt
Tỉnh”
được
người
thu
lượm
trích
tài
liệu
từ quyển
Tài Ngu
Ký của
Trương
Quân
Phòng
đời Tống, hoặc
quyển Nam Hải
Cổ Tích
của Ngô
Lại đời
Nguyên
như Lê
Quý
Đôn ghi
chú,
thì
điều đó
cũng
không hề
làm
giảm bớt
giá trị
triết
lý của
câu
chuyện,
không
những
vì
đã được
tiêu
hóa,
nhưng nhất
là
vì
nó
chứng tỏ nguồn
gốc chung lớn
lao của đại
chúng
Việt tộc
mà
những quyển
kia cũng như
“Lĩnh Nam”
đã
múc tự
đấy. Nên
ghi nhận rằng
hình
ảnh
giếng
có
tính
cách
phổ cập
thí dụ,
trong
Plato cũng
có
truyện triết
gia Thales mải
nhìn
sao trăng
mà sa
giếng. Khi
những chuyện
có
tính
cách
phổ
quát
thì
nó dễ
thoát
khỏi
vòng
tay của sử gia
vì
nó
đã
trút bỏ
phạm
trù
thời
không để
thể hiện ở
nhiều đời,
lúc ấy
nó đi
vào
vòng
của triết tức
không
xét
nguồn gốc tự
đâu,
mà xem
cái
dạng thức
kết tinh nới
đó để
xem nó
nói
gì.
Nó
muốn
nói
lên sự
pha độ của đất
trời.
Không
được duy
thiên
(duy
tâm)
cũng
không
được duy địa
(duy vật)
nhưng cần
thiên
địa tương
tham, do con
người điều
động: vậy liều
lượng pha độ
đó
là 3
trời 2 đất.
Nói
tiên
thiên
thì dễ
nhưng trong
thực tế
thì
đó cả
là một
nghệ thuật cao
cả như
đã
nói
trong
bài Xứ
Nghệ.
XXII.
TRUYỆN KIM QUY
97. An Dương
Vương nước Au
Lạc
là
người ở Ba
Thục, họ Thục,
tên
Phán,
nhân
việc
tiên tổ
cầu hôn
với con
gái của
Hùng
Vương
tên
là Mỵ
Nương
không
được nên
sinh ra
hàm
oán;
Phán
muốn
hòan
thành
ý
chí của
tổ tiên
nên cử
binh
đánh
Hùng
Vương, diệt
nước Văn Lang,
cải hiệu
là Au
Lạc
mà ở,
đắp
thành ở
đất Việt
Thường;
thành
đắp xong
lại sập. Vương
mới lập
đàn,
trai giới cầu
đảo ba
tháng.
98.
Ngày
mồng bảy
tháng
ba bỗng
thấy một
ông
già
theo phương
tây
mà đến
thẳng
cửa
thành,
vừa đi vừa
than rằng:
-
Xây đắp
thành
này
thì bao
giờ cho xong!
Vương
rước
vào
trên
điện, lạy
và
khóc
rằng:
- Ta
đắp
thành
này
đã
xong lại đổ,
hao tổn
công sức
mà rồi
không
thành
là tại
làm
sao?
Ông
già
thưa:
-
Ngày
nào
có sứ
giả
Thanh Giang
cùng
đắp với Vương
thì
thành
ấy mới
xong.
Nói
đoạn
cáo từ.
99.
Rạng
ngày,
Vương đứng ở
cửa
Đông
trông ra
thì
thấy một con
rùa
vàng
theo hướng
Đông
mà bơi
lại;
rùa
đứng
trên mặt
nước,
nói
được tiếng
người, tự xưng
là
Thanh Giang sứ
giả, biết
rõ lẽ
trời đất,
âm
dương, quỷ
thần.
Vương
mừng hỏi rằng:
- Điều
đó
ông
già
đã
báo cho
ta rồi.
Bèn
sai lấy kim dư
rước
vào
trong
thành,
mời ngồi
trên
điện, hỏi
vì cớ
gì
mà
thành
không
đắp được.
100.
Kim Quy
nói:
- Ở
đây
có tinh
khí
núi
sông,
con Tiên
vương phụ
vào để
báo
thù
nước, lại
có con
gà
trắng sống
ngàn
năm hóa
làm
yêu tinh
ẩn ở
núi
Thất Diệu,
trên
núi
có con
quỷ,
nguyên
trước
là một
nhạc
công
chôn cất
ở đây
hóa ra
quỷ. Ở
bên
có một
cái
quán để
cho
hành
khách
qua lại ngủ
nhờ; chủ
quán
tên
là Ngộ
Không,
có một
đứa con
gái
và
một con
gà
trắng
là dư
khí của
quỷ thần. Hễ
có
người
khách
nào qua
lại đến đấy
ngủ nhờ
thì quỷ
tinh
hóa ra
thiên
hình
vạn trạng
mà giết
hại rất nhiều.
Bây giờ
ta nên
bắt con
gà
trắng
và đứa
con gái
của chủ
quán
mà giết
đi thì
tinh
quái sẽ
hết. Nhưng
chắc
là
nó lại
hóa ra
yêu thư,
sai chim
cú
ngậm thư bay
lên
trên
cây
chiên
đàn,
tâu với
Thượng Đế để
xin phá
thành
ấy đi. Thần
này xin
cắn cho rơi
cái thư
ấy xuống,
Vương lập tức
thu
lất tất
nhiên
thành
đắp mới xong.
101.
Kim Quy bao
Vương giả
làm
khách
đi đường xin
ngủ nhờ trong
quán.
Vương để Kim
Quy ở
trên
ngưỡng cửa.
Ngộ
Không
nói:
-
Quán
này
có
yêu
tinh,
đêm
thường giết
người, Lang
Quân
không
nên ở
lại, vả nay
trời cũng chưa
tối, nên
đi mau đến chỗ
khác để
tránh
họa.
Vương
cười rằng:
- Sinh
tử tại mệnh,
quỷ mỵ
mà
làm
gì, ta
không
sợ.
Mới ngủ
lại đó.
102.
Trong
đêm
có quỷ
tinh đến
ngoài
kêu
rằng:
- Ai ở
trong
nhà
này
phải mở
cửa ra mau.
Kim Quy
mắng rằng:
- Cửa
đóng
thì
mày
làm
gì
nào?
