Việt Triết Nhập Môn
Kim Định |
|||||||||||||||||||||||||||||||||||
Tiếp theo trang 1
VI. VŨ TRỤ NHÂN LINH- QUAN NIỆM AN VI VỀ CỨU CÁNH CON NGƯỜI 1. Vi Nhân Đây là hai chữ làm tôi ngỡ ngàng hơn hết khi mới bắt đầu nghiên cứu Nho. Tôi hỏi tại sao lại làm người (vi nhân)? Người chưa là người sao mà phải làm? Và làm sao nổi. Nhất là khi tôi lại gặp câu định nghĩa người là “nhân giả kỳ thiên địa chi đức” thì càng ngỡ ngàng hơn nữa. Nếu phải “làm người” thì cũng là làm ra “đức trời cùng đất” sức mấy! Trời cao xa tắp tít, đất dầy rộng bao la: con người chưa đáng là cây sậy, vậy mà đòi là cái chi. Toàn lời vu khoát. Thế nhưng càng nghiên cứu sâu thì càng thấy cả Nho lẫn các văn hóa Cổ Việt đều hướng trọn vào hai chữ “Vi Nhân” thí dụ là Kinh Dịch. Kinh Dịch chính là công thức hóa những tư tưởng bình dân về ông chống trời với việc đúc tượng, và Nữ thần mộc dạy làm nhà… Tất cả đều quy hướng vào hai chữ Vi Nhân. Thế là phải nghiên cứu cách nghiêm chỉnh chứ chẳng phải chuyện nói bâng quơ rồi. Vậy khi khởi công nghiên cứu cách nghiêm chỉnh thì tôi gặp câu “nhân linh ư vạn vật”. Thế mà đến lúc xem vào bảng “4 con vật linh” lại không thấy người đâu cả. Một vài bảng có cho người vào nhưng cho vào cung trần trụi. Bảng “tứ linh” gồm 4 con “lân, li, quy, phượng” thì hai con li, quy có vảy có mu và thuộc âm, còn hai con lân, phượng có lông cánh thuộc dương (li là rồng vàng không có ngà nhưng có vảy, quy thì có mu, phượng có lông vũ, lân có lông mao của thú) nghĩa là con vật nào cũng có áo che thân. Còn lại con người thì trần trụi! Như vậy có sự mâu thuẫn chăng. Vì một đàng bảo người linh hơn vật mà đàng khác lại trình bày người kém hơn, trần trụi chẳng có lông cũng chẳng có vảy chi hết. Thật là nghèo khổ. Đến lúc để tâm suy nghĩ trên thực tế lại càng chán nữa. Chim biết bay cao tắp tít, cá lội tận đáy biển, còn người có làm được như vậy đâu. Vừa mới sinh ra nhiều con như bò đã đi dạo chung quanh mẹ nó, còn con người ôi thôi! Quá ư chậm chạp. Tục ngữ nói “ba tháng biết lật, bảy tháng biết bò”, thế mà nhiều đứa trẻ không đạt chỉ tiêu. Còn nói chi tới đi: phải cả một năm trời. Mới có đi thôi mà đã chậm chạp là vậy, nói chi đến việc ăn làam, có biết gì đâu, hay biết được chút ít thì đều phải khổ công học: học ôi là học, học cả từng nhiều chục năm. Đấy là mới nói riêng từng cá nhân, đến khi xét chung về con người còn chán nữa: phải trải qua từng ngàn năm, thất bại vô vàn lần, cuối cùng mới biết được tí chút, thí dụ thuốc tiêm thì con tò vò chẳng cần học chi mà tiêm đúng phóc mãi từ xửa từ xưa! Con người nghiên cứu mãi rồi tặng cho nhau bao huy chương mà mới biết tiêm gần đây thơi này. Và nhiều lần rút kim ra là con bệch tịch liền. Cứ suy nghĩ đến những cái đó mà ngán. Quả thực con người là vật trần trụi bất lực chứ có linh gì đâu. Tuy nhiên khi suy lại thì có một cái gì khác con vật, tôi không dám nói hơn con vật mà chỉ nói khác. Cái khác đó là con người tự làm ra, đúng hơn là nó bó buộc phải tự làm lấy tất cả: từ cơm ăn, áo mặc, nhà ở, phương tiện xê dịch v.v… không một cái gì là nó không phải tựlàm lấy. Làm lấy thì méo mó đâu bằng con vật, nhưng méo mó có hơn không, tức có tự làm ra chứ chẳng ăn không gì cả. Cái gì con người cũng làm ra ngoại trừ mấy tác động quả cần thiết thì Trời phải ban sẵn như ăn, uống, nói năng, làm tình… thì con người không tự làm ra được, nhưng cũng cố đóng dấu người vào bằng cách biến chế đủ kiểu, biến chế chẳng ra sao sốt, thế nhưng lại gọi đó là văn hóa và cho là cao lắm, quý lắm, phát bằng cho nhau, dựng cả tượng nữa. Thôi thì cũng mần ngợ cho vì “mèo cũng khen mèo dài đuôi” nhưng nếu các con vật mà biết thì chúng sẽ cười cho vỡ mặt. Trong các cái người cố thêm vào thì có một điều rất lạ, đó là nó đề cao hết sức mấy việc thực vô ích thí dụ vẽ vời, hát xướng, ca kịch, luận bàn v.v… và vô lý hơn nữa là hy sinh cho những cái vô ích hay chẳng ai thấy đâu như Thượng Đế, linh hồn! Có ai thấy mặt mũi Thượng Đế ra sao đâu. Vậy mà ngay tự thưở Tâm hoành nào con người đã tốn công tốn của vào đấy, nếu không dùng cả ngày thì cũng cố dùng những giờ tốt nhất thí dụ ban mai, nhiều khi còn hy sinh cả mạng sống cho mấy vụ đó nữa. Nếu con vật mà hiểu biết thì chúng sẽ nói: có mà trời hiểu được các anh em. Hỡi con người! Thật là vớ vẩn. Đó, đại khái khi suy như vậy thì thấy con người quả là “hồn bướm mơ tiên” nghĩa là hèn hạ, bất lực hơn các con vật, mà lại đi mơ những chuyện đâu đâu vô dạng vô hình, rồi tuyên bố rằng mình linh hơn các con vật. Có thực linh hơn không. Cuối cùng không phải thiên tư nhưng cũng có vẻ hơn thật, thí dụ vụ bắt các con vật vâng theo ý mình, phụng sự mình, nếu có gọi là nói khoác thì kể ra cũng có căn bản. Căn bản đó có ba điều: Một là xét về phần xác thì ngừơi rất tầm thường thua nhiều con vật về nhiều mặt, thí dụ về to thì thua voi: cá voi, con voi. Về sức khoẻ thì thua hùm, beo, gấu, báo nhất là sắc đẹp thì thua chim, cá, thua đậm vì nhiều con đẹp vượt xa người, các bà có son phấn mấy cũng còn kém xa mấy con cá. Hãy vào aquarium mà xem lắm con đẹp lạ lùng. Còn về tài khéo thì ôi thôi thua xa lắc xa lơ. Trí khôn thì u minh: chẳng hiểu tí gì cả về các dấu thiên nhiên: con kiến còn biết trứơc sẽ có bão lụt, con người thì chẳng hiểu gì ấy là chưa nói đến tài riêng như chim bay cao tắp tít, cá lặn sâu thăm thẳm. Nếu chỉ xét có mặt này thì con người thực quả là đồ bỏ. Đấy là điểm một. Điểm hai là xét về đàng ham muốn thì lại vượt xa tất cả tỏ ra chẳng có cảm quan cân đối gì ráo, không biết “so bò làm chuồng” gì hết trọi, đi ham muốn toàn những cái vượt xa sức mình đến nỗi muốn cả những cái vô ích. Ba là chỉ được có một điểm là tự làm ra đựơc nhiều cái để bù vào những chỗ kém kia, thí dụ kém chim về bay nhưng nay đã bay được “tới cung trăng” v.v… sáng thì thua đo đóm nhưng nay đã biết làm ra điện rồi, cả điện toán nữa… Tự làm ra cả: cây nhà lá vườn. Chính vì điều này mà Trời không cần huỷ bỏ con người, cũng không cần rốt nhà thương điên mà cứ để cho nó sống để coi xem nó động ứng ra sao và lúc ấy mới thấy chữ Vi Nhân có ý nghĩa, cả câu nói “nhân giả kỳ thiên địa chi đức” mới nghe chói tai quá, nhưng suy kỹ cũng thấy có một cái gì đường được; cũng như Kinh Dịch bắt phải dịch hoài, không cho đậu lại ở một mức nào đó mà cứ bắt tiến mãi, tiến mãi tới quẻ 63 “Kí tế” đang mừng thầm nghĩ đã đến chỗ dừng nghỉ rồi đây, nhưng chưa kịp lấy hơi thì đã lại thấy thò ngay ra quẻ 64 bảo rằng “chưa xong” (vị tế). Trời ơi! Vậyrồi bao giờ mới xong cho đây hở Trời. Rằng không có nghỉ gì ráo trọi, cứ phải đi hoài, đi nữa. “Vi Nhân” là vậy đó. Nghĩa là nhân chỉ có là nhờ vi., bởi thế ngừơi đựơc gọi là tác viên: ngơi vi ra, ngơi làm người ra là hết người, bởi vì nhân gồm không những địa mà còn thiên nữa, mà thiên thì “vô thanh vô xú” nên cũng vô bờ bến không có cùng nào hết, thế là cứ phải tiến hoài tiến huỷ. Trời ơi, như vậy thì còn hơn hồn bướm mơ tiên nữa lận. Vì tiên còn có hình nào, nên còn có chỗ dừng nghỉ, chứ đây vô hình, vô tượng. Thế chưa đủ còn kêu là “vô thanh vô xú” thì làm chi có bờ cõi, có chỗ nghỉ chân. 2. Chống trời Vậy mà đấy là đường mà con người đã cố gắng đi qua: ở đâu và bao giờ cũng thấy thế. Chỉ nói riêng về “văn hóa” Việt Nho thì không thiếu gì ẩn tích. Truyện xưa kể rằng: thưở mới có trời đất thì trời thấp lắm, thấp đến nỗi bò đi vướng ngà, heo đi vướng lưng, con người phải nỗ lực lấy cây chống chõi cho trời cao lên dần dần, thành ra con người mới đi lại thong thả và hoạt động tự do được và tự đấy dân gian đặt vè để ghi ơn mấy ông chống trời. Và để kỷ niệm thì bên cạnh bàn thờ bao giờ cũng có trồng một thứ cây như cây không đồng, cây không tang và gọi là cây linh. Câu truyện trời quá thấp chỉ giai đoạn Bái vật cũng gọi là giai đoạn Toàn thần. Đó là giai đoạn con người chưa nhận ra mình là một tự thể, chỉ biết tuân theo trời. Nói theo tâm lý thì đấy là thời con người chưa thoát ra khỏi thú tính, sống trọn vẹn theo thiên năng (bản năng). Đó gọi là chưa có “cõi người ta”. Cõi này làm bằng lý trí mà lý trí chưa mở. Nhưng rồi thiên năng rút lại dần dần nhường chỗ cho lý trí tự làm việc, huyền sử gọi đó là thời của những ông chống trời. Đấy là những tác giả làm nên cõi người ta. Đó là điều riêng biệt của con người. Nơi những con thú vật thì thiên năng cứ ở lại đẩy đủ, để chỉ huy đời sống. Vì thế con vật không có thất bại, không có bê bối hay sơ hở ngay tự đầu, mãi tự xa xưa đã hoàn bị như vậy, không bao giờ có lầm lỗi hay phải mò mẫm: cái gìcũng biết liền chẳng cần phải học. Không hề có bộ giáo dục mà đâu ra đấy. Tuy nhiên đó chỉ là cái biết trời ban ra cho chứ con vật không có phần tham dự vào một cái gì hết. Chúng không hề có những ông chống trời. Các ông nói: “xin Trời là ơn co chân lên một chút đặng thằng người chúng tôi có đất cắm giùi. Rồi cũng nói với đất như vậy: xin đất hạ cái đầu xuống một bậc để chúng tôi kiến tạo nên “cõi ngừơi ta”. Nghĩa là tự đấy con người dùng lý trí cá nhân mình thay cho thiên năng. Thiên năng co rút đến đâu lý trí con người tiếp thu đến đó. Bởi vậy truyện chống trời là một biến cố cực kỳ quan trọng. Kinh Dịch đã công thức hóa bằng quẻ tượng. Ta biết một quẻ ở thời quá