II.
KHI NGƯỜI ĐI
TÌM NGƯỜI
“Sớm đi bốn
chân,
trưa đi hai chân,
Chiều đi ba
chân,
đêm đi tám chân.
Đố biết là
gì?”
Đó là
câu chúng ta nghe từ nhỏ
và thường đưa ra để đố
nhau. Tưởng có vậy là hết,
không ngờ lớn lên
học triết vẫn còn gặp, mà lại
gặp ở điểm then chốt
đó là đạo làm người; tức
đạo làm người xuất
hiện như một bài toán đố chưa ai
tìm ra lời
đáp. Nói kiểu triết là
chưa ai xây dựng nổi
một nền triết lý nhân sinh nhằm
tìm hiểu bản
tính đích thực của con người để
phụng sự. Nền triết
lý đó phải khác xa
các những thứ triết
lý đang được dạy trong cả trường thường
được gọi là triết
học hàn lâm trường ốc, ít
có ăn chịu với đời
sống con người, con người thật đang sống trong
xương thịt ở đây
và bây giờ, chứ không phải
con người ướp khô
trong Kim tự tháp hay trong những hệ
thống tư tưởng trừu tượng.
Đó không là triết
lý nhân sinh
mà chỉ là ý hệ. Nếu thật
là nhân sinh
thì nó phải ăn liền vào
con người, chảy trong
dòng máu, xuyên qua
gân thịt, đọc lên
làm người cảm thấy vui sống, thấy
sáng lên trong
tâm hồn, giúp nhìn tỏ hơn
vào những nẻo
đường gai góc của cuộc sống. Nền triết
lý như vậy hiện
chưa có. Tại sao chưa? Có hiểu
được tại sao thì
rồi mới hiểu được cái hay của
nét song trùng, sự
cần thiết của nền triết lý nhân
sinh lưỡng hợp.
Để hiểu lý do
thất
bại của triết lý trường ốc, xin
hãy trở về nơi
phát xuất triết Tây Âu
là Hy Lạp cổ xưa,
mà tiêu biểu hơn cả là
câu chuyện Oedipe con
vua Laius cai trị thị quốc Thebes. Khi gần
sinh Oedipe thì
có nhà tử vi đoán rằng
“đứa con sắp sinh sẽ giết
cha cưới mẹ”. Vì thế khi sinh con rồi
thì mẹ là
hoàng hậu Jocasta truyền bỏ con
ngoài rừng cho chết.
Nhưng Oedipe đựơc một người tiều phu rước về
nuôi, sau được vua
thành Corinth nhận làm con. Lớn
lên Oedipe biết
mình không phải là con
thật nên bỏ nhà
đi lang thang vào rừng sống bằng săn
bắn. Ngày kia gặp
một người đi săn khác hai bên
tranh nhau con mồi đi đến ẩu
đả. Kết cục Oedipe giết người kia. Bất ngờ
người bị giết lại
chính là vua Laius.
Thời ấy dân
thành Thebes đang bị con quái
vật Sphinx tác hại
và hẹn chỉ tha khi có người giải
được câu đố sau:
“sáng đi bốn chân, trưa đi hai,
tối ba. Đố biết là
chi?” Thành Thebes đặt giải thưởng cho
ai thưa trúng
thì sẽ được làm vua và
cưới hoàng hậu hiện
đang góa. Oedipe đã thưa
trúng: “đó
là người: trẻ bò bốn chân,
lớn lên đi hai
chân, già chống thêm gậy.
Vậy là ba.” Thế
là Sphinx tự nhảy xuống biển biến mất.
Oedipe được lên
làm vua và cưới hoàng
hậu.
Câu chuyện muốn
nói lên rằng con người
không thể thoát định
mệnh, mặc dầu bà Jocasta đã
làm tất cả để
tránh né cũng vô hiệu.
Đó là
niềm
tin chung của thời kỳ ấy. Vì thế triết
lý Hy Lạp được đặt
dưới quyền Định Mệnh (moira) và
câu chuyện Oedipe
đã trở nên đề tài cho
những vở kịch trứ danh của
văn chương Hy Lạp và mãi tới tận
nay vẫn còn
là đề tài then chốt cho
phân tâm học:
vì ý nghĩa sâu xa
là hễ định mệnh thắng
thì con người thua, tức nền tự do của
con người bị chối bỏ.
Đó gọi là vong thân. Thế
nhưng ý nghĩa nọ
đã được hàm ngụ một cách
quá âm u
thành thử không dễ nhìn
ra. Trước hết ta nên
chú ý câu đố không
có chi khó
lắm, một người tỉnh táo vừa phải
đã có thể
phán đoán được, nhất là
khi bớt vế “đêm
tám chân” (chỉ lúc chết
bốn người khiêng).
Thế tại sao phần thưởng lại to tát đến
thế? Được làm vua.
Nhưng xét lại
phần
thưởng chỉ to giả tạo, vì khi biết sự
thực thì bà
Jocasta tự vẫn, còn Oedipe thì
tự móc mắt rồi đi
đâu không biết. Và từ đấy
trở đi chẳng còn
một ai nghĩ đến nữa: cho là chuyện xong
rồi, kỳ thực thì
chưa, có nghĩa là Oedipe mới
nhìn thấy vấn đề con
người mà không giải đáp
nổi hay đúng hơn
chưa thấu được vào bản tính con
người, mới giải
đáp có vòng ngoài
nên được một phần
thưởng tuy trọng đại nhưng chóng qua,
còn gây tai
họa cho mình và mẹ mình
là khác.
Vậy đó
là
hình ảnh văn hóa Tây
Âu đã đưa ra
những định nghĩa con người toàn
bì phu duy vật một chiều
nên gieo tai họa cho tới tận nay. Việt
Nho có câu
“làm thầy thuốc mà lầm
thì giết một người,
làm chính trị mà lầm
thì giết một thế hệ,
nhưng làm văn hóa mà lầm
thì giết
muôn thế hệ”. Đó là sự
thực đã xảy ra
cách hãi hùng với nền văn
hóa Tây
Âu.
Nói
cách
khác, câu thưa của Oedipe mới
chạm tới người một chiều
hoàn toàn vòng
ngoài chưa nói
lên được nhân tính lưỡng
hợp kiểu con rồng
cháu tiên, nên kể là
cuộc người đi tìm
người chưa thành công; con người
được bàn đến trong
các triết học chưa là người
lưỡng thê có hai
đời sống một cho tiểu ngã vòng
ngoài, một cho đại
ngã vòng trong. Triết học
Tây Âu mới đạt
có con người tiểu ngã.
Nói theo số trong câu
đố thì mới đạt có số bốn;
còn số ba thì
chưa, mà nếu thiếu số ba thì mới
là con vật bốn
chân bò sát đất chiếu
giãi vào
thói tục văn hóa là đề
cao tiền tài sức
mạnh mà coi thường minh triết, biểu thị
bằng tâm
tình kinh nghiệm như phụ nữ và
người già. Vậy con
người dựa trên sức mạnh mới là
người theo sinh lý,
không mấy khác con vật. Đến khi
vươn lên giai đoạn
lý trí thì thấy
mình bị căng ra giữa hai
đối cực y như hiện tượng hay bất cứ sự vật
nào cũng có
hai cực, chỉ khác là ở sự vật
thì nó tự
nhiên như thế, còn nơi con người
thì chính
con người phải tham dự vào việc duy
trì hai cực
đó: cả âm lẫn dương, cả quỷ lẫn
thần như câu Nho
giáo định nghĩa “con người là
nơi quỷ thần hội tụ”; cả
tình cả lý tương tham.
Nói vào xã
hội là công hay của, tự do hay
quy luật… Nếu duy
trì được cả hai thì là
lưỡng hợp (song
trùng), còn không sẽ
là lưỡng phân hay
nhị nguyên đối kháng (nói
vắn là nhị
kháng) tức chọn một bỏ một, nên
là “duy” hay một
chiều kích- số 1.
Tóm lại, con
người
dù trong bất cứ phạm vi nào cũng
không thoát
khỏi gọng kềm lưỡng thê, nếu nhận thức
ra và sống theo
đó thì mới là người
toàn diện sống đủ hai
chiều kích. Con người khác con
vật ở chỗ đó, ở chỗ
cảm thấy hai chiều trái ngược mà
lại không được bỏ
bên nào, nhưng phải tìm
cách hòa hợp
cả hai, vì thế gọi con người là
vật lưỡng thê
(amphibious) tức phải sống theo nguyên
lý lưỡng hợp, Nho
gọi là lưỡng nghi, tức phải
thích nghi với hai chiều
trái ngược như tròn vuông,
như trời đất. Vậy vấn đề
sẽ là làm thế nào để
hòa giải hai
dòng trái ngược đó. Hễ
hòa giải xong
thì có nét song
trùng, rồi có triết
lý nhân sinh, tức thứ triết hợp
cho con người lưỡng
thê (amphibious) còn không
thì chỉ có
triết lý bằng số một là theo
nguyên lý đồng
nhất. Đồng nhất người với thần hay với quỷ
cũng là đồng nhất con
người với cái gì bên
ngoài con người,
không phải là người trung thực
nên là vong
thân sẽ bị vật bản hay vật hóa
(reified man) chỉ bằng số
4.
Điều đó
bên
Đông ghi lại trong tích thần Cộng
Công (*)
húc đầu vào núi bất chu
(núi không
tròn), là cột chống trời,
nên trời nghiêng
đất lở. Đó là ám chỉ
triết lý thiếu trời,
duy địa, hay duy vật, trong đó con
người bị đặt ngang với sự
vật, tức con người không còn tự
do, nhân phẩm
là những cái làm
nên chiều kích thứ
3, cao cả ngang với trời cùng đất.
Để nói vắn tắt
thì từ ông tổ triết học Tây
Âu cho đến nay chỉ
có thứ triết lý một chiều
mà thôi. Tuy cũng
có những trường hợp ngoại lệ, nhưng
đó chỉ như vài
cánh nhạn lẻ loi giữa tiết đông
tuyết lạnh, không
làm nên được mùa
xuân với muôn hoa đua
sắc, vì không được chính
quyền công nhận
nên đời sống xã hội vẫn nằm bẹp
dưới đất, như triết học
chính thức dang cả tứ chi ra bốn
phương, bắt lấy được,
tích trữ được. Đó là
những đặc tính của
đất, nên Việt Nho gằn lợi liền với đất
gọi là địa lợi
(theo câu: thiên thời, địa lợi,
nhân hòa).
Nói triết đã đặt trọn trên
địa hay nói đặt
trên lợi cũng thế.
Đặt nền tảng “duy như
thế
làm sao có hòa, vì
hòa phải
có hai, có hai mới làm ra
hòa chỉ bằng số
3. Nói khác chỉ có
hòa khi người sống
đúng lưỡng thê: tức cả hai đời
sống, có thế mới
là đạt nhân. Nếu không
là vong nhân,
cũng quen gọi là vong thân, vong
thân sẽ đưa đến bất
hòa. Thế giới hiện nay mất hòa
vì đang sống trong
bầu khí duy vật, mà không
có nhân.
Nói cho dễ hiểu là con người
không còn được
trị giá theo nhân linh, nhưng
theo mức độ sản xuất: người
được đánh giá cao thấp tuỳ theo
năng suất cao thấp. Hồ
Chí Minh đã học mót Mao
Trạch Đông câu
nói người già không bằng
đống phân. Thực ra
không cứ người già mà với
duy vật thì tất cả
những cái cao đẹp của tình
người, tình bạn,
tình mẹ, cha, của chân thiện mỹ
đều bị coi như không
có giá trị gì hết. Tất
nhiên những nơi
nuôi dưỡng những cái đó
cũng bị xếp xó
luôn, như gia đình là vườn
ươm tình nước,
tình người chẳng hạn.
Vì thế
càng
ngày con người càng cảm thấy
trống trải cô đơn,
cô lập, bơ vơ, vô hồn. Không
có nhà
(homeless) tức thiếu một nơi để hướng về.
Đó là tai họa
do một chiều kích, nói gọn
là do số 1, là
trạng thái được nuôi dưỡng để sửa
soạn tâm hồn con
người bằng lòng chui vào
cái chuồng bốn góc
vuông muốn gọi là cũi chó,
cũi mèo, hay
chuồng trâu, chuồng ngựa cũng được,
và vui lòng
chui vào vì ngoài ra
không còn chi
nữa để mà nuối tiếc. Còn
đâu nữa gia đình,
làng xóm, quê hương với
muôn mối tình
người để mà xót thương. Tất cả
đều vuông vức, bốn
góc phân minh.
Thế nghĩa là
văn
minh Tây Âu có rực rỡ huy
hoàng đến
đâu, cũng mới là cái ngai
vàng của Oedipe
không mang lại hạnh phúc trường
tồn, còn bị
làm thui chột mất con mắt thứ ba
(chuyện nói là
Oedipe tự móc mắt) tức tự vất bỏ số 3,
hay con mắt thứ ba cũng
gọi là tuệ nhãn, nên chỉ
thấy nhị kháng,
mà không nhìn ra chỗ
hòa, đành chọn
một bỏ một, thành ra đủ thứ duy,
mà đã duy
thì kiểu này hay kiểu
khác đều là duy vật.
Nói theo huyền số là đành
quanh quẩn từ 1 sang 4
rồi lại từ 4 về 1 hoài hoài
mà không
tìm ra đường thứ 3. Ôi triệt tam,
triệt tam! Ta thù
ngươi.
Tai họa con người ở
chỗ
triệt tam đó. Có thấu hiểu được
điều này mới biết
triết lý quan trọng dường nào.
Nước Việt Nam tan
nát trong ba mươi năm rồi cũng
vì triết. Người Việt Nam
phải chạy tháo chết sang đây cũng
vì triết.
Chính triết mới là cái
lái con thuyền đời
sống. Nhưng xưa rầy không được
chú ý, mà
lý do thâm sâu là
tại triết học Tây
Âu đã nhỡ một lần đi trật ra khỏi
con đường số 3, rồi cắm
đầu chạy mãi ngoài vòng
nhân sinh,
không sao kéo trở lại được nữa.
Triết chỉ còn
bàn những chuyện trên trời, dưới
đất, bên
ngoài con người nên khi xem
vào triết người ta
không nhận được tia sáng
nào soi vào
ngõ ngách cuộc đời, mới
đâm ra coi thường việc quan
trọng hơn hết. Bài sau chúng ta
sẽ xem Việt Lý
đáp câu đố của Sphinx ra sao.
III.
TRIẾT
LÝ SỐ BA
Một trời
hai đất ba người.
Ba người
là một nét đặc trưng cho triết
lý an vi, coi người
như một tài ngang với trời đất,
nên cũng gọi là
“Tham thông” cả ba tham dự: nếu trời
làm, đất làm
thì người cũng làm. Có
làm mới là
tham thông mới là một
tài trong ba tài. Con
người khác muôn vật ở chỗ tham
dự, cùng làm
đó, nên còn gọi
là nhân chủ: con người
làm chủ sự vật, không giữ được
điều đó thì
là vật chủ tức con người để cho sự
vật sai xử, thí dụ coi
tiền tài sản vật cao hơn mình,
hơn người, hơn những mối
nhân luân, đấy là
phí đất. Còn
phía trời thì là tất
mệnh, định mệnh, đặt trọn tin
tưởng vào số kiếp định mệnh, con
người không còn
giữ lại cho mình quyền lực nào
để có thể sửa đổi
được thân phận mình, đấy gọi
là thiên chủ,
thần chủ. Tóm lại, triết có
thể chia ra ba loại là
thiên chủ, nhân chủ, vật chủ.
Nền tảng văn hóa Việt
là nhân chủ, được biểu thị
trong những câu như:
“Có
trời
mà
cũng
có
ta”
“Xưa nay
nhân định thắng thiên cũng
nhiều…”
Đấy
là những câu kết tinh của một
lịch trình tranh đấu
dẻo dai trong đêm trường khuyết sử
và được phản ánh
lại trong những huyền số cũng như huyền
thoại và hơn thế nữa cả
văn học. Trong sách tự điển đầu
tiên của Nho là
quyển Thuyết Văn Giải Tự của Hứa Thận
đã ghi ý nghĩa nhất
là trời, nhì là đất, ba
là người. Đến khi
xem vào những truyện truyền kỳ ta
cũng thấy địa vị con người
được đề cao xuyên qua những nhân
vật chính thường
là người nghèo khó
cùng tột, nhưng biết tự
cường tự lực nên đã xoay đổi
được số kiếp như An
Tiêm, như Tiết Liệu, và
vô số truyện của các
dân tộc thiểu số đề cao những vụ
thành công rực rỡ
đề cao những người nghèo, xấu, thất
thế. Những truyện đó
hàm ý rằng chính con
người mới là chủ chốt,
còn giàu sang, xinh đẹp, quyền
thế chỉ là phụ
thuộc. Vì thế kèm theo
đó là những truyện
trọng nghĩa khinh tài, như truyện
Tiên Dung tuy là
công chúa mà không
ngại lấy người
nghèo cùng cực. Tất cả đều đề
cao những nhân vật
biết vượt qua vòng địa lợi: coi
thường tài sản danh vọng.
Đó là thoát được
cái bệnh trục vật
(chosisme), không để cho sự vật sai xử
mình.
Ngược lại
bên thiên đạo nếu không
được nâng đỡ bằng quan
niệm nhân chủ tất sẽ rơi vào
chỗ phục tùng
quá đáng để trời choán
hết phần quyền của con
người để trở thành nạn nhân của
tất mệnh: hoàn
toàn thụ động. Vì thế tuy Việt
Nho coi trời rất trọng như
được chứng tỏ trong lễ tế Nam Giao
không còn gì
trọng hơn, hay triết lý chữ thời cũng
chính là đạo
thuận thiên, nhưng lại vẫn có
những truyện hạ thấp trời
xuống một ít để trời không
choán hết chỗ người,
thú vị nhất là truyện “Con
cóc là cậu
ông trời”. Đây là một
hòn đá
ném hai con chim là vua
và trời. Vua xưng
mình là con trời. Nhưng
dân nói “con trời
đâu đã bằng cậu ông
trời”. Trong chế độ mẫu hệ, địa
vị ông cậu rất to lớn, vì thay
mặt cho cha, nên
nói có là cậu ông
trời cũng ngang nghĩa với
cậu cóc là cha trời. Do
đó mới có những lần
cóc kiện trời, mà trời lại
thua! Rồi trời tức quá
động binh thì cóc đưa
dân quân lên
đánh tan tác quân
nhà trời. Thế là
trời thua cả lý cả lực. Tinh thần
này sau xuất hiện trong
truyện Tôn Ngộ Không nhiều lần
cũng đánh quan
thiên đình. Dân Bana
có truyện Dam Đông
đánh tan thần sét, bắt
sét chặt ra từng
khúc, nên các thần, kể
cả thần mặt trời đều sợ run
lập cập, tê cả chân không
chạy chốn nổi. Dam
Dông bắt mặt trời phải dừng lại ở độ
cao hơn 3 ngọn núi
cho anh giết giặc xong mới được phép
lặn.
Dân
Ca Tu có truyện trời thua trận rồi
buồn thiu. Đó
là truyện Song Pế bắn trời bị thương
ở mắt, điều trị mãi
chẳng được phải mời Song Pế lên chữa.
Xong việc trời đề nghị gả
con gái nhà trời cho, nhưng
Song Pế không nhận,
vì cũng giống như Từ Thức không
chịu ở lại trên
trời, nhất định trở về đất để nuôi
bà. Nuồi bà
là nói lên mối
tình người rất quan trọng
không nên để cho tình
trời lấn át.
Đó
là thuyết nhân chủ diễn đạt
bằng truyện cổ tích
truyền kỳ. Đó là nói
vòng ngoài cho
dễ hiểu, nhưng muốn đi sâu thì
phải dùng đến cơ
cấu, tức nói bằng số: thay vì
nói đạo nhân
thì nói bằng số ba.
Dùng số Ba là một sự cự
tuyệt triết học duy lý Tây
Phương cho là
không thể có trường hợp thứ ba.
La Tinh nói tertium
non datur, Pháp gọi là
nguyên lý triệt tam-
tiers exclu, Mỹ kêu là excluded
middle. Trái lại
Việt lại nói có số ba ở
quãng giữa, nên
đã không triệt tam mà
còn tôn số ba
lên bậc triết lý, tức là
khước từ cả nguyên
lý đồng nhất cũng như nguyên
lý triệt tam,
không cho chúng tham dự
vào cõi nhân
sinh. Nói nôm na thì với
sự vật có là
có, không là
không, nhưng với con người
là vật uyển chuyển thì
có mà không,
không mà vẫn có,
nói bằng huyền số
thì đó là số Ba. Tất cả
túi khôn
Đông phương nằm trong chữ Ba
đó. Chúng ta sẽ trở
lại vấn đề nhiêu khê này
trong quyển Sứ Điệp, ở
đây chỉ xin kể thêm vài
chuyện liên hệ đến số
ba để chứng tỏ ngay từ đầu Việt tộc
đã quan trọng hóa số
ba đến mức nào.
Dân
Bana có chuyện sông Ba đầy
phép màu, rồi
chuyện Tía Oong Tư với chim đại
bàng. Câu truyện
chỉ dài chừng mươi trang mà
đếm sơ sơ đã có
tới hai mươi lần số 3. Thí dụ
nhà rông chứa được ba
trăm con sông, tiếng trống trèo
qua ba quả núi, con
trâu có sừng bằng ba con voi;
bờm nó tốt như bụi
nứa làm được ba nhà
rông. Họ trồng lên ba
cái cột. Trong truyện Dam Dông
kể về con quỷ có
cái gương thần, hễ nó quay
ngửa lên trời xoay ba
vòng thì trời nóng như
đốt. Khi nó
úp gương xuống xoay ba vòng
thì trời đất tối như
mực v.v…
Hầu như
không mấy truyện mà không
có những con số lơ
mơ mà nổi bật nhất là số ba.
Do đó chúng ta
có thể suy đoán là
lúc xưa, mấy số
này đóng vai trò linh
thiêng (từ ma thuật
đến triết lý). Do vậy, khi
nghiên cứu triết xưa mà
coi thường các số, là bỏ lỡ
cái chìa
khóa mở vào kho tàng ẩn
giấu di sản vậy. Việt Nam
có câu:
“Mồng ba
cá đi ăn thề
Mồng bốn
cá về cá vượt vũ môn”
Phải
đoán đây không phải
là những số cầu âu,
mà tiên tổ xưa đã muốn
xuyên qua các
số nọ nói lên cái chi
trầm trọng lắm. Ta có
thể ngờ điều đó trong chữ ăn thề: chữ
ăn thề ở đây
hàm ngụ cái gì linh
thiêng vượt ra
ngoài cõi hiện tượng hữu
hình, nơi mà
có đối với không, sáng
chọi tối, vuông chọi
tròn, luôn luôn đề
kháng mà
không có hòa hợp,
nói theo triết đó
là nhị nguyên đối kháng
thí dụ nước với lửa
không sao hợp được, và
đó là nguyên
lý của triết Tây. Triết Việt
trái lại xây
trên số Ba mà ta có thể
gọi là lưỡng hợp hay
là lưỡng nhất tính, hai
mà là ba, ba
mà là một, nhưng cho được thấy
điều “kỳ lạ” đó
thì phải có con mắt thứ ba
cũng gọi là con mắt
minh triết, hay huệ nhãn, thiếu huệ
nhãn thì hai
là hai đối kháng kịch liệt
nên gọi là Nhị
Kháng (dualism) mà không
thể có nét
song trùng hay là lưỡng hợp để
đi lên số 3.
