Việt
Nam
Văn
Hiến
Năm
Thứ
4889
www.vietnamvanhien.org
www.vietnamvanhien.net
www.vietnamvanhien.info
www.vietnamvanhien.com
Việt Triết Nhập Môn
Kim Định
TỰA
Tập nhập môn này được viết ra sau
chuyến đi Đài Loan năm 1984 và có đóng
góp vào hội nghị một bài. Nhưng thấy còn
nhiều điều chưa nói hết ra được, nên khi về viết
thêm mươi bài nữa thành ra tập này, rồi đặt
cho nó cái tựa là “Việt Triết Nhập Môn”.
Thực ra không đúng lắm. Lẽ ra nó phải là
nhập môn ở bộ “Bát Sách” mở đầu bằng quyển “Việt
Lý Tố Nguyên” nhưng như đã nói: nghĩ tới
đâu viết tới đó chứ không có chương
trình trước. Trong quyển này ngoài bài đầu
rất được hội nghị triết học Đài Loan chú ý,
thì có bài “Từ Hoàng Dịch tới Chu Dịch” đưa
ra cái nhìn bao trùm cuộc hình thành
bộ kinh đó để giúp nắm được cốt yếu Kinh Dịch. Rồi
bài “Cơ Cấu Uyên Nguyên” cũng giúp cho thấy
các học giả cả Tây lẫn Tàu (Tàu cả hai
ngàn năm) không đọc ra được ý nghĩa mấy truyện
huyền sử căn bổn hơn hết ra sao. Lý do, vì đó
là truyện của Việt tộc nên phải do Miêu Duệ Việt tộc
mới khám phá ra ý nghĩa. Cuối cùng
có bài “Đường Về Triết Lý Ưu Việt” độc giả xem
hình như Việt Triết có đức tính đó chăng?
Phần I
I. VAI TRÒ NHO
GIÁO CÓ THỂ ĐẢM NHIỆM TRONG THẾ GIỚI HÔM NAY
Mùa hè năm 1949 ở Honolulu có hội nghị
quốc tế về triết học quy tụ các đại biểu trên 50 quốc gia
(đại diện Á Châu có Aán Độ, Tàu,
Nhật). Tôi đặc biệt chú ý tới hội nghị này
vì trước hết mục tiêu của hội nghị là tìm
cho nhân loại một nền triết lý chủ đạo. Hội nghị cho rằng
vì thiếu nó mà nhân loại đã trải qua
hai cuộc đại chiến hoàn cầu. Thứ đến hội nghị đã đề cử
Khổng Tử làm nhạc trưởng cho cuộc hòa hợp Đông
Tây nọ vì ông có chân đứng trên
cả hai tàu: vừa chấp nhận và cải thiện đời sống trần gian
nhất là trong những mối giao liên của con người.
Đàng khác tuy không chấp nhận lập trường Lão
giáo độc chú vào đời sống tâm linh, nhưng
cũng dọn phòng đón nhận mọi giá trị tâm linh
(Essays in East West philosophy by Charles Moore p.447, University of
Hawaii 1951).
Đây là lời tuyên bố làm vinh dự cho
chính những người tham dự hội nghị vì câu
trên tàng chứa được ba nhận xét đều sâu xa
và ơn ích. Có thể nói đây là
đỉnh cao nhất mà hội nghị quốc tế Triết Học có thể tới,
vì những hội nghị này ít được sự đồng ý về
một điều gì, nhiều khi còn là cuộc độc thoại giữa
các người điếc, hoặc vấn đề đưa ra bàn cãi
có tính cách xa lắc xa lơn với cuộc đời. Nhưng lần
này các triết học gia đã nhìn thẳng
vào đời, đã thấy đời đang mắc bệnh và gọi
đúng tên bệnh tức là thiếu hồng huyết hòa,
mà chỉ có bạch huyết rã, làm cho con bệnh
trở nên nhợt nhạt, mất hướng đi, không biết đâu
là lối về, đáng gọi là vô gia cư (homeless).
Hội nghị đã thấy thế và chỉ ra bài thuốc
Hòa. Toa thuốc còn ghi là “Hòa tinh thần
với vật chất” lại còn chỉ rõ phải đến với dược sĩ
nào. Rồi đây trong bài tôi sẽ chứng minh
những lời chỉ dẫn nọ đúng đến đâu.
Câu tuyên bố trên quả là một sự thành
tựu lớn lao do một quá trình nghiên cứu tinh
thông về Nho trải dài cả trăm năm với những tên tuổi
lừng lẫy như H.G.Creel, những Marcel Granet và những triết gia
như Keyserling, Karl Jaspers… mới đạt được lời tuyên bố
đó, tuy chỉ xảy ra trong phạm vi triết và chưa được nhiều
người chú ý tới các cân xứng, nhưng quả thật
phải kể là một biến cố quan trọng có tầm mức lớn lao.
Chúng ta đều biết rằng “Nhân loại bao giờ cũng được dẫn
đưa do tư tưởng” cho nên các nhà tư tưởng bầu Khổng
Tử lên chức lãnh đạo triết lý Đông Tây,
thì cũng là bầu ông lên chức hướng đạo thế
giới. Đó quả là vinh dự không tiền khoáng
hậu. Càng lớn hơnnữa khi ta biết rằng đứng về phương diện
ngôn từ và lý luận mà đem Khổng Tử đặt
bên cạnh Phật Tổ hay Socrates, Platon thì ông
có phần lép vế, vậy mà lại được chọn.
Thế thì chắc ông phải có một cái gì
đặc biệt mới được danh dự cao quý như kia. Cái đặc biệt
đó theo hội nghị là ông không chú
ý đến lời hay ý đẹp cho bằng chú ý đời sống
đẹp, nó gậy nên do chữ Hòa. Đấy là điều hết
sức đặc biệt của hội nghị, vì các hội viên đa biết
chọn cuộc sống đẹp hơn là chọn lời đẹp ý hay, cũng như
đã không chọn tranh chấp mà lại chọn hòa hợp.
Tuy nhiên sự tuyên dương long trọng kia lại rơi vào
quên lãng liền, không gây nên một
âm vang nào đáng kể ngay cả trong lãnh vực
triết học, kể cả triết học Trung Hoa thì tự nhiên ta phải
hỏi vì đâu. Riêng tôi nghĩ rằng cái
hướng hội nghị đưa ra thì thật là đúng nhưng
đó mới chỉ là bảng chỉ đường, chưa phài là
Chính Đường. Thế mà trong các lần hội nghị về sau
mãi cho tới nay chưa có được một công trình
nào đáng gọi là đường, tức trình bày
Nho cho thấu triệt xứng tên là một Đạo học. Vì thế
tôi lấy điều đó làm đề tài cho bài
này mong tìm ra chỗ thiếu sót, hy vọng có
thể sửa soạn cho một nền triết Nho đầy đủ. Nếu không thì
cũng là thử đề nghị một lối nghiên cứu Nho kiểu mới. Trước
khi vào bài, tôi xin mở ngoặc đơn để nói
lên rằng đối với tôi, Khổng Tử chỉ là đại diện cuối
cùng của Nho Giáo, Nho Giáo đã có
lâu trước, Khổng Tử chỉ là người truyền đạt. Vì thế
khi nào bài này nhắc đến Khổng Tử thì xin
hiểu đó là Nguyên Nho, nó rộng lớn hơn Khổng
Giáo rất nhiều. Bây giờ xin trở lại phân tích
lời tuyên ngôn nói trên của hội nghị Honolulu.
Trứơc hết tôi xin giới thiệu lướt qua đường lối trình
bày mà tôi sẽ áp dụng trong bài
này. Nó ở tại sự tóm thâu nền triết được
nghiên cứu vào một hai điểm then chốt cùng cực
và được gọi là cái toàn thể, rồi đem đối
chiếu cái toàn thể đó với một số toàn thể
khác. Thế rồi cái toàn thể kia lại được chi tiết
hóa thành bốn điểm để dễ xét thấu đáo. Bốn
điểm đó là Từ, Tượng, Số, Chế.
Từ: là lời nói nhằm vào những lời then chốt nhất
của nền triết Nho.
Tượng: là tượng hình tiêu biểu, những huyền thoại,
truyền kỳ.
Số: là những số biểu tượng gọi là huyền số.
Chế: là những thể chế, thói tục, những phương thức sống,
cách thức tu luyện.
Đây là bốn khía cạnh được dùng để xét
một nền triết lý nhân sinh xem có được toàn
diện chăng. Một nền triết có sống được nhiều hay ít, bao
quát được hết cả bốn nấc thử thách nọ. Bởi thế bốn điểm
trên có thể dùng như thước đo giá trị từng
nền triết về phương diện vào đời. Phải công nhận rằng phần
lớn triết học chỉ trải qua được có một vài chặng đầu.
Nguyên Nho thì đã đi hết bốn bước. Nhưng tự
Hán Nho thì sa đọa, nên cũng không còn
người đi hết được cả bốn chặng nữa. Vì thế mà Nho bớt
hiệu nghiệm. Muốn hiệu nghiệm phải có người đi được bốn bước
trên. Sách Trung Dung gọi người đó là “kỳ
nhân”, người chính cống của Nho “Văn Võ chi
chính bố tại phương sách. Kỳ nhơn tồn, tắc kỳ
chính cử. Kỳ nhơn vong, tắc kỳ chính tức” T.D 20.
Câu trên có nghĩa là triết gia chính
trị của Nho (kỳ nhân) còn, thì triết lý
chính trị đó sẽ hoạt động mạnh, nếu kỳ nhơn đó mất
tức chưa xuất hiện thì triết lý chính trị
đó có cũng như không. Vậy xin hỏi kỳ nhơn đó
là ai? Thưa là triết gia Nho. Nói triết gia
mà không là học giả cũng không cả triết học
gia, mà phải là triết gia. Nói cụ thể, bao
lâu chưa có một học giả về Nho kiêm luôn triết
gia, thì kinh điển Nho vẫn chỉ là một đống sách
hôi mốc. Phải có triết gia Nho, phải có kỳ nhơn
đó thì Nho mới hiện lên những tư tưởng sống động để
đi vào cõi người ta. Nghĩa là triết gia đó
phải có những tư tưởng cùng chiều như Nho, nhưng lại phải
hợp cảm quan thời đại, phải có những cái nhìn soi
dọi vào các vấn đề khúc mắc hiện nay, thì
đấy mới là kỳ nhơn của Nho.
Bao giờ người đó đến thì không biết và
có lẽ câu hỏi cũng không mấy quan trọng vì
Nho vốn là triết lý tác hành, không
trông cậy vào tha lực mà phải tự mình
làm ra vì thế câu hỏi đúng tinh thần Nho hơn
phải là: làm thế nào để chúng ta có
hy vọng trở nên kỳ nhân của Nho. Hay nói cụ thể hơn
phải hỏi rằng cái đặc trưng của Nho ở chỗ nào và
phương pháp nào có thể ám hợp hơn hết cho
ta theo để nếu không thành triết gia Nho thì
ít ra cũng biết mình trình bày Nho một
cách trung thực để con người thời đại hiểu được Nho hơn. Muốn
thế việc cần trước tiên phải biết cách thấu triệt
đâu là nét đặc trưng của Nho? Thưa nét
đó nằm trong chỗ Nho đi được cả bốn bước Từ, Tượng, Số, Chế.
Chúng ta hãy xét từng điểm:
1. Từ
Từ tức là lời. Lời của Nho rất ít. Khổng Tử
là hiền triết nói ít nhất trong các triết
gia trên đời. Đã vậy về đạo, về nhân thì hầu
như ông không có lời nào. Đấy là
nét đặc trưng mà xưa nay chưa mấy được chú
ý, nên cần bàn thêm. Lời nói là
một phát minh rất quan trọng của con người, nó mở đường
cho mọi tiến bộ về sau. Vì thế nó có sức
thôi miên, gây thành khuynh hướng thờ lời như
một cái gì thần thánh, mà ta còn
thấy dấu vết trong những lời chú mà người xưa đã
gán cho rất nhiều uy lực; nhưng sau này người ta cũng
nhận ra tính cách ma thuật của nó. Ngoài ra
lời nói cũng có sức quyến rũ khác đến nỗi những
triết gia thượng thặng như Lão Trang đã hiểu rõ
rằng “Đạo bất khả ngôn”. Vì thế “tri giả bất ngôn,
ngôn giả bất tri”. Vậy mà các ông còn
nói lu bù về đạo. Lão Tử thì để lại năm
ngàn lời trong Đạo Đức Kinh. Trang Tử để lại lối mười vạn lời
trong cuốn Nam Hoa Chân Kinh. Vậy mà kể còn
là ít khi so với các triết gia tên tuổi
khác như Plato, Aristotle chẳng hạn, các vị này
nói có cả hàng triệu lời.
Theo luật răng đau của Bernard Shaw rằng người ta chỉ nói đến
răng khi răng đau. Cũng vậy nói nhiều quá về đạo
là tỏ ra chưa đạt đạo. Phương ngồn quen nói “Nhất
Lý thông, vạn lý minh”. Cái Lý
cùng cực đó, Lý trên nhất đó
chính là Lý Thái Cực. Nếu đạt được
thì tự nhiên mọi lý khác thuộc phần mớ liền
sáng ra, khỏi cần nói nhiều, còn khi không
đạt cái Lý viết hoa đó thì cứ phải
bày biện lý nọ lẽ kia rườm rà, quanh quất,
nên có câu “Thất Lý nhi nhập ư thuật”
không đạt lý nên bày ra muôn vàn
lý lẽ quanh co (thuật). Vì Lý viết hoa đó
là Lý Thái Cực, vốn gồm cả âm, cả dương, cả
có cả không, cả đa cả nhất, cả tĩnh cả động, cả
sáng cả tối… Còn nếu không đạt Lý đó
thì chỉ có một bên, một duy nhào đó:
thiếu mất bên kia, nên lời nói hết hiệu nghiệm: phải
thêm hoài mà vẫn chưa cảm thấy đủ. Kinh Dịch
nói:
“Nghi giả kỳ từ chi
Cát nhơn chi từ quả
Táo nhơn chi từ đa” (Hệ từ hạ XII 7)
“Người còn nghi nan trong lòng thì lời nói
rậm lời không có tư tưởng, (ngành ngọn: chi). Người
đạt (may mắn) thì nói ít nhưng đủ để bao được cả
trong ngoài. Người táo kết (bất thông) thì
nói nhiều. Nhiều nên hiểu là nhiều chủ thuyết
mà không có thuyết nào đạt địa vị ưu thắng.
Biết thế rồi ta thấy sự ít lời trong Nho có cái
giá trị riêng biệt của nó. Ít lời đây
không vì bất lực, nhưng là vì lờinói
đã chứa đầy uy mãnh rồi; khỏi cần nói thêm.
Theo đó ta phải tìm xem lời nào đầy đủ nhất trong
Nho? Thưa đó là ba chữ “Chí Trung Hòa”. Ba
chữ này tóm thâu tinh thoa Nho giáo
cách tuyệt vời cũng như nói lên được nét đặc
trưng của Nho cách thấu triệt. Cho nên “Kỳ nhơn” của Nho
phải là người nhận thức ra được mọi chiều kích ba chữ
đó, để hiện thực vào thân tâm và diễn
đạt ra cho mọi người cùng hiểu. Vậy chúng ta hãy
dùng tượng hình và đồ biểu để trình
bày sơ lược châm ngôn trên cho được rõ
ràng. Câu đó nằm trong lời phát đoan của
sách Trung Dung rằng:
“Trung dã giả, thiên hạ chi đại bồn dã.
Hòa dã giả, thiên hạ chi Đạt đạo dã.
Chí trung hòa:
Thiên địa vị yên
Vạn vật dục yên”
Đoạn văn trên chỉ rõ đâu là bổn gốc,
đâu là ngọn ngành. Bổn là Trung, ngọn
là Hòa. Hòa đây là Thái
Hòa tức cái Hòa bao trùm hết tất cả: cả
trời đất, cả vạn vật nữa. Và sự bao trùm diễn tả bằng chữ
“dục” nghĩa là được nuôi nấng giáo dục.
Để hiểu rõ hơn tưởng cần giải rộng câu trên. Trước
hết là về ba chữ “Chí Trung Hòa”. Trong quyển Chữ
Thời tôi đã giải rộng bằng câu “có chí
trung thì mới đạt được chí hòa”. Cần lập lại chữ
chí để nói lên hai đàng khác nhau.
Chí trung là bổn, còn chí hòa
là hoa trái ngọn ngành. Phải làm nổi bật cả
hai để đạt nổi bước “lưỡng hành” của Nho mà hội nghị
Honolulu đã nói lên bằng hình bóng
là “có chân trên cả hai tàu”. Điểm
lưỡng hành này ít được học giả chú
ý, thí dụ James Legge dịch ba chữ kia là “Let the
states of equilibrium and harmony exist in perfection”, không
dám nói là dịch sai nhưng bản dịch làm
chìm mất tính chất lưỡng hành của câu
nói. Đọc lên người ta không thấy Trung là căn
bổn, Hòa là hoa trái. Muốn cho dễ thấy được điều
đó thiết tưởng phải dịch là “When the Centering is
utmost, the Harmony is the greatest”. Dịch trung bằng chữ centering bao
hàm được sự “tiến hành vào nội tâm”,
và khi tiến vào đến cùng cực thì đạt
Thái Hòa là hòa âm với dương, tức
cái hòa nền tảng, bao trùm cả trời cùng
đất. Để giải rộng hơn nữa ta có thể nói: “The deepest is
centering, the greater is harmony” câu này đặt theo
câu cách ngôn triết Tây: “Plus la
compréhension est petite, plus l’extension est grande”. Tuy
câu công lý này chỉ nằm trong bình
diện ý niệm, nhưng chiều hướng thì cũng như chí
trung hòa, là vào càng nhỏ thì sức
bao gồm bên ngoài càng to. Theo đó,
cái Hòa bên ngoài có thể dùng
như tiêu chuẩn để đo độ sâu của cái Trung bên
trong. Trung là đi vào nội tâm: ta không thể
kiểm soát nội tâm, nhưng ta nhờ cái Hòa để
biết Trung cách cơ thể, nên có thể nương theo
Hòa để biết Trung đi tới đâu. Nhất là khi
Hòa còn được đèo thêm dấu hiệu cụ thể
là sự nuôi dưỡng: sách nói nếu đạt
Chí Trung Hòa thì:
“Thiên địa vị yên.
Vạn vật dục yên”.
Khi trời đất được xếp đặt đúng chỗ thì vạn vật đều được
dưỡng nuôi. Hai chữ vạn vật ở đây nên hiểu theo nghĩa
rộng gồm cả tâm lý: ý, tình, chí đều
được nuôi dưỡng. Tức triết không chỉ có duy
lý hay duy tình, hoặc duy chí mà tất cả
tình lý chí cùng tham dự. Còn trong
siêu hình là cả thiên lẫn địa, cả âm
lẫn dương đều có phần. Tóm lại là không duy
nào cả nhưng bao trùm hết. Được như vậy thì
là dấu Trung đã đi tới chốn: nên có được
chí Hòa, và vạn vật được nuôi dưỡng,
không còn khát vọng nào đói
khát làm reo, khiến triết nhân phải nói
thêm, nói hoài. Như vậy, ít lời không
là dấu tốt sao? Vì thế có thể kết luận được
là Nho đã thành công ở bước Từ: không
một nền triết nào có thể tóm thâu đựơc
vào ba Từ như vậy.
2. Tượng
Bây giờ xét đến tượng. Tượng là bước thứ hai
sau lời. Văn hóa nào bám vào lời thì
thải bỏ hết các biểu tượng, nên Tượng chỉ có
lác đác một cách cầu âu. Nhưng văn
hóa muốn đi vào đời tất phải có tượng, vì
nó cụ thể gần với việc, nhất là nó mềm dẻo dễ uốn
nắn theo hoàn cảnh là điều cần trong đời sống muôn
mặt.
Tượng lớn hơn hết trong Nguyên Nho là những quan niệm về
Trời, Đất, Người đựơc biểu tượng bằng hình tròn
vuông. “Thiên viên địa phương”: trời
tròn đất vuông. Biểu tượng này không hẳn
riêng của Nho trong các nền văn hóa thời sơ khai
người ta gặp hình tròn vuông lu bù, như
mandala thí dụ. Nhưng đến nay chúng đã quá
lu mờ, không còn thể biết rõ ban đầu chúng
có biểu thị Trời Đất chăng, cũng không biết trải qua
các chặng biến hóa hình tròn vuông
đã chỉ thị những gì thì chưa được tìm ra.
Tuy nhiên đó là phần việc của khảo cổ và cổ
sử. Riêng trong triết, người ta cũng thấy có dấu vết của
một số văn hóa nghiêng về tròn, như thấy trong kiểu
xếp đặt theo vòng tròn trong các Menhir bên
Pháp hay stonehenge bên Anh. Aán Độ có biểu
hiệu rắn cắn đuôi, tức cũng tròn, ngược lại bên
Sumer hay Assyria thì thiên trọng về vuông, như thấy
trong hình các Ziggurat luôn luôn
vuông. Quan sát theo mấy ấn tích lớn đó, ta
có thể nói hầu như không nơi nào có
được tròn vuông hòa hợp.
Riêng bên Nho thì tròn vuông hòa
hợp và có đầy tang chứng: tiêu biểu hơn hết cả
là đền Tế Thiên với nền vuông mái
tròn. Xe vua đi thì thùng vuông mui
tròn. Nho gia đi giầy vuông đội mũ tròn…
Do biểu tượng tròn vuông trên ta có
thể phân ra ba loại triết. Một loại chỉ lo có tròn
tức Duy Vô hoặc Duy Nhất, thiếu đa tạp chỉ bằng hình
vuông. Vì vậy chỉ bằng vòng tròn. Loại hai
chỉ có vuông tức là duy hữu, duy đa tạp,
không nghĩ tới Nhất hay Vô. Ta hãy chỉ thị bằng
hình vuông. Loại ba tròn vuông hỗn hợp. Tục
ngữ Việt gọi là “Mẹ tròn con vuông” tức tròn
(tinh thần) thẩm thấu hay bao bọc lấy vật chất vuông. Và
vẽ ra như hình sau.
Hãy soi sáng
bảng trên bằng vài thí dụ tổng quát. Khi đọc
Lão Trang chẳng hạn, ta thấy đó là những
thiên tài cao cả, có khả năng đưa ra những
cái nhìn thấu triệt, những hình ảnh ví von
tuyệt vời làm ta có cảm tưởng lạc vào một thế giới
thần tiên, siêu thoát. Nhưng nếu tìm
cách áp dụng những lời đó vào cuộc sống ta
sẽ thấy lúng túng. Rồi ta nhìn kỹ lại thì
cảm tưởng các ngài còn ở lì lại cõi
tiên mà ta gọi là cõi Nhất. Các
Ngài bám vào cái nhất không sao ra đa
tạp được, nghĩa là trước sau chỉ có một đề tài
và chỉ chuyên về nói: nói về Từ, Ý,
không còn hơi sức cho việc làm (Dụng, Cơ).
Nên ta thấy có sự bất lực kinh niên về kinh tế,
chính trị của loại triết này. Như vậy theo câu
“Chí Trung Hòa” thì chưa đạt đạo, tức chưa gồm cả
âm, cả dương. Thực ra những lời đó không thiếu
giá trị nhưng là giá trị phần mớ như về suy luận,
hoặc đóng góp vào hội họa, vào tu tâm
nhưng đối với đời sống toàn diện thì kể là bất lực.
Lối thứ hai được gọi là đa phương. Mới xem ta có cảm
tưởng là rất phong phú. Tư tưởng kết nạp một cách
rất mạch lạc. Nhưng khi xem kỹ lại thì tất cả chỉ có một
chiều: thiếu mối liên hệ nền tảng giữa Có với Không,
giữa động với tĩnh, giữa nhất với đa mà chỉ có đa thiếu
thống nhất, nên ví được với thần Cộng Công chạy
vòng quanh núi Bát Chu không tìm ra
lối vào thiên thai nói bóng là
húc đầu vào cột chống trời, làm trời sụp.
Đó là lối suy luận của Duy Lý hay Duy Trí,
xây trên những tượng ý (imago-idea) của sự vật lẻ
tẻ. Kinh Dịch chỉ bằng những hình vuông rời rạc,
không tìm ra được vòng tròn để bao bọc lấy,
để thống nhất lại: hậu quả là vạn vật không được
nuôi dưỡng “Vạn vật bất dục yên”, hiểu là những
ý niệm đó không được tẩm nhuận trong luồng linh lực
tuôn trào tự thâm tâm (tiềm thức hay
siêu thức) để nuôi dưỡng, nên chỉ là những
ý niệm trừu tượng khô cằn, đọc vào không đủ
để di dưỡng tính tình, nên triết học gia cứ phải đi
tìm thêm mãi. Làm người ta liên tưởng
tới chuột chạy vòng, chạy hoài mà không tới:
qua hết môn phái này đến môn phái kia,
quả là đa phương, nhưng thiếu hướng. Thiếu hướng đi thì
môn triết học chỉ còn là cực hình Tantalus
như Kant có lần đã nói thế, hoặc như Nietzsche gọi
sinh viên triết là “các thánh tử vì
đạo” (tử vì triết). Vì học triết đã đốc ra sự học
rất nhiều ý kiến của nhiều triết gia, cuối cùng
không biết theo đường nào: sự học chỉ làm khô
cạn tâm hồn, trở nên cực hình và không
có nuôi dưỡng, không bơm sinh lực vào
tâm trí.
Bởi thế về tinh thần phải nhờ tôn giáo đảm nhiệm,
luân lý cũng phải xây trên tôn
giáo. Triết học không đủ uy tín đưa ra đựơc nền
luân lý độc lập. Thế nhưng triết học lại thường chống đối
tôn giáo: hai đàng không sao cộng tác
đuợc với nhau để hướng dẫn đời. Đành phải đạo đời riêng
rẽ. Đó quả là một tai họa. Vì lý tưởng phải
là đạo đời tương thông, và lẽ ra cả hai chỉ
là một, y như xác hồn chỉ là một con người. Tuy
nhiên ta cũng phải công nhận giá trị của loại
này ở chỗ chứng tỏ cho ta sự hạn cục của lý trí.
Và vì không có lỗi nào mà
nó đã không đi tìm kiếm nhưng đều thất bại
thì điều đó cho ta một kinh nghiệm sâu xa về sự bất
lực của triết học lý niệm, khiến ta phải tìm ra lối
siêu thoát nẻo tâm linh. Cái giá trị
của triết học duy trí ở chỗ đó.
Loại ba là gồm có cả vào lẫn ra, cả
trong lẫn ngoài, cả hữu lẫn vô, cả lý trí
lẫn tâm linh. Lý trí hay vòng ngoài
được biểu thị bằng hình vuông đựơc bao bọc bằng tâm
linh biểu thị bằng hình tròn thành “mẹ tròn
con vuông” như hình sau. Hình này là
biểu thị câu “vạn vật dục yên”: vạn vật là
vuông được vòng tròn chỉ tinh thần bao bọc. Nếu
loại một là lên tiên rồi ở lì lại trên
đó, thì loại ba là giống Từ Thức lên
tiên chơi ít lâu rồi trở về làng đặng cố
làm cho đời sống của làng thêm tốt đẹp.
Tôi không có ý áp dụng ba loại
trên vào từng nền triết đích danh nào cả,
mà chỉ có ý đưa ra cái khung tiên
thiên để làm cho điều muốn nói được thêm
rõ ràng. Nhưng riêng về Nho thì tôi
phải cho là một trường hợp ngoại lệ, và nghĩ là
nó đã đi sát loại ba hơn hết. Tôi cho
đó chính là lý do Nho được hội nghị
Honolulu tuyên dương là có chân trên cả
hai tàu: tinh thần và vật chất. Vật chất biểu thị bằng
hình vuông được bao quanh bởi tinh thần chỉ bằng
vòng tròn. Tròn vuông nói lên
chữ Hòa cao sâu nhất. Trên đã nói về
nét tròn như chí trung, như cột gốc. Bây giờ
ta nói đến hòa như trái, và ta sẽ
dùng số để triển khai điều này.
3. Số
Số
là bước thứ ba sau tượng. Số cũng là một thứ tượng,
là kết tinh của tượng, là bước trùu tượng
hóa của tượng. Thay vì nói tròn vuông
thì đổi ra số lẻ (tròn) số chẵn (vuông) nhờ vậy mở
rộng sự dùng tượng ra rất nhiều. Vì mối liên hệ
chặt chẽ giữa số và tượng nên những nền văn hóa
ít xái biểu tượng cũng ít xài số.
Còn Nho vì đã xài tượng nhiều nên
cũng xài số lu bù và cách rất hệ thống,
chứng tỏ đã bước mạnh vào đời.
Số của Nho lấy từ câu Kinh Dịch rằng “tham thiên lưỡng địa
nhi ỷ số” câu này là sự phân tích của
Ngũ hành, mà Ngũ hành là một cơ cấu
uyên nguyên của Nho, nhưng cho tới nay chỉ được dùng
theo nghĩa ma thuật hoặc dùng để xếp loại còn dùng
như cơ cấu thì hầu như chưa ai động đến. Cho nên có
một số điểm rất quan trọng mà cho tới nay hầu như chưa thấy học
giả nào nhìn ra. Vì thế chúng tôi
thấy cần phải làm sơ qua những điểm đó.
Trên tôi đã bày tỏ rằng có ba loại
triết lý, mà riêng Nho biểu lộ lưỡng hành
cách liên tục bằng cơ cấu. Vậy then chốt cơ cấu đó
nằm trong Ngũ hành.