thấp thì trời chiếm hết 3 vạch trên, còn đất 3 vạch dưới con người chẳng được vạch nào hết trọi như hình sau: ___ ___> Trời ___ ___ > Đất ___ ___ Đấy là tình trạng con người chưa đạt thân: còn giống con vật, sống theo thiên năng trọn vẹn, chẳng phải suy nghĩ tìm tòi gì hết. Chỉ việc sống: nghĩa là ăn và làm tình, tới già là ngả ra chết, cả trăm cả ngàn thế hệ y như nhau, không có “cõi người ta” cho con vật. Nhưng đến lượt con người thì bắt đầu nó cậy cựa, đâm đơn lên xin trời với đất làm ơn nhường lại cho tụi tôi một mảnh trời một mảnh đất. Chẳng biết trời đất có ưng hay không nhưng thực tế thì ta thấy quẻ trước chia hai mảng, nay thì chia ba mảng. Thành ra trời chỉ còn 2 vạch, đất cũng vậy chỉ còn 2 vạch, 2 vạch giữa để cho người. Và ta thấy quẻ bây giờ chia như sau: ___ ___ >Trời ___ ___ >Người ___ ___ >Đất Với lối chia tay ba này bắt đầu có thuyết tam tài: cũng gọi là “tham thông” tức là người cùng tham dự với Trời với Đất! Thực là quá kiêu ngạo như J.Legge đã hạ bút viết: vì dám đặt người ngang với đấng tối cao! Thật là điên: What is it but extravagance thus to file man the supreme Power. Legge I. 416 n22. Nhưng đó là ý kiến của J.Legge đã quá quen với lối chia đôi cho trời cho đất mà không có phần cho người nên gọi là vong thân. Chứ còn chính trời lại không nói gì cả. Trời có bao giờ nói đâu, nhưng cứ xem “ý dân chúng mà đoán ra ý trời”. Vậy ý dân chúng đã được bày tỏ trong câu phong dao sau: Ngọc Hoàng ở chốn trời sang Thấy con uống rượu hai hàng lệ rơi Tưởng rằng con uống con chơi Ai dè con uống con rơi xuống xình. Giá chưa chống trời lên thì chắc ông trời đã làm sét đánh cái rẹt là xong đời thằng người, hoặc mở vung âm phủ bỏ tọp chúng xuống là xong: sức mấy mà ông chịu ngồi không, chứng kiến cách bất lực để nó uống mặc sức, đến nỗi rơi xuống xình. Rồi ngồi khóc thút thít. Vậy mà ở đây oông lại xử theo kiểu Mỹ “không can thiệp vào việc người ta”. Mà vì đã có “cõi người ta” mất rồi, nên đành cứ để cho nó rút kinh nghiệm. Có thất bại mới thành công: không việc gì phải đánh với đấm. Do lẽ đó, do lẽ trời rút phần thiên năng đi nên con người trở nên con vật tham thông nghĩa là thông công với trời cùng đất để tự làm. Kể cũng có quá lố. Vì làm thì có ra cái mẹ gì đâu: người là con vật chuyên môn thất bại, hết thất bại này đến thất bại khác, nhưng được cái sau trăm lần thất bại nó lại thành công một chút, tức nhích đi được một bước trên thang văn minh. Rồi tích tiểu thành đại dần dần nó dựng nên được cõi người ta, như đã nói trên. 3. Bản đồ nhà con người Phải thú nhận rằng cõi người ta thì thực chẳng ra cái mẹ gì. Có mỗi một việc bảo đừng đánh nhau thôi mà la lối om sòm cũng chưa sao thực hiện được. Cả trăm ngàn tôn giáo giảng cạn nước bọt mà người ta cứ làm thêm bom H. Nhưng thôi thì méo mó có hơn không. Ta hãy xem qua cõi người ta được tổ chức ra sao. Thưa bản đồ của chúng đây. Có nhiều thứ nhưng bản đồ gốc thì chúng gọi là ngũ hành. Ngũ hành là cách xếp đặt trời đất ngừơi cho đúng vị trí mỗi tài: nó cho rằng có vậy con người mới được hạnh phúc (hạnh phúc tả bằng được nuôi dưỡng dục). “Thiên địa có vị yên thì vạn vật mới dục yên” được. Hỏi trong ngũ hành có được như vậy chăng? Thưa có thứ được có thứ không. Thứ không gọi là 4 yếu tố gồm nước, lửa, khí, đất. Thứ tứ tố này chỉ có sự vật, chứ không có cõi người ta, nên phần nhiều con người phải đói; phải làm nô lệ như các xã hội Tây Aâu hay Aán Độ xưa. Còn một loại xếp khác gọi là ngũ hành thì tránh được nạn nô lệ, và có thêm chế độ bình sản nghĩa là ai trong xã hội cũng được “dục” tức có được tham dự tài sản quốc gia. Hậu quả thật khác nên tả phải xem nó xếp đặt ra sao. Đây là bảng ngũ hành. Hỏa Mộc Thổ Kim Thủy Thoạt xem ta cũng tưởng vắng bóng người như bảng tứ tố: ta thấy trời chiếm 3, đất chiếm 2 là 5, có còn gì cho con người đâu. Thế là con người mất phần chăn rồi, có còn đựơc dục không? Ngạn ngữ Việt nói “nằm giữa mất phần chăn” có đúng vào đây không? Thưa đâu có chuyện ấy. Nằm giữa đâu chịu mất phần chăn. Con người ở trung cung hành Thổ đó, rất tiện để hút đức của Trời của Đất và nó gọi đó là tứ quý, 4 hành chung quanh có phương có mùa. Duy hành giữa là không có gì nên bốn hành kia phải cúng cho Người một tuần: trời cúng 2, đất cúng 2. Thế là người có 4 tuần nghĩa là cũng có xuân, hạ, thu, đông như ai. Cái xin được đó mới quý nên gọi là “tứ quý”. Có bản đồ tứ quý không? Có chứ. Đó là chỗ khác biệt giữa tứ tố và ngũ hành. Tứ tố thì đọng lại bảng cơ cấu vuông kép như hình trên nhiều sách không đặt thành cơ cấu. Còn ngũ hành không những đặt thành cơ cấu, mà còn phát triển thành nhà nữa gọi là nhà Minh Đường hay Thái Thất, sau đây là tiến trình xây Thái Thất (cũng là thiết kế vi nhân) Trước hết đặt nền móng trên ngũ hành như hình I sau: I II III Thứ đến thêm 4 căn góc thành Hồng Phạm Cửu Trù như hình II Sau cùng chia 4 căn góc thành 8 căn ké (cá) thành 12 căn như hình III. Thế là ta có nhà gọi là nhà Minh Đường có nghĩa là nhà dùng để làm sáng cái đức sáng trong mình ra. Nho gọi là “minh minh đức” một trong “tam cương” mở đầu sách Đại Học rằng “đại học chi đạo, tại minh đức, tại thân dân, tại chí ư chí thiện”. Minh Đức là cái đức của Trời phú bẩm vào con người như hạt giống. Ơû nơi con vật gọi là bản năng xài được liền, con vật không phải đóng góp chi vào cả. Trái lại nơi người thì phải tự người làm sáng ra mới xài được. Vì thế phải thêm động tự minh vào “minh đức” thành ra “minh minh đức” = làm sáng cái đức sáng. Làm sáng bằng cách nào? Thưa bằng cách “chu tri” tức bằng cái biết tròn đầy (holistic). Thế nào là biết tròn đầy? Thưa là cái biết giao thoa giữa tâm linh tiềm thức và lý trí ý thức. Nếu chỉ có một bên thì không là chu tri. Điều này được minh họa trong bản đồ thiết kế của nhà Minh Đường (blue-print) gồm ba tầng: Đất, Trời, Người. Có hiện thực được cả ba mới gọi là “chu tri”. Đất chỉ các việc cần thiết cho đời sống cá nhân như ăn, ở, nói, làm… Vì vậy đây là tầng cá nhân, ít được nói tới, vì hầu hết mọi người đã chú ý vào đấy, gọi là lợi hành nên nếu không có 2 tầng trên thì gọi là duy vật. Cần phải gỡ mình ra khỏi tầng này một phần để đầu tư năng lực vào 2 tầng trên. Vì thế có những chủ thuyết khuyên giục con người từ bỏ tầng này kiểu xuất thế. Cũng có thuyết thì đả đảo cá nhân đến cùng cực không cho con người suy tư riêng lẻ, bắt phải “thượng đồng”: là vâng lời thượng cấp trọn vẹn như trong các chế độ chuyên chế nhằm tổ hợp con người theo kiểu con vật tức là đoàn lũ hóa, nghĩa là đánh đồng vào không kể chi tới tình cảm cá nhân. Nhưng làm như vậy là sai vì thượng tầng làm ngãng trở sự phát triển con người nhất là năng khiếu sáng kiến, sáng tạo. Vì thế đây là tầng phải giữ, Nho gọi là “phối địa” mà ta có thể dịch bằng danh từ của Karl Jung là individualisation. Trời là tầng trên cùng Nho gọi là phối thiên. Đây là tầng mà hết mọi đạo lý và tôn giáo đều chú ý phát triển. Phương thế là suy tư lý luận làm nên những nền triết lý. Còn tôn giáo thì thờ phụng kinh hạt cúng tế đủ kiểu. Sau cùng là thiền. Trong bằng ấy lối thì thiền là ám hợp nhất với thiên vì thiên được định nghĩa là “vô hình vô tượng vô thanh vô xú”. Như vậy phải tìm một đường lối ám hợp với Thượng Đế tức cũng vô hình vô tượng như Người. Và đó là Thiền. Chữ Thiền nguyên là chữ Thiện, đó là một lễ trong 2 lễ tế trời đất gọi là Phong Thiện. Phong là tế trời, Thiện là tế đất. Tế đất thì phải quét đất cho sạch, hiểu là phải gạt bỏ những gì có hình thể như những mối lo âu, những ý nghĩ về vật chất, những bận tâm về cái bé nhỏ thuộc lợi hành, để lòng được trống rỗng đặng đón nhận tâm linh (thiên). Vì thế Dịch nói “vô tư dã, vô vi dã, tịch nhiên bất động, cảm nhi toại thông thiên hạ chi cố” = không suy tư, không làm gì cả, vắng lặng, một mình bất động, thoát nhiên thông hiểu được các lẽ trong thiên hạ “tức là khi lòng trí không còn bận rộn thì Trời xuất hiện lên bình diện ý thức làm cho lý trí hiểu sự vật cách trực tiếp ta gọi đó là trực giác và đó là “chu tri”. Chu tri phải gồm cả đất cả trời nói theo tâm lý là không những phải có suy tư mà còn cần trực giác nữa mới là chu tri. Xưa nay người ta hay bị bệnh duy là tại đọng lại ở một tầng nào đó. Hoặc là hạ tầng kinh tế chỉ huy thượng tầng văn hóa thì gọi là duy vật, hoặc ngược lại là duy tâm. Dịch đưa ra bài thuốc chữa chạy gọi là phép An thổ. Thổ ở ô trung cung: đó phải là phòng của người, con người cần lâu lâu vào ở trong đó, thì mới hiện thực đựơc việc gọi là “nhập ư thất” hiểu là hiện thực đựơc tính con người. Phép An thổ gồm ba việc là An thổ, Đôn hồ nhân, Cố năng ái. An thổ là vào ở trong hành thổ nơi trung cung để ngồi mà quên sự đời như Nhan Hồi, rồi đến Đôn hồ nhân là phải phát triển những tình ý cao đẹp của con người như yêu thương, quảng đại, khoan dung, nhân hậu. Nho tóm vào 5 chữ “nhân, nghĩa, lễ, trí, tín”. Có làm vậy mới đạt khả năng yêu thương trung thực gọi là Cố năng ái tức mới chính thực là yêu thương. Nhân ái là việc mà ai ai cũng muốn làm hết. Đạo lý hay thuyết lý nào cũng nhằm tới như cứu cánh cuộc đời, do đó ta biết nó là yếu tố làm nên con người. Nho gọi là “Nhân giả nhơn dã”. Vì thế ta có thể dùng độ nhân ái như thước để