Vậy muốn
vượt lên số 3 thì phải
dùng con mắt thứ ba
tâm linh là cái biết
thâm sâu chạm
vào mối liên hệ nằm ngầm nối 2
lại thành 3, cho
nên 2 mà lại 3, vuông
mà tròn,
có mà không, sáng
mà tối, tức
là nói lên sự vươn
lên khỏi nhị nguyên
đối kháng thuộc tai mắt để tiến
vào đợt tâm linh
và chỉ từ đấy tâm thức mới tiến
lên được đợt tam
tài. Tài là tác,
tức con người được định
nghĩa bằng tác hành, mà
tác hành cao
sâu nền tảng hơn cả là
tác hành tâm
linh gọi là chí thành
như thần, tức con người phải
tiến tới đợt như thần. Huyền thoại chỉ thị
điều đó bằng ba bước
tiến hóa của long: Long chỉ đức người
phải tiến từ thấp
lên cao, nói bóng tự
cá lên long,
nên sau ngư long (*) thì
còn ba thể long
khác là bàn long, quỳ
long và phi long.
Bàn
long
cũng
gọi
là
Bàn
Quỳ
hay là long cuộn
khúc.
Quỳ long
hay quỳ văn: khởi đầu múa cặp
đôi: giao long.
Đến Phi
long thìi bay lượn khắp nơi gọi
là “phi long tại
thiên”. Đó là nhờ
đã bước vào số ba
tâm linh, nên đạt “vũ trụ chi
tâm” (tâm bao la
như vũ trụ) rồi vậy.
(*)
Ngư long chưa hẳn là long vì
mới ở bước đầu biến
hóa. Trong Kiến Văn Tiểu Lục (trang
52) có ghi mũ
các vị thần thượng đẳng thì
áo có hai rồng,
trung đẳng áo một rồng, hạ đẳng
thì áo chỉ
có ngư long.
Đến
đây ta có thể hiểu tại sao tiền
nhân quý
trọng số ba, coi như số linh thiêng
siêu việt, vì
thế dặn con cháu nắm giữ từ khi sinh
ra cho tới chết trong
câu phương ngôn triết lý
sau:
“Cố sao
giữ trọn đạo Ba
Sau
dù có thác cũng
là thơm danh”.
Và
để con cháu thấm nhuần thì
ngay tự lúc sinh ra
đã gọi “ba sinh”, đến lúc chết
cũng còn cho ngậm
ba đồng tiền gọi là phạm hàm.
Rồi ở giữa biết bao
là số 3 rải khắp trong đời, cũng như
đã phổ cập trong
nhân gian, dưới vô số huyền
thoại đầy số 3. Vì
đã từ lâu lắm, lâu đến
nỗi nó đã
chìm xuống tiềm thức không ai
để ý nữa nên
phải dùng cơ cấu mới nhìn ra
được.
Sở dĩ
tiền nhân xa xưa đã quan trọng
hóa số ba
cùng cực đến thế vì nó
biểu thị bước tiến
lên nhân chủ hay nói theo
huyền thoại là đi
từ thần thoại lên nhân thoại. Ở
thần thoại thì thần
làm chủ, còn với nhân
thoại thì nhân
làm chủ và đây là
một phân biệt rất
quan trọng mà xưa nay chưa được ai
nêu ra vì
ít nơi có nhân thoại.
Một trong hai vinh hiển của
Lạc Việt là không có
thần thoại (và
không có anh hùng ca
theo kiểu võ lực như sẽ
nói sau). Vậy đây chính
là chìa
khóa cho câu hỏi đã
có người đặt ra nhưng
chưa ai tìm được câu trả lời,
vì chưa ý thức
được ý nghĩa sâu xa của con số
3. Hỏi rằng tại sao huyền
sử nước Việt không có những
truyện về sáng thế
ký, ít ra không
có nhiều bằng các chi
khác trong Bách Việt, chẳng
hạn như Thái có
chuyện Ai Lậc Cậc khai thiên lập địa,
gieo giống người, lập địa
bàn cư trú, làm ăn
và sáng tạo văn
hóa Thái; dân Mao
(Mán) có truyện
Bàn Vũ hoặc Bàn Hồ xếp đặt
trời đất và sinh ra
loài người. Tại sao Việt không
có những truyện như
thế, hay nếu có thì cũng
không lưu ý tới?
Thưa vì Lạc Việt đã tiến mạnh
hơn trên con đường
nhân thoại. Chứng cớ là Ai Lậc
Cậc của Thái lớn lao
đến độ có thể dựng lên trời
đất… vậy mà sau bị
“ông chống trời” của Việt quơ tay bẻ
gãy giò bắt bỏ
vào giỏ, nên bị chết,
thì rõ rệt là
nhân thoại của Thái chưa cao
bằng bên Việt, nơi
có những ông chống trời
lên để làm
nhà, hiểu là tự tay
mình xây lấy nhân
tính chứ không để cho “trời”
ngãng trở quyền
làm người của mình, nên
ta thấy tính chất
nhân thoại toàn triệt
(các nơi khác bị
“trời” ngãng trở nên
không có nhân
thoại mà chỉ có thần thoại).
Tóm
lại,
khi
tìm
hiểu
các
huyền
thoại của Bách Việt ta
thấy đầy khí thế của nhân
thoại, của những ông khổng
lồ làm được những việc lớn lao ơn
ích cho con người.
Đó là tính thần
nhân bản đích thực.
Tinh thần này đã manh nha
và phát triển
trong toàn chủng Việt, nhưng đến Lạc
Việt thì tinh thần
đó còn đi xa hơn nữa vì
đã biến tính
chất không lồ thân xác để
đưa vào tâm
linh tức các ông khổng lồ Lạc
Việt không còn
to xác nữa mà là to
hồn, vì thế mà
không giữ truyện những ông
có thân xác
khổng lồ với những việc biểu thị sức mạnh
gân thịt, mà chỉ
chú ý đến những việc tinh thần
như an bang, tế thế kiểu
Lạc Long Quân hay Hùng Vương
như sẽ bàn sau.
Trở
lên là một số huyền thoại hay
tục ngữ, bây giờ
chúng ta thử đi vào
vùng khảo cổ để tìm vết
tích, thì cũng thấy
tràn ngập. Ở đây
chúng tôi chỉ đưa ra một bằng
chứng, đó là
những bộ ba cái chạc gặp được trong 6
ngôi mộ ở Lũng
Hòa thuộc giai đoạn Phùng
Nguyên. Chạc là
vật hình cốc (cái ly uống
nước) nhưng lại có hai
chân dạng ra như cành cây
nên gọi là
chạc (trạc) còn lòng cốc lại
có lỗ, nên
không thể dùng để đựng nước
mà chỉ dùng
làm vật tuỳ táng (vật
chôn theo người chết).
Các nhà khảo cổ suy luận rằng
như vậy là tục khi
cúng tổn tiên rót ba
chén rượu, đốt ba
nén hương, vái ba cái…
đã có từ đời
ấy rồi. Như thế ngay khảo cổ cũng đã
chứng minh sự lâu đời
cũng n hư sự quan trọng của số 3, chứ
không phải đợi tới thuyết
tam tài thì số ba mới được
chú ý.
Sau bằng
chứng khảo cổ xin đưa thêm một bằng
chứng xã hội,
đó là sự kính trọng
tuổi già. Đấy là
một trong những hậu quả của số ba. Như trong
câu đố đã
nói số 3 chỉ lúc tuổi
già phải chống gậy
làm thành chân thứ ba,
nên các cụ xưa
thường được gọi là “lão
trượng” (trượng là gậy)
nhưng rồi theo “tâm linh sử quan”
thì gậy trở nên
tiêu biểu cho minh triết hay
nói nôm na là
kinh nghiệm sống mà nơi quy tụ
là người sống trước quen
gọi là tiền nhân hay tiên
nhơn, hoặc tiên.
Đó là nền tảng cho truyền
thuyết gậy thần của Hùng
Vương, tức một ẩn dụ chỉ cây gia phả
(the penealogical tree or
the ancestor pole) để nói lên
di sản thiêng
liêng của tiên tổ truyền
dòng nối dõi qua
muôn thế hệ gọi là Việt Thường.
Nên chú
ý là các tiên
thường xuất hiện với cây
gậy trong tay là nằm trong bầu
khí đề cao kinh nghiệm
sống, kính tuổi già.
Trường cổ
nhất của Việt có tên là
Động Đình Hồ. Hồ
tròn (số 3) giữa có cái
đình vuông
(số 4). Việc dạy trong đó không
ở tại ở việc truyền đạt
một mớ tri thức như nay, nhưng là dạy
múa bài
Hàm Trĩ (**), còn giáo
sư là các
bô lão. Thoạt mới xem ta cho
là kỳ lạ: tại sao lại
đưa các bô lão
vào đó dạy múa?
Gân cốt chùn hết rồi múa
đâu có nổi.
Nhưng không sao, vì múa
đây không phải
là giật gân mà là
giật giây hướng dẫn
sự sống hay là múa trong cuộc
đời cần đến kinh nghiệm
sống, nó phải ngấm dần vào
không những chân
tay mà cả đến tâm can tỳ phế,
ngũ tạng tức là đời
sống tâm linh mà tổ tiên
xa xưa chỉ bằng các
điệu múa (sẽ bàn sau).
Vì thế cần phải là
những người sống lâu mới có đủ
kinh nghiệm tâm linh
(số 3) để dạy cho đời (số 4).
(**)
Hàm Trĩ có nghĩa là
ao ngậm: hồ ngậm đình.
Vì
kinh nghiệm đời sống tinh thần cao hơn đời
sống sinh lý,
nên xưa có bậc thang
“quân, sư, phụ” trong đó
đặt thầy trước cha là vì vậy.
Cha mới đẻ ra con người
xác thân số 4. Sư mới
giúp sinh ra người tâm
linh số 3. Ba phải trên bốn:
bán dày phải
trên bánh trưng: tròn
phải bao lấy vuông,
Hàm Trĩ hay Động Đình Hồ
là vậy.
Xã
hội Tây Phương theo triết số 4-1 (sẽ
nói sau) mà cụ
thể nhất là lối đầu phiếu bách
tiền, tức ai có
tiền nhiều trăm ngàn thì được
bỏ nhiều phiếu, ít
trăm thì ít phiếu, không
trăm nào thì
không được bỏ phiếu, khôn ngoan
mấy cũng mặc. Đó
là đề cao tiền tài trên
hết, gọi tắt là Vật
chủ hay Địa chủ (gọi là bách
tiền centuric, do tiếng
Latin centum là trăm). Chính
tinh thần trọng tài
khinh nghĩa ấy đã truyền đến nay dưới
hình thức coi khinh
tuổi già, kể như đồ vô dụng,
vì hết khả năng sản
xuất rồi, giá trị con người
tính theo khả năng sản xuất
cao thấp. Đông Tây khác
nhau ở chỗ đó,
nói bằng số thì Tây số 4
còn Đông số
3.
Huyền
thoại là những nét chấm
phá lung linh phác
họa sử trình văn hóa của một
dân, trong đó
bước quan trọng hơn hết là vươn
lên đến số 3, cha
ông ta đã vượt qua được như ghi
trong truyện mẹ Âu
Cơ đẻ con sau thời kỳ cưu mang dài 3
năm 3 tháng 10
ngày. Ta thấy con số 3 được đặt nổi
tới hai lần. Còn
cái gậy đi kèm số 3 được biểu
thị bằng số 10 của “thập
thiên can”. Can là gậy, trong
truyện Hùng Vương
có truyện gậy thần thì phải
hiểu là nét dọc
tâm linh giúp sống vươn
lên tận trời: tức đợt Đại
ngã vậy.
Vì
thế bên cạnh bàn thờ thổ thần
bao giờ cũng cố trồng một
cây gọi là cây linh, cũng
có khi gọi
là “ông chống trời”. Ta thấy
tang chứng rõ rệt của
câu nói “những tư tưởng lớn gặp
nhau”. Cái gậy
trong Sphinx hàm tàng trong
huyền sử nước ta là
theo lẽ đó.
Vậy sự
có được cái gậy tâm linh
là lý tưởng
của cả nhân loại mà tiên
tổ Lạc Việt đã
có lần may mắn đạt được, nên
trong huyền sử nước ta mới
có nhiều gậy, từ gậy thần của
Hùng Vương qua gậy của
các tiên ông tiên
bà cho đến những
cây linh trên gò đống
là ngầm đề cao minh
triết số 3. Không may về sau con
cháu mất ý thức về
ý nghĩa mới chạy theo văn minh
Thái Tây xây
trên số 4, nên xảy ra những
chuyện làm sụp đổ cột
trời như trong tích Cộng Công
húc vào cột
chống trời. Việt Cộng nay không những
húc cho đổ cột trời,
mà còn đào cả
móng cả nền, cạo rửa cả
chút di sản trời tròn
còn sót lại để nằm
sát đất toàn triệt.
Sau vụ
Cộng Công phá hỏng thì
may thay có bà
Nữ Oa đội đá vá lại liền
nên dân ta vẫn
còn có trời để che.
Không biết sau khi bọn Cộng sản
rước triết Tây số 1-4 về dầy mồ
tiên tổ, liệu rồi
chúng ta có tìm ra được
những con cháu
đích tôn của bà Nữ Oa
vá lại trời
tròn chăng? Mong quá hỡi hồn
con cháu Lạc Việt.
Chú
thích:
Bài
một
nói
về
số
2 (nét song
trùng). Bài ba đặt nổi số 3
nói lên đạo
nhân chủ hay là tác động
cao cả nhất uyên
nguyên nhất là hoà trời
với đất. Trời số 1 đất số 2
hoà lại thành 3. Như vậy ta
đã tạm có
ý niệm sơ sài về cơ cấu nền
tảng con người tiên
thiên. Từ chương sau chúng ta
sẽ đi vào “hậu
thiên” để xem con người Đại ngã
tâm linh động ứng ra
sao như sẽ được biểu thị bằng các số
2-3 và 5 với 9.
IV. CƠ CẤU KINH
HÙNG
Trong
các
con
số
huyền niệm của Việt Nho thì số hai
và ba quan trọng hơn cả như đã
bàn ở hai
bài trên. Bài này
bàn về số năm cũng
quan trọng không kém, nhưng sự
quan trọng không nằm
trong số năm đơn độc, nhưng trong số năm như
kết tinh của số hai
và ba. Chính sự kết đúc
đó làm
nên nét đặc trưng của số năm, chứ
còn riêng
số năm thì đâu không
có, thế nhưng ở
đây có những sự đi đôi
không có nơi
khác, thí dụ Nho hay dùng
thành ngữ “tam
lưỡng” hay “lưỡng tham”. Khổng Tử thường gọi
môn sinh là
“nhị tam tử”. Kinh Thi nói về mấy
ngôi sao thì
dùng bộ số tam ngũ. Trúc Thư Kỷ
Niên nói về
Ông Vũ có “hai ba lỗ” (lưỡng nhĩ
ta lữu). Việt Nam
có những kiểu nói “vài
ba”, “dăm ba”. Tại sao lại
có sự nhấn mạnh cũng như sự đọc trại
đi, thay vì nhị
thì là lưỡng, thay vì tam
thì là
tham, thay vì hai thì là
vài, thay
vì năm thì là dăm.
Nghiên cứu kỹ ta sẽ nhận
ra rằng những chữ đó (vài,
lưỡng, tham, dăm) nói
lên sự co giãn, sự thanh
thoát, sự không
bám víu vào cái
chi có số độ,
đó là đức tính cần cho sự
tham thông, cho
con người tham dự trời với đất. Để được như
vậy thì con người
không được bám sát
vào địa, vì tai
họa sẽ là duy địa, duy vật. Vậy thay
vì nói hai
(đất) thì ra vài, thay vì
nhị thì ra lưỡng.
Cũng thế, thay vì năm thì ra
dăm, hoặc gắn liền ba
vào năm thành ra tam ngũ.
Không bám trời
không bám đất thì con
người mới trở nên được
nhân chủ tham dự cùng trời với
đất.
Nói
theo
triết
thì
có
vài mới vươn lên được để
gặp thể hòa, trong thể hòa bao
giờ cũng có sự mềm
dịu hòa hoãn. Nếu 2 là 2
cứng ngắc thì chỉ
đạt thể đồng, mà không đạt thể
hòa. Đây
là nền tảng sẽ gây một âm
vang quyết liệt trên
lối sống cũng như nghệ thuật. Vì thế ta
thấy dấu vết trong nhiều
đồ vật thí dụ tục đánh
“túc chinh” tức đánh
một tiếng chiêng lớn với hai
chiêng nhỏ; hoặc trong khảo cổ
tượng cóc lớn cõng hai
cóc nhỏ; hoặc những
nhà một căn hai chái do nghi
thức bó buộc phải
làm như thế trong những điện đài
chính thức như
đàn Nam Giao, đàn Xã Tắc…
Sở dĩ
chúng ta đặt nổi chữ vài,
vì nếu không thể
sẽ không lên được thể hòa
mà chịu ở lại trong
thể đồng với ác quả mọi mặt. Thí
dụ về xã hội
thì ở thể hòa là
liên hệ người với người,
còn ở thể đồng thì một bên
mất bản chất người như
trong liên hệ chủ nô, tuy cả hai
là người nhưng
nhân phẩm nô bị tiêu diệt,
để nô chỉ còn
là một vật sở hữu đồng nhất với
các vật khác của
chủ. Đó là liên hệ vong
thân của con người.
không may mối liên hệ nọ đã
ngự trị trong các
xã hội La Hi, và truyền đến nay
dưới hình thức
thống trị chuyên chế mà hiện đại
là tai họa cộng
sản; trong đó chỉ có nhà
nước mới là chủ,
còn dân chỉ là nô,
vì phải đồng nhất
(ý, tình, chí) với
nhà nước, mọi sự
dị biệt dù chỉ trong ý nghĩ hay
cảm xúc cũng bị
tiêu diệt tất cả trở nên y hệt như
nhau. đó
là thể đồng của sự vật, nên
chính là duy vật
hạ tầng chỉ huy thượng tầng. Hạ tầng 4 chỉ huy
thượng tầng 1.
Còn nếu thượng hạ hài hòa
thì phải
là 2-3 tức đặt vật chất bên dưới
con người: ngừơi
là ba, ba phải nắm phần chính.
“Chữ
tâm kia mới bằng ba chữ tài”.
Do
đó ta hiểu tại sao tiền nhân
đã quan trọng số 3 như
đã bàn trong bài trước.
Bây giờ xin
bàn đến bước hai là dăm ba,
nó ở tại đem số 3
hòa với 2 thành 5. Đó
cũng là một
cách nhấn mạnh trên số 3
bên trên số 2. Tuy 3
với 2 thành 5 nhưng hai bên vẫn
còn giữ được bản
vị. Sở dĩ phải chú ý như vậy
vì trong truyện cổ
và thói tục đều nhấn mạnh
trên điều đó.
thói tục chẳng hạn, có những
nhà bắt buộc phải
xây ba căn hai chái như ở đền Tế
Thiên, đàn
Xã Tắc, đàn Phong Vân.
Truyện A Ngói
khóc mẹ hai ngày ba đêm.
Truyện Chàm Cơ Ho
phá rừng 30 ngày 20 đêm
thì được chín
vạc cầy. Truyện Ê Đê giơ 3
ngón tay gọi ông Ơ
Hon, giơ 5 ngón tay gọi bà Ơ
Hon, giơ 3 ngón tay
khấn, giơ 5 ngón tay gọi tay cầu.
Rõ nhất là
truyện thần núi Tản Viên cũng gọi
là Ba Vì
xuống chơi dưới thuỷ phủ được Long Quân
tặng cho một quyển
sách có 3 trang, mà
sau thần đọc 2 trang
là mộc và hỏa tức là 2-3
(hỏa 2, mộc 3). Đó
là chính tâm tính
của mình nên
thần cũng gọi là “Kỳ Mạng” cái
mạng của mình.
tóm lại những con số trên
đây không cần thiết
tại sao lại lập đi lập lại làm ta
đoán xưa kia nó
mang một ý nghĩa chi đó
mà ta cố moi ra, và
ta suy đoán được rằng ngữ thuật dăm ba
vừa nói lên
bước tiến trong tác hành phải từ
1 vươn lên 9 qua
5, nhưng 3 vẫn quan trọng nên phải bỏ
nhẹ 5 để trở về 3
nhân chủ. Thành thử dăm ba cũng
như vài ba đều
nói lên sự quan trọng của đạo
làm người biểu thị
bằng số 3 như sau này được công
thức hóa trong cơ
cấu ngũ hành, con người vẫn là
đầu mối (nhân giả
ngũ hành chi đoan dã) chứ
không bị mất hút
trong các hành, trái lại
ngự ở giữa 4 hành
kia để điều động chúng: đó
là nhân chủ sai
khiến sự vật.
Nói
kiểu
thông
thường
là
từ vài lên ba: từ dưới
đi lên, còn dăm ba từ trên
đi xuống bao giờ cũng lấy
số 3 làm căn bản. Vậy nên
đó là bộ số nền
tảng của Việt Lý biến hóa ra
các bộ cơ cấu
khác như 5, 9 sẽ được bàn trong
quyển Sứ Điệp. Ở
đây chỉ có ý nói
tới bộ số 2-3 như một thứ
chìa khóa để mở vào
ý nghĩa của kho
tàng cổ.
Trong
quyển Art du Vietnam (Somoly, Paris 1957) của
hai tác giả người
Tây Âu kể lại vào lối năm
1952 khi hai ông đi
cùng khắp Bắc Việt để chụp hình
các nghệ phẩm
nói lên nét đặc trưng văn
hóa Việt Nam
thì có gặp bia tạc năm con hổ
xếp thành hai lớp
trên dưới, lớp trên 3 con, lớp
dưới 2 con, hỏi cả nước
không ai biết ý nghĩa ra sao.
Biết sao nổi. Muốn biết, cần
trước hết là có con mắt triết,
thứ đến phải theo
sát khảo cổ. Lúc ấy khoa khảo cổ
còn quá
mới cũng như chưa được mắt triết ngó
tới. vì thế
câu hỏi đành bỏ lửng không
có câu thưa.
Vậy
câu thưa xét như là hậu
quả của cái
nhìn đầy đủ nằm trong thành ngữ
“vài ba”.
Thành ngữ này hẳn đã xuất
hiện từ lâu lắm,
vì trong một ngôi mộ sang trọng
tìm được ở Lũng
Hòa cũng thuộc văn hóa
Phùng Nguyên thấy
có 5 viên sỏi: 3 viên
mài nhẵn, 2 viên
để thô. Hai viên để thô
mà không
mài nhẵn là vài.
Còn 3 viên
mài nhẵn là triết lý số
ba đó (trong Sứ
Điệp sẽ trưng thêm bằng chứng về vụ
này rất nhiều).
Ơ
đây chỉ cần nói rằng những lối
xếp đặt đó
nói lên sự quan trọng của bộ số
vài ba, vì
nó thấu nhập vào những
tác động linh thiêng
tế tự như tế Ngũ sinh và Tam sinh. Tam
sinh là bò,
heo, dê, còn ngũ sinh thì
cộng thêm
gà, chó.
Hoặc
nhà ba căn hai chái ở đền Văn
Miếu thì hai
chái là vài vì
chái bé hơn
căn. Nho giáo đã công thức
hóa vài ba
thành câu “tham thiên lưỡng
địa nhi ỷ số” (ba trời
hai đất là những số căn bản, Kinh
Dịch). Trong câu
trên thì lưỡng là
vài. Không
nói nhị mà nói lưỡng
là cùng một
tinh thần như chữ vài. Còn tham
thay vì tam để
nói lên phần tham dực của con
người trên cấp tối
thượng, cũng gọi là tham thông.