Vì Ngũ hành bao gồm cả có lẫn không.
Chính mối liên hệ giữa có với không
này làm nên cơ cấu uyên nguyên.
Có là bổn hành chung quanh, không là
hành Thổ ở trung cung, cũng gọi là “hành vô
hành”, “địa vô địa”. Nhờ mối liên hệ then chốt nọ
mà có cơ cấu uyên nguyên giữa Hữu là
Dương thông hội với Vô là Âm.
Vì là cơ cấu uyên nguyên nên đựơc cơ
cấu hóa thành khung Ngũ hành như sau:
Hình
Ngũ
Hành
Chỉ nội cơ cấu trên đủ nói lên nét
đặc trưng của Nho mà hai loại triết kia đều không
có. Thay vì Ngũ hành chỉ có tứ tố, gọi Tố
vì là cái gì bất động, một chiều như con số
bốn chứng tỏ, có chia ra vẫn chỉ là số chẵn.
Đôi khi ta cũng gặp tố thứ năm như Aristotle đã thêm
ether vào bốn tố kia là nước, lửa, khí, đất. Nhưng
ether thuộc cung bình diện hiện tượng tức là Hữu
không phải là Vô, nên kể là thiếu
hành uyên nguyên đi từ Vô sang Hữu, thiếu đối
đáp nền tảng. Cả bên Aán Độ cũng chỉ là tứ
tố, đôi khi cũng có thấy tố thứ năm như trong phái
Sankhya. Nhưng tố thứ năm cũng thuộc cùng một bình diện
nên vẫn không được gọi là hành. Vì
hành hàm ngụ sự đi tự Hữu sang Vô hay ngược lại. Do
lẽ đó tứ tố không được cơ cấu hóa để đặt nổi mối
Tương Quan nền tảng giữa Hữu với Vô và tất nhiên
không có những phát triển sâu rộng thêm
thành Hồng Phạm, Lạc Thư, Minh Đường… Tất cả đều là
phát triển do câu “tham thiên lưỡng địa nhi ỷ số”.
Hai bộ số trên mà Kinh Dịch tuyên dương là
cột trụ vì chúng chuyên chở những chân
lý nền móng của Nho. Bao lâu chưa thấu hiểu
thì chưa thể trở nên triết gia của Nho. Sự thấu hiểu
này nếu không làm cho học giả trở nên triết
gia thì cũng giúp cho dễ phân biệt đâu
là bổn đâu là ngọn. Một cái biết cần thiết
cho bất cứ ai đáng mặt triết gia: nên cần bàn
thêm ít lời.
Hai bộ số trên chứa ba nhóm chân lý phải gọi
là ngược chiều con mắt với lương tri, nhưng nó ngược kiểu
rễ cây phải mọc ngược chiều với thân cây; gốc
cây đâm xuống thân cây mọc lên.
Thân cây là những hiểu biết thông thường bằng
lương tri, thâu nhận qua giác quan nhất là tai mắt
ai cũng thấy ai cũng nghe hết. Nhưng triết nào chỉ gồm có
những chân lý loại này thì kể là
triết của con mắt, là triết một chiều, vì không
có hạn từ ngược để đặt ra mối Tương Quan nền tảng (mà
Kinh Hùng gọi là cánh đồng Tương). Mấy chân
lý này đi theo ba bộ số 2, 3, 5.
Số 2 chỉ chân lý ngược chiều đầu tiên là vũ
trụ quan biến hóa biến dịch. Nó ngược tai mắt: vì
ta thấy sự vật im lìm, một khối. Đây lại bảo là sự
vật biến động, có hai mảnh nên được cơ cấu hóa bằng
số 2. Chính con số này làm nên mối Tương
Quan nền tảng nhờ đó Nho đáng tên là tổ sư
của cơ cấu luận.
Số 3. Thứ đến là số 3 chỉ con người. Mắt thường thấy sự vật một
là có hai là không. Không có
trường hợp thứ ba: triết Tây gọi đó là nguyên
lý triệt tam: middle excluded, tiers exclu. Triết Đông lại
bảo có trường hợp thứ ba: đó là vừa có vừa
không một trật. Điều này chứng tỏ ngoài con người
bé nhỏ còn có con người cao cả gọi đó
là đại ngã tâm linh biết xem thấy cách
siêu việt bên trên con mắt thường, và
vì thế dung hòa được cả có với không.
Và do đó con số ba chỉ con người nhân chủ.
Đó là chân lý ngược đời, vì theo mắt
ta thấy người chỉ la vật bé nhỏ như “cây sậy trước
vô cùng tận”. Thế mà ngược lại Nho bảo con người
có cái Tâm bao la như vũ trụ: “vũ trụ chi
tâm” (Kinh Dịch). Vì thế Nho đáng tên
là nhân chủ: con người trong Nho cũng là vua như
Trời cùng Đất.
Số 5 (do 2+3=5) thành ra là hành ngũ. Đi về
hành ngũ cũng là đi về số không. Lại ngược chiều
nữa: ở đời ai chẳng muốn có, thế mà đây lại bảo đi
về với không là sao? Thưa không đây chẳng phải
là không có gì hết mà là
Không viết hoa, là cái Không chân thật
làm nền tảng cho mọi cái có. Nó ví
như giếng thiêng luôn luôn vọt lên nước hằng
sống, nên cũng gọi là mạch Cam Tuyền để tẩm nhuận những
thể chế thói tục. Vì thế mà những thể chế
đó đựơc trình bày bằng khung ngũ hành như
chúng ta sẽ thấy sau.
Đó là mấy chân lý ngược chiều gắn liền với
ba con số có nền tảng của Nho 2, 3, 5. Vì là nền
tảng nên Nho nguyên thuỷ dùng những số này
cách tràn ngập nó làm nên xương sống
của Kinh Dịch là Kinh cội gốc của Nho.
4. Chế
Để Ngũ hành
có thể trở thành khung chứ các thể chế thì
tiên Nho đã kép nép Ngũ hành
lên: trước hết kép thành vòng trong
vòng ngoài, sự phân biệt này cung ứng cho
hai chữ lưỡng hành cả một lược đồ đặc biệt, làm cho thấy
rõ câu “có chân trên cả hai
tàu”: chân trong chân ngoài cân đối.
Hình
Vòng trong vòng ngoài
Là căn để của Nho, đựơc phát triển cách
cơ cấu ở đợt nhất là ngũ hành; ở đợt nhì gọi
là vòng thành vòng thì ngũ
hành đã trở thành sự vật đặc. Đây là
vòng đi vào thế sự, đi vào thực hiện, nhưng vẫn
lấy tâm linh làm gốc, như các số 6, 7, 8, 9 gốc từ
số 5 vậy. Vòng trong vẽ nét đứt chỉ vô, chỉ
tâm, chỉ tiềm thức, làm nên phần nội thánh
và phải dịch là five agents. Vòng ngoài về
nét liền chỉ cõi hiện tượng tức sự vật đã
thành hình, có thể dịch là five elements.
Sau đó biến vòng trong vòng ngoài
thành Hồng phạm Cửu trù.
Hồng phạm Cửu trù là đưa các số của 2 vòng
trên xếp vào khung Ngũ hành kép mà
thành nên như hình bên:
Hình
Cửu trù Hồng phạm
Vì có 9 lô nên Hồng phạm
luôn luôn kèm theo tên Cửu trù, tức đem
những việc then chốt của đời sống đặt vào 9 ô của Hồng
phạm để biểu thị lòng quyết tâm làm những việc
đó theo như mẫu mực lớn lao nọ, tức theo trời (Thuận
Thiên).
Hồng phạm chính là cái khung tiên
thiên đưa ra làm mẫu mực cho các thể chế
khác mà quan trọng hơn hết là Nhà Minh
Đường với thể chế Nguyệt lệnh.
Hình
Nhà
Minh
Đường
Nhà Minh Đường hay là “nhà vũ trụ”
vì có ba tầng chỉ Trời, Đất, Người. Đó không
chi khác hơn là Hồng phạm Cửu trù nhưng có
12 trù (vì 4 trù góc chia đôi
thành 8) để hợp với 12 tháng. Mỗi tháng có
mệnh lệnh riêng ăn gì, mặc áo màu
nào, ở phòng nào… Vì thế gọi là
Nguyệt lệnh. Đó là thể chế cho câu tu thân vi
bản, tu sao cho người hợp với Trời Đất thì đạt đạo. Đó
gọi là Thuận Thiên. Sự thuận thiên được biểu thị
bằng màu, số, phương phải hợp nhau thí dụ mùa
xuân thì phương Đông, số 3, màu xanh;
mùa hạ màu đỏ, thu trắng, đông đen…
Tuần cuối mỗi mùa vua phải ở căn giữa để chỉ sự siêu
thoát ra khỏi thời gian và không gian, tức
vào ở với hành ngũ vốn là “hành vô
hành, địa vô địa”. Để làm chi? Thưa để không
làm chi cả. Có còn trong thời gian không
gian đâu mà làm. Vậy chỉ còn cách
là “làm cái không làm” (vi vô
vi). Trang Tử gọi đó là “Nhan Hồi ngồi mà
quên đi” để có được “trai tâm” hoặc “hư tâm”.
Khi có hư tâm tức tâm hồn trống trơn thì linh
thiêng sẽ xuất hiện, để xảy ra hiện tượng “Giao Chỉ” là
chỉ Trời chỉ Đất giao thoa, làm nên cuộc Thái
Hòa. Đó là đại đạo. Kinh Dịch nói
tóm lược trong câu “an thổ, đôn hồ nhân, cố
năng ái”. An thổ là vào ở trong Hành Thổ
ngồi quên mọi sự, nhờ đó sẽ biết bản tính con
người, yêu cách trung thực nên không
làm hại người vì lòng yêu người của
mình. Đó là ý câu “cố năng ái”.
Xem thế đủ biết thể chế Minh Đường chính là bản gốc của
Nho hay nói tu thân vi bản cũng thế, vì tu
thân được cơ cấu hóa thành khung Minh Đường,
nên Minh Đường cũng là nền móng đường lối tu
thân, nó là gốc. Vì vậy thời Nguyên
Nho vua chỉ trị vì mà không cai trị. Việc cai trị
để cho các quan, còn vua dùng hết thời giờ
mà tu thân, mà ở trong Nhà Minh Đường.
Đó gọi là vô vi nhi trị. Do đấy mà vua xưa
là nhà tư tế thượng phẩm trước hết, còn chức
hoàng đế chỉ là thứ yếu, tức cai trị coi như việc tuỳ
ý có thể uỷ thác cho các quan, còn
vua thì phải lấy việc tu thân làm gốc.
Thiên Vũ Cống không là lịch sử (không
có trong sử ký) mà chỉ là bản tuồng
lý tưởng diễn tả cung cách hành đạo của người
lý tưởng gọi bóng là Đại Vũ thực hiện quy chế
Nhà Minh Đường. Sau 4 năm tuần thú 4 phương thì về
trung ương hội với các thần ở Cối Kê. Sử ký của Tư
Mã Thiên (S.M.T.3 p.413) nói vua tế phong
trên núi Thái Sơn, rồi vẽ tế Thiện trên
núi Cối Kê (Kinh đô U Việt). Chữ Thiện cũng đọc
là Thiền và nghĩa tương đương với thiện nhượng là
nhường lại hết: tức trút bỏ tất cả để hội với các thần
(Hội Kê) hầu đạt bản tính con người đại ngã
tâm linh. Đó quả là một lối thi vị hóa
mênh mông thể chế Minh Đường vậy.
Hồng Phạm còn là Khung cho nhiều thể chế khác như
Hà Đồ, Lạc Thư đựơc dùng nhất là cho việc suy tư
triết lý, nó nhấn mạnh trên luật hành động
và phản động. Hành động trong Hà Đồ là đi
ra ngoài thế sự rồi, thì phải phản hồi ở Lạc Thư
là đi vào hành ngũ: ngồi mà quên đi
để mong tiếp cận với giếng thiêng đặng bồi bổ tinh thần đã
sa sút khi tiếp xúc với trần cấu. Ngoài Hà
Đồ Lạc Thư còn có phép tỉnh điền.
Tỉnh điền chính là sự áp dụng Hồng phạm vào
kinh tế. Người ta đã hiểu theo nghĩa đen, nên nảy sinh ra
rất nhiều tranh luận vô ích. Sự thực thì đó
chỉ là lời dạy về sự phải phân chia tài sản trong
nước sao cho đạt được đồng đều theo lý tưởng của Hồng phạm,
nó bóng là chia mảnh đất ra 9 ô theo
cái mẫu mực lý tưởng kia. Vì thế tỉnh điền cũng
chính là khung Hồng phạm vậy. Nó ở tại Trời Người
Đất cùng tham dự cả vòng trong chỉ bằng số 3, cả
vòng ngoài chỉ bằng số 9. Nói bóng
là Nữ thần mộc (số 3) cũng có tên là Cửu
Thiên Huyền Nữ (số 9). Thực ra đó là đại diện cho
nguyên lý mẹ luôn luôn có mặt trong
Nguyên Nho tạo nên thế hòa giữa âm dương, giữa
nguyên lý cha và nguyên lý mẹ
mà Kinh Dịch gọi là Càn Khôn. Sự hòa
hợp này được biểu thị bằng nhạc. Vì Nhạc là
bà chúa sự hòa hợp. Nên nhận xét chỉ
có nước vua Thuấn mới có bộ nhạc. Xưa nay chưa đâu
có bộ này.
Đó là đại để tinh hoa của Nguyên Nho được
đúc kết trong ba chữ Chí Trung Hòa mà
tôi đã thử trình bày qua 4 đợt từ, tượng,
số, chế để cho dễ nhận ra nét đặc trưng của Nho.
Từ giúp cho có một ngôn ngữ sắc bén,
thâu tóm cả hai đường nội ngoại.
Tượng giúp cho Nho triết nhìn ra vị trí hòa
giả của mình thật bao la.
Số giúp cho đi sâu vào gốc rễ để thấy những
chân lý ngược chiều làm nên nét đặc
trưng không ai có thể phủ nhận.
Chế giúp cho thấy Nho vào đời một cách đặc sắc.
Câu nói của hội nghị rằng “Khổng Tử có chân
trên cả hai tàu” được biểu thị cách cụ thể
cùng tột bằng 4 bước trên. Nên hy vọng chúng
giúp cho kỳ nhân của Nho xuất hiện. Vì nếu kỳ
nhân không ra thì đạo không căn cứ vào
ai để hiện hành. “Cầu phi kỳ nhân đạo bất hư hành”
(Hệ từ hạ VIII 4). Xem đấy sẽ thấy Nguyên Nho khác với
Hán Nho ở chỗ nào. Xưa nay vẫn có lưu truyền cho
rằng: Nho đến hết đời Khổng Tử thì mất chính truyền. Từ
đời Hán về sau Nho đã bị què quặt. Tuy lưu truyền
đó ai cũng công nhận ít ra cách mặc
nhiên, nhưng chưa có một cuộc khai quật để biết
Nguyên Nho khác với Hán Nho ở chỗ nào.
Tôi thiết tưởng Hán Nho đã nhãng bỏ mất 3
bước sau là tượng, số, chế mà chỉ còn chuyên
có bước đầu là từ. Điều ấy truyền cho tới ngày nay
lại càng gia tăng gấp bội, vì khi người Tàu gặp
văn minh Thái Tây thì lại càng chú
ý đặc biệt đến từ.
Hãy nhớ lại buổi đầu một số Nho gia đã bị thôi
miên vì logic đến thế nào. Khởi đi xa về trước chỉ
cần nhắc đến Hồ Thích và Phùng Hữu Lan.
Hồ Thích đã say xưa logic đến nỗi đã phá
luân lý Nho để đề cao khoa lý luận của Mặc Địch,
của Huệ Thi, cuối cùng chẳng đi đến đâu.
Đến Phùng Hữu Lan thì khá hơn nên ông
đã được tặng danh hiệu triết gia. Nhưng danh hiệu này mới
do ông Demiéville tặng, chưa đựơc truy nhận rộng
rãi. Tuy về phương diện văn học hàn lâm thì
họ Phùng có đủ, hơn nữa về đàng triết ông
cũng có bề thế vì đã nhìn ra tầm quan trọng
của sự vô ích, vô dụng, tức đã nhìn ra
sự quan trọng của chữ Không. Nhưng rồi ông đã
quá nghiêng về phía Hữu, phí Lý
trí đến nỗi dùng cả kinh tế để giải nghĩa thượng tầng văn
hóa y như cộng sản, thành thử cuối cùng ông
đã giản lược Nho giáo vào 4 ý niệm trừu
tượng là Lý, Khí, Đạo, Đại Khối. Nho giáo
là một đạo hành vi mà trình bày qua
mấy ý niệm trừu tượng đó tức là đã nhổ Nho
ra khỏi đất tâm linh, chặt của Nho mất một chân, còn
đâu đủ hai chân tâm vật để mà lưỡng
hành. Thành thử ông mới là một học giả,
kiêm triết học gia (ideologue) chưa là triết gia,
ít ra chưa là triết gia của Nho vốn có cả ngoại
lẫn nội. Nội nằm trong tượng, số, chế, còn ngoại nằm trong từ.
Oâng chỉ chú ý có từ với ý tức
là logic. Vì sức quyến dũ của logic quá mạnh
nên ta cần xét về điều đó tận nơi tổ của nó
là triết học Tây Âu.
Logic với từ chỉ là một: logic là sự
phát triển của từ, vì logic thành bởi ý
niệm, mà dấu hiệu của ý niệm là từ. Nên
bám ý niệm cũng là bám từ: không đi
xa hơn từ bao lăm. Ta chỉ xem cái tam đoạn luận trong logic
Aristotle ông tổ của lý luận là thấy ngay: “mọi
người phải chết. Socrate là người nên Socrate phải chết”.
Đó là câu mẫu của danh lý hình thức
mà mấy năm đầu ban triết tôi đã tốn biết bao
thì giờ học để thi, đến cuối cùng gặp câu phê
bình của Nietzsche: “Logic là một lối lý luận ngu
đần nhất”. Mà ngu thật. Nó có đưa lại yếu tố mới
nào đâu, nó chỉ đi từ sự đã biết nọ đến sự
đã biết kia, chứ nó không bắc sang một miền
khác, sang cõi vô thí dụ để đặt liên
hệ uyên nguyên hầu mở rộng chân trời ôm
luôn cả vô thể, vì thế tôi muôn
nói tiếp theo Nietzsche rằng “đó là chứng bệnh nan
y, đến nỗi nhiều người đã biết nó là vô
ích mà cũng không sao thoát được”. Khỏi
nói về Nietzsche mà hãy lấy ngay ví dụ về
Hegel vì ông cực kỳ chống logic mà ông cho
là bất động, vì nó thành bởi những ý
niệm đặc. Oâng đề nghị phương pháp mới thay thế đó
là biện chứng pháp là cái gì động,
vì có hai mặt, thành bởi những cái chống
đối nhau, nên gọi là mâu thuẫn. “Mâu thuẫn
là mẹ của tiến bộ”, “chống đối là cha tiến hóa”.
Mới đọc ông, ta tưởng ông là kiện tướng dẫn ta leo
trên cây cầu ngũ sắc để đi sang một thế giới huy
hoàng, trung thực có hai chiều. Nhưng cuối cùng
ông đã làm ta thất vọng. Cái cầu ông
bắc giống cầu vòng, vươn lên thì có cao thật
nhưng rồi lại cắm đầu xuống đất, thành ra một thứ duy kiểu mới,
nên có người muốn gọi ông là “đứa con truỵ
thai của Á Châu”. Con Á Châu vì
có thể ông lấy hứng để lập ra biện chứng pháp ở cặp
đôi Âm Dương của Kinh Dịch. Nhứt là những đề luận
lớn của ông như óc thượng sử, óc phiếm thần, sự coi
vũ trụ như một cơ thể (thay vì cơ khí) là những
điều na ná với lập trường Nho nên gọi là con
Á Châu, nhưng là đứa con sinh sớm nên truỵ
thai. Vì ông mới đi hết được có vòng
ngoài, gọi là vòng kháng, mà chưa đi
tới vòng trong hay vòng sinh nên cuối cùng
triết thuyết của ông không thoát khỏi vòng
tay của logic tức cũng lại trở nên một duy “ism” như trước, duy
tâm.
Karl Marx chê ông là đi ngược: đầu ở dưới hai
chân giơ lên trời nên đã chữa lại cho biện
chứng đi hai chân trên đất, thành ra duy vật biện
chứng (Mao Trạch Đông đã khai mạc cuộc cách mạng
của ông bằng quyền “Mâu Thuẫn” là đi đúng với
tinh thần một chiều của Hegel và Marx. Đó là chiều
kháng, thiếu vòng sinh). Chỉ nội một tấm gương đó
của Hegel đã đủ chứng tỏ duy lý (logicisme) là một
chứng ung thư chưa tìm ra thuốc chữa. Sau bao thất bại mà
mãi đến tận nay logic vẫn còn được dưỡng bồi nhiều kiểu
khác nhau. Nhưng phát triển đến đâu mặc, triết vẫn
tiến tại chỗ. Logic không giúp cho triết có
thêm chiều kích tâm linh để có được
chân trên cả hai tàu. Chính tổ logic
mà còn vậy, phương chi mình học một thì
trông làm sao hơn đặng. Vậy phải trở về con đường hai
chiều của Nguyên Nho. Hãy nhớ chính vì chỗ
hai chiều đó mà hội nghị Honolulu không chọn triết
Tây vì ngầm hiểu là nó thiếu hai chiều,
nên phải chọn triết Nho, vì cho rằng Nho có hai
chiếu. Nhưng trớ trêu thay triết Nho đã được trình
bày một chiều theo triết Tây nghĩa là duy
trí. Và đó là lý do tại sao Khổng Tử
chưa thể ra cầm trịch là vì ông vẫn còn
què, cái Nho đựơc trình bày là
cái Nho thọt, nó đi ngược với truyền thống Nho vốn đặt
lập đức trước hết, thứ đến là lập công, cuối cùng
mới đến lập ngôn, tức tu từ, tu lý bị kể vào hạng
bét. Tôi thiết nghĩ cản trở lại con đường cũ gồm cả bốn
bứơc từ, tượng, số, chế thì Nho mới đủ hai chân. Có
lẽ chỉ nên đổi thứ tự và chỗ nhấn để hợp tinh thần
ngày nay hơn. Thay vì từ, tượng, số, chế, thì nay
sẽ là dụng, từ, ý, cơ. Tức nhấn mạnh đến việc làm
gọi là Dụng (đối với thể là lý).
Từ giữ y nguyên, còn ý thay cho tượng, tức biểu
tượng phải bớt đi để nhường quyền cho ý, cho logic, và
đó là phần mà Nho phải học với triết Tây để
biết phân tích thấu đáo, luận lý rành
mạch, hệ thống hóa chặt chẽ để hợp tâm trạng người mới.
Sau đó đến số nên đổi ra cơ để khai thác những
thành tựu của cơ cấu luận. Đó cũng là sự phục hoạt
con đường Nho nguyên thuỷ, thứ Nho có dùng số, đồ
biểu, biểu tượng. Cho nên với phần này ta có thể
đưa lại cho Nho những khía cạnh mới mẻ hợp cảm quan thời nay.
Người nay đã chán lối suy tưởng duy lý, trừu
tượng, khô khan, và đang mong muốn một thứ triết lý
cụ thể. Với cơ cấu cùng các tuỳ phụ như tiêu biểu,
truyền kỳ, chúng ta có thể nếu không tạo dựng một
nền triết mới ít ra cũng nhìn Nho bằng một lối mới, một
kiểu trình bày Nho một cách cụ thể, có
màu sắc, có truyện tích, điểm pha lịch sử cho bớt
tính chất trừu tượng của duy lý. Và trên hết
là dụng.
Dụng là làm, tôi muốn dùng chữ này
thay cho chữ chế là có ý mở rộng chế hơn.
Tôi muốn dùng chữ này trước hết để chỉ tất cả mọi
lời nói phải hướng vào hành động, cần gạt bỏ những
vấn đề quá hàn lâm, thuyết lý. Sau là
muốn chỉ những hoạt động nào nhằm tu thân. Vì nhiều
thể chế cũ nay đã lỗi thời. Và vì lối tu
thân xưa đã thất nói vắn tắt là nhạc
đã mất, nên không còn rõ người xưa tu
cách nào. Ta có thể thay vào bằng thi ca,
nghệ thuật thì mới có phương tiện thanh lọc tâm
tình để cân đối với logic suông.
Ngoài ra nên thêm một lối thiền nào mà
ta ưng ý hơn hết. Vì thiền cụ thể hóa lối tu trong
nhà Minh Đường hơn cả. Thiền đi vào nội tâm để trai
tâm y như Minh Đường là để thực hiện lời Kinh Dịch “Dịch
vô tư dã, vô vi dã, tịch nhiên bất
động, cảm nhi toại thông thiên hạ chi cố. Dịch là
không suy tư, không làm nữa, ngồi bất động để rồi tự
nhiên thấu suốt các lẽ đất trời”. Phai có thế
thì Mạnh Tử mới nói được câu “phản thân nhi
thành lạc mạc đại yên”. Có như vậy mới đúng
câu mở đầu sách Luận Ngữ “vừa học vừa tập vui biết mấy”
(câu 2), và câu sách Đại học (câu 3)
“Hữu phỉ quân tử như thiết như tha, như trác như ma”.
Người quân tử chú ý đến tu thân cách
chăm chú như người thợ ngọc “như cắt, như dũa, như đục, như
mài”. Bỏ phần tu luyện thì làm sao có thể
nói những câu như thế, làm sao có thể
nói vừa học vừa tập vui biết mấy. Cái ấy tôi gọi
bằng tên bao quát là dụng. Phải để Dụng trên
đầu, trứơc cả từ, ý, cơ. Đó cũng là hợp câu
châm ngôn “tiên học lễ hậu học văn”. Văn là
từ, ý, cơ đi sau, còn lễ là dụng, là tu
luyện, là tất cả những gì hiện thực phải để lên
đầu, phải cho là quan trọng bậc nhất. Như vậy mới có một
cái gì thực nghiêm chỉnh đặng cân bằng với
lý luận lý trí để thiết lập lại con đường “lưỡng
hành”.
Đó là đại để nét đặc trưng của Nho giáo
mà hội nghị Honolulu đã gọi là có
chân trên cả hai tàu, cả tàu vật chất lẫn
tinh thần, cả dụng lẫn từ, ý, cơ. Sở dĩ hội nghị đã bầu
Khổng Tử lên cầm trịch mà ba mươi lăm năm nay chưa thấy
ông xuất hiện, thì truy căn ra ông còn cụt
một chân: mới có đi chân từ, ý, chưa chắc đến
chân cơ, dụng. Mới có học giả để nghiên cứu, chưa
có triết gia để suy tư, để đưa ra những tư tưởng hướng dẫn. Thế
giới tuy bao giờ cũng đựơc hướng dẫn do ý tưởng thực, nhưng
nó không chịu ăn đồ hộp là ý tưởng cũ,
mà đòi những tư tưởng mới vọt lên, còn
nóng sốt. Đó là ý nghĩ của tôi về
lý do sự chọn lựa của hội nghị Honolulu năm 1949, và tại
sao Nho giáo chưa nổi lên được.
Tôi xin kết thúc bài nói bằng câu hỏi
sau: có vẻ tư riêng hơi kỳ nhưng vì yêu cầu
thực tế nên cứ hỏi là liệu hội nghị này có
chọn một triết gia nào, hoặc một triết lý nào để
dẫn đưa nhân loại trong giai đoạn đang tới chăng? Tôi
không biết rồi đây trong các cuộc thảo luận
câu hỏi trên có được đặt ra chăng? Nếu không
tôi ước mong được mỗi quý vị ghi ý kiến mình
vào mảnh giấy nhỏ và trao cho tôi để tôi
có bằng chứng mà đo mức độ tâm thức nhân loại
hiện nay cũng như dùng làm kỷ niệm quý báu
về hội nghị này.
Bài đọc tại Đệ nhất hội nghị toàn cầu về triết học Trung
Hoa hội tại Đài Loan- Đại học Đông Hải – August 1984
(The First World Conference in Chinese Philosophy – Taichung Taiwan
R.O.C)
Phần I I
II. TỪ HOÀNG NHO QUA DI NHO TỚI VIỆT
NHO
Phi lộ
Bài sau
đây nói đến hai thứ Nho, một là Hoàng Nho
cũng có tên là Di Nho hay Việt Nho. Hai là
Hán Nho cũng có lúc gọi là Chu Nho. Như vậy
chủ đích là nói về văn hóa, chứ tuyệt
nhiên không đả động chi đến vấn đề chủng tộc tức
không xem Tàu với Di hay Việt khác nhau về chủng
tộc mà chỉ có ý đến hai thứ Nho. Việt Nho
là nguyên thuỷ chung cho cả Việt lẫn Tàu. Hai
là Hán Nho cũng là Nho đã được người
Tàu hoàn chỉnh (tức làm cho trọn vẹn cũng gọi
là công thức hóa) và sau đó có
đọa do đưa vào chừng 30% chất du mục, nay cần phân định để
gạn lọc hầu đạt Nho chính thống.
Các học giả cả Tàu lẫn Tây Aâu khi nói
về Nho đều dùng tiếng Confucianism, đến nỗi nhiều người
không biết đến tên Nho, càng không biết đến
những chặng tiến của Nho. Đó là điều chúng
tôi có ý bổ túc trong bộ triết Việt Nho
này.