Quỷ
tinh
phóng
hỏa tan ra vạn
trạng,
quỷ dị đủ
phương để
khủng bố nhưng
rốt cuộc cũng
chẳng
vào
được
nhà.
103.
Đến lúc
gà
gáy,
các quỷ
đều chạy tan,
Kim Quy khiến
Vương đuổi
theo đến
núi
Thất Diệu, quỷ
tinh thu về
hết cả, Vương
trở lại
quán
trọ.
104.
Sáng
ngày,
chủ
quán
đem người đồng
đến để
chôn thi
thể của
khách
ngủ lại
hôm qua,
thấy Vương
ngồi
đó,
nói
cười như
không
có
gì cả.
Quán
chủ bước đến,
vái lạy
rằng:
- Lang
quân
được như thế
tức là
Thánh
nhân
rồi, xin ban
linh thuật để
cứu sinh linh.
Vương
bảo:
-
Hãy
giết con
gà
trắng của
mày
mà tế
thì quỷ
thần tan hết.
Ngộ
Không
giết con
gà
trắng
thì đứa
con gái
tự nhiên
cũng
nhào
xuống
chết. Vương
lập tức bảo
người
đào
núi
Thất Diệu,
được một
nhạc
khí đời
cổ và
một hài
cốt, sai đốt
trộn
thành
tro mà
quăng ra
sông.
105.
Lúc bấy
giờ trời
đã gần
chiều, Vương
cùng
Kim Quy leo
lên
núi
Việt Thường,
quỷ tinh
đã
hóa ra
chim si hưu
ngậm thư bay
lên
cây
chiên
đàn.
Kim Quy
bèn
hóa ra
một con
chuột
mà
bò theo
sau lưng cắn
chân
chim; thư rơi
xuống đất;
Vương lập tức
thu lấy
thì
sâu
đã ăn
hết
hơn một nửa
rồi.
Từ
đó, quỷ
tinh tan hết,
không
lại phá
phách
như xưa nữa.
106. An
Dương Vương
đắp
thành
nửa
tháng
đã
xong;
thành
dài
và rộng
nghìn
trượng,
xoáy
tròn
như
hình
con ốc,
lại đặt
tên
là
thành
Thăng Long
(chắc sai; bản
của
Despierres ghi
là Tư
Long). Người
nhà
Đường gọi
là
thành
Sát Quỷ
Lôn bởi
vì
thành
rất
cao lớn.
107.
Kim Quy ở lại
với Vương ba
năm rồi từ
về; Vương bảo
rằng:
- Nhờ
ơn của người,
thành
đã
vững chắc, nếu
như có
việc
ngoài
thì lấy
gì
mà
chống giữ?
Kim Quy
thưa:
- Quốc
độ tu đoản,
xã tắc
an nguy
là vận
của trời,
nhưng người
biết tu đức
thì
có
thể lâu
dài
được, Vương
đã
có
lòng
ước nguyện
thì
tôi
đâu
dám
tiếc.
Mới cởi
cái
móng
chân đưa
cho Vương
và
nói:
- Thản
hoặc giặc
có đến
thì
dùng
móng
này
làm
máy nỏ,
đem ra
mà
đánh
giặc
thì
không
có
gì
đáng
lo.
Nói
đoạn trở về
Đông
Hải.
108.
Vương khiến
bầy tôi
là Cao
Lỗ làm
nỏ, lấy
móng
này
làm
máy,
hiệu là
Linh Quang Kim
Trảo Thần Nỗ;
sau Triệu
Đà đem
quân đến
xâm
lăng,
cùng
Vương giao
chiến; Vương
dùng
thần nỗ
mà bắn,
quân
Triệu
Đà thua
chạy,
đóng
đồn ở
núi
Trâu
Sơn, đối luỹ
với Vương.
Triệu
Đà biết
Vương
có nỏ
thần nên
không
dám
tái
chiến mới
khiến sứ thỉnh
hòa.
Vương mừng,
cắt từ
sông
Tiểu Giang trở
về phương Bắc
cho Triệu
Đà cai
trị, trở về
phương Nam
thì do
Vương cai trị
(nay là
sông
Nguyệt Đức).
109.
Chưa được bao
lâu,
Đà sai
con vào
túc vệ
cầu hôn
với con
gái
Vương
là Mỵ
Châu;
Vương bất
ý
không
ngờ gian kế
của
cha con Triệu
Đà;
Trọng Thuỷ dỗ
Mỵ Châu
trộm lấy nỏ
thần
cho xem, rồi
lén
làm nỏ
khác
đổi lấy vuốt
rùa
giấu đi,
nói dối
với Mỵ
Châu
là trở
về
Bắc thăm cha
mẹ.
110.
Nhân
đó
nói
rằng:
-
Tình
phu phụ
thì
không
nỡ quên,
mà ơn
phụ tử cũng
không
nên bỏ,
ta
nay về thăm
cha mẹ
mà vạn
nhất hai nước
thất
hòa,
Nam Bắc
cách
biệt, ta trở
lại tìm
nàng
thì
nàng
lấy vật
gì
mà
làm
giấu cho ta
biết.
Mỵ
Châu
nói:
- Thiếp
là nhi
nữ gặp phải
bước
phân ly
thực
khó
thắng được
tình
cảm; thiếp
có
chiếc nệm gấm
lông
ngỗng thường
mang
trên
người,
đến lúc
ấy thì
thiếp lấy
lông
ngỗng
mà rải
ở
các
ngã ba
để chỉ cho
chàng
biết chỗ thiếp
mà đến
cứu.
111.
Trọng Thuỷ từ
tạ, cắp nỏ
mà về
báo
cáo với
Triệu
Đà,
Đà được
nỏ rất mừng
liền
phát
binh
đánh
Vương; Vương
không lo
phòng
bị, mải
đánh cờ
vây,
cười rằng:
-
Đà
không sợ
nọ thần của ta
sao?
Đến
lúc
quân
Triệu
Đà
tiến bức,
Vương mới
xách nỏ
ra bắn
thì
thần cơ
đã
mất;
quân
chạy tan loạn.
112.
Vương chở Mỵ
Châu
lên ngựa
chạy về hướng
Nam, đến bờ
biển,
cùng
đường,
không
có
thuyền để sang
ngang, Vương
hét lớn
lên
rằng:
- Trời
để mất ta hay
sao? Giang sứ
đâu
mau đến cứu
ta.