Bây
giờ xin đưa ra một áp dụng vừa cụ thể
nhất và cũng
là nền tảng thiết thực hơn cả đó
là sự phân
chia tài sản. Để thấy rõ sự uyển
chuyển của cơ chế
này thì cần đối chiếu với cơ chế
của Tây Âu
đi theo lối 2 là 2 bàm
víu mà cụ thể
là tư sản với quyền tuyệt đối,
nên chỉ có nhị đối
kháng là hữu sản và
vô sản. Đó
là đầu mối còn gây tai hại
trầm trọng cho đến
ngày nay giữa tư bản và cộng
sản. Lý do vì
thiếu triết lý vài nên
quá bám
víu vào tư sản, biểu lộ qua
quyền tuyệt đối về tư sản (le
droit absolui de propriété) được
các triết học
và các thuyết lý
bênh vực. Vậy chính
sự bám riết nọ đã gây ra
nạn vô sản tức cảnh
huống của những người không có
tài sản. Đã
không có tài sản tất trở
nên nô lệ. Thế
là trong xã hội phân ra
có chủ có
nô, có giai cấp, tiếp đến
là có giai cấp đấu
tranh liên tục. Toynbee đã quan
sát gần ba chục nền
văn minh, và nhận ra căn nguyên
làm chúng
sụp đổ đều phát xuất từ cảnh
chênh lệch bên
có bên không. Thế giới hiện
nay rung động cũng
vì thế. Trái lại Việt xưa đi
theo lối “vài” uyển
chuyển, nên không theo tư bản hay
cộng sản mà theo
lối bình sản, tức đứng giữa tư bản
và vô sản: uyển
chuyển giữa có với không.
Đây
là một nền tảng cực kỳ hiệu nghiệm để
gây dựng nên
người hùng của đạo nhân chủ,
nhưng con người đầy óc
bất khuất, vì 3 năm mới phải nghĩ tới
việc cấp phát
có một lần, còn trong một
ngàn ngày
thì tự lập, hễ “tay khéo
làm thì hàm
nhai”, khỏi quỵ luỵ hàng ngày
như trong chế độ tư bản hay
cộng sản. Tất nhiên trong thực tế
có nhiều phức tạp, nhưng
đây đang nói về thể chế
thì quả thật bình
sản cấp cho người dân sự độc lập kinh tế
khác hẳn chế độ
cộng sản trong đó dân phải lệ
thuộc hàng
ngày vào nhà nước
còn đâu nữa
là bầu khí thuận lợi cho sự
phát triển óc
tự lập, tự cường, bất khuất.
Tuy
nhiên đức tính dân tộc
đó ngày một sa
sút, đây là chuyện
dài hơi và rất
phiền toái do ngoại xâm cũng như
do việc quên gốc. Ơ
đây chỉ xin nhắc sơ qua cái gốc
đó xuất hiện như
sợi dây lôi xuyên qua quyển
Kinh Hùng với
tên là Hùng Vương chỉ mẫu
người mạnh mẽ hùng
cường từ đợt sơ nguyên: tham dự
cùng trời đất. đó
là đạo nhân chủ được biểu thị
bằng các số 2, 3
và bộ cơ cấu vài ba như sau:
Trước hết
là con số 2 thì đã hiện
hình một
cách rất nhân bản và thi
vị trong cặp đôi
Âu Cơ Tiên lấy vua Rồng xứ Lạc đẻ
ra Hùng Vương. Vậy
Hùng Vương là kết đúc của
chữ vài,
nên đẻ ra được con Hùng chỉ thị
bằng người đại ngã.
Vì thế mà mẹ đã cưu mang
3 năm 3 tháng 10
ngày và đẻ vào
tháng 3. Hai chữ 3
trên là thời sửa soạn được
nói đến trong hai bộ 3
đầu tiên. Bộ đầu trước hết là
cháu ba đời vua Thần
Nông là Đế Minh. Bộ ba thứ hai
là:
Đế Minh
lấy Vụ Tiên đẻ ra Kinh Dương Vương.
Kinh
Dương Vương lấy Long Nữ đẻ ra Lạc Long
Quân.
Lạc Long
Quân lấy Âu Cơ đẻ ra Hùng
Vương.
Đó
là 3 lần 3 là 9. Vậy Hùng
Vương là
cháu chín đời vua Thần
Nông sẽ được lập lại trong
vụ Hùng Vương thứ ba truyền ngôi
cho công tử thứ 9
là Tiết Liệu.
Điều
nên chú ý là Kinh
Hùng chỉ nói
tới Hùng Vương thứ 3 mà
thôi. Trong 10 truyện
nói tới Hùng Vương thì 6
truyện chỉ nói
trống Hùng Vương còn 4 truyện
thì nói tới
Hùng Vương thứ 3, đó là
truyện:
VI.
Tiên Dung (đần Nhất Dạ).
VII.
Thánh Dóng.
VIII.
Bánh chưng.
XII. Việt
Tỉnh.
Toàn
những
truyện
tràn
ngập
triết lý với số 3 căn bản. Từ khi
lên ngôi của công tử thứ 9
thì có biến
vì 9 là cùng tột,
là đỉnh chót của
số 3. Nên từ đấy có dấu sa đọa,
anh em giành giật
chức trưởng tộc, và lập trang trại
riêng… Như vậy
là khởi đầu đợt rút, tức 3
lên 9 là đi
lên, rồi từ 9 đến 18 là đi xuống:
nhịp lên từ 3 tới
9, nhịp xuống từ 9 đến 18, nên nược Văn
Lang đến Hùng
Vương thứ 18 thì mất (1). Nhưng mất
mà vẫn trường tồn
bằng truyện núi Ba Vì đứng sừng
sững để chi linh
khí phương nam không thể trừ
được. khi Cao Biền muốn yểm
linh khí nước Nam thì bỉ thần
núi Ba Vì nhổ
vào mặt (2).
Thế
là từ đầu tới cuối Kinh Hùng ta
thấy có câu
vài ba ẩn ẩn hiện hiện với ở giữa rất
nhiều số 3, 5, 9.
Đó là bằng chứng triết Việt
đã tiến rất cao rồi.
những con số này làm nên
sợi dây xâu
các lời khôn ngoan đầy kinh
nghiệm vào một mối
nên gọi là kinh theo nghĩa
là kinh qua, kinh
nghiệm. Ấn Độ kêu là Sudra
cùng nghĩa sợi dây
xỏ qua các chân lý nền
tảng làm nên
một đạo lý thống nhất. nếu cần gọi
tên cái
dây xỏ qua Kinh Hùng thì
đó là bộ số
2-3.
Trên
đây
chỉ
là
mấy
nét sơ lược, nhưng tưởng đã
tạm đủ để hé mở cho thấy rõ
nó rộng lớn đến
đâu, thấy vai trò của giếng
thiêng (lược đồ của bộ
số 2-3) ở chỗ nào, và tại sao
trong Kinh Hùng 2
lần nói đến giếng cách lơ lửng:
“Nay
giếng bỏ hoang thành bẩn thỉu”.
Bài
sau
sẽ
bàn
về
Lạc Long Quân dùng triết
lý
2-3 trong việc dựng nước thế nào.
Chú
thích
(1) Trong
truyện Bánh Chưng chính ra
không nói tới
Hùng Vương thứ ba, nhưng vì
cùng một nhân
vật với truyện Phù Đổng Thiên
Vương thuộc Hùng
Vương thứ ba, nên thêm số ba
vào cho thấy rõ
cơ cấu từ 3 tới 9. Tuy nhiên vì
nạn tam sao thất bản,
nên có bản chép
Hùng Vương thứ sáu,
bảy và công tử thứ tám hay
mười tám.
Chúng ta cần phải làm
sáng tỏ xem nên theo
3-9 hay là 6-18 (trong quyển triết
lý cái
đình chúng tôi biên
công tử thứ 9
mà nay đọc lại thấy 18, thì
đúng là
lúc in nhà xuất bản tự ý
sửa đổi, y như các
chữ y sửa ra I, ý kiến ra í
kiến). Trong phạm vi văn học
sử chỉ có thể soi sáng một
cách gián tiếp
bằng cách so sánh các dị
bản để quyết định 3-9
nhiều hay 6-18 nhiều. Đó là lối
vẫn còn bấp
bênh, vì các số trong Kinh
Hùng rõ
rệt không là lịch sử, hơn nữa
tác giả thu thập
sách Lĩnh Nam tỏ ra đã mất
ý thức trọn vẹn về
ý nghĩa sâu xa rồi, thí dụ
rõ nhất là
truyện Bánh Chưng lẽ ra phải nói
cả hai, còn nếu
nói một thì phải là
Bánh Dày. Duy
vật từ đấy. Vì thế nay muốn tìm
lại ẩn ý truyện
xưa chúng ta cần dùng lối
phê bình của huyền
sử là quy chiếu với toàn thể,
với nội tại của câu
truyện và những liên hệ ngầm của
nó.
Vậy theo
huyền sử thì phải nói số 3.
Trước hết vì
nói về toàn thể thì trong
11 quyển Hùng
Vương toàn nói Hùng Vương
mà không
nói Hùng Vương thứ mấy, ngoại
trừ bốn truyện nói
tới thì toàn dùng số 3.
Ngược lại
số 6 quá lẻ loi, nên không
hợp với quy luật huyền sử
bắt phải quy chiếu vào toàn thể
hoặc một chùm sự
kiện mà không vào một sự
kiện lẻ loi, ấy là
chưa kể số 6 cũng như 18 tàng ẩn số 3-9
nhân đôi,
và có thể do ảnh hưởng Phật
Giáo ưa số chẵn (tứ
diệu đế, mồng bốn tháng tư hoặc mồng
bốn tháng
tám). Tô Đông Pha đã
có lý khi
quy số 6 cho Phật, rồi 9 cho tiên trong
câu:
Dành
dành
sáu
cánh
Phật
trên rừng,
Xương bồ
chín đốt tiên trên
đá.
(Vân
Đài
Loại
Ngữ,
tr.493)
Bây
giờ nói đến số 9 và18
thì chúng ta
nhận thấy rằng nói 18 là
không chính
xác hay nếu có tạm dung
là vì nhân 9
với 2, nhưng đã khởi đầu Hùng
Vương thứ ba, thì
phải là công tử thứ 9 mới hợp
toàn thể, tức hợp bầu
khí của nước Văn Lang đặt cơ sở
trên nguyên
lý mẹ. Nguyên lý đó
gọi là Nữ thần
Mộc (số 3), cũng có tên là
“Cửu Thiên Huyền
Nữ”: số 9. Rõ rệt 3 là căn của
số 9 (3-9) hay nói
vắn tắt là Cửu Lạc, tức cai trị theo
lối đó thì
dân nước được an lạc, vui thích,
gọi là Lạc
dân. Trang Tử nói là “trị
thịnh, đức bị”. Vua
Hùng Vương cai trị theo lối đó
nên huyền sử
kêu là có gậy thần 9 đốt.
Vậy khi truyền ngôi
tức trao quyền cai trị thì phải
nói là trao gậy,
hiểu ngầm gậy có 9 đốt; còn nếu
không nói
thế thì người nhận phải là
công tử thứ 9. Nho gọi
việc biết cai trị đó là
“phù cửu đỉnh”, gọi việc
lập nước là đúc 9 đỉnh (Vũ
Chú Cửu Đỉnh),
và ông đã chia theo lối
tam tam (3*3=9) (*)
và đỉnh được coi như “bảo quốc”, về sau
bị du mục làm sai
đường lối văn trị đó thì gọi
là làm
chìm mất một, còn lại có
8 đỉnh (8 là số du
mục). Bánh chưng nằm trong liên
hệ đó ở chỗ đỉnh
là để nấu đồ ăn ngũ sắc, không
cần lửa mà tự
nhiên sôi. Huyền nghĩa của
nó là cai trị phải
liệu cho dân có đủ ăn: “dưỡng
dân là đức
chính của việc cai trị” (Đức duy
thiên chính.
Chính tại dưỡng dân). Nhân
đức là biết cai
trị giỏi, mà cai trị giỏi là
nuôi được dân.
“Đại Vũ mô”. Vì liên hệ
đó mà trong
việc Hùng Vương chọn người kế vị
có cuộc thi gia
chánh để lựa người tài.
(*)
xin đọc kỹ lại bài “Vũ Chú Cửu
Đỉnh” trong sách Cơ
Cấu Việt Nho, trang 153-168.
Trên
đây
chỉ
là
một
thí dụ về việc sử dụng số cơ cấu
cũng như huyền số, cần phải có những
cái nhìn cai
quát trên toàn thể của nền
văn hóa, lấy
đó làm chuẩn thì mới hy
vọng nói lên
được ý nghĩa hàm ngụ ở trong.
Đó
là việc rất dễ trở nên sai lạc.
May thay ngày nay
không còn cần nữa, vì
chúng ta đã
vượt qua giai đoạn dùng số rồi. Sở dĩ
số được chú
ý ở đây phần nào vì
chúng ta đang
tìm về nguồn tức vào lúc
các số còn
được dùng ít nhiều, nhưng cũng
đã tan ra gần trọn,
nên người kể cũng như kẻ sao chép
đã mất ý
thức, do đó dễ xảy ra sự sai lạc.
Vì vậy chỉ nên
dùng đến khi nghiên cứu về nguồn,
và phải đối chiếu
so đo rất cẩn trọng.
(2)
Nhân nói đến núi Ba
Vì cũng đoán được
là đặt tên theo số 2-3. Ba
là Ba Vì,
còn hai là hai con sông ấp
lấy thành Thăng
Long ở giữa, nên Thăng Long cũng gọi
là Hà Nội
có nghĩa là giữa hai sông.
Vậy phải viết Nhị
Hà mới đúng đồng văn, còn
viết Nhĩ Hà
thì chỉ là mượn tên
sông bên Tàu
mà đặt, làm mất ý nghĩa,
hay nếu cố gán
thì quá gượng ép,
vì nhĩ là hai tua
mũa. Nếu cho nhĩ là cái tai
thì cũng không
có gì xác đáng
vì thông thường
người xưa hay đặt vào tên những
ý nghĩa sâu
xa hơn nhiều. Ta đoán được Ba Vì
là tên đặt
trước, còn núi Tam Đảo đặt sau
vào thời đã
tiếp xúc với Hán Nho. Nhưng cả
hai núi đứng hai
bên con sông Hồng Hà
đã là động lực
ngầm để tiền nhân đặt những tên
trên. Vậy nên
hiểu theo cơ cấu vài ba, chứ đừng hiểu
theo sử địa là đếm
xem thực sự núi có ba ngọn
và sông có
hai dòng chăng. Sông Cửu Long
cũng thế, có thể
ít hơn hay nhiều hơn 9 cũng được
vì đây là
huyền số. nghe câu nói “uốn ba
tấc lưỡi” thì chẳng
ai nghĩ đến việc xem lưỡi có thể
dài ba tấc. Cũng phải
hiểu thế về các số cơ cấu.
V. XỨ NGHỆ
“Ai
vô xứ Nghệ thì vô,
Sợ
truông nhà Hồ sợ phá Tam
Giang.
Phá
Tam
Giang
ngày
rày
đã cạn,
Truông
nhà
Hồ
nội
tán
cản ngăn”.
Câu
phong dao trên đây chính ra
là nói về
tỉnh Nghệ An, nhưng vì chữ Nghệ
có những mối liên
hệ rất thâm sâu vừa với huyền sử,
vừa với di tích xa
xưa nên cần mang nó lên đợt
ẩn dụ để thấy phần
nào ý nghĩa uyên
nguyên mà người xưa
đã gửi gấm vào đó.
Trước hết
trong khi đi tìm ý nghĩa của chữ
Nghệ chúng ta sẽ
gặp mối liên hệ giữa chữ Nghệ và
Việt tộc trong
sách cổ xưa nhất là Kinh Thư.
Trong sách
này ở thiên đầu gọi là
Thuấn Điển có hai chữ
Nghệ Tổ mà các nhà
chú giải đều nhận
là khkông biết chỉ về ai. Rồi
suốt trong Kinh Thư chữ Nghệ
được dùng tới nhiều chục lần với
ý nghĩa thông
thường là cai trị tốt, mà theo
đồng văn của nguyên
nho thì cai trị tốt là
nuôi được dây;
còn theo nghĩa sơ nguyên
thì chữ Nghệ có
nghĩa là xếp đặt, mà sự xếp đặt
cao cả hơn hết là
sự xếp đặt đất trời. Có xếp đặt
xuôi thì vạn vật
mới được nuôi dưỡng (tức đạt thịnh trị
cao đẳng) như được
tóm trong câu sách Trung
Dung: “chí trung
hòa thiên địa vi yên, vạn
vật dục yên”. Việc
xếp đặt ấy được tóm trong chữ Nghệ
mà Kinh Thư giải nghĩa
là “thời trung nghệ, vạn bang
hàm hưu”(Thiên Đại
Cáo: luôn luôn xếp đặt
trúng thì vận
nước được nhờ) . Xưa kia xét về cội gốc
có hai lối cai
trị: một là lo an sinh cho dân,
lối này thuộc
nông nghiệp, lấy việc tuân theo
thời tiết làm trọng
nên có lễ tế thiên. Vậy tế
thiên hàm
ngụ sự xếp đặt trời đất, nhấn mạnh trên
thời gian. Lối
khác là do phú quốc cường
binh. Lối này
thuộc du mục nghiêng hẳn về không
gian nên là
duy địa tức không xếp đặt nổi trời, đất
trúng chỗ
nên không là nghệ vì
là lối cai trị lo
cho nền an sinh của dân là lối
phải biết xếp đặt trời đất
đúng chỗ. Lạc Long Quân nhận lối
cai trị này.
Sách nói Lạc Long Quân
đóng đô ở xứ
Nghệ sẽ được nói đến trong bài
này không
phải là tán tự mà
là dựa vào chứng
từ thuộc khảo cổ thời xa xưa nhất lúc
văn tự còn đang
hình thành. Vậy mà trong
thời xa xưa ấy người ta
đã tìm được chữ nghệ không
những trong hệ thống văn
tự, mà còn trong nhiều di vật
khác, nên
đó quả là một tang chứng rất
quý.
Đó
là mấy lý do tại sao câu
phong dao về Nghệ An cần
được ngụ ngôn hóa (allegorize)
là cốt để nói
lên những sự việc cần bàn về văn
hóa dân tộc
mà ý thức của người đặt ra
câu ca dao trên
có thể không nghĩ tới, nhưng ai
dám quyết rằng
trong tiềm thức của họ lại không
có những liên hệ
ngầm với những chân lý phổ
quát hơn. Đàng
khác, đây là dịp thuận
tiện để cung ứng một
thí dụ, cụ thể về việc vận dụng phương
pháp huyền sử
trong việc trở ngược về nguồn để nhận ra
không được tán
suông mà cần dựa trên
cái toàn thể,
cái môi sinh tinh thần lúc
xa xưa còn lưu
lại những dấu lung linh.
Trong tập
sách “Hùng Vương Sự Tích
Ngọc Phả Cổ Truyền”
có lời rằng “Vua Kinh Dương Vương
vâng ngọc chỉ phụng mệnh
trời về núi Nam Miên Sơn lập
đô ở phía Hoan
Châu thuộc Nghệ An xứ”. Trên
đây chính
là một trang huyền sử nói
lên bước tiến quan trọng
trong tâm thức con người, cho nên
chữ Nghệ An ở đây
không còn mang nghĩa địa dư nữa
mà là nghĩa
nhân bản chỉ người tài giỏi biết
quyền biến. Vậy muốn thấu
đáo ý nghĩa của chữ Nghệ An
thì cần phải biết con
người đặt đô xứ Nghệ có tâm
thức nào. Muốn
thấy điều đó phải quy chiếu tới “ba vĩ
tích” của Lạc Long
Quân là diệt trừ ngư tinh, hồ
tinh và mộc tinh. Vậy
ý nghĩa siêu hình của “ba
vĩ tích” có
thể suy diễn như sau:
Theo cơ
cấu ngũ hành thì:
Hồ tinh
trấn phía tây, hành kim,
Ngư tinh
trấn phía bắc, hành thuỷ,
Mộc tinh
trấn phía đông, hành mộc.
Còn
nghĩa
bóng
thì
nên
tìm trong ba mối chấp
trước của con người thường ẩn trong ý
nghĩ, ngôn từ
và hành động. chính
đó là đầu mối
sinh ra những điều dụ dỗ mê hoặc con
người thường chỉ bằng
hình ảnh thông thường là
những hồ ly, những
cáo già. Theo ý
đó, sách Phong Thần
Diễn Nghĩa gọi Đát Kỷ vợ vua Trụ
là “Cửu Vĩ Hồ Tinh” (hổ
9 đuôi). Rất nhiều chi tộc trong
Đông Nam Á
hình dung “cửu vĩ hồ tinh” là
loại yêu ma hiểm độc
hay làm hại người. trong triết
lý thì nó
chỉ đợt ý hệ mà Kinh Hùng
ví với cái
hang. Ai ở trong hang chỉ thấy có một
chiều, còn bao sự
thật khác kể như không có.
truyện kể rằng “Hồ tinh
bắt thanh niên thiếu nữ nhốt trong hang”
thì nên
hiểu là nó đem ý hệ
trùm lên đầu
óc nạn nhân không cho thấy
được chi khác hết,
ai mắc ý hệ thì giống như ngựa
đeo cái khống chỉ
nhìn được có con đường người
đánh xe muốn cho
thấy. Cái hang này giống hệt
cái hang nhốt
tù mà Plato nói tới trong
sách Republic của
ông trong đó tù nhân
cũng chỉ được
nhìn có bóng hình
sự vật mà
không được thấy sự việc.
Ngư tinh
trấn hành thuỷ là quê
hương của cá. Luật của
cá là con lớn nuốt con bé
một cách
công khai, nên cá biểu thị
chính quyền
chuyên chế bóc lột hết mọi người
một cách trịnh
trọng đàng hoàng. Nhà Tần
thờ thần cá
(Hà Bá) nên Tần Thuỷ
Hoàng kể được là
một đại biểu của ngư tinh. Nhiều học giả cho
rằng chữ thuỷ trong Tần
Thuỷ Hoàng bao hàm nghĩa nước,
tức cai trị dân theo
lối đắp bờ giữ nước tức kềm kẹp dân đủ
điều. Nhà
Hán cũng chuyên chế nên hoa
văn cá còn
tìm được tràn ngập trong nghệ
thuật nhà
Hán. Ngư tinh trấn phía bắc
liên hệ chặt chẽ với hồ
tinh phía tây nên quen
nói Tây Bắc.
Cộng sản Tàu và Việt cũng được
khởi động từ phí
tây bắc là Nga Sô.
Còn
mộc
tinh
chỉ
những
tin kiêng nhảm nhí dị đoan. Kinh
Hùng kêu là xương cuồng
(tức cuồng tín được
làm cho lớn mạnh trở nên bạo
tàn không thể
trấn át) nếu nó nắm được
chính quyền thì
dọa ra thần quyền chuyên chế, như
đã xảy ra trong khắp
loài người gọi là sự lạm quyền
của tăng lữ, mà
tiêu biểu nhất là vua thần sẽ
nói đến sau.
Đó là một trong bốn tai họa của
loài người.