đo mức độ trung thực của các thuyết lý. Thuyết nào làm cho người ta yêu nhau hơn thì thuyết lý đó trung thực hơn. Mà yêu trung thực phải bày tỏ bằng liệu cho mọi người được ăn đựơc nói. Chữ ăn là bình sản, Nho nói bóng là phép tỉnh điền, tức quân phân tài sản quốc gia đồng đều. Có tài sản mới có nền tự do, gọi bóng là cho nói, bởi nói là bày tỏ tình ý của người nói, tức là nét đặc trưng đặc biệt của con người khác thú vật. Vì thế nói cũng cần cho người hai điều đó. Ơû các xã hội tư sản tuyệt đối thì 2, 3 ngừơi có đến 7, 8 người không, mà không có của tất trở thành nô lệ tức là mất tự do, như đã xảy ra trong các xã hội cổ của Aâu Aán, nơi chỉ có duy vuông, hoặc duy tròn, không cò tròn vuông nối kết để làm nhà cho con người. Ta gọi đó là du mục hay duy dương đực rựa, thiếu tình mẹ gọi bóng là thiếu âm, nên nói được đó là văn hóa thiếu cõi người ta, con người phải đi thuê nhà của trời hay của đất chứ không có nhà cho con người, nên văn chương tràn đầy tình tự than thở cảnh to vo cô độc gọi là cảnh thiếu nhà: homeless. Nên ghi trong Nho có hai chữ chỉ nhà là gia và thất. Gia chỉ con trai kép bởi miên là nóc nhà và thỉ là con heo. Chữ Thất chỉ con gái kép bởi ba phần: huyệt, công, thổ hợp với 3 tầng nhà: thiên, nhân, địa. Thiên chỉ bằng bộ huyệt là lỗ trống không Người được định nghĩa là tác viên, nên chỉ bằng bộ công là làm (công biến thể). Còn địa thì chỉ bằng bộ thổ. Cũng vì chữ thất chỉ con gái mà bài học làm nhà phải do Nữ thần mộc. Nữ thần ám chỉ cái cây trồng bên cạnh bàn thờ đã nói trên, đó là thứ cây đã đựơc các ông chống trời dùng tới nó chỉ chất linh thiêng, biểu thị bằng nét đứng, là cái thiếu trong chữ gia. Vì gia không được nữ thần mộc ra mẫu nên chỉ có mái nhà và heo, thiếu nét dọc tâm linh, không đáng gọi là nhà cho con người. Vì vậy nếu thiếu thất thì dù có gia con người cũng vẫn phải chịu cảnh màn trời chiếu đất! Thật đáng thương tâm! Đó là đại để cái bảng thiết kế làm nhà theo tinh thần Kinh Dịch. Cần để trước mặt mà nhắc nhở việc pha trộn tròn vuông thế nào cho ra “chu tri” của Đại Ngã. Phải có cả Hữu cả Vô mới ra được người viên mãn. Nói chung về Hữu thì dễ nên Dịch không nhắc tới, chỉ nhắm về Vô bằng hai chữ “Vô Vi” nhưng không nên hiểu vô vi là không có làm chi hết mà phải hiểu là trong việc làm phải có chữ Vô, tạm gọi là vô cầu hiểu là không cầu tư lợi như trong các việc nghĩa (làm vì nghĩa chứ không vì lợi riêng) những việc công quả, đáng góp cho các việc chung, những công khó xả thân vì nghĩa là lo cho đời… Riêng cho mình thì cũng cần một số việc có chữ Vô đó là những việc đàn, địch, hát, xướng, hobby, chơi… là những việc vô ích, nhưng vì có khả năng làm phát triển tình cảm, cũng như nhổ lòng ra khỏi đợt lợi hành nên lại là “siêu hữu ích”. Cuối cùng để cho chắc ăn thì phải dành ít thì giờ để hiện thực việc thực là Vô mà Lão Tử gọi là “vi vô vi” = làm cái không làm. Đó là phép An thổ: cũng gọi là tọa vong. Đây quả là việc hoàn toàn Vô tức là lối nhấn mạnh trên thế Vô quá lên để nhổ lòng ra không cho bám vào trần trược, nhờ đó giúp hiện thực đựơc như lời Kinh Dịch: “Bàng hành nhi bất lưu”. Còn nếu “bàng hành mà lưu tục” thì như thần Cộng Công không vào được trời. Cứ tưởng “núi bất chu” là trời mà thực ra chỉ là cột chống trời tức là cái tri phần mớ chỉ được một góc không phải “chu tri”, thế mà cứ húc đầu vào, tức cứ để trọn tâm hồn vào đây thì tất sẽ làm trời nghiêng đất lệch. Bà Nữ Oa lại phải nấu đá ngũ hành trát lại, nấu đá ngũ hành là “an thổ” đó. Tại sao phải là bà Nữ Oa mới trát lại được. Thưa vì hành thổ âm chỉ nội tâm nên phải là bà Nữ Oa. Chứ trao cho ông tứ tượng suy luận thì làm sao được. Trên đây là đại khái cái lược đồ (blue-print) của Nhà Con Người mà trong lễ gia quan cha nhắc nhở cho con phải ở, với câu “cư thiên hạ chi quảng cư” hay nếu nói theo cơ cấu là ở đời. 4. Cõi người ta Nói đến ở đời là nói tới vũ trụ quan đặc biệt có thể gọi là “cõi người ta” với bầu khí riêng biệt, đó là bầu khí an lạc vui tươi đáng gọi là sống như chơi. Chơi tự đầu chí cuối: từ Thượng Đế đến muôn loài đều chơi, Thượng Đế thì được gọi là “hóa nhi đa hí lộng”. Đây là quan niệm tuyệt đỉnh của An Vi về Thượng Đế. Hãy phân tích chữ An Vi. Vi là làm, còn an hay an hành là làm mà không bị động vì lợi, vì ép buộc mà thấy đáng làm là làm, làm vì nghĩa chứ không lệ thuộc lợi lộc. Làm được kiểu đó thì gọi là chơi chứ còn gì. Vì chơi chân thực thì không tìm cầu cái chi, mà chơi được như vậy thì chỉ có trẻ nít mới đạt độ trinh tuyền: chúng chơi là chơi không tìm cầu cái chi cả. Đó chính là đặc tính của Trời. Phải nói là Thượng Đế không biết tìm cầu. Ngài có thiếu chi đâu mà phải tìm cầu. Sở dĩ Ngài hành động không an nghỉ là bởi tác động cao hơn bất động, cũng như tác động không đối tượng cao hơn tác động có đối tượng (vì khi cầu đối tượng thì năng lực phải san sẻ vào đối tượng phần nào). Vậy nên nói “Hóa Nhi” hay “Con Tạo” là có ý chỉ sự không cầu một cái gì cả, y như trẻ nít vậy đó. Đặt Tào Hóa như con nít là có ý lấy đức tính trinh trong chứ Tạo Hóa khác con nít về đàng ý thức. Ngài chơi là sở dĩ đó là tác động cao hơn hết ở chỗ không cầu cái chi, cũng như nói Ngài là đấng tạo hóa vì hóa là một tác động cao hơn hết đòi nhiều năng lực tài giỏi nhất. Làm một cái gì mà bắt chước, hay lặp lại y mẫu thì bớt tốn công nhiều lắm, và rất nhiều người làm được vì nó không bắt phải nghĩ ngợi tìm tòi ra mẫu mực. Còn sáng tạo là cả một công trình vĩ đại mà rất ít người làm được, cho nên gọi Thượng Đế là “Hóa Nhi đa hí lộng” là câu định nghĩa của Ngài là một tác năng cao không còn thể nói gì hơn được nữa. Vượt xa mọi câu định nghĩa khác. Đã vậy còn là câu nói mở đường cho con người tác hành. Người là con của Trời, con thì phải cố mà giống cha hết cỡ. Chính trong ý đó mà Thánh Kinh nói hãy nên trọn lành như cha bay ở trên trời. Nhưng thế nào là trọn lành. Và phải quan niệm trọn lành của cha ra sao để con có thể bắt chước, nếu nói Cha toàn năng vô đối, khôn ngoan vô cùng, cao cả rất mực… thì đúng quá đi, nhưng với định nghĩa nọ liệu có gì cho con người bắt chứơc? Sức mấy! Chỉ còn việc ngợi khen vậy thôi, chứ bắt chứơc sao nổi. Đàng này nói Trời là đấng tác hành cao độ thì con người có thể bắt chước là cũng tác hành cao độ, vì thế mà định nghĩa ngừơi là tác viên: agent. Rồi cha tác hành cách vô cầu, thì con người cũng phải cố mà vô cầu gọi là an hành, phải đặt triết trên an hành và gọi là An vi. Rồi Cha “đa hí lộng” thì con cũng phải “đa hí lộng” nghĩa là lúc nào cũng phải hí lộng, mà cho được thế thì phải biến cả cuộc sống thành một cuộc chơi. Đó gọi là sống như chơi. Nhưng đời sống đầy trắc trở gian nan, tai ương, bão lụt với lòng ngừơi đầy nham hiểm thì làm sao an vui được. Phong dao nói “thế thượng bất như ý sự thập thường bất cửu” = trên đời mười việc mà không xảy ra như ý thì có đến tám, chín: thế mà bảo sống như chơi, xin đừng đùa dai nữa cụ ơi! Nói ông Trời bất nhân như Lão tưởng còn đúng hơn: vậy làm sao mà vui với Trời cho được. Thưa rằng tất cả những cái đó là do cái nhìn của con người bé nhỏ. Chứ có nhìn bao la theo tầm vóc vũ trụ thì sẽ thấy đời quả là một cuộc chơi, nhưng cần phải trình bày quặt quẹo một chút mới thấy được. Vậy Trời chính là “một khối linh quang vô cực vô biên” hay nói theo Kinh Dịch là “Thái cực sinh lương nghi, lưỡng nghi sinh tứ tượng”… cũng thế, tức Trời chỉ có là do sự giằng co giữa hai luồng linh lực gọi gồm lại là bên âm bên dương tức hai chiều trái ngược nhau, bên kéo xuống cũng cần như bên kéo lên. Cả hai đầu đều cần cho sự tồn tại của vũ trụ, của Thượng Đế, của muôn loài; nhưng khi ta nhìn theo lối bé nhỏ của tiểu ngã thì chiều ghì xuống trở nên đau khổ, tai ương, bão lụt, độc ác: còn bên kéo lên là hạnh phúc, an lành, may mắn… Ta có thể ví Thượng Đế như cái máy sinh điện vô cực vô biên có hai chiều: một chạy đi, một kéo lại, do sự căng thẳng đó mà sinh điện. Hết chạy là hết điện, Thượng Đế không khác chi, nên phải định nghĩa Thượng Đế là Tác Viên cùng cực, hay nói cho xác định hơn thì gọi Ngài là khối linh quang vô cực vô biên cũng vậy. Nói linh quang cũng là nói điển quang. Vì có điện là có sáng có động. Đấy là điểm một. Điểm hai về con người cũng là một tác viên hoặc nói theo tôn giào thì con người là con của Chúa. Mà Chúa là tác viên, là Tạo Hóa, thì con người cũng phải là tác viên, cũng phải là tạo hóa, tac viên con, tạo hóa con. Mà vì Cha là tay chơi, thì con cũng phải là tay chơi, tay chơi con tức là làm việc kiểu cao cả hơn hết. Việc chơi đó như thế nào thì cứ xem việc chơi của Cha được tả trong Kinh Dịch “sinh sinh chi vị dịch” sinh rồi lại sinh: đó là đạo Dịch, hay đó là đường tiến hóa. Nếu cần dùng hình bóng thì hãy tạm tưởng tượng như Thượng Đế đang chơi thể thao: 2 tay kéo một cái cao xu cho giãn ra cùng cực, cứ một tay kéo ra thì tay kia lại kéo về, thế gọi là một sinh và vừa hết cuộc sinh này lại gầy cuộc sinh khác. Mỗi cuộc sinh là một thế căng thẳng giữa hai thái cực. Vì đấy mà gọi là lưỡng nghi hay lưỡng cực. Nói theo kiểu nhân hình thì một cực là tốt lành vô cùng, cực kia là độc ác vô cực: không có như vậy thì hết còn là Trời bởi Trời chẳng qua là mối liên hệ giữa