Vậy Nho có tất cả 4 giai đoạn:
Một là Hoàng Nho thuộc Tam Hoàng từ –4480 đến –3080
Hai là Di Nho từ vua Thuấn –2255 đến Vũ –2205
Ba là Việt Nho lối Xuân Thu –821
Bốn là Hán Nho cũng là Khổng Giáo từ
nhà Chu –1122
Hoàng Nho là Nho của Tam Hoàng: Phục
Hy, Nữ Oa, Thần Nông. Nho đợt này chứatrong 4 loại
sách gọi là “Tam phần, Ngũ điển, Bát sách,
Cửu khâu”. Đời Chu có đặt chức quan Ngoại sử coi về bộ cổ
thư này (xem Chu Lễ, chương Xuân Quan Tông
Bá, tiết Ngoại Sử). Nhưng sau không hiểu sao lại để mất.
Gọi là ngoại sử vì thuộc giai đoạn trước khi có
dân tộc Tàu. Tàu chỉ xuất hiện từ Hoàng Đế
là cùng cực và sách tự đấy thì do
quan “nội sử” trông coi. Vì sách đã mất
nên nay ta chỉ có thể biết cách gián tiếp
qua những đức tính của Tam Hoàng mà dấu đặc trưng
nổi bật là huyền số như ta thấy số 3, 5, 8, 9 trong tên
sách. Rồi đến tính cách và phong
thái của Tam Hoàng như sống cả trên trời lẫn dưới
nước (tiên rồng). Phục Hy thì làm ra “Dịch
tiên thiên”. Nữ Oa nấu đá ngũ sắc. Thần Nông
khai sáng nông nghiệp. Đấy là loạt tổ đầu
tiên lập ra Nho, tôi gọi là Hoàng Nho
và là tổ của Tứ Di. Trứơc khi nói đến Di Nho
hãy nhận xét hai điều:
Trước hết là Nho đã được đặt nền móng xong hẳn,
người Tàu chỉ có thể hoàn chỉnh (trọn vẹn
hóa) chứ không thêm được gì cũng không
thể bỏ. Kinh Thư hay nhắc: nếu không lấy ở cổ đạo thì lấy
giáo huấn ở đâu? “Bất do cổ huấn, vu hà kỳ huấn”
(thiên Tất Mệnh câu 11). Đó là cái Đạo
mà Khổng An Quốc gọi là Đại Đạo (bài tựa Kinh
Thư). Chúng ta sẽ bàn ở chương sau.
Điều hai là vì vụ nhà Chu “để mất” các cổ
thư nên sau người ta quên hẳn dòng văn hóa
Hoàng Nho, mới có truyện móc nối với Hoàng
Đế, và tính năm tự Hoàng Đế (-2696) trở lên
thành ra Phục Hy là –2852 và Thần Nông
là –2737.
Đó là những niên hiệu cần phải thải bỏ, vì
nó trái với khảo cổ: hai di chỉ Long Sơn và Ngưỡng
Thiều phải có tự 4 đến 5, 6 ngàn năm trước. Văn
hóa Hòa Bình cũng đã có Thần
Nông tức lối 10 ngàn năm trước là ít.
Vì vậy nên ghi niên hiệu lưu truyền không phải
vì nó đúng hơn, nhưng vì nó bớt xa
sự thực hơn.
Đợt tổ thứ hai là Nghiêu Thuấn, nhất là
Thuấn là tổ của Khổng Tử. Khổng Tử không là
nhà sáng lập mà chỉ là người truyền
bá. Truyền bá đạo nào? Thưa là đạo Di Nho
đó. Sách Trung Dung câu 30 nói “Trọng Ni tổ
thuật Nghiêu Thuấn, Hiến chương văn võ. Thượng luật
thiên thì, hạ tập thuỷ thổ”: Trọng Ni (tên Khổng Tử)
thuật lại đạo ông tổ của mình là hai ông
Nghiêu Thuấn, và hiến chuơng của vua Văn, vua Võ.
Trên thì để tâm đến Thiên thời, dứơi
thì chú ý tới lệ tục từng nơi”. Câu
trên bày tỏ hai chiều kích (có chân
trên hai tàu): Đạo chung thì lấy từ ông
Nghiêu ông Thuấn, còn hiến chương (hay hiến
pháp tức khởi đầu đi vào cụ thể tư riêng)
thì lấy của vua Văn, vua Võ. Câu sau giải rộng: Đạo
phổ quát thì là chữ Thời, đến lúc hiện thực
thì phải tuỳ nơi, (hạ tập thuỷ thổ). Câu sách
trên cho thấy rõ Khổng Tử chỉ thuật lại cái đạo của
ông Thuấn ông Văn; vậy mà ông Thuấn ông
Văn đều là người Man Di “Thuấn Đông Di chi nho, Văn Vương
Tây Di chi nhân” (Mencius IV b.1)
Đợt cuối là Việt Nho. Việt cũng gọi là Bách
Việt là một tên mới dùng để chỉ Tứ Di, hay Man Di,
tức không phải dòng tộc mới mà chính
là liên đoàn các dân thổ trước
đã cư ngự ở nước Tàu trước khi Tàu xuất hiện,
và gọi là Viêm Chủng, là Tam Miêu, Cửu
Lê, rồi Cửu Di, Tứ Di v.v… đến quãng sau này chỉ
bằng tên Bách Việt gồm rất nhiều chi như:
Bộc
Việt =
miền
Kinh
Sở
Liêu
Việt = miền
Hồ
Quảng
U
Việt =
miền
Chiết
Giang
Mân
Việt =
miền
Phúc
Kiến
Nam
Việt =
Lưỡng
Quảng
(Lưỡng
Việt)
Lạc
Việt =
Bắc
Việt
v.v…
Người vẫn là một dù mang tên
Hoàng, Di hay Việt. Nhưng sở dĩ phải dùng những tên
khác nhau cho hợp lịch sử và nhất là có
những chặng nhỏ để dễ nhận diện: tự người Việt liên hệ với
Bách Việt. Bách Việt cũng là Man Di. Di là
con cháu của Tam Hoàng, nhất là đợt tên mới
này bao gồm Việt Nam là nước hiện có hoàn
cảnh sử địa đặc biệt đáng tên là đại diện cho Di
Nho hay Hoàng Nho, thì từ nay nói đến các
thứ Nho này có người thừa kế sống động để “bênh vực
quyền lợi” của Di Nho, kẻo tự trước tới nay chỉ có mình
Hán Nho lên tiếng, còn Di Nho kể như người vắng
mặt. Ngạn ngữ Pháp nói “kẻ vắng mặt bao giờ cũng
có lỗi hay bị thiệt thòi”, les absents ont toujours tort.
Từ nay có Việt Nho thì hết sợ thiệt thòi. Huống
chi ta đang kiến thiết một triết lý để sống thì cần phải
có người sống thật sự, mới hy vọng viết ra được đạo sống.
Vậy bây giờ xin hỏi Di là những giống người nào?
Di có hai nghĩa: một là chỉ những bộ lạc “man rợ” ở
phía đông nước Tàu. Trong ý đó Di đi
với Nhung miền Tây, Địch miền Bắc (như Kim, Mông,
Mãn) Man miền Nam (như vùng Hồ Quảng cũng gọi là
Kinh hoặc Kinh Man. Huyền sử Việt gọi là Di là Dương
trong tên Kinh Dương Vương). Như vậy Di gồm từ miền núi
Thái Sơn, Châu Từ, Hoài An, Giang Tô, Giang
Nam trở xuống (trong Kiều gọi là người Việt Đông).
Còn một nghĩa chung và thông thường hơn thì
Di chỉ tất cả các dân cư ngụ trong nước Tàu
mà không phải là Tàu, hay chưa là
Tàu và thường được chỉ bằng hai chữ “Tứ Di” thí dụ
câu “Tứ Di tả nhậm” trong Kinh Thư, thiên tất mệnh,
câu 13. Nhiều chỗ tứ Di được thay bằng Tứ Phương hoặc Tứ Hải.
Theo sách Nhĩ Nhã thì hai chữ “Tứ Hải” có
nghĩa như Tứ Di cũng như chữ Tứ Di sẽ mang nhiều tên khác
như Man Di, Bành cũng đọc là Bàng, Bang, Bang cũng
dọc là Man. Rồi Bàn cũng đọc là Ban, Ba cũng đọc
là Bà. Cũng có khi Di mang tên Cơ (Aâu
Cơ) hoặc Nhung hay Địch hoặc Đông Di, Điểu Di, Lai Di, Tam
Miêu, Cửu Lê và nhất là từ thời Chiến Quốc
có tên Bách Việt.
Trong quyển V của Legge “The Ch’un Tséw” trang 112 có in
tấm bản đồ với chữ “Việt Đông tỉnh thành. Tuy văn Đường
khắc” thì hai chữ Việt Đông chỉ bao trùm các
thứ Việt ở rải rác từ miền Thái Sơn trở xuống xuyên
qua các tỉnh miền Hoài Giang, Giang Tô, Giang Nam,
trong đó có “quê hương” của những “nhân vật”
nổi tiếng như Phục Hy, Nữ Oa, Thần Nông. Như vậy chữ Bách
Việt cũng như chữ Tam Miêu, Cửu Lê, chỉ liên
đoàn các dân mà trước kia gọi là Tứ
Di, Tứ Hải nên không có sự phân biệt rõ
ràng giữa các tên, thí dụ Di cũng gọi
là Nhung mặc dầu Di ở mạn Đông, Nhung ở mạn Tây.
Người Việt có tổ tiên Lạc Việt, mà Lạc cũng đi
đôi với Dịch ở mạn Bắc thành ra Lạc Dịch. Hay chữ
Bàng (trong Hồng Bàng) cũng đọc là Bành
là Bang, mà Bang lại cũng đọc là Man, nên
Viêm Bang cũng là Viêm Man hay Viêm Việt, mới
coi như có sự dùng bừa bãi, mà xét
thấu đáo thì lại thấy có cái lý do
của sự việc, tức những tên khác nhau tuy ban đầu chỉ một
chi tộc khác nhau, nhưng vì có sự pha giống giữa
các chi và nhất là có những yếu tố văn
hóa căn bản như nhau, nên về sau các tên hay
được dùng chung nhau. Trong các tên hay được
dùng thì có Tam Miêu, Cửu Lê mà
ông Needham (II.117) gọi là “liên đoàn
các dân” hoặc “cộng đồng huynh đệ” nhưng còn nhiều
tên khác như Bàng, Bành, Bang, Bàn,
Man Di, Cửu Di, Tứ Di, Nhung Di, Từ Di, Hoài Di, Điểu Di, Lai
Di, Bách Việt: Bộc Việt, Liêu Việt, U Việt… cả ba
chùm tên trên (hay bốn, năm, sáu…) đều
cùng có chung một tiên tổ văn hóa đã
cư ngụ trong nứơc Tàu trước khi người Tàu xuất hiện như
một dân, nghĩa là chưa tách ra khỏi đại khối.
Đó là một sự thực to lớn là 25 thế kỷ qua
đã bị quên khuấy, phải chờ đến thế kỷnày mới được
khoa học khui ra. Và điều này rất cần được ghi nhận
và nghiên cứu khi tìm về nguồn gốc văn hóa
Đông Nam Á. Đó là điểm một.
Điểm thứ hai cần phải để trước mắt là về người Tàu
và nứơc Tàu. Người Tàu là ai?
Thưa có 3 loại. Thứ nhất
là những người trước chính là Di nhưng sau
đã trở nên văn minh mà hóa ra Tàu. Hai là những rọ phương Bắc
như Mông, Mãn, Tạng, Hồi, và nứơc Tàu rồi
thấm được văn hóa Di, sau trở nên Tàu. Ba là những bộ tộc của Di
mà Tàu chinh phục thí dụ ba nước Sở, Ngô,
Việt rồi được đồng hóa ra Tàu. Vì thế khi
tôi nói 70% dân Tàu là Di là
nói non cho chắc ăn, chứ thực sự phải hơn nữa.
Còn nước Tàu to lớn như ngày nay thì mới
có tự đời Tần Hán (năm 221 tr.c.n) chứ trước nữa
bé hơn nhiều lắm. Theo huyền thoại thì nước Tàu
có tự đời Hoàng Đế Hiên Viên, nhưng đó
chỉ là huyền thoại không có đủ bảo chứng về khảo
cổ. Ngày nay các cuộc tìm kiếm theo phương
pháp khoa học đã minh chứng là những nhân
vật như Hoàng Đế, Nghiêu Thuấn, mới được tạo dựng
lên tự cuối đời Chu chứ trong các sách cổ hay cốt
tự văn hoặc chữ tạc lên đồ đồng không hề nhắc đến
các “vị” đó. Vì vậy không còn được
coi là nhân vật có thực trong lịch sử của
Tàu mà chỉ còn được kể là những anh
hùng văn hóa hầu hết là của Di Việt, ngoại trừ
vài người như Hoàng Đế là đại diện cho văn
hóa “du mục”. Đây là loại văn hóa mới xuất
hiện để chinh phục văn hóa nông nghiệp chỉ thị bằng Li Vưu
con cháu Thần Nông.
Còn nói về sử ký thực sự thì Tàu mới
xuất hiện tự tộc Thương quãng 17 thế kỷ trước công
nguyên. Có người muốn kể cả tộc Hạ, nhưng nói chung
tộc Hạ chưa được giới nghiên cứu công nhận. Tộc Thương khi
mới xuất hiện thì chỉ như một bộ lạc hùng mạnh hơn
các bộ lạc chung quanh, địa vực lại rất khiêm nhượng, sau
bao cuộc chinh phục mà đất đai cũng mới rộng chừng vài ba
trăm ngàn dặm. Ngay đến đời Chu mà xem trong bản đồ in
trong quyển Kinh Thư của Legge (IV tr.126) cũng chỉ quanh quẩn hai
bên bờ Hoàng Hà mà ở giữa còn xen kẽ
vô số bộ lạc của Di, sách cổ quen gọi là vạn quốc
chư hầu. Vì thế về đất đai cũng chưa nổi bật như sau này
tự đời Tần Hán.
Còn về văn hóa thì trứơc tộc Thương tất cả nước
Tàu như nhau nghĩa là chỉ có văn hóa Tứ Di,
tức cũng anh em kế nghiệp chứ chưa có tông pháp
trao quyền theo con cả. Khi múa cũng mang lông chim.
Các bà đẻ con theo kiểu trống quân tức là
dã hợp. Trong quyển Tiền Sử ông Andreas Lommel ghi nhận
“tất cả miền đất mênh mông tự Thái Bình Dương
trở lên đến đất mạn nam Trung Quốc đều cùng một nền văn
hóa. Đảo Borneo cũng có nghệ thuật như ở sông
Hoài (sông Hoài là Giang Tô miền nước
Ngô xưa) Préhist tr.180.
Sự khác biệt giữa Di và Tàu còn
rất ít. Đời Thương mới thấy có sự khác về
lá cờ: cờ tộc Thương là cờ bạch hổ (Shang civ .206), đang
khi các chư hầu đều trương cờ rồng. Kinh Thi nói “cờ rồng
bay phơi phới”, “long kỳ dương dương” (Kinh Thi Legge IV tr.591).
Còn văn hóa vẫn là Di, chỉ có biến đổi tự
nhà Chu do sự đưa những yếu tố văn minh vào như chức
thiên tử, hoạn quan, luật hình. Đấu là những yếu tố
mượn bên miền du mục Lưỡng Hà như Perse, Assyria,
chúng sẽ lớn lên và làm bẻ quặt Di Nho
nên bị tiếng là du mục. Nhưng là du mục so với Di
Nho chứ còn đối với Tây phương thì Chu Nho (sau
này gọi là Hán Nho) cũng còn là
nông nghiệp có thể nói đến 70%. Du mục chỉ chừng độ
30% là nhiều. Cứ xem bảng tiếng nói thì tạm
có một ý niệm rõ hơn. Theo các nhà
ngôn ngữ thì Tàu có đến 10 phương âm.
Trong đó tiếng Quan Thoại đựơc kể là chính thức
(do may mắn là tiếng nói của kinh đô vua ở,
nên được đắc dụng chứ không vì văn hóa cao).
Tiếng Quan Thoại cũng chỉ gồm có phía đông Thiểm
Tây, bắc Hà Nam, nam Hà Bắc, nam Sơn Tây.
Ngoại giả hầu khắp nơi đều nói giọng của Di Việt gồm có:
Tần ngữ đuợc coi như cổ ngữ của Quan Thoại
Thục ngữ âm của người Thái xưa.
Yên, Tề ngữ của Đông Di và Mạc Dịch.
Sở ngữ: Kinh Man, Lạc Việt.
Mân ngữ của Mân Việt ở Phúc Kiến.
Giang Hoài ngữ: Việt Chiết Giang (U Việt)
Ngô Việt ngữ: bắc Giang Tô, Việt Chiết Giang
Điển và Kiểm ngữ: Vân Nam
Việt ngữ: Quảng
Đông, Quảng Tây
Khi tôi dùng chữ Di Nho hay Việt Nho là
tôi gồm cả 9 thứ người trong đó với Chu Nho hay Hán
Nho. Vì vậy đây chỉ là mặt trận giữa hai loại văn
hóa siêu quốc gia, chứ không có ý
chính trị nứơc Tàu và nước Việt chi cả. Trong khi
nói Việt Nho cũng có ít nhất là 70%
dân Tàu, là tôi nghĩ tới một hiện tượng kỳ lạ
không mấy ai để ý, tức nước Tàu không
có tên riêng, phải mượn tên Tàu
là một nước của Tứ Di hay Nhung. Còn chữ Trung quốc
không là tên chỉ nguồn gốc hay dòng tộc chi
cả, đó là tên nói lên nguyện ước
là “nứơc ở giữa” các nước khác “nước trung ương”,
nó nảy sinh tự tộc Hạ và tự đấy có đôi người
gọi người Tàu là “Hạ dân”, nhưng tên
này không ổn lắm vì Hạ chỉ là mảnh đất “ước
ao” hơn là có thực vì nó ở mạn nam
sông Hoàng Hà mà mãi đến đời thứ ba
là TanKang (-2188 đến –2159) “tộc Hạ” mới sang qua sông
Hoàng Hà đóng ở Zhenxun tỉnh Hà Nam
(phía tây nam Gong district ngày nay, 121 Wu).
Vì thế khi ông Vũ đi kinh lược bốn phương rồi mà
trở về tính sổ với các thần thì phải đến “Cối
Kê” kinh đô của U Việt nằm mãi phía
đông nam bên dưới Hoàng Hà xa lắm. Cho
nên đã rõ truyện Đại Vũ trị thuỷ được các
nhà nghiên cứu Tây Aâu xếp vào loại
huyền thoại nên tên Hạ không ổn, đến nhà Chu
phải thêm vua Hạ tiếng Hoa thành Hoa Hạ có nghĩa
là vinh hiển. Sau cùng chữ Hoa thay thế hẳn cho chữ Hạ
(xem Wu 107-110 và Tả truyện: Định công năm thứ 10). Như
vậy chữ Trung trong Trung quốc và hai chữ Hoa đều là
hình dung từ chứ không là danh từ chỉ tên
đất, tên tổ chi cả. Điều đó ngầm chỉ rằng ít ra 70%
người Tàu là gốc Di hay Việt.
Đấy là vài yếu tố cần đặt nổi để tránh những sự
hiểu trái khoáy lịch sử (anachronic). Vì
không chú ý điểm này nên hầu hết
các người chú thích và dịch giả không
chịu chấp nhận câu sách Mạnh Tử cho ông Thuấn
là người Đông Di, Văn Vương là người Tây Di,
mà cưỡng dịch là “ông Thuấn sống gần mọi Đông
Di” làm như nói ông Thuấn là người Di
là hạ nhục ông mà không chú ý
rằng lúc ấy chưa có ý niệm “mọi rợ” trong tiếng
Man Di, nên Mạnh Tử không ngần ngại nói lên
việc “ông Thuấn là người Đông Di, Văn Vương
là Tây Di”. Cần ghi nhận là ý niệm rợ mọi đi
liền với Man Di mới manh nha dần tự đời Chu do sự việc giàu
có sinh lễ nghĩa. Nhờ nắm được chính quyền nên
có thể áp đặt tiếng nói, tục lệ của mình.
Lại nhờ có sự học hành nhiều mới gây nên “văn
hóa nhà Chu” mà sự thực chỉ là Di Nho đựơc
trau dồi, rồi thêm mấy nét du mục, mấy tập tục của
riêng vào mà thành ra, mới dần dần khinh Man
Di vẫn còn quê mùa ít học. Cần ghi nhận điều
này kẻo không hiểu được cổ sử đúng vào thời
của nó.
Học giả James Legge đã hé nhìn ra chỗ trái
khoáy này, nên trước kia ông đã dịch
câu sách trên là “Văn Vương là người
sống gần mọi Tây Di” nhưng đến quyển Kinh Thi thì
ông viết: “Song le theo sử sách của chính
nhà Chu thì ta thấy tổ phụ của họ là Công
Lưu cũng xuất phát từ các bộ lạc nọ (tức Tây Di)
và lập nghiệp ở đất Bân. Rất lâu sau họ mới chậm
chạp tiến lên văn minh rồi bỏ nơi cư ngụ cũ, thiên về
phía đông nam để va chạm với tộc Thương, và thiết
lập ra Trung Quốc hay nước Tàu thời sơ khai lúc
đó. Còn những truyện móc nối giữa các tổ
phụ nhà Chu với ông Nghiêu ông Thuấn
thì phải gạt bỏ khỏi phạm vi lịch sử có thể tin cây
được” (Legge IV.2). Theo gia phả nhà Chu thì Công
Lưu là dòng dõi ông Khí (sau con
cháu phong làm Hậu Tắc) làm Bộ trưởng canh
nông của ông Thuấn, đựơc phong ở đất Thai (Thiểm
Tây), sau ông Công Lưu (-1796) thiên về đất
Bân. Đến cháu 13 đời ông Khí là
Cô Công Đản Phủ (-1325, con cháu phong là
Thái Vương) lại thiên về đất Chu ở miền núi Kỳ,
quận Phượng Tường… Xem đấy đủ biết cả nhà Chu cũng cố móc
nối với ông Thuấn “Đông Di chi nhân” chứ có kỳ
thị chi đâu. Kỳ thị mới có về sau tự đời Trung Chu trở đi,
nhất là tự đời Hán, lúc nước Tàu đã
thực sự lớn rộng sau khi Tàu đã thôn tính
cái miền mênh mông của Man Di gồm Sở, Ngô,
Việt.
Những dấu văn hóa của Tứ Di
Sau khi đã bàn qua về lãnh thổ của Di (gồm
toàn cõi nước Tàu xuống tới tận các đảo
Thái Bình Dương) bây giờ ta bàn sơ qua về
nội dung văn hóa, như được biểu lộ xuyên qua những dấu đặc
trưng sau:
1. Dấu đầu tiên là trọng bên tả, Kinh Thư ghi “tứ Di
tả nhậm” có nghĩa các Di đều bắt vạt áo bên
tả, tức trọng bên tả, đối lại với Tàu trọng bên hữu.
2. Dấu hai là bên tả đi với phương đông nam,
chú ý số 2 và 3 ngược với tây bắc số 4-1.
3. Dấu ba đi với trọng bên tả là trọng nữ, tức trọng
nguyên lý mẹ, nên đặt âm trước dương, ngược
với nguyên lý cha đặt Càn trước Khôn (tức
dương trước âm).
4. Trọng số 5, ngược với Tàu trọng số 6.
5. Đã nói đến số thì phải nói đến bà
Nữ Oa luyện đá ngũ sắc để vá lại Trời, sau bà
hóa ra chim tinh vệ, nên bà là người Di
có tiên (chim) là họ mẹ và rồng là họ
cha. Tiên (chim) rồng vẫn đi đôi.
6. Phục Hy làm ra Kinh Dịch với số 2 và 3. Phục Hy
có tên là Thanh Tinh là rồng xanh.
7. Do đây có nét đặc trưng là huyền thoại
mang dấu Lưỡng hợp (dual-unit) chỉ bằng số 2 như Nữ Oa, Phục Hy, Non
Nước, Núi Sông, ông Cồ bà Cộc v.v… Tôi
gọi đó là nét song trùng.
8. Vật tổ: là chim và xà long mạn bắc, hoặc giao
long man nam, chứ không chỉ có một con như Tàu
lúc đầu là bạch hổ.
9. Oâng Thuấn nổi về đức hiếu thảo, tức là đặt quan trọng
về gia đình, sẽ xây nước trên mẫu gia đình.
Đây là điều rất lớn vì các nhà
xã hội đã nhận ra rằng ở đâu phát triển gia
đình hay thị tộc thì đấy không có nô
lệ, mà không nô lệ kéo theo bình sản
(chia của đồng đều).
Vài dấu bên ngoài
a) Ruộng nước, cấy lúa (dạo, rice) với gieo mạ (miêu).
Tàu: ruộng khô, lúa tắc với lúa mạch.
b) Tàu mạn tây bắc cưỡi ngựa, ngôn ngữ là
Quan Thoại đại diện thị dân. Di mạn đông nam đi thuyền,
ngôn ngữ chính là Phúc Kiến, Quảng Đôn
đại diện thôn dân. Thôn dân thì vẫn theo
Di Nho đến 90%. Còn Tàu thành thị chỉ giữ Di Nho
được quãng 60-70%.
Những dấu rên đây thường được biểu lộ qua truyền kỳ, huyền
thoại, là những dữ kiện không có giá trị
lịch sử, thí dụ truyện Nghiêu Thuấn thì nay
không một học giả nào dám nhận là vua như
xưa nay vốn truyền tụng, nhưng vẫn được coi như những anh hùng
văn hóa, hay là những mẫu mực tinh thần do cuối đời Chu
dựng nên. Rất nhiều truyện khác thí dụ Hiên
Viên, về ông Đại Vũ v.v… cũng phải xem như thế tức phải
vượt qua nghĩa lịch sử cũng gọi là hiện nghĩa
(phéno-texte) để đạt ý nghĩa tinh thần nội tại
(genotexte). Vì thế độc giả sẽ thấy chúng tôi
dùng khá nhiều những huyền thoại là theo ý
đó. Và cũng vì vậy không ghi xuất xứ kỹ như
sử học hay văn học, vì hê thống quy chiếu của huyền sử
là các khoa tân nhân văn như cơ cấu luận,
uyên tâm, khảo cổ, cổ nghệ v.v… Phải nhờ những khoa
này mới đủ sâu sắc tế vi cũng như đủ chứng từ khách
quan để đi vào vùng huyền sử. Vì nó rất
quặt quẹo: thí dụ nói là Tàu trọng
bên hữu mà trong sách vở lại không mãi
như vậy: lúc trọng hữu, lúc trọng tả, lúc
Đông lúc Tây, số 3-2 cũng vậy. Thành ra
là cả một sự thăm dò so sánh lâu mới
tìm ra. Xin đọc quyển “Hùng Việt Sử Ca”.
Văn hóa và văn minh
Những dấu trên (bên tả, số 2-3 v.v…) biểu thị một nền văn
hóa đặc trưng và rất vững mạnh có thể nói
là ưu thắng. Chính với số 2 mà Di Nho có
một nét quân bình siêu việt, nhờ đấy sau
này Khổng Tử được chọn làm triết gia để dẫn đầu
nhân loại (xem Đạo trường bài I) cũng như nhờ số 3
mà Di Nho nghiễm nhiên trở thành một nền nhân
bản cao siêu đáng tôn lên bậc nhân chủ
an vi. Cũng như nhờ số 5 mà nền nhân bản này mang
tính cách tâm linh, cũng như trọng bên tả đem
lại cho nền văn hóa này nét tế vi ưu việt.
Đây là nền văn hóa phương nam mà Khổng Tử
bảo người quân tử phải y cứ: “Nam phương chi cường dã,
quân tử cư chi” (T.D 10).
Nói tóm lại với Di Nho ta đã có một nền văn
hóa cao sâu xứng đáng được các triết học gia
quốc tế truy nhận và tôn lên bậc ưu thắng để dẫn dắt
nhân loại như đã bàn trước. Đến đời nhà Chu
chỉ đưa vào mấy yếu tố văn minh có tính
cách tô điểm trang trí bên ngoài
thôi nhưng ta cũng cần xét qua.
Các dấu văn minh thì phải kể trước hết là
quân đội nhờ đó có thể mở mang bờ cõi rộng
ra, một khi đất đã rộng dân đã đông
thì dễ dàng thôn tính các bộ lạc
khác. Đây là yếu tố tương đối dễ ở chỗ thế
nào cũng có người giỏi về quân sự trong một bộ lạc
nào đó, thế là họ thôn tính
thêm một bộ lạc nữa. Khi đã có hai thì dễ
thêm ba, bốn, năm, và thế là thành
hình một “nước” rồi một một nước tất nhiên phải có
Vua, tức một tù trưởng cỡ bự. Nước càng lớn thì
quyền vua càng cao, thế là nảy ra sự tôn thờ vua
đến độ tuyệt đối là Vua Thần.
Một khi có vua là phải có pháp luật thay
cho lệ tục. Lệ tục là của riêng một bộ lạc, hay bộ tộc;
còn nứơc quá lớn phải có pháp luật chung.