Vậy Lạc
Long Quân đã diệt tất cả những
cái đó, tức
cả hai phía Tây, Bắc và
một nửa phía
Đông, chỉ giữ lại có phía
Nam hành hỏa chỉ
ánh sáng gọi là
“xích quỷ” mà nghĩa
tinh thần của chữ xích là
“cái gì tinh hoa
nhất”, còn chữ quỷ là làm
chủ. Lạc Long Quân
giết ngư tinh bằng dùng khối sắt nung
đỏ (Đỏ lửa) ném
vào miệng nó. Vậy lập nước
Xích Quỷ là
làm chủ được cái tinh hoa của
đạo làm người. Kinh
Hùng (H2) nói “Lạc Long
Quân dạy dân ăn mặc,
bắt đầu có trật tự về quân thần,
tôn ti, có
luân thường về phụ tử, phu phụ”. Đọc
câu trên thấy
rõ không dạy dân cái
chi về ma thuật,
bái vật có thể mê hoặc
lòng người hay
ý hệ lắt léo trừu tượng
có thể dẫn đến tai họa
vong thân, mà chỉ dạy toàn
những truyện thường nhật
gần gũi thuộc ăn làm, giao tiếp, tức
khởi đầu có dệt vải,
làm nhà, trồng lúa,
là những dấu vết văn
hóa bên ngoài, bên
trong là những mối
nhân luân của người đối với người
tức là đã
diệt trừ các trở ngại để người được
làm người. nhân
đó toàn khối sinh lực có
thể hướng vào việc
phụng sự con người, không còn
phí phạm vào
quỷ thần hay trục vật. Đó quả là
Xích Quỷ tức
đã đi được bước sửa soạn hay nhất cho
việc đặt nền triết
lý nhân sinh. Và vì
thế, Lạc Long Quân
đáng gọi là nghệ hiện
thân, nghệ sĩ thượng thặng,
Nghệ Sĩ viết hoa, tức biết sống trên cả
hai đợt biểu thị bằng
nét chữ Nghệ giao thoa X với công
hiệu đương nhiên
là an vui hoan lạc. Nói
cách khác,
câu “lập đô ở phía Hoan
Châu thuộc Nghệ An xứ”
nói lên bí quyết của triết
lý an vi xứ Nghệ.
Cũng
có thể đi sâu vào bầu
khí văn hóa để
quảng diễn ý đó như sau.
Bên ta quen nói
“bụng cứ rốn”. Ngày nay có nhắc
lại câu đó
là để nói chơi, mà
có phần hơi thấp
nên những người đứng đắn không
dám dùng. Kỳ
thực câu trên muốn diễn tả triết
lý cao siêu
của xứ Nghệ. Để thấy điều đó ta cần đặt
nó vào thế
đối chiếu. Người Pháp nói
“autant de têtes, autant
d’opinions” (có bao nhiêu đầu
là có bấy
nhiêu ý). Nếu thử đi tìm
ý nghĩa sâu
xa thì thấy nó khác
câu “bụng cứ rốn” cả một
trời một vực, tức triết Tây đặt quan
trọng trên đầu, chỉ
ý niệm, nên nữ thần minh triết
Minerve sinh ra từ
đầu thần Zeus. Thế có nghĩa là
nhấn mạnh trên sự
sáng của lý trí nên
là duy
sáng tức duy trí. Nietzsche
trách triết Hy Lạp đề
cao thần Apollon mà bỏ Dionysos tức
chọn dương bỏ âm, chọn
sáng bỏ tối, đánh mất liên
hệ với tiềm thức từ đấy.
Ấn Độ lại
đặt chỗ nhấn bên dưới huyệt đan điền, cụ
thể là cơ quan
sinh dục, những phallus căng phồng được tạc
thành tượng để thờ.
Đó lại là một đối cực
khác là sống đối chọi
với sáng của Tây Au.
Lạc Long
Quân đã từ hai đối cực kia, từ
đầu tiến xuống, từ dưới
tiến lên để thu gọn vào giữa,
đúc hai đầu lại
một cho thành ba, hòa hợp hai
đối cực vào chữ
hòa, chữ nghệ, nói rộng ra
là giao chỉ, tức chỉ
tâm (sáng) và chỉ sinh
(sống) giao thoa nhau ở chỗ
chí cực, mà nơi ấy chính
là tâm
mình chứ không tìm ở xa
trên trời hay dưới
đất (biểu thị bằng đầu hay dưới hạ bộ).
Hoặc
nói theo huyền thọai thì “Quỳ
Long đánh trống bụng
mà cười” (Quỳ giả cổ phúc nhi
hi) chính là
nói lên triết lý giao chỉ
ở chỗ phải y cứ
trên tâm thì mới đạt được
hoan lạc, mà hoan
lạc là đỉnh chót vót của
nghệ thuật nhân
sinh. Nói cách khác, cứu
cánh cuộc đời
là mỗi người phải sống sao cho đạt hạnh
phúc, phải
có ăn có mặc, có đầy đủ
những sự cần dùng,
lại được tự do phát triển hết mọi khả
năng của mình. Sự
thành tựu được biểu lộ bằng ca vũ,
nên nói Quỳ Long
đánh trống bụng mà cười. Cười
là sự lóe bật
của sức sống và minh đức, mà ta
cần làm
sáng lên, Nho gọi là phải
“minh minh đức”. Bản
tính con người đại ngã
làm bằng hai dòng
sinh và sáng. Khi hai
dòng đó giao thoa
thì gọi là giao chỉ (sách
nói vâng
ngọc chỉ). Hai chỉ có giao thoa
thì mới đạt được cứu
cánh của cuộc sống nhân sinh
biểu lộ ra bằng hoan
lạc (đóng đô ở Hoan Châu).
Trên
đây
là
nói
về
ý nghĩa siêu hình
của chữ nghệ. Bây giờ cần thêm
ít lời về gốc
gác chữ nghệ. Chữ nghệ sơ thủy viết như
chữ thập chéo X,
một hình thái khác của
thập tự nhai. Cả hai đều
là nền tảng cho chữ Văn (lang), Giao
chỉ, cũng như có
liên hệ với hoa văn hình chữ nghệ
có vòng O
gặp nhiều ở đồ gốm Phùng Nguyên.
Đại để liên hệ
tìm thấy như sau: trong quyển
Prehistoric anh Primitive Man
(Mc.Graw Hill Book Co. N.Y.1966, tr.124),
ông Andreas Lommel thấy
trong tục thờ sọ người có hình
người ngồi xổm với hai
gạch chéo giao nhau X, có khi
thêm vòng
tròn O thì đóan rằng
vòng tròn chỉ
đầu, còn dấu thập chéo X chỉ hai
tay khoanh lên
ngực.
Còn
chuyện
móc
nối
hình
trên với chữ nghệ (tức vạch X)
hoặc với nghệ thuật sống là vì
hình ngồi xổm
là tư thế con người trong bào
thai, xếp thế để mong cầu
sinh trở lại hoặc sống mạnh trong cõi
sau (hình ngồi xổm
này là một mốc quan trọng để
tìm nguồn gốc sẽ
nói sau trong quyển Sứ Điệp).
Còn
chữ
nghệ
X
có
thể đóan là một trong số
ít
chữ cổ sơ còn sót lại thuộc giai
đoạn chữ chân chim
hoặc con quăng đã xuất hiện lâu
đời trước khi có
chữ lệ ngày nay.
Trong
những di chỉ thuộc vùng Ngường Thiều
vào lối 5
ngàn năm trước công nguyên
đã tìm ra
các chữ số trong đó số 5 được
viết với hình
thái chữ nghệ là X (Cradle,
229).
Theo
những điều trên ta có thể
móc nối chữ X với số 5,
với xứ nghệ, cũng như với chữ giao chỉ
là 2 chỉ giao nhau: chỉ
bằng hai tay khoanh trước ngực, rồi cao
lên nữa là đất
trời giao hội. Từ đó đi lên
siêu hình chỉ bản
tính sự vật và con người. Về bản
tính sự vật
thì Trang Tử có câu: “đạo
vật chi cực” (đạo
là cái cùng cực của sự
vật).
Cùng
cực
của
sự
vật
là gì thì nay ta
đã biết qua
khoa vật lý vi thể là hai đường
lực đi ngược chiều giao
thoa nhau. Còn về bản tính con
người thì
Bách Việt tiên hiền biểu thị bằng
hai đường tâm
và sinh giao thoa nhau ở tâm.
Tôi quen thêm
tiếng linh vào thành ra
tâm linh để chỉ vũ trụ chi
tâm: cái tâm thức rộng như
vũ trụ tức nói
lên chiều kích của con người đại
ngã tâm
linh. Con người trở nên người nhiều hay
ít là
tùy sự nhận thức và hiện thực
được cái tầm mức vũ
trụ đó. Vì thế vũ trụ chi
tâm đã được cơ cấu
hóa (có nói ở Chữ Thời
và sẽ bàn
thêm trong Sứ Điệp) để trở nên
then chốt của triết
lý Việt Nho, nên nó
chính là Đạo
là Nghệ. Trong nam còn giữ được
mối liên hệ
này trong thành ngữ “Đạo Nghệ”.
Đạo nghệ làm nảy
sinh ra đạo nghĩa mà trong Trung Dung
nói “Nghĩa giả nghi
dã”. Nghĩa là nghi tứ c sống
đúng đạo phải
thích nghi với cả sinh (số 2) lẫn
tâm (số 3) nên gọi
là lưỡng nghi, hay lưỡng hành.
Vậy nói đạo nghĩa
hay đạo nghệ cũng là một, đều chỉ
tác động đến tận nơi,
đến nguồn gốc, mà vì có
hai chiều nên sự
thích nghi rất uyển chuyển đáng
tên là Nghệ.
Nho
giáo đã công thức
hóa nội dung đó một
cách tài tình bằng chữ
trung hay là “thời
trung nghệ” (Kinh Thư, Thiện Cáo).
Nói là
tài tình vì chữ trung
cũng như chữ nghệ vừa
nói lên được tinh túy
tòan thể triết Việt
Nho, vừa chỉ ra phương pháp. Về sau
sách Trung Dung giải
rộng bằng ba chữ chí trung hòa.
Cuối cùng trong
quyển Chữ Thời chúng tôi giải
rộng thêm nữa bằng
câu “có chí trung
thì mới chí
hòa”.
Đó
là vài nét chấm
phá về xứ nghệ, cần phải
moi lên khỏi vùng tiềm thức,
là vì trải qua
nhiều đời từ cuối thời Hùng Vương
nó đã khởi đầu
suy vi cho đến lúc Loa Thành sụp
đổ thì kể
là bị chôn táng.
Bên
ngòai chỉ còn tam giáo
khởi lên từ đời Tam
Quốc ly loạn. Tam giáo không thể
thay thế Bể Đông
là Việt lý được mà chỉ
phản chiếu được phần
nào nên mới đáng tên
là tam giang, chứ
chưa là đại trùng dương.
Như vậy
cũng đỡ, con cháu vẫn có
sông có ao để tắm,
tức có triết để mà giữ mặc dầu
lơ mơ đục trong lẫn lộn,
nhưng “dù trong dù đục ao
nhà vẫn hơn”. Nhưng rồi
điều này con cháu cũng mất
luôn ý thức
nên khi gặp văn minh Thái
Tây huy hòang rực
rỡ thì tam giang không đủ sức
chống chọi vì mạch
thông với nguồn đã bị bế tắc,
nên rủ nhau đi rước
ngư tinh, hồ tinh về, tức đưa những cái
tai hại của văn minh
Tây Bắc về cho nó tràn
ngập quê hương khiến
cho tòan dân lâm cảnh những
nạn nhân bị hồ ly
nhốt trong hang không còn thấy
được chi khác
ngòai những điều hồ ly cho thấy cho
nghe, và bắt phải coi
những lời hồ ly nói ra là
có giá trị tuyệt
đối, cần phải minh tâm khắc cốt, thế gọi
là bệnh đã
nhập lý. Chính sự nhập lý
này trở
thành chướng ngại cản đường không
còn cho ai
vô xứ nghệ nữa, tức không cho ai
sống theo đạo tâm
linh của tiên tổ cha ông. Uổng
công Lạc Long
Quân đã phá hồ tinh, ngư
tinh nay con cháu
lại đi rước những cái khốn nạn
đó về lấp đường đi
vô xứ nghệ.
Nếu thế
thì tại sao lại rao “Ai vô xứ
Nghệ thì vô”?
Thưa ai muốn vô vẫn có thể
vô vì đạo
đó ở ngay trong lòng hễ muốn
thì được. Và
lẽ ra mọi người Việt còn được hưởng tự
do phải cùng cố
gắng mà vô để khơi lại nguồn suối
hầu bảo tòan di
sản thiêng liêng đã ghi
trong ngọc phả.
Nhưng
truông nhà Hồ nội tán cản
ngăn thì sao?
Thì phải theo gương tiên tổ
mà diệt Hồ tinh, cũng
như ngư tinh và mộc tinh.
Nhưng mộc
tinh trấn đóng phía đông
có Nữ Thần Mộc
đã khai mở cho văn hóa Bộc Việt
tai sao Lạc Long
Quân cũng dẹp luôn? Thưa
cái gì lâu
ngày cũng bị cáu ghét,
cũng bị xuyên tạc,
thí dụ Nho giáo phát xuất
từ xứ nghệ mà sau
này đã bị Hán Nho
xuyên tạc, cho nên
làm văn hóa xứ nghệ phải
có óc phê
phán minh biện để biết đâu
là nguyên thủy,
đâu là pha tạp. Nói theo
huyền sử là phải
biết Nữ Thần Mộc khác với mộc tinh chỗ
nào. Nữ Thần Mộc
là yêu thương chân thực
còn mộc tinh
chính là ma mộc bất nhân,
nghĩa là gỗ
đá tê liệt tình người
thì không
còn dùng được nữa. Cần phải
phá đổ. Vậy dù
việc có khó tới đâu cũng
chớ sờn lòng.
Lịch sử
chứa đầy những chứng tích cho thấy
có những quyền uy ai
cũng tưởng cực kỳ vững mạnh, khiến kẻ nắm
chính quyền tưởng sẽ
tồn tại muôn đời như Tần Thủy
Hòang đã tin thế,
nhưng rồi đã sụp đổ mau lẹ vì
đặt trên nền tảng bấp
bênh hơn hết tức đặt bên
ngòai con người nên
không thể dài lâu,
không thể chống chọi với
sức sống trung thực của con người nó
mạnh mẽ vô
biên, mặc dâu đê điều cản
bước tiến của nó
có vững tới đâu rồi cũng sẽ bị
phá. Vậy con
dân đất Việt chớ nên sờn
lòng trước lũ rợ Hồ bật rễ.
Trên
đây
khi
nói
đến
nhà Hồ hay tam giang thì chỉ
là nói về những trường hợp lịch
sử vòng
ngòai, còn nghĩa biểu tượng của
xứ nghệ là đạo
làm người muôn thủa thì ai
cũng phải học phải sống.
Để đạt đạo đó thì phải
siêu lên khỏi giai
đọan ma thuật và ý hệ chỉ bằng
hồ tinh, ngư tinh, mộc
tinh tức phải tránh tất cả những chi
mê hoặc lừa bịp, lắt
léo, giả tạo. Không vượt qua
làm sao đạt tới được
đạo người vốn làm bằng những sự thật
trong sáng.
Vì thế ai muốn học đạo làm người
cần phải phá tan
những chướng ngại đó, mặc dầu
trên con đường nhân
đạo sẽ gặp chông gai nguy hiểm nhưng
phần thưởng cũng rất lớn
lao: đó là một cuộc sống
viên mãn
tròn đầy mà ngay cuộc sống tiểu
ngã cũng đã
được tham dự.
“Đường
vô xứ Nghệ quanh quanh,
Non xanh
nước biếc như tranh họa đồ,
Ai
vô xứ Nghệ thì vô,
Chớ ngại
truông Hồ với phá Tam Giang.
Phá
Tam
Giang
ngày
rày
đã cạn,
Truông
nhà
Hồ
phải
xóa
sạch băng”.
|
|
VI. VĂN
LANG QUỐC
1.
Chữ
Văn
theo
nghĩa
cổ
là
vẽ mình quen gọi là Văn
Thân. Rồi từ đó có
nghĩa là văn vẻ:
thân mình được vẽ
là thân có văn vẻ.
Sau cùng đạt tới nghĩa bao
quát chỉ tất cả những
gì có văn vẻ. Văn Lang
là nước có văn vẻ
ngược với nước bị cai trị theo lối
thú vật bằng gậy, bằng chuồng
thì gọi là võ
trị. Chỉ có văn trị mới
làm nảy sinh được các
mối nhân luận, những mối
liên hệ người với người được
thấm nhuần bằng lễ, nghĩa,
liêm, sỉ, tức những mối
tình cao cả của con người.
2. Về
chữ Lang
xét như bời chữ làng
thì có nghĩa là
làng nước. Văn Lang là
nước có văn vẻ; còn
xét theo âm chữ Nho
thì Lang có nghĩa
là người, ta quen gọi bằng lang
quân. Cũng trong ý
đó, ta nói sài
lang để chỉ những kẻ mặt người
nhưng bụng sói. Khi Hobbes
nói người đối xử với người
kiểu chó sói “Homo
homini lupus” thì cũng ngụ
ý chỉ mặt ngòai
là người mà bụng lại
là sài, lang, hổ,
báo.
3. Ta liền
hỏi làm
thế nào để mặt người mà
tình cũng người? Đây
là vấn đề quá khó
khăn đến nỗi đọc sử lòai
người dễ có cảm tưởng
“đó chỉ là những tiếng
om
sòm rời rạc do một thằng
điên kể lại”. Mà
điên thật, điên ở chỗ
người không chịu làm
người mà lại đi làm
sài, sói, hồ, ly.
Có phải do ý muốn của
lòai người chăng?
Không phải! Sinh ra làm
người ai chẳng muốn làm
người, tội chi trở lại làm
thú vật, làm hồ ly,
nhưng vì không nhận ra
đạo làm người, hoặc bị
chuyên chế cản đường, nên
vong thân, mà vong
thân với thú vật hay duy
vật cũng nằm trên một
bình diện, không sao tới
được cuộc sống tâm linh cao
cả. Không may đó
là điều đã xảy ra hầu
như
khắp nơi trên vũ hòan đến
nỗi đâu đâu cũng dần
dà nổi lên những
sài lang quốc phá đổ mọi
nước Văn Lang đã manh nha từ
khởi thủy. Thử hỏi có
còn một hình ảnh
nào chăng về nước Văn Lang của
thời xa xưa ấy? Thưa có,
đó là nước Văn Lang của
Hùng Vương. Ta hãy khởi
công nghiên cứu.
4. Xin đừng
hiểu
Hùng Vương ở đây chỉ
là một nhân vật lịch sử
suông nhưng trước nhất đó
là hình ảnh con
người mẫu của đại ngã tâm
linh được phác họa như
đã kết tinh của nhân,
trí, dũng, đủ sức thiết lập
và duy trì nước Văn
Lang, mặc dù trong hiện thực
có những sơ sót, hay
trường hợp bất thường có thể
Văn Lang chìm xuống một
lúc, nhưng xét về cơ cấu
thì đã có ghi lại
trong quyển Kinh Hùng.
Vậy chúng ta hãy đi
vào Kinh Hùng để xem
xét những nét cơ bản
đó.
5. Nói
đến Văn Lang
là nói đến nước
có lễ trị. Nhưng lễ trị
không phải là một
quà tặng vô thường cho
lòai người vì thế hầu
hết chỉ có chuyên chế.
Vậy lễ trị chính là hậu
quả của một cuộc tiến hóa
năng động thuộc tâm thức con
người. Nếu lấy đại cương mà
bàn thì những bước tiến
của tâm thức đó
có thể chi ba bậc là
bái vật, ý hế,
tâm linh.
6. Bái
vật
nói rất chung là thời
con người còn quá
đồng nhất với thiên nhiên
chưa nhận ra mình như một
tự thể khác biệt và đặc
thù. Sau dần dần nhận ra
mình nhưng mới như một
cái mình bé nhỏ
yếu
nhược; tuy là một tự thể nhưng
cảm thấy thiếu thốn đủ điều phải
cậy dựa vào biết bao cái
bên ngòai, trong
đó có đòan thể
và quỷ thần. Đòan thể
là cái cụ thể bên
ngòai mà con người
cá nhân phải cậy dựa
vào trọn vẹn đến độ đồng
hóa mình với đòan
thể. Câu định nghĩa của
Mặc Tử “quần ngã nhất thể” (ta
với đoàn thể là
một) chính là phản ảnh
của thời bái vật đồng nhất
cũng như câu của Karl Marx:
“L’homme humain est l’homme social”
cũng nằm trong cùng một lọai
là định tính con
người bằng chiều kích xã
hội tức lấy yếu tố đòan
lũ nhận chìm con người, cụ thể
như cộng sản đang thi
hành, lấy đảng và
nhà nước nhận chìm
cá thể. Đấy là điểm mốc.
Điểm hai
là quỷ
thần thì ở thể đồng này
con người cũng để mình bị
chìm ngập dưới quyền của quỷ
thần; cái gì cũng
phải cậy dựa quỷ thần ban cho, từ sự
chữa bệnh cho đến mưa nắng cũng
phải xin cầu cúng bái.
Vì thế biểu lộ ra
ngòai là bái vật
hiểu là bái cầu ở
ngọai lực, vì con người
còn thấy mình quá
bé mọn.
7. Ý
hệ bao gồm
các bước tiến ở giai đọan hai
khi con người đã tiến hơn
trong sự nhận thức ra mình như
một tự thể, và vì
thế tuyên dương cá
nhân biệt lập để phán lại
giai đọan đồng nhất xưa. Cơ năng được
huy động trong giai đọan
này là lý
trí, nhờ đó con người
bước
lên đợt thực tế suy luận cụ thể.
Đó là bước tiến
rất quan trọng nhưng khi đẩy
quá đáng thì
lý trí đốc ra duy
trí với hậu quả là duy
niệm, và khi dùng
hòan tòan ý niệm
làm hệ thống tư tưởng, hệ thống
triết lý thì gọi
là ý hệ, tức hệ thống
ý niệm, nó chống lại
cơ năng được dùng nhiều trong
giai đọan đồng nhất là tin
tưởng: tin tưởng vào thế
giá, vào lời truyền của
thần minh rồi hòan tòan
thuận theo, vì thế
gây ra sự phản động mà ở
đây gọi là ý
hệ tức là những thuyết
lý y cứ trọn vẹn trên
ý niệm đến độ không nhận
ra rằng ý niệm chỉ
là hình ảnh của sự vật
nên còn ở vòng
ngòai, thiếu khả năng tham dự
vào cái tòan
thể của vũ trụ; hậu quả là chưa
khám phá hết khả
năng trung thực của con người nằm ở
vòng trong tâm linh.
Kết quả là con người y cứ
tòan triệt ở ngọai vật
mà dấu chỉ là theo
nguyên lý đồng nhất một
chiều.
8. Từ
đó chỉ
còn biết chinh phục những
cái bên ngòai:
chinh phục sự vật chưa đủ, còn
muốn chinh phục người khác
bắt phải làm nô lệ. Những
chính quyền dựa
trên ý hệ có thể
gọi là địa quyền cũng như
thiên quyền đều dễ dàng
đi sang thống trị chuyên chế
gây nên sài lang
quốc là do lý lẽ
sâu xa đó, nói
khác chuyên chế chỉ
là cái ngọn còn
gốc là bái vật hoặc
ý hệ.
9. Phải chờ
đến bước thứ
ba quen gọi là Nhân linh
khám phá ra chiếu
kích tâm linh nơi người
mới biết rằng không thể
nào đồng nhất người với sự vật,
mới tìm cách
khôi phục lại quyền làm
người và từ đấy người mới
có thể tạo dựng một xã
hội gây hạnh phúc cho
mình. Câu nói
“linh tại ngã, bất linh tại
ngã” phải hiểu biết đến đợt
siêu hình cùng
tột này.
Chỉ
lúc ấy mới thực
hiện được bước tiến cao nhất, gọi
là văn lang, tức một nước
có thể chế không phạm đến
tự do nhân phẩm con người.