Kim Quy
nổi lên
trên mặt
nước,
mắng rằng:
- Người
cỡi ngựa ở sau
lưng là
giặc
đó,
hãy
giết nó
ta mới cứu.
Vương
bèn
tuốt gươmg
chém Mỵ
Châu.
Mỵ
Châu
ngửa mặt
lên trời
mà cầu
xin:
- Thiếp
là con
gái,
nếu
có
lòng
phản nghịch
mưu hại đến
phụ thân
thời chết
hóa
thành
bụi trần, bằng
như một niềm
trung
tín,
bị người phỉnh
phờ thời
hóa
làm
ngọc
châu để
rửa
cái
thù
nhục
nhã
này.
113. Mỵ
Châu
chết ở bờ
biển,
máu
chảy
trên
nước,
hàu hến
ăn vào
lòng
hóa
thành
minh
châu.
114.
Vương cầm sừng
văn tê
bảy tấc, Kim
Quy rẽ nước
dẫn Vương
vào
biển, đời
truyền tại
núi Mộ
Dạ,
làng
Cao Xá,
châu
Diễn tức
là chỗ
đó
vậy.
115.
Quân
Triệu
Đà đến
chỗ ấy
không
thấy gì
hết, chỉ thấy
tử thi của Mỵ
Châu;
Trọng Thuỷ
ôm
thây
nàng
mà về
chôn ở
Loa
Thành,
hóa
làm
ngọc thạch.
Trọng Thuỷ
thương
cảm vô
cùng,
thấy là
những chỗ
trang điểm hay
tắm
gội của Mỵ
Châu,
tưởng nhớ đến
hình
dung của
nàng
bèn
nhảy xuống
giếng
mà
chết. Sau
này, ai
được
Ngọc
Châu ở
Đông
Hải,
càng
múc
nước giếng ấy
mà rửa
thì sắc
ngọc
càng
thêm rực
rỡ.
Nhân
tránh
tên Mỵ
Châu
nên gọi
ngọc
châu
là Đại
Cưu, Tiểu Cưu
vậy.
Chú
thích
97.
Truyện Kim Quy
cũng
hàm ngụ
triết
lý cao
độ, mà
kết hậu
cách bi
đát
nhất,
nhưng bi
đát
mà đồng
thời cũng
là bi
tráng
với cấu kết
có hậu
mặc dầu
là hậu
mông
lung
bí ẩn,
nhưng
có thể
hiểu vì
nó đặt
liền sau
truyện Việt
Tỉnh Cương.
|
XXIII.
TRUYỆN MAN
NƯƠNG
116. Thời Hiến
Đế nhà
Hán,
quan
Thái
thú
tên
là Sĩ
Nhiếp
đắp
thành ở
phía
Nam sông
Bình
Giang (nay
là
thành
phía
Nam sông
Thiên
Đức). Ơ
phương Nam
có một
ngôi
chùa
gọi là
chùa
Phúc
Nham,
có một
nhà sư
từ phương
Tây đến,
hiệu là
Già-La-Đồ-Lê,
trụ trì
ở chùa
ấy, hay
làm
phép
đứng một
chân;
trai
gái,
trẻ tín
mộ,
kính
phụng
tôn hiệu
làm
Tôn sư,
ai nấy đều cầu
học đạo Phật.
117.
Lúc bấy
giờ có
một người
con gái
tên
là Man
Nương, cha mẹ
đều đã
mất,
nhà
nghèo
khổ nhưng cũng
dốc
lòng
cầu đạo, chỉ
vì
nói
ngọng,
khó
tụng kinh
chung với mọi
người
nên
thường ở sau
bếp giã
gạo nhặt rau,
lo việc nấu
thổi để
cung dưỡng
các sư
trong
chùa
và học
giả bốn phương
đến học đạo.
118.
Khoảng trời
tháng
năm, đêm
lại ngắn ngủi,
Man Nương vội
vã lo
thổi nấu cho
xong.
Nàng
nấu đã
xong
xuôi,
nhưng
các sư
còn
tụng kinh chưa
nghỉ để ăn
cháo;
Man Nương ngồi
chờ,
ngủ gật ở
ngạch cửa
không
ngờ quên
lửng nằm ngủ
say. Đến
khi tăng đồ
tụng niệm
xong, ai về
phòng
nấy thì
Man Nương
còn nằm
ở cửa;
nhà sư
Đồ-Lê
bước ngang
trên
mình
nàng,
Man Nương hồn
nhiên
tâm
động, từ
đó
có
thai. Trong
khoảng được ba
bốn
tháng,
Man
Nương lấy
làm xấu
hổ bỏ đi,
nhà sư
Đồ-Lê
cũng
tránh
đi đến
chùa
ngả ba đầu
sông
mà ở.
119.
Mãn
nguyệt, Man
Nương sinh
được
một đứa con
gái
và
tìm
nhà sư
để giao lại.
Đêm
khuya,
nhà sư
Đồ-Lê
đến dưới
cây đa ở
ngã ba
đầu sông
mà đặt
đứa con
gái
và
nói:
- Ta
gửi Phật tử
này cho
mày,
mày giữ
lấy, sau được
thành
Phật đạo.
120. Sư
Đồ-Lê
và Man
Nương từ
biệt nhau
mà đi.
Đồ-Lê
cho
nàng
một chiếc gậy
và bảo
rằng:
- Ta
cho em
cái gậy
này
mà đem
về, hễ gặp năm
nào
trời đại hạn
thì lấy
gậy
vẩy vẩy dưới
đất tự
nhiên
có nước
chảy ra để cứu
người ta.
Man
Nương cầm gậy
trở về, lại ở
chùa
như trước; gặp
năm trời hạn,
nàng
lậy gậy vẩy
trên
đất, tự
nhiên
có nước
suối chảy ra
ào
ào,
dân
chúng
được nhờ vả
rất nhiều.
121.
Khi Man Nương
đã hơn
tám
mươi tuổi
thì bất
đồ cây
đa bị lật đổ
trôi đến
trước
bên
chùa,
quanh quẩn ở
đó
không
trôi
đi; người ở
đó đua
nhau bửa củi
thì
búa
rìu
đều bị
gãy mẻ
hết;
làng
xóm rủ
nhau ba trăm
người
đến kéo
cũng
không
chuyển động.