Đã có luật tất phải có hình để trị tội
những kẻ lỗi luật v.v…
Đã có pháp luật, phải có chữ viết để truyền
đi xa. Văn tự đã có từ đời Thương và cả trước nữa
như chữ con quăng và chân chim nhưng càng
ngàycàng phát triển. Thế là mấy yếu tố
quân đội, vua, luật pháp, chữ nghĩa hợp lực nhau
làm cho văn hóa Man Di trở nên rực rỡ uy nghi, đến
nỗi người ta tưởng là khác. Nhất là khi đã
“phú quý sinh lễ nghĩa” phú quý càng
cao lễ nghĩa càng trở nên phức tạp. Có hai điều nổi
bật một là lễ nghĩa tôn Vua. Vua Tàu chưa đến nỗi
là vua thần như bên Babylon, nhưng cũng đã được
tôn lên bậc “thiên tử” là người của Trời,
có thiên mệnh cao xa, khiến người dân không
được xem mặt. Xem thì phạm nhan có thể bị giết và
nhiều nghi lễ khác…
Điều hai thuộc về hôn phối, vua đặt ra quan môi với những
nghi lễ kềnh cơi để kiểm soát việc cưới hỏi. Tứ Di cứ theo lệ
tục riêng như trong hát trống quân, cô cậu
nào ưng nhau là lấy nhau khỏi bị lễ nghĩa ràng
buộc. Phép đó gọi là bôn. Triều đình
rất ghét thói tự do đó nên gọi là
“dâm bôn”. Khi nhà vua Tàu chê Tứ Di
là thiếu lễ nghĩa cần được “đức hóa” thì chẳng qua
là muốn bắt dân Di theo mấy tục lệ riêng của
mình cho ra “văn minh” vậy thôi, nghĩa là mấy
cái lễ nghi bề ngoài đó.
Văn hóa của Tàu với Di vẫn là một, khác
nhau chỉ vì những cái bên ngoài đó.
Tàu “văn minh” hơn ví như người giàu sang ở tỉnh
thành, lễ nghĩa đầy mình, nhưng bên trong có
ít nhiều nhân vi trá nguỵ. Di Nho thì như
người nhà quê, học hành ít, lễ nghĩa đơn
giản nhưng đầy chân tình, song vì đời sống xuềnh
xoàng thoải mái nên bị thị dân (triều
đình) chê là quê mùa, man di, mọi rợ.
Đó toàn là những cái bên ngoài
chứ văn hóa thì là của chung cho các
quý tộc lẫn dân gian. Quí tộc truyền dòng
nối dõi không tồn tại được, sẽ có kẻ sĩ thay
vào, mà kẻ sĩ thì tự dân mà
lên, chứ không có văn hóa riêng của
quý tộc như bên La Hy hay Aán Độ. Quý tộc
nhà Chu cũng chỉ học với Di, rồi sau làm cho Di Nho
nên rực rỡ để mang tên Hán Nho.
Về văn hóa thì Chu Nho kể là có công
ở chỗ làm cho Di Nho trở nên rõ ràng, san
định sách vở, đặt thành câu văn rành mạch,
tôi gọi là “công thức hóa”. Thí dụ Di
Nho làm bánh dầy tròn bánh chưng
vuông, thì Chu Nho sẽ nói “thiên viên
địa phương” để dễ truyền bá, tiện lập khoa cử, chứ về nội dung
sâu xa thì không thêm được gì cả.
Vì thế gọi được Di Nho là thời sáng tạo, Chu Nho
chỉ là thời phát triển còn Hán Nho
là thời ăn tự và truyền bá cũng như làm hư
hỏng.
Cũng có thể gọi lối khác:
Di Nho là tinh thần
Chu Nho là văn hóa
Hán Nho là chính trị.
Hai thứ Nho sau, nhất là Hán Nho sẽ làm
hỏng cái tinh thần là Nho rất nhiều, như được ám
chỉ bằng nhiều huyền thoại chẳng hạn truyền thần Cộng Công
húc đầu vào núi “bất Chu chi sơn” làm
nghiêng trời. Truyện Long Bá ăn trộm rùa làm
chìm đảo tiên, vụ Hoàng Đế chiếm chỗ Nữ Oa khiến
Nho gần mắc bệnh duy dương, vụ “hậu thiên bát quái”
đảo lộn Kinh Dịch mà chúng ta sẽ phân tích
sau, cũng như cụ thể là vụ Gác Thạch Cừ xem giặm
vào Kinh sách những yếu tố đàn áp
chuyên chế (xem trong quyển Cửa Khổng chương 3).
Tóm lại nếu muốn chấn chỉnh lại đạo Nho để cho nó đủ khả
năng dẫn đạo nhân loại như hội nghị quốc tế triết năm 1949
đã truy nhận là Nho có khả năng đó
thì phải vượt qua hai giai đoạn Hán Nho, Chu Nho bằng
vạch trần những sai lầm của hai giai đoạn đó để vềvới Di Nho. Di
Nho thường bị coi là man rợ nhưng sự thực thì đó
là thứ Nho còn đầy chất sáng tạo, tức nhiều chất
tâm linh phát xuất thẳng tự tiềm thức cộng thông,
hơn hẳn hai thứ Nho sau đã đầy chất nhân vi, lý
trí nên đã kết tinh thành hệ thống cứng
nhắc, kèm theo những định chế hết hợp thời, làm cho người
học khó có thể kiến thiết được gì mới vớithứ Nho
đã kết tinh nọ. Đang khi Di Nho hãy còn âm u
man mác với những huyền thoại, truyện tích những lược đồ,
số độ. Đó là bấy nhiêu những khuôn rỗng,
người học bó buộc phải tìm ra những tư tưởng mới để đổ
đầy. Đây chính là một lối thúc đẩy tạo dựng,
dễ giúp cho học giả đem ra một thứ Nho sống động hơn, hợp cảm
quan thời đại hơn, có thể gọi là Việt Nho, theo nghĩa
là siêu Việt.
III. CƠ CẤU UYÊN NGUYÊN
1. Đi tìm ý
nghĩa huyền thoại
Ta đã
bàn về Hoàng Nho gọi là “Đại Đạo”. Đó
là một đạo đầy đủ đến nỗi Chu Nho sau không thêm
được gì. Vậy Đại Đạo là gì? Có cách
nào để tìm ra nội dung Đại Đạo chăng. Bởi các
sách cổ nói về Đại Đạo như “Tam phần, Ngũ điển,
Bát sách, Cửu khâu” đã bị nhà Chu
làm mất rồi?
Thưa có hai lối: một là đi tìm xuyên qua
kinh điển của Nho, vì Nho đã múc tự Hoàng
Nho nên tìm ra Nguyên Nho cũng là tìm
ra Hoàng Nho. Và đó là con đường
chúng tôi đã theo cho tới nay. Lối này tuy
trung thực nhưng mới là tuỳ phụ và gián tiếp…
Còn một lối nữa có thể gọi là trực tiếp và
chính cốt đó là tìm ngay trong những huyền
thoại của Tam Hoàng. Lối này đã được dùng
rồi, nhưng phương thức sai: không tiêu diệt thần thoại như
Chu Nho, thì lại đi theo lối ma thuật của Hán Nho. Cả hai
đều trật, chúng ta sẽ cố tìm ra một lối thứ ba.
Chu Nho tiêu diệt thần thoại bằng cách sử ký
hóa thần thoại tức cố cắt nghĩa kiểu thường như Hoàng Đế
có 4 mặt (tứ diện) thì giải nghĩa là Hoàng
Đế đặt quan coi 4 phương. “Quỷ nhất túc” Quỷ có một
chân được giải là “một mình ông Quỳ đã
đủ (chữ túc có nghĩa là chân và đủ).
Aùo rồng áo chi của ông Thuấn trở thành 2
que cặp nách… Theo lối này thì bao truyện thần
tiên đều trở nên lịch sử: các thần trở nên
hiền triết hoặc quan đại thần tài ba như ông Đại Vũ.
Các quái vật trở nên quân phản nguỵ như thần
Cộng Công.
Lối này có cái hại ngay về văn học vì
đã thải bỏ mất bao huyền thoại như truyện bắn mặt trời, truyện
Nữ Oa. Đó là những truyện vì không thể
róc chất quái dị đi được thì bỏ hẳn. Còn
cái hại chính là khi làm mất chiều
kích bao la của câu truyện thì cũng là
làm mất ý nghĩa của Đại Đạo…
Đó là điều mà đến đời Hán đã
gây sự phản động lại, bằng cách thu thập đầy đủ các
thứ thần thoại như chứng tỏ trong các sách Sơn Hải Kinh,
Xuân Thu phồn lộ… nhưng đều giải nghĩa theo lối ma thuật như
âm dương gia, phong thuỷ, “ngũ hành”… thì đều
là đi xuống: “hình nhi hạ”.
Còn một lối biến huyền thoại ra dụng cụ văn chương, triết học
như trong Trang Tử, Liệt Tử v.v… Đó không là giải
nghĩa mà có thể nói là chối thần thoại,
biến thần thoại thành ra đồ trang sức cho văn chương hay
ý nghĩa.
Trong thiên nghiên cứu nhan đề “Các thần thoại trong
Kinh Thư”, légendes mythologiques dans le Chou Kinh (1924)
Maspéro nhận xét: “học giả về Tàu chỉ biết
có lối biến đổi thần thoại thành lịch sử nên biết
bao truyện bị róc hết chất huyền thoại, chỉ còn lại
chút cặn bã vô sách màu: thần
tiên trở nên hiền triết hoặc những quan đại thần tài
ba, còn các quái vật đều trở nên những
tên phản nguỵ. Và tất cả được xếp vào một
túe thứ tiên thiên đặt theo ngũ hành…”
Lời bình luận trên của Maspéro có chỗ
đúng và đó là lối Chu Nho. Nhà Chu
phát xuất từ phía tây bắc vốn thiên về
lý trí không ưa huyền thoại, đến khi gặp Di Nho
còn dùng nhiều huyền thoại thì tìam
cách róc tỉa hoặc bỏ qua. Vì thế mà hầu hết
các huyền thoại đều bị giản lược vào chiều kích
lịch sử, người Hy Lạp gọi là euhemerization. Còn Nho gọi
là hình nhi hạ tức từ hình ảnh ngụ ngôn đi
xuống sử ký thế sự. Lối hình nhi hạ tương đương với lối
mà cơ cấu gọi là phénotexte.
Phê bình như thế rất đúng nhưng không đi đến
đâu tức không đưa ra lối giải nghĩa đích thực
nào cả mà để huyền thoại y nguyên là huyền
thoại, ta có thể gọi đó là hình nhi
hình tức là không giúp vào Đạo
lý chỉ trừ có việc thông báo về văn
hóa làm cho độc giả biết rõ truyện lấy ở
sách nào và thời đại xuất hiện v.v… Đây
là điều có ích cho văn học thôi. Thế
mà cũng không hàm ơn ích, vì về việc
ghi thời gian của thần thoại không ăn nhằm chi (irrelevant) nhiều
khi còn không đúng hoàn cảnh nữa.
Không ăn nhằm vì thần thoại nói về việc phổ biến
tức vượt phạm trù không gian, thời gian, nên vấn đề
trước sayu, ở đây hay kia không mấy cần thiết, nhiều khi
ghi thời gian còn rút hẹp phạm vi của câu truyện.
Cũng không đúng hoàn cảnh nữa vì chỉ căn cứ
vào sách vở mà định thời nảy sinh truyện
thì sai. Bởi ở đây có hai truyền thống văn
hóa: một Tàu một Việt. Tàu đến sau đã
“làm mất” sách của Việt, khiến Việt kể là
không còn tiếng nói, nên hầu hết truyện
có lâu trước nơi Việt chỉ được chép vào
sách Tàu dần dần theo đó Tàu mở rộng đất
đai, thí dụ học giả hay nói ngũ hành mới có
tự thế kỷ 4 tr.c.n. Vì từ đó mới thấy ghi vào
sách Tàu, nhưng nếu theo khảo cổ thì ngũ
hành đã có lâu đời ít nhất là
30 thế kỷ trước như 5 hòn sỏi ở Phùng Nguyên chứng
tỏ điều đó. Cho nên hầu hết các câu quyết
đoán của học giả về thời gian xuất hiện của truyện đều nên
coi là đáng nghi ngờ.
Còn về việc đưa ra giải nghĩa chung cách đúng
thì không có. Vì quả thật đây
là chỗ khó khăn chưa được vượt qua tức vượt tự lý
trí lên tâm linh chưa làm được.
Muốn giải nghĩa huyền thoại đúng cách phải dùng
đến phạm trù Việt Nho mới có phổ biến tính
và đó sẽ là nhân thoại. Nhân thoại
khác thần thoại. Thần thoại thì thần làm chủ người
làm nô. Còn ở nhân thoại thì người
làm chủ ngang với thần, sau này Nho công thức
hóa thành thuyết tam tài: Trời, Đất, Người. Theo
đó nếu trời là chủ, đất là chủ thì người
cũng là chủ tức con người phải có chiều kích bao
la như vũ trụ. Và đó là điều được biểu thị trong
ngũ hành nhưng chẳng may ngũ hành bị hiểu kiểu ma thuật
hoặc dùng để xếp loại như trong y học hay sử ký do
Hán Nho đã dùng rồi, nó còn
kèm cả lối sử ký hóa của Chu Nho vì
đã không bày tỏ được chiều kích bao la của
con người mà còn trở nên cái ụ chận đường
tiến của khoa học. Vì lấy ngũ hành làm thực tại
rồi suy tư theo đó. Dầu vậy cũng còn cao hơn Hán
Nho vì Chu Nho đã lên đến đợt ý hệ. Chứ
Hán Nho còn đang ở đợt bái vật. Muốn hiểu
đúng ngũ hành phải hiểu theo nghĩa nhân chủ an vi
của cơ cấu như sẽ trình bày sau đây.
2. Cơ cấu uyên nguyên
Cơ cấu là phương pháp
nhìn bao trùm cánh đồng nghiên cứu để
tìm ra cái dạng thức chung rồi đối chiếu với các
dạng thức khác cho thêm rõ; lại dùng lược
đồ, số độ và truyện tích để trình bày. Đại
để đó là cơ cấu nói kiểu dễ hiểu. Nhưng biết
và hiện thực được thì khó hơn nhiều như sẽ xem sau.
Còn về hai chữ uyên nguyên là khi đi đến chỗ
đầu trước hết, đến chỗ tột cùng có nghĩa là phổ
biến tức thực cho mọi nơi mọi đời. Tính cách uyê
nguyên sẽ sa đọa khi bị hiểu trụt xuống nghĩa hiện tượng,
lúc ấy trúng hay trật chỉ còn là chuyện may
rủi và dẫu sao cũng là phần mớ, nhiều khi còn
làm mất luôn cả ý nghĩa hiện tượng nữa; tiêu
biểu chỉ còn là truyện cổ tích, tản mát,
sứt mẻ. Trong chương này chúng ta sẽ bàn về cơ cấu
uyên nguyên trước hết rồi sau chỉ trỏ ra một hai trường hợp
sa đọa.
Trước hết về cơ cấu uyên nguyên và đó
là ngũ hành.
Vì ngũ hành phát sinh tự cái nhìn về
vũ trụ và nhân sinh là hai quan niệm vừa bao
quát vừa có ngay tự đầu. Để thấy điều đó rõ
hơn ta hãy đi vào cụ thể bằng xét bộ “ngũ
hành” của Aristotle vì nó ảnh hưởng quyết định
trên triết Tây Aâu đến tận ngày nay.
Vào thời của ông có hai vấn đề: thứ nhất hỏi yếu tố
nào là bản chất sơ nguyên làm nên vũ
trụ. Hầu hết thưa là đất. Thales cho là nước. Heraclite
cho là lửa. Anaximene khí. Câu hỏi thứ hai
là vũ trụ có tính cách cố định hay biến đổi…
Parménide thưa là bất động, bất biến. Empédocle
cho là có động có tiến hóa. Aristotle thấy
người nào cũng có một phần sự thực nên ông
đã tìm cách tổng hợp bằng đưa ra một vũ trụ
có hai tầng, lấy mặt trăng làm ranh giới: tầng trên
tức tự mặt trăng trở lên thì bất động. Tầng dưới mặt trăng
thì động. Phần bất động gồm có chín đợt (spheres)
là mặt trăng, Venus, Mercure, Mặt trời, Mars, Jupiter, Saturne,
đợt các sao, vòng ngoài cùng là
Thượng đế. Ngài là đấng bất động nhưng lại là đệ
nhất tác động, làm chuyển động các vật dưới mặt
trăng mà trái đất là trung tâm. Sự động
gây nên do sự pha trộn các yếu tố đối nghịch nhau.
Có bốn tố là đất, nước, khí, lửa được xếp đặt như
bảng sau:
Với bảng này Aristotle nghĩa là
đã tổng hợp được cả tứ tố, lại vừa bất động với biến hóa.
Dầu sao thì đây phải kể là bứơc thành tựu
đầu tiên của con người cố vượt ra khỏi giai đoạn thần thoại để đi
lên giai đoạn lý trí: dùng bảng tứ tố để chỉ
đường tiến hóa của vũ trụ. Bước tiến này cũng xảy ra
có thể nói là khắp nơi, và với sự xếp đặt
các tố khác nhau mà ta nhận diện ra nền văn
hóa đó.
Bên phía Việt Nho thì là ngũ hành khi
so với nó thì bằng tứ tố có mấy dị biệt sau:
1. Thứ nhất thiếu sự vuông tròn lồng vào nhau:
tròn ở trên, vuông ở dưới: nóng lạnh,
khô ẩm giao thoa theo đường thẳng tắp, chứ không tiến theo
vòng tròn. Như vậy chỉ có vuông.
2. Không có vòng sinh, vòng khắc trái
chiều nhau.
3. Và nhất là không có vô thể, tuy
Aristotle có thêm Ether làm tố thứ năm, nhưng
nó cũng là một tố như bốn tố kia tức cũng là hữu
thể và ở riêng trên tầng bất động, không
liên hệ chi tới trái đất, tức là trời đất
không giao thoa: không có “giao chỉ”. Chính
vì thiếu vô thể, nên không có sự biến
động, uyên nguyên giữa vô với hữu. Vì vậy tứ
tố không là cơ cấu uyên nguyên.
Cái bảng tứ tố này về sau cũng được theo bên
Aán Độ như thấy trong phái Sankhya, và nhấn mạnh
đến tròn chỉ vô thể. Nên nếu kể Aâu Tây
là Hữu với siêu hình là Hữu thể học
(ontology) thì bên Aán là Vô với
Vô nhị (advaita) hai bên giống nhau ở chỗ tròn
vuông không giao thoa. Vì thế có thể
nói chung là cả hai nơi đều rơi vào duy: Tây
Aâu là duy hữu, Aán Độ là duy vô. Đấy
là nói về nền tảng chứ trong đời sống thì tất cả
có sự pha trộn tròn vuông, nhưng chỉ ở cỡ lương tri
thường nghiệm chứ không đến đợt cơ cấu. Tuy bên Aán
có lưỡng hợp đặc biệt là mandala coi như có pha
tròn vuông, nhưng khi xét kỹ thì sẽ thấy
đó chỉ có như một kỷ niệm của một thời, thí dụ của
Dravidien, nhưng vì Dravidien không nắm được lèo
lái văn hóa, nên mandala không phát
triển ra các thứ như bên ngũ hành (thí dụ ra
Hà Đồ, Lạc Thư, Hồng Phạm, Cửu Trù…) để đi vào đời
sống thực sự. Và vì thế văn hóa Aán Độ cũng
giống văn hóa Tây Aâu thiếu thống nhất: quý
tộc theo Vichnou và Krishna. Trung lưu theo Jain và
Buddism. Dân chúng theo đạo phong nhiêu Shiva
là Thần mặt trời.
Nếu thực có tròn vuông thì văn hóa
có thống nhất tức chỉ có một như bên các
nước Việt Nho, mà chúng ta sẽ bàn về cơ cấu ngũ
hành.
3. Ngũ hành
Điều trước hết là có năm hành: Kim,
Mộc, Thuỷ, Hỏa, Thổ. Thứ hai là mỗi hành đi với một
phương, một số, màu v.v… như mấy hình sau:
Điều khác thứ ba rất căn bản là hành Thổ đại diện
cho vô thể tức không có mùa, có phương
riêng. Nên ta phải vẽ ngũ hành theo hình sau
…… thì hình này làm ta tưởng Hành
Thổ cũng như 4 hành kia, kỳ thực thì không
vì nếu ta tháo rời 4 ô ra thì thấy
hành giũa không còn: đúng là vô
thể. Nhưng chính cái vô thể đó làm
cho ngũ hành trở nên cơ cấu uyên nguyên tức
có sự giao thoa giữa Hữu với Vô. Chính vì sự
pha trộn này mà ngũ hành làm được việc
mà bảng tứ tố không làm được là cộng
tròn với vuông, tức giàn hòa giữa vô
với hữu, để đi lên bậc cuối cùng của trí thức con
người và trở nên mẫu mực có tính cách
phổ quát và bất khả li tức vững vàng muôn
thưở và gọi là Đạo, mà Đạo thì bất khả li
(khả li phi đạo dã). Triết lý An vi chia tâm thức
con người làm ba đợt là bái vật, ý hệ,
và tâm linh mà ta có thể gọi bằng danh xưng
khác là thần thoại, lý trí, đợt tương đối
thuyết. Cả tứ tố lẫn ngũ hành đều hơn kém đã vượt
giai đoạn thần thoại (bái vật) để lên giai đoạn lý
trí; nhưng tứ tố ở lì lại lý trí nên
đốc ra duy ý, ý hệ tức là bám vào
có một bên: hoặc hữu hoặc vô, không
nhìn ra trường hợp thứ ba, vì thế ngày nay tứ tố
chỉ được nhắc tới như một kỷ niệm lịch sử, vì người ta coi
nó là bảng vật lý cổ hủ đã bị vượt qua rồi.
Ngược lại ngũ hành không còn ở bình diện vật
lý mà đã vươn lên đợt siêu
hình, trở nên phạm trù triết lý, hơn nữa
có đầy tính chất tâm linh bao gồm cả hữu lẫn
vô, nên triết an vi gọi là tâm linh,
còn riêng ngày nay có thể nói
là thuộc giai đoạn tương đối thuyết, vì tương đối thuyết
cũng đi vào “hữu và vô” với combinary logique ngược
lại ý hệ thì “hoặc hữu, hoặc vô” thuộc logique một
chiều.
Chính vì chỗ này mà Nho đựơc gọi là
Minh triết khi hiểu minh triết là tài hoà hợp
những cái thái cực như giữa Vô với Hữu: như sẽ được
chứng tỏ trong các phát triển của ngũ hành:
nào vòng sinh vòng khắc, Hà Đồ, Lạc Thư,
nào Hồng Phạm, Cửu Trù, Minh Đường, Thái Thất…
và bao câu sách khác trong Nho cũng chỉ
là bày tỏ sự khác biệt nền móng nọ,
nó làm nảy sinh ra biết bao nét đặc trưng
khác mà chúng tôi đã bày tỏ
trong nhiều sách như đã nói dài trong Chữ
Thời, Sứ Điệp nên ở đây chỉ nêu ra ít
nét nền tảng để ngũ hành được nhận ra là
chìa khóa dùng được đặng phanh lần ra cả về đạo
lý lẫn nguồn gốc.
Về đạo lý thì như câu châm ngôn
“chí trung hòa” với ba chân lý gốc rễ đi với
số 2, 3, 5 đã nói phớt qua ở bài đầu. Chúng
làm nên chiều kích tâm linh, nên triết
cũng gọi là Đạo có sức gây ảnh hưởng như tôn
giáo. Triết mà lại ảnh hưởng như tôn giáo,
đó là nét đặc trưng. Phải là Đạo mới
làm được như vậy. Chỉ có một số nhỏ triết lý
Aán đạt được nhưng rồi lại ngả ra tôn giáo như kiểu
Phật giáo tức là phần nào đi lùi lại thời
thần thoại, do sự không thành công vươn lên
đợt tâm linh, để biến triết thành Đạo học, tức lý
trí kiêm được cả tâm linh, bao gồm sự hiện thực một
cách tận tâm tận lực như tôn giáo vậy
và gọi là văn hiến, tức những người hi hiến thân
tâm cho văn, y như tu sĩ hi hiến thân tâm cho
tôn giáo, nhưng khác ở chỗ tu sĩ chưa dứt
khoát với giai đoạn trước, nên nhiều vấn đề thuộc
lý trí phê phán đã đựơc đẩy đến hết
mức có thể gọi được là đầy bến bờ vô thể, tức cũng
là bờ của linh thiêng, làm cho rõ là
triết lý mà lại tác hành như tôn
giáo vậy. Đây là hiện tượng mà chúng
ta cần nghiên cứu.
4. Sự hữu bản mạt
Nói đến tôn giao là nói
đến vị Chúa Tể ngự trên trời cao mà ta phải
tôn thờ vâng phục. Thượng Đế đó thấy được trong quan
niệm của Aristotle. Ngài là đấng cao cả ngự mãi
bên trên chín tầng trời rất xa con người. Con người
ở mãi sâu dưới đất: liền bên dưới là cả một
cõi âm ti đang sôi sùng sục. Trong
tình thế đó con người phải sợ sệt uy quyền Ngài
đến cùng cực, vì Ngài có thể bỏ mình
xuống âm phủ bất cứ lúc nào. Bởi thế phải
hãi sợ và thờ phượng Ngài.
Theo quan niệm trên ta thấy rõ sự kính tôn
phụng thờ như vậy có tính cách nô lệ
vì thuộc loại cưỡng hành. Giai đoạn này có
thể gọi là toàn tròn. Đó là
thái độ tôn giáo gọi được là toàn
thần hay duy thần. Ngày nay người ta gọi đó là
giai đoạn vong thân, tức không có con người như một
tự thể có nhân vị. Vì thế tôn giáo
nào cũng phải cố dần dần nhân bản hóa thần linh tức
kéo thần lih xuống với con người hay đưa con người lên,
nhiều khi để chắc ăn thì chối tuột Thượng đế để con người được
làm chủ nhân, không còn sợ vong thân
nữa như hầu hết triết lý vô thần, hay có nhận thần,
nhưng đặt thần ở mãi trên cao tắp tít không
ăn nhằm chi tới con người.
Nói theo cơ cấu thì đó là toàn
vuông, và vì vấn đề tròn vuông
không nối kết được nên tôn giáo thiếu triết,
toàn tin suông thành ra lý trí con
người chưa được thỏa mãn. Trái lại, triết thiếu niềm tin,
cậy, mến nên không ảnh hưởng gì cả hay nếu có
thì cũng chỉ được chút lý trí, nhưng
lý trí mà thiếu tình thiếu chí
thì vô hiệu. Vì thế lý tưởng phải là
giao chỉ: tức nối trời với đất hay nối triết lý với tôn
giáo để làm nên Đạo. Đạo là dấu trưởng
thành của con người. Nho đã thành công điều
đó mà bảo chứng là Ngũ hành, là Hồng
phạm, nên tuy là triết mà ảnh hưởng như tôn
giáo. Triết là vuông, là lý
trí, là óc khoa học, mà lại đi đôi
với tròn là thiên, là tâm linh,
nên ảnh hưởng như tôn giáo, nhưng hơn tôn
giáo ở chỗ lý trí được thỏa mãn, hơn triết
học duy lý ở chỗ tâm tình ý chí đều
được vun bồi nuôi dưỡng. Đó là Đạo “Đạo bất khả li,
khả li phi đạo dã” tức đạo thì siêu thời gian, thật
muôn thưở.
Đây là chỗ cần ghi nhận, vì nhiều người cố đi
tìm thuyết lý tối tân. Làm như vậy là
tỏ ra chưa nắm được đạo lý. Đạo lý làm gì
có tối tân với tối cổ: nó vượt ra khỏi thời gian
rồi: nó thuộc cõi muôn thưở, đời nào cũng
thế; y như 2 với 3 bao giờ cũng là 5, làm chi có
mới với cũ mà phải đi tìm. Còn lo đi tìm
cái mới là tỏ ra chưa nắm được triết chân
chính nên chưa là triết nhân trung thực để
biết nhận ra đâu là bản gốc (hay cơ cấu uyên
nguyên). Nói vắn tắt là chưa đạt Đạo.
Chính vì thế mà ngũ hành đã
không được nghiên cứu theo phương diện cơ cấu, thành
ra nhiều bài học căn bản không được nhận ra. Thí dụ
ông Robert van Gulik phàn nàn về cái quy củ
rằng: “Chưa thấy sách nào giải nghĩa thỏa đáng về
hai dụng cụ đạc điền trong tay bà Nữ Oa và Phục Hy (la
vie sexuelle dans la Chine antique p.84). Đó là tại trong
dĩ vãng đã bỏ bê lối cơ cấu, mà chỉ
có lối đó mới giải nghĩa thấu đáo không
những hai chữ quy củ mà còn nhiều truyện khác.
Theo cơ cấu thì Ngũ hành phải biến ra vòng trong
vòng ngoài. Ta thấy ruột vòng trong là số 5
gọi là quy, nghĩa là mẫu mực cao cả gọi là
“thiên thời” và chỉ nguyên lý mẹ: còn
vuông ngoài là 4 số thành chỉ nguyên
lý cha, tức là luật lệ tự riêng theo thổ ngơi (từng
nơi). Bởi triết Việt đề cao nguyên lý mẹ (mẹ tròn)
nên trao quy vào tay Nữ Oa thái mẫu, còn
cái củ trao cho ông Phục Hy. Cái củ dùng để
đo (4) góc cạnh vì thế Phục Hy cũng có tên
là ông tứ tượng, là cũng theo lý này.