Vậy khi xét theo lối triết theo
lối cùng lý tận
tính đáo căn thì
cần hỏi xem văn lang trong Kinh
Hùng quả có vượt qua nổi
hai đợt bái vật và
ý hệ chăng? Nếu có
thì mới đặt nổi nền tảng cho
văn lang quốc.
10. Lạc Long
Quân
với ba vĩ tích (Diệt mộc tinh,
hồ tinh, ngư tinh đã
bàn nhiều trong Kinh
Hùng Khải Triết) như tang chứng
đã vượt qua bái vật (gọi
bóng là xương
cuồng) cũng như đã vượt qua
ý hệ biểu lộ bằng “hồ
chín đuôi hóa ra
người mặc áo trắng nhập
vào bọn mọi, cùng lũ mọi
ca hát dụ dỗ được người
con trai con gái nào
thì đem về nhốt trong hang
đá” (H.16).
Đọc đến
đây ai
đã làm quen với triết
tất nhớ đến cái hang nhốt
tù nhân được nói
đến trong triết học Plato, bị
trói quay mặt vào tường
và chỉ được xem những
hình ảnh chiếu trên tường
chứ không được xem sự thực
bên ngòai. Lúc ấy
mới nhận ra là hồ ly giống
hệt bọn cộng sản cũng dụ dỗ người đưa
về nhốt trong hang duy vật biện
chứng không cho xem, nghe, cảm
nghĩ gì khác với
cái hang thẳng bốn góc
duy địa. Cần thêm rằng bước
vượt qua ý hệ này
Tây Au hiện đang vất vả lắm
mà chưa vượt xong.
11. Vậy
mà Lạc Long
Quân đã vượt cả: vượt
bái vật bằng diệt mộc tinh,
vượt ý hệ bằng diệt hồ tinh,
ngư tinh, rồi vươn lên
tâm linh gọi bóng
là đóng đô ở Nghệ
An
xứ. Thế tức là đã đặt
xong nền tảng vững chắc cho văn
lang quốc. Người đi sau này chỉ
cần xây thêm
trên nền tảng sẵn có
đó.
12. Xin hỏi
liệu
Hùng Vương có tiếp nối
được công trình vĩ
đại của cha chăng? Trước khi thưa xin
hãy giải rộng ý
câu hỏi. Theo nguyên nghĩa
thì đạt đợt văn lang
là khi nào con người
có thể đưa vào trong
tâm mình cả hai khối lực
trước kia đặt ngòai con
người, như những quyền năng siêu
hình vế tính mệnh
thì bái vật đặt
trên trời, những quyền năng vật
chất thì ý hệ đặt
trên đất, tức đặt ngòai
con người nên chúng sai
sử con người, biến người
thành nô lệ cho định
mệnh, cho sự vật… Nay tâm linh
dựa vào con người, nên từ
nô lệ con người trở
thành chủ nhân sai sử sự
vật, bắt sự vật phục vụ
mình, biến định mệnh
thành tính mệnh, rồi
hiểu
tính mệnh theo tâm tầm
tính nết, tức là đặt
phần chủ quyền của con người vô
chính tay con người. Từ
đấy “có trời mà cũng
có ta” chứ không như
trước “ta chỉ là thằng phỗng
thụ động bị ngọai lực giật
giây”.
Đó
là
ý nghĩa của đợt tâm linh,
là đợt tâm thức
lý tưởng của một nước gọi
là Văn Lang. Nói
khác một nước dám xưgn
là Văn Lang thì
người trong nước, ít ra những
bậc hiền giả, phải là những
con người nhận thức ra chiều
kích tâm linh cao cả nơi
mình để mà vun tưới
tài bồi, rồi từ đó
những hậu quả bên ngòai
sẽ là những đức tính
bất khuất dũng cảm, tự lực, tự quyết,
tự mưu sinh, cái gì
cũng tự mình quyết định để xứng
danh là nhân chủ.
13. Hỏi rằng
những đức
tính ấy có trong nước
của Hùng Vương chăng? Thưa
rằng có: đọc dài qua 15
truyện không chỗ nào
con người không tỏ ra
mình nắm phần chủ động.
không
bước nào con người không
tự quyết. Nếu có ngoại lệ
chẳng qua là sự nhỡ
nhàng hay bất trắc mà
dù tiến đến đâu con người
cũng không thể
tránh hết. ngoại giả
toàn là những
hình ảnh
của những “trái hùng
gái đảm”.
Cần đọc kỹ
toàn bộ
quyển Kinh Hùng sẽ thấy điều
đó. sau đây chỉ xin
nhắc sơ qua một hai truyện làm
thí dụ, trước hết
là truyện Phù Đổng
Thiên Vương cũng gọi là
Thánh Dóng.
14.
Thánh
Dóng không chi
khác hơn là bóng
dáng con người đại ngã
tâm linh có tầm
vóc như vũ trụ được biểu lộ ra
ngoài bằng tinh thần tự
động, tự cường của dân nước Văn
Lang, ngày thường
không ai để ý đến
(nói bóng là trẻ
ba
năm mà không biết
nói); nhưng khi phải đối
phó với nguy cơ thì đức
tự lực, tự cường dâng
lên đến tầm kích vũ trụ,
nâng con người lên
ngang hàng cùng trời,
đất, đáng mặt dẫn đầu
các anh hùng trong
nhân thoại Việt, tức người tự
làm chủ thay cho các chủ
trước là thiên
(bái vật) hay địa (ý
hệ).
Ngay
cái tên
ông cũng đã đầy oai
hùng như “Thiên Vương”
hay “Xung Thiên Thần Vương”.
Xét đến việc thì quả
đáng mặt là”Tề
Thiên Đại Thánh”
(thánh ngang với trời).
Sách Thiên Nam Ngữ Lục
chứa
đầy những câu mang tầm
kích vũ trụ, chẳng hạn
ông
Dóng từ một em bé lớn
lên sừng sững nhập thần với
vũ trụ:
“Thần vương
khi biết
khúc nhôi,
Tức
thì vươn
dài dư mười trượng cao.
Con mắt
sáng như
vì sao,
Lưu tinh chấp
chới
tót vào đẩu tinh,
Ầm ầm dường
tiếng lôi đình,
Hồ bộ long
hành
thất giác thiên tư.
…………………………………………………
Uy ra vẫy
cái ầm ầm
Mình
trên cật
ngựa tay cầm kim tiên,
Lạ thay ngựa
sắt tự
nhiên,
Giẫm
lên động đất,
thét lên dậy trời.
Thần vương
lên ngựa
dặm chân,
Qua
ngàn An Việt
cõi gần vệ linh.
Giơ roi dựng
ngựa dư kinh,
Vân
cù thẳng
bước thiên đình tới nơi!”
Toàn
bản văn
toát ra bầu khí
nhân thoại cùng
dòng
máu Bàn Cổ đang vẫy
vùng trong vũ trụ. Nhờ
tính chất nhân chủ uy
hùng như thế nên tự đấy
phát triển tinh thần hòa
giải, thống nhất thay cho đồng
nhất ở hai đợt trước.
15. Kinh
Hùng
(H.22) biểu diễn ý tưởng thể
hòa này bằng truyện
trầu cau, mà ý nghĩa
sâu xa là Thái
hòa, tức thứ hòa
sâu xa, có tính
cách bao trùm nhất, chứa
chấp mọi thứ hòa hợp
bé nhỏ khác đó
là hòa trời
hòa đất để làm ra con
người. có hòa hợp
được những chất trước kia đứng
riêng biệt mới làm
nên thực thể mới. Trước
thì là trầu, quả cau,
đá vôi mang màu
xanh và trắng, nay
hòa hợp thì hóa
đỏ để cụ thể hóa sự
hòa hợp giữa nước và lửa
như quẻ cách gồm lửa
trong đầm: “the fire in the lake”.
Còn việc hòa hợp
là do con người, ở đây
biểu thị bằng việc nhai trầu. Nhai
một miếng trầu hàm chứa một
triết lý sâu xa
là thế. Như vậy câu tục
ngữ “miếng trầu là đầu
câu chuyện” không
nên hiểu gọn vào việc gạ
hỏi, cưới xin, mà còn
phải hiểu ra câu chuyện văn
hóa nhân chủ của Việt
tộc, văn hóa đông nam
chỉ bằng xanh đỏ. Trong tục điêu
đề (xâm trán) của
nhiều chi tộc Bách Việt
thì xâm trên
trán 3 vạch xanh đỏ là
nằm trong liên hệ ngầm
đó (đông màu xanh,
nam màu đỏ sẽ bàn
trong Sứ Điệp).
16. Truyện
Đầm Nhất Dạ
(H.29) nói lên nét
tự do định đoạt của Tiên
Dung Mỵ Nương trong việc lấy chồng.
Tiên Dung tự định đoạt lấy
chồng được đặt nổi bằng cách
vượt ngoài quyền Hùng
Vương và cả tay trên Chử
Đồng Tử v.v… tức không dựa
vào quyền thế, mà
hoàn toàn tự định đoạt.
Đã vậy Tiên Dung lại lấy
người nghèo xác xơ
đến cái khố cũng không
có, tỏ ra độc lập với địa
tức tiền tài vật chất, coi
tình trọng hơn của cải. Sự độc
lập còn được đặt nổi bằng lấy
quyết định ngoài quyền cha,
vậy mà vẫn được trời phù
hộ cho làm ăn phát
đạt.
17. Truyện
Bánh
Chưng Bánh Dày của Tiết
Liệu nói lên
nét trời đất giao thoa
làm nên con người Đại
Ngã. Ai mà nhận thức
và hiện thực được (biểu thị
bằng làm ra bánh trời
bánh đất) thì sẽ được
phần thưởng vĩ đại là
làm vua, mà ý
nghĩa
cụ thể là trở nên
nhân chủ (thông với thần
minh tức tinh thần giũ bỏ được mọi
xiềng xích do bái vật
và ý hệ, còn phần
thân xác sẽ
có đủ những cái cần
dùng cho cuộc sống được an
vui.
18. Truyện
Tây Qua
cũng nói lên nét
tự cường tự lực. Tuy sau có
mang màu sắc Phật nhưng cũng
còn giữ y nguyên
nét tự lực, tức âm đức
của kiếp trước còn giữ lại
giúp An Tiêm tự lực
cánh sinh trong kiếp
này. Câu truyện bao
hàm tấm lòng tín
thuận vào nghĩa “tham
thông” thiên hựu: trời
sinh
voi, trời sinh cỏ. Khi con người biết
sống đủ nghĩa người đại
ngã thì không bao
giờ thiếu những thứ cần thiết cho
cuộc sống: trời sinh đất dưỡng
là vậy.
19. Truyện
Việt Tỉnh Cương
với Thôi Vỹ nói lên
ba đợt tiến của tâm thức
là bái vật, ý hệ
và tâm linh.
Bái vật biểu thị bằng xương
cuồng vì tin dị đoan
mà giết hại người. Còn
ý hệ là bệnh nhục
ảnh chỉ sự bám riết lấy
hình ảnh của nhục thể để cho
nó trói trăng
mình, che mắt không cho
mình nhìn ra được
nét song trùng của vạn
vật chỉ bằng Ngọc Long Toại và
cưới được tiên nữ là
đặt nền minh triết. Minh triết chỉ đạt
được trên con đường “tham
thông” của con người đại
ngã tâm linh, chứ
không thể nào trên
nẻo đường cá nhân
duy vật biểu thị bằng nhục ảnh. Bệnh
nhục ảnh chỉ có thể cứu
bằng Ngải cứu.
Chữ Ngải (chữ
hán)
cũng là chữ nghệ (chữ
hán) thêm bộ thảo.
Đó
là thuốc tiên chữa bệnh
nhục ảnh. Muốn chữa thì cần
biết xả tức cắt bỏ ý niệm từ
ngoài in vào,
làm ngáng trở
không cho thấy sự vật
chính
nó là thế, Nho gọi
là cách vật. muốn
cách vật tức thấy vật trực chỉ,
có sao thấy thế mà
không phải xem qua lăng
kính ý niệm, thì
cần
phải biết xả bỏ ý hệ, như Lạc
Long Quân đã
làm trong việc diệt hồ tinh,
ngư tinh, mới thiết lập được nước
Xích Quỷ tức làm chủ
ánh sáng tâm
linh. Vậy ngải cứu chỉ sự xả bỏ những
gì che lấp tâm linh.
Trong dân gian có niệm t
in là ngải cứu tốt nhất
phải hái vào ngày
mùng 5 tháng 5.
Đó chẳng qua là nghệ
thuật giáo khoa đã đạt
độ trác tuyệt, để ngầm nhắc tới
vụ tổ gặp được Vụ Tiên
trên Ngũ Lĩnh. Ngũ Lĩnh
là 5 đỉnh cao thường được
dùng để chỉ minh triết. Tết
mồng 5 tháng 5 cũng gọi
là tết trùng ngũ, hay
đoan ngọ (mặt trời lúc trưa)
đều liên hệ tới Xích Quỷ
(ánh sáng mặt trời
lúc trưa tháng 5
là sáng láng
nhất).
20. Đó
là
đại để ý nghĩa chữ Văn Lang:
nước của những con người nhân
chủ, những con người không những
chỉ là dân
cá thể mà còn
là nhân cao cả như Đại
Ngã tâm linh, có
tầm kích bao la như vũ trụ.
Đó là những con người
rõ rệt là lưỡng
thê: có hai cuộc sống.
21.
Nhân tiện xin
nhắc tại sao ta không có
anh hùng ca. Nhiều độc giả
đã cố gắng biến Thánh
Dóng thành anh
hùng ca để văn học mình
có đủ như người. Sở dĩ họ
muốn làm như thế vì chưa
nhận ra rằng cứ sự mà
nói thì anh hùng
ca là những áng văn
ca tụng võ công rất phản
nhân chủ và lẽ ra
phải dịch là dùng
khí ca (épic)
dành
chữ anh hùng ca cho danh từ
héroisme. Hai bản “anh
hùng ca” lớn nhất là
Iliade của Hy Lạp và
Mahabharata của Ấn Độ đều nằm trong
những nước có chế độ
nô lệ rất khắt khe, cũng như văn
hóa một chiều, đưa đến
vong thân rõ rệt: những
nhân vật trong đó y
như thằng phỗng do các thần
giật dây sai khiến bảo sao
làm vậy: tuyệt không
có chi là tự lực tự
cường.
22. Trở
lên
là thử bàn sơ về nền
tảng tâm linh của nước Văn
Lang cũng như quảng diễn bằng một số
huyền thoại trong Kinh
Hùng. Tất cả đều nói
lên những con người đã
hội nhập nổi được khối sức mạnh
mà ở hai đợt bái
vật và ý hệ bị đặt ra
ngoài, nay đến đợt tâm
linh thì chúng được hội
nhận nơi con người, nên trở
thành tự cường, tự lực, tự do,
tự nội. Con người lý tưởng
đó gọi là Vua
Hùng, mà thể hiện ra
là những “trai hùng
gái đảm” trong nhân
gian.
Phải
có những con
người như thế mới làm nền tảng
chân thực của Văn Lang
quốc, một nước không xây
trên những quyền lực của
ý hệ hay dị đoan khép
con người vào gông
cùm của sự vật, biến con người
thành dụng cụ sản xuất để
bóc lột. Ngược lại chỉ
có những con người tự lực, tự
cường bất khuất xứng là những
con người của Văn Lang quốc. Đấy
mới là nẻo đường trung
chính có thể đưa con
người
đến tự do cũng như hạnh phúc
chân thực
VII. TỪ CÒN
MẸ TỚI
MẤT MẸ
“Còn
mẹ
ăn
cơm
với
cá,
Mất
mẹ liếm lá gặm xương”.
Đó
là
câu
tả
cảnh
mồ côi. Mồ côi nào
cũng
là bất hạnh: mất cha cũng như
mất mẹ. Tuy nhiên còn
mẹ thì bớt khổ hơn, hơn
kém được diễn tả một
cách
cụ thể: một đàng ăn cơm với
cá, một đàng liếm
lá gặm xương. Trên
đây là sự thường
tình bé nhỏ. Nhưng
câu tục ngữ có thể
hàm chứa một sự thực lớn lao
hơn nhiều thuộc văn hóa
lòai người, nơi đây cũng
có những nền văn
hóa còn mẹ và
những nền văn hóa mất mẹ, chỉ
khác một điều là
không thể mồ côi cha
mà chỉ có mồ côi
mẹ nhưng về hậu quả thì y
hệt, tức cũng chỉ có liếm
lá gặm xương nghĩa là
văn hóa tòan vòng
ngòai lý
trí, không sao thấu
vào được cõi tâm
linh. Bởi vì tâm linh
là thực thể vô
biên, còn lý
trí thuộc vòng hiện
tượng hữu hạn: sản phẩm của lý
trí là ý
niệm có mốc giới vì
đó là những hình
ảnh sự vật được thâu nhận do
những cơ năng có giới hạn như
có tai mắt, chỉ giúp
được phần nào trên
bình diện hữu hạn như ăn
làm. Còn muốn tiến đến
cõi tâm linh là
chính bản chất con người
thì đó phải là
tình, là tâm.
Tâm linh có tính
cách vô biên
không thể nói gì
được vì bao la như
trùng dương bát
ngát, nhưng may thay lại
có
tình như những sông
ngòi đưa chất nuôi đến
cho các chi thể và ta
cũng có thể dùng
tình như đường nẻo để đi ngược
về nguồn suối là tâm
linh bất tận. Như vậy tình
là thực thể lưỡng diện, một
mặt thông với tâm
nên cũng bao la man mác
không hiện lên rõ
rệt, không thể vẽ trực chỉ
ra hình, như không vẽ ra
được ưu tư, cám cảnh,
cô đơn. Tuy nhiên mặt
khác tình lại ăn
vào cõi hữu hạn,
nên ta cảm thấy được và
chính nhờ chỗ đó
mà ta có thể bắt lấy
tình như đầu mối để tiến đến
chỗ vô biên mà
ta gọi là tâm linh, hay
“vũ trụ chi tâm”, hoặc
“ngô tâm tiện thi vũ trụ”.
Tất cả những ngữ thuật đó
muốn nói lên cùng
đích bao la để đưa ta đến
với vũ trụ vạn vật. Vạn vật
không có ý niệm
nhưng
cũng có tình:
không những thú vật cỏ
cây mà cả đến vật
vô tri, như nước, lửa, kim
khí. Đó là lọai
vô tri, nhưng không
vô tình vì cũng co
rút bay nhảy, tức
là những yếu tố biểu lộ sự
xúc động nên cũng biểu
lộ mối tương liên sâu
thẳm.
Nói
đến
tình
người
là
nói đến cái chi nặng đến
muôn triệu tấn giá trị,
vì nó không
chỉ có nghĩa là
tình của người mà
còn hàm ngụ ý
nghĩa “tình làm
nên con người”, tình đem
chất dưỡng nuôi đến cho con
người chân thực, để con người
lớn lên đến đợt đại
ngã tâm linh. Nhưng muốn
thế cần phải chọn những mối
tình tích cực như
yêu thương, quảng đại, bao dung,
thông cảm, an vui… Nuôi
dưỡng những mối tình
đó là sửa sọan cho những
mùa gặt hạnh phúc.
Theo luật giá sắc, mỗi mối
tình tích cực của
tâm hồn ta phát xuất sẽ
đi vòng quanh vũ trụ, quyện
thêm chất đồng lọai để trở
nên to lớn mạnh mẽ gấp bội rồi
trở về với ta. Ta gieo ra một
yêu thương, quảng đại, sẽ lại
gặt
về gấp trăm quảng đại yêu
thương, cứ thế bồi dưỡng để đưa ta cao
mãi lên trên bậc
thang đại ngã. Một cử chỉ
yêu thương, một sự san sẻ của
cải, một ý nghĩa hay đẹp đối
với người khác tất cả sẽ trở
lại với ta gấp bội làm cho
đời ta sung túc hơn, quảng đại
hơn, an vui hơn. Minh triết xưa
gọi việc tài bồi tình
người là nguyên
lý mẹ vì trong
lòai người Mẹ là đại
biểu
đích đáng nhất cho những
mối tình cao thượng bao
la như đại dương. Nguyên
lý mẹ khởi đầu từ chỗ mẹ tạo
dựng
và giữ gìn những
gì cần thiết để nuôi
dưỡng
con làm cho con trưởng
thành, nên nguyên
lý mẹ sẽ mãi mãi
cần thiết cho những nền văn
hóa trung thực ơn ích.
Thọat kỳ thủy nguyên
lý mẹ đã được
phát triển khắp nơi nhưng sau
vì ảnh hưởng của du mục
chuyên chế, nên
nguyên
lý mẹ dần dần bị chôn
vùi, càng đi
vào văn minh xảo trá con
người càng quên mất
nguyên lý đo. Đến nỗi một
quãng dài
không ai ngờ tới, mãi nay
mới lại có người khởi đầu
tìm ra.
Với
Tây Au chỉ sự kiện này
đã được khám
phá ra năm 1861 do ông
Bachofen trong quyển “Mẫu Quyền”
(Mutterrecht) là sách
vạch trần tính chất đực rựa
của nền văn minh hiện đại do sự
chôn vùi nguyên
lý mẹ, vì thế mà
nền văn minh hiện nay đang đi
vào con đường cùng v.v…
Đây là một
khám phá đã bị
công kích tới tấp
và kịch liệt.
Thế
nhưng sự thực dần dần nhô
lên nhờ nhiều công
trình của các nhà
nhân chủng xã hội
cũng như cả tâm lý nữa,
nên nay đã
thành sự thực không những
được công nhận, mà
còn có cả những cố gắng
làm phục họat nguyên
lý mẹ để tìm lại thế
quân bình cho nền văn
minh hiện đại đang nghiêng đổ
vì tính chất đực rựa
duy trí của nó.
Chính
trong
chiều
hướng
đó
mà sự nghiên cứu lại
nguồn gốc
văn hóa nước nhà đột
nhiên mang sắc thái
thời thượng, kéo theo hy vọng
đóng góp vào
những việc chung vừa nói
trên. Vì văn hóa
Lạc Việt còn duy trì
được nhiều yếu tố mẹ hơn các
nơi khác, ít ra đối với
văn hóa Tây Au.
Cần
nhận chân rằng ban đầu đâu
đâu nguyên lý
mẹ cũng được đặt nổi mà biểu
hiện là sự thờ các
thần nữ, các great mothers (xem
bài Cái Giống Của
Các Thần trong Cơ Cấu Việt Nho)
cũng như nhiều nơi dùng
tên phụ nữ để chỉ nền minh triết
như Sophia, Minerve, Demeter,
Sakti, Nữ Oa, Vụ Tiên, Au Cơ…
Sở
dĩ có truyện như vậy vì
nguyên lý mẹ xuất
hiện đồng thời với văn hóa
nông nghiệp, một bước tiến
quyết liệt nhất của lòai người
kéo theo những phát
minh khác như biết làm
nhà, dệt vải, làm đồ
gốm… Tất cả có được là
do sự gieo trồng. Việc này
rất quan trọng, nó giữ
chân con người không cần
đi
lang thang hái lượm, mà
có thể ở lại định cư
nên cần làm nhà
cũng như mọi đồ dùng
khác. Vậy đó là
cửa mở vào thời văn
hóa.
Việc
đầu
tiên
này
(gieo
trồng) mọi nhà nhân chủng
đều đồng thanh xác quyết
là do đàn bà, tất
cả suy đóan rằng đàn
ông mải đi săn bắn các
bà ở nhà tẩn mẩn hoặc
đánh rơi hạt xuống rồi thấy
mọc lên… Đó là
việc ngẫu nhiên tình cờ
sẽ dẫn tới sự gieo trồng có hệ
thống… Cũng vì thời ấy con
không biết cha chỉ biết
có mẹ nên cũng là
khởi đầu mẫu tộc (Đây chỉ
nói mẫu tộc mà
không nói mẫu quyền,
vì mẫu quyền chưa được chứng
minh như sự kiện mẫu tộc) đặt
tên con tên đất, theo họ
mẹ.