hai thái cực, bỏ đi một thì hết còn là Trời. Đấy là định nghĩa trung thực hơn hết về Thượng Đế, đó là cuộc sống chân chính của Ngài: sinh sinh chi vị dịch là thế. Nếu bạn không thích chữ sinh vì nghe bé nhỏ quá thì hãy gọi là một cuộc tạo hóa, trong đó con người cũng như vạn vật đều tham dự. Lúc kéo ra thì con người tự nhận đi ra chỗ cùng cực, tức xuống đến độ sâu nhất của vật chất như kim khí, rồi trở vào là đi lên qua các chặng từ thảo mộc, các loại cầm thú lên đến người: ngừơi cũng có ba loại lớn là quỷ nhân, thường nhân rồi thánh nhân, rồi thần nhân và lên mãi mãi. Lão Tử gọi là “các vật quy kỳ căn” = vạn vật đều trở về cội gốc tức trở về nguồn cội với hai tay ôm đầy biết bao trí, nhân, dũng. Trí, nhân, dũng đó là những thể tính của Thượng Đế nhưng được con người sát nhập vào mình, sát nhập được càng nhiều chừng nào thì càng gần Thượng Đế chừng ấy, mà cho được sát nhập thì phải học, phải hành, phải rút kinh nghiệm, phải trải qua cả đau thương khổ luỵ lẫn mừng vui an lạc, để có đủ hai chiều: thế mới gọi là biết cách “chu tri” mà chỉ có chu tri mới đạt tiến hóa cùng tột. Thế là ta có thể gói gọn vào câu sau là cứu cánh con người ở tại trở về bổn gốc, mà cho được về tận nơi thì con người phải có cái biết chu tri. Mọi vật trở về theo bản năng, còn con người thì phải đóng góp vào đó bằng phần ý thức. Phải nhận thức đựơc những việc nào quan trọng nhất có thể để gọi được là giúp nhiều nhất vào việc hiện thực cứu cánh cuộc đời mà tham dự, mà thúc đẩy. Và đó là trí, nhân, dũng, ngoài ra tất cả chỉ là phương diện để giúp mình phát triển trí, nhân, dũng. Đó là những giá trị đích thực, vì nó đưa con người đến gần Trời hơn cả. Trời là đấng vô hình nên chỉ có những cái gì vô hình mới đưa đến với Trời được. Ngoại giả những gì hữu hình đều không có giá trị nội tại mà chỉ là dịp để ta đạt những đức tính tinh thần kia. Vì những cái hữu hình thuộc cực kéo ra, thếm mà cuộc tiến hóa bắt con người phải đi vào, tức là tiến tới chỗ vô hình cùng cực. Vì thế nói kiểu thông thường là càng hữu hình càng xa Trời. Hệ luận của điều đó là giá trị không được tìm ở những vật hữu hình, nói cụ thể vào việc làm là không nên tìm ở đối tượng. Đối tượng cao quý đến mấy cũng chẳng là chi đối với Trời. Có to lớn tới đâu cũng chưa bằng trái đất, mà trái đất đã là chi với vũ trụ, mới là hành tinh nhỏ trong thái dương hệ: mới tính sơ sơ trong vũ trụ cũng có tới một triệu tỉ hành tinh như trái đất. Như vậy hỏi Trời có còn thiếu cái chi. Vì thế mà việc của Trời phải là an vi cùng cực, tức chỉ cầu nơi mình, không thể cậy dựa chi vào ngoại viện nữa. Người là con của Trời cũng phải vươn tới kiểu đó, phải tự lực tự cường, và đến đây ta hiểu tại sao Trời ít xài chữ cho không. Vì cho là làm trái với bản tính của ta. Bản tính đó phát sinh từ Trời nên cũng phải cầu nơi mình như Trời cũng như tự cường tự lực, nói kiểu siêu hình là tự thể (aseitas) tức tự mình hết không được cậy dựa vào cái gì. Con người chỉ khác có cái tiểu ngã vô thường tạm mang theo để tạo dịp cho con ngừơi tác động để được tiến hóa. Vì vậy mà nó muốn cậy dựa xin xỏ. Đó là do sự yếu của tiểu ngã. Nhưng muốn nên ngừơi cao cả, cần dẹp bớt tính ỷ lại đi lần lần, để cuối cùng đạt độ hoàn toàn tự lực cánh sinh. Có vậy mới làm cho con người giống với Trời. Để được thế thì bao nhiêu đối tượng dù cao mấy cũng phải tập coi như không, vì thế mà bảo phải sống như chơi. Sống như chơi là coi mọi đối tượng của công việc đời này không có gì là tuyệt đối quan trọng cả, cho nên việc cao hay thấp, lớn hay nhỏ, thành hay bại không phải là mục tiêu chính cốt. Chính cốt là phải lo xem xuyên qua những việc như thế mình chắt lọc ra được bao nhiêu kinh nghiệm bao nhiêu ý thức qua việc đó mình đã thi thố được bao nhiêu yêu thương, góp phần nhiều hay ít vào những việc nghĩa, những việc chung và hỏi xem xuyên qua những rắc rối, những người tính tình kỳ cục kia mình đã nhịn nhục được bao nhiêu, đã tha thứ được mấy độ v.v… Xem đời được như vậy gọi là sống như chơi, vì không còn lấy đối tượng hay thành bại là phần chính nữa. Phần chính nay đã để vào những cái đức vô hình. Sống như chơi là phải dựa tinh thần đó mà nhìn cuộc đời, coi đời như một chuỗi cuộc chơi, cái nọ ăn ngoàm vào cái kia, và đừng mong chúng đem lại chi ngoài một ít ý thức, một ít trí, nhân, dũng mà mình có thi thố trong cuộc chơi. Ta có thể ví các công việc trên đời như những viên cát được dã tràng tròn vo vất ra đó để rồi sóng biển xô lên đánh tan đi hầu dã tràng lại có dịp tiếp tục vo nữa. Người ta bảo: Dã tràng xe cát biển Đông Nhọc lòng mà chẳng nên công cán gì. Nói vậy là làm vì nhằm vào đối tượng mà lẽ ra phải xem vào việc vo tròn. Nếu vo vì ý cao thượng, vo cách hăng say. Vậy là có giá trị rồi chứ còn vo tròn cái chi, vo được cục to hay nhỏ, cục đó còn tồn tại lâu hay mau đều không quan trọng. Quan trọng là tác động có cao cả cùng với tấm lòng hăng say được đem vào việc vo tròn. Chính sự hăng say tận tuỵ mới làm cho tác năng chắt lọc được ít hay nhiều trí, nhân, dũng để tích luỹ lại làm vốn. Cái đó mới còn mãi mãi và nó giúp ta đi lên trong cụôc tiến hóa. Nhìn theo tư tưởng an vi đó thì đối tượng to hay nhỏ, sang hay hèn cũng chỉ là các bụi, có vo tròn mấy rồi nước lại giùa cho tan đi, cốt để cho các dã tràng lại có cát vụn sẵn mà vo nữa, vũ trụ này là vũ trụ đẹp nhất trong các vũ trụ có thể nghĩ ra được: nó đẹp ở chỗ không bao giờ thiếu job cho con người được định nghĩa là tác viên. Đến đây ta có thể hiểu được tại sao trời ít ưa cho không ai cái gì, cũng không dựng nên vũ trụ ngon lành hơn cho con người hưởng mà lại cứ để cho đời thêm rắc rối, đau thương, đầy khổ luỵ, là cốt tạo nhiều dịp cho con người thi hành trí, nhân, dũng. Nếu mọi sự xảy ra như ý thì không còn dịp tạo nhiều điều kiện như nay được. Người xưa nói “hình bất sầu tư bất viễn” = thân xác không trải qua sầu khổ thì đường tư duy không thể thâm viễn. Xem gương lịch sử các triều đại lớn cứ mấy ông vua tổ thì đức độ tài ba, nhưng càng về sau các vua kế vị càng sa sút là bởi con cháu được sống trong nhung lụa an nhàn, không như tiên tổ phải nằm gai nếm mật, gian lao tân khổ, không giống như “cổ chi thánh hiền giai ngộ khốn cách chi nạn”, nên trí, nhân, dũng thui chột dần. Người Việt quãng sau này thấy nảy ra được nhiều tay giỏi thì hẳn cuộc chiến lâu dài phải có phần trong đó. Đau khổ là những cú thúc đẩy sinh lực tiến lên. Những điều bất như ý là xăng nhớt để xe tiến hóa chạy, cho nên tả phải khen ngợi Thượng Đế đã dựng lên được một vũ trụ đầy ắp job: không một ai thiếu dịp phải cố gắng hoặc làm việc hoặc chịu đau khổ, tức không ai trách không cho mình dịp lập công. Việc thiện có đầy. Bê bối ở đâu cũng ngập, người Việt đã lập ra cả trăm tờ báo mà chửi chửa hết. Vẫn không thiếu đề tài. Trời khá thiệt. Hiểu được như thế rồi thì ta cũng hiểu luôn tại sao Thượng Đế không thể giúp ta tiến được. Vì nếu người giúp ta có khác chi ông giáo ra bài cho học trò, rồi bảo học trò đi nằm ngủ để ông làm thế cho. Nếu có ông giáo nào xử như vậy thì ta phải cho là ông cù lần hay mát gì đó. Trời mà giúp ta là tu thay cho ta thì cũng như vậy tức làm ta mất hẳn dịp gia tăng trí, nhân, dũng và không sao tiến được. Như vậy nên biết rằng không thể có “hoàng kim thời đại” trọn hảo cũng như không thể có cảnh tiên bồng nước nhược, vì nếu có thì bước tiến hóa sẽ chậm hẳn lại. Thế giới bê bối sẽ mãi mãi bê bối, vì đó là chương trình của vũ trụ đẹp nhất khi nhìn bao trùm toàn thể vũ trụ trên con đường tiến hóa. VII. TẠI SAO CHÚNG TA CẦN PHẢI TRỞ VỀ VĂN HÓA DÂN TỘC Muốn hiểu thế nào là văn hóa dân tộc và tại sao chúng ta phải vận động cho sự lớn mạnh của nền văn hóa đó thì cần xét tới mấy yếu tố sau đây: trước hết nên phân loại các thứ văn hóa để nhận diện nền văn hóa truyền thống, sau nói tới tình trạng hiện nay và khả năng hướng vọng tương lai như thế nào. Có thể phân văn hóa ra ba loại chính và một loại tuỳ. Ba loại chính là tôn giáo, ý hệ và tâm linh, còn loại tuỳ là tập hợp cả ba loại trên. 1. Loại nhất là Văn hóa tôn giáo như các xã hội cổ xưa hầu hết trải qua nền văn hóa này. Thí dụ rõ rệt là Âu Châu Trung cổ và các nước thuộc Ấn Độ giáo. Sở dĩ gọi là văn hóa tôn giáo vì các thể chế trong nền văn hóa này bao giờ cũng y cứ trên những niềm tin, thí dụ thể chế chia dân ra bốn loại bên Aán Độ: tăng lữ, chiến sĩ, thương gia và lao động là y cứ trên niềm tin rằng có nhữn người sinh ra do Brahma và do đấy được xếp cao thấp tuỳ sinh ra bởi miệng, tay, bụng, chân của Brahma. Hễ sinh ra từ miệng thì làm tăng, bởi tay là quý tộc, bởi bụng là thương gia v.v… Bên Âu Châu thời tiền cách mạng tôn giáo không còn mạnh bằng bên Ấn Độ nên phẩm trật xếp quý tộc trên giáo sĩ, rồi mới đến đệ tam cấp (noblesse, clergé, tiers état). Một nét khác đặc trưng của nền văn hóa này là thần quyền, tức niềm tin rằng mọi quyền cai trị đều phát xuất do nguồn gốc tôn giao nên một là giáo sĩ trực tiếp cai trị, hai là uỷ quyền cho thế quyền. Sự uỷ quyền này thường được diễn ra bằng trao triều thiên, thí dụ khi vua đăng quang thì nhận triều thiên từ đại diện giáo quyền. 