Về sau quu củ biến ra “Hồng phạm Cửu trù” cùng ý
nghĩa tức Hồng phạm là mẫu mực lớn, còn Cửu trù
là các việc xác định nằm trong khung của Hồng
phạm. Rồi đến Hà Đồ Lạc Thư (H.1) cũng thế: Hà Đồ
là sách cha. Lạc Thư là sách mẹ. Chữ
sách hàm ý là quy luật điển chương,
nên cùng nghĩa như quy củ.
Hình 1
5. Tố nguyên
Bây giờ ta hãy đi vào một
đường “Tố Nguyên” là tìm về gốc ngọn của ba bộ số
nọ tức là tìm về gốc Đạo. Vậy khi cất bứơc đi tìm
ta chỉ thường gặp thấy có số 1 hay số 4, ít khi thấy 2,
3, 5. Số 1 là dấu còn ở thần thoại. Số 4 là ở
ý hệ, tức vẫn là duy. Chưa có hợp nhất: chưa
có hai mà vẫn một. Muốn gặp hai mà một thì
phải tìm cho ra bộ số 2, 3, 5 chúng thường xuất hiện
cách vô lý, vô dụng, vô duyên,
là cốt để cho người ta biết chúng không làm
việc đo đếm thông thường hữu lý, mà chúng
chỉ là huyền số, biểu thị những chân lý vượt tầm
giác quan, nên gọi là những chân lý
gốc rễ, đi ngựơc đời như đã nhắc qua nơi khác: là
số 2 chỉ biến hóa, số 3 chỉ nhân chủ, số 5 chỉ tâm
linh: toàn những chân lý đặt nền trên
vô thể. Vì thế các số biểu thị mang trong
mình tính chất vô thể, bằng tính cách
vô duyên, vô ích, vô lý như
có 3 chân, chim 3 mình v.v… Vì số đây
là phạm trù triệt. Số 2 thí dụ chỉ nét
lưỡng hợp dual unit: nên hai mà một, một mà ba,
nghe rất vô lý nên ít có triết
nào nắm được. Vậy mà khi đi vào văn hóa
Việt Nho ta thấy nhan nhả.
Trứơc hết là con số 2 xuất hiện cách uy nghi trong hai lễ
Phong, Thiện để tế Trời tế Đất. Rồi thấy ông Nghiêu
ông Thuấn đều có hai con người gọi là “Trùng
Hoa”. Hai ông bà Phục Hy Nữ Oa sống cả trên đất lẫn
dưới nước gọi là “lưỡng thê”.
Rồi ta gặp trong nét giao chỉ biểu lộ bằng hai con giao long
giao tay nhiều khi cả giao chân (H.2) nó sẽ dẫn đầu cho
các lối hát có hai bè như ca lý
liên, hay Trống quân, quan họ v.v…
Hình 2
Rồi tới những cặp đôi như sông núi, nước lửa,
ông Cồ bà Cộc và nhất là tiên rồng hay
loài có lông vũ sống trên trời với
loài có vảy như rồng sống dưới nước, vậy mà vẫn đi
đôi với nhau được. Đó là điều không có
trong các nền triết khác. Đôi khi số 2 cũng
có xuất hiện nhưng rồi nghiêng sang mộtbên như
bên Perse số 2 đọa ra thần lành thần dữ, rồi thần
lành thắng thấn dữ tức được coi trọng hơn thần dữ. Vậy là
hỏng vì cuối cùng chỉ có một bên. Đó
là dấu còn ở đợt thần thoại. Phải như âm dương
không bên nào hơn bên nào, mỗi
bên có vị trí của nó.
Bên Aán Đô tuy cũng có chim thần là
garuda và rắn naga gần giống số 2 của tiên rồng, nhưng rồi
chim garuda đã mổ rắn naga thế là lại giống bên
Perse tức khởi đầu đi vào số 1: mắc chứng bệnh duy.
Nhà Chu khi mới lên chuyên dùng số 6 (tức
là số 1 vì 6-5=1) chẳng biết gì đến số 2 như được
chứng tỏ trong Chu Dịch bản Kinh không hề nhắc đến 2 chữ âm
dương, cũng như không nhắc đến chữ địa xét như phạm
trù triết đối đãi với thiên (Craft 446).
Số 3. Đã có 2 thì tất có 3, bởi số 3 chỉ
nhân chủ. Vì phải là con người mạnh làm mới
nối trời cao với đất thấp lại được. Có với không nối lại
thành ra có mà như không, không
mà lại có. Các triết học lý niệm thiếu số 2
nên khử trừ số 3 gọi là nguyên lý triệt tam:
tiers exclu. Trái lại đi vào Việt Nho ta gặp có
đầy số 3. Trước hết là con “thiềm thừ” cóc trời chỉ
có 3 chân. Rồi ta lại gặp chim 3 chân, cả chim 3
mình nữa. Rồi đến thuyết Tam hoàng gồm Phục Hy, Nữ Oa,
Thần Nông. Đến sau Tam Hoàng được công thức
hóa thành Tam Tài là Thiên,
Nhân, Địa… Rồi tới nhiều ấn tích thực xa xôi nữa như
những cái chạc tìm được trong các mộ ở
Phùng Nguyên bao giờ cũng thấy đi bộ ba. Người ta suy
đoán rằng tục lệ vái ba cái, đốt ba nén
hương, bàn thờ có ba bậc, đánh ba hồi trống v.v…
đã có mãi từ thời ấy.
Cuối cùng đến số 5 hậu quả của 2 + 3 ta cũng gặp lu bù
nhất là trong những việc trọng đại như các đồ tế tự: như
cái lịch (hình 3) rất thời danh nó là tiền
thân của cái đỉnh bao giờ cũng có 3 chân 2
tai: các bình đèn ở Đông Sơn cũng đều 3
chân 2 tai như vậy. Ta thấy có truyện cổ ở vùng
Thái Bình Dương chứa 3 thúng khôn với 2
hòn đá, y như 5 hòn sỏi tìm được ở trong
một cổ mộ ở Phùng Nguyên thì 3 hòn
mài nhẵn 2 hòn để thô v.v… Trẻ con Việt đọc
vè:
Cái cò chết tối hôm qua
Có 2 hột gạo với 3 đồng tiền.
Một đồng mua trống mua kèn,
Hai đồng mua mỡ đốt đèn thờ vong.
Thế là ta biết con số 2 +3= 5 đã có lâu đời
lắm. Sách Trúc Thư kỳ niên nói “ông
Đại Vũ có 2 tai 3 lỗ” thì ta biết ông thuộc về văn
hóa Việt Nho, còn trung thực hơn cả Hệ từ viết vào
đời chiến quốc nên đã nói tham lưỡng 3-2 thay
vì lưỡng tham 2-3 hay vài ba tức âm dương thay
vì dương âm 3-2.
Hình 3
Thôi bấy nhiêu tạm đủ để ta thấy số ngũ hành
là chìa khóa giúp ta tìm về nguồn
một cách đầy thích thú, nhất là nguồn Đạo,
tức lối sống bao gồm cả Vô lẫn Hữu. Vậy mới là Đạo: Nhất
âm nhất dương chi vị đạo”: duy âm hay duy dương, duy
vô hay duy hữu đều không là Đạo. Tôn
giáo duy âm không là Đạo. Triết lý duy
dương cũng không phải là Đạo. Đạo phải kiêm cả 2, cả
âm lẫn dương, cả vô lẫn hữu.
6. Quốc bảo
Đó là đại để nguồn gốc về cơ
cấu uyên nguyên gọi là ngũ hành đã
xuất hiện không biết từ lúc nào (xem Need II. 256)
và được truyền tụng ở Việt như quốc bảo dứơi hình thức
“sách ước gậy thần”. Về điểm này có nhiều dịch
bản, sau đây là dịch bản gọi là sách ước của
Thần Tản Viên, câu truyện như sau:
“Thần xưa kia nguyên là một đứa con bị bỏ rơi giữa rừng
được một người tiều phu gặp đem về nuôi, đặt tên là
Kỳ Mạng. Sở dĩ thần có tên này là vì
trứơc khi gặp cha nuôi đứa bé mới lọt lòng
đã được dê rừng cho bú, chim chóc ấp ủ cho
khỏi chết. Kỳ Mạng chóng lớn khôn, theo nghề cha
nuôi ngày ngày vác rìu vào
rừng đốn củi.
Một hôm Kỳ Mạng đốn một cây đại thọ. Cây to lớn
quá chặt từ sáng tới chiều mà vẫn chưa hạ nổi. Bỏ
dở ra về, đến sáng hôm sau trở vào rừng, Kỳ Mạng
hết sức ngạc nhiên thấy những vết chặt đã dính liền
lại khắp thân cây. Kỳ Mạng lại xách rìu chặt
nữa, suốt ngày ráng hết sức không xong, đến
ngày thứ hai trở lại cũng thấy cây vẫn nguyên vẹn
như chưa hề bị động tới. Không nản chí, Kỳ Mạng lại ra
công cố chặt nữa, quyết hạ cho bằng được, rồi đến tối ở lại nấp
gần cây rình xem sự thể. Vào khoảng nửa đêm,
Kỳ Mạng thấy một bà lão hiện đến, tay cầm gậy chỉ
vào cây, đi một vòng quanh cây, tự
nhiên những vết chặt lại liền như cũ. Kỳ Mạng nhảy ra khỏi chỗ
nấp, tức giận hỏi bà lão sao lại phá công
việc làm ăn của mình. Bà lão nói:
- Ta là thần Thái Bạch, ta không muốn cho cây
này bị chặt, vì ta quen nghỉ ngơi ở trên cây
này.
- Không chặt cây thì tôi lấy gì
mà nuôi sống?
Bà thần liền đưa cho Kỳ Mạng cái gậy rồi biến mất. Được
chiếc gậy thần, đời
sống của Kỳ Mạng từ đây có phần dễ chịu: chàng đem
báu vật ra cứu giúp những người bệnh tật, ốm đau.
Một hôm Kỳ Mạng đi chơi gắp xác một con rắn nước bị trẻ
chăn trâu đập chết vứt ở bờ sông, mới dùng gậy thần
chỉ cho rắn sống lại, bò xuống nước. Vài ngày sau
có một người lạ tới tự xưng là Tiểu Long Hầu, đem nhiều
châu báu tạ ơn Kỳ Mạng đã cứu sống mình
hôm rồi, nhân lúc đi chơi bị trẻ đánh chết.
Thần Tiểu Long lại mời Kỳ Mạng xuống chơi dưới thủy phủ.
Kỳ Mạng nhận lời theo con Long Quân rẽ nứơc xuống biển chơi, được
Long Quân mời ở lại ba hôm bày yến tiệc tiếp
đãi nồng hậu và dẫn chàng đi xem khắp thế giới
dưới nước. Khi về Kỳ Mạng lại được Long Quân biếu cho một cuốn sách ước, có thể
nhờ sách mà cầu ước chuyện gì cũng đều được thực
hiện cả. Kỳ Mạng sung sướng đem sách về trần.
Cuốn sách ước chỉ gồm có 3 tờ bằng da cá,
ngoài bọc vỏ rùa. Ba trang sách chứa một
tính chất: kim, mộc, hỏa… chỉ
thiếu một trang về thuỷ mà Long Quân đã giữ lại.
Kỳ Mạng mới bắt đầu thử xem linh nghiệm ra sao, mới mở
sách ra, đặt tay vào trang hỏa khấn hứa, được nghe thấy sấm
sét giữa lúc trời quang mây tạnh. Tức thì
chỉ trong nháy mắt trên trời vần vũ dầy đặc, rồi chớp
sáng, sấm sét nổi lên rung chuyển cả bầu trời.
Kỳ Mạng mỉm cười đắc ý, đặt tay vào trang mộc ước ao thấy một rừng cây
di động. Tức thì những cây ở trước mặt chàng tự
nhiên bỗng tiến bước lên như một đạo quân.
Kỳ Mạng gấp sách lại, thấy mình uy quyền sức mạnh
không còn ai sánh kịp. Rồi từ đấy lang thang
đó đây, cứu giúp đời.
Cuối cùng chán cảnh trần tục, Kỳ Mạng lên
núi Tản Viên ở luôn lại đấy. Với cuốn sách
ước, chàng dựng lên những lâu đài cung điện
nguy nga giữa chốn núi rừng hoang vu. Từ đó tiếng đồn đi
rằng núi Tản Viên do một vị thần pháp thuật thần
thông cai quản. “
GIẢI NGHĨA
Hãy giải nghĩa mấy chữ quan trọng. Chữ thứ nhất
là Kỳ Mạng
Kỳ Mạng có nghĩa là “làm chủ vận mệnh của
mình” thuộc về chính mình tựa làm chủ lấy
mình. Trên đã nói tâm thức con người
chia ra ba giai đoạn: bái vật,
ý hệ, tâm linh.
Ở Bái vật thì
thần làm chủ, cầm vận mệnh con người: cái gì cũng
thần hết, con người chưa làm chủ được cái gì,
hoàn toàn còn vong thân.
Đến giai đoạn hai con người cố tìm cách lấy lại chủ
quyền vận mệnh mình bằng giải nghĩa vũ trụ cách độc lập
bên ngoài các thần và đó là
lý do nảy sinh các hệ thống ngũ hành. Bứơc
này thuộc ý hệ,
nhưng ý hệ mới đạt được chủ quyền có một phần. Vì
hệ thống ngũ hành chưa hoàn chỉnh, mới là tứ tố
còn hoàn toàn duy vật, mới có địa chưa
có thiên, vì thế ở khởi đầu nhiều bảng tứ tố
còn phải đưa thần vào chỉ huy, thí dụ triết gia
Empedocles đã đưa vào bộ tứ tố của ông 4 thần
là Zeus, Hera, Aidone, Nestis… Như vậy là phần nào
lại lộn trở lại Bái vật thần thoại mất rồi, chưa kể là Kỳ
Mệnh được, mà còn là thiên mệnh địa mệnh
cũng gọi là định mệnh, mà tiếng Hy Lạp gọi là
moira: nhân loại cứ gập gình ở giữa hai đợt này:
hết thần thoại đến ý hệ. Ý hệ không xuôi lại
mon men trở về thần thoại như Aâu Mỹ, nhưng cả hai khuynh hướng
này đều có chỗ vong thân. Phải chờ đến bứơc thứ ba
mới tìm ra lối thoát.
Bước ba này không còn tứ tố nữa mà
là ngũ hành: bốn hành chung quanh chưa phải
là sự vật mà mới là tượng của sự vật (tại
thiên thành tượng). Còn hành thứ năm chỉ
Thần. Vì “thần vô phương” tức cũng là Con Người Đại
Ngã nên nói “Nhân giả ngũ hành chi
đoan dã” –Người là đầu mối của ngũ hành. Trong
truyện nói là Kỳ Mạng cũng thế. Vì làm chủ
vận mạng cũng là nắm phần sáng kiến. Tự đấy Kỳ Mạng
không còn bị lệ thuộc vào sự vật (chỉ bằng đốn củi
kiếm ăn) mà được rảnh rơi đi cứu cấp tha nhân, làm
nhiều việc ân nghĩa. Đây là bước tu đầu tiên
dưới quyền nguyên lý mẹ là Nữ Thần Mộc biểu thị
bằng lời dặn chớ có chặt cây linh.
Bứơc sau học thêm với nguyên lý cha biểu thị
bằng Long Quân sống dưới thuỷ phủ. Hạn học cũng phải 3
ngày (nhớ bàn thờ bao giờ cũng có 3 cấp) và
mãn khoa thì lãnh được quyển “kinh vô tự”
gồm có 3 tờ bằng da cá và bìa bằng mu
rùa, tức những sản phẩm sống dưới nước, vì chữ rùa
này nên sau sách được gọi là sách rùa (quy thư) tức
Lạc Thư, đó
là sách của đất Lạc mà vua là Long
Quân, thành ra Lạc Long
Quân, dân chúng gọi là sách ước.
Đựơc sách rồi Kỳ Mạng chỉ để tay lên có hai
trang hỏa và mộc. Hỏa số 2 mộc số 3. Đó là hai số
của Việt tộc đã chọn và gọi là vài ba. Nho
kêu là lưỡng tham. Đó là hai số làm
thành số 5. Số 5 này sẽ làm nên gậy thần
có 9 đốt với đầy hiệu lực: tương truyền rằng ai biết nắm
vào đốt thứ 5 thì nắm được vận mạng cả khi sống cũng như
khi chết. Gậy thần chẳng qua là sách rùa gồm bởi 9
số mà số 5 ở giữa, cộng chiều nào cũng ra số 15 nên
gọi là “ma phương” nghĩa sâu xa là đạo thấm
vào mọi việc. Kinh Hùng nói bóng là
vua Hùng dùng huyền thuật mà thần phục được 15 bộ
nước Văn Lang, cũng có tên khác là Tản
Viên. Viên là tròn chỉ bằng số 5 cũng gọi
là cái quy. Quy phải bao gồm cả 4 phương (cái củ).
Vẽ đơn sơ thì ra mẹ tròn con vuông tức viên
phải tản ra ôm lấy 4 góc chỉ vạn sự vạn vật: việc
nào cũng phải làm đúng Đạo, đúng
nguyên lý mẹ vì thế gọi là Tản Viên.
Còn nếu vẽ đủ cả thì ra Lạc Thư tức là sách
của dân Lạc do Lạc Long Quân ban cho, có một sức
biến hóa dị thường, nên sau gọi là Kinh Dịch, nghĩa
là biến đổi mà chúng ta sẽ bàn ở chương sau.
Ở đây hãy nhận xét ít điều về sự suy
thoái của đạo như vừa kể trên. Về sách ước gậy thần
thì đúng là một trường hợp đánh mất trọn,
nên sách ước gậy thần chỉ còn là câu
chuyện cổ tích không gây âm vang gì
vào Đạo, nói ngay việc làm tưởng nghĩ đến Đạo cũng
không nốt. Lý do phải có nhiê2u và
phiền toái, nhưng điều nổi bật có thể nhận ra được,
là ngũ hành không còn được dùng như
cơ cấu tức đi với các số. Vì nếu cho đi với các số
thì mới có đường thấy được con số 5 do con số “vài
ba” ứng dụng ở đây: số 2 là 2 trang trong quyển
sách chỉ vọn vẹn có 3 trang: lúc ấy các số
trong truyện có thể giúp cho thấy số 2-3 là
thành tố của ngũ hành. Rồi trong hai trang được đọc cũng
có số 2-3 tức trang hỏa số 2, trang mộc số 3 là 5, 5
nhân với 3 ngày ở dưới thủy phủ thành ra số 15 ma
phương, hay 15 bộ nước Văn Lang cũng vậy. Thế là ta biết
sách ước gậy thần không phải là truyện cổ
tích suông mà đã gây âm vang
vào nước Văn Lang huyền sử và cuối cùng
chính là truyện bản thân của ta.
Nếu xét về nguồn gốc thì ta thấy sach ước đi trước Lạc
Thư Hà Đồ. Vì trước hết sách ước đi với số 2, 3,
5. Thứ đến lại ở dưới biển: nó bao la hơn là sông
Hà sông Lạc. Huống chi Lạc Thư Hà Đồ lại đi tới số
9 như vậy đó quả là phó sản của ngũ hành
tức của sách ước gậy thần vậy.
Bây giờ chúng ta đưa ra một thí dụ khác về
cơ cấu uyên nguyên lý què quặt. Đó
là câu “thiên bất túc tây bắc, địa bất
mãn đông nam: trời không đủ về phía tây
bắc, đất không đầy về phía đông nam”. Người ta
thường giải nghĩa bằng câu truyện có quan đại thần
tên Kang-Hui hoặc Cộng Công toan làm một cuộc đảo
chính để cướp chính quyền, nhưng bị thất trận mới
đâm đầu vào núi Bất Chu làm nẻ trời sụp đất.
Vì thế trời phía tây bắc không đủ (bị hở).
Còn đất phía đông nam thì nghiêng đi
nên các sông nước Tàu đều chảy tự tây
bắc sang đông nam. Đó là lối giải nghĩa có
vẻ thực sự xảy ra như thế. Nhưng nhìn theo cơ cấu uyên
nguyên thì thấy quả đó là lối bẻ quặt Đạo
xưa, tức truyện không nói về hình thể đất đai
mà là nói về Đạo, tức không nói
chuyện xa xưa bên Tàu mà có ý
nói chuyện ngay ở bây bây giờ và thiết đến
bản thân mỗi người, là chúng ta không được
ngưng đọng ở một ý niệm nào, mà phải cố vươn
lên đợt chu tri (biết tròn đầy hiểu là cả âm
lẫn dương, cả trong lẫn ngoài) có vậy mới tri thiên
mệnh, là biết trời. Còn “trệ ư nhất ngưng” (ngưng đọng
lại một góc) thì là húc đầu vào cột
chống trời, gọi là Bất Chu chi sơn. Đấy mới là nghĩa
chính, còn nghĩa nứơc mưa chảy về phía đông
chỉ là nghĩa tuỳ phụ, nghĩa áp dụng vào thực thể,
có đúng cũng là truyện may rủi, chí như sự
trật khỏi nghĩa uyên nguyên xuống nghĩa hiện tượng
thì đã rõ ràng. Bởi làm chi
có người húc đầu vào núi mà đạt
công hiệu lớn lao như vậy đâu. Đã thế lại cắt rời
truyện ra khỏi cái toàn thể của nó còn bao
gồm nhiều truyện khác như truyện bà Nữ Oa nấu đá
ngũ hành mà trát lại trời phía tây
bắc. Truyện trên đã hiểu xuống nghĩa hiện tượng thì
truyện Nữ Oa cũng trở nên nhạt nhẽo vô duyên
và chẳng còn chi ăn chịu với nhau.
Lý do tại vì đã bỏ mất con số ngũ hành tức
là bỏ mất chìa khóa mở vào kho ý
nghĩa để soi sáng cho các truyện kia. Xưa nay ngũ
hành chỉ đọc là Kim, Mộc, Thuỷ, Hỏ, Thổ chứ có ai
nghe thấy số nào đi với hành nào đâu. Đấy
là điểm một.
Điểm hai là nếu có nhớ rằng số lẻ chỉ trời số chẵn chỉ
đất thì mới có hy vọng hiểu câu thiên bất
túc tây bắc, vì đất (phía tây)
đã chiếm hết 4 (bắc) trời chỉ còn 1 thì làm
sao đủ được mà chả bất túc. Còn phía
đông nam thì trời 3 mà đất có 2 thì
đất không thể đầy được “địa bất mãn đông nam”.
Vì vậy bà Nữ Oa phải nấu đá ngũ hành để
trát lại trời phía tây bắc, để cho trời đất
quân bình có 4 góc. Điều đó chỉ bằng
thập tự nhai có 4 cành đều nhau gọi là “quân
thiên” celestial equilibrium tức là mức độ chí
thiện, nó chi tiết thì đó là số 5
thành bởi 2+3 gọi là Thái Hòa. Vậy
mà điều này khó giữ được lắm, thường nghiêng
ra một góc gọi là duy dương nên phải đưa
nguyên lý mẹ vào để lập lại thế quân
bình. Nguyên lý đó là 2+3 hay số 5
cũng gọi là hành thổ. Phải làm phép “an
thổ”. Đó là ý chính của truyện bà Nữ
Oa luyện đá vá trời; nấu đã ngũ hành
là phải tuy luyện, phải “an thổ” (như thiền) phải thực thi
nhân nghĩa, chứ không chỉ có chúi đầu
vào việc cầu cơm, kiếm tiền. Chỉ lo cho đời sống vật chất như
vậy thì gọi bóng là húc đầu vào
núi Bất Chu, nên trời sụt, nghĩa là tâm linh
suy thoái, nói bóng là trời không đủ
“thiên bất túc tây bắc”. Có hiểu thế mới
trúng nghĩa huyền thoại, nó không nói truyện
trời với đất mà là nói truyện người nói
truyện Đạo. Để hiểu như vậy thì phải chú ý đến
các con số chúng sẽ giúp lần ra nẻo về
chính Đạo.
Để hiểu vai trò các con số trong Việt Nho cần nhớ về ba
chặng lớn mà tâm thức con người phải trải qua là
Bái vật, Ý hệ, và Tâm linh. Bái vật
cũng goi được là đợt thần thoại hay là dị đoant ức
là giai đoạn mà lý trí con người chưa
phát triển nên chỉ biết có tin. Hết mọi người đều
trải qua như thế, cả đến đoàn thể cũng vậy. Trẻ nhỏ lặp lại giai
đoạn bái vật tức chỉ có tin chưa biết phê
bình, đến tuổi nào đó quãng 15 thì
mới khởi sự biết tự suy xét, tự nhận định. Loài người
nói chung cũng thế. Ban sơ toàn có tin, nhưng đến
một lúc nào đó thì cố vươn lên đợt
lý trí. Vậy ấn tích của những bước rẽ đường
này là các con số. Có những Đạo được đặt
căn bản trên con số như của Pythagore hay đời Tống có
Thiệu Ung, bên Crète người ta thờ số 3… Trong Việt Nho
có đầy số và sau đã kết tinh vào ngũ
hành cùng các phó sản như Hồng phạm, Cửu
trù, Hà Đồ, Lạc Thư. Ta thấy trong khoa học vật lý
kỹ thuật cũng vậy chỉ tự khi những nhà khoa học như Descartes,
Galilèe đem toán học vào vật lý thì
tự đấy khoa học mới tiến được. Nhưng số của triết khác
toán của vật lý, nó không có ý
đo đếm mà chỉ để biểu thị cái phẩm tính,
cái dạng thức của sự vật.
Đó là điều mà ngừơi ta sẽ quên đi, hay mất
ý thức về sự quan trọng của các số. Có hai
lý do gây ra sự quên này. Trước hết lý
do chính đáng là đường tiến hóa phải đi
nữa, phải vượt qua lý trí để lên tâm linh.
Đã lên tâm linh thì còn cần chi đến
số, số ví như bè để sang sông, qua được sông
rồi đâu còn cần bè. Lý do thứ hai nằm trong
đợt vật lý, đó là khi khoa học phát triển
mạnh thì số chỉ còn dùng để đếm đo. Thế là
người ta quên đi vai trò ban đầu của các huyền số.
Sự quên này không quan trọng lắm khi người ta duy
trì được tinh hoa Đạo lý, nhưng đến lúc Đạo suy
vi, mà người ta muốn truy tầm sự chính tông của Đạo
thì phải đi một đường tố nguyên, lúc ấy vai
trò các con số trở nên cần thiết. Nếu không
nắm được thì không hiểu được các huyền thoại.
Mà huyền thoại là phần rất quý giá trong
gia tài thiêng liêng của đất nước.
Chính vì thế mà bộ triết này chuyên
chú khai quật các truyện cổ của Việt tộc mục đích
là tìm ra đạo lý chính tông để noi
giữ. Trong khi tìm kiếm như vậy thì nhân tiện cũng
nhận ra Đạo lý phát nguyên từ đâu. Tức Đạo
quy gồm vào số 5 (do 2-3). Vậy ta thấy số 2+3=5 phát xuất
ở đâu trước thì biết Đạo phát nguyên từ nơi
đó. Đó là Việt tộc.
Truyện Bàn Cổ
Truyện này gốc ở Quảng Đông nơi
có “mồ mả của Bàn Cổ”. Truyện mới được đưa vào quỹ
đạo Tàu từ thế kỷ thứ ba trong sách “Tam ngũ lịch” của Từ
Chỉnh.
Đây là một nhân thoại cao cả nhất nói
lên óc tự cường, tự lập, tự làm chủ, nhưng ngừơi ta
đã hạ thấp truyện xuống đợt sử ký bằng đồng hóa
với chó Bàn Hồ của dân Dao và Miêu.
Đấy là kiểu sử ký hóa thô kệch. Vì
truyện Bàn Cổ có tầm vóc bao la như vũ trụ
nói lên tinh cốt của nền nhân chủ Việt tộc, sao
dám đặt ngang với chó Bàn Hồ. Chữ Bàn Cổ
có nghĩa là đời cổ quấn khúc như rồng Bàn
Quỳ = Coiled up antiquit nghĩa này hợp môi sinh tinh thần
của Lạc Việt có vật tổ là Bàn Quỳ. Hầu chắc truyện
thuộc giai đoạn văn hóa Hòa Bình đã xuất
hiện lối 10.000 trứơc mà ngày nay người ta thám
quật được rất nhiều ấn tích thí dụ tại di chỉ “Đại
Bôn Khanh” bên Đài Loan và lan rộng cả
lên miền sông Hoài, lên mãi tận Long
Sơn bắc Tàu (Kwang Chih Chang tr.85).
Truyện Nữ Oa
Bà Nữ Oa đội đá vá trời,
vì trời bị thần Cộng Công làm xiêu lệch.
Đó là trang nhân thoại tuyệt vời nhưng đã bị
sử ký hóa thay Cộng Công bằng một quan đại thần
tên Kang Hui toan cướp chính quyền nhưng thất bại
nên đâm đầu vào núi làm trời sụt
phía tây, đất lệch sang phía đông, nên
trăng sao đều tiến về phía tây, còn các
sông chảy về phía đông. Giải nghĩa như vậy đã
hẹp nghĩa còn bỏ sót việc Bà cất 4 chân
rùa kê lại đất cho yên. Giải nghĩa theo lối
tâm linh thì trời sụt ở phía tây bắc.