Nhưng
từ
lúc
định
cư
thì con biết cha là điều
sẽ dẫn đến
văn minh phụ hệ nổi về lý
trí. Nhất là đến
lúc tranh chấp đất đai, con
thú rồi đền người (chiếm về
làm nô lệ) thì xảy
ra chuyện đánh nhau,
mà đánh nhau thì
phải có sức mạnh nên
cần đàn ông. Từ đó
nghiêng dần sang
nguyên lý cha: đề cao
pháp hình, quân
đội, tổ chức chặt chẽ nghiêm
minh, các mối liên hệ
xã hội trở nên trừu tượng
vì rộng lớn cần tới văn
tự v.v… những khám phá
này thường là do
cha. Đó là lý do
xảy ra chuyện chuyển mình
từ mẫu tộc sang phục tộc, trong văn
hóa là đi từ
tình người ghé sang
lý trí, hạ nghệ thuật
đề cao lý luận v.v…
Sự
chuyển mình này xảy đến
vào khỏang khám
phá ra kim khí, cũng
là giai đọan xảy ra chiến
tranh đọat nô lệ, giành
đất đai mà kết quả
là sự xuất hiện của những đế
quốc lớn như Babylon, Perse, Roma
v.v… Đó là về mặt
ngòai. Còn mặt trong
nguyên lý mẹ chuyển sang
nguyên lý cha, biểu
thị bằng nữ thần được thay thế bằng
nam thần. Bên Babylon nữ thần
Tiamat bị tiêu diệt do nam thần
Marduch. Bên Hy Lạp
thì các nữ thần đi
trước, bị thay thế do các nam
thần trên núi Olympe, đến
độ Minerve sinh ra do đầu Zeus,
tức bào thai của mẹ bị phế bỏ,
nhường chỗ cho đầu cha tức
là tình phải nhường chỗ
cho lý.
Truyện
này
hàm
ý
nghĩa
thâm sâu là
minh triết ghé hẳn sang phần
lý trí và tự
đấy triết lý diệt tình
cảm, trách tiếp xúc
với thiên nhiên, với cụ
thể để vận hành tòan
triệt trong miền ý niệm trừu
tượng, bước mạnh vào văn
minh mà tôi quen gọi
là du mục theo nghĩa đặt nặng
uy quyền lấy sự vâng phục
làm đức cao cả, bất tuân
lệnh là tội nặng nhất.
Đó là trào lưu
xảy
ra trong vùng Lưỡng Hà
nhất là Babylon rồi truyền
sang Ai Cập, La-Hy, Miền thảo
nguyên đến tận bắc Tàu,
mà ta có thể gửi
vào hai chữ Hàm Dương
kinh
đô của Tần Thủy Hòang.
Bên Đông Nam Á
thì Tần Hòang là
đỉnh cao nhất của du mục
tây bắc đề cao lý
trí là sức mạnh,
nên
thay hàm trì của Việt
tộc bằng ham dương (ngậm mặt trời)
của du mục. Tên đó tuy
hàm ý muốn mặt trời
sẽ soi sáng chế độ nhà
Tần vạn đại. Nhưng chỉ 16 năm sau
thì đổ vì duy dương
không sống nổi trong miền
“còn mẹ”. Tuy nhiên
có thể nói được khắp
hòan cầu đã cùng
với thời kim khí bước
vào nguyên lý cha,
bước vào óc đế
quốc, không những vật chất
mà luôn cả tinh thần,
chứng tích cụ thể là mặt
trăng biến hẳn trong lịch dương,
còn có duy mặt trời ngự
trị trọn vẹn. Đó cũng
là sự khải hòan của
nguyên lý cha dìm
hẳn nguyên lý mẹ tức cũng
là lấp nẻo vào
Thiên Thai của con người Đại
ngã. Từ đấy con người chỉ
còn biết có bình
diện hàng ngang lý
trí, không ngờ chi nữa
đến bình diện bao la
sâu thẳm của siêu thức.
Có chăng chỉ còn
phảng phất bên cõi Viễn
Đông mà ta có
thể kiểm chứng sơ qua như sau.
Tục
ngữ nói “Ông Trăng
mà lấy Bà Trời” (Việt
Nho
không có Bà trời
xét như vợ ông trời,
mà chỉ có thiên
như một tòan thể còn
gọi ông hay bà tùy
lúc). Trăng chỉ
nguyên lý mẹ, gọi
ông trăng là theo nghĩa
mẹ
nắm phần trổi vượt. Nhưng rồi đến giai
đọan mẹ chuyển sang cha,
thì mẹ xuống làm
bà, còn bà trời
nhận quyền mới lên chức
ông. Tuy lên chức
“ông
trời” nhưng không dám độc
tài, vì bà
vẫn còn tham dự. Lịch vẫn
có cả mặt trời lẫn mặt trăng,
nhưng trăng đã thôi
là ông để trở nên
cô Hằng. Từ ông trăng trởo
nên cô Hằng, Hằng
Nga là đã nhường quyền
cho ông trời một nửa. Như
vậy là không mất quyền
mà chỉ chia quyền: nếu
ông giữ lệnh thì
bà giữ cồng. Tuy lệnh bắt đầu
lấn
át cồng nhưng nhiều khi “lệnh
ông không bằng cồng
bà”. Trong triết lý
tình biểu thị xuyên qua
ca, nhạc, vũ vẫn còn chỗ
đứng chứ không bị lọai trừ
do khoa luân lý duy
lý như trong triết Tây.
Đó quả là một trường hợp
ngọai lệ may mắn cho
nguyên lý mẹ.
Vụ
này đã xảy ra từ
lúc lập nước Văn Lang với
bóng mẹ Au Cơ che rợp cả nước,
tức thời ấy tuy đã bước
vào phụ tộc nhưng nguyên
lý mẹ còn bao
trùm tất cả như được biểu lộ
một cách huy hòang
trong việc nước Văn Lang lập ra
không do 50 con theo cha xuống
biển, mà do 50 con theo mẹ
lên núi. Thành
thử vai trò của mẹ vẫn
còn nổi bật ngay từ lúc
xuất hiện như vầng nguyệt do lưỡng
long chầu, ta quen gọi là
lưỡng long chầu nguyệt tức Au Cơ ngự
giữa Đế Nghi và Lạc Long
Quân. Có người đã
xem theo lối thanh giáo
chê Au Cơ là dâm
phụ, mà không ngờ
đây là sơ nguyên
tượng đi theo luật Dịch Kinh:
“ít làm chủ, đông
làm dân” (quả vi
chủ, chúng vi dân) hay
là hai dương chầu một
âm giống hệt như quẻ li chỉ văn
minh của Lạc Việt. Vây quẻ
li thành bởi một hào
âm chỉ trung nữ ở giữa hai hao
dương (hình quẻ li), tức đề cao
nguyên lý mẹ
trên cha theo liều lượng
“vài ba” nhưng tất nhiên
không hề có bỏ cha: cha 2
mẹ 3. đấy là điều
quá hiếm hoi vì hầu khắp
mọi nơi con người đã bước
vào phụ hệ rồi, chỉ có
chuyện nguyên lý cha
chôn táng nguyên
lý mẹ chứ không
có vụ ngược lại, nên hễ
còn mẹ thì chắc chắn
cũng còn cha. Nhưng còn
cha thì đến 99% là
không còn mẹ. Cần
thêm ngay rằng đó
không là huyền thọai
bâng quơ nhưng là
nhân thọai đã in đậm ảnh
hưởng vào xã hội
nước Văn Lang mà chúng
ta thử ôn lại vài ba
nét.
Điểm
một
là
tình
huynh
đệ được đặt nổi thay cho quyền cha,
như
thế là quyền mẹ vẫn còn
nằm ngầm. Sở dĩ như vậy vì
tình huynh đệ gắn bó với
mẹ hơn với cha. Tình
yêu của cha thường có
điều kiện nên có giới
hạn phải sao mới được yêu.
Chính vì thế mà
hay có hiện tượng là cha
thưong yêu thiên tư
một con nhận làm con
riêng và thương
các đặc
trưng hầu như gẩy bỏ các con
khác, nhưng không
quên đặt điều kiện là
những luật pháp nghiêm
minh nên quen gọi là
nghiêm đường với pháp
trị. Ngược lại khi tình mẹ nổi
hơn thì gọi là song
thân vì tình
yêu của mẹ vô điều kiện
và phổ cập hơn, bao trùm
mọi con biểu thị bằng cái
bọc trăm trứng, nhất là
không có tính
cách thống trị nên thường
là lễ trị. Vậy
tính chất đó được nối
tiếp trong tình huynh đệ
là tình yêu
có sự trọng kính lẫn
nhau, thay vì thống trị nhau,
tứ c thuận lợi cho sự bình
đẳng hơn hẳn phụ tộc. Phụ tộc đi với
giai đọan văn minh “công
thương” coi trọng văn minh lý
trí, còn mẫu hệ đi
với tinh thần nông nghiệp “sĩ
nông”, coi trọng văn
hóa tình người, lấy
chân thực trung tín
làm nền tảng.
Điểm
hai
là
tinh
thần
nông nghiệp còn biểu thị
bằng việc
mẹ Au vứt bọc trừng ra “ngòai
đồng” (đồng ruộng chỉ tinh thần
nông nghiệp, con cháu
mang họ Mỵ là vậy, Mỵ
là họ lớn nước Sở, mà Sở
xưa là châu Kinh
trong chữ Kinh Dương Vương). Xin nhớ
Mỵ là Mễ, tức tinh thần
nông nghiệp. Tinh thần
nông nghiệp đã xuất hiện
do
mẹ, chỉ sống được trong xã hội
mẹ. Còn xã hội du
mục liên hệ với cha thì
bước vào “công
thương” pháp hình.
Điểm
ba
là
óc
tự
lập là tinh thần nhấn mạnh đến
sự tham
dự của con người: tự làm ra
thức ăn mà không
còn lệ thuộc vào
hái lượm bấp bênh như
trước, hoặc nối tiếp bằng đi ăn cướp
nhưng gọi bằng tên sang
trọng là “chinh phục”. Đức tự
lập được biểu thị trong vụ mẹ Au
Cơ “không cho con bú
mà cả trăm con tự nhiên
trường đại, trí dũng song
tòan, ai cũng úy phục,
bảo nhau rằng đó là
những anh em phi thường”.
Điểm
bốn
là
“bình
sản”
cả trăm con đều phương trưởng,
không phân ra kẻ có
người không, kẻ chủ người
nô, nên không
có chế độ nô lệ
nhà
nước, chỉ có qua loa trong gia
đình thì
không đáng tên chế
độ, nên gọi là
nô tì, tức con ở đầy tớ.
Đó
là
đại
để
mấy
nét nói lên sự
còn mẹ:
còn mẹ thì xây
trên tình huynh đệ phổ
biến. Không lọai trừ con
nào. Con nào cũng
có quyền tự lập tự cường, độc
lập ngay trong sản nghiệp
(bình sản). Tất cả được bao bọc
trong tình thương
thâm sâu của mẹ nên
gọi nhau là đồng
bào hiểu là cùng
xuất phát từ một
bào thai mẹ Au; nói kiểu
triết là cùng nằm
trong nguyên lý mẹ.
Trên chúng ta đã
nói hễ còn mẹ thì
cũng còn cha, vì
nguyên lý mẹ khkông
có tính
cách độc hữu như cha, nhưng
là bao dung khắp hết.
Vì thế nguyên lý
cha vẫn còn dưới danh hiệu
là rồng. Tuy không được
nổi bằng mẹ biểu thị bằng Lạc Long
Quân ở thủy phủ lâu
lâu hiện vệ với mẹ Au trong
cáh đồng Tương, tức là
giao thoa với Tiên mẹ để đẻ
ra con là Hùng Vương bao
hàm cả trí,
nhân, dũng:
Mẹ
non nhân
Cha
nước trí
Con
hùng cường
Lấy
tên Hùng là nhấn
mạnh trên tác động
là cái có sức hội
nhập mạnh nhất. Tác động
cùng cực thì sức hội
nhập cũng cùng cực, nhờ
đó mà hội nhập được hết,
cả nhân cả trí
không để cho lý
trí cha vùi trọn
tình
thâm mẹ như trong các
nên văn minh duy lý.
Với
óc duy lý thì sẽ
xảy ra những vụ chuyên chế
của vương quyền, thần quyền với
tòan dân nô lệ như
bên Perse xưa.
Tiến
nhiều
lắm
cũng
mới
tới “quý quyền” tức còn
quá
bán phần dân trong nước
là nô lệ như
bên Hy Lạp, La Mã. Hy Lạp
có gọi tên
là dân quyền thì
thực chất vẫn là quý
quyền.
Nay
đến dân quyền thì
có thực là dân
quyền
chăng? Hay chỉ là tiền quyền,
hoặc mưu trí quyền,
rõ rệt như trong các chế
độ cộng sản, gảy hết tình
người đi thì tòan
dân trở nên nô lệ.
Riêng phụ nữ thì con
đường tranh đấu còn dài
dằng dặc, tự quyền bỏ phiếu trừu tượng
qua những quyền lương bổng,
nói năng…
Đành
rằng
có
thời
mẹ
phải nhường cha. Đó là
con đường
tiến hóa, nhất là trong
phạm vi chính trị. Người
ngày thêm nhiều
thì “người nhiều của
khó”
nên ở lại mẫu tộc không
thể yên ổn nữa. Trong Kinh
Hùng có ghi chuyện
đó bằng biểu thị lúc
Long Quân vắng nhà
thì “nhân dân khổ
vì phiền nhiễu, không
yên ổn như xưa, đêm
ngày mong đợi Long Quân
về” (H.3). Ta suy đóan được
rằng thời thế đã đổi, xã
hội đã đông
thêm, bờ cõi đã mở
rộng, sự đe dọa bên
ngòai gia tăng, không
còn hợp cho mẫu tộc được nữa,
đã đến lúc phải nghĩ đến
sức mạnh ít nhất
là để chống ngọai xâm,
vậy nên mẹ phải truyền sang
cho Hùng Vương biểu thị phụ
tộc.
Tuy
nhiên bóng mẹ Au vẫn
còn che rợp vũ trụ nước Văn
Lang, đến nỗi có thể nói
là những hậu quả
nguyên lý mẹ vẫn
còn nguyên, nói
lên một sự chuyển mình
êm thắm theo kiểu giao thoa
hài hòa: thống nhất giữa
mẹ và cha, chứ tuyệt đối
không có vụ cha đẩy mẹ.
Nói theo ngày nay
thì sự chuyển mình
không đi theo lối cách
mạng phá đổ mẫu tộc nhưng theo
lối triển diễn hội nhập. Giai
đọan sau hội nhập những bước tiến,
những cái hay của giai đọan
trước như bình sản, tình
tự gia đình, tình
tự thị tộc chuyển thành
tình tự dân tộc trong
tình quảng đại tương thân
đùm bọc với đời sống đầy
ứ tình người…
Đây
là
dịp
thuận
tiện
để đáp lại câu hỏi của
các
nhà khảo cổ rằng Việt Nam
có thờ vật tổ hay không?
Các nhà nghiên cứu
bất đồng ý rất nhiều
và chưa tìm ra
đáp số. Vậy đáp số nằm
trong
chữ triển diễn mà không
cách mạng, tức là
có mà như không,
không mà lại
có, liên hệ tới
nguyên lý mẹ như sau.
Có thờ vật tổ chứ. Đó
là những bước khởi đầu
không đâu không
có, chỉ khác về sau
thì nước ta chuyển nhẹ sang vật
biểu mà cụ thể là
từ chim sang tiên. Tiên
thay thế chim, nhưng không
đẩy chim. Chim vẫn còn
đó, nhưng trước là vật
tổ,
còn nay rút vào
vai vật biểu (heraldic animal)
nhường chỗ cho các nghi mẫu.
Thế
là từ đấy các nghi mẫu
ta đều có liên hệ với
chim ngay trong tên gọi như Au
Cơ là Hải Au, Vụ Tiên
là vịt trời. Các con mẹ
Au luôn đội lông chim
khi múa, chân cũng
xòa ra như chân chim để
giống mẹ từ đầu đến chân
(vì thế dễ bị hiểu lầm
là
ngón chân giao nhau kỳ
thực là ngón
chân tượng tạc xòe ra như
kiểu chân chim)(*)
và từ đấy thì chim
theo mẹ tiên liền bước,
đến độ khi ai tu tiên đắc đạo
thì gọi là vũ
hóa, tức là “hóa
ra có cánh” như
chim và lông vũ (nhất
là của chim trĩ) đã
trở nên dấu chỉ văn hóa
Đông Nam (ngược với
lông mao chỉ văn hóa
Tây Bắc). Thời xưa bao giờ
múa cũng đeo lông chim
như sẽ xem sau là do vậy.
(*)
Chỗ
này
nên
ghi
Kinh Lễ (chương I, tiết 2, câu
10)
khi tế mà nói đến chim
trĩ thì gọi là con
“xòe chân” (Trĩ viết sơ
chỉ).
Ở đây
chỉ
ghi
rằng
lông
vũ
là bóng dáng của
nguyên lý mẹ và
nước Văn Lang gọi là Hồng
Bàng (nhà chim) tức
xã hội xây trên
mẫu mực gia đình tràn
ngập tình yêu,
các con gọi theo họ mẹ. Sự vụ
đó được biểu thị trong việc
các tiên nữ luôn
lởn vởn trong Kinh Hùng từ
Vụ Tiên, Au Cơ, qua Mỵ Nương,
Tiên Dung, Ma Cô
Tiên cho tới Mỵ Châu… Sau
này bóng
dáng Nữ Thần Mộc vẫn xuất hiện
lờ mờ qua những hiện thân
như Liễu Hạnh, (Núi) Bà
Đen, Thiên Mụ và
nhất là Bà Chúa
Xứ: tức là mẹ vẫn
còn làm chúa
“của” xứ. Nhờ đó con
cháu mẹ Au Cơ đã phần
nào đạt được những điểu
mà hiện nay nhân lọai
còn đang dầy công tranh
đấu: tự do, bình sản, óc
công thể, tình
tương thân tương ái v.v…
Tuy
nhiên lâu ngày con
cháu không cảm được
thế nào là “còn
mẹ” thì được “ăn cơm với
cá” nên hò nhau đi
rước văn minh Thái
Tây đầy nam tính về,
thì nay hơn năm chục triệu con
cháu Lạc Hồng nhất là
những người ở trong các trại
cải tạo đang hiểu tận tâm can
tì phế thế nào
là “mất mẹ” liếm lá gặm
xương (chẳng biết xương có
còn mà gặm?).
“Vú
mẹ
đã
khô
nguồn
sữa cũ.
Tình
con
còn
lại
bấy
nhiêu thôi”.
VIII. VANG VỌNG
CỦA VĂN
LANG QUỐC
Bài
này
sẽ
bàn
về
ảnh hưởng của tinh thần Văn Lang đối
với
các nước lân cận
khác văn hóa. Như vậy
là để nối tiếp bài
trên nói về nội lực văn
hóa: Việt có
nguyên lý mẹ nên
dân con được an vui hạnh
phúc, đến đây kiện chứng
thêm bằng sức mạnh đó
có thể chuyển hóa được
các văn minh khác.
Đó là một đề tài
chứng minh văn hóa có
nguyên lý mẹ
thì bền vững vì
nó hợp tình hợp
lý.
Còn các nền văn minh duy
lý tuy có
hùng cường về võ lực,
nhưng lại không lâu bền
và nội lực tỏ ra kém hơn
văn hóa có
nguyên lý mẹ. Vì
vấn đề quá rộng nên ở
đây xin được giới hạn vào
hai truyện trong Kinh
Hùng, một là truyện Bạch
Trĩ đối với Bắc Phương, hai
là truyện Man Nương đối với
Tây Nam là An Độ.
Truyện Bạch Trĩ kể rằng:
Việt
Thường
cống
vua
Thành
Vương nhà Chu chim Bạch Trĩ lấy
cớ
rằng có điềm thánh
nhân xuất hiện. Nhưng Chu
Công không dám nhận
đồ cống “vì chính
lệnh chưa thi hành, đức trạch
cũng chưa mở rộng tới Văn Lang…”
Những câu này cho thấy
ảnh hưởng Tàu lúc ấy
chưa lan tới Việt Nam. Vậy mà
Việt lại có đồ cống đầy
ý nghĩa như chim trĩ hay được
nhắc đến gọi là “Tùy
dương Việt trĩ”, tức chim trĩ của Việt
tộc hay tiến theo mặt trời, chỉ
giai đọan còn thờ mặt trời
thí dụ chứng tỏ văn hóa
Việt đã tiến xa ngay từ thời
đó. Tuy nhiên ý
nghĩa truyện bạch trĩ không được
rõ vì là
truyện có muộn sau nên
đã để trụt mất nhiều
ý nghĩa. Muốn hiểu sâu
hơn cần nghiên cứu truyện
cống rùa nhắc đến trong
sách Ngự Phệ Thông
Giám Tập Lãm. Truyện kể
rằng năm thứ 6 Việt Thường cống
vua Nghiêu con rùa lớn
đã sống nghìn năm, bề
vuông hơn ba thước, trên
mu có 64 chữ khoa đẩu
chép việc thiên hạ từ đời
hồng hoang v.v… (có thể
là 64 quẻ Kinh Dịch). Đây
là truyền thuyết
nói về ảnh hưởng phương nam lan
lên phương bắc. Vì
rùa là một vật linh của
Bách Việt. Nhiều chi tộc
như Tày, Thái còn
thờ rùa làm vật
tổ. Người Mường gọi là
ông, là bác
và
có phép bói
rùa gọi là chí
rò (rò là
rùa) căn cứ trên số 9.
Với
Lạc Việt thì rùa cũng
là một trong 4 vật linh:
lân, ly, quy, phượng. Rùa
còn là vật biểu
tượng trời đất (lưng tròn, 4
chân vuông) sau
này biến ra quy thư
(sách rùa) cũng gọi
là
Cửu Lạc, cùng với Lạc Thư như
nhau về số và cơ cấu. Cả
hai cùng căn cứ trên số 9
cũng như đều nói
lên những luân thường đạo
lý trường tồn. Vì
thế chữ Việt Thường ở đây
không nên hiểu theo hai
nghĩa sử ký (*), nhưng
nên hiểu theo nghĩa siêu
việt
như chim bay nhảy lên cao.
(*)
Theo
sử
thì
Việt
Thường có hai nghĩa: một
là dải
đất từ Quảng Trị tới Quảng Nam (theo
địa dư chí của Nguyễn
Trãi), hai là chỉ
chung tòan thể Việt Nam như
lối
hiểu của các sử gia trước.
Còn
chữ
cống
nói
lên
cái thế yếu của Việt Thường đối
với Tàu trong thời câu
truyện được ghi chép,
nên không thể dùng
chữ cho, ban, truyền bá,
nhưng ý nghĩa về nơi
phát xuất hay về tác giả
thì còn y nguyên,
tức nền tảng Kinh Dịch
phát xuất từ nếp gấp song
trùng nảy sinh từ Đông
Nam Á; mà dân
lãnh đạo tinh thần là
Lạc Việt, thì điều đó
không một nhà
nhân chủng học nào chối
cãi cả, vì
không những có rất nhiều
mang tính lưỡng hợp (dual
unit) mà còn có
cả di tích khảo cổ, như
đã bàn trong bài
Nét Song Trùng.
Có thể thêm một số tang
chứng khác chẳng hạn
nhà mái cong, vật biểu
rồng, tẩm tang đều phát
xuất từ miển nam.
