VIII.TỔNG LUẬN AN VI
1. An Vi là nền triết
lý mới nhất được đề nghị với thế giới hiện đại coi như xứng hợp
để dẫn đến cảnh phong lưu, một cảnh sẽ trái ngược với mối đe dọa
loài người hiện nay là nạn cơ tâm: tâm hồn
trở nên khô cạn như cơ khí. Trang Tử có lần
nói: "cơ tâm là do hữu cơ khí".
Làm thế nào để "hữu cơ khí mà không
bị cơ tâm". Có làm được như thế mới đạt lý
tưởng là mưu hạnh phúc cho toàn cầu: đưa
nhân loại đến thời phong lưu nhàn tản, để phát
triển những khả thể cao siêu nơi con người. Đó là
vấn đề mà triết học nhân loại đã cố giải quyết
nhưng chưa thành tựu. Ta hãy phân tích
tình hình để rút kinh nghiệm.
2. Trước hết hãy xét các
thuyết lý lấy hạnh phúc đời này làm cứu
cánh cuộc sống có chấp nhận được chăng. Thưa rằng
có, đó là con đường mọi người đều theo cách
bền bỉ, mặc dù những người đi lối thanh giáo khắc khổ coi
như chống lại. Kỳ thực chỉ chống trong phương thức do sự đặt hạnh
phúc ở đời này hay đời sau, chứ kỳ thực cũng là
theo đuổi hạnh phúc, chỉ khác là họ không
đặt ở thế giới hiện tại, nên dùng phương pháp coi
như chống lại hạnh phúc thí dụ cách sống khổ hạnh,
cực nhọc... Kỳ thực đó chỉ la phương tiện để tìm hạnh
phúc cao hơn theo niềm tin càng khổ cực bao nhiêu
lại càng tỏ ra say xưa thành khẩn đi tìm hạnh
phúc bấy nhiêu, chịu cực là để chắc đạt hạnh
phúc hơn, và để đạt hạnh phúc một cách
lâu bền toàn triệt. Như vậy ta có thể coi hạnh
phúc là cứu cánh cuộc đời này; đối với
những người muốn đạt hạnh phúc ở đời sau cũng không cần
thay đổi lập trường vì có thể cho rằng tìm hạnh
phúc ở đời này chính là điều kiện cho được
hạnh phúc đời sau. Đời này có hạnh đời sau mới
phúc.
3. Nên ta có thể dùng hạnh phúc
đời này làm tiêu chuẩn vững chắc hơn cả: vì
gồm cả chân, thiện, mỹ. Ngược với tiêu chuẩn y cứ
vào một mặt thí dụ chân hoặc mỹ: những tiêu
chuẩn này tỏ ra không đủ tầm bao quát vì
chân lý là gì? Các triết gia
đã tranh luận hằng bao thế kỷ chưa ngã ngũ. Ngạn ngữ
nói cái bên này núi cho là
thật thì bên kia lại cho là giả. Vì con
người bị trói vào một quan điểm: chỉ thấy được một chiều
của sự vật làm sao có được sự thật toàn triệt để
đem ra làm tiêu chuẩn phổ biến. Chỉ như hạnh phúc
thì mọi người trực cảm nghiệm được: nó hiện hình
ngay ra trước mắt ai cũng có thể thấy phần nào. Vậy phải
lấy hạnh phúc làm cứu cánh cuộc đời này,
lấy trọn vẹn đến nỗi hạnh phúc trở nên tiêu chuẩn đo
lường mọi giá trị. Nó không có tính
cách phổ biến vì hạnh phúc mỗi người một
khác, nhưng nó trung trực thiết cận ngay vào
thân tâm con người ở đây và bây giờ
nên rất cụ thể. Con người trong cõi hiện tượng không
thể cầu hơn được nữa.
4. Bàn luận xong về cứu cánh và
tiêu chuẩn, bây giờ phải quyết định phương thức hành
động sao cho đạt tới. Hành động cao nhất Việt Nho gọi là
đốc hành. Phân tích đến cùng cực cách
hành xử của con người ta thấy nó qui ra ba hạng
tùy với sự đối đãi của chủ thể và đối tượng.
Khi đối tượng đoạt chủ thể ta hãy gọi
là hữu vi
Chủ thể đoạt đối tượng là vô vi
Chủ thể và đối tượng hòa hài
là an vi.
Đối tượng đoạt chủ thể xảy ra như câu
nói trên của Trang Tử: "Hữu cơ khí tất hữu cơ
tâm" = có cơ khí tất có cơ tâm hay
là khi con người dùng nhiều máy móc
thì tâm hồn tất bị cơ khí hóa, bị máy
móc hóa tróc hết tình người. Tâm hồn
không giữ được tính thể riêng của nó nữa
mà bị sát nhập vào đối tượng, gọi là
đối-tượng-hóa (objectivation) hay vật thể hóa
(thingification). Duy vật là một hình thái của sự
vật thể hóa này, người ta không nhận ra được
vì trong trạng thái đó con người vẫn giữ được phần
tiểu ngã như ai, không ngờ rằng thú vật nào
cũng có bấy nhiêu: cũng ăn uống cũng làm
tình... nhưng phần Đại Ngã là phần riêng
biệt của con người thì không còn, như tâm
tình cao thượng, lòng yêu thương khắp hết, sự
quí chuộng chân, thiện, mỹ; không còn nữa
những cố gắng vươn lên miền cao cả. Tất cả không
còn, từ sự vật, thú vật đến con người chỉ khác
nhau về hơn kém chứ không còn cái đặc trưng
gọi là linh thiêng nữa. Tai họa như thế kể là
toàn triệt: con người bị vong thân giữa đám sự vật.
5. Tai họa này nói chung Âu
Tây đã đi vào tự đầu kể từ Thales chủ trương bản
thể cuối cùng của vạn vật là nước hay Democrites với
thuyết nguyên tử...trải dài qua Plato, Kant, Hegel; đều
kinh doanh trên sự vật, học về tượng ý của sự vật. Tuy
có nhiều lần phản đối, cựa quạy nhưng không thoát
được, vẫn sấp một chiều dưới sức nặng của ý hệ. Ficht đã
đưa ra một duy tâm luận giống lạ lùng với thuyết của
Shankara, Schopenhauer thì hầu như hội nhập toàn bộ
thuyết lý của Phật, của các kinh áo nghĩa thư
giống như tổng hợp Vedanta, còn Nietzsche cuối đời đã bị
ám ảnh bởi ý niệm "sự trở lại vĩnh cửu" (eternel
recurence). Đó chẳng qua là một dị-bản của thuyết
luân hồi. Tất cả những cố gắng này thực ra chỉ là
những bắt tay với hàng xóm theo định lý hai
thái cực (hữu, vô) ở liền ngõ nhau nên
đôi khi bắt tay nhau , và nhờ sự mới lạ nên
đã gây được ít nhiều chú ý nhưng cuối
cùng cũng chỉ vang bóng một thời vì sự mới lạ của
nó, nhưng rồi cũng xẹp xuống như tại nơi xuất xứ. Ta hãy
xét tận gốc của chúng là Ấn Độ quê hương của
thuyết vô vi.
6. Để phản pháo lại hữu vi thì
vô vi nhận thái độ quay lưng lại đời. Họ chủ trương
rằng muốn tâm không bị cơ khí thì đừng
thâu dụng cơ khí, cho chắc ăn nên li lìa thế
giới đối tượng gọi là "tị thế" như Lão Trang chủ trương.
Nhưng Lão Trang chỉ là hai cánh
nhạn lẻ loi ở cõi trời Đông, còn chính ổ của
vô vi là Ấn Độ. Ấn Độ không còn thèm
trốn sự vật nữa mà chối tuột là không có.
Vạn vật đang phơi mình quanh ta chỉ là ảo ảnh, là
maya "tuồng ảo hóa đã bầy ra đó" khỏi cần để
tâm, khỏi cần trốn, có gì đâu để mà
phải trốn, trốn đi đâu, vì đâu cũng là ảo
hóa. Cả tấm thân này nữa trốn cái chi. Thế
là hết: không còn chủ thể lẫn đối tượng, khỏi lo
gì về tai họa bị đối tượng hóa.
7. Thành công chăng? Thưa đó chỉ
là những suy tưởng chủ quan không xóa bỏ nổi đối
tượng, nên vẫn bị như thường, kiểu đà điểu vùi đầu
vào cát để khỏi thấy người săn, nhưng thợ săn càng
dễ bắt. Chứng cớ là các Tăng Lữ Brahmana đã trở
nên những người làm giàu mạnh nhất: không từ
chối cả những phương tiện phi nhân: thí dụ tục bắt
các bà góa phải lên giàn hỏa chết
theo chồng được Tăng Lữ cổ võ duy trì thành khẩn,
vì sau khi các bà chết, của cải đương nhiên
thuộc về các Brahman (tên gọi Tăng Lữ của thần Brahma).
8. Do thế mà tài sản bị thu dồn vào đẳng cấp Tăng
Lữ quá nhiều gây nên sự chênh lệch lớn lao,
đưa đại chúng vào cảnh khổ cực. Đến nỗi các cuộc
chống đối Brahman cũng mang hơi hướng kinh tế, chẳng hạn kinh Upanishad
Chandogya ví các cuộc kiệu của Tăng Lữ đương thời với
đoàn chó cắn đuôi nhau sủa om om (om là
tiếng thánh của đạo Bà La Môn). "Om chúng ta
hãy ăn! Om chúng ta hãy uống!" Luật phép
đã được Balamon đặt ra nên rất có lợi cho
các Tăng Lữ: thí dụ nếu giết Tăng Lữ thì phải chết
vì đó mới chính là tội giết người,
còn giết các đảng cấp dưới chỉ phải đền bằng bò:
giết Sudra đền 10 bò, giết Vaysia 100 bò, Kshatriya 1000
bò, nhưng không phải đền cho nạn nhân mà
dâng cho Brahman. Trách gì Tăng Lữ không
giàu sụ và bị chống đối. Người chống đối Balamon hơn hết
là Phật Thích Ca đã được tiếng là đập tan
hai triệu thần của Bà La Môn. Trong thực tế Phật cực
kỳ khinh thị các sãi Bà La Môn và
đã làm cho đạo Bà La Môn lu mờ hẳn.
Mãi đến thời Shankara mới phục hồi lại được bằng cách hội
nhập Phật vào Bà La Môn giáo, tuyên
dương Phật là một hiện thân (avatar) của thần Brahma, cũng
như chấp nhận nhiều giá trị mới của Phật tức là
rút tỉa hết giá trị của Phật; kết quả là Phật
giáo trở nên lu mờ hẳn trên đất Ấn Độ. Ngày
nay chỉ còn không đáng kể. Xem bao quát lịch
sử Ấn ta thấy Bà La Môn đàn áp con người
đã vậy, mà cả đến những người cố gắng vươn lên như
Shankara cũng không để ý giải thoát người dân
Ấn Độ. Đủ thấy rằng vô vi cũng thất bại như hữu vi, có
phần hơn là khác. Vì hữu vi đã đi
vào cơ khí tuy có hữu cơ tâm, nhưng cơ
khí giải thoát con người được bước sinh. Chỉ còn
tìm ra triết nào giúp cho dẫu hữu cơ khí
mà không hữu cơ tâm. Có chăng? Thưa đó
phải là An Vi.
9. An Vi hòa giải chủ thể với đối tượng
cách ổn hơn hết. Vì thế nói đến An Vi ai mà
chẳng ưng. Thế nhưng nói dễ làm khó. Khó
đến nỗi không nói lên được "lời ràng buộc".
Vì thế ở đợt triệt cùng này thì cần xoay
ngược câu "nói dễ làm khó" thành
"nói khó làm dễ". Sau đây là những
lời nói cần thiết để làm nên triết lý An Vi,
có xét qua ta mới thấy khó vô cùng
đến độ biết bao đời triết mà chưa nói lên
nổi.
10. Lời nói khó thứ nhất: người
là gì? Hầu hết câu thưa đã đánh mất
tính thể con người, chỉ còn lại có "con vật biết
suy lý", "con vật kinh tế", "con vật hợp quần". Tất cả đều
đánh mất chiều kích vô biên làm nền
tảng tinh cốt của con người Đại Ngã, nên bị sự vật
đàn áp dễ dàng. Vì thế An Vi chính
hiệu đưa ra một con người cực kỳ to lớn, to đến nỗi đặt ngang
hàng cùng trời đất, hàm ý rằng trời đất
có vô biên đi nữa cũng khộng đàn áp
được ta vì:
"Ta cùng Trời Đất ba ngôi sánh,
Trời Đất Ta đây đủ hóa công."
Ta cũng "đội Trời đạp Đất ở đời
Làm nên động Địa kinh Thiên
đùng đùng"
Như vậy về to lớn địa vị vững rồi, khỏi lo vong
thân, có đáng lo là bị trách phạm
thượng, hay ngông, hoặc không tưởng. Nhưng trách
mà chi: đó chẳng qua là thuật tâm lý
chiến, nói già dặn để tránh khỏi bị nuốt
trôi mà.
11. Bây giờ ta hãy xem đến yếu
tính của con người Đại Ngã, có mạnh chăng hay yếu
xèo. Nếu yếu thì có to như Trời Đất cũng bằng nằm
phơi xác ra đó cho Trời Đất giày. Phải vậy chăng?
Thưa không phải chút nào hết. Trái lại yếu
tính con người là động tác, là hành,
là ngũ hành; con người bị dị chứng với thụ động
tính (man is allergic to passivity) nghĩa là con người
sống được là do "có làm" là do "không
thể không làm được", y như thời gian không thể ngừng
nghỉ. Con người cũng vậy, vì con người làm nên bởi
chữ thời, cũng cùng một yếu tính như thời gian. Thời gian
không hề ngưng chạy, con người cũng vậy, không thể ngừng
nghỉ, luôn luôn phải là tác hành,
tác hành cùng cực. Thời là Trời, là
thiên "hành kiện" quân tử cũng phải
hành kiện theo đó: "thiên hành kiện
quân tử dĩ tự cường bất tức"
12. Nhân sinh muốn tác hành
cùng cực tất nhiên vũ trụ phải năng động. Vũ trụ quan
ví như cái đồ đựng con người: nó in dạng thức
nó lên con người trọn vẹn đến nỗi tục ngữ nói được
là "ở bầu thì tròn ở ống thì dài"
tức vũ trụ quan in bản chất nó lên con người: vũ trụ tĩnh
con người cũng tĩnh, cũng thụ động. Đó là trường hợp của
con người theo quan niệm hữu vi, vì vũ trụ quan của nó
tĩnh chỉ nên con người cũng tĩnh chỉ ù lì, thụ động
trước định mệnh, như con người Âu Châu đã bị thế,
xuyên qua dòng sử mệnh của họ: luôn luôn nằm
dưới ách định mệnh moira. Cho đến nay tuy vẫy vùng tưởng
là thoát, kỳ thực lại bị ông Địa đè cổ,
nhưng nói kiểu văn hoa để che đậy rằng "hạ tầng kinh tế chỉ huy
thượng tầng văn hóa". Hèn chi mà văn hóa
đó "thù nghịch với sự động" để nói theo Nietzsche:
người sao chiêm bao làm vậy: người mà yếu
xìu thì văn hóa, sản phẩm của người cũng yếu
xìu, như quả thật quan niệm con người trong triết cổ điển. Ấy
cũng vì thụ động tính mà con người bị sự vật
nó cơ khí hóa (đây là nói theo
triết, chứ còn người Âu Tây rất hoạt động, nhưng
hoạt động theo lương tri chứ không theo triết, ít ra triết
học ở nhà trường)
13. Vậy muốn có và duy trì được
hoạt động tính, con người tất phải được "đựng" ở trong vũ trụ
quan động; động giữa âm dương, sáng tối, cứng mềm, nam nữ,
lớn nhỏ, có không để dệt lên tấm vải tương quan đặng
làm môi trường hoạt động cho con người. Đó
là bí quyết thành công của An vi: nó
ở tại đặt trên tương quan mà không trên sự
vật. Như cơ cấu luận nay đã hé thấy điều đó
và đang cố gắng đi tới việc đặt nặng trên tương quan
mà không trên hai hạn từ là năng hay sở,
tâm hay vật. Chưa biết có thành công hay
chăng. Vì tuy đó là cơ cấu nhưng quá nhiều
chất lý trí, chưa phải là cơ cấu thực thụ,
ít ra cơ cấu chính tông. Vậy ta hãy đi về
với cơ cấu tổ của An Vi để xem cái chất chính tông
của nó.
14. Đến đây mới thấy hiện lên bí
mật của ngũ hành mà xưa rầy người ta quen dùng
theo nghĩa ma thuật không phải theo nghĩa cơ cấu. Theo nghĩa cơ
cấu thì "ngũ hành" chính là hành
hướng về với ngũ tức là về chỗ "không có gì"
(có thể dịch là "to be") nên hành ngũ gọi
là "hành vô địa, hành vô hành".
Hành vô địa là không có phương,
hành vô hành la không có mùa
mà là hành vô biên bên
ngoài phạm trù thời gian và không gian
bé nhỏ : nó vô biên trong không gian,
vô cùng trong thời gian. Đấy mới là trường hoạt
động của triết lý an Vi cũng là của Con Người viết hoa
tức chính là yếu tính Con Người. Con người cần
được nuôi dưỡng bằng cái trống không vì
đó mới thực là nền tảng của Tinh Thần, được Kinh Dịch
định nghĩa cách tuyệt vời là "thần vô phương". Xem
vào cơ cấu ngũ hành sẽ thấy rõ.
Thủy
Kim
-
Thổ
-
Mộc
Hỏa
Thủy Hỏa ở hai cực trên dưới đối đãi nhau
thì tương quan là Thổ.
Kim Mộc ở hai cực phải trái đối đáp
nhau: tương quan cũng là Thổ.