2. Loại hai là Văn hóa ý hệ hay là triết học. Ý hệ thường là sự phản ứng lại niềm tin cho là vô lý hay ít ra không thể kiểm chứng, vì vậy người ta lập ra một nền văn hóa chống lại tôn giáo và thường có tính cách vô thần, thí dụ rõ nhất là ý hệ Mác xít. Cũng có khi không do óc bài tôn giáo, nhưng vì ích lợi quốc gia, thí dụ để tránh những xích mích do các tôn giáo cùng sống trong một nước thì người ta nghĩ đến việc thiết lập một nền tảng dân sự hay là độc lập y cứ trên những cái mọi người có thể kiểm chứng như sự kiện khách quan và lương tri, thí dụ một số lớn văn hóa Âu Châu hiện đại. 3. Loại ba là Văn hóa tâm linh là loại tham bác cả tôn giáo lẫn triết học. Nó giống triết học vì căn cứ trên những yếu tố mà lý trí có thể kiểm chứng hay ít ra có khả năng thể nghiệm được. Tuy nhiên lại giống tôn giáo vì nó vận dụng cả tình cảm và ý chí đến cùng tột gọi là tâm linh nên sâu hơn triết và vì thế giàu khả năng thống nhất con người như kiểu tôn giáo. Loại này vì giàu yếu tố tâm linh có tính chất siêu việt nên tôi cũng gọi là Minh Triết (Sagesse) tức là tinh hoa của triết lý nhân sinh. Gọi là triết lý tức là triết học gắn liền với Minh Triết nên ăn vào đời sống. Bởi thế cũng gọi là triết lý nhân sinh để phân biệt với triết học thường chỉ là chuyện trường ốc hàn lâm. Như thế đây là loại văn hóa rất cao quý. Và xin nói ngay rằng Việt Nho đã đạt được trình độ này. Dấu hiệu là sự phân công: “sĩ, nông, công, thương”, khác với Âu, Ấn chỉ có “tăng, quý, dân” mà không có sĩ đại diện cho tâm linh. Vì sĩ không phải như trí thức chuyên chú về lý trí, giáo sĩ chuyên về tình cảm, còn kẻ sĩ thì chú ý đến cả lý cả tình. Vì thế đó là nét đặc trưng ít có ở nơi khác; ngoài Nho giáo nguyên thuỷ thì Âu hay Ấn đều đang vương vấn nơi tôn giáo hay ý hệ. Nhưng vì cả hai không ổn nên gây ra một loại văn hóa thứ tư. Đó là loại pha tạp ba loại ảnh hưởng của tôn giáo, ý hệ và công cảm hay lương tri. Loại này đã muốn vượt ra khỏi vòng tay tôn giáo, nhưng về triết mới đạt đợt ý hệ mà bất lực như đã nói trên nên phải dùng công cảm (le sens commun) cũng gọi là lương tri (le bon sens) hoặc là công luận (hậu quả của lương tri) cả ba đều là những khía cạnh của một bình diện trí thức thông tục ban ra cho con người xài đỡ, nhất là trong việc sinh sống với chiều hướng thông thường biểu lộ bằng ca dao tục ngữ hay là minh triết thường dân, thường nghiệm (sagesse populaire or sagess empririque). Nó tạm đủ cho đời sống hàng ngang trong xã hội, chứ không thể giải quyết được những vấn đề lớn lao như nguồn gốc vũ trụ, cứu cánh con người, những vấn đề thời gian không gian nên nhà Phật chỉ gọi là “tục đế” (cái biết thông tục), Nho không gọi là “lí trí”. Vì không bao quát toàn thể con người gồm cả thân xác lẫn tâm linh. Bởi thế phải nói là nó thiếu hướng thiếu hồn, chỉ có tính cách chấp và: chọn một ít luân lý của tôn giáo, với kinh nghiệm thông thường và một chút lý luận của triết học làm thành loại văn hóa tạp nham, và đó là nền văn hóa Âu Mỹ hiện đại. Vì Âu Mỹ lãnh đạo thế giới nên nó cũng đang trở nên văn hóa của chung thế giới với nhiều sắc thái khác nhau tuỳ liều lượng các chất pha, nhưng đều gặp nhau ở chỗ bác tạp nông cạn, nên gây ra phân hóa trầm trọng khắp nơi. Đó là đại để bốn loại văn hóa. Bây giờ xét sâu hơn về phương diện mục đích của văn hóa. Sứ mạng văn hóa là phải cải hóa bằng cảm hóa. Muốn thế cần có một chủ đạo, một cơ sở tinh thần với những giá trị nền tảng. Dấu hiệu của những cái đó là thống nhất và lâu dài. Vì thế ta có thể dùng sự thống nhất và lâu dài làm hai tiêu chuẩn đo lường sự xâu xa của một nền văn hóa. Một nền văn hóa càng được thống nhất và càng được bền lâu thì càng mạnh càng cao. Theo đó ta có thể nói như thế này. Xuyên qua lịch sử loài người, ta chỉ nhận ra được có hai loại văn hóa mạnh nhất: một là tôn giáo, hai là tâm linh. Vì cả hai hàm chứa một cái gì siêu việt nên huy động toàn thể con người, gây nên những văn hiến hay tôn hiến (tức tu sĩ) và cũng huy động toàn thể một nhóm người cấu kết với nhau. vì thế khi cần chọn văn hóa thì chỉ có thể tìm trong hai loại này. Loại tôn giáo có phần mạnh hơn nhưng gặp cái bất tiện là chỉ hiện thực được trong nước có một tôn giáo. Còn khi nước có đa giáo, 2, 3 trở lên, thì nền thống nhất văn hóa không thể thực hiện được nữa. Bởi vì tôn giáo nào cũng kéo theo một số tập tục riêng, thí dụ Hồi giáo không ăn thịt heo, Aán giáo không ăn thịt bò. Có tôn giáo ăn chay, tôn giáo khác lại ăn mặn thả dàn. Đó là những tập tục tư riêng mà nếu không bỏ đi thì đấy là nguồn chia rẽ. Người xưa nói: “tính tương cận, tập tương viễn”: khi người ta chú trọng đến tính con người thì sẽ thân cận hòa hợp với nhau. Còn khi chấp nê vào những tập tục thì sẽ chia lìa nhau. Đó là chân lý muôn thưở và đã hiện thực trải qua nhiều đời như thấy đầy gương trong lịch sử và hiện còn đang xảy ra đó đây như giữa Kitô giáo và Hồi giáo bên Phi Luật Tân (tỉnh Coxabato), bên Irlande từ mấy năm nay hai bên Công giáo và Tin lành không ngớt đánh nhau, bên dân Biafra ở Phi châu năm xưa giữa Công giáo và Cổ giáo, bên Aán Độ giữa Aán giáo với Hồi giáo… Tóm lại nếu đưa mắt nhìn xuyên qua lịch sử nhân loại thì bao giờ cũng thấy nghi ngút khói chiến tranh tôn giáo, không bộc lộ thì âm ỉ… điều ấy chứng minh cho câu “tập tương viễn”. Muốn thống nhất thì phải làm thế nào cho các tôn giáo từ bỏ những tập tục tư riêng kia, nhưng đấy cả là một điều diệu vợi vì những tập tục đó đã gắn liền với tôn giáo từ lâu nên được coi là linh thiêng hoặc như tín điều bất khả thay đổi, không dễ gì bỏ đi được như ta thấy rõ trong vụ giết bò cái đã làm xôn xao dư luận Aán Độ năm xưa. Thế mà duy trì tập tục thì lại là mầm mống chia rẽ dân con trong nước, vì thế những người sáng suốt muốn để tôn giáo vào phạm vi riêng tư cá nhân. còn phạm vi quốc gia thì cốt phát huy một nền chủ đạo dân sự, tức độc lập với tôn giáo, hầu làm chỗ đứng chung cho mọi người dân bất cứ thuộc tôn giáo nào. Đó là điểm cần cho hết mọi nước đa giáo mà cũng là điều mà các quốc gia Tây phương đã nhận thức và khởi công từ hai thế kỷ nay, nên dẫn đến cái mà tôi gọi là: Nền văn hóa ý hệ hay là triết học xây dựng hoàn toàn trên lý trí bên ngoài ảnh hưởng của tôn giáo. Lý do thì chính đáng nhưng không may đó lại là một lối cụt, bởi chưng triết học căn cứ trên lý trí và lương tri. Nhưng vì đó là những cơ năng hạn hẹp nên dễ sinh ra độc hữu. Với con người tư riêng là dùng có lý gẩy bỏ tình nên không gây nổi văn hiến tức cán bộ hay tông đồ trung thực mà chỉ tạo ra được có trí thức ít đi được vào đời. Còn đối với tha nhân thì là thiếu thống nhất vì có quá nhiều ý hệ, thí dụ Aâu Tây hiện nay là Mácxít, Hiện sinh, Hiện tượng, Cơ cấu v.v… Đó là cạnh thập nhị sứ quân tất nhiên sẽ đưa đến chỗ bơ vơ không biết theo hướng nào, vì quá nhiều hướng, quá nhiều ý hệ. Nếu như ý hệ nào nhờ hoàn cảnh mà nắm được chính quyền thì sẽ giở trò độc quyền như Phát xít hay Cộng sản là bóp nghẹt tự do cá nhân bằng công an vòng trong vòng ngoài, bằng những trại giam đồ sộ để cầm tù không ai muốn tín nhiệm nữa. Thế là dẫn đến cái thứ văn hóa tạp hợp. Gọi thế vì nó vô hồn vô hướng, và có gọi là văn hóa chẳng qua vì thói quen chứ không phải văn hóa, mà chỉ là văn học, văn chương, văn nghệ, bởi để được xứng danh là văn hóa thì phải có chủ đạo, có cơ sở tinh thần, có những giá trị nền tảng. Vì không thể thì làm sao mà cảm hóa để mà cải hóa. Văn hóa Tây âu hiện thiếu cái đó nên mắc cả ngàn thứ bệnh (nói như Jung: Our own western culture sickens with a thousand ills). Đó là lý do tại sao Nietzsche gọi văn hóa Tây Aâu là sự trống rỗng tinh thần (Nihilisme occidental). Tuy nhiên, đó chỉ là tiếng tri hô của giới thức giả rất hiếm họa. Còn đại chúng kể cả giới trí thức thì vẫn đi theo nền văn hóa tạp hợp này. Sở dĩ như vậy vì các nước Aâu Tây cường thịnh không bị nước nào đe dọa về kinh tế, chính trị, lại có khoa học tiến bước huy hoàng khiến cho hầu hết tưởng văn hóa Aâu Tây đã là lý tưởng. Nhưng đó là một niềm tin tai hại. Vì khi không đủ những điều kiện giàu sang như Tây Aâu mà cũng đòi theo lối văn hóa Tây Aâu thì sẽ phơi trần bộ mặt thực phũ phàng tàn tệ như thấy ở vài nơi chẳng hạn El Salvador: tài sản trong nước thu dồn vào tay một thiểu số may mắn khiến cho đại chúng lâm cảnh sống bần cùng nên đâm ra đủ các tệ đoan: trộm đạo, tham nhũng, và các tội ác đến độ trầm trọng. Xét tới xét lui thì chỉ còn thể đặt hy vọng vào nền văn hóa tâm linh và đó cũng chính là nền văn hóa dân tộc ta: chỉ có hướng đó là có thể giúp văn hóa tránh được những bất tiện và bao gồm được những ơn ích. Nhưng hiện nay chúng ta đã để mất vì mấy lý do thuộc thời thế sau: Thứ nhất vì Nho giáo là cột trụ nền văn hóa tâm linh đó lại không còn chính truyền vì đã bị Hán Nho xuyên tạc nên bị ngộ nhận rất nhiều và do đó đã không được chú ý đến. Cho được chú ý đến, cần phải khám phá ra Nho giáo nguyên thuỷ mà tôi cũng gọi là Việt Nho, nhưng đó là điều cho tới nay chưa ai làm được. Thứ đến vì nền văn hóa tâm linh chỉ xuất hiện bên Á Châu nên không được chú ý săn sóc là vì Á Châu đã thụt lùi trong nền văn minh cơ khí nên tất cả nền đạo đức cổ truyền cũng bị đánh tụt giá xuống theo. Chính vì thế mà ngay những nước thuộc văn hóa Nho đã không còn thiết