122.
Gặp Man Nương
xuống bến rửa
tay,
nàng
khẽ lấy tay
kéo
thử, cây
lập tức chuyển
động
trôi
vào, ai
nấy kinh dị,
vội bảo Man
Nương
kéo
thẳng
lên bờ,
khiến thợ mộc
trổ làm
bốn pho tượng
Phật;
kịp lúc
đẽo đến giữa
cây, chỗ
giấu người con
gái
thì chỗ
ấy đã
hóa
thành
một phiến
đá
rất cứng;
người thợ đẽo
đúng
vào chỗ
đó
thì
rìu
búa mẻ
hết, mới lấy
phiến
đá
ném
xuống
giữa
sông;
phiến
đá
phóng
xuất hỏa
quang, giờ
lâu mới
chìm
xuống nước;
các
người thợ đều
chết
hết. Mọi người
đều xin nhờ
Man Nương van
vái
mướn kẻ
chài
lặn xuống nước
vớt lên,
rước
vào
điện Phật, lấy
vàng
tô
lên
mà
phụng thờ.
123. Sư
Đồ-Lê
mới đặt
tên cho
bốn
pho tượng Phập
là:
Pháp
Vân,
Pháp
Vũ,
Pháp
Lôi
và
Pháp
Điện.
Già trẻ
gái
trai bốn
phương thường
nhóm
họp ở
chùa
này
chơi
đùa ca
múa,
gọi là
hội tắm Phật,
đến nay đang
còn
vậy.
Chú
thích
116.
Truyện Man
Nương trước
chúng
tôi
tính
bỏ, nhưng
vì
đã được
thâu
nhận
vào
sách
nên xin
giữ lại,
vì
nó
nói
lên sức
mạnh chuyển
hóa của
Việt Lý
biến
Kim Phật
Tây
Trúc ra
Mộc Phật
Đông
Phương. Biến
tam
bảo Phật,
Pháp
Tăng ra
Giác,
Chính,
Tính
(xem lại
bài
VIII Vang Vọng
của nước Văn
Lang). Xem
những số
Tây
Phương 4, 8 bị
tràn
ngập bởi
các số
Việt 2, 3
(300), 5
làm
liên
tưởng tới vụ
ông Cổn
là gấu
4 chân
đổi ra 3
chân.
Nhà Chu
ban đầu
đúc
đỉnh 4
chân,
sau đúc
3 chân
cũng là
tiến
trình
từ Tây
sang
Đông.
|
XXIV.
TRUYỆN
NÚI
TẢN VIÊN
124.
Núi Tản
Viên ở
phía
tây kinh
thành
nước Nam Việt,
núi
đứng cao thẳng
như
hình
một cái
lọng nên
đặt tên
như vậy.
125.
Xưa kia vua
Lạc
Long cưới
nàng
Âu Cơ,
sinh được một
bọc trăm
trứng, Long
Quân đem
năm mươi trai
về biển, năm
mươi trai theo
mẹ về
núi,
phân trị
thiên
hạ, hiệu
là
Hùng
Vương; Tản
Viên Sơn
Đại Vương
là một
người con
trong số
năm mươi trai
chia về
đó.
126.
Vương từ hải
quốc
do cửa biển
Thần
Phù
mà về,
tìm một
nơi cao
ráo
thanh u,
dân tục
thuần hậu
mà ở,
mới
chèo
thuyền từ
sông
Cái đến
làng
Long Đậu
thành
Long
Biên,
toan
muôn lưu
lại đó
nhưng
còn
ý
gì bất
mãn,
nên sau
lại
chèo
thuyền từ
sông
Linh Giang đi
lên đến
làng
Phiên
Tân ở bờ
sông
Phúc
Lộc.
127.
Vương
trông
thấy
núi Tản
Viên
tú lệ,
ba hòn
sắp
hàng
đứng, nghiễm
nhi6n như vẽ;
dân ở
dưới
núi,
tục
chuộng tổ
phác.
Vương khi ấy ở
một con đường
thẳng như
dây
đàn từ
làng
Phiên
Tân
mà đến
bên
núi Tản
Viên, đi
đến Uyên
Đông,
lại đi đến
Nham Tuyền
là chỗ
nguồn
khác,
rồi đi
lên
núi
Thạch
Bàn đầu
non Vân
Mộng mà
ở; hoặc
có khi
chơi
sông
Chiết Giang để
xem cá,
phàm
kinh qua
đường
thôn đều
xây đền
vũ để
làm nơi
nghỉ ngơi.
Nhân
những vết
chân ấy,
người đời sau
lập đền thờ
phụng,
hạn thì
đảo, lụt
thì
cầu, ngự hỏa
tai, ngăn đại
hạn mau
hơn tiếng
vang, cực kỳ
linh ứng. Lại
gặp
ngày
trời trong
sáng
như có
hình
trạng
cái
tàn
phất
phới
trên
hang
núi,
những
dân ở
làng
phụ cận
đều bảo
là sơn
thần xuất
hiện.
128.
Cao Biền
nhà
Đường ở An Nam
muốn yểm linh
tích
các nơi
danh
thắng mới mổ
bụng mười bảy
người, tất cả
đều là
con gái
chưa chồng, bỏ
ruột đi, lấy
cỏ chi độn
vào
ruột, cho mặc
áo
xiêm để
ngôi
trên ghế
ỷ, dùng
trâu
bò
mà tế,
nhằm
lúc
nào
thấy cử
động thời lấy
gươm
chém
đi.
Phàm
muốn
đánh
lừa
các
thần đều
dùng
thuật ấy. Cao
Biền thường
lấy thuật ấy
trêu
thần
núi Tản
Viên
thì
thấy Vương cỡi
ngựa trắng
đứng
trên
mây,
khạc nhổ
mà đi.
Cao Biền
than rằng:
- Linh
khí Nam
phương chưa
thể trắc lượng
được, vương
khí
đâu
khá
diệt được, uy
linh hiển ứng
là thế.
129.
Tục truyền
Vương
và Thuỷ
Tinh
cùng
cưới con
gái
Hùng
Vương
là Mỵ
Nương: Vương
đủ lễ cưới đem
đến trước;
Hùng
Vương
gả cho; Vương
rước vợ về ở
trên
núi Tản
Viên.