15. Vậy mà Thổ là chính Con
Người ngự giữa Thủy Hỏa (trời đất) cũng như ở giữa Kim Mộc (vạn vật)
nên nói Người là đầu ngũ hành (là
nõn là tinh túy ngũ hành) hoặc nói
theo cơ cấu thì Con Người là hành Thổ. Kinh Dịch
nói "an Thổ đôn hồ nhân" là nói
lên tác động căn bản của Con Người: Con Người phải hướng
vào mối Tương Quan to lớn nhất giữa Trời với Đất là
Người. Đó là kiểu nói của cơ cấu, nói
thường là "tồn tâm dưỡng tính", nói theo cơ
cấu là "An Thổ". Điều đó kéo theo hai hệ luận,
một: yếu tính con người nằm trong chỗ vô hình. Cho
nên đường lên cá tính phải đi theo lối rời
"to have" tới "to be" nói đơn sơ là từ to tới nhỏ. Khi đi
đến chỗ cùng cực thì chạm vào cõi vô
biên. Vậy nên làm những cái nhỏ, những
cái "vô dụng" cũng chính là đường lên
tinh thần.
16. Do đó đường lên cá
tính đi ngược kim đồng hồ. Việt Nho gọi là đường trời hay
hình nhi thượng với ý nghĩa tìm về với cái
bé nhỏ, cái phẩm, đó là đường ngược với lối
đi xuôi gọi là hữu nhậm là hình nhi hạ hay
đường đất cụ thể là tìm về cái to lớn, cái
gì có khối lượng, như nghệ thuật đồ sộ, những đền điện
khổng lồ vượt tầm mức con người gây cho người xem cảm tưởng bị
đè bẹp. Tai nạn đó xảy ra do cái đói khối
lượng (gọi là tham). Đó là tại đi theo hữu nhậm
là đường về địa hay vật chất. Đó là lý do
giải nghĩa tại sao Đông phương coi trọng nghệ thuật vi tế,
chuyên về những nghệ thuật bé nhỏ như ngọc thạch,
cái dù, bộ chén, đồ chơi, cái quạt, những
tranh sơn mài chạm trổ công phu. Càng nhỏ và
càng lẫn vào cuộc sống càng hay. Đó
không là những sự chơi suông vô ích,
mà chính là con đường dẫn đi xa khỏi vật chất để
đưa gần đến tinh thần. Vì thế ở miền Việt Nho hầu như
không ai lưu danh hậu thế vì tài kiến trúc
chạm trổ, nhưng lại có cả hàng trăm hàng
ngàn người lưu danh trong hội họa, thi ca ... tức cố đi
đến lý tưởng là "sống ở đời như thi sĩ" (Molderlin) tức
sống gần tinh thần theo nghĩa sẵn sàng bỏ miền "to have" để đi
sang miền "to be", mà cụ thể là trọng nghĩa khinh
tài. Tinh thần biểu lộ cách cụ thể là vậy: đi tự
to tới nhỏ. Sự vật càng nhỏ, càng vô dụng, con
người càng dễ dàng buông thoát, không
bám sát vào của cải, lòng sẽ sẵn
sàng chịu phân chia tài sản. Mà đó
là điểm then chốt để con người tiến vào giai đoạn phong
lưu, giai đoạn coi người trọng hơn của, lấy những đức tính cao
cả, những tình người nồng hậu làm quí nhất ở đời.
17. Bởi vậy để tâm vào những việc
vô vị lợi chính là con đường dẫn đến chỗ làm
chủ đối tượng. Làm chủ mà không chối bỏ _n_e__n_
_c_o_n_ _n_g_ư_ơ__i_ _c_h_i_e__m_ _b_a_,_ _v_a__t_ _c_h_i_e__m_
_h_a_i_,_ _n_o__i_ _b_o__n_g_ _l_a__ _b_a__n_h_ _g_i_a__y_ _b_a__n_h_
_c_h_ư_n_g_,_ _t_h_i_e__n_ _v_i_e__n_ _đ_ị_a_ _p_h_ư_ơ_n_g_._ _N_e__u_
_t_a_ _v_e__ _t_h_e__ _b_a__n_g_ _v_o__n_g_ _t_r_o__n_ _mð,_
_t_ư_ơ__n_g_ _b_a__n_g_ _h_ì_n_h_ _v_u_o__n_g_ _oð
_t_h_ì_ _t_h_e__ _t_ư_ơ__n_g_ _g_i_a__n_ _h_o__a_ _s_e__
_đ_ư_ơ__c_ _v_e__ _l_a__ _t_r_o__n_ _b_a_o_ _v_u_o__n_g_ _mð,_
_n_o__i_ _k_h_a__c_ _l_a__ _v_uông mà tròn,
tròn mà vuông. Đó là điều triết học
lý niệm không thể tưởng tượng, đã tròn
thôi vuông, đã vuông thôi tròn,
không sao vẽ được cái vòng vuông. Căn do sự
bất lực nọ phải tìm trong câu định nghĩa con người
bé nhỏ, trong vụ tôn thờ lượng chất lớn lao, trong vũ trụ
quan tĩnh. Đấy là căn do gây nên sự đổ vỡ của văn
hóa một chiều hoặc tròn hoặc vuông. Trái với
tròn ôm vuông cân đối, nó lâu bền
như trời cùng đất vậy.
18. Như vậy sự giữ được cả tròn lẫn vuông, tức pha độ sao
cho đúng quả là một nghệ thuật tối cao. Huyền sử
nói là Lạc Long Quân (tổ Việt) "đóng
đô ở Nghệ An xứ" là có ý nói người
là NGHỆ TỔ viết hoa tức đã đạt được nghệ thuật thượng
thừa ở tại nối trời với đất, trời cao đất thấp mà nối lại được
quả là trác việt. Chữ nghệ cổ xưa thành bởi hai
nét ngược chiều: một nét phảy, một nét mác
Nét phảy tiến theo kim đồng hồ
có thể chỉ triết hữu vi mà tượng trưng là chử vạn
Đức Quốc Xã chỉ "extraverti" hướng ngoại.
Nét mác tiến ngược
kim đồng hồ có thể chỉ triết vô vi mà tượng trưng
là chữ vãn "intraverti" hướng nội.
Triết Việt lồng cả hai thành chữ nghệ
với hai nét ngược chiều giao nhau.
19. Còn thực tế là khi đọc triết hữu
vi ta thấy nó bàn về các cái thực tế như
lửa, nước, nguyên tử, hoặc về kinh tế, chính trị, khoa
học, máy móc, hoặc về ý niệm sự hữu "ontology". Ta
có cảm tưởng sự kiện được kết cấu chồng lên cao ngất như
tháp Eiffel hết sức đồ sộ nguy nga, bụng bảo dạ rằng thế mới
là triết, triết phải hệ thống hóa như vậy mới ra hồn.
Nhưng chỉ ít lâu sau ta thấy như có cái
gì bất an: trước thấy như giá lạnh và ngộp thở,
rồi sau cảm tưởng như bị tù túng không có
lối thoát. Thực tế là cảm tưởng tù túng
biến ra một thứ xiềng xích để xích hồn vào sự phục
vụ cho chuyên chế. Nói kiểu trừu tượng là con người
bị nô lệ cho sự vật, cho vũ trụ... lúc ấy ta mới hiểu tại
sao bao điều hay trong Plato, Kant, Hegel không được áp
dụng mà chỉ có những điều tai hại được họ tung hô
như thần thánh hóa chính quyền là được thực
thi.
20. Đến khi đọc sang triết Ấn Độ thoạt tiên ta
cảm thấy cái gì như thanh thoát cao xa, quả như
học giả Âu Mỹ xưa đã gọi là cảnh tiên
siêu hình. Lúc ấy ta coi thường triết Tây
vì quá hữu vi, còn triết Việt Nho không
đáng nhắc đến nữa vì không hiện ra hình
hài như hệ thống hay những suy luận cao vút tận ngọn
Meru, mà chỉ là những câu cụt ngủn bò
lè tè trên mặt đất. Nhưng qua một hai năm
trên triết Ấn ta thấy như mình mất chân đứng
trên đất, cảm thấy đúng là bị dẫn ra khỏi vũ trụ
con người. Không còn gì về vũ trụ, ta cảm thấy
mình rơi vào chốn trầm không u tịch (acosmic
unsconciousness) không còn biết trời đâu đất
đâu nữa. Cái gì cũng bị chối, để rồi có
lúc lại quyết. Quyết rồi lại chối khiến ta phải quay cuồng
chóng mặt trong các rừng kinh sách muôn
trùng giằng co giữa có với không. Ít nhất
có thể nói nó khó hợp với văn hóa
của Việt, nếu không được biến đổi sâu rộng.
21. Lúc ấy ta thấy bó buộc trở về với
"ao nhà". Thoạt đầu thấy quả là ao đục, nông sờ,
toàn nói những truyện quá thông thường tề
gia, trị quốc, tu thân .. rồi cũng kinh tế, chính trị,
xã hội như Tây Âu nhưng kém hơn ở chỗ
nó lộn xộn rời rạc, không hệ thống gì cả,
toàn là bã mía, là hủ học. Nhưng đột
nhiên trong mớ hủ học đó có lẫn vài lời chỉ
dẫn lên đường tố nguyên, nó thúc ta phải gạt
sang bên tất cả để lần về cội gốc. Lúc ấy và chỉ
lúc ấy thôi ta mới cảm thấy triết Việt có
cái chi khác hai bên Âu Ấn, đồng thời cũng
giống hai bên: nếu áp dụng bộ số "vài ba tham
lưỡng" là ba trời hai đất ta liền nắm được chỗ dị biệt của Việt
Nho. Nó có giống mà cũng có khác:
giống hữu vi vì cùng ở trên đất, cũng làm
việc, nhưng thay vì để lòng vào đó tới 4
thì Việt để vào có 2, còn 3 thì để
lên siêu tượng gọi là tâm linh, nên lại
giống với Ấn. Ấn để lên siêu hình cả 5, chẳng
còn chi cho thực tại, thành ra coi tất cả là maya,
là huyền ảo. Theo ba chữ thông dụng ở Việt Nho thì:
Nhập thế cho hữu vi
Xuất thế cho vô vi
Xử thế cho An Vi.
22. Hữu vi đặt nặng trên vật thể, đúng
hơn trên ý niệm của vật thể. Vô vi đặt nặng
trên chủ thể (tâm) trên thái hư, nên tị
thế, không làm. An Vi đặt nặng trên chữ tác
thành. Cũng tác hành như Tây Âu nhưng
không đi đến lao tác, lao động, bó sát đối
tượng, làm đến không còn được ngẩng mặt lên,
đánh mất chữ tiết trong việc làm, nó ở tại một
nhịp vào một nhịp ra: một làm một chơi. Hầu hết
các triết lý lao động hiện nay đều bệnh hoạn vì
thiếu tiết nhịp, chúng xuất hiện do phản đối sự không
làm của triết học xưa xây trên ý, dừng lại ở
từ, không xuống đến dụng, đến việc, coi việc là
hèn. Vì vậy ngày nay mới hô làm,
làm trối chết. Vô vi là không làm.
Đã quan niệm tất cả là hư vô, là ảo
hóa thì còn chi để mà làm. Thế nhưng
không làm sống được chăng? Thế là phải có
nô lệ để nó "làm". Chung cuộc cũng như hữu vi chỉ
có nô lệ gánh chịu hậu quả quá đáng
của triết: dẫn đến kết luận là không có chi,
nên không có làm, hoặc coi việc là
hèn hạ dành cho tôi tớ. Cả hai không đặt nền
tảng cho triết lý tác hành. Không đề cao lao
động. Cả hai đều có chế độ nô lệ để chúng
làm.
23. An Vi đứng giữa coi việc làm như thành tố cấu tạo
nên con người: con người được định nghĩa là tác
năng, như vậy làm việc không còn là
cái gì tùy phụ, mà chính là
thuộc bản tính con người, vì thế mà có
làm. Có làm mới hợp bản tính con người
nhưng con người gồm hai đợt (lưỡng thê = amphibious) nên
làm cũng phải có hai nhịp một làm một nghỉ (chơi).
Làm cho tiểu ngã chiếm 2, chơi cho Đại Ngã chiếm
3. Tác hành cũng có hai đợt như vậy (2+3) gọi
là ngũ hành, hoặc gọi là An Vi. Vi chiếm 2 An
chiếm 3. Cụ thể là có làm mà cũng có
chơi. Chơi cũng là làm theo ý niệm làm được
mở rộng có cả chơi. Như vậy chơi được hiểu theo nghĩa
tích cực là để phát triển khả năng vô
biên của con người. Hiểu theo đó thì chơi mới
chính là phần cốt trong việc làm người. Vì
Người là linh, linh là thần. Vậy chơi là hiện thực
chiều kích thần linh nơi con người mà diễn tiến có
thể tóm tắt như sau: "Chơi là ngơi ra khỏi những
việc ích dụng gắn liền với sự sống còn, để đưa xa
dần khỏi sự vật (ích dụng gắn liền với vật chất, với địa ta
nói địa lợi) để bay lên Tinh Thần." Tinh Thần hiểu như vậy
nó không có xa đâu : nó gắn liền ngay
trong đời sống, nó tô điểm, nó làm đẹp đời
sống, làm cho đời sống lên hương. Đời lên hương
chính là Tinh Thần : Tất cả những thứ đó từ nghệ
thuật, văn hóa, khoa học đều gọi được là chơi: "Chơi
nhiều là lãi đấy" không thèm lãi tiền
lãi bạc mà lãi được thần linh. Cuộc đời thiếu chơi
là cuộc đời lỗ vốn. Một nước no ăn đủ mặc, nhưng không ai
có được chút giờ nhàn rỗi để sống cho mình
thì văn minh đó còn lỗ vốn.
24. Người lãi tối đa là Đấng Tạo
Hóa bởi Tạo Hóa chơi nhiều hơn ai hết. Kinh Thánh
Ki-Tô Giáo nói : "Bay hãy nên trọn
lành như cha bay ở trên trời". Triết Đông quan niệm
"cha trên trời" như "hóa nhi đa hí lộng". Bản
tính hóa công là đa hí đa lộng,
là chơi giỡn nô đùa, đời đời kiếp kiếp cũng chỉ
có chơi giỡn. Cả vũ trụ càn khôn cũng chỉ là
một trò hí lộng của hóa công. Con người
là những hóa công nhỏ cũng phải bắt chước Đại
Hóa Công mà hí lộng mà chơi nhiều để
được lãi nhiều. Ở đời chẳng có gì đáng
trịnh trọng quá đáng, hãy để sự trịnh trọng
vào hết cuộc chơi, sống đến độ như chơi, chơi mạnh là
sống mạnh. Đừng thờ một lý tưởng nào. Thờ là tuyệt
đối hóa. Chính những lý tưởng được tuyệt đối
hóa đã giết người nhiều nhất, giết tận tình, giết
tàn nhẫn, vì nghĩ là giết cho lý tưởng
nên vô tội. Chính những lý tưởng nọ biến đời
thành u buồn, thành bể khổ. Đừng tin chúng
mà lỗ vốn. Hãy ca lên, hãy mắc cánh
chim hồng hộc vào để bay cao, cao vút đặng cùng
với muôn loài trong đất trời đồng múa bản
"nghê thường vũ y khúc"
25. Đấy là hậu quả của sự xếp đặt giữa xuất
nhập, giữa có không, giữa vạn vãn, nó
giúp con người sống được cuộc sống như chơi: thanh thoát
nhẹ nhàng không bám vào cái chi cả;
có mà như không, không mà lại
có. Cái đó không phải muốn mà được.
Muốn được trước hết phải nắm vững những nguyên lý đặc biệt
về vũ trụ và nhân sinh (như đã bàn về
âm dương Tam tài, Ngũ hành). Muốn cho những
nguyên lý đó thấu nhập vào tâm can con
cháu, các hiền triết đã đưa ra vô số định
chế, thói tục, phương ngôn. Nói khác trong
sách có bàn dài về những điều đó,
thí dụ bài "Quốc túy với ngày Tết"
nói lên việc xử dụng thời gian. Bài "Đường cong
duyên dáng": không tròn không
vuông có thể coi là biểu tượng cho muôn
vàn những động ứng tế vi khác. Chúng làm
nên lối ở riêng biệt gọi là lối ở đời: không
xuất thế, cũng không nhập thế, mà là xử thế.
Đó chỉ là mấy bài mẫu, còn nhiều vô
số như có thể đọc trong toàn bộ Việt Nho.
26. Tất cả đều hợp nhau để trình bày
nền triết lý An Vi, thứ triết đã sản xuất ra bao người
thanh thoát, tuy chưa hoàn bị nhưng trong nguyên
lý đã vượt cả hữu vi lẫn vô vi. Vượt hữu vi
đã đành rồi vì lấy tư sản làm thiêng
liêng nên phân chia ra không đồng đều, giam
phần lớn con người lại cảnh nô lệ, chuyên chế. Mặc dầu
tài sản dồi dào vượt xa những xã hội Việt Nho xưa
nhưng chưa đi đến được đợt phong lưu. Đến như vô vi của cải vẫn
dồn vào mấy nơi to tiếng giảng khuyên, đến nỗi khi một
tâm hồn nào muốn vươn lên chỗ cao cả đều phải bắt
đầu bằng một cuộc khởi loạn với nền văn hóa đã được thiết
định, như đã nói về Upanishad, Phật Thích Ca hay
cả những người mới đây như Tagore, Gandhi, Ramakrishna. Tất cả
đều chống chế độ đảng cấp, thiêu sống đàn bà, chối
bỏ thần Brahma, một thứ thần minh được "sáng tạo" hợp với
óc thâu đoạt của người thống trị, khác hẳn
cách mạng bên Việt Nho: chỉ chống lạm dụng, gọi là
vô đạo, còn chính đạo không hề dám
nghĩ đến chối bỏ, trái lại là tuyên dương 'thế
thiên hành đạo"
27. Đó là đại để về triết lý An Vi, một nền triết
lý rất lâu bền vững mạnh đã làm nảy sinh
những hậu quả ơn ích có thể kiểm chứng được cách
rất rõ ràng khách quan. Vậy đó phải
là nền triết cho thế giới hiện nay, một thế giới đang ngất ngư
con tàu vì thiếu bàn la kinh chỉ dẫn. Đó
là điều lương tri đã hé thấy trong hội nghị quốc
tế về triết lý tại Honolulu khi mà đại biểu của hơn năm
mươi nước đã bầu Khổng Tử làm nhạc trưởng cho cuộc
hòa tấu Đông Tây mai hậu. Nhưng sau cuộc hội
đó không còn nghe thấy bao nhiêu âm
hưởng, tuy vô số sách đã được viết ra nhưng xem lại
cũng chỉ nói đi nói lại bấy nhiêu kiểu bác
học, sử ký, ghi nhận, dữ kiện, tài liệu.. cùng lắm
thì trình bầy theo kiểu suy tưởng có hệ thống chứ
không thấy kiểu cơ cấu. Kiểu cơ cấu khác với lối đọc ăn
sẵn ở chỗ phải sáng tạo, phải khám phá nghĩa
là mình phải là tác nhân, phải tạo
dựng. Phải từ dăm ba định đề, một vài bộ số, ít huyền
thoại, một lô phương ngôn tục ngữ chứa trong kinh điển...