Đó là góc 4-1 trong ngũ hành nó chỉ
người duy vật vì hành kim phía tây số 4, bắc
số 1 tức đất có đến 4 mà trời chỉ có 1 nên
nói “thiên bất túc tuy bắc”. Còn đất
phía tây quá nhiều nên làm cho đất
không còn đủ bên đông (địa bất mãn
đông nam) chỉ có 2 vậy phải lập lại quân bình
cho tâm vật cân đối. Cụ thể là làm
phép “an thổ” tức là tĩnh tâm. Xưa chỉ bằng 4 tuần
cuối mỗi mùa gọi là tứ quý. Tuần tứ quý
là những ngày dùng để tĩnh tâm gọi
bóng là Bà chặt 4 chân rùa là
dứt lo thế sự 1 tuần để bơm linh lực cho tâm hồn khỏi chìm
sâu vào vật chất. Sách “phong tục thông
nghĩa” (của Ứng Thiều thế kỷ thứ 2) còn nói là
Bà sinh ra loài người cũng như lập ra phép
hôn phối thì ta phải hiểu là phép “an thổ”
tức là dọn đất cho sự xuất hiện của con người đại ngã
(đôn hồ nhân). Còn hôn phối hiểu là
linh phối đất trời, tâm vật.
Cắt liên hệ với Trời
Ngày xưa loài người giao thông được với Trời
và mọi sự xảy ra yên ổn. Nhưng sau vì Cửu Lê
làm loạn thứ tự nên Trời cứ xà xuống lấp cả đường
đi của con người. Đế Chuyên Húc mới sai Trùng
Lê cắt đường không cho Trời xuống quấy rầy người nữa. Tự
đấy ngừơi ta lại được bình an lo công việc của mình.
Đây là câu truyện mà ta có thể
nói là diễn lại ý câu “Trời Đất giữ
đúng vị trí của mình thì vạn vật được
nuôi dưỡng”, còn khi đất quá đất (duy vật) hay trời
quá trời (duy tâm) thì con người khổ luỵ.
Nói bóng là trời xà xuống quá thấp
làm ngãng đường con người như khi phải thiêu trẻ để
tế trời, hay gìm con gái xuống sông để làm
vợ Hà Bá v.v…
Đại để nghĩa lý câu truyện là thế, nhưng vì
khuynh hướng cố lịch sử hóa huyền thoại, nên đưa ra nhiều
dịch bản khác nhau, trong đó có dịch bản của Kinh
Thư (Lữ Hình) với vai trò của Trùng Lê như
trên. Trùng Lê có thể hiểu là 2 lần
Cửu Lê (thì ra số 18, là một trong những bộ số
riêng biệt của Cổ Việt). Trong sách Quốc ngữ thì
nói Trùng Lê là hai người: Trùng
thì nâng trời lên, còn Lê thì
đè đất xuống. Chung quy cũng là cố hiện thực câu
“thiên địa vị yên, vạn vật dục yên”.
Hậu Nghệ bắn 9 mặt trời
Đời vua Nghiêu có 10 mặt trời xuất
hiện làm cho cây cối muốn cháy, vua Nghiêu
phải treo giải thưởng cho ai giải toả được nạn này sẽ gả
công chúa cho. Có Hậu Nghệ ra bắn được 9 mặt trời,
còn để lại có một. Từ đấy trái đất mới được
ôn hòa.
Đây là truyện cùng biểu diễn một ý như
truyện trên là trời quá trời, còn đây
là mặt trời quá mặt trời. Câu truyện có thể
xuất hiện vào lúc con người đang bỏ tục thờ mặt trời để
tiến lên giai đoạn thờ trời (xem Sứ Điệp, chương III). Hậu Nghệ
được truyền tụng là được Tây Vương Mẫu cho cây thuốc
trường sinh. Oâng ta đưa về trồng bên đông nhà
hằng ngày đi đâu thì dặn vợ tên là
Thường Nga rằng có đi đái thì đái đằng
tây, chớ đái bên đông mà cây
dông lên trời. Dặn đi dặn lại làm vợ phát
cáu: nói mãi, đã vậy để bà
đái cho mà coi, thế là cây tự nhiên
bay lên đến cung trăng. Chồng về chỉ còn kịp bám
lấy chân vợ, lên đến mặt trăng rồi thì Thường Nga bị
hóa ra Thiềm Thừ là cóc ba chân, Hậu Nghệ
hóa ra thằng cuội ngồi gốc cây đa. Đại ý là
chớ khinh Đạo lý chứa trong 2 bộ số 2-3. Vì làm
thế tất sẽ ngả sang bên Tây với số 4-1. Đó là
duy vật chứa toàn truyện dối dá lừa bịp…
Lụt cả với ông Đại Vũ
Truyện Đại Vũ thì ai cũng có nghe Vũ là con
ông Cổn giúp việc vua Thuấn trị thuỷ thành
công nên đựơc lên ngôi vua Thuấn như ghi trong
thiên Vũ Cống của Kinh Thư, nhưng quả tang đó là
đã lịch sử hóa truyện huyền thoại mà ta còn
thấy được một số dấu vết: như ông Vũ có 2 tai 3 lỗ, hoặc
khi ông đào xuống sâu thì gặp Phục Hy Nữ Oa
đang ôm nhau. Oâng ăn trộm thứ đất “tức thổ” là thứ
càng đào xuống càng thêm lên. Trong
việc trị thuỷ ông được giúp việc do con rồng có
cánh nó đi trước lấy đuôi về đường cho ông.
Oâng truyền cho 2 quan giúp việc bước đi để đo đất
thì thấy đất hoàn toàn vuông mỗi chiều
233.500 dặm. Có lúc ông biến ra con báo, vợ
đưa cơm trông thấy liền chạy và hóa ra tượng
đá. Oâng đến đòi bà trả con, tượng đá
liền “mở ra” cho con chui ra nên con gọi là Khỉa. Lại
còn vụ ông Cổn hóa ra gấu, ra cá, ra ba ba
(three-legend turtle). Xem bấy nhiêu đủ biết nói ông
giúp vua Thuấn trị thuỷ chỉ là sử ký hóa
thần thoại, tin đó là lịch sử thì quả là
ngây thơ. Các nhà nghiên cứu đều cho
đó là thần thoại, còn tôi cho đây
là một nhân thoại nói lên sức mạnh của con
người sửa sang đất cho ra nơi ở tốt lành. Lụt không để
phạt tội mà để con người có dịp phát triển khả
năng tác hành hết cỡ. Đó là truyện khởi đầu
văn minh.
Tóm lại
Xem qua 5 huyền thoại người ta có thể thấy
rõ 2 dòng văn hóa, một của Hán Nho cũng gọi
là Chu Nho cố gắng lịch sử hóa thần thoại. Lối này
kéo theo 2 lối khác là ma thuật đời Hán,
hai nữa là lối phê bình của học giả đời nay tất cả
đều làm mất chiều kích bao la của thần thoại, nó
chỉ con người Đại Ngã tâm linh có tầm vóc
bao la như trời đất. Vì thế mà trong truyện toàn
trình bày con người hiện thực những việc mênh
mông như vũ trụ, nào Bàn Cổ xếp đặt trời đất, Nữ Oa
đội đá vá trời, Hậu Nghệ bắn mặt nhật, Trùng
Lê bắt trời phải ở vị thế của mình, Đại Vũ trị thuỷ…
Toàn là những động tác có tầm vóc vũ
trụ như thế cả mà con người đầy tác động tính
nên tránh được những truyện sáng thế ký
mà trong đó con người không góp phần
tích cực được như trong nhân thoại. Cũng vì
là nhân thoại nên né tránh những
gì là bạo động, những gì chết chóc khủng
khiếp, là những cái vượt tầm mức con người. Còn
đây con người tự làm lấy hết theo mẫu mực mình
đã hoạch định, mẫu mực đó được trình bày
bằng khung ngũ hành. Vì thế mà nói được ngũ
hành tóm thâu toàn thể triết Việt Nho
là vậy.
Do đâu mà thần thoại biểu lộ bản tính con
người?
Thần thoại là một trong những yếu tố trường tồn đã xuất
hiện cùng với con người ở bất kỳ nơi đâu: xưa đã
vậy mà nay cũng thế, chỉ có hình thức thay đổi,
xưa thì hô phong hoán vũ, độn thổ đằng vân,
nay thì Superman hay Wonderwoman… và bao giờ con người
cũng nghe kể cách thích thú, nhất là trẻ
nhỏ nơi thiên năng chưa co rút lại nên cảm thấy thần
thoại liên hệ với mình chặt chẽ hơn là người lớn.
Nói bản là nói đến cái gốc cái rễ
cùng cực, nên thường không xuất lộ rõ
ràng, nhưng lại là nền tảng. Ta biết thế vì hễ
cái gì trường tồn – ở đâu và bao giờ cũng
có: cổ hay kim cũng vậy thì ta hiểu đó là
thuộc bản tính con người.
Đến lúc xem lại kinh điển thì thấy nói đến Đại
Ngã, nhưng ít thấy Đại Ngã được diễn tả
cách cụ thể, thành ra Đại Ngã thường chỉ là
một từ ngữ suông không vươn ra để móc nối được với
thần thoại. Còn thần thoại thì thường chỉ đựơc coi
là việc của thần của tiên, không dính
dáng chi đến con người, thành ra hai bên vẫn xa
cách.
Nay Việt Nho đưa ra thuyết nhân thoại là có
ý nối 2 đang lại, tức những tác động bao la như
phân định trời đất, đội đá vá trời… thì quy
ngay cho con người, vì con người đã có mộng như
thế tự muôn thưở, nên kết luận được đó chính
là một trong những đức tính căn bản của con người, cho
nên chủ trương nhân thoại không những đã
có nền móng vững chắc mà làm thế còn
nâng con người lên ngang hàng thần linh. Nho
có nói “chí thành như thần” nhưng câu
đó chưa được giải rộng, nay Việt Nho quảng diễn bằng thuyết
Nhân thoại là để nói rõ lên rằng: Con
người chính là Đại Ngã Tâm Linh nghĩa
là nó có cái sống song toàn gồm cả
đời sống thân xác lẫn đời sống tâm linh. Nho
dùng chữ “lưỡng thê” chính là thế. Lưỡng
thê nghĩa đen là những vật sống cả dưới nước lẫn
trên bờ. Còn nghĩa bóng là tiểu ngã
sống trong cõi hữu hình nhưng lại tàng chứa một
Đại Ngã sống trong cõi vô hình. Tiểu
Ngã thì bị tràng buộc trong không gian thời
gian, ở đây và bây giờ với cái xác
thân bé nhỏ nặng chỉ chung quanh 100 ký, nhưng Đại
Ngã thì vượt không gian thời gian, nói
bóng là sống cả trên đất lẫn dưới nước tức
có tầm vóc như vũ trụ. Đấy mới là cốt Đạo
lý. Và vì thế những tổ văn hóa của ta đều
sống cả dưới nứơc lẫn trên trời. Thần Tản Viên xuống thuỷ
phủ nhận lãnh sách ước gậy thần rồi lên sống
trên núi. Mẹ Aâu Cơ cũng thấy vừa sống trên
núi Phong Châu lại vừa gặp bố Lạc dưới thuỷ phủ. Tất cả
nghe đều thật lạ lùng, cho nên học giả James Legge
bàn đến thuyết Tam tài là thuyết đặt người ngang
hàng cùng Trời với Đất thì cho là
điên rồ. Phải điên rồ mới dám đặt con người
bé nhỏ yếu đuối ngang với Trời. Mọi người đều “thấy” như vậy.
Chính vì sự ngược đời đó nên thuyết Tam
tài trở nên vật rất họa hiếm. Hầu hết các nền văn
hóa chỉ mới nhận thêm có linh hồn, nhưng linh hồn
cũng bé nhỏ như xác thân, chỉ khác
xác thân là nó tinh hơn, nên có
thể gọi đó là một thứ vía. Lấy về đàng tinh
thô mà nói thì xác là
thô nhất nên giác quan ta xem nghe sờ mó
được. Bên trên xác chỉ có phách.
Phách đã tinh hơn nên chỉ một số người có
giác quan thứ 6 mới “nhìn” ra. Bên trên
phách là vía tuy tinh hơn nữa, nhưng cũng vẫn
còn bé nhỏ và bị ràng buộc. Linh hồn xem
chừng không cao hơn vía mấy, tất nhiền bị cột trói
trong không gian thời gian. Phải tiến lên nữa mới đến đợt
Đại Ngã mà Nho gọi là thần “âm dương bất
trắc vị chi thần” = thần thì đến ngay âm dương cũng
không còn đo lường được nữa, vì nó đã
vượt ra khỏi không gian thời gian và trở nên bao la
như vũ trụ. Kinh Dịch đã đặt tên “vũ trụ chi tâm”
là thế.
Phần lớn các nền văn hóa chưa vươn lên được đợt Đại
Ngã, vì thế mà có sự vụ là thần
thoại bị coi khinh, hoặc bị hạ thấp xuống bậc sử ký, hay lại
hiểu lối ma thuật tức những việc cao cả thì quy cho thần, cậy
thần làm hộ chứ không dám nghĩ đến rằng mình
cũng có khả năng làm được như thần. Đấy là chỗ
nhân thoại giúp con người nhận ra chiều kích bao la
như vũ trụ của mình. Phải đạt đến đó đường tu tiến mới
hanh thông, mới là Đại Đạo, tức cũng là Đạo trung
thực tròn đầy vậy.
IV. TỪ
HOÀNG DỊCH ĐẾN CHU DỊCH
Dịch là sách có một địa vị hi
hữu trong văn hóa loài người ở chỗ đã duy
trì được nền tảng của văn hóa nguyên thuỷ, tức cũng
là văn hóa chính trung gồm cả hai bên: trong
ngoài, trên dưới, tả hữu… tức là cân đối
cùng cực.
Đang khi đó hầu hết các văn hóa đều sa đọa
vì nghiêng về một bên. Điều này cũng xảy ra
cho Kinh Dịch như được ghi trong Hậu thiên bát
quái, nên hậu thiên bát quái có
thể coi như dấu chỉ đường đi sa đọa. Vì thế nghiên cứu về
quá trình hình thành của Kinh Dịch cũng
là nghiên cứu về tiến trình văn hóa
nhân loại nói chung: cả về tiến bộ lẫn sa đọa.
Dịch Kinh gồm 5 giai đoạn hình thành như sau:
- Giai đoạn 1: Dịch của Trời Đất, tức những huyền thoại có
nét song trùng như đực cái, núi sông,
tiên rồng, nứơc lửa, ông Đùng bà Đà.
- Giai đoạn 2: Dịch của Phục Hy thành bởi:
a. Hai gạch đứt: - - / - - hay số chẵn lẻ
b. Rồi chồng 2 nét lên nhau thành ra tứ tượng. Đoạn
chồng lên một nét nữa thành ra quẻ đơn có 3
gạch. Ba gạch đó hàm ngụ số 2 âm dương với số 3 Tam
tài.
c. Tất cả có 8 quẻ đơn và đựơc xếp đặt theo hình
bên sau gọi là tiên thiên bát
quái: hãy đọc theo số Kiền 1, Đoài 2, Li 3, Chấn
4, Tốn 5, Khảm 6, Cấn 7, Khôn 8.
Hình
Tiên
thiên
bát
quái
- Giai đoạn 3: Dịch của ông Đại Vũ thêm vào số 5
là ngũ hành được đặt nổi, với số 4 thành
thì hóa ra 9, nói bóng là “Vũ
chú cửu đỉnh” = ông Vũ đúc được 9 cái đỉnh.
Đó là câu nói ghi giai đoạn thứ ba của Kinh
Dịch có vòng trong vòng ngoài như
hình sau:
Hình này sẽ là gốc cho
các hình đồ kép khác như Hồng Phạm, Cửu
Trù, Hà Đồ, Lạc Thư, Minh Đường v.v… như sẽ nói
dưới.
- Giai đoạn 4: Dịch Văn Vương thêm Hậu thiên bát
quái. Nó ở tại đặt lộn thứ tự bát quái của
tiên thiên thành ra hình như sau:
Hình
Hậu
thiên
bát
quái
Và từ đấy thì bắt đầu có lời gọi là hệ từ
nghĩa là lời treo, tức lời đặt sau 64 quái để giải nghĩa.
- Giai đoạn 5: Dịch Khổng Tử thêm thập dực tức là 10 phụ
trương, trong đó đáng kể nhất thì có thuyết
quái và Hệ từ thượng hạ, nhằm nói lên
ý sâu xa của Kinh Dịch. Đó là 5 giai đoạn
hình thành Kinh Dịch.
Ba giai đoạn trước tôi cho là thuộc Việt tộc vì
các lẽ sau:
1 - a. Các huyền thoại có tính lưỡng hợp (dual
unit) thuộc miền Đông Nam Á mà Việt là đại
biểu nổi nang cũng như đất Việt Nam là ngã ba các
nền văn hóa gặp gỡ.
b. Nét song trùng là cột trụ
của Kinh Dịch thì gặp thấy tràn ngập ở miền Việt, cũng
như tìm được trước hết ở Bắc Sơn trong 2 gạch chạy song song.
Khảo cổ Tàu không có ít ra rõ
nét như vậy.
2. Thứ đến giai đoạn hai cũng thuộc Việt, vì:
a. Phục Hy là người gốc Việt có họ rồng nên Phục Hy
cũng có tên là rồng xanh (thanh tinh). Vậy
mà rồng là của Việt tộc trước hết. Tàu chỉ mới
nhận rồng từ đời Hán.
b. Lối xếp đặt cũng Việt tức trọng tả là đặt âm trước
dương, nét đứt trứơc nét liền.
c. Số ba gặp thấy nơi Việt trước như nhà sàn (ba cấp), 3
đầu rau, bộ ba cái chạc (đồ tuỳ táng bao giờ cũng đi theo
bộ ba…) Việt tộc cũng có cái mang tên là Tam
Miêu là người có cánh như chim (mà
chim là Việt) và dẫn đầu liên đoàn
các dân gọi là Cửu Lê (số 9).
d. Số 5 kép bởi 2 cộng 3 cũng thấy ở Việt trước: rõ nhất
là các bình đèn có hai tai ba
chân tìm được ở Phùng Nguyên. Tuy có
thấy ở cái lịch bên Tàu trên Long Sơn, nhưng
Long Sơn nay được khám phá chịu ảnh hưởng từ phía
Nam.
e. Ngôn ngữ học nhận thấy tiếng Nam Á (Austroasiatic) ưa
số 5, 10, 20, Tàu quý phái ưa số 6. Tàu
nhà quê (gốc Việt) ưa số 5 (Danese 6).
3. Thứ ba Dịch Đại Vũ đúc 9 đỉnh cũng là Việt. Số 9 gọi
là đăng cao ngày mồng 9 tháng 9 lên
núi, nói là để hái hoa vạn thọ đặng sống
lâu, mà nghĩa ẩn tàng là để ôn
bài học nằm trong số 9, cũng gọi là “Cửu thiên
huyền nữ”, hay là 18 đời Hùng Vương (2*9=18). Hùng
Vương đựơc cưu mang ba năm ba tháng (3*3=9) là theo
lý đó. Quốc Hoa Việt là Nhật Quỳ cũng phải
có 9 cánh (Quỳ: cửu đạt chi đạo = quỳ là nơi
thông hội của 9 con đường). Số 9 có căn 3 nên Con
Cóc Việt (thuộc nông nghiệp vì làm mưa) phải
rụng một chân mới được làm cậu ông Trời: chỉ
còn có 3 chân, nhưng nhớ 3 là căn số 9.
Vì số 9 là của Việt nên có tên gọi
là Cửu Lạc, người Mưỡng gọi phép bói bằng
rùa là chí rò (9 rùa). Số 9
nhân với 2 thành ra 18:
Bàn Cổ cai trị 18.000 năm
18 đời Hùng Vương
Thánh Dóng cưỡi ngựa 18 thước cao.
Đoàn hát Li Vưu có 81 người (9*9=81)…
Chính vì sự gắn bó với hệ thống 9 (nói hệ
thống vì nó gồm các số 2+3=5 và 5+4=9)
mà sau Cửu Lạc được Nho biến ra thành Lạc Thư và
Hồng Phạm Cửu trù, tất cả đều theo một lối xếp đặt như Cửu Lạc
nghĩa là theo chiều tả nhậm (vòng khắc). Xem các
hình dứơi đây sẽ nhận ra điều đó.
Hình
1.
Hà
Đồ
Hình
2.
Lạc
Thư
Hình
3.
Cửu
Trù
Hồng
phạm
Bắt đầu nhận cho kỹ các số vòng sinh (hình 4) đi
từ số 4-1-3-2-5. Rồi vòng khắc (hình 5) đi từ số
1-2-4-3-5.
Đoạn xem lên Lạc Thư hình 2 thấy vòng khắc số
1-6-7-2-9-4-3-5 (các số 6, 7, 9, 8 là số thành
nên trừ 5 thì ra 1, 2, 4, 3 tức là lối xếp của
vòng khắc. Đó là lối tiến chính của Kinh
Dịch. Vì “Dịch nghịc số dã” (thuyết quái,
câu 2). Do lẽ đó Lạc Thư đi theo vòng khắc nền giữ
vai chính, vì làm mẫu cho cả Hồng Phạm và
Cửu Trù. Còn Hà Đồ (hình 1) đi theo số
sinh, “hữu nhậm” vòng ngoài (tiện theo tay phải
xuôi kim đồng hồ).
Đại để đó là những phát triển đến cùng tột
của giai đoạn Dịch Việt, sau được Tàu đưa vào Chu Dịch
(1), nhưng nhiều sách nhận xét là Lạc Thư Hồng
Phạm v.v… không thuộc Dịch, thì nên hiểu là
không thuộc Chu Dịch là cái chỉ đến sau, khi những
nền móng chính của Dịch đã hình
thành xong gồm Âm Dương, Tam Tài, Ngũ Hành
với ba nhóm chân lý trọng đại đi kèm theo.
Đó mới là nền móng thâm sâu của Dịch
Kinh linh thể, Dịch tiên thiên, cũng là Dịch
chính trung và chỉ được tâm truyền chứ không
viết ra, không có lời.
(1) Cũng có thể nói là không thuộc Nho khi
hiểu Nho là Khổng học. Vì Khổng tuy có tiếp nhận
được đạo lý Dịch là nhân đạo, nhưng không
biết đến cơ cấu ngũ hành, tam tài, âm dương. Cả
Khổng cả Mạnh không hề nhắc đến những chữ đó, nên
đoán được rằng ba bộ cơ cấu này chỉ đựơc rước vào
Nho đời Hán mà thôi. Có thể vì Khổng
Tử như người đi chữa nhà cháy, ông chỉ cứu được bức
ảnh mà không cứu được cái khảm ảnh, tức chỉ cứu
được có đạo lý bằng từ, mà không cứu được cơ
cấu bằng số. Vì thế sau đạo Nho bị nhàu nát
(vì không có khung để che chở).
Còn việc Tàu học được Dịch Việt thì được huyền sử
hóa bằng truyện ông Vũ lấy vợ Việt, ẩn nghĩa là
ông học được văn hóa nông nghiệp của Việt, là
văn hóa đề cao nguyên lý mẹ, gọi bóng
là “Cửu thiên huyền nữ” (Cửu là số 9), nên
Lạc Thư cũng gọi là sách Mẹ. Truyền thuyết nói
rằng: khi vua Vũ trị được thuỷ rồi (nghĩa đen là ngăn lụt, nghĩa
bóng là trị nước theo Cửu Lạc) thì có con
rùa thần đội văn, trên lưng có các số từ 1
tới 9. Vua Vũ bèn nhân đó mà xếp thứ tự
thành ra 9 trù (cửu trù). Vậy Cửu Trù
là Lạc Thư, trứơc nữa gọi là Cửu Lạc, người Mường gọi
là chí rò. Hùng Vương thần phục 15 bộ nước
Văn Lang là cai trị theo sách mẹ (Cửu Lạc) vì đem
các số Lạc Thư mà cộng bất cứ chiều nào: ngang,
dọc, xéo đều đựơc số 15. Tất cả những điều này đều xảy ra
trước nhà Chu. Nhà Chu chỉ xuất hiện vào thế kỷ
thứ 12 trước công nguyên mà thôi, và từ
đấy mới có Chu Dịch với hậu thiên bát quái.
Ta hãy nghiên cứu giai đoạn này xoáy
vào hậu thiên.
4. Giai đoạn 4 của Văn Vương có 3 điều khác: một
là đặt quẻ Kiền trứơc Khôn, hai là dùng số
9, ba là hậu thiên bát quái. Ta sẽ
tìm hiểu 3 điểm dị biệt nọ.
Trước hết cần nhận diện các quẻ với tên và nghĩa
chung. Xin nhớ số thứ tự các quẻ theo tiên thiên.
8 Khôn = Đất
(Mẹ)
4
Chấn
=
Sấm
(Trai
1)
7 Đất = Núi (Trai
3)
3
Li
=
Lửa
(Gái
2)
6 Khảm = Nước (Trai
2)
2
Đoài
=
Hồ
(Gái
3)
5 Tốn = Gió (Gái
1)
1
Kiền
=
Trời
(Cha)
Các chữ cha, mẹ, con trai, gái đặt trong ngoặc, vì
thuộc hậu thiên. Nên ghi nhận khi xếp quẻ thẳng thì
lấy nét dưới làm nền, thí dụ quẻ Chấn thì
nền là nét liền, nên là quẻ dương. Ngược lại
quẻ Tốn là âm. Còn khi xếp theo vòng
tròn, thì lấy nét trong làm nền theo
nguyên lý “nữ nội nam ngoại”.
Bây giờ hãy so hai bảng tiên thiên và
hậu thiên để nhận ra những điều sai biệt:
Hậu Thiên Bát Quái
Tiên Thiên Bát
Quái
Điều nổi bật trứơc hết là trong tiên thiên
bát quái có sự cân đối trọn vẹn: Trời đối
Đất (bắc nam) nứơc đối lửa (đông tây), sét đối
gió, hồ đối núi. Hậu thiên chỉ còn 2 cặp đối
đáp tuỳ là “li khảm” và “chấn đoài”.
Thứ đến tất cả 4 mối liên hệ đều đi qua Thái Cực,
mà Thái Cực được chia ra 2 mảng Âm bên
đông, Dương bên tây. 4 quẻ nền âm đứng
bên Đông, 4 quẻ nên dương đứng bên Tây
(bên hữu).
Nếu vẽ ra thái cực viên đồ bên âm bên
dương thì ta dễ thấy được mối tương quan căn bản của cơ cấu,
tôi gọi đó là cơ cấu uyên nguyên
vì 4 cặp đối đáp đều đi qua Thái Cực. Trái
lại ở Hậu thiên trời đất mất đối đáp, vì Kiền
Khôn tức thiên địa bị xếp cả sang một bên, nên
mối liên hệ không đi qua Thái Cực. Thế là
gây ra 3 loại tai họa như sau:
Một là mất Tương Quan nền tảng xuyên qua thái cực:
mất cơ cấu uyên nguyên là mất hết nửa những
cái cân đối như giữa càn khôn.
Hai là cha sang bên tả của mẹ, mở đầu phụ quyền lấn
át mẫu quyền, cũng như thứ tự tả hữu bị phá luôn.
Ba là thứ tự các số cũng xếp khác đi làm
mất hai chữ giao chỉ. Đây là ba điều quan trọng vô
cũng như sẽ nói sau. Ta hãy bàn từng điểm một.
Trước hết là cơ cấu uyên nguyên
Cơ cấu ở tại sự đối đáp giữa hai đối cực như nứơc lửa, đất trời,
sông núi v.v… Còn uyên nguyên là
khi mối liên hệ giữa hai bên gặp nhau trong vòng
Thái Cực. Mà Thái Cực cũng là Vô Cực,
nên Vô Cực là hồn, là thần, là căn
nguyên của mọi cuộc thống nhất: đã trật ra ngoài cơ
cấu uyên nguyên thì chỉ còn là
bì phu. Như Kiền Khôn trong hậu thiên không đi
qua được Thái Cực mà chỉ gặp nhau ở ngoài chu vi,
quen gọi đó là không thể vào được trung cung
hay không lên được Trời, như được ám chỉ trong huyền
thoại Cộng Công húc đầu vào núi Bất Chu
chống trời, làm trời sụt, khiến nên cảnh “thiên bất
túc tây bắc, địa bất mãn đông nam” nghĩa
là thiên không đủ ở tây bắc (vì
đã đưa Kiền sang phía đông), địa bất mãn
đông nam. Vì đông nam là phần đất mẹ
đã bị quẻ Kiền sang xâm chiếm. Đó là nguồn
gốc của duy vật được nói bóng là không
vào được trung cung.
Nói theo tâm lý thì Dịch Việt (cũng gọi
là tiên thiên hay nguyên thuỷ) đạt đựơc tiềm
thức tâm linh biểu lộ bằng mối liên hệ giữa hai hạn từ bao
giờ cũng đi xuyên qua trung cung (là tiềm thức tâm
linh) hậu quả sẽ là có Biểu tượng như những huyền thoại
chứa nét song trùng: đực cái, tiên rồng v.v…
Còn Dịch Văn Vương thuộc lý trí vòng
ngoài nên liên hệ giữa hai hạn từ không đi
xuyên qua trung cung tiềm thức, mà chỉ do ý thức,
nên gọi là Hậu thiên và như vậy không
còn là Tiêu biểu nữa (symbol) mà chỉ
là ẩn dụ (allegory). Tiêu biểu phát xuất tự tiềm
thức còn ẩn dụ thuộc lý trí bày ra.