Thuỷ
Tinh đến sau
mới hàm
oán,
đem cả
loài
thuỷ tộc
đánh
Vương để đoạt
Mỵ Nương lại.
Vương
bèn
dùng
lưới sắt chặn
ngang
sông Từ
Liêm để
trấn
át.
Thuỷ
Tinh khơi
riêng
một con
sông nhỏ
từ sông
Lý
Nhân ra
sông
Hát
vào
sông
Đà để
đánh
sau lưng
núi Tản
Viên.
Lại mở
thêm một
lối nhỏ từ
Tích
Giang đi đến
trước
núi Tản
Viên,
trải qua
các
làng
Cam
Giá,
Đông
Lâu,
Thạch
Kê, Ma
Xá, Dục
Giang,
xói lở
thành
vụng sâu
để thông
loài
thuỷ tộc,
thường lại nổi
cơn
gió mưa
mù mịt,
dâng
nước lên
để đánh
Vương.
Nhân
dân ở
núi đều
chẻ tre đan
làm
rào
thưa để che
đỡ,
đánh
trống,
giã
gạo, reo
hò để
cứu, mỗi khi
thấy
rác
rêu
trôi ở
ngoài
rào
thưa
thì bắn
trùng
chết hết hiện
thành
hình
trạng giao
long,
cá
trạch
trôi
đầy sông
ngòi.
Quần
chúng
thuỷ tộc bị
thua trở về,
lòng
vẫn chưa
nguôi
nên
thường đến
khoảng
thàng
tám,
tháng
chín
có
nhiều trận
lụt,
mùa
màng bị
hại, dân
ở dưới
núi
chịu
thiệt hơn
đâu hết,
đến nay vẫn
còn.
130.
Người đời đều
bảo
Thuỷ Tinh, Sơn
Tinh đều cưới
vợ vậy
đó.
Chú
thích
Truyện
này
nói
lên sự
vững bền của
Việt lý
sẽ đời đời
còn
đó
không ai
yểm được.
Những người
đang cố
công
vùi lấp
nó đi
như Việt cộng
đang
làm sẽ
bị nhổ
vào mặt
như Cao Biền.
Nền minh triết
đó
xây
trên số
3 “Tam Sơn La
Vị”, đốivới
sông Nhị
Hà
làm ta
liên
tưởng tới cơ
cấu tam lưỡng
(2-3). Nhất
là khi
ta ngó
lại cũng
chính
thần Tản
Viên
nhận được
sách
ước 3 trang
mà lại
chỉ
dùng
có 2
trang hỏa mộc
(2-3) như
đã
nói nơi
khác.
|
THÊM
MỘT SỐ TRUYỆN
Thế hết
là Kinh
Hùng.
Có thể
thêm
phần hai gồm
những
truyện linh
phù giữ
nước như
truyện:
Hai
Bà
Trưng,
Thần
sông
Tô Lịch,
Thần
núi
Hồng
Lĩnh,
Thần
Đồng Cổ…
Đó
là
những thần của
nước non,
nói
lên
lòng
yêu
nước thương
nòi đến
cùng
tột nên
dầu đã
khuất
mà
“khí
anh linh” vẫn
phù trợ
con
cháu
gìn giữ
non
sông,
thì đủ
biết tinh thần
yêu nước
mạnh đến độ
nào.
Tuy
nhiên
chỉ 15
truyện
trên
đã đủ
nói
lên
những yếu tố
kiến
quốc, cứu quốc
cách
rất thâm
sâu đầy
đủ, còn
những truyện
khác
đã
thuộc thời
có sử
nên để
vào sử
hoặc truyện
cổ.
Đọc
xong 15
truyện
trên
theo
ánh
sáng
triết sẽ nhận
ra chưa
đâu
có một
chuỗi truyện
liên
tiếp
nói
lên nền
triết
nhân chủ
sâu xa
như vậy.
Chúng
tôi
có
ý định
in cả phần chữ
Nho có
phiên
âm tiện
cho những
người muốn học
thêm chữ
Nho
qua bộ Triết
Lý An
Vi, nhưng chưa
thể thực hiện
được. Hy vọng
sẽ
làm
được khi in
ngũ luận.
|
GIỖ TỔ
HÙNG
VƯƠNG
Kính
thưa
quý vị,
Hôm
nay
chúng
ta hội nhau để
giỗ
tổ Hùng
Vương, một lễ
trọng đại hơn
hết của Việt
Nam vì
bao hàm
không
những Tổ Quốc
mà
luôn cả
Tổ
Người.
Càng
trọng thể hơn
nữa vì
đây
là một
lễ đặc trưng
của Việt Nam
không
một nơi
nào
khác
trên thế
giới có
cả, các
nơi chỉ
có
ngày
Quốc
Khánh
hầu hết
là để
kỷ niệm một
biến cố
lịch sử
nào
đó như
phá ngụ
Bastille của
Pháp,
hay
ngày
4th July của
Mỹ, cũng chỉ
là ăn
mừng Độc Lập
chứ
không
phải là
giỗ tổ theo
hai nghĩa
trên
nói
lên sự
độc lập cả
hàng
dọc đối với
đất trời, cũng
như
hàng
ngang đối với
các bạo
lực
chuyên
chế.
Chính
vì
nét đặc
trưng
đó,
nên
chúng
tôi xin
nói
ít
lời về hai
ý nghĩa
trên.
Vậy trước hết
là giỗ
Tổ
Người.
Ngày
giỗ
Tổ của Việt
Nam có
thể
gọi được
là
ngày
sinh nhật của
con người
mà
Hùng
Vương
là một
điển
hình,
một mẫu mực cổ
sơ tức
một mô
thức phổ biến
của con người
Đại Ngã
Tâm Linh
được Việt Nho
quan niệm như
là “nơi
quy tụ đức của
Trời
cùng
Đất”
(nhân
giả kỳ
thiên
địa chi đức),
nghĩa
là một
vật lưỡng
thê sống
cả hai chiều
kích:
cả
tâm lẫn
vật.