đi đến việc xây lên được một triết thuyết hợp cảm quan thời
đại. Đó là điều chưa được làm và
đó là điều chúng tôi muốn thúc đẩy để
người Âu Mỹ khởi đầu làm vì cờ đã đến tay
rồi đó.
28. Tôi rất tiếc cho Trung Hoa đã
không duy trì nổi vai trò lãnh đạo của
mình đã từ ngàn xưa trong một nền văn hóa
vững mạnh lâu bền nhất thế giới, để đến nỗi trụt xuống địa vị học
trò bằng đi rước về một triết thuyết ngoại trái với văn
hóa mình, hơn thế còn trái với bản
tính con người khắp nơi. Tuy nhiên nhìn lại khắp
hết nhân loại thì thấy sự nhỡ nhàng ngu ngốc
không là của riêng Trung Hoa, nhưng là của
chung loài người, kể cả những người được xưng tụng là
triết gia. Đọc lich sử nhân loại Đông Tây kim cổ
toàn thấy sự ngu dốt bao trùm như đêm tối, trong
đó sự khôn sáng chỉ nhấp nháy thưa thớt như
đom đóm lập lòe. Tuy nhiên vẫn thấy được sự
yên ủi vì những đom đóm đó tuy chỉ là
một hai ánh le lói đối với hàng triệu triệu
âm u nhưng vẫn đẩy được cuộc tiến con người. Nghĩa là con
người trải qua hàng ngàn vạn lầm lẫn lờ mờ nhưng vẫn tiến
lên cao dần cả trong việc sinh sống lẫn tinh thần.
29. Thứ đến cũng tìm ra được sự an ủi ở chỗ
loài người có ngu dốt lầm lẫn như thế mới có đủ
việc làm cho mọi người, mọi nơi, mọi đời, giả như thế giới tốt
đẹp ngay từ đầu, tất con người cũng chỉ như con vật: cái
gì cũng ban ra cho rồi không phải trả lệ phí, con
người sẽ không còn là tác năng, không
là tiểu hóa công, hết linh hơn vạn vật.
Điều yên ủi nữa là thế giới luôn
biến dịch, sự đi trước của Trung Quốc trong triết nay đã hết, sứ
mạng đi đầu nhân loại đã chấm hết. Cờ lãnh đạo
đã trao sang tay Âu Mỹ rồi, và Âu Mỹ
đã đi được một bước sinh rất cao. Bây giờ chỉ
còn thiếu bước tâm, liệu Tây âu có đủ
sức làm chăng? Muốn vậy cần kiến tạo lấy một nền triết lý
mới xứng hợp cho giai đoạn mới. Triết lý là sự thâu
góp những kinh nghiệm sống tốt đẹp vào một hệ thống gọi
là đạo lý. Kinh nghiệm mới này đã chồng
chất lên muôn vàn nhất là những khám
phá mới, vậy chỉ còn cần tổ chức theo mẫu mực nào.
Không thể có mẫu khác ngoài ba mẫu đã
sẵn có: hữu vi, vô vi, an vi; chọn mẫu nào
đây? Trong việc này hãy lợi dụng bài học
lịch sử, hơn hai mươi thế kỷ qua đã chứng minh đủ cho thấy sự
vô hiệu của hai đường lối cả hữu vi lẫn vô vi, và
hiện cả hai còn đang phơi bày sự phá sản của
mình bằng bị chối bỏ do những triết gia và các
nhà tư tưởng của hai nơi đó. Vì chúng chỉ
có một chiều không đủ chỗ sẵn để hội nhập các kinh
nghiệm và hiểu biết mới rất phong phú.
30. Nói cho cùng các điều
hiểu biết về triết trình bày ở trên đều đã
có rồi, còn nhiều và cặn kẽ hơn nữa ở các
triết học Âu Mỹ, nhưng hầu hết là thiên lệch thiếu
cơ cấu, chỉ bàn nhiều về bản thể mà không về tương
quan tác hành. Vì vậy làm cho triết học trở
nên quá khó khăn cũng như quá xa thực tại,
đại chúng không thể cảm nhận. Vậy chỉ còn mẫu mực
cổ đại An Vi tỏ ra hữu hiệu bền bỉ hơn cả, vì nó đơn sơ,
nó xây trên cơ cấu, nói về những mối tương
quan tác hành nên quần chúng dễ cảm nhận,
lại rất quân bình nên có đủ chỗ chứa đựng
những kinh nghiệm mới cả khoa học lẫn nhân văn. Trong dĩ
vãng nó đã chứng tỏ khả năng kiến tạo và
duy trì cuộc an lạc cho nhiều thế hệ Việt Nho nên tỏ ra
xứng đáng được dùng làm mẫu mực trong việc
xây đắp mới để đưa nhân loại vào giai đoạn sống an
vui đặng hành hương về chốn chân không diệu
hữu.
Phụ
Trương:
NGỘ KHÔNG
CÔNG TRẠNG
TỰA
Tây Du là một tiểu thuyết luận đề, nhưng
cho tới nay hầu như chưa ai nhận ra chủ đề đó nên bao lời
bàn luận đều trật lất. Vậy chủ đề đó là thế
này: bất cứ cái gì hễ lên thì cao, hễ
xuống thì thấp. Xuống biểu lộ bằng HỮU VI hình thể, cao
biểu lộ bằng VÔ VI siêu giác. Một luận đề như vậy
đòi người đọc phải phá chấp mới nhìn ra được. Đừng
chấp vào xác thân "xấu xí" của khỉ mới thấy
giá trị Ngộ Không, đừng chấp vào chức Thầy, chức
Thượng Tọa mới thấy Tam Tạng không đáng làm học
trò Đại Thánh. Phải phá chấp mới thấy cả đến
Tiên, Phật, Thánh cũng có những bê bối mỗi
khi sà chân xuống cõi hình thể hữu vi.
Chính Ngộ Không còn bị sa lầy khi chọn học 72
phép địa sát nên bị đè dưới núi Ngũ
Hành. Tuy nhiên, Ngộ Không còn giữ được nhiều
hành trạng Vô Vi, nên đáng gọi là đạt
minh triết. Không minh triết sao thỉnh được kinh vô tự,
vì kinh vô tự là cái đỉnh cao chót
vót của văn hóa loài người.
Xét theo đó thì Tây Du quả là một
tiểu thuyết có máu An Vi, xứng đáng được triết
lý An Vi bàn tới để tuyên dương Tôn Ngộ
Không như người ngộ được đạo vô vi chân thực, hay như
mẫu mực thượng thặng của một cuộc sống như chơi.
I. ĐI
TÌM ẨN NGHĨA TÂY DU:
1. Tây Du là một bộ truyện lớn của Tàu được kể
vào số "tứ đại kỳ thư". Nó khác các quyển
kia ở chỗ trào phúng và nhất là đầy
tính chất triết lý. Chính điểm cuối cùng
này đem lại cho nó giá trị trội hơn ba bộ kia rất
xa. Thế nhưng điều này cho tới nay chưa được "khám
phá". Vì cho được khám phá phải có
một vài ý niệm sơ sài giúp qui tụ được
cái nhìn, nếu không thì chỉ lan man
ngoài mặt không sao thấu được vào vòng
trong. Đấy là điều đáng tiếc, vì trong dĩ
vãng nhiều học giả Tây phương chê quyển Tây Du
cho rằng tại sao lại có người phung phí tài năng
vào việc viết một quyển sách tầm phào hạ cấp như
vậy (như chúng tôi đã có lần đọc một
tác giả ngoại quốc nào đó mà nay quên
mất tên), cũng có người chê là sách
chứa đầy mâu thuẫn ... Nhưng chính sự mâu thuẫn ấy
chỉ trỏ một triết lý ẩn tàng như chúng tôi
sẽ nói tới sau. Ở đây chỉ cần ghi rằng chính sự
mâu thuẫn đó, giữa cao đẹp và phi lý, giữa
vô nghĩa và thâm sâu .. làm nên
nét đặc trưng của quyển truyện. Bài này sẽ
trình bày ít nét của nền triết lý
kia mà tôi cho là ẩn nghĩa tầng nhì sau
trào phúng là ẩn nghĩa tầng nhất với hy vọng sẽ
giúp vào việc làm phục hoạt lại nền triết
lý của tiên tổ Việt tộc.
2. Tây Du là một câu chuyện thần thoại kể về một con
khỉ phi thường họ TÔN tên NGỘ KHÔNG đã
giúp Tam Tạng trong cuộc hành hương sang Thiên
Trúc thỉnh kinh Phật. Trên đường đi gặp biết bao tai nạn
do yêu ma bày ra để hại thày trò, nhưng nhờ
tài phép của ngộ Không nên mọi trở ngại
đã vượt qua để thầy trò tới nơi xin được kinh như
ý nguyện. Đó là cái lược đồ lớn để chứa
đựng các truyện yêu, ma, Tiên, Phật đã
có đầy từ lâu trước trong dân gian mà ở
đây được kể lại dưới khía cạnh mới với tài văn
chương của một tiểu thuyết gia cỡ lớn: các truyện đều
khác nhau với lối thắt vào rất gây cấn rồi được cởi
ra rất tài, khiến người đọc luôn luôn hồi hộp theo
dõi cuộc hành hương của các nhân vật, cho
nên ngay về phương diện kể truyện sách đã được
nhìn nhận và được hoan nghênh truyền tụng
cách xứng đáng. Thế mà đó mới là
cái hay ngoài mặt. Cái hay chính cốt nằm
trong hai tầng ẩn ý mà tầng đầu là trào
phúng. Phần này dễ thấy và đã được
bàn nhiều tuy nhiên có ít điểm tế vi cần
được bàn thêm ở đây.
3. Điều nhận xét trước hết về vụ trào phúng đả
kích chính quyền là điều thông thường thuộc
hàng ngang. Điều đặc biệt của Tây Du là đả
kích cả hàng dọc tức trời đất hay tôn giáo
nữa. Do đấy sự đả kích mang một sắc thái nhân chủ
đặm đà hơn nhiều.
Mũi giùi trào phúng nhằm vào triều
đình quan lại được biểu thị bằng thượng giới: vua là Ngọc
Hoàng, các yêu quái là quan lại:
vì thế ta thấy Thượng Đế trong Tây Du rất mu mơ, Ngộ
Không sinh ra đã không hay biết, đến lúc
không đánh dẹp được phải chiêu hồi lại cũng
không biết người biết của nên dùng Ngộ Không
vào có việc coi ngựa tỏ ra không "tri nhân
thiện nhậm". Tri nhân là đức đầu của nhà cai trị
thế mà Ngọc Hoàng thiếu thì dễ bất lực. Khi Ngộ
Không đưa quân lên đánh nhà trời
thì thì Ngọc Hoàng lo xanh mắt, phải cậy đến Phật
Tổ mới trị nổi Ngộ Không tức là quyền đời phải lợi dụng
quyền đạo. Ngoài bất lực lại còn bất nhân như vụ
phạt quận Phụng Thiên đại hạn chết bao người chỉ vì quận
hầu nóng giận người nhà đem đồ cúng đã tế
trời vất cho loài muông ăn, thế mà nỡ dùng
đến hình phạt gọi là kim tỏa: tức treo giây xiềng
bằng vàng dài một thước tư, lớn cả bằng ngón tay,
bên dưới thắp một ngọn đèn leo lét. Bao giờ lửa đốt
đứt được giây xiềng thì mới cho mưa (hồi 87). Đọc
lên ai cũng thấy ngay Ngọc Hoàng tàn ác:
vì tội một người mà phạt cả quận cách nặng nề
không cân xứng chút nào. Thế rồi triều
đình của Thượng Đế cũng thối nát để cho tay chân đi
làm bậy: rất nhiều yêu quái là người
thiên cung như Thái Bạch Kim Cương bị Ngộ Không mắng
trách: "Ta xem ngươi đã già sao mà
nói láo quá vậy". Yêu Huỳnh Bào cướp
công chúa nước Bửu Trượng chính là sao
Khuê Lan trong Nhị Thập Bát Tú tức cũng do trời cả
chứ có đâu xa.
4. Hoạn quan bị đả kích trong truyện yêu Toàn
Trân giết vua nước Ô Kê để đoạt cả ngôi
báu lẫn vợ con khiến Ngộ Không phải trải qua bao gian
truân mới thắng được, bắt nó hiện nguyên hình
mới té ra là con sư tử lông xanh của Văn Thù
Bồ Tát, vì vua Ô Kê có lỗi với Bồ
Tát nên sai xuống để phạt tội. Ngộ Không nói:
"Nơi phàm tục có câu "quân tử năng dung" sao
Phật Tổ lại trả thù tư như vậy, khiến Sư Tử Xanh phạm đến
Hoàng Hậu có phải là mất phép lịch sự
không?" Văn Thù Bồ Tát trả lời: "Người nói
cũng phải, nhưng Thanh Sư không đụng tới cung nga có
đâu xâm phạm đến Hoàng Hậu, bởi nó là
Sư Tử thiến đã lâu mà." Bát Giái
không tin lại rờ bụng Thanh Sư rồi cười ngất nói: "Thiến
thật: Chú mày có tiếng mà không
có miếng, không uống nước cũng chịu tiếng mang bầu..."(hồi
39)
5. Đại để đó là vài thí dụ trào
phúng triều đình vua quan, nhưng đấy mới là
vòng ngoài cùng; trong Tây Du mũi
giùi trào phúng còn đi sâu hơn tức
không kiêng nể tôn giáo mà có
thể nói tôn giáo còn bị nhiều hơn vua quan.
Đây là chỗ coi như mâu thuẫn vì truyện được
tin là có ý nhằm mục đích phổ biến đạo Phật
mà tựu trung lại sửa lưng đạo Phật rất nhiều. Nhưng xem kỹ lại
sẽ nhận ra có sự phân biệt TĂNG với PHẬT như được nhắc lại
nhiều lần rằng: "không tưởng Tăng cũng nên tưởng Phật", tức
Phật giáo xét như đạo lý vô vi thì
được hoan nghênh, nhưng xét như giáo hội hữu vi
thì bị đả kích. Về Phật ta thấy được đề cao hơn cả Ngọc
Hoàng đúng theo quan niệm sai lạc của Phật giáo
đã sa đọa. Ngọc Hoàng phải cầu cứu Phật mới trị nổi Ngộ
Không. Ngộ Không chịu là không qua mặt được
quyền phép Phật (nhảy không qua bàn tay) và
bị Phật đè dưới núi Ngũ Hành năm trăm năm ...
Nhưng xét về giáo hội thì Phật giáo cũng
mắc đầy tệ đoan bê bối vì đã để cho tay chân
làm bậy còn quá Ngọc Hoàng. Số yêu ma
do Phật tính ra còn trội vượt hơn của Thượng Đế. Con
yêu Huỳnh Bào làm hại biết bao người, đến
lúc truy nguyên ra mới hay là Đồng Tử giữ
khánh tại đền Đức Di Lạc. Tôn Hành Giả nghe
rõ đầu đuôi trợn mắt nói với Phật: "Thật là
báo hại tôi! Thả gia đồng ra làm yêu
quái, lại giả Phật giả chùa. Tội thất thoát ấy
Phật Tổ tránh đâu cho thoát".
Lại như vụ ba con yêu ở núi Sư Đà rất lợi hại .
Thầy trò Tam Tạng bị bắt lên bắt xuống, cuối cùng
phải cầu cứu tới Phật mới trị nổi. Đến lúc tra xét mới
trật ra đó là Phật Mẫu hóa thân làm
yêu Đại vương cùng với hai yêu khác là
đồ đệ của Văn Thù và Phổ Hiền Bồ Tát. Như Lai
thú nhận rằng: "Ba con yêu đó ta đã biết
rồi, hai con yêu có chủ, còn một con là
thân thích với ta." Tôn Hành Giả ngẩng mặt
lên thở khì một cái nói: "Ôi chao!
Té ra Phật Tổ để bà con thân thích
hóa thân làm yêu quái hại chúng
sinh ư? (hồi 77). Lại như yêu Huỳnh Phong là con chuột của
Linh Khiết Bồ tát, yêu Linh Cảm đại vương là của
Quan Âm nghĩa là rất nhiều bê bối xuất phát
từ Phật.
Nhất là vụ phát kinh mới ê chề, thầy trò gặp
biết bao cái bất ngờ đáng ngã ngửa. Trước hết
là hai đệ tử cao cấp nhất của Phật là Ác Năng
và Ca Diếp đòi lễ vật mới chịu phát kinh. Hai
ông nói: "Hay quá! Đi thỉnh kinh mà tay
không thì về truyền lại sao cho siêu nổi!" Té
ra kinh không linh bằng đồ lỡi đi kèm! Khiến thầy
trò ngạc nhiên vô kể. Ngộ Không nhất định
kêu lên Phật Tổ, hai môn đệ đe dọa cản ngăn,
Bát Giái Sa Tăng phải hết lời khuyên nhủ Ngộ
Không mới chịu trở lại, nài nẵng hai ông mới chịu
phát kinh, nhưng lại phát toàn sách giấy
trắng không có dấu vết lấy nửa chư. Thầy trò
quá bỡ ngỡ, lần này không nhịn được nữa, Ngộ
Không quyết kêu đến Phật để phạt kẻ tham tài: "Thầy
trò tôi trăm cay ngàn đắng nhiều tháng
lâu năm mới đến được đây, nhờ Như Lai phát kinh
mà Ananda và Kasyapa đòi hối lộ, chúng
tôi không có thì hai người phát kinh
giấy trắng." Ai ngờ chính Phật Tổ cũng không hơn
gì. Ngài cười nói: "Chuyện ấy ta đã hay
rồi, hai người phát kinh không lỗi, bởi kinh ấy quí
lẽ nào thỉnh không mà đặng phước. Trước đây
các sãi nơi này có đem kinh xuống nước
Xá Vệ mà tụng cầu siêu cho Triệu trưởng giả.