tha đến Nho nữa. Có nói tới thì cũng chỉ như một môn cổ sử trong văn học dành cho một số rất nhỏ nhà chuyên môn. Vì thế mà đi đến một thứ văn hóa tạp nham. Hiện tình văn hóa Việt Nam Như trên đã nói, văn hóa tạp nham có nhiều tiểu loại, nên ta cũng cần biết văn hóa ta hiện nay thuộc tiểu loại nào. Muốn nhận diện một nền văn hóa thì có hai tiêu chuẩn khá trung thực: a. Một là xét nội dung chương trình giáo dục. b. Hai là xét việc định giá các thành phần xã hội. Về chương trình giáo dục thì nội dung sâu thẳm là nền chủ đạo hướng dẫn chương trình đó. Thí dụ nước ta xưa là Nho giáo mà vì Nho giáo đã đạt tâm linh mà tôi cũng gọi Văn Tổ tức là thứ văn cao cả huy động toàn thân tâm con người nên có hững người i hiến thân tâm cho thứ văn hóa đó và gọi là văn hiến, nứơc ta xưa kêu là “văn hiến chi bang” là vì thế. Còn tự khi mất nứơc vào tay Pháp thì ta cũng mất luôn nền độc lập văn hóa và tự đấy húng ta đã đi theo văn hóa Pháp nghĩa là tạp hợp vì không có chi gọi được là chủ đạo. Chỉ có một số ý kiến triết được cho học ở lớp đệ nhất trung học thì phần lớn chỉ là luận lý (logic) vô sắc thái, còn khoa luân lý (morale) thì là lịch sử những học thuyết về luân lý: ông nói thế này, bà nói thế khác, học xong không biết theo cái nào. Cho nên phải kết luận đó là nền giáo dục vô chủ đạo và bộ giáo dục thực ra chỉ là bộ học vấn lo truyền thụ một số tri thức bất kỳ nào cũng được miễn là tri thức. Bây giờ bàn đến điều hai là việc định các thành phần xã hội. Khi nước ta còn độc lập, còn là văn hiến chi bang thì đẳng cấp giá trị thành phần xã hội là sĩ, nông, công, thương. Quan trọng nhất là sĩ nhì nông. Đấy là một bậc thang giá trị lý tưởng thuộc nông nghiệp lúa mễ của Văn Lang quốc. Vì là Văn Lang hay sau này là văn hiến nên đặt kẻ sĩ làm đầu. Đó là bậc thang duy nhất trên hoàn cầu ở hai điểm: một là kẻ sĩ đứng đầu, liền sau là nông đúng vị trí văn hóa nông nghiệp vốn trọng Minh Triết. Các văn minh Aâu Aán vì gốc du mục nên đặt quý tộc đứng đầu, nhì đến giáo phẩm… Bên Aán thì tăng lữ đứng đầu nhì đến quân đội… Ở cả hai nơi không có sĩ, cũng không có nông: quả là du mục, rõ nhất là Aán với những cấp tăng, võ, tài, công. Bên Aâu thì quý tộc nổi nhất, rồi đến giáo sĩ, sau đến đệ tam cấp gồm phần nhiều thương gia. So vậy mới thấy bảng sĩ, nông, công, thương là nét đặc trưng cao quý của ta xưa là Minh Triết hay tôn giáo. Nông là nền tảng kinh tế xã hội với nền tảng dân chủ không tên nhưng chân thực vì không có quý tộc truyền dòng mà chỉ có kẻ sĩ do dân xuất hiện. Thứ tự trên đã được hiện thực là kẻ sĩ vẫn làm quốc sư, cố vấn, và làm quan cai trị. Đó là những người như Bá Lý Hề, Lã Vọng, Nguyễn Trãi v.v… Platon đã ước ao triết gia làm vua nhưng không bao giờ hiện thực được. Là bởi triết lý đã không đạt, lại còn mong ước quá cao ở chỗ đòi làm vua. Bên Nho chỉ xin làm cố vấn, làm quan, triết lại đạt thân nên đã hiện thực suốt mấy ngàn năm tự ngày khai quốc. Mãi cho tới thời kỳ Pháp thuộc thì mới bị xếp xó để chỗ cho thứ tự mới là “dân thầy, dân thợ, dân chợ, dân quê”. Thầy đây chỉ là thầy thông thầy phán, một thứ công chức tuỳ phụ giúp chính quyền bảo hộ chứ không có đạo lý nào như kẻ sĩ. Còn vai chánh là thợ, với dân chợ tức thương gia. Đúng là du mục. Nông thì bay mất, chỉ còn lại nơi chữ dân quê, hiểu là quê mùa so với tỉnh thành văn minh (được gọi là dân chợ…). Đến đời Mỹ văn hóa xuống một đợt nữa với cấp bậc mới là “nhất đĩ, nhì cha, ba sư, tứ tướng”! Nghĩa là xếp theo số tiền kiếm ra được… Ta có thể dùng chữ đĩ làm một phẩmtừ để chỉ văn hóa bác tạp đến độ đánh đĩ với hết mọi nẻo mà không có chi là trụ cột. Nếu có trụ cột thì sự thu thập trở nên phong phú, còn thiếu trụ cột thì thu thập trở nên bác tạp. Không còn chi đáng tên cột trụ ngoại giả ít tôn giáo những chỉ kể tới như thế lưc chính trị. Vì vậy cuốicùng là nhà binh tức du mục. Thế là những người di tản chạy ra nước ngoài với gia tài đã bị phân tán cùng cực như trên thì còn trong tay cái chi nếu không là mấy mảnh vụn chứ có cơ sở tinh thần, có phương thức bao quát chi đâu để mà gọi là Đạo, là chủ đạo. Có cố cứu vớt cũng chỉ được có văn và sử thiếu phần u linh được biểu lộ trong kinh và triết. Vì thế nay nếu chúng ta không làm một cố gắng vượt bực thì sự lăn trên dốc phân tán càng ngày càng chạy theo dà gia tốc, vì văn hóa thiếu hai yếu tố rất quan trọng là thống nhất và trường cửu. Cái đó chỉ thể tìm trong tâm linh, nó cụ thể là trong bộ sách có cả kinh lẫn triết. Hai điều đó chỉ có thể đạt được bằng một cố gắng phi thường. An Việt muốn thử làm chuyện này. Chúng tôi hy vọng hồn thiêng sông núi còn đủ mạnh nên còn nhiều những bậc trí giả trong nước hiểu tầm quan trọng và tiếp tay. VIII. ĐƯỜNG VỀ TRIẾT LÝ ƯU VIỆT Triết lý ưu việt là nền triết nổi vượt trên hết mọi nền triết khác, nổi vượt không vì chèn ép hay đàn áp đối phương, nhưng là nhờ có nội lực thâm hậu, với cái nhìn bao trùm khắp hết. Hỏi rằng trong nhân loại đã có nền triết nào được như thế chăng. Và thiếu nó thì tình trạng văn hóa nhân loại sẽ ra sao? Đó là điều chúng ta thử đi tìm. Trước hết hãy đặt lên văn hóa con người cái nhìn thăm hỏi thì thấy văn hóa nhân loại hiện nay đang đong đưa giữa hai gọng kìm nhất, đa đầy đe dọa: một bên là độc nhất chuyên chế, bên kia là “đa phương” vô hướng vô hồn. Muốn tránh cảnh vô hướng vô hồn thì lại phải bật sang bên độc nhất chuyên chế mất hết tự do, muốn có tự do thì lại lâm vào nạn đa phương. Hết đa phương lại rơi vào nạn độc tài đàn áp; cứ quanh quẩn như thế mà không làm sao tìm cho ra được đường lối vừa có thống nhất, mà lại có hướng có hồn, tức vừa có tự do mà vẫn biết nơi chốn để lòng hướng tới. Thành thử cứ đong đưa giữa hai gòng kìm. Và cứ sự thì một nửa nhân loại đã bị cộng sản khống chế bắt theo có một hướng duy nhất, nên là cái hướng ngạt thở không còn gì là tự do. Trái lại theo Tây Aâu thì được hưởng chút tự do nhưng lại nằm trong tình thế vô hồn vô hướng, thường gọi là sự trống rỗng tinh thần, hay còn gọi kiểu sang trọng là đa phương: thực tế là những nhà lãnh đạo chẳng biết theo hướng nào. Thôi thì mặc ai nấy lo, nên là lung tung đủ hướng. Vì thế “đa phương” đang được nhân loại theo chẳng đáp ứng được gì cho những nhu yếu thâm sâu của con người: như chiều hướng đi lên, hoặc nhu cầu hòa giải giữa khoa học với tôn giáo cũng như thống nhất con người, thống nhất giữa Đông Tây kim cổ… mà đó là một nhu yếu cần thiết rất mực ngang với khao khát tự do vậy. Cho nên ta thấy người Aâu Tây có một mối cảm tình thâm sâu với cộng sản, là vì nó có một cái mà họ thiếu đó là có hướng, chẳng may đó là hướng đi vào ngọ cụt, thành ra không dám theo. Vấn đế là làm thế nào tìm ra cho nhân loại một hướng đi, để có thống nhất mà lại vẫn giữ được tự do. Đó là vấn đề cần thiết nhưng xưa nay không được đặt ra cách minh nhiên, nhưng cách mặc nhiên thì vẫn có sự náo nức đi tìm nền thống nhất, và nếu tìm ra được nền triết nào có thể gây được thống nhất mà vẫn chấp nhận các triết khác thì chắc chắn họ sẽ đón nhận, họ còn nóng lòng đón nhận là khác, đếnnỗi trong thực tế họ đã tôn vinh triết Nho lên địa vị ưu thắng mặc dầu chính Nho giáo còn rất thiếu sót không làm được gì để đáp ứng sự đề cử kia, vì chưa nhận thức ra vấn đề cũng như chưa nhận thức ra được cả nét đặc trưng của mình với những khả thể của nó. Thành ra coi việc chọn kia như một biến cố hàn lâm văn học, không biết làm âm vang vào đời sống. Nếu thực nhận thức ra thì biết nhân loại hiện đang cần một nền triết lý ưu việt, tức nền triết có sức đem lại thống nhất cho con người mà đồng thời không bóp chết tự do của nó. Chính vì không nhận thức được như thế nên đã có ghế sẵn để trống cho triết ưu Việt và đã gọi ra tên triết đó rồi, chỉ còn đợi triết đó ra nhận chức, nhưng Nho đã không ra cả đến như không nghe biết đến việc đề cử quan trọng kia nữa. Đó là đại lược tình trạng văn hóa loài người cũng như tình trạng của Nho mà tôi có liên hệ đến theo chiều hướng Việt Nho. Theo đó thì Nho chỉ là sự công thức hóa của Việt đạo, cho nên việc gì liên can đến Nho cũng là liên can đến Việt. Vì thế mà tôi đã chọn đề tài trong hướng nọ với tự đề tại sao Nho đã đựơc chỉ định là triết lý hướng đạo mà lại không ra nhận chức. Và câu thưa là tại Nho học tới nay chưa khai thác hết khả thể của mình. Nói theo sách vở là Nho học từ trước tới nay cả Tàu lẫn Tây mới đi được có đợt từ còn ba đợt nữa là tượng, số, chế thì bỏ bê. Điều đó ngầm hiểu rằng cần phải có Nguyên Nho mới làm nên chuyện. Bài II bần về Nguyên Nho là gì? Thưa đó là thứ Nho khác với Hán Nho đã bị bẻ quặt, Nguyên Nho còn giữ tính chất chính truyền của nó. Để nhận diện Nguyên Nho chia nó ra ba giai đoạn là Hoàng Nho, Di Nho và Việt Nho. Hãy khởi tự mới đi lên xưa đó là Việt hay Bách Việt mà trước kia người Tàu gọi Man là Di, “Tứ Di”. Tổ tiên của “Tứ Di” là Tam Hoàng (Phục Hy, Nữ Oa, Thần Nông). Vì thế thay vì nói Việt Nho suông tôi chia ra Việt Nho, Di Nho, Hoàng Nho cho dễ chứng minh… Tôi biết bài hai này sẽ gây hoang mang rất nhiều nơi người Việt và hơn nữa nơi người Tàu, nhưng với học giả quốc tế về Nho thì không có gì lạ lắm. Vì sau những công trình nghiên cứu nghiêm chỉnh của các đại học giả