Ý thức không đạt liên hệ cơ thể với tâm linh,
nên mất đi hầau hết hiệu nghiệm thường đi kèm với
Tiêu biểu. Từ đấy hầu hết các quẻ chỉ còn là
một trò chơi lý trí suông, đã xa
lìa sự thực thâm sâu rồi. Thế mà 64
quái chiếm trọn Kinh Dịch, đến nỗi nhiều sách không
in phần thập dực. Mà chính ra thập dực cố cứu vớt lại
phần nào cái ý nghĩa sâu xa của Dịch. Nay bỏ
thập dực mà chỉ chuyên có 64 quẻ, thì chỉ
còn là một việc tầm phào. Chính vì
chỗ này mà học giả Needham lên án những hậu
quả tai hại do Kinh Dịch. Xem Needham II.335.
Điểm hai là cha lấn quyền mẹ. Trong tiên thiên
bát quái cha đứng đầu 4 quẻ dương đặt bên hữu,
còn mẹ đứng đầu 4 quẻ âm bên tả, nay đặt Kiền sang
phía âm là cha chiếm chỗ của mẹ. Việc này
được phản chiếu trong vụ Hoàng Đế chiếm chỗ bà Nữ oa (xem
Việt Hùng Sử Ca chương XI, Vụ án Nữ Oa Thái Mẫu bị
hiếp dâm) cũng như Đông cung thái tử. Thái tử
lẽ ra phải ở bên hữu theo lệ của Việt: “gái tả
phòng, nam hữu phòng”, sao lại lớ rớ sang bên
đông làm gì. Đó là lấn át, chứ
theo Việt thì âm trước dương: gái mới được ở
Đông cung. Theo lệ gái trước trai đó nên mỗi
khi đúc trống xong mà đánh khai mạc thì
phải là các bà. Tư tế của Việt cũng là
các bà.
Xưa kia gái ve trai là sự thường: người đàn
bà Ra Đê còn nói đi “bắt” cái chồng.
Mỵ Nương quyết định lấy Chử Đồng Tử là đúng sách
Việt. Lúc xưa các bà nổi lắm, cả về sáng
chế nông nghiệp hầu hết cũng do các bà: bà
Giàn, bà Đậu, bà Dâu, bà Nành,
bà Đà trồng cây rú…
Bây giờ bàn đến thói quen trọng bên tả:
bên tả đi với nữ, bên hữu đi với nam. Việt tộc trọng tả.
Tàu ban đầu trọng bên hữu, sau theo Việt cũng có
lúc trọng bên tả. Trong Kinh Lễ ta thấy đầy dấu vết Việt
trội hơn Tàu, như khi đi đường nam bên hữu, nữ bên
tả (Đạo lộ nam tử do hữu, nữ tử do tả. Lễ Ký, thiên Nội
Tắc).
Khi tiếp khách chủ phải nhường khách ngồi bên tả,
chủ bên hữu.
Thói tục trọng bên tả có lẽ xuất hiện do việc quan
sát bầu trời trăng sao cho người ta cảm tưởng nó xoay
quanh sao bắc đẩu theo chiều ngược kim đồng hồ. Vì thế gọi tả
là bên Trời, hữu là bên Đất. Bên tả chỉ
văn hóa nên trường học đặt bên tả, còn
bên hữu chỉ võ lực, chỉ nhà binh. Tàu du mục
nên trước trọng bên hữu, Việt trọng văn nên đề ca
bên tả. Kinh Thư ghi “tứ Di tả nhậm” = Tứ Di cũng như “Tứ Hải”
đều chỉ các dân ngoài Hoa tộc, tức là Việt
tộc, tất cả đều trọng bên tả, nên những gì xếp theo
thứ tự này phải kể là của Việt, như Phượng Hoàng
là của Việt vì Phượng là con cái đi trước
Hoàng là con đực, đúng thứ tự âm trước
dương. Cũng như phải nói như thế về các chim quen xếp
cánh bên tả: Lạc Địch và Tất Phương. Hai đàn
cầm sắt cũng vậy: đàn cầm 5 dây do bà Nữ Oa
sáng tạo. Đàn sắt 50 dây do vua Phục Hy to hơn
nên là dương vòng ngoài.
Còn việc tả hữu đi với đông tây là do
ngày xưa ngừơi ta định hướng theo lối quay mặt phía Nam
thì sau lưng là Bắc, bên tả là Đông
bên hữu là Tây. Do đấy ta có thêm một
dấu để nhận diện Việt. Việt trọng bên Đông như khi
chôn người chết thì theo hướng Đông tây. Người
Chàm Châu Đốc còn giữ tục này (xem Nếp Cũ
tr.265). Làm nhà có lễ Thượng Đông tức lễ
đặt đòn nóc quay đầu hướng Đông. Sau khi làm
lễ gia quan, cha mẹ sang đứng bên thềm tây, nhường thềm
bên đông cho con dâu, để tỏ dấu giao lại quyền nội
tướng (Li Ki 610). Đứng chầu vua thì tam lão đứng
bên đông.
Khi tế Thái Miếu thì vua đứng bên đông (Li Ki
425). Khi vua tế phải để trần vai tả gọi là tả đản. Có
khi chỉ nói đản (CA. 211)
Tóm lại phía Đông hay bên tả đã thắng,
tức là văn hóa Việt đã cải đổi văn minh
Tàu. Tàu đã dần dần chấp nhận văn hóa Việt,
chỉ có vài phản đối nho nhỏ, chẳng hạn gọi tay tả
là sái quấy như trong chữ “tả đạo”. Kiểu nói gọi
tay chiêu là tay trái, còn mục là tay
phải, cũng như tự xưa của Tàu còn sót lại. Nhưng
trừ vài phản đối đó thì toàn thấy âm
trước dương tức Tàu đã bị văn hóa Việt chinh phục
Tàu này chỉ xảy ra đời Aán. Còn đến đời
nhà Chu thì xuất hiện vụ “hậu thiên bát
quái đồ” với thứ tự dương trước âm (Càn trước
Không) cha lẫn mẹ như đã nói trên, để rồi đến
đời Hán thì khởi cuộc Tàu thắng Việt. Tàu
thua văn hóa, nhưng thắng về văn minh. Tuy nhiên khi ghi
lại thứ tự các hành hay các quẻ thì
nên theo lối xưa kẻo gây lộn xộn. Mà cái mất
lớn nhất là đặt tả sang tay mặt.
Điểm thứ ba về các số
Số của Dịch Tàu cũng gọi là Chu Dịch là cặp số 9-6
tức gọi hào dương là cửu (9) còn hào
âm là lục (6). Khác với Dịch Việt cũng gọi
là Dịch Quy Tàng đời Aân, dùng cặp số 7-8.
Để thấy rõ hai bộ số nọ biểu thị nguồn của Việt và
Tàu ra sao ta hãy ôn lại các số theo cung
ngũ hành xếp đặt như sau:
DỊCH QUI TÀNG
Bảng trên chỉ rõ Việt nhận phía Đông Nam hay
3-2 như câu Kinh Dịch “tham thiên lưỡng địa nhi ỷ số”.
Còn Tàu nhận Tây Bắc với bộ số 4-1. Nếu ta đưa số
9-6 trên kia trừ số 5 số sinh, thì ra 4-1 hay Tây
Bắc. Còn 7-8 trừ 5 thì ra 2-3 (vài ba) tức
là số của Việt tộc. Dịch đời Aân mà Khổng Tử
còn gặp nơi nứơc Tống được gọi là Khôn Càn,
tức Khôn trước Càn theo thứ tự âm trước dương. Như
vậy Dịch Quy Tàng với số vài ba (2-3) là Dịch của
Việt tộc đó.
Có một người đoán cả Dịch Liên Sơn của Phục Hy cũng
theo số 7-8 này (xem CA 367 note 2). Hai số 7-8 tức là
hai số 2-3, mà 2 với 3 gặp nhau vì không có
gì ngăn cách nên gây ra được cảnh Thái
Hòa, trái lại 4-1 thì không vì bị hai
số 2 cộng 3 ngăn cách, đành đứng trong cảnh thiên
lệch 4 đất 1 trời, nên nói “thiên bất túc
tây bắc” là vậy. Vì thiên chỉ có một
(1) đang khi bên Đông thiên là số ba (3).
Trái lại địa bất mãn đông nam vì địa chỉ
có hai (2 ) đang khi phía tây là 4.
Nên nhớ ba bộ số 2, 3, 5 chỉ những chân lý nền tảng
gốc rễ (số 2 chỉ biến hóa, số 3 nhân chủ, số 5 tâm
linh) mà nền văn hóa nào thiếu thì kể
là mất gốc. Chính trong ánh sáng đó
mới hiểu được câu nói của triết gia José Ortega y
Gasset chỉ về Tây Aâu cho là đã mù
quáng thâu nhận nền văn hóa huy hoàng nhưng
thiếu gốc, nên nay đang thâu hoạch hậu quả đau thương:
“Europe is now reaping the painful results of her spiritual conduct.
She has adopted blindly a culture which is magnificent but has no root
(The revolt of the Masses p.189).
Tình trạng này suýt nữa Hán nho mắc phải do
“hậu thiên bát quái” của Văn Vương. Mayt hay nhờ
có ảnh hưởng Di Việt còn lại sâu đậm, nên
đã không rơi hẳn vào số 4-1, nên còn
làm nảy sinh ra được những tổng hợp giá trị như của Tống
Nho, nó gắn với triết lý cơ thể hơn bất cứ nền triết
nào. Cũng như đã gợi hứng cho Leibniz nghĩ ra đựơc lối
toán hai số (binary) để làm nảy sinh toán điện tử.
Cũng như các cơ cấu Kinh Dịch hợp với khoa vi thể ngày
nay hơn bất cứ triết lý nào, hợp tới 5 bước, đang khi
các đạo lý khác nếu có hợp cũng chỉ được
một cùng hai, vì không hạp cơ cấu (như trong
ngoài, vòng sinh vòng khắc, lỗ đen, vũ trụ nở ra
bóp vào, vũ trụ tiện thị ngô tâm v.v…
Có bàn rộng trong Chữ Thời bài I). Xem thế đủ thấy
ảnh hưởng Kinh Dịch rất sâu xa.
Tuy vậy đó mới là thành tựu trong ngoài,
chưa phải mục tiêu chính của Dịch. Mục tiêu
chính là “giao chỉ” tức phải liệu sao cho chỉ đất
(ý thức) giao thoa với chỉ trời (tiềm thức tâm linh). Bởi
vậy cần bàn thêm đường lối của hai chữ này.
Chữ Giao Chỉ theo nghĩa uyên nguyên của Dịch là chỉ
trời và chỉ đất giao thoa nhau như có thể thấy trong
hình các quẻ xếp theo tiên thiên bát
quái kèm theo: bên hữu khởi từ 1 đến 4, bên
tả khởi từ 5 đến 8. Bên hữu chỉ đất hay ý thức vòng
ngoài.
Bên tả chỉ trời hay ý thức vòng trong. Khi hai chỉ
giao thoa thì mọi sự hanh thông. Độ giao thoa tốt nhất
là 2 đất 3 trời, theo câu “vài ba tham lưỡng”. Đựơc
như vậy thì có Minh triết. Phần nhiều con người
dùng toàn ý thức, ý chí vòng
ngoài (chỉ bằng 4-1) mà bỏ bê vòng trong
tiềm thức, tâm linh nên không đạt 2+3=5.
Kinh Dịch đưa ra đường lối phát triển sự giao thoa nọ. Hai chỉ
có thông hội với nhau đựơc hay không là tại
ý thức. Ý thức mà phát triển quá
đáng, chuyên đề cao những cái ý,
tình, chí bé nhỏ, đến độ chỉ còn thấy
có những cái tư riêng, cá thể thì sẽ
mất cảm nghiệm về cõi tiềm thức tâm linh, rồi rơi
vào duy thức tức là duy vật. Tiên Nho nói
“ngoạn vật táng chí” tâm chí quá
bám vào sự vật không thể vươn lên cõi
đạo.
Muốn cho hai chỉ giao thoa thì con người phải dẹp bớt phần
ý thức (mà tôi tóm vào ba chữ
ý, tình, chí) để lòng trí được trống
rỗng, cho tiềm thức tâm linh có đất trồi lên
(giô lên) mặt ý thức, hầy ý thức thấu
vào đựơc cõi tiềm thức bao la. Mỗi lần giao thoa được như
vậy gọi là được linh hứng, hoặc được ơn trời mặc khải và
đó là những bước tiến trên nẻo đường thăng hoa của
tâm hồn. Dịch chú ý phát triển điều
đó bằng những câu như “an thổ, đôn hồ nhân, cố
năng ái” = an thổ là lòng trí không
nghĩ gì hết (Dịch vô tư dã, vô vi dã),
đây gọi là An thổ, vì hành thổ cũng gọi
là “hành vô hành, địa vô địa” tức
là hành không có mùa riêng,
phương riêng hay nói là nó vượt thời
không bé nhỏ cũng vậy. Vì thế phải đi xin 4
hành kia một tuần cuối để làm vốn là quy có
nghĩa như hoa quỳ là quy hướng, hiểu là để lòng
quy hướng về nguồn cội. Đó là gốc mọi đạo lý trung
thực.
Phép “an thổ” này cùng với tứ quý đã
được cụ thể hóa qua thể chế nhà Minh Đường với nguyệt
lệnh là để thi hành câu an thổ, hay là “Dịch
vô tư dã, vô vi dã”. Nhà Minh Đường
lấy khung của Cửu Lạc gồm có 4 chương 4 hướng như hình
I
II
III
Rồi chia 4 phương làm đôi thành 8 cá
(cá thể: tức làm cho ra nhỏ hơn nữa). Hình II 8
cá cộng với 4 hướng thành ra con số 12 để hợp cho 12
tháng. Hình III và gọi là nguyệt lệnh:
nghĩa là mệnh lện phải thi hành trong tháng,
thí dụ 3 tháng xuân phải ở phòng đông,
mặc áo xanh, ăn đồ ứng hạp (xem nguyệt lệnh). Tháng quy
tức tuần cuối mùa (cuối tháng 3, 6, 9, 12) thì
vào ở trong cung Hành thổ gọi là “an thổ”. Để
làm gì?
Thưa để “đôn hồ nhân” là trở về chỗ sâu thẳm
lòng mình bằng cách “vô tư dã,
vô vi dã”, đặng đạt khả năng yêu được mọi người (cố
năng ái) tức là đạt cốt tuỷ của đạo lý
chính trung. Vì muốn yêu được người phải vượt qua
được các phân biệt thuộc cá thể, như giàu
nghèo, nam nữ, tôn giáo, giống nòi… để cảm
nghiệm được bản thể Con Người Đại Ngã tâm linh cùng
với thiên địa vạnvật nhất thể, để thấy mọi người như mình:
cùng một bản thể. Đấy gọi là Hoa quỳ theo nghĩa quỳ
là nơi cả 9 con đường đều thông hội (căn số 9 là số
3). Vì thế Thổ thần (hiểu là hành Thổ) có 3
mắt, để xem thấu đựơc cả 3 cõi Trời, Đất, Ngừơi.
Tất cả đạo lý Dịch nằm trong chỗ “an thổ” là vậy.
Đó cũng là con đường chính trung của cuộc tiến
hóa muôn loài, cũng là phần siêu
hình tiên thiên bát quái.
Về phép bói Dịch
Bói Dịch cũng là một lối giao chỉ,
lối hữu hình gọi là bốc phệ (bốc phệ là bói
bằng cỏ thi hoặc mu rùa). Có thể gọi đây là
việc của địa tiên với khả năng biết trước những sự xảy ra do
thông được với tiềm thức (hay thiên năng) của ý thức
tiểu ngã, qua trung gian những vật thể như mu rùa, cỏ
thi. Vật thể trong Dịch là các quẻ, tất cả được gọi
là “vật linh”. Vật là sự thể hữu hình như cỏ thi,
mua rùa hay các gạch đứt liên (gọi là
hào) còn linh là thuộc tâm linh tiềm thức
có sự hiểu biết siêu việt có năng lực bao la
và nó thông cho sự vật được phần nào khả
năng đó, nên gọi là linh tức là cái
biết có hiệu lực vựơt khả năng của sự vật. Bởi nếu xét
nguyên có sự vật thì thấy rất vô lý,
không lý gì mà cỏ thi, mu rùa lại
hiểu biết cao xa hơn lý trí con người, nhưng Dịch
dùng lối biết toàn thể (gọi là chu tri) tức
ý thức không làm việc một mình mà
còn đựơc tâm thức tâm linh thôngbáo
cho. Vì thế khi chiêm bốc phải chăm sóc phần
tâm linh bằng gạt bỏ những chướng ngại vật như tư ý, tư
dục, để lòng vắng lặng trống trơn. Cái đó phải coi
là chính. Vì thế quan trọng không nên
đặt vào sự vật mà phải đặt vào người. Người phải
có đủ điều kiện tâm linh là cần trước hết,
còn việc dùng cỏ thi, mu rùa, hay quẻ, hoặc
bói bài v.v… là tuỳ phụ, tất cả đều vô
lý: chúng chỉ có nghĩa do tâm linh.
Chính vì thế ở dưới có cho một lối bói Dịch
đã đơn giản hóa cùng cực, để bạn thử chơi, nếu
thấy hiệu nghiệm thì dùng, chỉ cần nhớ rằng hiệu
nghiêm hay không ở tại mình “linh tại ngã,
bất linh tại ngã”. Tử vi, đẩu số đều như vậy hết: hay hoặc
không hay là ở tại nơi con người. Phương tiện không
quan trọng, mà quan trọng là trình độ nhạy cảm về
phương diện đó của mỗi người. Đấy là bí quyết việc
bói toán nó cũng trùng hợp với đường tu
tâm dưỡng trí ở chỗ làm cho lòng trống trơn.
Vì thế mà tuy Dịch Văn Vương có gây
xáo trộn về đàng trí học nhưng ơn ích về tu
học vẫn còn phần nào, nhưng nếu bói Dịch mà
bỏ phần “an thổ” thì kể là dị đoan, trúng trật
ít bảo đảm hơn nhiều.
Cách đơn sơ nhất để bói Dịch là dùng ba
đồng tiền gieo xuống đồng nào ngửa thì cho số 2, xấp cho
số 3. Cộng cả ba lại nếu được số chẵn (6,8) thì là
hào âm, gạch 2 cái - - nếu là số lẻ (7,9)
thì là hào dương, gạch một cái – thế
là được hào nhất. Gieo lại lần 2, rồi đặt hào mới
trên hào 1.
Cứ làm như thế đủ 6 lần thì được 6 hao của quẻ muốn
tìm. Mở sách ra xem tên quẻ và chiêm
nghiệm lời quẻ (sách này chỉ nhằm phần đạo lý minh
triết nên không cho phần bói toán, tức 64
không in ra ở đây). Chỉ cần ghi nhận rằng sự gieo quẻ coi
như rất là ngẫu hữu “may rủi”, nhưng xét theo toàn
diện thì không là may rủi, vì việc khiến
đồng tiến sấp hay ngửa còn đựơc quy địn do tiềm thức nữa: người
ta không biết đến việc tiềm thức nên gọi là may rủi.
Mức pha độ tốt nhất là ý thức 2, tiềm thức 3. Dịch
nói là “tham thiên lưỡng địa nhi ỷ số”. Muốn đạt độ
lý tưởng “vài ba tham lưỡng” nọ phải “an thổ” cho
lòng trí trống trơn.
Kinh Dịch gọi đó là “Dịch vô tư dã, vô
vi dã, tịch nhiên bất động. Cảm nhi toại thông
thiên hạ chi cố, phi thiên hạ chí thần, kỳ thực năng
dữ ư thử” Hệ từ X.4 = Dịch là để lòng trống vắng,
không suy tư, không làm gì hết; đột
nhiên linh cảm mà thấy được chỗ căn do của sự việc. Nếu
không phải là rất thần, thì làm sao được như
vậy? Nên nhận xét rằng: theo Dịch thì thần với
không đi đôi. Vì vậy làm cho lòng
trống trơn, không suy nghĩ về việc gì trần tục, cũng
là sửa soạn cho thần linh xuất hiện. Muốn đạt chí thần
thì tâm hồn phải cực rỗng (chí hư) là thế.
Tâm hôn có trống rỗng được như vậy mới “đọc” ra được
ý nghĩa của những lời đèo theo quẻ và hào,
những lời ấy vốn rất lơ mơ mù mịt, vì cái soi
sáng, cái đem lại ý nghĩa cho quẻ cho lời
không phải là lời, là quẻ, mà là
thần. Lời chỉ là những dụng cụ bất tương xứng, còn chủ
soi sáng, chủ dùng những phương tiện đó, là
chính thần. Thần biến hóa và hiệu năng vô
cùng, không cần những phương tiện hiệu nghiệm cân
xứng. Đó là điều cần phải nhớ khi bói Dịch.
Có làm được như vậy mới trông nhờ ơn ích của
Dịch.
Về thứ tự 64 quẻ
Nên biết có hai lối xếp đặt. Một theo
tiên thiên bát quái xếp theo vòng
trong và vuông, kiểu bánh dầy bánh chưng
(xem hình A dưới).
Đây là thứ tự tiên thiên đã nói
trên là Kiền, Đoài, Li, Chấn, Tốn, Khảm, Cấn,
Khôn. Quẻ kép cũng theo thứ tự ấy: muốn tìm quẻ
theo vòng tròn thì khởi lấy quẻ nền dương
là Kiền làm nền rồi tính ngược lên:
có 4 quẻ nền dương là Kiền, Đoài, Li, Chấn, mỗi
quẻ trong 4 quẻ nền này sẽ trở thành nền cho 8 quẻ
kép, mỗi quẻ nền mang trên mình 8 quẻ đơn cũng theo
thứ tự: Kiền, Đoài, Li, Chấn, Tốn, Khảm, Cấn, Khôn…
và được 32 quẻ. Rồi đến 4 quẻ nền âm bắt đầu tự Tốn
tính xuôi lên cũng có 4 quẻ là Tốn,
Khảm, Cấn, Khôn rồi cũng chồng 8 quẻ đơn lên mỗi quẻ nền
trên theo thứ tự Kiền, Đoài, Li, Chấn, Tốn, Khảm, Cấn,
Khôn… thế là được 32 quẻ kép nữa. Cộng 2 bên
vào thành 64 quẻ.
Còn với hình vuông thì lấy hàng dọc
bên tay phải tự dưới tính lên theo thứ tự Kiền,
Đoài, Li, Chấn, Tốn, Khảm, Cấn, Khôn đủ 8 quẻ. Đoạn lấy
quẻ Kiền làm nền cho 8 quẻ kép xếp theo hàng ngang
(tự phải qua trái) trên đặt 8 quẻ đơn Kiền, Đoài,
Li, Chấn, Tốn, Khảm, Cấn, Khôn… thành ra một thứ thước
thợ. Thế rồi chống các quẻ đơn lên trên quẻ
đoài: cũng xếp như với Kiền. Xong lại lên quẻ Li. Cứ thế
hết 8 quẻ nền thì được 64 quẻ. Cả hai lối tròn cũng như
vuông rất dễ tìm ra cấu trúc của quẻ. Tuy
nhiên hai thứ tự vuông tròn này đã bị
“hậu thiên” làm đảo lộn mất rồi, nên không
còn dùng được để tìm ra số và tên
quẻ. Vì thế trong thực tế phải dùng đến bảng thực hiện
(hình B) để tìm ra số quẻ trong sách.
Muốn tìm ra tên quẻ thì lấy quẻ hàng dọc
làm nền. Lấy quẻ ngang làm tầng trên, rồi dò
xem 2 quẻ dọc ngang gặp nhau ở ô thứ mấy thì mở
sách ra đọc tên quẻ và các lời soán
từ và hào từ.
Hình A
Hình B
V. MINH TRIẾT TRỐNG ĐỒNG
Tổng quát
Trống đồng là một lâu đài văn
hóa chung cho các nứơc Đông Á và
Đông Nam Á mà Việt Nam có duyên may
là nơi ký thác, nên cũng có sứ mạng
tìm hiểu và truyền bá cái minh triết
tàng ẩn trong di vật nọ.
Các nhà nghiên cứu chia trống ra 4
loại. Loại I tiêu biểu hơn hết: các hình người vật
còn hiện thực chưa bị kiểu thức quá như các loai
sau. Loại I tìm được nhiều nhất ở Việt Nam: hơn trăm chiếc.
Tàu mà cũng chỉ 30, Indônê 10, Thái
10, Lào 4, Mã Lai 2. Cái đẹp nhất gọi là Ngọc Lữ đựơc dùng để
phân tích trong bài này xuất hiện ước đoạn
đầu thiên niên kỷ trứơc tây lịch. Cao 63cm. Mặt rộng
79cm. Tang rộng 85cm. Ở giữa là mặt
trời được bao quanh bằng 14 tam giác gốc hãy gọi
là vòng B. Mặt trời là A.
Rồi tới vòng C có hình người đang ca vũ chia ra
hai nửa như nhau nhưng trên mái nhà thì một
bên có 2 chim đậu, bên kia 1 con.
Vòng D cũng chia đôi mỗi bên có 10 hươu,
nhưng chim thì bên 3 cặp bên 4 cặp.
Vòng 3 ngoài cùng gồm 36 chim: 18 con nhỏ đứng xen
kẽ 18 con lớn.
Tang trống chia ra 3 phần gọi là tang, thân, chân.
Tang có 6 hình thuyền, trên có người.
Thân có hình người đang ca múa. Chân
không có trang hoàng.
Đây là một biểu hiệu kép tàng chứa
toàn bộ nền minh triết Việt Nho sẽ được trình bày
tóm tắt qua 5 cái nhìn sau:
Mặt Trống Ngọc Lữ
1. Cái nhìn
lên sổ
Để liệt
kê các yếu tố liên hệ đến triết Việt.
Yếu tố đầu tiên
là vừng nhật.
Vừng nhất ngự giữa mặt trống và có trên mọi loại
trống. Đây là ấn tích thời thờ Thái Dương
Thần Nữ được suy tôn là nguồn mạc mọi sự sống, nên
đi với đạo “phong nhiêu” có làm “nghi lễ truyền
sinh” để được tham dự vào luồng phong nhiêu vũ trụ do mặt
trời ban phát. Vì thế ta thấy có 4 đối tượng nổi
đang làm tình trên nắp thạp Đào Thịnh. Những
tượng này sau được biến thể ra những tam giác gốc. Ban
đầu người ta không hiểu tưởng là lông công kỳ
thực là sự giao hợp âm dương vật, mà truyền thuyết
kể rằng khi ông Đại Vũ đào sâu xuống sông
thì gặp hai ông bà Phục Hy Nữ Oa đang ôm nhau.
Cũng thuộc thời này là tên huyền sử Viêm
Bang. Chữ Viêm kép bởi 2 căn hỏa chỉ mặt trời lúc
cao độ (mồng 5 tháng 5) Vua gọi là Viêm Đế (Thần
Nông), dân gọi là Viêm Việt hoặc Viêm
tộc, nhà Phật dịch là Nhật Chủng, nay có
sách gọi là Đại Chủng Xích Đạo.
Cũng vì thời này nước Việt chọn sắc đỏ và quẻ Li.
Kinh Dịch nói “Li vi nhật” = quẻ li chỉ mặt trời.
Yếu tố thứ hai là
tiên rồng
Tiên được biểu thị bằng chim. Có đủ
loại chim và ở cùng khắp trên mặt trống, chim to
chim nhỏ, chim đứng chim bay, người cũng hoá trang chim.
Nhà, thuyền, đồ vật đều hóa trang chim hết, cho nên
phải nói là yếu tố nổi bật và chói chang
là chim, mặt trời là yếu tố trung ương, còn yếu tố
bao trùm là chim tức nói lên nét nổi
của mẹ tiên (chim) của trống.
Rồng được biểu thị bằng những thuyền rồng tạc ở dưới tang trống. Thuyền
đã biến thể ra rồng đang cong lưng, há miệng để
đón cái hồn sâu thẳm tới cổ họng của tiên
chim để sinh ra trăm con đứng lô nhô trên lưng cha
rồng. Kinh Hùng nói 50 con theo cha xuống bể. Ơû
đây cho xuống tang trống, nên yếu tố rồng không nổi
bất trên mặt như yếu tố mẹ tiên.
Yếu tố thứ ba là “tả nhậm”
Tả nhậm đây là tiến ngựơc kim
đồng hồ. Đó là thói của Cồ Việt khi còn gọi
là Di. “Tứ Di tả nhậm” (Kinh Thư 56, 11). Đây là
dấu phân biệt Di Việt với người Tàu, người Tàu
trọng hữu, Di Việt trọng tả. Tục này nhắc lại thời tổ tiên
Việt còn thờ mặt trời, nên các con trĩ tiến theo
hướng mặt trời mọc, sách xưa gọi là “Tuỳ dương Việt trĩ”
= con trĩ của Việt tộc đi theo hướng mặt trời, hoặc câu “Phượng
minh triều dương” con phượng (tên khác của chim trĩ) đang
hót chào mặt trời buổi mai. Vì trĩ cũng là
tước và gắn liền với mặt trời nên sau có tên
là “chu tước”: con tứơc đỏ.
Yếu tố thứ bốn là
nông nghiệp
Được biểu thị bằng 4 cái cối mỗi bên
nửa mặt trống với 4 người đang giã gạo chày đứng. Đấy
là lối giã gạo tiêu biểu cho việc truyền sinh hơn
hết, nên các nhà nghiên cứu suy đoán
rằng trống đã được khởi hứng từ lối giã gạo chày
đứng này: cái cối sau biến ra cái trống,
còn chày giã gạo thì là giùi
trống luôn. Nên có lối đánh trống y như
giã gạo. Đây là tiêu biểu cho nông
nghiệp thuộc văn hóa của Thần Nông và con
cháu là Li Vưu, đối ngược với văn minh du mục của
Hoàng Đế.