Nhà họ Triệu hoàn công có ba đấu gạo với
vàng bạc chút ít, ta còn nói Triệu
trưởng giả bủn xỉn, sau con cháu không được giàu
sang. Nay thầy trò ngươi đến tay không mà thỉnh
được bao nhiêu kinh còn than thở gì nữa" ...
Thật không ngờ chút nào, chính nơi trung
ương, ngay từ miệng Phật Tổ mà còn có những lời
như vậy thì còn biết trông vào đâu.
Tam Tạng đành dâng bình bát để lĩnh kinh hữu
tự.
7. Đấy là Phật Giáo, chứ Đạo Giáo còn bị đả
kích tàn tệ hơn nhiều, như vụ con nai bạch của Nam Cực
tiên ông hóa yêu giả làm quốc trưởng
nước Tì Khưu bắt hơn ngàn trẻ để lấy tim làm thang
thuốc trường sinh cho vua (hồi 79)
Trong vụ nước Sa Trì các yêu giả làm đạo sĩ
còn hành hạ cả Tăng Đồ bên Phật bắt làm
nô lệ để xây đắp cung điện cho mình (hồi 45, 46).
Chỗ này Đạo Lão bị đả nặng nhất, sách viết rằng
tại miếu Tam Thanh các đạo sĩ làm chay tế Thái
Thượng Lão Quân, trên bàn bày hoa
trái bánh quà đủ thứ. Ngộ Không làm
gió ầm ầm thổi tắt đèn, đổ tượng, mọi người sợ hãi
ra về. Ngộ Không liền dắt Bát Giái và Sa
Tăng vào ăn hết rồi đái đầy vào những lu vò
để đựng nước kim đan. Đến khi mấy đạo sĩ đến uống lấy làm lạ hỏi
kim đơn là thuốc tiên uống ngon lắm cớ sao lại thấy khai
khai thế này (hồi 45)
Vụ con trâu của Lão Quân biến ra yêu độc
giác tỉ đầy quyền phép, Tôn Hành Giả
không thể thắng được phải lên cầu cứu Như Lai. Như Lai đưa
mắt nhìn về phía núi Kim Dâu biết rõ
ngọn ngành nhưng không dám nói rõ với
Tôn Hành Giả... Cuối cùng khi tìm ra manh
mối Ngộ Không trách Lão Quân: "Như vậy
là Tôn ông đã thả trâu ra phá
đời, hại người, cướp của không thể tránh tội được..."
8. Lược sơ qua như vậy đủ thấy rằng mục đích Tây Du
không hẳn là truyền bá đạo Phật như người đời
thường hiểu nhưng là đả phá những cái suy vi
trái khoáy trong cả quyền đạo quyền đời. Còn
ý sâu hơn là trình bày một nền triết
lý chân chính một nền đạo lý uyên
nguyên. Xin hỏi đó là Đạo lý nào?
Triết lý nào? Rồi đây ta thấy rõ cả đạo
lý lẫn triết lý đều đặt nền trên chữ không
nên ở đây chỉ nói triết lý cho tiện.
Vậy đó là triết lý nào? – Triết lý
chánh tà chăng? Không phải. Vì ai là
chánh đây? Phật Tiên chăng? Thì chính
các ngài đã chẳng ra gì, tay chân
còn tồi tệ hơn nữa..
Đó cũng không phải Tâm Lý nơi mà Tam
Tạng đại biểu lý trí , còn Ngộ Không biểu
thị sức mạnh như một số người chủ trương. Nói vậy là
thiếu quan sát, tỏ ra đã đọc truyện xuyên qua
các thiên kiến, chứ nếu đọc đàng hoàng sẽ
thấy liền Tam Tạng là vai tầm thường không thể nói
là đại diện lý trí, còn thua Ngộ
Không quá xa vì Ngộ Không thông minh
lanh lợi tuyệt vời.
Có người nói đó là triết lý về con
người, đường đi Tây phương đầy gian nguy là hình
ảnh cuộc đời dưới thế. Thưa như vậy có được ít nhiều sự
thực nhưng mới là cái nhìn thoáng qua ở tầm
mức lý trí chưa đạt đợt nhận thức thâm sâu để
qui tụ được mọi cái nhìn, mọi cử chỉ hành vi của
các nhân vật vào một mối hầu làm hiện
hình ra cái chủ đạo, nên cũng không phải
là triết lý, ít ra triết lý đời mới cần
phân tích và hệ thống.
9. Nói về nền triết lý tiềm ẩn trong Tây Du
thì đến nay đã rất nhiều người bàn giải nhưng chưa
thấy ai tìm ra được. Sở dĩ như vậy vì chính
Ngô Thừa Ân cũng không ý thức hẳn được
cái triết lý ẩn trong sách ông. Nói
vậy không phải là chê mà chính
là đề cao Ngô Thừa Ân, quả là một nghệ sĩ lớn
nên đã viết dưới sự dẫn đưa của tiềm thức cộng
thông, bên ngoài cả ý thức. Vì thế
Tây Du là một biểu hiệu (symbol) mà không
là một ẩn dụ (allegory): ẩn dụ thì không sâu
bằng biểu hiệu vì biểu hiệu là cái gì nội
khởi còn bên ngoài cả ý thức tác giả.
Chỉ như ẩn dụ là cái tác giả ngầm hiểu, thí
dụ việc đả kích triều đình là ẩn dụ, còn
phần đả kích Lão Thích để đưa đến một triết
lý khác thì phần lớn là biểu hiệu. Muốn
nhìn ra nội dung biểu hiệu cần phải nhìn bao quát
về không gian và dài lâu về thời gian mới
mong qui định nổi nền triết ẩn trong. Đó là điều
chúng ta thử làm trong các triệt tới.
II. TRIẾT
LÝ TÂY DU
10. Muốn biết đó là nền triết nào thì
câu hỏi đầu tiên phải đặt ra là vai nào
là chủ động: Tam Tạng hay Ngộ Không? Sau khi đã
tìm ra rồi thì bước sau sẽ phải là phân
tích danh tính của vai chủ động đó vì danh
nói lên tính. Đường đi của tính là
triết lý sâu xa.
Thông thường hầu hết người đọc cho vai chủ động là Tam
Tạng. Tuy không nói hẳn ra như thế vì vấn đề xưa
nay chưa được đặt ra cách minh nhiên, nhưng cách
mặc nhiên đều cho là thế, đến nỗi nhiều nhà
bình luận trách Ngô Thừa Ân đã đưa Ngộ
Không lên quá cao át Tam Tạng làm lu
mờ ý định của mình! Sở dĩ thông thường nghĩ thế
vì bề ngoài chính Tam Tạng đứng đầu cuộc thỉnh
kinh, toàn truyện hướng về đó. Chính Tam Tạng mới
là đại biểu cho thầy Huyền Trang một nhân vật có
thực trong lịch sử chứ có phải truyện tưởng tượng như ba vai
khác đâu.
11. Tuy nhiên đấy là mặt ngoài không
nên đem cái "thiên kiến" đó chụp lên
Tam Tạng, một vai của tiểu thuyết , không phải là thầy
Huyền Trang có thực Tam Tạng chỉ là một nhân vật
tưởng tượng như ba vai khác do Ngô Thừa Ân dựng
nên ứng hợp cho mục tiêu của mình và xa hơn
cả mục tiêu của ông vì nó không
còn nằm trong ý thức Ngô Thừa Ân, nhưng lan
sâu vào cõi tiềm thức cộng thông của đại gia
đình văn hóa Việt. Nói khác Tam Tạng
không là nhà sư Huyền Trang, Phật Như Lai trong
truyện không là Phật Thích Ca. Việc thỉnh kinh cũng
chỉ là "cái đinh' để tác giả treo "cái
áo" của mình tức những điều ông muốn bày tỏ
gián tiếp qua câu truyện.
Theo phương pháp phê bình nội tại thì phải
căn cứ vào chính tác phẩm mà quyết định xem
đâu là mục tiêu chứ không được theo
thiên kiến gán mục tiêu cho tác giả, rồi khi
thấy sách không theo mục tiêu tự mình
gán ghép lại quay ra trách tác giả đi
quá xa gán kiểu đó là thiếu khoa học.
Vậy khi cứ khách quan mà đọc ta thấy gì. Trước hết
ta thấy sách mở bằng bảy chương giới thiệu Tôn Ngộ Khong
một cách lớn lao đến độ làm rung động cả trời đất. Đang
khi Tam Tạng thì ỉu xìu trong hơn một chương. Xem thế đủ
biết đâu là vai chính. Có học giả phải đọc
mãi tới chương 50, 60 mới nhận ra là Ngộ Không lấn
át Tam Tạng và trách tác giả thì đủ
biết đọc truyện như vậy xa tinh thần khoa học biết bao.
12. Đến khi bước vào hành động thì Tam Tạng chẳng
có chi phi thường ngoại trừ chức tước của Phật ban cho như gỡ
bùa để cứu Ngộ Không, hay đặt cái vòng cẩn
cô lên đầu Hành Giả để cưỡng ép sai khiến...
Toàn là những cái bên ngoài do
chính quyền ban cho chứ về nhân cách thì Tam
Tạng chỉ có được một vài giá trị giả tạo
làm bằng các giới răn tiêu cực như tránh
đàn bà, kiêng ăn mặn, còn tích cực
như trí, nhân, dũng là ba đức căn bản làm
nên con người thì hầu như không được nết nào.
Xuyên qua toàn truyện ta thấy Tam Tạng chỉ là một
con người thường, quá thường đến độ tầm thường: chỉ đại biểu cho
thầy Huyền Trang được có một điểm là lòng
sùng đạo và một phần chí cương quyết đi thỉnh
kinh, ngoài ra các đức khác hầu như zéro,
ngay đến ý chí đi tìm kinh cũng nhiều lần tỏ ra bị
lung lạc tuy cũng có lần quyết định mạnh nhưng mạnh theo kiểu kẻ
điếc không sợ súng, nhưng không ngờ đường xá
quá xa xôi hiểm trở đến như vậy nên bao lần than thở
nhớ cửa nhớ nhà, than thân vì phải dãi
gió dầm mưa, ăn sương nằm tuyết, chẳng biết ngày
nào đến được Tây phương ... Tôn Hành Giả phải
can ngăn an ủi rằng nếu cứ hoài tưởng đến cố hương như vậy
thì lòng sẽ không vui, chỉ có bền
lòng trì chí mới có thể đến xứ Phật được.
Đấy là phần CHÍ.
13. Còn về TRÍ thì dưới trung bình: hễ lần
nào gặp rừng sâu núi hiểm thì bao giờ cũng
nhắc lại hoài một câu "Nếu núi này cao chắc
có yêu, các trò phải ý tứ ". Một
người có chút óc sáng tạo bao giờ lại chịu
nói mãi một câu như vậy, nhất là khi
đã thấy nhiều lần quyền năng và óc thông
minh lanh lợi của Ngộ Không. Chỉ cần chứng kiến vài thi
thố là hiểu rằng thiếu Ngộ Không là phải dẹp tiệm
liền, vậy mà vẫn dám đuổi Ngộ Không đi để rồi bị
yêu bắt. Có lần bị nó bắt biến ra cọp câm
mà rồi cũng không sao nhận ra được, cứ còn
cãi lại Ngộ Không. Biết bao lần cãi lời Ngộ
Không mà bị hãm vào vòng yêu
quái. Yêu Hồng Hài Nhi giả làm đứa trẻ
tám tuổi bị treo trên cây cũng đòi phải cứu
cho bằng được, Ngộ Không can ngăn thì chửi bới om
sòm, vào hùa với Bát Giái đi giải
thoát cho yêu để rồi bi nó bắt (hồi 40). Yêu
ĐỊA VÕNG PHU NHÂN giả làm người con gái bị
chôn chân cũng đòi môn đệ cứu cho được, rồi bị
nó hãm hại y như lần trước. Về sau còn nhiều lần
như vậy. Ngộ Không thường trách: "Thầy ơi sao thầy
không biết thiệt giả làm trễ việc đi đường" (hồi 95)
14. Nói đến đức DŨNG lại còn thiếu hơn nữa. Nhát
một cây. Đã vậy lại còn mổ dưới, động một tí
là khóc, mất cái áo cũng than thở cả
đêm không ngủ được. Thấy Ngộ Không đập chết con hổ
liền kinh hãi ngã khỏi ngựa. Suốt trong truyện việc
làm nhiều nhất của Tam Tạng là khóc lóc
than van, ngã chết ngất, chết lịm vì sợ; không sang
được sông Lưu Xa cũng khóc om sòm, rút
rát đến nỗi tiếng đồn khắp nơi. Yêu tinh đại vương dặn
dò đồ đệ rằng Tam Tạng tính rát lắm không
được làm sợ kẻo thịt nó chua ra ăn hết bổ (hồi 76).
15. Trí dũng đã thiếu mà đến đức NHÂN lại
quá ọp ẹp: rất khó tính, sai bảo những cái
trái ngược. Quan Âm cho vòng xiết cô để liệu
cách tròng vào đầu Ngộ Không, một khi đội
vào đầu rồi mà Tam Tạng niệm chú thì Ngộ
Không đau đến bể đầu, như vậy để dễ sai bảo. Công việc
quá dễ dàng: với Ngộ Không đầy óc hoạt động,
thích khám phá lẽ nào không đội thử.
Có cần chi phạm vào giới bất chính ngữ, vậy
mà cũng phải nói dối: rằng đội mũ nọ thì người trở
nên thông minh, đọc kinh mau thuộc (hồi 14). Thế rồi một
khi nắm được bí quyết niệm vòng xiết cô thì
xử dụng tối đa cả những lúc không cần, làm cho Ngộ
Không vật mình vật mẩy... tỏ rõ thiếu lòng
lân mẫn. Về sau có lúc ăn năn thề sẽ không
bao giờ niệm nữa, thề rồi lại nuốt lời liền sau đó: niệm
chú biết bao lần nữa tỏ ra chữ tín nghĩa thiếu luôn.
Lại còn khó tính khó nết: mất ngựa ở suối
Ưng Hầu (hồi 15) thì ngồi lo lắng than thở làm sao
mà đi được. Khi Ngộ Không nói " Thầy yên
tâm ngồi chờ đây để tôi đi tìm" thì lại
la mắng rằng "Để ta một mình, yêu đến bắt ăn thịt ta
thì sao?" Nói rồi ngồi than thở không cùng.
Tôn Hành Giả nổi giận : "Rất khổ tâm với thầy: ngựa
thì muốn cưỡi mà người chẳng cho đi, hai thầy trò
cứ ngồi mãi đây mà chịu chết sao?"
Tóm lại Tam Tạng không có đức nhân mà
chỉ tạm có thứ TỪ BI ủy mị ở trình độ CẢM XÚC
nghĩa là không được trí tuệ hướng dẫn cũng như dũng
cảm đi kèm, đó chỉ là thứ từ bi bó
sát lấy hiện tượng không sao siêu lên được để
xem cái thực đằng sau, nên hễ động vào đâu
là gây tai hại cho mình tới đó. Ngộ
Không phát cáu: "Xin thầy thâu thứ từ bi
đó lại đi" (hồi 25). Thầy nghe lời dua nịnh của Bát
Giái, được chim bỏ ná, được cá quên nơm,
khiến người như khiến súc vật, thì sao gọi được là
tu hành minh chính (hồi 27).
16. Tu hành minh chính phải là tu
dưỡng được cái nguồn linh lực làm phát triển tiềm
lực nơi con người, đàng này chỉ biết có lối tu ẩn
ức được đại biểu bằng Bát Giới tức là cấm kỵ như
tránh đàn bà, kiêng ăn mặn v.v... thì
đó là những tác động tiêu cực không đủ
sức nhổ tận căn được mấy mục kia, trái lại nó sẽ
chìm xuống vùng tiềm thức nằm chờ sẵn đó,
và thường bắt liên lạc ngầm với những mối thông cảm
ưa thích vô thức. Tất cả cái khối ẩn ức đó
được biểu thị bằng Bát Giái một hiện thân của
thèm khát, mê ăn, mê ngủ với cái dục
tính đầy chất bật bong. Thế mà Tam Tạng lại chỉ nghe
có Bát Giái, vào hùa với Bát
Giái để chống Ngộ Không. Nhiều lần Ngộ Không phải
nói thẳng: "Thưa thầy, thầy vẫn còn tính
riêng tây hay cưng Bát Giái, sao thầy biết
Bát Giái không chịu đi, có phải thầy
tìm lối đỡ bớt chăng?" Chỗ khác: "Tôi thấy thầy vẫn
còn riêng tây hay cưng Bát Giái", hoặc
"Tính thầy cư xử không công bằng" (hồi 38).
Tóm lại, trong Tây Du điều làm cho người đọc
khó chịu nhất là những hành vi, cử chỉ của Tam
Tạng.