Chavannes, Cranet, Creel, Bishop, Owen Lattimore, Eberheard, Wang-Kuo-Wei, Kuo-Mo-Jo v.v… thì đã được chứng minh rõ nước Tàu chỉ xuất hiện từ tộc Thương mà cũng mới về chính trị, chứ về văn hóa mới có khác với Di Nho có tự nhà Aâu. Khác ũng chỉ chừng 30%. Còn bao “vua” bao “đế” trước đều là mới tạo ra về sau đời nhà Aâu. Oâng Đại Vũ tạo dựng do nhà Aâu. Nghiêu Thuấn là “Đông Di chi nhân”, ngũ đế cũng là thế. Tộc Thương nhà Aâu đều tự Đế Cốc mà Đế Cốc là người Tứ Di (cho nên dòng dõi là Văn Vương cũng là “Tây Di chi nhơn”). Quách Mặc Nhược cho rằng Đế Cốc có bốn vợ: con bà vợ cả là tổ nhà Aâu, con bà vợ thứ hai là tổ tộc Thương, con bà vợ ba là Nghiêu, con bà vợ tư là Đế Chí (trung theo Owen Lattimore trong Inner Asian frontiers of China p.287). Có thể nói tất cả các đế đều là Di nên tên cũng đọc theo lối Việt là Đế Cốc, Đế Chí, Đế Nghiêu, Đế Thuấn, mà không là Thuấn Đế, Cốc Đế theo kiểu Tàu. Còn trên nữa như Phục Hy, Nữ Oa, Thần Nông thì toàn là người Hoài Di, tức Di Việt mà huyền sử Việt gọi là Châu Dương. Trên cùng Bàn Cổ là người Lưỡng Việt. Một phần còn đâu đó trong rừng núi Quảng Đông, có họ Bàn, cũng đọc là Bàng như Hồng Bàng và Bành như Bành Tổ. Tóm lại Tàu chỉ có tự tộc Thương lối thế kỷ 15, 16 cùng lắm là đến thế kỷ 20 gồm cả “tộc Hạ”. Nghĩa là đến rất muộn sau khi Nho giáo nguyên thuỷ đã hình thành đâu vào đấy với ba bộ số 2, 3, 5. Tuy Nho nguyên thuỷ cũng nói được là tổ của Tàu, nhưng Tàu đã tự tách mình ra khỏi tổ chung, khi gọi tổ bằng tên khinh rẻ là Tứ Di, và sự thực thì đã từ bỏ linh hồn Nguyên Nho khi: a. Từ bỏ lưỡng nhất tính của số 2. Dấu hiệu là chỉ nhận có một vật biểu: trước là bạch hổ sau là rồng (bỏ mất chim = tiên) ghé sang du mục. b. Từ bỏ số 3 nhân chủ khi thiết lập xã hội có nô lệ, hạ đàn bà. c. Từ bỏ tâm linh số 5 khi sử ký hóa huyền thoại hoặc giải nghĩa theo ma thuật dị đoan. Vì thế nếu Việt không nhận Nguyên Nho là tổ mình thì té ra Nguyên Nho trở nên vô thừa nhận hay sao. Các điều trên đã được các khoa tân nhân văn phanh phui. Bây giờ chỉ còn cần biết Nguyên Nho đã đóng góp những gì. Câu thưa nằm trong ba bài III-IV sau. Bài III nói về cơ cấu uyên nguyên của Hoàng Nho là ngũ hành như được biểu lộ trong các tên sách của Hoàng Nho đã mất là “tam phần, ngũ điển, bát sách, cửu khâu”. Ngũ hành ở đây khác hẳn với Hán Nho, tức Ngũ hành được coi là cơ cấu uyên nguyên và được dùng để giải nghĩa “5 huyền thoại sáng thế ký” của Nho mà cho tới nay chưa ai giải nghĩa đúng: Chu Nho thì gạt bỏ huyền thoại bằng lịch sử hóa (Euhemerization). Aâu Nho thì giải nghĩa kiểu ma thuật vong thân. Tây Nho thì chê hai lối trên là sai nhưng không đưa ra được lối giải nghĩa nào gọi là trúng. Việt Nho đưa ra lối giải nghĩa vừa hợp cơ cấu, vừa hợp môi sinh tinh thần là nhân chủ An Vi. Bài IV về Kinh Dịch. Việt Nho đưa ra một điều chưa hề ai dám nghĩ đến bao giờ là lên án Chu Dịch coi như ấn tích của sa đọa làm cho Nguyên Nho bị bẻ quặt. Muốn có Dịch chính truyền phải tìm trong ba giai đoạn đầu của Kinh Dịch: một là Dịch trời đất trong các huyền thoại có tính cách lưỡng hợp như Sơn Tinh Thuỷ Tinh hay tiên rồng. Hai là Dịch Phục Hy trong “tiên thiên bát quái” với sự đối đáp của bốn mặt dọc ngang và xéo: đất đối trời, lửa đối nước, gío đối sệt, núi đối hồ. Thứ ba là Dịch của Đại Vũ trong Cửu Lạc tức là số 5 hợp với số 4 mà thành nên số 9 xếp đặt hết sức cân đối, nên người đời gọi là “ma phương” vì cộng chiều nào cũng được 15, ý nói cộng chiều nào cũng xuyên qua lý Thái Cực (biểu lộ bằng số 5). Cho nên những người đem hậu thiên bát quái lồng vào Lạc Thư là tiếp nối cái tầm bậy của hậu thiên, vì sự đối đáp của hậu thiên bát quái không đi qua thái cực (được có 1 lần là li khảm). Bài V về Minh triết trống đồng. Trống đồng cũng có một cơ cấu y như ngũ hành và Kinh Dịch. Điều này chứng tỏ địa bàn tổ của Triết Việt rộng mênh mông vì những lâu đài văn hóa xa cách nhau như Kinh Dịch, Lạc Thư, Trống Đồng mà vẫn ăn khớp với nhau trong cơ cấu. Aên khớp rõ rệt hơn cả nằm trong chữ Trống đưa lại cho Việt Nho một sự bình quân cao độ cần phải phân tích mới nhận ra đại khái như sau: Văn minh Tây Aâu căn cứ trên có, trên hữu. Khoa siêu hình là hữu thể học. Aán Độ căn cứ trên không (advaita) nhà Phật gọi là Thái Hư. Việt căn cứ trên Trống tức cả có lẫn không. Đó là ý chữ Trống. Vì trống là phải có cái gì mới trống không được. Phải có cái hang mới có hang trống không Phải có cái động mới có cái động trống không Phải có cái trống mới có cái trống trống không… Cha ông ta thờ trống và gọi là Trống Thần chính vì chỗ có mà không đó, bởi không mới là thần vì đây là thứ không chân thực phải không đó, bởi không mới là thần vì đây là thứ không chân thực như diệu hữu. Vì hữu chân thực phải gồm vô, vô chân thực phải gồm hữu thì hữu với vô mới có tính cách vô biên. Nếu vô mà không bao gồm được hữu thì bị cái hữu nó giới hạn. Hữu cũng thế nếu không bao gồm được vô thì bị vô nó giới hạn. Chính điều vi tế này (vô bao hàm hữu, hữu bao hàm vô) có trong cả ba lâu đài văn hóa Nguyên Nho là Ngũ Hành, Kinh Dịch, và Trống Đồng. Trong Ngũ Hành là hành ngũ gọi là “hành vô hành, địa vô địa” tức có mà như không. Trong Kinh Dịch với Thái Cực Đồ (có) bao hàm vô cực (vô) với câu thời danh “Thái cực nhi vô cực”. Còn Trống thì như đã phân tích trên phải có cái gì mới trống không được. Tóm lại cả ba lâu đài đều hàm tàng cái không cũng như cái có chân thực. Đó là điểm hầu như khó tìm thấy trong các triết lý khác. Điểm đặc trưng này đem lại cho Nguyên Nho một chiều kích mới tôi gọi là tâm linh. Chính yếu tố này làm thành nét dọc đi lên chốn cao siêu để tạo điều kiện cho nó trở nên ưu thắng, đang khi các triết học ý hệ chỉ có hàng ngang lý trí không đạt được vị trí ưu thắng. Như vậy chỉ còn phải xem xét Việt Nho có lấy lại được phong thái nguyên thuỷ tức lấy lại được chất tâm linh chăng, vì tâm linh làm cho nền triếtnào có nó trở thành một hệ thống rộng lớn có thể dung nhiếp được hầu hết các triết học khác, là những thuyết chỉ xuất hiện như những phần mớ của nền triết ưu việt. Bởi thế mà nó gặp rất ít chống đối. Vì các triết khác đã được bao hàm trong nó, chỉ còn lại một thiểu số không đáng kể tuy có chống, nhưng phần lớn là chống trong một vài điểm lẻ tẻ không thể làm sứt mẻ nổi cái nội lực thâm hậu của nền triết ưu việt, nên nó khỏi cần đối thoại. Vì thế mà nó tạo được nền thống nhất mà vẫn không bóp chết tự do suy tư của người khác. Cái thắng của nó gọi là ưu thắng, tức một thứ thằng không cần chiến: “bất chiến tự nhiên thành” như trường hợp triết Nho không hề tranh đấu thế mà các triết học gia hội tại Honolulu khi không bầu lên chức ưu Việt ngay khi Nho chưa chuẩn bị. Các triết học khác như của Tây Aâu thiếu chất tâm linh vì còn nằm trong đợt ý hệ. Mà dấu của ý hệ là duy nào đó. Đã duy thì đâm ra tính độc hữu rồi chuyên chế nên vừa không bao quát rộng đủ, vừa bóp ngạt tự do người khác, nếu không thì lại rơi vào loại đa phương vô tích sự. Đó là gọng kìm của văn hóa Tây Aâu không tìm ra lối thoát giữa đồng nhất chuyên chế một bên và tự do vô hướng vô hồn một bên, thành ra họ bỏ bê triết mà theo lương tri thông thường: kết quả là đưa văn hóa vào chỗ trống rỗng. Đại để đó là căn bản của quyển Triết Việt nhập môn. Bây giờ chỉ còn phải thêm vào ít bài để giới thiệu khuôn mặt của triết Việt Nho cho thêm đầy đủ. Những bài đó sẽ là: IX. Quan niệm An vi về cứu cánh con người X. Quốc tuý quốc hồn trong ba ngày tết. XI. Văn hóa dân tộc. XII. Thư gởi anh em bốn bể… Những bài trên đây đều chứng minh rằng nền triết đã hiện thực trong dân gian Việt chính là nền triết đã ăn tự thẳng của Hoàng Nho, Di Nho nên nó có đủ đức tính ưu thắng gây dựng được một lối sống thanh thoát như chơi, đầy ca nhạc, vũ, với quan niệm về cội gốc muôn loài như “hóa nhi đa hí lộng”. Theo đó thì việc tưởng như nghiêm chính cực kỳ mà vẫn được coi như trò chơi, nên rất uyển chuyển không có chi đáng phải bi thảm, khắc nghị, độc chuyên… Dọc dài qua năm ngàn năm lịch sử không bao giờ người Việt thấy phải cần tranh đấu cho quyền tự do tư tưởng, tự do tôn giáo… Cho nên khi những người học Tây đem điều đó nói cho dân chúng nghe thì dân chúng coi như một chuyện lạ lùng có lẽ cần cho bên Tâyhay đâu chăng chứ ở đây thì đó là chuyện đương nhiên không thành vấn đề bao giờ. Có thể một đôi người đưa vụ Phật Giáo bị bách hại ra làm vấn nạn, cho rằng Nho còn đàn áp Phật như vậy thì không xứng danh là triết ưu việt. Bởi triết lý cũng như đạo lý nào bất cứ, nếu đó phải dùng đến độc chuyên đàn áp thì tự biểu lộ mình ra là triết lý tồi không xứng danh triết lý ưu việt. Vì ưu việt bao giờ cũng dung nhiếp tức để cho người ta sống với, và không nghĩ đến chỗ cao thấp chi cả. Về điểm này chúng tôi đã viết tự năm 1969 trong quyển Định Hướng Văn Học tự trang 183-187 xin được trích ra ở đây. “Có người cho rằng sở dĩ Viễn Đông không tiến triển, triết lý Đông phương còn trong giai đoạn ấu trĩ thì tại “trăm nhà đều nín tiếng nín hơi ở dưới ách chuyên chế của học thuyết Khổng Mạnh mà thế lực nó đã hầu như là một thế lực tôn giáo, do các vua chúa cầm quyền che chở. Vì vậy mà sau đời tác giả (là Đổng Trọng Thư, người đã đề nghị lấy Nho giáo