Chính
vì thế
mà
Hùng
Vương sinh ra
từ mẹ
Tiên
và cha
Rồng tức
là đức
Trời Đất
đã
hàm ngụ
ngay từ trong
thân
mẫu. Đến
ngày
sinh
thì
được an định
vào
mồng 10
tháng 3
cùng
một ý
đất trời lưỡng
hợp vì
mồng mười
là thập
thiên
can chỉ đức
trời,
còn
tháng
ba là
cung dần, chỉ
đức đất. Tại
sao lại lấy
cung
dần? Thưa dần
là con
vật mạnh nhất
trong thập nhị
địa chi,
nên
có
tên
là
Hùng
cùng
loại
dần đều
hàm ngụ
sức mạnh
vô
biên
vì bao
quát
được cả đức
trời lẫn đất,
nhờ đó
mà vượt
được
hai đợt xiềng
xích
thường
trói
buộc tâm
trạng con
người được chỉ
thị bằng cưỡng
hành
và lợi
hành để
vươn tới đợt
an hành
thuộc
tâm
linh, tức vượt
đến giai
đoạn mà
con người
không
còn
làm
vì sợ
trời
đánh
thánh
vật, hay
vì trục
lợi cầu danh
mà thấy
đáng
làm
thì
làm,
đó
là đợt
độc lập
tâm
linh. Cần
nhìn
bao
trùm
sử
trình
tiến
hóa
nhân
loại mới nhận
ra được rằng
phải
hùng
tráng
biết bao mới
vươn lên
đến đợt
tâm linh
nọ. Vì
thế nói
đựơc
Hùng
Vương
là một
mẫu mực người
tròn
đầy viên
mãn
cũng
như cân
đối một
cách
siêu
việt mà
cho tới nay
chưa thấy
đâu sản
xuất ra nổi,
dù mới
chỉ trên
đợt
lý
thuyết. Những
siêu
nhân của
Nietzsche,
siêu
hồn của
Emerson hay cả
quan niệm coi
người
là
thượng đế vong
thân của
Hegel cũng đều
thiên
lệch, chưa sao
đạt độ
cân bằng
siêu
tuyệt như
Hùng
Vương.
Trở
lên
là
nói về
quan
niệm
tiên
thiên.
Bây giờ
hãy
xét đến
hậu
thiên
tức là
kiểm chứng
xuyên
qua tác
hành. Ở
đây ta
cũng thấy
Hùng
Vương
luôn
luôn đặt
quan trọng
trên sự
hòa hợp
đất trời như
tích
trầu cau nơi
ba yếu tố
là
lá,
đá,
cây chỉ
trời, đất,
người
hòa hợp
làm
nên một
chất mới
là
màu đỏ
tươi thắm.
Rõ hơn
nữa là
truyện
Bánh
Dày
Bánh
Chưng.
Bánh
dày
tròn
chỉ trời.
Bánh
chưng
vuông
chỉ đất.
Hai
đàng
chồng
lên nhau
chỉ một
giao
hòa
siêu
tuyệt đến nỗi
dẫu một
bên
là
tròn,
một bên
là
vuông,
mà hai
bên vẫn
hòa hợp
với nhau được.
Triết học chưa
sao quan
niệm nổi được
một cái
vòng
vuông,
mà
đây
đã
có rồi,
hơn thế nữa
còn
được coi như
điều kiện
tiên
quyết để xứng
đáng
nắm quyền cai
trị.
Hùng
Vương chỉ
truyền
ngôi cho
công tử
Lang
Liêu
tác giả
cặp
bánh
cân đối
nọ.
Điều
ấy dẫn đến
điểm thứ hai
là giỗ
Tổ
Quốc.
Xin
hỏi đó
là Quốc
nào?
thưa là
Văn Lang quốc.
Chữ Lang vừa
có
nghĩa
là
nước vừa
có
nghĩa
là
người. Vậy Văn
là
gì?
Theo
nguyên
nghĩa văn chỉ
sự giao thoa
của trời
và đất
như
được biểu thị
bằng
cách vẽ
trên
mình
hình
rồng chỉ đất,
mang mũ
áo
lông
chim chỉ trời.
Rõ
ràng
người sao
chiêm
bao vậy, nghĩa
là
người được
quan niệm bao
hàm đức
trời
đức đất
thì
thành
tích
là nước
Văn Lang
cũng bao
hàm
nét
trời
nét đất
y hệt.
Đó
là
nói
bằng
tiêu
biểu, khi
áp dụng
vào cụ
thể thì
là một
nước Văn trị
hay nói
rộng ra
là Lễ
trị và
Nghĩa giao,
tức các
mối giao
liên của
con người đặt
trên
tình
người
mà
không
đặt trên
sức mạnh vật
chất. Khi đặt
trên sức
mạnh vật chất
thì
không
phải Văn lang
mà
là
sài
lang quốc.
Muốn lập được
nước Văn trị
thì
phải
là con
người Đại
Ngã
cân đối
gồm cả đức
trời đức
đất, bao
lâu chưa
đạt độ
cân đối
nọ thì
chỉ
có thể
lập ra những
nước
thiên
lệch với một
duy nào
đó: duy
tâm hay
duy vật, nhưng
duy nào
thì
cuối
cùng sẽ
dẫn đến
sài
lang quốc
“homo homini
lupus”,
Man is a wolf
to his
fellowmen.
Không
may
đó
là
tình
trạng của
nhân
loại mà
chúng
ta
có thể
nói đại
cương
là đều
xây
trên
bạo lực,
bóc
lột, tham
tàn.
Muốn
nói gọn
thì
đó
là tinh
thần du mục,
mà
người đại
biểu nổi bật
là
Gengis Khan
sinh ra từ
sói đực
và
dê
cái
có
tên
là Thợ
Rèn Sắt
(Temoudjin).
Đây
chính
là điển
hình
của
các
nhà
thống trị
chuyên
chế cũng như
các
vua thần,
các
đảng trưởng
độc đảng từ
Neron, Tần
Thuỷ
Hoàng
cho đến
Hitler, Lenin,
Stalin, Mao
Trạch
Đông, Hồ
Chí
Minh đều
là
những kẻ
lòng
lang dạ
sói
đã giết
hại cũng như
nô lệ
hóa
không
biết cơ
man nào
là
người. Trong
các
xã hội
bị cai
trị theo lối
nham hiểm tham
tàn
đó tất
nhiên
không
có
tình
người
mà chỉ
có một
mối
liên hệ
duy nhất thuộc
võ lực
là chủ
nô
làm
thành
giai cấp
luôn
luôn
tranh đấu lừa
gạt tuy
tên gọi
có đổi
thay nhưng tựu
trung
đó
là
liên hệ
giữa kẻ
có
người
không,
giữa kẻ
thống trị với
người bị thống
trị, giữa kẻ
bóc lột
và
người bị
bóc lột
đến tận
cùng.