17. Trong đoàn chỉ có Ngộ Tịnh là khá nhất,
giống thầy chùa chân tu, Tam Tạng cũng phải công
nhận như vậy, nên đặt tên là Sa Tăng. Sa Tăng vượt
xa Tam Tạng và Bát Giái. Sa Tăng đại biểu cho
các tăng đồ cấp dưới không bị quyền bính làm
hư: nên giữ được khá nhiều lương tri, đời sống bình
hành. Còn Tam Tạng chỉ biểu hiện cho hữu vi, kềnh cơi rắc
rối (unworthy encumberer), thai phàm xác thịt, chỉ nhờ
vào tổ chức của giáo hội và có tu lâu
nên được đặt lên địa vị cao chứ có gì
cân xứng để đáng mặt thầy đâu? Nói cho
cùng chưa đáng làm môn đệ Ngộ Không
mà chỉ ở đó tạo cơ hội cho Ngộ Không biểu diễn khả
năng phi thường. Xem thế đủ biết khi tác giả đưa ra "vai
chính" quá tầm thường để cho vai chủ động vòng
trong nổi bật là ông muốn chứng minh đạo vô vi vượt
xa hữu vi sắc tướng vô vàn. Thiếu Ngộ Không
thì cuộc đi đã dừng lại ở ngay tai nạn đầu tiên tại
núi Sà Bà: tam Tạng đã tiêu ở đấy
rồi... "Sống chưa nổi nói chi đến cứu độ chúng sinh". Vậy
mà còn trải qua hơn bốn mươi tai họa khác nữa
trong đó nhiều cái tự mình gây ra vì
khờ dại, vì nghe lời kẻ ngu xúi bẩy để cuối cùng
Ngô Không lại phải ra tay. Người vô tích sự
như vậy làm sao đủ sức đóng vai chủ động.
18. Ngay trong cõi hiện tượng đã tầm thường huống chi
đường đi Tây phương phải tính chuyện với những yêu
quái đầy quyền thuật. Phải giao dịch với Tiên, Phật, với
Ngọc Hoàng. Phải lên tiếng chỉ trích tự Phật Tổ trở
xuống qua Ngọc Hoàng đến Lão Quân. Tam Tạng sức mấy
mà đóng vai chủ động. Đừng nói tới bảo hộ cứu nguy
khi đi đường, ngay lúc tới nơi đi thỉnh kinh và cả việc
ngộ đạo nữa cũng do Ngộ Không chủ động hết. Quả xứng tư
cách là thầy của Tam Tạng. Truyện kể rằng khi gần tới
sông Thông Thiên, Tam Tạng hỏi: "Ta sẽ đi đâu
mà ngủ đêm?", Ngộ Không trả lời: "Thưa thầy
đó là câu hỏi nên dành cho người
thường chứ những người hành hương như ta không nên
nhắc đến." Tam Tạng hỏi: "Khác nhau chỗ nào?". Ngộ
Không trả lời: "Người thường thì vào giờ này
đang hú hí với vợ với con trong giường êm đệm ấm,
nằm ngồi thoải mái như ý muốn sao được vậy. Người
hành hương đâu có quyền đòi hỏi như vậy, gặp
được trăng sao là phải đi, phải biết dầm sương giãi nắng
suốt dọc đường trường .." (đoạn này không có trong
bản dịch Việt). Đến khi thấy núi Linh Sơn chính cống Tam
Tạng lại không lạy. Ngộ Không phải nhắc: "Thầy thì
cứ thấy đâu là lạy đó, nay đã tới
chính núi thánh thiệt lại ngồi ỳ trên ngựa
là sao?"
Đến lúc gặp bước quyết liệt là phải đi trên cầu độc
mộc thì không dám, mặc dầu Ngộ Không
đã đi đi lại lại cho mà xem. Cuối cùng không
sao được phải sang sông bằng đò nhưng là đò
không đáy, Tam Tạng cứ đứng co rút vào, than
thở là thuyền không đáy làm sao đi. Ngộ
Không phải tóm gáy Tam Tạng đẩy mạnh xuống thuyền.
Tam Tạng rơi thẳng xuống nước , được ông lái đò giơ
tay nâng lên. Tam Tạng vừa vắt quần áo vừa
càu nhàu mắng chửi Ngộ Không.
19. Thoát chốc thấy một xác nổi
trôi lềnh bềnh, Ngộ Không nói là xác
thầy đó. Ông lái đò cũng nói theo
và thêm lời mừng cho. Mãi bây giờ Tam Tạng
mới nhận ra được là mình đã thoát
xác phàm, cảm thấy nhẹ nhõm bước được lên bờ
mới quay ra lạy tạ ba "môn đệ"! Lạy tạ môn đệ ! sao lại kỳ
lạ thế. Vậy mà đó là việc hợp lý hơn hết
mà Tam Tạng đã làm được trong cả trong chuyến đi,
vì đối với Ngộ Không lẽ ra Tam Tạng đã phải lạy tạ
cả trăm lần rồi. Bởi thực ra đó không là học
trò mà là thiên thần bản mạnh phù hộ
cho Tam Tạng, nhất là Ngộ Không thì không
những là thiên thần bảo hộ mà còn là
cha linh hướng cho Tam Tạng nữa. Như vậy ta thấy rõ vai chủ chốt
là Ngộ Không, không thể chối cãi được. Sở dĩ
xưa rầy người ta không nhận ra điều đó vì tại để
mình bị vướng mắc trong hữu vi sắc tướng: coi trọng tăng, khinh
dể XÁC THÂN khỉ đột, mà không để ý đến
linh hồn của Ngộ Không, không để ý đến tên Ngộ
Không, không để ý đến cái đinh của quyển
truyện là thỉnh được kinh vô tự. Tất cả giá trị nằm
trong chữ KHÔNG đó. Tam Tạng bám vào
hình danh sắc tướng biểu thị bằng tụng kinh hữu tự thì
dù có tụng cả ngàn quyển kinh gõ vỡ cả trăm
cái mõ cũng không sao siêu thoát nổi:
sức mấy mà làm được Thầy. Trong truyện đặt làm
thầy chính là nghệ thuật của khôi hài
trào phúng: cái đáng làm thầy lại
là trò: hài hước ở chỗ đó.
Khi đã nhận ra vai chủ động rồi mà muốn nhận ra
khuôn mặt nền triết lý nọ chỉ cần xem đến các danh
hiệu của Ngộ Không. Vì với người xưa danh là
tính, cứ phân tích danh hiệu một người thì
biết bản tính người đó, tức cũng là biết
tính chất của nền triết lý nọ. Vậy danh hiệu của
Tôn Hành Giả nằm trong ba cặp danh xưng là:
Tề Thiên
Đại Thánh
Ngô Không
Ta hãy lần lượt phân tích từng cặp.
III. TỀ THIÊN
Đây là danh hiệu do triều đình của
Ngộ Không nói lên để tỏ lòng khâm phục
những quyền năng siêu việt của Ngộ Không, rồi được Ngộ
Không khoái chí nhận liền, cho đề ngay lên
lá cờ bốn chữ TỀ THIÊN ĐẠI THÁNH. Ngọc Hoàng
cho thế là phạm thượng sai quân đi đánh dẹp, nhưng
quân nhà trời thua nên bó buộc phải phong cho
Ngộ Không chức đó. Ta sẽ thấy Ngộ Không bám
sát danh xưng này, bất cứ nơi nào cũng xưng,
trên trời hay dưới đất, dưới Thủy phủ cũng nhắc tới. Bị đè
dưới núi Ngũ Hành năm trăm năm tưởng đã biết
thân biết phận, nhưng không, vừa được giải phóng
đã dùng lại ngay trong đêm đầu tiên đến trọ
nhà ông lão gần núi liền xưng: "Ta là
TỀ THIÊN ĐẠI THÁNH lâu nay nằm nơi hộp đá,
chắc Ngài đã có dịp tới xem. Vậy thử nhìn
lại coi có đúng chăng?" Xin thưa ngay rằng có
đúng mà cũng có trật. Ta hãy khởi đầu
tìm xem đúng ở đâu?
22. Theo nghĩa thường thì Tề Thiên
là có quyền ngang cùng trời: "the equal of
heaven". Chữ TỀ là bằng, là ngang nhau. Tề Thiên
là ngang với trời, điều đó có thực chất được biểu
lộ bằng nhiều cách như sau:
Trước hết là Ngộ Không độc lập ngay từ trong cách
xuất hiện, đến Trời cũng không hay biết (Trời đây là
theo quan niệm Phật giáo bé hơn ông Phật): như vậy
Tề Thiên cũng như Trời: không do cha mẹ sinh ra, Tề
Thiên chỉ do sức nóng lạnh của nhật nguyệt lần lần tụ tinh
nứt ra một viên trứng đá, trong lâu năm trứng ấy
tượng hình rồi gặp một trận gió lớn nở ra một con khỉ
đá giống hệt như người, nhưng mau lẹ dị thường, cặp mắt
sáng chói như hai cái đuôi sao Bắc Đẩu. Ngọc
Hoàng đang ngự nơi Linh Tiêu điện thấy hào quang tự
địa giới chói lên lấy làm lạ, đòi
thiên thần đến hỏi:
- " Lúc này nơi trần gian có xảy ra chuyện chi?
Tại sao lại có hào quang sáng chói?"
Các thiên thần cũng ngớ ra không ai biết chi cả.
Ngọc Hoàng liền sai Thiên Lý Nhãn, Thuận
Phong Nhĩ ra cửa trời xem thử. Hai thần đi dò xét một
lúc về báo tâu Ngọc Hoàng hào quang
đó là đôi mắt của một con khỉ đá.
Ngọc Hoàng ngạc nhiên hỏi: " Cõi trần gian sao lại
có được loài khỉ phi thường đến vậy". Và khi biết
rõ thì phán tiếp : " Thế thì phải
làm thế nào để tiêu diệt luồng nhãn khỉ
đó đi."
23. Giới thiệu Ngộ Không lớn lao như vậy, xuất
hiện độc lập bên ngoài quyền phép và sự hiểu
biết của Ngọc Hoàng đến độ làm cho Ngọc Hoàng phải
băn khoăn lo ngại, đủ biết đúng là Tề Thiên ngang
với Trời rồi còn gì.
Thứ đến sự ngang vai đó còn biểu hiện bằng vụ Ngộ
Không chọc trời quấy nước: xuống tận Long Vương nơi Đông
Hải để mượn khí giới , nhờ vậy thâu được cây Như
Ý Kim Cô Bảng. Rồi vào điện Sum La đập thần chết,
bắt Diêm Vương phải đưa sổ tử ra để xóa tên
mình.
Diêm Vương và vua Thủy Tề liền kiện lên Trời, Ngọc
Hoàng cho quân trời xuống đánh nhưng bị thua
nên bó buộc phải công nhận chức Tề Thiên của
Ngộ Không và xây nhà cho ở luôn
trên thiên cung, hy vọng nhờ đó có thể
khép Ngộ Không vào pháp luật. Nhưng uổng
công vì Ngộ Không nhờ dịp ở thiên giới ăn trộm
bàn đào của Tây Vương Mẫu, uống cạn rượu tiên
cũng như ăn cả thuốc trường sinh của Lão Tử, cuối cùng
còn đòi cả Ngọc Hoàng phải nhượng chức cho
mình. Ngọc Hoàng sai quân đi đánh nhưng thua
phải cầu viện tới Lão Quân dùng phép mới bắt
được, tính đem bỏ vào lò Bát Quái
nấu cho rục xương; nhưng nấu hết bốn mươi chín ngày
mà Tề Thiên chỉ đỏ có đôi mắt vì
khói lò quá mạnh, nhưng toàn thân vẫn
yên lành nên cứ nằng nặc đòi Ngọc
Hoàng phải nhường ngôi cho mình. Sau cùng
túng quá Ngọc Hoàng phải cậy đến Phật Tổ và
Phật Tổ phải bày mưu đánh lừa mới đè được Ngộ
Không dưới núi Ngũ Hành, bắt nằm đợi đấy năm trăm
năm cho đến lúc Tam Tạng thỉnh kinh đi qua sẽ gỡ bùa cho
qui y để theo hộ vệ trên đường thỉnh kinh.
24. Đó là tóm sơ qua những việc
khởi đầu của Lão Không. Thực không hổ danh với
cái tên Tề Thiên vì toàn làm
những việc lớn lao có tầm mức vũ trụ như trời vậy.
Tề Thiên nói : " Tai bên tả ta nghe được những
chuyện trên trời, tai bên hữu ta nghe được những chuyện
dưới đất." Chỗ khác trả lời Tam Tạng có nói: "Việc
lấp bể vá trời tôi còn làm được huống chi
là hú gió cầu mưa"
Tam Tạng chưa đạt thuật đằng vân còn Ngộ Không
đã bỏ thuật đó lại xa để hiện thực pháp CÂN
ĐẨU VÂN mau hơn cả ngàn lần.
Sa Tăng hỏi đường đến Tây bộ còn bao xa, Tề Thiên
nói: "Đường đi từ Tây bộ đến Đông bộ cách xa
mười muôn tám ngàn dặm nay đi mười phần mới được
một."
Bát Giái hỏi : " Biết đi mấy năm cho tới."
Tôn Hành Giả thưa: " Nếu như hai em thì đi chừng
mười ngày. Ta thì trong một ngày vừa đi vừa về năm
chục lần. Còn như sư phụ thì ôi thôi hết
trông hết đợi."
25. Tam Tạng hỏi: "Ngộ Không người nói ta
đi mấy mươi năm mới tới?"
Tề Thiên thưa: "Thầy đi từ nhỏ tới già rồi trẻ lại đi nữa,
cứ thế phải một ngàn kiếp chưa chắc đã đến Tây
phương, nhưng lòng thành thì ngó thấy
Tây phương cũng gần." (nếu lấy sự mau lẹ này làm
thước đo dễ thấy Tam Tạng kém hơn Ngộ Không cả hàng
triệu lần). Tam Tạng chậm hơn Sa Tăng, Bát Giái
ngàn lần còn hai người này chậm hơn Tề Thiên
một ngàn lần: đi mau như vậy đủ biểu lộ sự lớn lao của
các việc khác cũng vẫy vùng trong khoảng trời đất
như Trời. Đó là hình ảnh của Tề Thiên. Nếu
hỏi đã bằng Trời sao còn bị Trời Phật cầm giữ? Đây
là chỗ dần nói đến cái dở của Tề Thiên.
Cái dở không ở chỗ nhận thức được mình bằng Trời,
mình là con Trời và lý tưởng phải
HÒA HỢP VỚI TRỜI tức phải bằng Trời: Tề Thiên. Nhận
xét điều đó không là lỗi mà
chính là bước tiến quyết liệt của tâm thức
trên đường học hỏi triết lý "thiên địa vạn vật nhất
thể" theo đó mình là con Trời, mình
là một tiểu Thượng Đế đã tách ra khỏi Thượng Đế
Cha để xuống trần học bài tiến hóa, nhưng rồi mê
trần, nhiễm trần, vong thân không nhận ra chân
tính mình là Trời, phải dầy công tu luyện
lắm mới nhận ra mình với Thượng Đế không hai.
26. Như vậy nhận thức được điều đó là
một bước tiến vĩ đại, cớ sao lại bị trách phạt. Thưa bị
trách phạt vì Tề Thiên đã khai thác
chân lý đó theo chiều sân hận, theo kiểu
vô minh là muốn ăn thua với Trời, vì đó
mà mắc lỗi. Cùng một sự thực "Tề Thiên" mà
nhìn trong minh triết thì là một bước tiến. Nhưng
nhìn theo sân hận thì là một lỗi lầm. Lỗi
lầm của Tề Thiên phải là lời cảnh cáo gửi tới
các vị tu hành chớ bao giờ kiêu ngạo, tưởng
mình là lên cao lắm mà sinh lòng tự
phụ, nhưng phải nhớ là đường tu còn dài vô
kể, luôn luôn phải kiên trì và
khiêm tốn, chớ bao giờ tự phụ đã đi tới cùng, nhất
là đối với những bậc bên trên chớ tưởng mình
đã cao hơn cả. Tự cao mấy cũng còn có chỗ thấp.
Ngay Ngọc Hoàng (hiểu theo kiểu Phật giáo đặt Ngọc
Hoàng bên dưới Phật) cũng còn đầy những giới hạn.
Ngọc Hoàng cũng mu mơ không biết Tề Thiên ra đời.
Không đủ sức đánh dẹp phải cầu viện Phật Tổ. Nhưng cả Phật
Tổ cũng như Lão Quân tuy có hơn "Trời" nhưng cũng
chưa vô cùng. Chỉ hơn Tề Thiên ít nhiều về
quyền năng, chứ về đức bao dung quảng đại thì còn nhiều
khuyết điểm. Có những điều Ngọc Hoàng biết mà
không dám nói ra trước mặt Tề Thiên
thì đủ biết Tề Thiên cũng đáng nể mặt lắm chứ, cũng
nên chú ý Trời trong Tây Du ám chỉ
triều đình nên chẳng thiếu điều đáng chống đối.
29. Đấy là lý do của biết bao lời cũng
như thái độ Ngộ Không bị gọi là ngang tàng:
tự do mắng Trời, chửi Phật, trách Lão Quân. Quan
Âm năng bị chửi nhiều nhất, có lần Tề Thiên cho
là nham hiểm " Đã hứa đi hứa lại là sẽ băng trợ
cho thầy trò trên đường đi thỉnh kinh, vậy mà
còn có lần xúi bầy yêu ma làm hại
chúng ta, lời nói như vậy tin sao được. Chả trách
suốt đời sẽ chỉ là một gái ngồng chổng mông
gào chồng" (No wonder she will remain a spinster all her life –
Hồi 35 bản dịch của C.T. Hsia trong The Classic Chinese Novel p. 136.
Không có trong bản dịch Việt) Đại loại những lời bằng vai
như thế có đầy trong Tây Du. Phải cho Tề Thiên mắc
lỗi rồi gặp nạn mới tiện cho Tề Thiên nói lên những
lời chỉ trích Tam Giáo hữu vi như vậy. Ngay về mặt lỗi
phạm cũng đặc biệt: Tam Tạng bị đầy vì không tụng kinh,
Bát Giái vì ve gái, Sa Tăng vì lỡ
tay đánh vỡ chén lưu linh, còn Tề Thiên bị
đầy vì tội đại náo thiên cung, làm đảo lộn
hỏa ngục, nghe vẫn thấy có cái gì lớn lao:
đã bị giam giữ năm trăm năm, còn trước nữa chẳng biết kết
tinh từ lúc nào, xem về sau thì là bất tử:
như Trời rồi còn chi. Thật là Tề Thiên Đại
Thánh!