Cũng
phải
nói
như
thế
về con số 3 với những bộ ba cái
chạc. Cả
về con số 5 trong ngũ hành cũng
không khác như sẽ
bàn thêm trong quyển Sứ
Điệp. Đây là về
phía Việt, thì
tác động là cống,
là
hiến, phía Tàu là
tiếp nhận như ta có thể
đọc thấy dọc dài qua cả huyền
sử lẫn lịch sử. Xin lược qua
vài ba vụ:
Huyền
sử
nước
Tàu
mở
ra với Đế Kỷ (*) lãnh đạo do
Hiên
Viên lạm xưng hoàng đế
có câu truyền tụng
rằng “Hoàng đế đắc Si Vưu nhi
minh ư thiên đạo”
(Hoàng Đế nhờ có Si Vưu
mà hiểu thiên đạo).
Si Vưu là thủ lãnh Tam
Miêu tức liên
đoàn các dân
Bách Việt (**), có cả
đạo trời lẫn đạo đất, cả số 4 lẫn số
3. Còn Hiên
Viên khi vào đánh
Si Vưu chỉ có số 4 tượng
trưng bằng 4 con ác thú
là hổ, beo, hùm,
báo (***).
(*)
Bên
trên
Đế
Kỷ
(gồm Ngũ Đế) còn có
Hoàng Kỷ gồm tam hoàng
là Phục Hy, Nữ Oa, Thần
Nông. Tam Hoàng thuộc
Bách Việt, đầu đời Hán
một số sách mới thâu
vào làm của
riêng
Tàu mà chính ra
là của Việt, ta quen
nói Hoàng Việt (xem
Needham I p.163).
(**)
Needham
II
p.115
(***)
Theo
Trúc
Thư
Kỷ
Niên
-
Đến ông Đại Vũ nhờ lấy được vợ
Việt nên đúc được 9
đỉnh như đã bàn
dài trong Việt Lý
và
Tinh Hoa Ngũ Điển (bài Vũ
Chú Cửu Đỉnh).
-
Xin nhắc sơ qua về vụ lủng củng của
Tàu vào lúc sơ
khai. Thí dụ khi thì đề
cao bên chiêu, khi
thì bên mục (xem
bài Chiêu Mục trong Việt
Lý). Cũng phải nói về số
4 và số 3, hoặc 6, 5.
Nhà Chu theo số 6 (của phương
Tây Bắc), đến Nguyệt Lệnh
(Kinh Lễ) thì lại đề cao số 5
như phương nam, cũng như khởi đầu
đúc đỉnh 4 chân, rồi sau
mới 3 chân. Vật biểu
khkông có sự nhất
trí: trước hổ hoặc cá
và chim cú (có
sách nói trước nữa
là chó Đại Bản), sau
cùng mới tới rồng được
thâu nhận sớm lắm là đời
Thương An, nhiều học giả cho
là đời Hán.
Trong
truyện
Việt
Tỉnh
có
nói về “Ngọc Long Toại” ban cho
Thôi Vĩ từ thủa trời đất mới
khai tịch đã có một
cặp trống mái (xin hiểu
là nét song trùng
xuất hiện khi mới đặt nền văn
hóa) và “các
nhà vọng khí biết
hòn ngọc Long Toại còn ở
phương nam, người Tàu đem
vàng bạc, gấm vóc trị
giá trăm vạn để mua. Thôi
Vĩ nhân đó
thành đại phú”.
Niềm
tin
này
còn
được
nhắc đến trong truyện núi Tản
Viên với vụ Cao Biền muốn yểm
linh tích các nơi
danh thắng bên Việt. Theo
sách Phong Thuỷ kể lại rằng
quan
coi về thiên văn bên Trung
Quốc thấy các sao lớn đều
chiếu về phía nam mới tâu
với vua là Việt có
chân mạng đế vương, đất Việt Nam
rất linh nếu không triệt
hạ sẽ gặp tai họa. Do đó vua
sai Cao Biền sang trù yểm
các đất linh của Việt Nam trong
đó có núi
Tản Viên thì bị thần khạc
nhổ vào mặt. Cao Biền
than rằng linh khí phương nam
chưa thể trắc lượng được.
Trở
lên là huyền thoại, nhưng
có ảnh hưởng lịch sử.
Bây giờ xin thêm một chứng
tích lịch sử. Đó
là chuyện Cát Hồng
tiên ông (đời Tần
289-340). Ông cũng chung niềm
tin là linh khí
còn ở phương nam, nhưng diễn
đạt theo lối “đan đạo”, luyện thuốc
trường sinh (cũng gọi là “thần
tiên đan đỉnh” đã
thấy dấu vết lâu đời, như Tư
Mã Thiên đã
có nhắc tới Xích
Tùng Tử là vũ sư đời
Thần
Nông). Muốn luyện được thuốc
thì cần chất chu sa cũng gọi
là thần sa hoặc đan sa
(Cinabre). Nhưng chu sa chỉ có
nhiều ở Việt Nam. Vì thế
Cát Hồng tiên ông
nhất định đòi xuống Việt cho
bằng được để lập lò luyện
thuốc nhưng vì bạn bè
can ngăn cho là nơi chướng
khí, cuối cùng nể bạn,
Cát Hồng không xuống
hẳn Việt Nam nhưng cố gắng lập
lò nơi gần Việt Nam hơn hết
đó là núi La
Phù trong tỉnh Quảng
Đông (trong mấy tỉnh Hải Dương,
Sơn Tây, Bắc Ninh cũng
còn di tích của
Cát Hồng).
Bây
giờ
xin
bước
sang
bình diện không những
lịch sử mà
còn thuộc đạo lý nữa.
truyện Việt Tỉnh mở rằng “Việt Tỉnh
ở núi Trâu Sơn, quận Vũ
Ninh, đời Hùng Vương thứ
ba, An Vương cử binh nam xâm
đóng quân ở núi
Trâu Sơn” (H.79). Đoạn giữa
truyện nói về tiên cho
Thôi Vĩ ngọc Long Toại, rồi kết
truyện một cách đột ngột
rằng “Ma Cô tiên rước vợ
chồng Thôi Vĩ đi,
không biết đi đâu. Nay
giếng bỏ hoang thành bẩn
thỉu, hang thì còn ở
núi Trâu Sơn. Người đời
gọi là Việt Tỉnh Cương vậy”
(H.96). Đây quả là một
đoạn văn bí ẩn, nhưng ta
có thể dùng lịch sử
và khảo cổ mà tìm
ra manh mối như sau:
Trước
hết
là
câu
“An
Vương cử binh Nam xâm,
đóng
quân ở núi Trâu
Sơn”. Lịch sử khảo cổ cho biết
nhà An đến xâm chiếm Long
Sơn, nơi có tất cả dấu
vết của Việt Lý: bên
ngoài là cái
Lịch tức nối 3 chân thông
với nước ở lòng nồi,
xét về cơ cấu thì
cái lịch cùng một
ý với bộ ba cái chạc
tìm được ở Phùng
Nguyên. Ngoài ra cũng
có lễ gia tiên, cũng đề
cao mẫu quyền v.v… Cả đến Ngưỡng Thiều
ngày nay cũng được khoa
khảo cổ công nhận là gần
với phương Nam bởi vì cũng
có người ngồi xổm, Văn thừng,
rìu chữ nhật, rìu
lưỡi xéo, đường tiến
xoáy ốc ngược kim đồng hồ
(Cradle
p.344). Tóm lại là
có đủ những nét
chính làm nên tinh
thần Văn Lang. Nên nhớ
tính chất Văn Lang này
sau bị nhà Chu đưa 4 yếu tố
du mục vào phá hoại (xem
Tinh Hoa tr.11) sau được Khổng
Tử lặp lại.
Ai
cũng biết ở quê Khổng Tử
có ấp Trâu Sơn trong nứơc
Lỗ, điều ấy gợi ý liên hệ
với chữ Trâu Sơn trong
truyện. Còn đạo của Khổng
là gì: ông
tuyên bố rõ đó
là đạo cổ. Ông
nói ông không
sáng lập ra đạo mà chỉ
truyền lại đạo cổ mà thôi
(ngô thuật nhi bất
tác). Hỏi đạo cổ ấy ở đâu
thì ông hướng về
phương nam như câu ông trả
lời Tử Lộ hỏi về đức cường,
Khổng Tử đáp: “Khoan nhu dĩ
giáo, bất báo vô
đạo. Nam phương chi cường dã,
quân tử cư chi” (Trung Dung,
câu 10).
Cái
cường
Nam
phương
ở
tại khoan nhu dĩ giáo
(khác cái
cường của bắc phương ở tại dám
chết nơi chiến trường). Vậy
đó phải là nơi
quân tử y cứ (quântử cư
chi)
vì thế mà đạo quân
tử gọi là nhu giáo
(khoan nhu dĩ giáo), tức
nói lên tính chất
phương Nam, nhu thuận ôn
hòa: nhu giáo
chính
là triết lý số 3 đặt
trên con người khi phát
triển theo cơ cấu nó biến ra
khung chữ tỉnh là giếng,
nên nói đến giếng.
Còn Giếng thêm tiếng Việt
vào thành Việt Tỉnh
thì phải hiểu là Việt
Lý. Chứ giếng thì
đâu chẳng có nên
không ai thèm đem
tên nước mình gắn liền
với
giếng. Riêng ở đây
làm thế thì phải hiểu
Việt
Tỉnh là Việt Lý. Vậy nho
gia đã y cứ trên
Việt Lý (Việt Tỉnh) mà
phát triển đạo nghĩa
nên người sau thêm tiếng
cương vào thành ra
Việt Tỉnh Cương. Cho nên Việt
Tỉnh Cương chính là
Việt Lý đã được nho
công thức hóa là
lược đồ hóa thành Hồng
Phạm cửu trù tức là
khung chữ Tỉnh đó: nói
Việt Tỉnh Cương hay Việt Nho
và hiểu liên hệ đến Hồng
Phạm cửu trù tức là
khung chữ Tỉnh với 9 Đại Cương
và nhiều điều tiểu mục. Chữ
cương
liên hệ là thế.
Nền
Việt Nho này cũng chính
là Nguyên Nho
đã xuất hiện từ đời Tam
Hoàng nhưng rồi bị phai lợt đi
dần qua Đế Kỷ cho tới đời Hán
bị xuyên tạ đến độ
thành ra Hán Nho (xem vụ
này trong chương 3
Nguyên Nho) và
chính nó đã
chôn
vùi Việt Nho, biểu lộ bằng
“cái hang trong có con
rắn trắng dài trăm thước mỏ
vàng miệng đỏ” (sẽ nói
kỹ trong Sứ Điệp- H.88). Con rắn
là con rồng, trăm thước
là Bách Việt, trương cờ
Si Vưu nền vàng giữa
có miệng tròn đỏ để chỉ
lửa phương nam quẻ li hay trước
nữa là “Xích Quỷ” tức
là Việt Nho. Nhưng sau bị
quên trọn nên truyện
nói “nay giếng bỏ hoang bẩn
thỉu, hang thì còn ở
núi Trâu Sơn”, tức
những sách kinh điển của
các Nho gia, tuy còn
đó nhưng chỉ như cái
xác, hồn đã mất
lâu rồi, quên luôn
cả nơi phát xuất của
sách vở là miền
Trâu Sơn. Nay ai muốn
khám
phá hang nên đi qua Nho
giáo nguyên thuỷ như
chúng tôi đã thử
làm trong 10 quyển đầu của
bộ Triết Lý An Vi.
Câu
truyện
trên
nêu
lên
hai chiều đi của đạo lý:
một tự Việt truyền lên mạn Bắc
trước bằng vụ cống rùa, sau
bằng vụ An Vương nam xâm tức tự
bắc đi xuống mượn của miền nam.
Nên nhớ đây còn
đang nói về Bắc Nam sơ thuỷ
bao la chưa là Bắc Nam đời
Xuân Thu với Khổng Bắc
Lão Nam. Bắc đây phải
hiểu là du mục gồm
Mông, Mãn, Kim, Hồi v.v…
(xem Cradle p.405) trong chiều
hướng đó thì Tàu
thua Việt, nên bao
nhiêu vật tổ vật biểu của
Tàu sơ thuỷ (Cú, Hổ,
Cá, Ngựa) đều phải biến đổi.
Chim cú của Hoàng Đế
còn truyền đến đời Thương rồi
biến mất (sau nó biểu thị
loài giết cha mẹ bất hiếu)
nhường chỗ cho long phát xuất
tự Việt. Còn hổ thì
hóa ra lân hiền
khô. Cá thì
hóa long (chỉ còn di
tích trong Văn Cá thịnh
hành đời Hán). Ngựa
không đổi vì xin được
việc chở Hà Đồ để
thành ra Mã Đồ.
Nói
khác,
vấy
nhiêu
vật
biểu (cú, cá, hổ,
mã…) là của du mục
Tây Bắc xâm nhập văn
hóa Đông Nam của
Bách Việt, sự xâm nhập
đã làm nảy sinh một
dân mới mang đặc tính
mới, nổi bật ra khỏi đại chủng tộc
Việt, đó là dân
tộc Tàu, vậy nên
Tàu là người gốc Việt
(Bách Việt) nhiều hơn gốc bắc
Mông, Mán, Hồi, Tạng.
Chính điều đó thì
giải nghĩa tại sao tiến
lên Bắc thì hết là
Tàu, còn tiến
xuống Nam thì là
Tàu hơn lên. Khi du mục
Bắc
cai trị Tàu thì bị đồng
hóa với Tàu.
Còn Tàu khi lấn xuống
đất Việt thì Việt
không bị đồng hóa
mà còn biến đổi
Tàu
là khác (Việt chỉ bắt
chước hình thức của
Tàu vào giai đoạn sau).
Trong
chiều
hướng
đó
Nho
sơ thuỷ của Bách Việt dần dần
biến
thành một thứ Nho bác
học, và bị lợi dụng như một
khí cụ chinh phục để truyền
bá từ Bắc xuống Nam dưới
hình thức Hán Nho đầy
lệch lạc.
Chính
những
cái
lệch
lạc
này che hét vòng
trong
của triết lý số ba đặt
trên đỉnh của Ngũ Lĩnh xoay trở
chiều nào cũng có
tính năng động như 15 Bộ nước
Văn Lang tức 3*5=15 xoay trở 4 chiều
cũng vẫn là 15 như
hình Lạc thư truyền lại.
Vậy
là tạm bàn xong về mạn
Bắc. Ta thấy Việt Lý chuyển
hóa Bắc phương được chứng minh
bằng cả huyền sử, lịch sử lẫn đạo
lý.
TRUYỆN
MAN
NƯƠNG
Kể
về
một
nhà
sư Tây Trúc tư
thông với một
cô gái Việt mà đẻ
ra được 5 pho tượng Phật rất
linh. Ý nghĩa ẩn dụ là
đạo Phật đại diện cho ngành
đạo cao nhất bên Ấn Độ truyền
vào nước Nam do sư Đồ
Lê từ Tây đến. Phương
Tây hành kim, còn
Đông hành mộc. Tây
là phương chỉ sự chết,
cõi sau, còn mộc
là cõi sống, đời
này. Vậy Phật truyền từ
Tây sang Đông là đi
từ cõi chết (số 4) sang
cõi sống chỉ bằng số 3
(ngã ba đầu sông,
cây đa ở ngã ba)
và
số 5 (tháng 5) mà chủ
tịch là nguyên
lý mẹ đại biểu bằng Man Nương
nghĩa là người đàn
bà của dân Man (Việt) đẻ
ra mộc Phật (phương Đông)
là bốn pho tượng bằng gỗ
còn về Tây phương
thì giữ lại trong tượng bằng
đá, nhưng đã được
tô vàng là
màu hoàng thổ
Bách
Việt có nghĩa là
đã chịu ảnh hưởng đậm đà
của Việt tộc.
Đây
là
huyền
thoại
nói
tiên tri về cuộc Việt Lý
thâu hóa và biến
cải các làn
sóng xâm nhập Đông
Nam Á trong đó
có vụ biến Phật giáo Ấn
Độ ra Phật giáo
Tàu, tức làm cho Phật
giáo mang đầy tính
chất nhân sinh: từ tượng Phật Ấn
khắc khổ sang Phật Tàu
béo búc đầy chất sống.
Vụ này xảy ra lối đời Đường
trong những miền của Việt Chiết Giang
như Hoa Nghiêm, núi
Thiên Thai, nó biến đổi
Phật giáo toàn triệt
chứ không chỉ có
thích nghi ngoại dụng,
mà
là tự siêu hình
đến dạng thức đều đổi hẳn: về
siêu hình thì từ
không tới có, từ
vô thường thái hư đổi ra
Như Lai, Chân Như.
Còn dạng thức thì tự
tĩnh tọa, tọa thiền đổi ra
hành thiền và nhất
là tam bảo: Phật, Pháp,
Tăng đổi ra Giác, Chính,
Tính. Đó quả
là đưa đạo ngoại cứ vào
trong tâm linh con
người(xem Định hướng tr.116-121).
Vậy
tất cả những cuộc biến thể nọ
đã được biểu thị trong truyện
Man
Nương với những ẩn số, để trừu tượng
hóa những biến đổi
có thực, thí dụ truyện
Man Nương ở làng Dâu
(Thuận Thành, Bắc Ninh) nơi một
cô gái đã
có công chống hạn
hán, đem nước suối vào
ruộng cho dân cấy cày,
nên sau được nhân
dân suy tôn làm
Phật.
Đây
là
một
cuộc
cách
mạng sâu xa từ du mục sang
nông nghiệp. Đạo Phật xuất hiện
từ Ấn Độ nằm dưới ách cực
nặng của Bà La Môn du
mục: xã hội đi theo lối đẳng
cấp, dân chúng và
đàn bà bị khinh
miệt, đến độ vợ bị coi là
tài sản của chồng, phải chết
theo chồng v.v… Phật giáo tuy
là một nền nhân bản,
nhưng chưa vượt được khỏi hết những
xiềng xích du mục kia,
nên địa vị đàn bà
ban đầu cũng rất thấp, khởi đầu
không được tu, không
có Phật Bà. Vậy
mà khi truyền sang đất Việt
liền có Phật Bà. Phật
Bà đầu tiên ấy lại
không do một bà quyền
quý mà do một cô
gái đói khổ. Như vậy
là cuộc cách mạng
có tính cách nền
tảng bao gồm nhiều bước, mỗi bước đều
do bầu khí văn hóa
Việt gây ra.
-
Bước đầu: không còn phải
là nam nhi mà nữ
lưu cũng có thể trở nên
Phật. Đó là vai
trò quan trọng của phụ nữ
bên Việt Nam.
-
Bước hai: thay vì diệt sinh
bên An thì ở đây
lại sinh sinh theo tinh thần Kinh Dịch
“sinh sinh chi vị dịch”
và do thói tục ưa
đông con nhiều cháu của
Việt tộc xưa, coi việc không con
là sự bất hạnh.
-
Bước ba: táo bạo hơn cả, sinh
con đã không
có cưới xin lại còn
“bước ngang” do một nhà tu
hành, vậy mà vẫn sinh
một cách viên
mãn: sinh một lúc được
tới năm Phật. Sinh như hoa nở.
Dân chúng nói “mẹ
ta hoa Phật”. Cả năm đều linh
hết: hễ dân bị hạn hán
mà cầu đảo thì liền
có mưa, nên bốn pho tượng
chung quanh được đặt tên
là Pháp Vân,
Pháp Vũ, Pháp Lôi,
Pháp Điện. Bước này
có thể quy cho sự quan trọng
hóa gia đình như được
bày tỏ trong câu ca
dao “Thứ nhất là tu tại gia,
thứ nhì tu chợ, thứ ba tu
chùa”.
Đó
là
những
biến
đổi
tận nền y như vụ nam thần Avalo
bên Ấn
khi vào vùng đất Việt
Chiết Giang thì biến ra thần
nữ là Quan Thế Âm Bồ
Tát. Đã vậy lại
còn “tống tử” (tay bồng con),
ngược hẳn với diệt sinh, diệt dục
bên Ấn.
Trên
đây
là
mấy
biến
đổi tượng trưng cho sức mạnh của nền
văn
hóa Việt tộc đã cải biến
được các nền văn
hóa mà nó gặp.
Đến
đây chúng ta có
thể nêu lên câu
hỏi: tại sao nước Văn Lang lại
có thể gây ảnh hưởng vừa
sâu vừa rộng đến thế? Sâu
vì đổi văn hóa Ấn
Độ đến đợt định đề cơ cấu, còn
rộng là lan lên tận
miền bắc vượt qua cả Hoàng
Hà. Đó là truyện
thực hay chỉ là hư cấu suy
luận?
Thưa
đây
là
suy
luận
nhưng không hư cấu mà
là căn cứ trên khảo cổ
và sử sách, nên
một khi đã biết sự thực
thì không còn chi
đáng thắc mắc.
Trước
hết
về
phía
Phật
giáo vì là
khách
nên nhập gia tuỳ tục là
lẽ thường. Thứ đến Phật
giáo tuy chống đối Bà La
Môn kịch liệt, nhưng về cơ
cấu và định đề thì
còn y như nhau. Thái hư
nhà Phật không
khác vô vô (neti,
neti)
Bà La Môn. Tứ diệu đế với
samkhya cũng đại đồng tiểu dị,
vậy mà cơ cấu bao giờ cũng mạnh
hơn đợt lương tri. Vì
mạnh và vững vàng ở cơ
cấu nên nền nhân chủ
Văn Lang biến đổi Phật dễ dàng.
Riêng
về
Tàu
thì
có
lý để thắc mắc vì Văn
Lang là khách tại sao
biến đổi nổi Tàu đã
lớn hơn và văn minh hơn lại
còn là chủ nữa? Tuy
nhiên đó chỉ là
cảm nghĩ theo thói thường
nên rất sai lạc, còn nếu
cảm nghĩ theo sự thực đúng
theo khoa học nhất là khảo cổ
và xã hội thì
phải nghĩ khác, tức Tàu
là khách mà
Việt là chủ.
Trước
hết
nên
chú
trọng
rằng nước Tàu xét như
một
dân tộc, một thực thể văn
hóa và chính trị
như nay mới xuất hiện từ Tần Thuỷ
Hoàng. Trước nữa thời
nhà Chu, nhà Thương,
Tàu mới ở giai đoạn
hình thành với nước
bé nhỏ trên bờ
sông Hoàng. Khảo cổ mới
tìm ra dấu vế đến có
nhà Thương, trên nữa như
nhà Hạ thì chỉ
là truyền thuyết suông.
Chính
sử
gia
Tư
Mã
Thiên cũng chỉ đẩy đến Đế Kỷ với
Hiên
Viên Hoàng Đế là
cùng cực, tức nước
Tàu dù bé nhỏ
cũng mới xuất hiện sau Hồng
Bàng kỷ. Điều này
không phải vô nền,
trái lại có thể minh
chứng bằng khảo cổ, như sẽ
trình bày tường tận
trong Sứ Điệp.