Yếu tố thứ năm là ca vũ
Vũ lan tràn ra khắp 3 cõi Trời, Đất, Người
nói lên lối sống phong lưu thanh thản như cá (rồng)
lượn chim bay, coi như hậu quả của nông nghiệp. Ngược với chiến
tranh sản phẩm của du mục. Vậy những ngừơi đang ca múa là
đoàn vũ chứ không phải là đoàn quân ra
trận. Cần lưu ý yếu tố vũ có đeo lông chim
này vì có gặp cùng khắp trong các
lối vũ xưa từ trường Bích Ung đến các bản vũ như
Hàm Trì… đặng dễ nhận diện dòng tộc văn hóa.
2. Cái nhìn cơ cấu
Là nhìn để tìm ra ý
nghĩa tàng ẩn trong sự xếp đặt các yếu tố vừa liệt
kê trên. Có hai lối xếp đặt một ngang một dọc. Lối
nào cũng nói lên sự hòa hợp. Lối ngang
nói lên lưỡng hợp tính được bày tỏ trong sự
đối đáp giữa đực cái (hươu đực hươu cái) chim to
chim nhỏ, con bay con đứng, số chẵn số lẻ … và nhất là
hai đường chỉ chạy song song mà tôi gọi là
nét song trùng. Đấy là sự xếp đặt hàng
ngang có thể gọi là thuộc cõi ngừơi ta nói
lên số 2 cách tràn ngập.
Còn hàng dọc nói lên số 3 chỉ Thái
Hòa tức cái Hòa bao la như vũ trụ gồm cả Trời,
Đất, Người.
Trời đại diện do mặt trời
ngự giữa mặt trống.
Đất đại diện do nứơc với
rồng ở tang trống, cũng như do 2 vòng ngoài cùng
trên mặt trống 1 vòng gồm hươu và chim, còn
một vòng toàn chim: 36 con lận.
Người ở 2 vòng B,
C. Vòng C là các người đang ca múa ta
hãy cho đó là những con người tiểu ngã.
Còn đại ngã là những hình tam giác
gốc đặt chung quanh mặt trời. Hình tam giác số 3 (tam)
bao hàm số 2 bên trong làm nên số 5 là
thập tự nhai chỉ con người Đại Ngã được bồng trong tay Nữ Oa
Thái Mẫu.
Đó gọi là Thái Hòa, do đấy Trống
đáng tên là “nhạc cụ của vũ trụ” và được
dùng để biểu thị đức Thái Hòa trung ương.
Với cái nhìn cơ cấu này mặt nhật không
còn là mặt nhật nữa mà đã hóa ra mặt
trời nghĩa là thay mặt cho Trời. Vì đạo Trống là
đạo thờ Trời, chứ không còn trong giai đoạn thờ mặt nhật
(Thái Dương thần nữ). Lúc đó mặt nhật đối
đáp với mặt trăng (chỉ bằng 2 tuần trăng là 14
cánh) và đi với chim trĩ cũng gọi là chu tước. Thờ
mặt nhật cũng có thể gọi là Thái Hòa nhưng
chưa bao la được như đợt thờ Trời. Thờ Trời là thờ cả Trời, Đất,
Người. Còn thờ mặt nhật mà đối đáp là mặt
trăng thì chưa bao gồm Đất và Người. Ở giai đoạn thờ mặt
nhật các chim mới là duy dương như con trĩ, con tất
phương, đều gọi là “dương địch” hay “thiên địch”. Sang
giai đoạn thờ Trời thì các chim đều là chim nước
tức bao hàm nét song trùng trong mình: bay
trên trời mà lại ăn dưới nước. Các chim nước
này gồm nhiều loại như Hồng, Hạc, Vụ, Cò… nổi nhất
là chim Hồng Hộc cũng gọi là Thiên nga là
vật biểu của họ Hồng Bàng lập ra nước Hoàng Việt. Đấy
cũng là thêm một dấu hiệu chỉ trỏ nước Việt có đủ
điều kiện để trở nên kẻ kế thừa cái gia bảo thiêng
liêng là nền triết Việt Nho. Đạo thờ Trời được kết tinh
vào 2 chữ “thuận thiên” = tức là thuận theo mệnh
trời; những con chim ở vòng ngoài cùng
chính là đang diễn tả cái đạo “thuận thiên”
tức theo hướng mặt trời mọc gọi là “Phượng minh triêu
dương”. Tất cả là 36 con là để biểu lộ 4 chiếc hoa quỳ 9
cánh (4*9=36). Gọi là hoa quỳ mà không hoa
khác là tại tính hướng dương của nó. Ca dao
nói: “Hoa quỳ chăm chắm hướng về Thái Dương”.
3. Cái nhìn thẩm
thấu
Là cái nhìn để
tìm ra căn do gây nên đựơc cảnh Thái
Hòa vừa tả trên. Hỏi đâu là lý do?
Thưa rằng bí quyết nằm ngay trong tên của di vật gọi
là cái Trống. Trống là tên chỉ sự hòa
hợp ở đợt cùng tột có thể có tức là
hòa có với không. Nói ở đợt cùng tột
cũng là nói siêu hình ở đợt cao nhất.
Bên dưới là đợt nhất với đa, động với tĩnh, trên
cùng là có với không. Đây là
vấn đề siêu hình cùng tột, ít có nền
siêu hình đạt tới.
Vì nó là vấn đề kép: trước hết phải
là Vô, sau phải là Vô thứ thật gọi là
chân không, chứ không là cái vô
bị hạn chế bởi cái hữu, nhưng phải là cái vô
kiêm được cả hữu, vì nếu không kiêm được hữu
thì cái Vô đó có cùng:
nó bị giới hạn do chính cái hữu mà
nó không bao được đó, nên là duy
vô, mà hễ đã là duy vô thì tất
bị hạn chế y như duy hữu. Hữu chân thực phải kiêm được
Vô. Vô chân thực phải kiêm được Hữu. Đó
là trạng thái hàm hồ cùng kỳ cực vì
không thể nói là có (là hữu) cũng
chẳng thể nói là không (là vô)
mà phải gọi là Trống viết hoa. Ta quen đi rồi không
ngờ rằng chữ Trống bao gồm cả có lẫn không. Thí dụ
phải có cái hang mới có cái hang trống
không. Phải có cái nhà mới có
cái nhà trống không. Phải có cái
trống không và xin nói ngay rằng đó
là nền tảng của mình triết Việt bao giờ cũng có
cái gì trống kèm theo. Thí dụ cái
nôi văn hóa Việt là Động Đình Hồ, thì
chữ động là cái hang trống. Lão nói “cốc
thành bất tử” là đấy và chữ không đi với
trầu không cũng là đó. Vì nó chỉ thị
đạo vợ chồng, mà để đáng tên là Đạo
thì phải có không đi kèm thành ra
trầu không. Chính chữ không đem lại cho Trầu chiều
kích cao cả.
Vì thế Trống phải để một đầu trống tức không bịt
kín để cho có sự giao thông giữa trời đất. Bởi vậy
lối đánh trống có ý nghĩa hơn hết còn giữ
được trên Mưỡng là treo trống trên 4 cái cọc,
cách mặt đất 20 phân liền dưới đào một lỗ
tròn sâu 30 phân, để chỉ Trời Đất giao thoa: Trời
chỉ bằng 30 phân đâm xuống lỗ sâu, Đất chỉ bằng 20
phân lại vươn lên sát chân Trống. Kỹ lưỡng như
vậy vì đây là cảnh Thái Hòa tức cảnh
hòa bao trùm, mà văn hóa nào đạt
được thì sẽ tránh được bao sự nghiêng lệch
gây ra do sự ngưng trệ vào một góc mà ta
quen gọi là duy. Rất ít văn hóa hoát đựơc
nạn duy nền tảng này. Triết Tây Aâu thì
nghiêng sang cái có đặc sệt, cái có
duy hữu, nên siêu hình gọi là Hữu thể học
(ontology). Triết Aán lại nghiêng sang không,
không: neti, neti, nhà Phật gọi là Thái Hư =
sunyata. Duy hữu hay duy vô đều là căn để cho các
nghiêng lệch khác trong văn hóa, như duy hữu đẻ ra
các thứ duy thần, duy vật… và ngược lại duy vô đẻ
ra các thứ duy tâm, duy linh… Trong thực trạng thì
bờ cõi hai thứ khó phân ranh vì luật “mạnh
chống mạnh chấp” = chống cái gì quá thì tại
chấp vào đó (abyssus abyssum invocat). Tây
Aâu chống vô bằng duy hữu số 4 thì lại ngả hẳn
vào nguyên lý đồng nhất, mà đồng nhất
là một thứ thái nhất được công lý
hóa, nên đồng nhất có họ màu với duy
vô. Aán Độ chống hữu bằng duy vô (số 1) thì
lại nghiêng sang số 4 (4 phương). Số 4 là đầu các
số đất, các số chẵn 4, 6, 8, 12…
Đạo trống gồm cả có lẫn không, nên đạt được
nét trung hòa siêu diệu. Cho nên khi hiểu
thật đúng thì liền biết được rằng Đạo Trống đã
là cao tuyệt vời rồi không thể đi xa hơn về đàng
đạo lý. Đó là Đạo viết hoa cũng gọi là Minh
Triết rồi, chỉ còn phải cố hiểu thấu đáo để thực thi
mà thôi.
4. Cái nhìn
đâm thủng
Đặt tên này theo lối
nói của ngừơi Mường gọi đánh trống là đâm
trống (chàm thau). Đây dùng hai chữ đâm thủng
để chỉ sự hiện thực tâm linh ngược chiều để đối với cái
nhìn thẩm thấu thuộc trí học đi xuôi: càng
học càng biết nhiều. Ở cái nhìn tục học
càng tiến tới càng ít đi, càng nhọn hoắt để
có thể đâm sâu vào nữa cho đến tâm đến
tính. Lối đi ngược kim đồng hồ này được biểu thị bằng
hình xoáy ốc ngược chiều để cuối cùng đâm
thấu qua các trở ngại bé nhỏ đặng phối hợp cùng
Trời Đất như được chỉ trỏ bằng một định nghĩa Hoa Quỳ là “nơi
chín đại lộ đều quy vào một mối” (Quỳ: cửu đạt chi đạo),
tức khi tâm hồn nào hướng theo Trời cách bền bỉ
được như Hoà Quỳ thì sẽ đạt đựơc sự thông suốt với
Thiên, Địa, Nhân ba cõi. Xem thế đủ biết đó
là chân lý rất quan trọng phát xuất từ chữ
Trống. Trống bao gồm cả có lẫn không. Vậy việc tu học cũng
phải bao hàm cả sự chinh phục cái không nữa. Tất
nhiên lối đó ngược với sự chinh phục cái có.
Cái có đi xuôi chiều được hiện thực bằng lý
luận, suy diễn. Đến lượt cái vô phải hiện thực bằng bỏ hẳn
suy luận, phải xả bỏ hết để đi vào nội tâm tức càng
đi càng tới chỗ bé nhỏ. Khi đi đến chỗ nhỏ cùng
cực là đắc Đạo. Chữ Đạo kép bởi bộ xước và thủ
ngầm chỉ Đạo là đi về nguồn gốc, mà gốc muôn vật
là Vô, thứ Vô chân thực nên sinh ra
các thứ Hữu. “Hữu sinh ư vô” là vậy. Nhưng phải
là thứ vô thực mới là nguồn mọi sự hữu.
Đường về Vô cực thì có thể thi hành bằng ca
múa như trên mặt Trống: tất cả các chim đều
múa để chào mặt Trời, tức hướng về mặt trời mọc gọi
là “phượng minh triêu dương”.
Còn một lối khác gọi là thiền. Chữ thiền
chính là chữ thiện, mà thiện là một lễ đối
đáp với lễ phong. Đây là hai lễ mở đầu văn
hóa Việt tộc. Phong là tế trời trên núi, rồi
đến tế đất gọi là thiện. Muốn tế thiện thì phải
quét sạch đất, muốn thiền cũng phải xả bỏ khỏi tâm
trí hết mọi ý nghĩ về hữu thể để tâm hồn trống rỗng
đặng thông suốt 3 cõi Trời, Đất, Người. Dịch Kinh gọi
phép này là “an thổ” mà bước đầu tiên
là “vô tư dã vô vi dã”… Đó
là tâm kiện mà tổ tiên ta gọi là
Trống. Có tạo ra được trạng thái trống rỗng trong
tâm hồn thì mới mong đón nhận được những tia
sáng bao la về Đạo. Người xưa quen nói tâm hồn
có an nhiên tĩnh lặng thì chân lý mới
chịu lộ diện xuất đầu.
Có hai lối gây sự “trống rỗng tâm hồn”, một bằng
hành động, một bằng im lặng. Bên Ấn Độ nghiêng về
tĩnh lặng nên có phép “tọa thiền” bên Việt
dùng lối hoạt động (karma / yoga) nên gọi là
“hành thiền” hay là “an hành” nền tảng triết
lý an vi. Trên mặt trống là lối hành thiền:
tất cả đang ca vũ để chào mặt trời ban mai được gọi bóng
là “phượng minh triêu dương” = con phượng hót
chào mặt trời buổi mai. Con người cũng đi theo hướng đó
mà chào mặt trời mới mọc được Khuất Nguyên gọi
là “Đông quân” Vua Phương Đông.
Đó chính là lối “phối thiên phối
địa”. Phối thiên được chỉ bằng chim Hồng Hộc (Hồng Bàng)
cũng gọi là Thiên nga bay đầy trên mặt trống. Phối
địa chỉ bằng rồng lặn sâu tận đáy biển đây là
tang Trống. Thế là có cả triệt thượng lẫn triệt hạ.
Có làm được như thế mới trông đâm thủng được
các phân biệt bé nhỏ để nhìn ra nền tảng
chung của toàn thể mọi vật, mọi người, để nhìn ra Đại
Ngã tâm linh. Đó là nguồn mạch của thống
nhất cũng như của yêu thương cùng khắp. Hỏi rằng
các điều suy luận trên đây có thực chăng?
Thưa rằng có như sẽ trình bàay trong cái
nhìn lan tỏa sau.
5. Cái nhìn lan tỏa
Người Mường truyền tụng rằng khi trống
được đánh đúng kiểu thì tiếng sẽ lan rộng khắp
hàng huyện. Đó cũng là ý nghĩa huyền thoại
ở U Việt rằng nơi của Nam thành Cối Kê có treo một
cái trống bự. Khi nào có con Bạch Hạc bay qua chạm
phải thì trống phát ra tiếng vang mãi tận
Hàm Dương (kinh đô Tàu). Nói vậy có
nghĩa là khi tâm hồn nào giữ đựơc sự trống rỗng
(gọi là Bạch Hạc) thì sẽ hòa hợp với vũ trụ, lan
tỏa khắp nơi. Đến đâu? Thưa lan tỏa vào cùng khắp
ngõ ngách văn hóa của Việt tộc, đâu
đâu cũng có ấn tích và khi biết những ấn
tích đó là gì thì sẽ thấy ảnh hưởng
đạo Trống lan xa và rộng vô kể. Vậy Đạo ấy được biểu thị
bằng các số 2, 3, 5, 9 nên ta có thể tìm
theo dấu vết các số đó để biết Đạo đi tới đâu. Số 2
là các cặp đôi làm nên nét song
trùng cơ bản như tiên rồng, núi non, ông Cồ
bà Cộc… Aên thì dùng đôi đũa (số 2)
nói cũng tiếng đôi: làm lụng, học hiếc, lai rai… Kể
ra vô cùng.
Số 3 thì như 3 cấp bàn thờ, vái 3 cái,
rót 3 chén rượu, thắp 3 nén hương, nhà
sàn có 3 cấp: nóc, sàn, nền…
Số 5 cũng thấy cùng khắp ngay tự thời Phùng Nguyên
đã gặp 5 hòn sỏi mà 3 mài nhẵn 2 để
thô. Rồi các bình đèn bao giờ cũng có
3 chân 2 tai. Aùo mặc thì 2 cúc trên
vai 3 cúc dưới nách. Mâm cơm nếu là
vuông (số 4) thì giữa có 1 bát nước chấm
thành số 5, hoặc mâm tròn thì hình
vuông là chiếc chiếu. Bánh dầy tròn số 3,
bánh chưng vuông số 4… Trên mặt trống nét
song trùng (2 hàng song song, giữa có chấm) chạy
cùng khắp. Rồi đến hoa văn “răng cưa”, gọi thế chứ thật ra
là 2 hàng tam giá gốc lan tỏa ra cùng khắp
mặt trăng, đúng câu “nội hàm càng nhỏ, ngoại
càng to”: nội hàm rút nhỏ vào đến số 2 +3
đặt giáp mặt trời, nên ngoại tỏa lan ra cùng mặt
trống.
Ta hãy chú ý đến ba cái kết tinh nổi bật
của sự tỏa lan này: đó là bộ ba Tam Hoàng,
Lạc Thư và Kinh Dịch… Đấy là bấy nhiêu kết tinh của
Đạo Trống. Mới nhìn chẳng thấy chi ăn chịu với nhau, nhưng
xét đến cơ cấu thì lại là một. Ta hãy lược
qua:
Trước hết về Tam Hoàng thì cặp uyên ương Nữ Oa Phục
Hy quấn đuôi nhau. Đó là số 3 trời 2 đất với
bà cầm cái quy số 5, ông cầm cái củ số 4…
Sau đến Kinh Dịch cũng thành bở các số 2, 3, 5 (lưỡng
nghi, tam tài, ngũ hành) làm nên “tiên
thiên bát quái” để nói lên đường đi
ngược chiều. “Dịch nghịch số dã” Kinh Dịch được gọi bóng
là con chim lạc dịch có 8 cánh 1 chân. Chim
Tất Phương cũng 8 cánh 1 chân đều chỉ Dịch tiên
thiên bát quái là 8 quẻ bao quanh
Thái cực viên đồ.
Sau nữa đến Lạc Thư cũng bằng ấy số và tiến theo chiều ngược.
Chưa cần xem nhiều chỉ mới thấy những bước đi tả nhậm của đoàn
vũ là đã nhận ra sự đồng tính giữa Lạc Thư với
Trống Đồng rồi: vì Lạc Thư cũng tiến theo tả nhậm như vậy tức tự
1 tới 2, 2 tới 4… nhưng ít người thấy vì giữa các
số 1, 2, 4 có xen kẽ số 6, 7, 9 nhưng nếu biết đó
là những số thành cần vượt qua để theo dõi
các số sinh (từ 1-5) thì dễ thấy Lạc Thư cũng là 1
điển chương như trống đồng hay Kinh Dịch đều đi theo chiều ngược, đến
nỗi muốn đặt trống đúng hướng thì phải theo thái
cực Viên Đồ của Dịch, và ngượ lại phải coi trống đồng mới
đặt đúng được chiều hướng Kinh Dịch. Có thể nói
75% xếp đặt Thái Cực đồ trong các sách là
sai, còn đúng chỉ được 25% nhưng là đúng
theo cú ngáp phải ruồi chứ không do sự hiểu biết
như đã trình bày ở bài Kinh Dịch
trên. Đó là đại để cái nhìn tỏa lan
được chứng minh bằng số.
6. Cuộc sống phong lưu
Bây giờ xin hỏi các số đó
có nội dung trung thực chăng? Thưa rằng có, đó
là nếp an vi đầy ca múa mà tiền nhân gọi
là “phong lưu” tức sống thanh thoát ví được như
“ngọn gío ngàn, như làn nước suối an nhiên
tự tại đáng gọi là bài ca múa của
tiên trên cung Quảng Hàm = Nho gọi là
Nghê thường vũ y khúc. Truyền thuyết nói rằng Đường
Minh Hoàng trong một giấc mơ đã được cho lên chơi
cõi tiên để chứng giám khúc Nghê
Thường nọ. Đó là một lối lịch sử hóa vô nền
(cái nền mặt trống chỉ là giấc mơ mà ngay giấc mơ
cũng là truyện giả thuyết). Còn trên mặt trống
có đủ sự thực thi với tên của bài Vũ: Nghê
Thường có nghĩa là váy màu ráng đỏ.
Đó là màu đỏ lửa thuộc hành hỏa số 2 của
phương Nam. Vũ Y khúc là bài vũ người có
đeo lông chim. Vậy 2 điểm trên thì không
đâu được bày tỏ nhiều hơn trên mặt trống. Còn
cung Quảng Hàm chính là mặt trống chia ra 2 nửa
thành 2 vòng bán nguyệt. Bán nguyệt
là vòng trăng khuyết lưỡi liềm: trong Trống có 2
tuần trăng (2*7) là 14 tam giác. Tóm lại
Nghê Thường Vũ Y khúc là tên gọi cảnh sống an
vui đầy ca múa được tạc trên mặt trống, nó phản
ánh lại đời sống theo Đạo Trống, ngậm ý rằng: ai biết
sống theo đạo Trống thì đều có cuộc sống an vui như vậy,
vì đó là hậu quả của nền triết lý
Thái Hòa. Bởi thế bức họa này không
là “bánh vẽ” mà đích thị là sự thực
được thể hiện hết đời nọ đến đời kia trong cái làng Việt
Nam mà đời sống cũng diễn lại y chang cái cảnh sống như
trên mặt trống: cũng hát xướng chèo ca, cũng hội
hè, đình đám (xem bài Cái
Làng Việt).
Bây giờ ta phải cố tìm ra căn do siêu hình
của đời sống an vui nọ. Lúc ấy ta sẽ hiểu nó ở tại quan
niệm Trống về con người. Theo đó thì con người gồm cả
Có lẫn Không mà đã bao gồm cái
không chân thực thì phải trở nên bao la như vũ
trụ, nói bóng là như trờivới đất: đất biểu thị
bằng số 2, trời bằng số 3. 2+3 hóa ra 5 (ngũ hành). Ngũ
hành chính là con người Đại Ngã đựơc bồng
trong tay Nữ Oa, hoặc hiện hình vào các tam
giác gốc. Đó là quan niệm bao la về con người
mà ta thấy đã xuất hiện ngay tự trang đầu triết Việt với
hình ảnh oai hùng cùng cực của Bàn Cổ: tự
mình xuất hiện với tác động đầu tiên là
phân định Trời Đất. Tiếp theo là Tam Hoàng cũng
diễn lại chiều kích bao la đó như lấp biển và
trời. Tất cả đều mênh mông như vũ trụ tức là
nói lên chiều kích nhân chủ cao sâu
bằng những nhân thoại huy hoàng cùng cực, tất cả
nói rõ lên cái bản tính con người
toàn vẹn vựơt xa tiểu ngã của ta vô cùng,
cho nên con người muốn sống an vui cần phải hiểu biết bản
tính của mình là chi và thứ đến là
phải sống thuận theo bản tính đó. Nhưng không may
hầu hết chỉ biết theo có đời sống bé nhỏ của tiểu
ngã. Tất cả khốn đốn của loài người cũng như sự thất bại
của hầu hết các nền triết lý hay thuyết lý đều nằm
trong chỗ đó: trong chỗ không biết được bản tính
con người bao la để mà tìm cách nuôi dưỡng
vì thiên địa không có vị yên:
không duy thiên (duy tâm) thì lại duy địa (duy
vật) đều là vấp phải tội “xúc bất chu chi sơn” = như Cộng
Công húc đầu vào núi Bất Chu hiểu là
cắm đầu vào cái biết không tròn cái
biết duy lý ý hệ hay duy tín bái vật,
nói cụ thể là chỉ biết có một chiều: không
chiều hữu thì lại chiều vô, chiều nào cũng đều
là ngõ cụt gây ra mọi tai họa. Sự vụ xảy ra thế
này.
7. Căn do khổ luỵ
Bản
chất con người là vô cùng nhưng chiều kích
này không đựơc nuôi dưỡng bằng chất vô
cùng, nên con người mãi mãi bị đói
khát. Vì đói hoài nên phải ăn
thêm, ăn thêm mà không sao no thỏa bởi
đó là những đồ ăn hữu hạn như tiền của chức quyền,
chúng không có chất vô cùng nên
không thỏa mãn được con người có bản tính
vô cùng, thế là đưa đến cái nạn tham dục
vô đáy. Nho gọi là”nhân dục vô nhai”.
Vô nhai là không giới mốc vì chính
quyền cũng như tư nhân không có cái tự chế
trên con đường chao vét, nên cuối cùng đốc ra
cướp đoạt và chuyên chế. Thế là gây nên
chia rẽ cùng khắp. Cho nên nếu muốn cuộc sống an vui
thì đời sống phải được thành nên bởi cả không
lẫn có: phải có yếu tố không để cân bằng với
yếu tố có. Nói bằng số thì đất chỉ được chiếm
có 2 còn phải để cho không (cho trời) đựơc 3. Đời
người chỉ có ý nghĩa khi để được 3/2 t6m trí
vào cái vô thể, cái linh thiêng, những
việc cứu dân độ thế, tế thế an bang. Vì đó
là những việc bao hàm cái Vô (tư lợi)
nó mở vào chân trời bao la miên viễn. Đấy sẽ
là đề tài được quảng diễn về sau… Ở đây chỉ cần
nói rằng đạo lý hay triết lý mà chưa
thành công, thì căn do then chốt là tại chưa
có ý niệm bao là về con người, nên suy tư,
cảm nghĩ toàn xoay quanh những cái hữu hạn. Cho nên
dẫu thấy con người lâm cảnh thiếu hướng thiếu hồn cũng
đành bó tay. Vì bao hướng đưa ra đều cụt. Bao
phương thức giải cứu được đề nghị đều thành bởi chất có
cùng, cả đến thần linh hay linh thiêng cũng làm
toàn bằng chất hữu hạn, thì sức mấy mà thỏa
mãn nổi con người có bản tính vô
cùng, và như vậy hiểu được tại sao cả Trống Đồng lẫn Kinh
Dịch và Lạc Thư đều đặt nổi quan niệm bao la về con người.
Và đó phải là nền triết lý cho con người
đời mới, đời hậu kỹ nghệ, đời mà triết lý lao động của
thời công nghệ hết xài rồi vì nó chỉ
có hàng ngang không vươn lên được, bởi thiếu
chiều bao la như vũ trụ, nên cuộc sống toàn làm
bằng những chiều kích bò ngang trên mặt đất:
đó là sản xuất tiêu thụ và đánh nhau…
chưa có gì nuôi dưỡng chiều kích bao la nơi
con người cả. Muốn tránh tai họa nọ đời sống hậu kỹ nghệ phải
là đời sống như chơi, làm ít chơi nhiều, để con
người được thanh nhàn mà lo đến cái chiều
kích bao la như vũ trụ của mình. Thời đại đang đến con
người phải có một nền triết lý mới hẳn và nền
triết lý đó chính là triết lý bao
gồm chiều kích trống rỗng. Hội nghị quốc tế triết ở Honolulu
đã hé thấy điều đó khi đề bạt Khổng Tử, nhưng
Khổng học đã không tiếp thu được lời chỉ định kia bằng đưa
ra đạo lý Nho chân thực là cái phải gồm
có chiều Vô, như chúng tôi thử bày tỏ
trong Hoàng Nho, và Việt Nho.
Tất cả đều đặt nền trên chữ Trống.
Đó là hành Thổ của Hoàng Nho.
Thái cực nhi vô cực của Di Nho
Trống đồng của Việt Nho…
Người đại diện cuối cùng của Nguyên Nho là Khổng
Tử. Ít ai để ý rằng chữ Khổng chính nghĩa
là trống không. Vì thế truyền thuyết nói
Khổng Tử sinh ra ở bên cây giâu rỗng gọi là
“không tang”. Có nghĩa là cái Đạo ông
truyền lại đặt nền tảng trên cái Trống rỗng. Điều
đó đã được chúng tôi bảy tỏ trong ba
bài.
Bài thứ nhất là Hoàng Nho với cơ cấu uyên
nguyên để thấy được nền tảng sâu xa cùng cực của
nó rất thật cho xưa cũng như nay. Đông hay Tây
không khác lại kèm theo 5 nhân thoại tuyệt
vời để kiện chứng.
Bài hai là Di Dịch với Chu Dịch để thấy sự phong
phú vô biên của cơ cấu nguyên thuỷ mà
Kinh Dịch làm nổi bật lên nét song trùng.
Chính vì thiếu nét song trùng mà
nhân loại ngày nay chia ra hai mảnh duy luôn
luôn nhỏ máu.
Bài ba Việt Nho với Trống Đồng nói lên bằng
hình ảnh rằng: tất cả các điều nói ở bài
một và hai đều rất thật, chỉ xem trên mặt trống là
đủ biết nếu giữ được Đạo Trống thì con người sẽ được sống cuộc
sống phong lưu an nhiên thư thái. Điều đó có
thực chứ không phải truyện hư cấu chi cả. Xem hình
trên mặt trống rồi kiểm kê lại đời sống cái
làng Việt Nam thì đủ rõ. Ở một bài
khác chúng tôi sẽ minh chứng rằng các
hình này đã được thực thi trong cái
làng Việt Nam từ lâu đời.
Trang
mạng
Việt
Nam
Văn Hiến
Trang
Việt Triết Nhập Môn
www.vietnamvanhien.net
www.vietnamvanhien.org
www.vietnamvanhien.info
www.vietnamvanhien.com
Email:
thuky@vietnamvanhien.net
Trang
mạng Việt Nam Văn Hiến là nơi bảo tồn di sản văn hóa của
Việt tộc, thắp sáng niềm tin Diên Hồng và nếp sống
văn hiến hầu phục hồi nền An Lạc
& Tự Chủ.
|