Ngược
lại với du mục
là tinh
thần
nông
nghiệp
chân
chính
thì
dựng nên
nước xứng
đáng
làm nơi
ở cho những
con người
có
Văn trong
đó
có chế
độ bình
sản
khác xa
tư
bản với cộng
sản: theo
bình
sản thì
ai ai cũng
được tham
gia vào
tài sản
quốc gia. Do
vậy mối giao
liên
giữa
người với
người được
xây
trên
nhân
nghĩa,
nên
thay vì
mối liên
hệ duy nhất
chủ nô
của võ
trị thì
ở đây
có tới
năm mối,
đó
là
vợ chồng, cha
con, vua
tôi, anh
em, bè
bạn.
Đã
vậy,
yếu tố Văn
được đề cao
vượt
bậc bên
trên yếu
tố Võ,
nên nảy
sinh một thứ
tôn ti
không
đâu
có cả
đó
là:
Sĩ,
Nông,
Công,
Thương. Sĩ đại
diện cho văn
cho trời đất
đặt trước
Nông đại
diện cho đất,
cả hai xoắn
xuýt
với nhau
trong mối
tình
tương
thân
tương trợ
gúy
trọng những
giá trị
tinh thần,
sống theo
nhân
nghĩa, sống
theo
tình
người.
Đây
là
tâm linh
sử quan.
Ngược
lại theo du
mục là
duy vật sử
quan,
thì hạ
tầng kinh tế
chỉ huy thượng
tầng văn
hóa.
Mà hạ
tầng đặc
chú
vào
Công,
Thương, nhất
là
Thương nơi
chứa đầy sự
gian dối lừa
bịp, chữ
Nông
không
được để
ý. Đến
nỗi ngay An Độ
có
tiếng
là
quê
hương của
tôn
giáo
thế mà
Nông
(nằm trong
đẳng cấp Thủ
Đà:
Sudra) cũng bị
đặt
bên dưới
thương gia
(Vaysesia),
trên nữa
là
Bình
Gia, cao nhất
là Tăng
Lữ. Đó
chính
là một
thứ liên
hệ chủ
nô đề
cao võ
trị cũng
như Au
Tây xưa
nên cuối
cùng
nước cũng chia
thành
đẳng cấp
(caste)
còn tệ
hơn giai cấp
(class) một
độ.
Tóm
lại
nhìn
chung
nhân
loại ta
có thể
nói tất
cả mọi nơi đều
theo tinh thần
du
mục võ
trị. Ngoại trừ
bên
Đông Nam
Á
thì
trước hết
có nước
của
Hùng
Vương
là
theo văn trị,
nơi kẻ sĩ
không
những được kể
tới mà
còn
được đứng đầu,
nên mới
có
những hậu quả
quý
trọng như ngũ
luân với
bình
sản, nhờ
đó
mặc dù
tài
nguyên
thiếu thốn,
khoa học chưa
phát
triển
mà
dân nước
đã
nhiều lần được
hường an vui,
thái
bình,
hạnh
phúc.
Sau
Văn Lang của
Hùng
Vương
thì
có Hoa
tộc thiết lập
được Trung
Quốc có
thể gọi
là
Văn Lang quốc
hạng
nhì. Sở
dĩ thiết lập
được Văn Lang
vì
Tàu
cũng
phát
xuất từ một
gốc chung văn
hóa như
Bách
Việt; nhưng
chỉ
đáng
hạng
nhì
là bởi
nằm tiếp cận
với du mục Bắc
phương.
Phân nửa
dòng
lịch sử
Tàu nằm
trong tay du
mục từ
Thái
Bạt, Hiểm
Dõan
tới Kim,
Mông,
Mãn…
thành
ra nhiều yếu
tố du mục
đã ngấm
vào đến
quá
nửa, khiến
Nguyên
Nho
đốc ra
Hán
Nho.
Với
Nho thì
Tàu
chưa đến nỗi
rơi vào
giai cấp với
liên hệ
chủ nô;
vẫn giữ được
ngũ
luân.
Nhưng với
Hán
thì thứ
tự ngũ
luân
biến đổi. Thay
vì vợ
chồng, cha
con, vua
tôi của
Việt
thì
Hán lại
đặt:
quân
thần, phụ tử,
phu phụ. Đặt
quân
thần lên
trên
là
đã
ghé
sang du mục
võ trị
vốn đề cao
tân
mây xanh
tù
trưởng, vua
chúa,
đảng trưởng.
Cũng như đề
cao đàn
ông đại
diện sức mạnh,
còn
đàn
bà đại
diện
tâm
tình
thì bị
hạ sâu.
Vì thế
luân vợ
chồng của Việt
đến Hán
nho trở
thành
phu
phụ theo
đó
chồng
không
những
trên vợ
mà vợ
còn trở
thành
phụ theo nghĩa
tùy
phụ, phụ
tùng.
Vì thế
sau
này,
khi Việt Nam
đã
nhiễm
Hán Nho
cũng vẫn thấy
ngượng khi
dùng
chữ phụ,
nên
thường thay
phu phụ bằng
phu thê.
Chữ thê
giống với chữ
tề
có
nghĩa ngang
hàng
(thê giả
tề dã).
Một
bên lệnh
ông,
bên kia
cồng bà
ngang nhau.
Đó chỉ
là một
thí dụ
nói
lên tinh
thần văn trị
của con người
Văn Lang thong
dong, tự
cường, tự lực.
Tinh
thần ấy
đã ngự
trị bên
Đông Nam
Á hơn
bốn
ngàn
năm, với diễn
biến đại
khái
như sau:
Vào
lối
đầu công
nguyên
tinh thần
Hán nho
đã
tràn
xuống giết
chết Văn Lang
của
Hùng
Vương sau khi
nó
đã sống
được
trên
hai
ngàn
năm. Đó
là
cái
chết đầu
tiên
của Văn Lang
quốc đệ nhất
đẳng. Sau
cái
chết
này
thì Văn
Lang hạng
nhì (cả
Tàu lẫn
Việt)
còn
sống
thêm
được hai
ngàn
năm nữa cho
tới thế kỷ 20
thì xảy
ra ba
cái
chết.