IV. ĐẠI THÁNH:
28. Sau TỀ THIÊN ta haỹ tìm nghĩa chữ Đại
Thánh. Theo đồng văn lớn của Việt Nho thì Đại
Thánh có nghĩa là đại thành, mà
cái thành lớn lao hơn hết là thành
nhân. Vì vậy chữ này không nên dịch
theo tinh thần tôn giáo là great saint mà
phải dịch là great sage tức là người không những
đã phát triển được khả năng cao siêu tiềm ẩn nơi
mình mà còn giúp người khác cũng
được phát triển như vậy nên chữ thành NHÂN ở
đây nên hiểu bao gồm cả Tiên Phật. Sự thành
tựu này phát xuất tự bản tính con người được định
nghĩa như một tài, một TÁC tức nét nổi hơn hết
làm nên con người, làm cho con người biệt lập khỏi
tất cả muôn vật ở tại chỗ nó là một TÁC GIẢ,
một TÁC NHÂN theo đúng nghĩa chữ tác
là tự chủ, tự động về các động tác của
mình, vì thế tự động tự tác trở nên thước đo
tầm mức con người. Thiếu nó thì không ra người,
cũng như ra người nhiều hay ít là do sự tác động
tự nội có nhiều hay ít.
29. Nếu quan sát trình sử con người ta sẽ thấy con người
"làm ra" hết. Trong các việc loài người thì
việc cao trọng hơn hết, lớn lao hơn cả là thành
nhân. Khoa học nào giúp vào việc ấy hơn hết
thì gọi là minh triết: Wisdom, người thành
nhân là triết nhân: sage, là thánh.
Vậy thánh là thành. Thánh nhiều gọi
là chí thành, chí thành cùng
cực kêu là thần, mà thần thì vô phương
hay là vô vi tức vô thanh, vô xú. Theo
chiều hướng này các triết học lý niệm bàn
về trời, đất, sự vật đều căn cứ trên sự có (hữu thể) hữu
vi, chỉ nên gọi là Ý THỨC HỆ hay tồi hơn là
Ý HỆ, là triết học. Chỉ có khoa nào đi
sát nút vào việc làm nên con người
mới đáng gọi là minh triết . Minh triết giúp
làm nên những bậc chí thành. Các
tôn giáo gọi bậc thành công cao trọng của
mình là thánh, triết cũng gọi là bậc
chí thành của mình là CHÍ
THÁNH, nên hiền thánh được gọi là
thánh triết. Nhưng gọi thế là a dua với tôn
giáo chứ thực ra thì các thánh trong
tôn giáo theo một quan niệm khác hẳn về con người
cũng như lối tu luyện. Về con người thì quan niệm có hồn
có xác, hồn chỉ khác xác vì
thiêng liêng chứ cũng hạn hẹp như xác, cùng
lắm thì bất tử về thời gian biệt lập chứ thiếu không gian
đi kèm nên không có tính cách
vũ trụ, tức lớn lao như trời với đất. Đó là về quan niệm
con người: chỉ có tiểu ngã không có Đại
Ngã. Không thể có Tề Thiên nên cũng
không có Đại Thánh theo nghĩa chí
thành như Thần.
30. Đến như đường lối tu thân thì theo
kiểu thanh giáo tiêu cực cho rằng muốn cứu hồn phải
làm cho xác teo lại: xác càng teo
thì hồn càng phổng. Vì vậy mà có đủ
các thứ giới kị. Trái với Tề Thiên Đại Thánh
tu thân theo lối "mậu thân" hay "mậu kỷ" tức là
làm cho tươi tốt phát triển hai vòng: cả tiểu
ngã vòng ngoài lẫn Đại Ngã vòng
trong. Về tiểu ngã cũng phải toàn diện, nói theo
tôn giáo thì cả hồn lẫn xác.. câu tục
ngữ "mens sana in corpore sano" là đi theo chiều hướng
này. Vậy khi nói chí thành phải hiểu theo
quan niệm toàn diện nọ. Toàn diện hàng ngang
là cả hồn lẫn xác, còn hàng dọc là
cả tiểu ngã lẫn Đại Ngã.
Trong Tây Du, Ngộ Không đã tỏ ra hiện thực được điều
đó ở cả hai cấp. Trước hết ở đợt tiểu ngã vì
có can trường dám nhảy xuống biển sâu đạt chức
làm vua, xưng mình là MỸ HẦU VƯƠNG: Như vậy
vòng ngoài chính trị đã lên tới
chóp bu rồi tức làm cho mình cũng như cả nước
mình được sung sướng hạnh phúc.
31. Thế nhưng Đại Thánh chưa bằng lòng
vẫn tuyên bố là không mãn nguyện với
cái phạm vi chật hẹp hiện tại vì còn bị tận
cùng bằng cái chết. Đại Thánh muốn tìm phạm
vi bao la hơn, bao la vô cùng được biểu lộ bằng sự mong
mỏi đạt tới trường sinh bất tử. Sự ao ước đó báo hiệu
rằng trong con người Đại Thánh có khả thể nọ.
Chính khả thể nọ làm nảy sinh ra ước muốn kia. Nhưng
không cứ ước ao là đủ, còn cần phải có
cái gì dẫn đến sự hiện thực mới là tác động
hoàn chỉnh. Thế là ĐẠI THÁNH nhất định từ bỏ Thủy
Liêm Động để đi tìm thầy, vì đường dẫn tới chỗ
chí thành không những bao gồm tiểu ngã
mà luôn cả Đại Ngã bao la như vũ trụ, không
thầy làm sao nên. Vì đây là một vượt
thoát thiết yếu để con người đạt cứu cánh nhưng cho tới
nay số đạt còn quá hiếm. Điều đáng nói
là hiếm ngay trong sự nhìn ra. Nói khác rất
họa hiếm các triết gia nhìn ra được cứu cánh con
người. Đại Thánh đã cảm thấy sự thúc đẩy mạnh mẽ
trong tâm hồn nên cất công đi tìm. Cuộc kiếm
tìm này thực chưa có ai để công sức
vào nhiều như vậy: lặn suối trèo non vượt qua hai đại
dương, trải suốt chín năm trời, tìm đến bao động
Tiên cửa Phật, nhưng than ôi đi mãi mà chỉ
gặp bọn đồ danh mưu lợi không hề biết đạo là gì
(hồi 16) mãi sau chín năm trời mới tìm ra được
thầy ở LINH ĐÀI PHƯƠNG THỐN. Bốn chữ này có nghĩa
là tâm đạo VÔ VI, vượt xa hữu vi sắc tướng.
32. Thầy thấy Ngộ Không thông minh duệ
trí phi thường, nên đặt cho tên TÔN NGỘ
KHÔNG, đúng là tên trung thực, nó bao
hàm khả năng còn muôn trùng. Vì vậy
cho ở lại hưởng chế độ lưu trú vừa làm vừa học: cứ như
thế suốt bảy năm trời. Có lần Ngộ Không nghe kinh thấm
ý liền cào tai gãi mặt, trợn mắt nhướng
mày, khua tay múa chân đến nỗi nhảy vọt ra
ngoài hàng mà không biết. Thầy thấy Ngộ
Không có khiếu thông minh vượt xa các bạn
đồng học nên bằng lòng truyền phép, liền kể ra
các môn cao học để tùy ý Ngộ Không
chọn. Ngộ Không xin học môn nào cho phép
mình sánh được cùng Trời Đất, sống lâu
muôn thuở, đầy đủ tinh thần, không bao giờ bệnh hoạn. Thầy
kể ra nhiều đợt đều bị Ngộ Không từ chối hết, cuối cùng
đến các phép lạ thì đạo tiên gồm có
36 phép thiên can, 72 phép địa sát. Ngộ
Không xin học 72 phép cuối cùng này. Trong
suốt bốn năm được thầy truyền riêng, Ngộ Không luyện tập
thông thạo " Tổ sư mừng được người học trò phi phàm
tuyệt thế." (hồi 29) Sau này trong cuộc hành trình
dài lâu phải chiến đấu với đủ hạng yêu quái
ta sẽ thấy Ngộ Không thi thố sở học như thế nào: khi
thì biến ra con ve, con chim, khi lại ra con kiến, con bọ.
Có lúc biến ra trăm ngàn Ngộ Không
khác .. nước lửa không làm chi nổi. Lão Tử
bắt được Ngộ Không cho vào lò Bát
Quái nung 49 ngày đêm mà vẫn sống như
thường, còn đủ sức đòi Ngọc Hoàng nhường chức.
Phật phải giảng giải hơn thiệt nhưng Ngộ Không bất chấp,
nên Phật lại phải lý luận theo triết lý tác
động nghĩa là bảo Trời không tự nhiên được cao cả
như vậy đâu, sở dĩ Trời được như vậy cũng là do công
tu luyện lâu hơn Ngộ Không. Thích Ca cười
nói: "Chẳng qua ngươi chỉ là một con khỉ thành
tinh sao dám lớn mộng cướp ngôi Trời" Vì Thượng Đế
tu đến một ngàn năm trăm năm chục kiếp, mỗi kiếp có nhiều
vạn năm, còn ngươi tu luyện bao lâu mà dám
giành ngôi báu?" Tề Thiên vẫn hiên
ngang nói: "Đi tu nhiều để rồi làm vua cho được lâu
sao? Hễ thiên địa tuần hoàn thì ngôi
báu cũng phải thay đổi. Ngươi mau bảo Thượng Đế nhượng
ngôi, bằng không ta phá nát thiên
cung."
33. Chỗ này xem ra Đại Thánh không
trả lời thẳng lý luận của Phật Tổ đặt nặng trên công
tu luyện lâu đời, mà lại nói đến đổi thay coi như
ngụy biện, kỳ thực thì vẫn còn nằm trong bầu khí
triết lý tác hành: lúc nào cũng
tôn trọng sự biến động vì nó là căn để của
tác hành, cho nên Trời không thể cậy
vào công lao đã tích lũy do tu rồi mà
hưởng tọa kỳ thành: sái với dịch lý lắm!
Thấy đấu lý không xong Phật Tổ phải đổi chiến thuật bằng
đấu phép: thách Ngộ Không nhảy qua được bàn
tay của mình. Ngộ Không liền dùng phép
cân đấu vân nhảy một cái tới tận chân trời,
thấy có năm dãy núi liền đề tên mình
và cẩn thận đái vào chân núi để
có bằng chứng cụ thể, rồi về khoe với Phật là đã
nhảy xong. Phật liền giơ bàn tay còn ướt nước tiểu của
Ngộ Không, thì té ra năm dãy núi chỉ
là năm ngón tay Phật. Phật liền úp bàn tay
xuống đè Ngộ Không dưới núi Ngũ Hành. Sự
đè này chỉ nói lên giới hạn của Ngộ
Không, nhưng không phá nổi tính chất lớn lao
cao cả của Tề Thiên Đại Thánh.
34. Thỉnh kinh về rồi không thấy Ngộ Không
thêm được phép chi ngoại trừ được phong chức, mà
phong chức chẳng qua là việc hữu vi: tuyên dương chuyện
đã qua, đã có rồi. Còn Tam Tạng thì
trút được xác ngoài, nhưng không do đọc kinh
mà do sự đi đường chịu khó và nhất là do
công "ông thầy" Ngộ Không. Nên thay vì
thỉnh kinh thì chỉ là một cuộc thay kinh, vì kinh
chùa đọc không cứu được hồn, còn kinh xin về sau
cũng không thêm lên được chi còn phải tẩy đi
nữa, như đã được hiện thực trong lịch sử tự "duy thức" ra A Di
Đà và Thiền. Đủ biết sức thánh của Tề Thiên
thực là vĩ đại, đáng tên là ĐẠI THÁNH
viết hoa.
TÔN NGỘ KHÔNG:
Bây giờ đến tên cuối quan trọng hơn hết
cần được nghiên cứu đặc biệt đó là Tôn Ngộ
Không. Đây là tên ông thầy của Tề
Thiên đặt cho và được Ngộ Không luôn
luôn nắm giữ, sau này Tam Tạng đề nghị đặt tên
khác Ngộ Không từ chối lấy cớ rằng đã có
tên rồi. Đó là một sự từ chối cực thông minh
tỏ ra hiểu được tên kia chứa cái tôn chỉ, cái
tinh túy hơn hết, không thể nào có tên
cao hơn được nữa. Nó nói lên nét đặt biệt
cùng cực của triết lý Ngộ Không. Vì thế Tam
Tạng có đặt cho Ngộ Không tên Tôn Hành
Giả thì Ngộ Không ư hự vậy mà không
dùng, chỉ đôi khi xưng mình là LÃO
TÔN thì chữ Tôn đã có trong tên
trước rồi, vì hai chữ HÀNH GIẢ chẳng qua là quảng
diễn ý tưởng tác động, tác hành đã
nằm trong chữ ĐẠI THÁNH, chứ không thêm chiều
kích mới gì vào phương pháp của triết
lý có sức giúp làm nên Tề Thiên
Đại Thánh cả. Hỏi rằng làm thế nào để có
thể lớn ngang với Trời để nên Đại Thánh, trả lời rằng
đó là chữ KHÔNG. Đây là tư tưởng đặc
trưng của triết lý Đông Phương gồm cả Việt Nho lẫn Ấn Độ,
cả hai đều đặt nền trên chữ không. Muốn đạt cùng
đích, đạt cuộc sống cùng cực thì phải dùng
cái KHÔNG làm phương tiện. Dùng cái
hữu vi như Tam Tạng, thì dầu có tụng hết ba tạng kinh
cũng không siêu thoát được.
36. Vậy xin hỏi thế nào là Không?
Ấn Độ hiểu chữ không trên cấp SIÊU HÌNH,
đó là cái không không "neti neti"
mà nhà Phật diễn bằng "Thái Hư", Tàu diễn
ra "sắc sắc không không" thuộc về sự vật.
Đó là cái vô thể đối đầu với cái hữu
thể (ontology) siêu hình của Tây Âu.
Cái hữu thể này đặc sệt hữu vi tính nên được
liệu lý bằng những nguyên lý của sự vật im
lìm bất động tức nguyên lý đồng nhất A bằng A,
cùng với công ty của nó như "căn nguyên",
"triệt tam" .. Đấy quả là những tay tuộc giam giữ triết học lại
trong cái bất động bầy nhầy tai hại. Triết Ấn Độ đã muốn
thoát bằng chối bỏ HỮU THỂ để đặt cước trên VÔ THỂ.
Nhưng kết quả cũng bất động như hữu thể: chỉ vì nó
là vô thể giả hiệu. Nếu là VÔ THỂ trung thực
thì đó là chân không mà
"chân không thì sẽ diệu hữu". Nhưng đây
không có diệu hữu nên ta phải kết luận là
cái KHÔNG thiếu chân thực, cái không
giả tạo ở cùng một bình diện với cái CÓ,
nên là cái KHÔNG đối kháng tức
là cái KHÔNG CÓ ở trong hình danh sắc
tướng y như cái CÓ vậy.
37. Áp dụng vào trường hợp Tam Tạng: tuy
biết nền móng Phật là Thái Hư nhưng trong thực tế
toàn tụng kinh HỮU tự, thì linh hồn bị trì
kéo xuống còn gì, phương chi còn biết bao
thanh sắc đi kèm, ê a chuông mõ, nghi lễ rềnh
rang. Vì thế quả là cái KHÔNG giả tạo,
đã không thể giải thoát được linh hồn, mà về
xã hội cũng không nhờ được chi do cái không
kiểu đó. Trên cấp siêu hình thì
toàn là quỉ ma yêu quái tác hại.
Chính vì cái VÔ VI giả tạo đó
mà tôi đã phải đưa ra danh xưng mới là AN VI
bao gồm cả HỮU VI lẫn VÔ VI. Lúc ấy vô vi sẽ
không còn hiểu theo kiểu siêu hình của HỮU
THỂ học Tây Phương, nhưng hiểu là HƯ TÂM, nói
theo đạo "Trống" của Việt là làm cho tâm hồn trống
rỗng. Lúc đó con người mới trông nghe được mệnh
lệnh từ đáy tâm hồn. Những mệnh lệnh đó làm
nên tính bản nhiên của mình mà
không bị những mệnh lệnh trung gian ngăn trở. Khi không bị
trung gian ngăn trở thì mệnh lệnh phát ra từ tâm
tính được trong sáng ví như ánh chiêu
dương trong suốt chưa bị bụi trần ai làm vẩn đục nên gọi
là "triêu văn đạo" nghe đạo ban sáng.
38. Vậy đó là con đường của Ngộ Không trong cuộc
hành trình Tây Du. Các ngãng trở
tâm hồn được biểu thị bằng các yêu ma đủ loại
phát xuất từ đất cũng có mà tự Trời, tự
Tiên, Phật cũng có, nó ngăn đường thầy trò
không đến được núi thánh Linh Sơn. Trong thực tế
những yêu ma đó chỉ những câu chấp, những
thành kiến bé nhỏ, những tư ý tư dục. Chúng
có vô số nhưng chia ra được hai loại ; một thuộc
BÁI VẬT bao gồm những tin tưởng tai dị quỉ ma; một thuộc
Ý HỆ thuộc những thuyết lý, ý niệm (địa); cả hai
làm ngãng trở không cho con người phát triển
thân tâm, nên gọi là vong thân với nghĩa
quên thân mình hoặc bán thân tâm
mình cho bái vật và ý hệ tùy nghi xử
dụng. Đó không là những câu nói
bóng bảy suông mà kéo theo những sự thực
hãi hùng đã xảy ra. Muốn thấy rõ chỉ cần
nghĩ tới những cuộc sát tế trẻ con trong những nghi lễ tế thần
Moloch hay giết người moi tim tế thần Astec. Hoặc hạ thấp xuống một bậc
thì như những Kim Tự Tháp, các đền điện khổng lồ
như Ziggurat bên Assyria hay Angkor Wat bên Cambodia. Bao
nhiêu tài năng trong nước đều thu quén vào
việc thờ thần, bỏ bê con người trong đói rách bần
khổ... Bên dưới nữa còn biết bao những cái như vậy
nhưng tế vi nên con người không thấy. Đó là
bái vật. Ý hệ cũng tai hại hơn kém.