Không
hiểu
vì
đâu
từ
quãng 1960 tới nay một số người
cho
truyện Đế Minh cháu Thần
Nông là một sai lầm
truyền
kiếp mà không ngờ rằng
coi Thần Nông như của
Tàu hay ít ra
riêng của Tàu mới
là
một sai lầm truyền kiếp, chứ theo khảo
cổ thì ngay từ văn
hóa Hòa Bình
đã thấy dấu vết nông
nghiệp, và bên các
chi Bách Việt không
thiếu truyện “Thần Nông”: Thần
Nông Chàm, Thần
Nông miền Lâm Đồng v.v…
Phương chi khi vươn lên
ý nghĩa siêu linh
thì Bắc Nam chỉ còn
là biểu tượng của đất trời,
rồng tiên, chối bỏ thì
giải nghĩa sao nổi lưỡng hợp
tính hiện hình
cách
huy hoàng trên mặt trống
đồng. Vậy xin hãy mở rộng
tầm mắt ra xa như khoa khảo cổ cho
phép và hơn thế nữa
phải vượt qua quan niệm sử địa khi đọc
huyền thoại, vì đó
là miền của văn hóa, của
triết lý. Lúc ấy
mới thấy bờ cõi Văn Lang cho
tới Động Đình Hồ có
cái “lý” của nó,
và 15 bộ nước Văn Lang
phải mở rộng tới tất cả những nơi
nào có bộ số 2, 3, 5
với tục xăm mình, khi
múa thì cầm mâu
với
thuẫn, trên mình
có đeo lông chim.
Lúc
ấy sẽ thấy những trường cổ nhất như
Bích Ung “của Tàu’
cũng chỉ dạy có múa
mâu với thuẫn với đeo
lông chim như trên mặt
trống đồng. Cả vua Thuấn cũng
múa như thế. Mãi sau
này đến đời Xuân Thu
mà ba nước rất lớn ở mạn nam
sông Hoàng là
Sở, Ngô, Việt vẫn là của
người Man, nơi còn gặp
nhiều dấu Việt như tả nhậm, cắt
tóc, xâm mình,
cũng
đeo lông chim khi múa,
thì biết ảnh hưởng Việt tộc
sâu rộng đến đâu.
Như
vậy nói ảnh hưởng Văn Lang lan
rộng lên Tàu phải
hiểu là Tàu nhớ tiếc
và bảo tồn gốc cũ. Gốc ấy
chung cho cả người Tàu
thái cổ lẫn người Văn Lang. Nếu
quy chiếu vào Văn Lang theo
nghĩa hẹp ở Phong Châu
thì có thể hiểu
đó là một trong những
nơi
kết tinh rất đẹp của nền văn
hóa nông nghiệp lâu
đời
và đã lan rộng
trên toàn cõi
Đông Á cũng như Nam
Á với nhiều trung tâm đại
đồng tiểu dị; còn Văn Lang theo
nghĩa rộng thì là
toàn thể nứơc Tàu
lúc chưa có dân
tộc
nào tên là
Tàu, mà mới có
“Thần Châu xích huyện”
cùng một nền văn hóa
với “Xích Quỷ” mở đầu cho Văn
Lang.
Tóm
lại
tinh
thần
Văn
Lang là một nền văn hóa
rất lớn
đã biểu lộ sự hùng mạnh
bằng chỉ ra được đường tiến
hóa chân thực cho con
người là mở lối thênh
thang tiến lên chiều kích
tâm linh, vì thế
đầy khả năng cải tạo các nền
văn hóa mà nó
có dịp chạm tới. Cái
bí quyết củasự hùng
mạnh kia là chất nhân bản
đầy ứ tình người.
Cái may mắn của văn hóa
dân tộc Việt cũng
chính là nền văn
hóa nhân tộc toàn
diện đó. Vì thế sức
chinh phục của nó sẽ
còn mãi mãi với
đất trời
IX. TỔNG
LUẬN KINH
HÙNG
Sau
những bài suy luận
trên,
chúng ta đã thấy
nổi lên một nền văn
hóa
trác việt với rất nhiều
giá trị làm
nên một
cơ sở tinh thần đầy những
nét đặc trưng cao cả.
Nét nổi
nhất trong Kinh Hùng
là nhân chủ
tính được
biểu hiện một cách phong
phú, chưa hề thấy một
sách cổ xưa nào
lại đông đủ những con
người tự lực
tự cường với những tác
động nhân bản rốt
ráo như
vậy. Sau đây xin nhắc lại
vài ba nhân vật
cũng như
dăm ba tác động nền
móng. Nổi bật hơn hết
thì
không có ai
khác hơn là Lạc
Long Quân,
Hùng Vương và Au
Au Nghi Mẫu. Đó
không
còn là những
nhân vật sử nữa mà
đã
trở thành đại biểu cho
những nguyên lý căn
bản,
những bước tiến quyết liệt trong
cuộc biến hóa con người,
quả
xứng đáng là đại
diện cho nhân tộc.
A. KHI
BỐ LẠC KHAI
QUANG.
Với ba
vĩ tích diệt hồ tinh, ngư
tinh,
mộc tinh, Lạc Long Quân
đã làm một cuộc
khai quang
triệt để dọn đất tốt cho
ngôi nhà nhân
bản sau
này, tức là
đã đọan trừ tất cả những
tà
vọng, những mê hoặc thường
ẩn náu trong những thần
thọai,
trong những mê tín
là những yếu tố đã
trùm phủ khắp nơi
không cho cây
nhân bản mọc
lên. Trái lại ở
đây Bố Lạc đã dứt
bỏ quyết
liệt đến nỗi những thần thọai
đầy tính chất bái
vật
còn đang lớn mạnh ở
các chi khác như
Mèo,
Mường, Xá, Lào
và Tây Nguyên
thì đến Lạc Việt đều lu
mờ hẳn đi nhường chỗ cho những
truyện về
gốc nguồn nòi giống,
những việc dựng nước dựng
nhà, những
việc khai phá thiên
nhiên, những mối
nhân
luân cụ thể chân
thực. Đây là một
bước xả
quyết liệt đến nỗi sau
này không một
tôn giáo
nào gây được ở Việt
Nam những phong trào
cuồng
tín, hoặc bóp chết
được sự tôn thờ các
anh
hùng dân tộc hoặc
lòng tin tưởng vào
hào khí núi
sông. Đây là
một
bước tiến vĩ đại trong việc khai
quang cho văn hóa
nhân
bản hiện đang được đề cao rất
mực khắp nơi; nếu muốn đưa ra
một
tên tuổi để làm
triết gia thượng thặng cho Việt
tộc như
Plato với Tây Au
thì đó phải
là Lạc Long
Quân. Lạc Long Quân
chính là
hình ảnh
tối sơ của triết gia thượng
thặng của Lạc Việt.
B.
HÙNG VƯƠNG
VỚI THUYẾT NHÂN CHỦ
Nhân
chủ cũng là nhân
bản
nhưng nó khác
những thuyết nhân bản gặp
thấy ở hầu
hết các nơi nên cần
gọi tôn lên
là
nhân chủ cho dễ nhận diện:
nhờ cuộc khai quang của Bố Lạc,
nó không phải trải
qua cuộc chiến đấu với những tin
tưởng
vu vơ, thí dụ phải sinh
ra do huyết thống thần Zeus mới
là người tự do như
bên Hy Lạp, hoặc phải sinh
ra bởi một
phần nào của Phạm
Thiên mới là người
như bên
An Độ. Ở đây nhân
chủ xuất hiện cách an
nhiên:
bất cứ ai đã sinh ra
thì đương nhiên
là
người, không cần lý
lịch, huyết thống của thần minh,
đến
tuổi thì được quyền bỏ
phiếu, được dự vào hội
đồng kỳ
mục. Điều đó được biểu
thị bằng quyền trị nước được
trao
vào tay Tiết Liệu
nghèo khó, hay nơi
Chử Đồng Tử
túng đến nỗi cái
khố cũng không, vậy
mà vẫn
lấy được công chúa
Tiên Dung. Vì thế
ta sẽ
thấy những mẫu đề được săn
sóc hơn cả trong truyện
dân
gian là em út, con
côi, phụ nữ, ông
gìa, bà cả, người
bệnh hoạn v.v…
Đó
là óc trọng nghĩa
hơn
tài được đề cao một
cách kín
đáo.
Tóm lại tài sản
hoặc dòng tộc không
là nền tảng bó
buộc cho nhân phẩm con
người.
Đây là điểm một.
Điểm
hai là giá trị
không
căn cứ bên dòng tộc
hoặc giàu sang nhưng đặt
trên tác
hành, trên
công tich. Hễ ai
có công trạng,
có thành
tích
thì được xưng tụng
không kể là ai
dù
là nữ nhi hay người
cùng khổ. Vì thế
có
hiện tượng khác
thói tục nhiều nơi
dùng tên
vua chúa đặt cho những
nơi quan trọng, thì trong
nước Văn
Lang lại gọi bằng những
tên của thường dân
như xưa
đã nói về
ông Đùng bà
Đà.
Ông
Đổng cắn nát núi
húi
sạch
rừng
bưng
ngang
lũ.
Còn
“bà Đà thì
trồng cây, xây
núi”, mở màn cho
các
bà Dâu tìm
ra phép nuôi tằm
bằng
lá cây dâu,
rồi các bà Đậu,
bà
Nành, bà
Giàn, bà Hom…
tòan đề cao
thành tích
sáng tạo.
Điểm
thứ ba là an vi, tức
làm
mà không để cho
mình bị trói buộc
vào
hậu quả. Thấy đáng
làm là làm,
làm
cực hăng say mà
không để trọn tâm
trí
vào công hiệu như ở
đợt lợi hành. Ong tổ của
triết
lý an vi chính
là Thánh
Dóng.
Thánh Dóng chỉ
là một trẻ thơ ba năm
chưa biết
nói, nghĩa là
không cần nói
mà cần
làm, và làm
những việc lớn lao cao cả như
thương
nước yêu nòi, thấy
giặc An xâm lăng đất tổ
thì ra đánh,
đánh tận tình,
đánh
hăng say đến độ nhổ cả từng cụm
tre già vất vào
mặt giặc.
“Đứa thì sứt mũi, sứt
tai. Đứa thì chết
chóc
vì gai tre ngà”.
(Vè dân gian).
Nhưng
khi thắng trận rồi lại
không
chú tâm vào
bổng lộc, không để
ý đến
cả ca khúc khải
hòan mà đi thẳng
lên trời
liền. Thực ra không cần
siêu thóat đến vậy
cũng
đã là an vi, nhưng
đây là mẫu mực nền
tảng
nên dùng lối văn
khoa đại. Truyện kể rằng sau khi
thắng
giặc An, Thánh
Dóng lên núi
Sóc Sơn ở
miền An Việt mà
hóa. Không
còn hình
ảnh nào đẹp hơn cho triết
lý an vi: làm tận
lực
mà không
màng công danh
nhưng đi lên
núi Sóc Sơn An
Việt. Cao thay An Việt,
đó
là núi
thánh của triết lý
An Vi. Truyện kể
tiếp “đó là
ngày mùng 9
tháng 4”.
Lại thêm một hình
ảnh tuyệt vời về An Vi nữa, tức
là lấy số 9 trời bao
quanh số 4 đất. Bánh trời
3
đã đủ để được đặt
trên bánh đất 4,
vậy mà ở
đây 3 còn phồng
lên tới 9 để bao 4 cho
trọn.
Đó
chính là tâm
linh sử quan hay triết lý
an vi cũng thế.
Chính
tinh thần an vi ấy đã
làm cho tổ tiên ta
thắng không kiêu,
bại
không nản. Hình ảnh
mới nhất của An Vi là
Nguyễn
Thái Học với câu
nói để đời:
“Không
thành công
thì thành
nhân”.
C.
THÂN MẪU
TÂM LINH
Nhân
vật sau cùng cần nhắc đến
là “Au Cơ Nghi Mẫu” người
đã gặp Bố Lạc trên
cánh đồng Tương.
Đó chính là
hình
ảnh của nét song
trùng, của hài
hòa, của
vài ba. Au Cơ Nghi Mẫu
chính là hiện
thân
của nguyên lý mẹ:
đem tình thương cốt nhục
ràng buộc mọi người trong
nước để tất cả coi nhau như
cùng một bọc, gọi nhau
bằng những danh xưng trong gia
đình: “bà con
cô bác”, đem
tình
yêu thương tương trợ thấm
nhuần mọi mối nhân
luân,
nhờ đó mà
tránh được sự đấu tranh
từ nền tảng.
Nói theo triết là
gạt bỏ được mầm mống cho mọi
thuyết nhị
kháng (dualism) đã
làm hư hại biết bao nền
đức
lý cũng như triết
lý, rồi tràn ra
xã hội
bên có bên
không, thế là xui
nên
bên chủ bên
nô, bên thống trị
bên bị trị
và ngày nay hiện
hình một cách thảm
khốc
vào hai khối tư sản
và cộng sản. Trái
lại dưới
bóng mẹ Au là tinh
thần hài hòa lưỡng
hợp,
tinh thần công thể tương
trợ, coi nhau như thân
nhân
phát xuất từ cùng
một bọc.
Hai chữ
đồng bào gây đầy
âm vang cụ thể vào
xã hội chứ không
chỉ
là lối nói
suông. Thí dụ trong
kinh tế
là bình sản, trong
nghệ thuật là nét
song
trùng, trong triết
lý là thế lưỡng
hợp… khiến cho
xã hội không
làm bằng tranh đấu
bóc lột
mà bằng cộng tác
tương thân. Đó gọi
là tâm linh sử
quan, được biểu thị bằng
cô
Liên trong truyện Trầu
Cau. Hai anh em đã biến
thể
thành cây cau
và hòn đá
coi như
không thể hòa lại,
vậy mà nhờ cô
Liên
biến thành dây trầu
không quấn quít lấy
cả
hai, nên mối tình
lại trở thành đỏ thắm. Đỏ
thắm
chính là
màu sắc tâm linh.
Cô
Liên là bóng
dáng nguyên
lý mẹ.
Bóng dáng
đó còn được biểu
hiệu dưới nhiều
tên khác từ Nữ Oa,
Vụ Tiên, Giáng
Tiên,
Tiên Dung trài qua
các Lê Thị, Phan
Thị, Trần
Thị cho tới Thiên Mụ,
Bà Đen, Bà
Chúa Xứ tức
nguyên lý mẹ vẫn
còn chờn vờn khắp nẻo non
sông để tiêm sức
sống mãnh liệt cho Văn
Lang
có được tinh thần thống
nhất làm bằng yêu
nước
thương nòi, nên dầu
trải qua hàng ngàn
năm
bắc thuộc vẫn chiến đấu cả trong
mặt trận văn hóa lẫn
quân
sự chính trị để duy
trì tinh thần Văn Lang
cao cả.
Có
nhìn chung lịch sử
nhân lọai ta mới nhận ra
sự cố gắng bảo tồn truyền thống
Văn Lang
quả là có
lý do sâu xa, bởi
vì Văn
Lang là một thành
tích lớn lao ít
có
trong xã hội lòai
người; ở các nơi
khác hầu
hết là thống trị với
nô lệ và bất
bình đẳng.
Đang khi Văn Lang là một
công thể mà mọi
thành viên vẫn được
hưởng tự do và
bình
đẳng. Đó chính
là lý tưởng của
biết bao
tâm hồn quảng đại
yêu thương mà những
người
đã thiết lập nên
các nền đức lý,
triết
thuyết, tôn giáo,
rồi cả các cuộc
cách mạng
lật đổ chính quyền đều
đã thiết tha mong mỏi, cố
gắng như
vậy, nhưng mãi tới nay
mới đạt được một phần nhỏ, thế
mà
Văn Lang quốc đã thực
hiện được một thời gian
dài tới ba
bốn ngàn năm thì
đủ biết tinh thần Văn Lang quốc
đáng quý biết bao.
Làm
thế nào mà được
như
thế? Câu thưa nằm trong
chỗ ba vị nói trên
đã
đặt tay ấn mạch trúng
các điểm then chốt
làm thăng
tiến con người. Hỏi đó
là những điểm nào?
Các
nhà cổ nhân học
đã nhận ra hai biến cố
làm cho con vượn người
trở
nên người đích
thực, con người khôn
sáng
(homo sapiens) đứng biệt lập ra
khỏi cái khối vượn người
đã xuất hiện trước
đây nhiều triệu năm,
và cứ tiến
dần, tiến dần cho đến lúc
cuối cùng cách
đây
lối trăm ngàn năm
thì con người khôn
sáng
mới tách hẳn ra khỏi khối
đó. Vậy hai yếu tố
kèm
theo biến cố quyết liệt
này là lao
tác và
tình nhà.
Với
hiện tượng thứ nhất là
lao
tác, con người vượt ra
khỏi tình trạng ăn sẵn để
đi sang
tình trạng ăn làm
với rất nhiều hệ quả kéo
theo.
Ăn sẵn thời hái lượm, săn
bắt. Vì thức ăn
không
có sẵn và nhất
là thất thường nên
con người
phải tiêu quá nhiều
năng lực vào việc kiếm
ăn,
không còn giờ dư
dành cho văn hóa
tinh thần.
Đã vậy lại còn
gây ra những cuộc tranh
dành
cướp đọat: mạnh lấn yếu…
Với ăn
làm trái lại con
người
bớt lệ thuộc vào
thiên nhiên
vì sản xuất được
nhiều đồ ăn không những đủ
cho việc định cư, khỏi lang
thang nay
đây mai đó, lại
còn dành ra được
nhiều
thì giờ rảnh rang để
có thể phát huy
óc
sáng tạo, phát
minh ra đồ dùng,
các
phép chăn nuôi,
làm nhà, dệt vải…
để
nâng cao đời sống con
người, cũng như phát huy
chiều
kích mỹ thuật, văn
hóa. Đó là
con đường đi
lên: từ ăn giập cướp đoạt
chuyển sang tự làm ra,
càng ngày
càng tinh xảo, nhờ vậy
thức ăn vừa
thêm nhiều vừa tinh tế hợp
khẩu vị. Một sự biến chuyển
rõ
rệt từ võ lực đi
lên tinh thần.
Điểm
hai là tình
nhà.
Đây
là điểm quan trọng
làm con người khác
thú vật. Nơi thú
vật
không có
tình nhà.
Không cả
tình mẫu tử nữa. Tuy con
mẹ có bảo vệ đòan
con
nhưng hòan tòan
vì sinh lý:
gà chăn
con đến lúc con tự
túc được thì liệu
hôn với
mẹ: đến gần sẽ bị mổ. Cá
chuối chăn con cũng vậy, lớn
lên
đủ sức tìm của nuôi
mà không trốn khỏi
mẹ
thì bị mẹ nuốt. Con vật
không có
tình,
không thể làm
nên được gia đình.
Cộng sản chủ
trương vô gia đình
là điều rất thuận lợi với
lý duy vật. Đã đặt
nền tảng trên duy vật
thì
sự trở lại lối sống của
lòai súc sinh
là lý
đương nhiên.
Trái
lại nơi con người tình
người kết thành
tình gia tộc rồi lớn
lên
thành thị tộc, rồi
dân tộc tức mối liên
hệ sinh
lý huyết thống được
phát huy thành mối
tình
nhân loại, vươn lên
đến đợt Đại Ngã tâm
linh
có tính chất bao
quát rất hiệu nghiệm nhờ
đó đã trờ
thành nền tảng mới cho sự
tổ hợp
xã hội. Thay vì
xây trên sức mạnh
đấu tranh
bóc lột thì nay
xây trên tình
người,
trên sự cộng tác
tương trợ. Thay vì coi
nhau như
sài lang theo kiểu
ác thú tranh mồi,
thì
nay coi nhau như” thân
nhân” giúp nhau
cùng
sống. Đây lại là
một bước tiến về tinh thần hơn
nữa: từ họ
hàng huyết thống đi đến
họ hàng thiêng
liêng
của nhân loại.
Trên
đây là hai yếu tố
mới
xuất hiện cùng với hiện
tượng người (phénomem
humain) gọi
là văn hóa. Thời
văn hóa này
kéo
dài cho tới lúc
con người bước vào văn
minh
cách đây lối mười
ngàn năm thì dần
dần thờ ơ
với hai yếu tố trên
nên không thiết lập
nổi triết
lý lao động, hoặc coi nhẹ
tình nhà vì
vậy
xã hội loài người
về mặt tinh thần lại lui về thời
vượn,
tức chỉ có sức mạnh
nên nảy sinh đấu tranh
giai cấp
và bóc lột lẫn
nhau.
Trái
lại ta thấy ở Văn Lang vẫn bảo
tồn được hai sự kiện trên.
Trướt hết là nhờ Lạc Long
Quân đã triệt
phá những trò quỷ
mị huyền
hoặc thường đưa con người tới
chỗ vong thân mà cụ
thể
là quên làm
ăn, quên tình
nhà
để hướng lòng lên
cõi lý giới mơ
mộng. Nhờ
vậy vua Hùng thay
vì hướng vào việc
xây dựng
quân đội để gây
chiến tranh chiếm nô lệ,
cướp
phá các bộ lạc
khác, thì ở
đây lại
hướng trọn lực lượng sản xuất
vào việc phụng sự con
người một
cách tích cực cụ
thể: bạt núi, húi
rừng, xẻ
sông làm xuất hiện
bà lúa, bà
nành, bà
dâu, bà đậu… để
làm cho đời
lên cao, đạt độ phong lưu
cũng như dẫn tới tinh thần
làm
việc đốc kính an vi; thay
vì xâm chiếm chiến
tranh,
thì ở đây là
những lễ hội đình
đám
tưng bừng kéo dài
cả hàng tháng.
Mẹ
Âu thì đem tinh
thần ruột
thịt nhuần thấm mối liên
hệ giữa người với người khiến
xã
hội thị tộc nguyên thuỷ
bước lên được xã
hội
nông thôn với tinh
thần công thể, nghĩa
là
tài sản quân
phân định kỳ mà
tình
người phát triển
thành ngũ luân, với
những đức
tính cao thượng của
nhân nghĩa liêm sỉ
làm
nội dung cho mối tình
huynh đệ phổ biến. Đó
là hậu
quả của sự việc đặt tay
đúng vào những
điểm làm
cho con người tiếp tục
trên thang nhân linh
hóa.
Trái
lại nếu bị đặt sai căn bản
thì sau khi đã
bước vào quy chế người
khôn
sáng một thời con người
lộn trở về với thời dã
thú
xưa như tranh cướp, ăn thịt lẫn
nhau, còn xã hội
thì tổ hợp theo lối
đoàn lũ hóa, tức
ràng
buộc bằng bạo tàn với
luật pháp khắt khe
mà
bên trong là sự
thiếu tình người
làm
tiêu tan hoặc công
bằng hoặc tự do, hoặc luôn
cả hai.
Vì thế một mặt con người
tiếp tục tiến lên
các bước
văn minh (hết nông nghiệp
thì đến kỹ nghệ rồi
công
nghệ, và đang lăm le bước
lên đợt cuối cùng
của con
người phong lưu), nhưng mặt
khác vẫn duy trì
cung
cách thú vật
là cướp đoạt, tranh mồi,
nên
văn minh thiếu nội dung người
hoặc nói gọn thì
văn minh
hiện nay là một nền văn
minh rừng rú.
Vì
thế Văn Lang quốc theo nghĩa
rộng
có thể gọi được là
một phép lạ vì
không đâu có
được tình người
thâm
sâu và bền bỉ đến
thế. Người ta quen gọi văn minh
Hy Lạp
là một phép lạ
nhưng đó là một
phép
lạ khác, vì
nó chuyên
chú vào
vật thể, còn Văn Lang
thì chú vào
nhân tính,
chú vào
tình người,
vào tinh thần tức
cái chi vi tế.
chính bởi thế
mà cho tới nay
không được các học
giả chú
ý.
Thế
nhưng tình trạng hiện nay
của
loài người lại đang
nghiêng ngửa vì
óc khoa
học đã vượt quá xa
tình người, nên
cung
cách tranh mồi kiểu
dã thú, cũng như
lối tổ hợp
kiểu đoàn vật càng
ngày càng lan xa
đến độ
đe dọa an ninh loàin
người, thì tinh thần Văn
Lang quốc
rất đáng được
nghiên cứu một cách
thâm
sâu hơn cũng như rộng hơn.
Quyển Sứ Điệp tiếp theo sẽ nhằm
đóng góp
vào hướng
đó.
|
|
|