Cái
chết
trước hết
là
Hán nho
bên
Trung Quốc năm
1949.
Cái
chết
thứ nhì
là nửa
Bắc nước Việt
Nam 1954.
Cái
chết
cuối
cùng
là
nửa Nam nước
Việt
ngày
30/4/1975.
Và
tự
đấy thì
trên thế
giới
khó
còn
tìm
được nơi
nào
xứng
đáng
mang tên
Văn Lang nữa
ít ra
về mặt cơ cấu
tinh
thần với
các thể
chế
quán
triệt của
nó như
tự trị
làng
xã với
chế độ
bình
sản.
Bởi
vậy có
thể nói
ngày
30/4/1975
không
chỉ là
cái
tang của người
Việt Nam,
mà
còn
có thể
nói
là
cái
tang
chung của
nhân
loại để tiếc
thương
cái
chết của mẫu
người
cần thiết cho
bất cứ nước
nào
dân
nào
không
muốn mang
vào đầu
cổ cái
tròng
làm
trâu,
làm
ngựa.
Nhưng
bất hạnh thay
cái
tròng
khủng khiếp
kia lại đang
lần lượt rơi
xuống đầu hết
dân
này đến
dân
khác
và nếu
loài
người
không
sực tỉnh để
kịp thời ngăn
chặn để
nó
tròng
lên đầu
hết thảy
thì
đây sẽ
là sự
thất bại
tòan
triệt của
giống người.
Đây sẽ
là
cái
chết của
tòan
thể nhân
loại,
cái
chết
quái
gở vì
do
chính
con người tự
gây ra
cho
mình,
cái
chết
rùng
rợn thê
thảm vì
chẳng
còn một
ai có
được quyển
tưởng niệm.
Chẳng
còn ai
được quyền nhỏ
một giọt nước
mắt than
khóc
nữa.
Cái
tai
họa đó
xưa nay
đã
nhiều lần xảy
ra, nhưng chỉ
xảy đến cho
một dân
tộc,
một nước,
cùng
lắm một
châu
nhưng do một
bạo
chúa
nên chỉ
kéo
dài
trong một
thời. Nhưng
lần
này
thì cho
nhiều
châu
và
có nguy
cơ
xảy tới cho
tòan
cầu,
không
biết bao giờ
mới gỡ ra được
vì
không
còn do
một bạo
chúa,
mà do
một bè
lũ kết đảng
khắng
khít,
lại thêm
võ
khí vạn
năng,
thì sự
thóat
ách trở
nên
khó hơn
nhiều. Vậy
mà rất
nhiều người
chưa
ý thức
hoặc vẫn
còn
lúng
túng
chưa
tìm ra
phương thức để
ngăn chặn.
Trước
tình
thế
nghiêm
trọng như
thế
chúng
tôi
dám
nói lớn
lên rằng
phương thức
nào bất
cứ mà
muốn hữu hiệu
cũng phải kể
đến
mẫu người cũng
như mẫu nước
của Văn Lang
quốc. Bằng
tên
này hay
tên
khác
phương thức
đó phải
có một
tinh thần
tâm linh
đích
thực mới
có
thể bảo vệ
được cuộc sống
đáng
sống, một cuộc
sống mà
con
người vẫn
còn
là
người, vẫn
còn
được quyền
làm
người tự
cường, tự lực.
Đó
là
đại cương
ý nghĩa
ngày
giỗ tổ; tổ
người cũng như
tổ quốc,
nên cũng
gọi được
là
ngày
sinh nhật
người
và
ngày
lập quốc
xứng
đáng
cho con người.
Vì
thế
ngày
giỗ tổ phải
mãi
mãi
là một
ngày lễ
trọng đại nhất
của
người Việt bất
cứ sống nơi
nào,
cũng cần tổ
chức để tỏ
lòng
tri ân
sâu xa
tiên tổ
đã
gây
dựng cho
mình
một mẫu người
một mẫu nước
quý
báu
như vậy. Hơn
thế nữa mai
sau phải mở
rộng
ngày
giỗ tổ
thành
tuần lễ giỗ
tổ, để sự giỗ
được biểu lộ
ý nghĩa
viên
mãn
hơn, tức
không
chỉ để tỏ
lòng
tri
ân tổ
tiên
suông,
không
chỉ tưởng niệm
một
lúc
mà cần
nhất phải cố
gắng
làm
phục họat lại
tinh thần Văn
Lang quốc bằng
cách
học hỏi
và hiện
thực để
làm
sáng tỏ
tinh thần
đó ra
không
những để
mình
mãi
mãi
xứng
đáng
là con
Hồng
cháu
Lạc, mà
hơn thế nữa để
có thể
đóng
góp
vào
công
cuộc khẩn
trương hơn hết
cho
nhân
lọai hiện nay
là
góp
phần đắc lựac
vào
việc cứu con
người
thóat
khỏi một chế
độ nô lệ
tòan
triệt
và khốc
liệt hơn bao
giờ hết đang
rình
rập.
Làm thế
nào để
ngày
giỗ tổ
có thể
trở
nên
ngày
thức tỉnh
lương
tâm
nhân
loại, một
ngày
biểu dương cho
thế giới thấy
được một mẫu
người, một mẫu
nước xứng cho
con người
tâm linh
bất kỳ ở
đâu
và bao
giờ.
(*)
xem l’art des
steppes par
Karl
Jettmar.
Paris,
A.Michel.
1964. p.244.
Kim
Định
Nguồn:
http://anviettoancau.net
Trang
mạng
Việt
Nam
Văn
Hiến
Trang:
Kinh
Hùng
Khải Triết
www.vietnamvanhien.net
www.vietnamvanhien.org
www.vietnamvanhien.info
www.vietnamvanhien.com
Email:
thuky@vietnamvanhien.net
Trang
mạng Việt Nam
Văn Hiến
là nơi
bảo tồn di sản
văn hóa
của
Việt tộc. Thắp
sáng
niềm tin
Diên
Hồng và
nếp sống
Văn Hiến hầu
phục hồi nền
"An Lạc
& Tự Chủ"
ngàn
đời cuả Việt
tộc.
|
|
|
|
|
|
|
|