39. Ngộ Không đã vượt qua ý hệ
biểu thị bằng vụ giết sáu tên cướp TAI, MẮT, MŨI, LƯỠI,
Ý, THÂN. Đó la lục căn lục trần gọi là lục
tặc mà Ngộ Không đã luôn nhắc Tam Tạng phải
nhớ: Thầy chưa học và hành được chữ không nên
cứ lấy giả làm chân, mắc vào vòng lưới hiện
tượng, nói kiểu triết là vướng mắc trong bái vật
và ý hệ. Bên các xã hội Việt Nho
bái vật và ý hệ không phân rõ
như bên Âu, bên Ấn là nhờ sự thành
công của triết lý. Tuy nhiên trong dân gian
cũng còn lại vô số tin tưởng tai dị được Phật giáo
và Lão giáo khai thác.
Phật nếu hiểu về phương diện triết lý thì đã đạt
Thái Hư, Nát Bàn. Nhưng sau năm trăm năm
thì như chính Phật đã tiên tri đạo đã
đèo theo một mớ bái vật với những điều cưỡng hành
biểu thị bằng cái vòng siết cô của Quan Âm
đã trao cho Tam Tạng tròng lên đầu óc
Hành Giả, để tiện bề sai khiến: mỗi khi đọc chú cẩn
cô thì vòng đó xiết vào đau đớn,
bó buộc Ngộ Không phải tuân theo mệnh lệnh.
Vòng xiết cô biểu thị hình ảnh của 36 thứ Âm
phủ đã được gieo vào tâm trí con người
lúc nhỏ, nên nó ăn rất sâu khiến người ta sợ
sệt, vì vậy mà phải vâng mọi giới điều của tăng lữ
bày ra, nếu không sẽ bị sa vào âm ti.
Đó quả là cưỡng hành, một thứ tác động sẽ
kìm hãm con người trong cõi hiện tượng dầy đặc
không thể ngoi lên được bậc an vi thanh thoát.
40. Cưỡng hành còn hại hơn nữa vì
nấp dưới những cái vỏ được đề cao là tốt đẹp. Bởi thế
mà Ngộ Không đã có lần dám chửi Quan
Am là nham hiểm vì còn dùng tới cưỡng
hành: Ai đã hiểu được những trở ngại mà tâm
thức con người mắc phải như được khoa phân tâm khám
phá ra mới thấy câu chửi kia là hữu lý.
Những người chỉ biết có giới với răn như Tam Tạng và
Bát Giái thì tâm thức khó trông
vươn lên nổi đợt an vi, bởi bị ràng buộc quá chặt
bằng mớ giá trị giả tạo tiêu cực. Chỉ có giá
trị tích cực khi sau giới còn có thêm bốn
bước nữa là định, tĩnh, an, lự mới đạt đợt an vi, nơi
không gì cưỡng ép hay dụ dỗ, thí dụ những
huấn giáo về nhân luân là an vi vì
đằng sau không có âm ti để dọa, cũng không
có cõi Tiên để hứa. Phật triết đã vươn
lên đến đợt an vi như bày tỏ trong chữ Thái Hư, chữ
Chân Không, nhưng Phật giáo xét như một tổ
chức thế tục vẫn còn dùng quá nhiều trò hữu
vi cưỡng hành, thí dụ chữ hiếu đạo Phật cũng nhận như Nho
nhưng Nho chỉ nói phận làm con phải hiếu thảo vậy
thôi, còn Phật giáo thì bày ra tới 8
tầng hỏa ngục để phạt những đứa con bất hiếu, như vậy là
còn quá cưỡng hành. Tuy nhiên lợi
hành nhiều hơn vì có đến 32 cõi thiên
đàng để thưởng người làm lành; số thiên
đàng trội hơn số hỏa ngục. Ngộ Không đã phá
cưỡng hành biểu thị trong việc giết thần chết, và lợi
hành bằng làm náo loạn thiên cung...
Đó là những việc nhằm vươn ra khỏi cõi hiện tượng.
Cõi của các tai dị.
41. Phần lớn các tai họa xảy đến cho
đoàn hành hương là do sự tin tưởng của các
yêu tinh rằng nếu được ăn một miếng thịt của Tam Tạng người
đã tu cả mười kiếp thì sẽ đạt được trường sinh ngần ấy
năm. Thật là trái với đạo tác hành
là phải tự mình làm ra, tự mình tu lấy.
Đằng này đòi ăn sẵn: ăn thịt người đã tu để thừa
hưởng công quả đã tích lũy nơi nhà tu
hành. Đó là một ý niệm sai lầm, nó
đã kéo theo những điều độc ác như ý muốn
tìm cách kéo dài cuộc sống của mình
bằng cướp đoạt sự sống của tha nhân. Xin nhắc lại Ngộ Không
đã đả đảo kịch liệt ý niệm tai hại nọ trong vụ đái
vào các chum đựng thuốc trường sinh của Lão
Quân.
42. Đó là tóm sơ qua các
cuộc trở ngại trên con đường hành đạo: muốn đạt đạo cần
phải xả cho hết các ý niệm sai lầm bất cứ thuộc
bái vật hay ý hệ. Cuộc hành hương của bộ bốn
đã làm việc xả đó được biểu thị cách
thú vị bằng các cuộc đả phá yêu quái
tưng bừng do Ngộ Không. Ngộ Không đại biểu cái
tâm đã thức giác nên đầy diện hữu với 72
phép thần thông, với trí tuệ siêu phàm
bên cạnh một Tam Tạng đại diện cho giai đoạn chưa ngộ được
không. Mãi đến lúc vào đất Phật, Tam Tạng
mới trút được xác thân là bước sửa soạn để
đạt tới không, nhưng chưa biết đến kinh vô tự. Các
kinh vô tự được phát trước là vô tự giả y như
chữ Thái Hư của Phật đã bị suy vi, hiểu trật ra
bình diện hữu vi: KHÔNG chỉ có nghĩa là
KHÔNG CÓ, tức hoàn toàn tiêu cực.
Đó là vô tự giả, vô tự gì mà cả
một gánh nặng, tức còn lệ thuộc lượng số. Nếu là
vô tự đích thực chỉ cần vài ba trang như
sách Lạc Long Quân ban cho Thần Tản Viên. Còn
đây chẳng qua là cái không giả tạo ban ra
vì tức giận. Không là không , mà chưa
phải thứ chân không diệu hữu : không lời mà
chứa muôn lời. Còn đây không lời chỉ là
không có lời. Đó là cái KHÔNG
đối chọi với cái CÓ. Đó là cái
không bậc thấp nó hợp với Tam Tạng còn đang
bì bõm trong đợt hữu vi đặc sệt (to have) chưa biết đến
an vi "to be", nên mang tên là Tam Tạng thì
quá đúng. Đầu óc mà lèn vào
những ba tạng kinh thì còn chi là thanh
thoát. Ngu là phải.
43. Ngay đến Ngũ Hành chưa phải là
sách mà Tề Thiên còn bị đè, vì
hành ngũ bị bao vây bởi những tin tưởng của bọn âm
dương gia, nó làm tê liệt các hủ nho
nên cũng ví như bị ngũ hành âm dương
ràng buộc suốt hai mươi lăm thế kỷ không thấy "hành
vô địa" đâu cả. Tề Thiên bị đè dưới Ngũ
Hành biểu thị cho Nho ở giai đoạn tê liệt này,
không phải Phật nào đè mình, mà
chính là mình tự đè mình, đè
mình bằng tiểu tâm hạ trí. Nói Phật
đè Tề Thiên dưới Ngũ Hành là mình
đè mình bằng tiểu tâm, bằng ý niệm nhỏ nhen.
Còn sự cứu do Quan Âm Thiên Thủ Thiên
Nhãn, đó là biểu thị lối tác hành
và sống cao nhất ví được như xem bằng ngàn mắt,
bắt bằng ngàn tay. Đấy là kiểu nói lên độ
tác hành cao đến cùng cực. Tất cả bầu năng lực
được giồn vào công việc, không còn bị chia xẻ
ra cho ngoại vật như ở hai đợt cưỡng hành và lợi
hành như được bày tỏ trong chuyến đi: nhiều lúc ta
có cảm tưởng như mọi người đã chán nản ngã
lòng, cả đến Quan Âm đã giứng tác ra cuộc
đi, lại đã hứa phù hộ thầy trò khỏi các cơn
nguy biến, vậy mà có lúc như quên
lãng, chỉ còn lại có Ngộ Không là
kiên trì tận tụy.
44. Ngoài ra lối hành xử của Ngộ
Không nói lên lối sống cao nhất. Ông C.T. Hia
nhận xét rằng: "Mặc dầu Ngộ Không cũng là một
nhân vật phản loạn như rất nhiều nhân vật thần thoại trong
thế giới, nào là Prométhee Hi Lạp, Ravana An Độ,
nào là Satan trong Paradise Lost nhưng điều không
giống các nhân vật kia là óc hí lộng
hài hước của Ngộ Không biết nói lên tâm
hồn thanh thoát, biết hỉ xả một cách nhẹ nhàng."
Điều này chỉ thể đạt được trong bầu khí triết lý
an vi không bám vào động hay tĩnh, có hay
không, nhưng như nhảy nhót giữa hai bờ: có
mà như không, không mà lại có,
lúc động lúc tĩnh tùy thời. Đó là
căn bản của sự chơi. Cái tinh thần thanh thoát,
trào lộng, hí hước đó đem lại cho truyện Tây
Du một bầu khí vui nhộn, hài hước, thú vị cao độ
và là bí quyết giải nghĩa các danh xưng
trên là Tề Thiên Đại Thánh. Nếu hỏi tại sao
Tôn Ngộ Không đáng tên là Tề
Thiên, là Đại Thánh thì câu thưa nằm
trong chữ Ngộ Không: tức vì Lão Tôn Ngộ được
cái Không chân thực nên đạt diệu hữu trong bốn
chữ Tề Thiên Đại Thánh vậy.
IV.TRIẾT LÝ CỦA TÍNH NGÔNG
HÀNG DỌC:
A. Liên hệ giữa Ngộ Không với Việt
lý:
Nhiều người đọc Tây Du rất thích
Tôn Ngộ Không, nhưng đôi khi trách là
quá ngang ngược: không còn kể chi tới Trời đất nữa.
Người khác thì cười vui không trách cũng
không khen: coi đó chỉ là một lối trào
phúng vui nhộn thôi, chứ không để tâm đến
các điều hàm chứa bên trong.
Sự thực thì cái ngông của Ngộ Không có
một giá trị đặc biệt phát xuất từ một bối cảnh lớn lao
mà xưa nay chưa được xét tới. Muốn hiểu đươc chiều
sâu của cái ngông kia cần phải tìm hiểu
cái môi sinh tinh thần của nó. Nói
khác là Ngộ Không có thuộc về một
dòng tộc với một nền triết lý ngông chăng hay chỉ
là đơn phương độc mã? Lúc ấy ta mới thấy Ngô
Không thuộc dòng máu văn hóa Đại Việt chứ
không cô độc lẻ loi.
46. Để thấy điều đó chúng ta sẽ lần lượt
xét qua chốn nơi và cung cách phát xuất
cũng như tác động. Trước hết nơi xuất hiện của Ngộ Không
nằm ở biển Đông trong nước AO LAI . Vậy Lai với Lạc có
liên hệ đại tộc trong huyền sử như các tên Lai, Di
Lai, Di Việt, Lạc Việt. Do vậy mà nói AO LAI hay AO LẠC
thì cũng là "ao nhà" có tên là
AO VIỆT hoặc VIỆT TRÌ cũng thế: đều nằm trong miền có đảo
tên là Bồng Lai... Thế rồi Ngộ Không lên
làm vua ở THỦY LÊM ĐỘNG thì cũng là giống
với Lạc Long Quân ở dưới THỦY PHỦ. Ngộ Không còn
là Lân Bang với LONG VƯƠNG nơi Lã Tôn
có sang mượn được cây Kim Cô Thiết Bảng. Long Vương
với Lạc Long Quân chả cùng họ Long là gì.
47. Đấy là về nơi, còn về PHONG
CÁCH XUẤT hiện thì cũng độc lập không cha
không mẹ, không trời không đất y như ông thủy
tổ tối sơ của Việt Tộc gọi là Bàn Cổ.
Hỗn mang chi sơ
Vị phân thiên địa
Bàn Cổ thủ xuất
Thủy phân âm dương
Nghĩa là tự cường, tự lực, đến nỗi việc sinh ra cũng tự sinh!
Đến lúc đi học thì học về âm dương mà
cái tinh hoa được kết đúc theo cơ cấu gọi là huỳnh
đình.
"Gặp tiên thỏ thẻ đôi lời
Đâu nơi cực lạc đâu nơi huỳnh đình" (hồi 1)
Chữ đình đây cùng một nghĩa với chữ đình
trong Động Đình Hồ chỉ cái nhà hay cái động
rỗng. Còn huỳnh là chữ hoàng đọc trại, nó
có nghĩa la trống rỗng như được chỉ trong trung cung của ngũ
hành gọi là ngũ hoàng cực, nên huỳnh
đình có nghĩa là nhà rỗng, vì
nó nằm ở hành ngũ có tên là
hành vô địa, tức trống rỗng. Thế là tỏ ra có
họ máu hàng dọc với trống đồng ở chỗ trống và rỗng.
48. Chính sự trống rỗng đó mới có
thể làm nên nơi hội họp của thiên địa để làm
nên con người Đại Ngã được định nghĩa là
"thiên địa chi đức", nên có đủ vạn vật nơi
mình: "vạn vật giai bị ư kỷ": ai mà biết "phản tâm
nhi thành (sẽ) lạc mạc đại yên" trở lại lòng
mình vui thú xiết bao. Ông thầy dậy Lão
Tôn xưng là " câu bồ đề ": bồ đề là Ngộ,
còn CÂU là tất ca, tức hiểu cả đức Trời lẫn đức
đất. Trong Lão Tôn đức đất được biểu thị bằng cây
Kim Cô Bảng rút lên tự lòng bể Đông,
còn đức Trời là ăn những thứ quí nhất trên
thiên đình như bàn đào, kim đơn với thuốc
trường sinh bất tử, khiến cho Lão Tôn không
kém gì Trời, tự xưng là TỀ THIÊN ĐẠI
THÁNH, bắt được Trời phải chấp nhận. Thế rồi khi gặp việc cần
thì đòi Trời phải nhường chức cho mình. Rõ
ràng là dòng tộc của Bàn Cổ tự tay sắp đặt
Trời đất. Nhiều lúc trách móc cả Phật Tổ lẫn
Lão Quân cũng như dưới trung giới diệt biết bao yêu
ma quỉ mỵ. Rõ ràng là bà con của Lạc Long
Quân, vị vua cao cả đã diệt hồ tinh, ngư tinh, mộc tinh.
Lão Tôn còn tỏ ra là anh em ruột thịt với
Hùng Vương vì cũng có sách ước gậy thần:
sách ước là 72 phép thần thông biến
hóa, còn gậy thần là Kim Cô Bảng có
sức vươn tới Trời hoặc rút nhỏ lại bằng cái kim. Cả hai
sách ước cũng như gậy thần đều phát xuất từ Kinh Dịch một
cuốn kinh duy nhất trên đời là kinh vô tự.
49. Vì những lý do đó khi đọc
và ngẫm nghĩ kỹ về thân thế sự nghiệp của Tôn Ngộ
Không ta mới thấy rằng Lão Tôn không phải
là chi khác hơn là "HỒN TRIẾT GIA, DA ÔNG
TRƯỜNG" (khỉ sống lâu gọi là ông trường). Đã
sống lâu thì chắc phải có dòng tộc và
quả thực đó là con cháu của những ông chống
Trời mà một số tên tuổi được huyền sử năng nhắc nhở như
Bàn Cổ, Toại Nhân, Phục Hy, Nữ Oa, Lạc Long Quân,
Hùng Vương, Tản Viên, Thánh Gióng...
Đó là những mẫu mực tối sơ đã xuất hiện
không cha không mẹ, không Trời, không đất, hay
ít ra thì cũng làm những việc có tầm mức
lớn lao như vũ trụ. Thiếu một chuỗi những tổ phụ trên thì
không thể có Tề Thiên Đại Thánh.
50. Nói cụ thể là tác giả
Tây Du cũng phải xuất hiện trong địa bàn tổ đó,
vì Ngô Thừa An tiên sinh là người đất Giang
Tô, mà Giang Tô nằm trong nước Ngô, đời Chiến
Quốc đã bị Việt Câu Tiễn sát nhập vào Việt
Chiết Giang. Mà Việt Chiết Giang là một mảng còn
sót lại từ cái miền mênh mông của Việt tộc
khởi từ vùng Bột Hải (của Bách Bộc) một tên
khác của Bách Việt, bao lấy Sơn Đông và
Châu Từ nơi có núi Đồ Sơn quê hương của Nữ
Oa, và bà vợ Việt của ông Đại Vũ, rồi duỗi
chân vào Động Đình Hồ, Phúc Kiến cho tới
Quảng Đông, Quảng Tây, Việt Nam... Mấy địa danh đó
mới chỉ làm nên bức dư đồ rách nát của
cái địa bàn lớn hơn nữa của một miền đất mênh
mông đã sản xuất ra nền triết lý về con người cao
cả, một nền triết đã kết tinh cách cực kỳ rực rỡ
vào cái trống đồng của Việt Tộc mà những tay biết
khua lên là Lạc Long Quân, Hùng Vương,
Thánh Gióng, Tản Viên và người cuối
cùng có vẻ híp-pi hơn cả là Tôn Ngộ
KHÔNG (trống không). Nhờ đó "ba hồi trống thu
không" cứ âm vang mãi trong tâm hồn Việt tộc,
nghĩa là xưa đã có những ông chống Trời, nay
tới đời cận đại này cũng còn những ông có
máu đó.
51. Hãy kể một truyện trong nhân thoại
Việt đó là truyện "CƯỜNG BẠO ĐẠI VƯƠNG" đời nhà
Lý ở đất Vụ Bản, Nam Định. Truyện kể rằng ông là
một người rất khỏe mạnh, vạm vỡ, tính tình ngang ngạnh,
coi Trời bằng vung, nên Ngọc Hoàng cho Thiên
Lôi xuống đánh, nhưng Cường Bạo đã đánh lại
Thiên Lôi, bắt Thiên Lôi phải chạy về Trời.
Ngọc Hoàng lại sai Hà Bá làm lụt nhưng
Cường Bạo dùng cây chuối làm bè: nước
lên cao bao nhiêu bè cũng theo đó mà
lên mãi mãi, đến nỗi trở thành mối đe dọa
cho Thiên Đàng, Nam Tào, Bắc Đẩu sợ xanh mặt, Ngọc
Hoàng thở dài nói không ngờ cái thằng
đó lại quá quắt như vậy. Cuối cùng Ngọc
Hoàng không biết làm sao đành phải phong
chức cho CƯỜNG BẠO ĐẠI VƯƠNG, tự đấy Ngọc Hoàng mới ăn ngon ngủ
kỹ... Câu truyện trên quả là cùng một hơi
hưởng như TỀ THIÊN đại náo thiên cung không
mấy khác.
B. Triết lý cái ngông:
Như vậy là tính ngông có
một dòng tộc vừa lớn lao vừa lâu dài nên rất
đáng cho con cháu nghiên cứu về ý nghĩa
thâm sâu của sự vụ. Muốn hiểu tại sao có cái
ngông nọ thì cần đặt nó vào vị trí
đúng hợp, nghĩa là phải nhìn toàn thể
các lối động ứng của con người với những nhân sinh quan
kèm theo để biết tính ngông nằm ở chỗ nào,
mới trông hiểu ra được tại sao ngông là một nền
triết lý và ngông đem lại những ơn ích lớn
lao nào.
Triết lý An Vi cho cứu cánh con người là đạt được
đợt Ngộ Không, tức là giác ngộ được cái
Không Chân Thực vì đó là đường dẫn đến
diệu hữu, mà dấu bên ngoài là đạt hạnh
phúc, còn nội chất là hiện thực được những khả
năng cao cả của con người Đại Ngã vốn tiềm ẩn ở trong thân
tâm ta.
53. Nói kiểu khác thì đó
là ánh linh quang trong tâm hồn mà mỗi người
có sứ mạng phải làm cho sáng tỏ để nó chiếu
giải ra, lan to ra mãi mãi, để mở chân trời cho
tâm thức nhìn ra được những chân lý phi
thường. Muốn làm được như vậy cần phải dẹp các chướng
ngại là các dị đoan, những tin tưởng vào yêu
ma quỉ thần: những thứ này có thực và tác
hại nhiều hay ít là tùy nơi lòng con người
tin vào chúng. Tục ngữ nói "tin ma ma làm"
là câu phương ngôn cực kỳ sâu sắc chỉ rằng
cái vũ trụ âm u thần tiên ma quái có
thể làm hại mình là do mình a dua, mở đường
cho nó làm hại mình, do trình độ ấu trĩ của
mình chưa biết lối tu chân chính. Như vậy
thì cứu cánh gần của con người phải là làm
sao phá được lòng tin đặt vào những yêu
quái quỉ thần nọ. Phá xong mới trông đạt đợt ngộ
không cũng là đạt hạnh phúc. Việt lý gọi
việc phá đó là "ba hồi trống thu không"
mà trong Tây Du chỉ bằng "ba cú ông thầy
gõ trên đầu Ngộ Không".
54. Đó là cái học vô
ngôn cao nhất không còn thể biểu lộ bằng lời
mà bằng vài ba cử động nó nằm bên trên
bốn loại học khác.
Loại nhất gọi là chữ thuật dậy cho biết tiên tri.
Loại hai gọi là chữ lưu: dậy biết làm thầy, làm
thuốc, tụng kinh.
Loại ba gọi là chữ kinh: biết tọa thiền.
Loại bốn gọi là chữ động: biết hành thiền.
Loại năm thì thầy không gọi tên nữa mà chỉ
"gõ đầu Ngộ Không ba cái, chắp hai tay sau
đít, quay vào phòng, đóng cửa lại." (hồi
2). Trước cử động kỳ lạ đó các trò khác
không hiểu chi hết, nhưng Ngộ Không biết được đây
là thầy ra dấu đặc biệt nên "đến canh ba lẻn vào
cửa sau, vô phòng để thầy truyền phép" (hồi 2). Mấy
chữ ba lắp lại nhiều lần chỉ "ba hồi trống thu không" hay
là cái "chân không" có kéo theo
"diệu hữu" tức kéo theo sự tụ hội trời đất người là những
thực thể chỉ có thể hội tụ ở nơi "chân không", tức
tâm hồn trong sáng là bản chất của con người Đại
Ngã Tâm Linh vậy. Vì chữ không ấy mà
cần đi tìm kinh vô tự. Vì vô tự nên
muốn chỉ thị thì phải dùng biết bao hình ảnh
mà lẫy lừng hơn cả là cuộc Tây Du thỉnh kinh;
còn bức họa về cái chân không đó
thì trống đồng Ngọc Lữ có thể là một.
55. Đó chính là những nét
chấm phá về tiến trình nhân hóa của con
người " the process of homonization" một thực thể được định nghĩa như
la hành, là tác, tức bản tính của nó
phải là tác là động. Có tác
có động mới là người. Cái gì cũng phải
làm ra, kể cả chính mình, khởi đầu ngay tự
chính mình. Mình là gì thưa
là thiên địa chi đức. Đức là linh lực là cỗi
rễ của việc làm. Đừng tưởng rằng cái đức của trời đất kia
được cho không đâu, mà chính là người
phải làm lấy, dành lấy: phải tự lặn xuống biển
Đông, tự tay nhổ lấy bảng Kim Cô đó là đức
đất; rồi phải lên trời tìm cách ăn cho được
bàn đào, uống cho được thuốc kim đan và đòi
Trời nhường chức: đó là đức trời. Cả hai đức trời cũng
như đất đều phải tự làm ra chứ chẳng ma nào đem đến
dâng cho. Đó là tiến trình nhân
hóa đã và đang xảy ra trong loài người,
trong mỗi con người. Nó chính là trang huyền sử
căn bản nhất, phổ biến hơn cả của con người. Nên bất kỳ ở
đâu đâu cũng có thể tìm ra những truyện
truyền kỳ hoặc huyền thoại nói xa xôi bóng bảy về
trình sử đó.
56. Theo huyền sử Việt tộc với tính cách
đơn giản gọn gàng của nó thì ban đầu trời
sà xuống đất rất thấp, quá thấp đến độ làm vướng
ngà con bò vướng lưng con heo, khiến chúng
khó lòng đi lại. Vì thế mà người phải lấy
cột để chống trời cao lên đặng có chỗ mà làm
nhà cho mình (truyện ông chống trời).
Đó là mẫu truyên tuy vắn tắt nhưng lại hàm
ngụ những chân lý thâm sâu cũng như những
tác động nền tảng của con người và quyết định vận hệ con
người cách sâu thẳm về trình sử của nó. Nếu
phải gọi tên những chặng trình sử đó thì sẽ
là bái vật, ý hệ và tâm linh. Cần gọi
gọn như thế để tiện việc phân tích chứ thực ra thì
nó phiền toái hơn nhiều...
57. Vậy bái vật chính là danh từ
mà triết lý An Vi dùng để chỉ thị việc trời
sà xuống quá thấp can thiệp quá nhiều vào
cõi nhân sinh. Tức con người quá tin vào
những truyện thần thánh quỉ ma đến nỗi lấy đó làm
tiêu chuẩn đo giá trị mà không kể đến bản
tính mình, nên nói bóng là
bò vướng sừng không đi lại được, tức là những điều
"cấm kỵ của trời" không để cho con người sống theo tính
bản nhiên của mình. Điều này có nhiều cấp
bậc mà nặng hơn cả thì như những vụ giết người để tế thần
(Moloch, Astec). Còn nhẹ nhàng tế vi là những
gò bó do "mệnh lệnh của trời", thí dụ nơi
thì "trời" cấm ăn thịt heo, chỗ khác cấm ăn thịt
bò. Nơi thì cấm hát, chỗ khác bắt
đàn bà góa phải lên giàn hỏa chết
theo chồng, nơi thì cưới vợ cho Hà Bá, chỗ
khác phải dâng tim trẻ con... Kể ra không sao xiết.
Cái thì rõ rệt, cái thì tế vi nhưng
tất cả đều ngãng trở con người không cho sống theo những
nhu yếu thâm sâu của nó, khiến quay chiều nào
nó cũng vướng những mệnh lệnh, những giới truyền: chân,
tay, mặt, mắt, tóc, tai không một chỗ nào
không bị vướng.
58. Nếu muốn một hình biểu thị đặc biệt thì đó
có thể là những tượng của Ai Cập cổ đại bao giờ cũng phải
tạc trong một tư thế cố định, thí dụ mặt phải nghiêng,
nhưng mắt đầy đủ. Tay chân phải trong tư thế truyền ra sẵn.
Đó là hình ảnh con người phải vâng theo
những cấm kỵ dị đoan tà thuyết được xưng hô là mệnh
lệnh của "trời". Bao nhiêu tài sản phải bỏ ra xây
dựng những đền đài cung điện khổng lồ như Zigg Urat, Kim Tự
Tháp, Ankor Vat .. Đó là bấy nhiêu dấu vết
của trời để lại khi sà xuống quá thấp, hút hết
chất nuôi dưỡng, bắt người làm nô lệ cho những thế
lực bên ngoài con người, nên có tính
cách đàn áp con người. Vì thế muốn
là người chân thực con người phải chiến đấu để phá
những trở ngại nọ .
59. Sử trình văn hóa loài người ở
tại sự chống đối "Thần Minh" nói đúng hơn là chống
lại những quan niệm sai lầm về Thần Minh có tính
cách ngãng trở đường tiến hóa con người. Sự chống
đối mạnh nhất là thuyết vô thần. Phật Tổ cũng "vô
thần" một cây. Ngài được tiếng đã phá vỡ
"hai triệu thần Bàlamôn". Đấy là một bước tiến vĩ
đại, nhưng mới là tiêu cực chứ tích cực thì
chưa ổn. Vì vô thần Balamôn thì được, chứ
vô thần suông thì không xuôi. Thượng Đế
phải ở trên hết, phải là cứu cánh cuộc tiến
hóa của vạn vật, cũng như của con người: chưa nhìn ra
điều đó là chưa tiến hóa hết cỡ. Vì vậy
không được vô thần mà phải hữu thần, nhưng để thần
khỏi ăn hiếp thì chỉ có thể đi một đường ngông
là phải đặt mình ngang với thần, thành ra Tam
Tài, nghĩa là nếu trời làm vua, đất làm
vua, thì người cũng phải làm vua. Ai bảo thế là
ngông thì cũng không dám chối. Có điều
cần biết là chưa đâu học được cái ngông kiểu
đó. Hãy lấy thí dụ Phật giáo khi truyền
vào đất Việt là nơi có đức tính ngông
nọ, thì tất nhiên Phật cũng phải nhập gia tùy tục:
nghĩa là trước hết phải nhận có Ngọc Hoàng, thứ
đến là thử ngông một cái, tức đặt Ngọc Hoàng
vào địa vị bên dưới Phật !
60. Được chăng? Mới coi tưởng như ngông hơn Việt
đạo. Kỳ thực không là ngông mà đã sa
đọa vào tội việt vị: nói theo sách Trung Dung
thì trong Phật " Thiên địa bất vị yên, (nên)
vạn vật bất tịnh dục". Thiên địa có được đặt đúng
vị trí thì vạn vật mới được nuôi dưỡng. Đây
đặt Thiên bên dưới Phật thì làm chi có
"vạn vật tịnh dục". Cụ thể là Phật giáo chưa đi tới chỗ
phát triển cùng cực của đức tự cường, tự tác, để
đến chỗ vui chơi cùng cực như được biểu lộ trong tượng Phật Di
Lạc. Vì thế mà mặc dầu từ khi vào đất Việt, đạo
Phật đã được cải cách nhiều lần (xem kinh Hùng
bài Vang Vọng Văn Lang. Hoặc Định Hướng văn học trang 113
và 183-186) nhưng chính vì chỗ việt vị nọ
mà chưa vươn lên đến cùng cực. Cụ thể là Đức
Di Lạc cứ được truyền bá ngay từ những thế kỷ đầu là sắp
đến mà mãi chẳng thấy đến, cho nên sốt ruột
Tôn Ngộ Không phải ra đời để hiện thực phần nào tinh
thần Di Lạc là hành động cùng cực, an vui ngập
tràn. Đó mới là tinh thần ngông chân
thật. Nó không ở tại chơi Trời, mà chính
là tham dự với Trời. Vì thế ta cần nghiên cứu lại
cái đức "chống Trời" của Ngộ Không, tức là của Việt
Nho: không dám hơn Thiên mà chỉ tề
Thiên thôi.
C. Chống trời biểu diễn bằng vạch và số:
Chữ chống trời ở đây không nên hiểu
là chống đối, chối bỏ kiểu vô thần, nhưng phải hiểu
là chống lên, kê lên cho cao: xin trời
làm ơn co lên tí nữa, và tí nữa
nhường lại cho con người ít địa để cắm dùi đặng
làm ra cõi người ta. Vì thế xin đổi chống ra
chõi hầu tránh sự lầm lộn. Để tả rõ sự khác
biệt giữa chống với chõi không gì diễn tả nội dung
chữ chõi hay bằng Kinh Dịch. Mỗi quẻ dịch có sáu
hào, biểu thị bằng sáu vạch. Nếu là nhị
nguyên thì ba vạch trên chỉ trời, ba vạch dưới chỉ
đất. ==>Trời
==>Đất
Trong tình trạng đó con người không có được
tí địa nào: nằm dẹp lép dưới sức nặng của
núi Ngũ Hành. Đó là một tình trạng
vong thân khủng khiếp như ta thấy hình ảnh cụ thể trong
các bộ ba kiểu Trimurti của An Độ hay Ai Cập. Đó
là thứ hữu thần tuyệt đối, thần quá cỡ: không
còn dành cho người một địa vị như trong Tam Tài:
Thiên, Địa, Nhân của những ông chõi trời
vì đã dành lại của trời một hào đưa về cho
con người, rồi lại quay xuống bắt đất để lại cho con người một
hào nữa. Và lúc ấy ta sẽ có Thiên,
Nhân, Địa như hình sau:
Thiên<==
Nhân<==
Địa <==
64. Như vậy là người đã đạt bậc Tề thiên tề địa.
Nếu trời có hai hào, đất có hai hào
thì người cũng có hai hào. Nói vắn tắt nếu
trời là vua, đất là vua thì người cũng là
vua. Làm vua ngang với trời là hậu quả của vụ chõi
trời. Đó là đại để triết lý chõi trời
mà Lão Tôn đã hiện thực, nên khi xưng
mình là Tề Thiên Đại Thánh thì chẳng
qua là nói lên nội dung Kinh Dịch: Trời có
hai hào, Lão Tôn cũng có hai hào, vị
chi là tề thiên chứ còn sao. Đất có hai
hào đằng này cũng có hai hào, vậy là
đại thánh rồi, chứ có ngoa chi đâu.
63. Đó là một việc đầy âm vang
trong đời sống nên còn được biểu thị cách gần gũi
hơn bằng cây linh và việc làm nhà. Muốn
chống trời thì phải có cây: vì thế mà
trong truyền thuyết Việt vốn có cây linh thường được trồng
ở bên cạnh bàn thờ tế Trời, hàm ý chống trời
lên để con người có chỗ làm người gọi bóng
bảy là làm nhà. Do đấy có truyện Nữ Thần
Mộc dậy anh em Lộ Bàn Lộ Bộc làm nhà chữ Đinh.
Làm nhà chữ Đinh là làm người có
linh tính với Đại Ngã tâm linh, vì chữ Đinh
có nét dọc chỉ cái để chống y như cây mọc
thẳng, nên do Nữ Thần Mộc dậy. Mộc là cây đó.
Vì nhà chữ Đinh chỉ Đại - Ngã sánh ngang
cùng Trời, Đất, nên ba cặp hai hào được biến ra căn
nhà thái thất ba tầng để chứa được cả Trời, Đất, Người
(xem trong Chữ Thời). Vì thế khi ai đã hiện thực được
nhân tính tràn đầy thì gọi là "nhập ư
thái thất" vào được ngôi nhà vũ trụ.
Đó là những cách nói khác nhau về
hậu quả chõi trời.
64. Tóm lại, Ngộ Không chính là sơ
nguyên tượng của nền triết lý Việt Nho nhằm cải đổi Phật
giáo trong những bước cuối cùng và tế vi nhất như:
sự cố vượt kinh Hữu tự để đi đến chân kinh Vô tự, vượt giai
đoạn tĩnh thiền, để sang giai đoạn hành thiền, vượt giai đoạn bi
quan tiêu cực để đến giai đoạn dấn thân vào đời
cách an vui hí lộng. Đó là mấy bước cuối
cùng của nền triết lý siêu diệu Việt Nho cũng gọi
là An Vi: làm không vì những động lực
bé nhỏ thuộc trần cấu, nhưng làm vì những mục
tiêu cao cả như thành nhân, như giúp
vào việc tiến hóa của càn khôn vũ trụ.
Làm được như thế gọi là An Lự, hay An Vi. Trước khi đi
được hai bước An Vi phải đi qua hai bước đầu là định tĩnh. Định
tĩnh là hai bước nội thánh. Có đi xuôi mới
tới hai bước sau là An Vi thuộc ngoại vượng. Ngộ Không
đã đi qua hai bước nội thánh trong các kiếp trước
nên kiếp này chưa tu đã được chức Ngộ Không
và Tề Thiên Đại Thánh. Vì thế Ngộ
Không đã không chọn 36 phép Thiên Can
nữa, mà lại chọn 72 phép địa sát để cốt đi
vào đời đặng làm tròn 4 bước tu trì
là Định, Tĩnh, An, Lự vậy. (Đề tài này sẽ được
bàn tới trong Trùng Phùng Đạo Nội).
Kim Định