làm quốc học) trăm nhà đã hợp nhau đấy! Đã hợp nhau lần vào núi, rừng mà luyện thuốc, tu tiên, để nhường chỗ cho đạo thuật của các kẻ sĩ ở Trâu Lỗ đấy.” (Nhượng Tống, Nam Hoa Kinh tr.515). Những lời trên đây phản chiếu một tâm trạng hốt hoảng của giới trí thức Viễn Đông vì đau xót thấy mình thua kém Tây Âu nên hễ thấy ai hoặc hoặc thuật nào liên hệ đến tình trạng này thì đều lên án gắt gao. Riêng với vấn đề thống nhất đang bàn ở đây thì đổ cho ách chuyên chế của Nho giáo. Vụ án này gây nên do giả thuyết làm việc của một hai học giả Tây phương rồi được Hồ Thích dựng lên làm như chủ thuyết để truyền bá ra, gây ảnh hưởng vào các người trí thức Viễn Đông. Từ đó mọi người đều lặp lại những ý nghĩ của Hồ Thích như vừa trưng trên kia: chưa có đủ an tĩnh để xét lại vấn đề. Nói rằng triết Đông còn ở trình độ ấu trĩ thì phải nói “ấu trĩ” về phương diện nào, cần chỉ rõ ra. Vì quả thật có một hai khía cạnh ấu trĩ nhưng hầu hết là của các Nho gia hạng nhì chứ nếu xét đến những tay tổ thì không ai dám nói thế, ít ra những nhà nghiên cứu danh tiếng nhất. Bảo triết Đông là ngây thơ chỉ là việc của những người nghiên cứu nửa vời, rồi được tiếp tay do những trí thức loại Hồ Thích, toàn dùng phạm trù triết Tây bàn về triết Đông thì tất nhiên là thấy nó ấu trĩ. Thế rồi thổi phồng vụ án áp chế bách gia, mà không xét đến các sự kiện lịch sử khác. Chúng ta cần nêu ra ở đây một hai điểm để độc giả thấy sự làm việc của giới trí thức trước hời hợt như thế nào. Thí dụ trước hết đạo sĩ vào rừng tu tiên có ngay từ đời Tần và Hán sơ, nghĩa là lúc đạo Lão còn nắm then chốt của nền văn hóa, chứ không phải đợi đến lúc “bãi bỏ” bách gia, chư tử không còn đất sống mới phải vào rừng. Đời Hán đã có hối lỗi vì đạo tiên rồi… Thứ đến là vụ án do Hồ Thích thổi phồng lên chứ trong lịch sử không có chuyện ức chế, trái lại tam giáo đồng nguyên mới là chuyện nổi vượt hơn. Còn chọn đạo này theo đạo kia hoàn toàn do khuynh hướng tư riêng. Thí dụ: Tống nho, Minh nho, Trình tử, Chu Hy hay Vương Dương Minh có ai bó buộc họ phải theo đường nào đâu. Trái lại hầu hết đều có nghiên cứu cả ba đạo giáo và trong chương trình hầu hết đều ghi tử (kinh, sử, tử, truyện) nghĩa là có dành chỗ cho bách gia. Nếu như nhà nào không đứng nổi là tại nội chất không đủ sức sống như trường hợp nhóm Công Tôn Long, Huệ Thi theo Mặc Địch. Đừng nói đến Phật triết, Lão Trang triết, ngay đến Phật giáo, Đạo giáo cũng vẫn được tự do, đôi khi có sự đàn áp thì hầu hết do hai phe kình chống nhau. Lấy thí dụ 4 lần Pháp nạn của Phật giáo mà nói thì lần thứ nhất đời Hiếu Võ Đế (446) do đạo sĩ Khấu Thiên Chi xúi giục, nho sĩ Thôi Hạo chỉ có một phần. Lần thứ nhì, Võ Đế, Bắc Chu năm 561 do đạo sĩ Trương Tân. Lần thứ ba, “Hội Xướng pháp nạn” đời Võ Tôn (năm 842) do đạo sĩ Phó Tụy. Lần thứ tư Thế Tôn nhà Hậu Chu (944-960) thì pháp nạn gây nên phần lớn không vì sự va chạm ý hệ nhưng do vấn đề kinh tế, có lúc đến ¾ ruộng đất đứng tên nhà chùa được miễn thuế: chính quyền chỉ còn thâu thuế trên ¼ đất ruộng, đã vậy tiền thuế thu được còn phải dùng đến 1/5 để nuôi hơn 20 vạn sư ni… Lần pháp nạn thứ năm là do Hồng Tú Toàn (1850) chịu ảnh hưởng độc chiếm của ngoại lai, thì đả phá tất cả tam giáo, chưa không riêng chi Lão Thích mà thôi. Xét trong năm lần pháp nạn, chỉ có lần đầu tiên có môt nho gia, còn tất cả do đạo sĩ. Nhưng do nho sĩ hay đạo sĩ thì đó cũng chỉ là hạng thấp chứ không phải việc của Nho học, Đạo học. Chúng tôi chỉ có ý nói lên sự thong dong không những dành cho sự học “bách gia chư tử” nhưng còn cả cho những hình thái biến thể của các đạo giáo đó nữa: tất cả đều được sống mạnh, mạnh đủ để chửi nhau, đánh nhau huỳnh huỵch rộn ràng qua hai ngàn năm chứ có bị đàn áp đâu? Sở dĩ phải nói hơi dài đến chuyện này vì thống nhất rất quan trọng cho vận mạng nước nhà đang lúc cần phải mạnh mà thực tế lại quá phân hóa, nên muốn sống còn chúng ta phải tìm phương thế thống nhất lại, nay nếu vì một hai e ngại không đủ nền móng mà không thiết lập nổi thì tổ quốc chúng ta trở nên miếng đất trống mặc sức cho triết thuyết nào đi lại thao túng tuỳ ý, kể cả những triết thuyết tiền hô cho cộng sản. Đấy là điều ta cần nhận thức rõ rệt để có thể thoát ra khỏi tệ trạng “đa phương” hiện nay. Hậu quả của cảnh “đa phương” thì như Việt ngày nay đã mất nước. Rõ ràng đã mất nước chính bởi mất đạo. “Đạo mất trước nước mất sau”. Cũng phải nói như thế về Tàu và cả Tây Aâu nữa. Tàu tuy không mất đất đai, nhưng bị hướng dẫn do triết ngoại lai thì còn tệ hơn xưa khi Mãn Châu bắt Tàu để đuôi sam. Nước Tàu lớn là thế mà có cái đầu không giữ được: hết Mãn bắt để đuôi sam thì đến Các Mác bắt phải đội đất (duy vật). Hậu quả là người dân Trung Quốc bị mất hết tự do, không được suy tư như tiên tổ. Như vậy có nước cũng kể như mất nước. Tây Aâu cũng vậy, tuy đất nước không mất, nhưng chỉ còn đó như một thực thể kinh tế, chính trị, chứ thiếu đạo lý để làm thành quê hương tinh thần. Những tâm hồn đại trí tức những người có khả năng làm văn hiến để biết rõ điều đó nhưng không sao thoát ra được. Vì một đàng không dám chọn một triết nào làm chủ đạo: bởi có quá nhiều, mà xem ra hơn kém như nhau. Đàng khác nếu đánh liều chọn một thì sẽ lâm vào tai họa rất khó gỡ ra đó là tai họa “Thượng Đồng”: người trên bảo là phải thì mọi người buộc cho là phải; người trên cho là trái là trái, bất kể sự thực ra sao, Các Mác đã nghĩ sao thì cứ thế không được thay đổi. Thay đổi chăng là trong những đường lối cai trị, chứ còn độc hữu chuyên chế thì vẫn y nguyên tức thực sự không có sửa sai, nên không có đường thoát ra khỏi tai họa. Cộng sản vô tình đã hiện thực câu truyện ẩn dụ về triết gia rơi xuống giếng mà không biết đường thoát ra khỏi giếng. Như vậy muốn thoát ra khỏi cảnh bầy nhầy vô hồn vô hướg chỉ có thể tìm về nẻo triết lý ưu việt. Thứ này vừa chỉ ra đường lối vừa vẫn để cho mọi người tự do. Chính vì đức tính bao dung quảng đại này nên người ta không sợ mà lại tự nguyện chọn như hội nghị Honolulu 49 đã làm đối với triết Nho. Bây giờ chỉ còn chờ ngày nào Nho đưa ra được một tập đại thành mới “a new body of teaching” hợp cảm quan thời đại thì nhân loại sẽ dần dần có được nền thống nhất, để gây nên cảnh tứ hải giai huynh đệ. Một tình huynh phổ biến đáng lẽ ra phải có rồi giữa loài người với nhau, nhưng cho đến nay đó chỉ là chuyện mơ ước suông chứ trong thực tại toàn thấy máu chảy thịt rơi giữa những con người đồng bản tính mà lại coi nhau như địch thù, không phươngnào chấm dứt được. Đưa mắt tinh thần nhìn bao trùm toàn thể nhân loại từ xưa tới nhay ta thấy đã có ba loại đường lối được đề ra để giải quyết: một là bái vật, hai là ý hệ, ba là tâm linh. Thời bái vật đựơc thay thế bằng tôn giáo nhưng nhiều tôn giáo hiện thực những lễ nghi rùng rợn, như cảnh giết từng trăm trẻ trong lòng tượng đang cháy đỏ… và năng xảy ra các cuộc chiến thánh cho mãi tới nay dầu đã là thời ý hệ lý trí mà vẫn chưa sao chấm dứt được, như đang thấy bên Ireland, Phi Luật Tân hay Aán Độ nơi mới xảy ra vụ mưu sát thủ tướng Gandhi… Biết bao người muốn cho nhân loại vượt qua giai đoạn này vì cái tai họa do nhiều tôn giáo gây ra làm tâm trạng duy ngã độc tôn. Tâm trạng độc hữu này tất dẫn đến sự muốn tiêu diệt những người không tin tưởng như mình. Chính vì thế mà phần lớn nhân loại đã bước vào giai đoạn ý hệ mong giải quyết mọi việc theo lẽ phải, theo lương tri để cứu tự do cho con người. Nhưng lại lâm nạn đa phương “cá đối bằng đầu” chẳng biết đâu là hướng tiến. Thế là lại nảy ra những chủ thuyết chuyên chế đưa đến nạn đồng nhất, kéo theo tai họa chuyên chế toàn triệt còn trầm trọng hơn thời toàn tôn giáo, tất nhiên vẫn xảy ra chiến tranh lạnh hay nóng như ta thấy giữa con người ngày nay, nhân loại vẫn phải đong đưa giữa hai gọng kìm đó: một bên là đồng nhất chuyên chế, bên kia là đa phương vô hồn vô hướng. Hội nghị quốc tế triết học Honolulu 1949 đã đề cử Nho giáo đứng ra lãnh vai trò hòa giải nhân loại để thiết lập nền thống nhất. Câu tuyên bố trên chứng tỏ lương tâm nhân loại đã không còn đặt tin tưởng được vào hai giai đoạn trên nữa, nên không một tôn giáo hay một triết gia nào được đề cử mà lại đi đề nghị Khổng Tử, một người coi như sút kém hơn nhiều vị trên thế giới, nhưng lợi được một điểm, một điểm thôi là ông đại diện cho nền triết lý ưu việt tức là nổi vượt xa hơn tất cả những phương thức của hai đợt trên ở chỗ vừa tránh được tai họa chuyên chế độc tôn, cũng như tai nạn đa phương thiếu hướng, mà lại đưa ra được nền thống nhất. Làm được thế là nhờ nó là nền triết lý nổi vượt xa các thuyết trái ngược, nên chinh phục được có lẽ tới 70,80% bậc đại trí, chỉ còn lại thiểu số dị thường làm thành một ít môn phái được gọi là bách gia chư tử, nhưng Nho vẫn nổi vượt quá xa nên bách gia có đả kích sao cũng không quy tụ đủ đồ đệ để lung lay được nền thống nhất, mà chỉ đưa ra được những lời cảnh cáo nhiều khi rất cao sâu nên có ích để nhắc cho bên Nho đừng có rơi vào tâm trạng độc tôn duy ngã, không còn biết coi ai ra gì, và Nho đã giữ được. Đó quả là cảnh thống nhất đã ngự trị trong các xã hội Việt Nho. Tuy không phải được thế là hết chiến tranh, nhưng ít ra tránh đựơc những cuộc thánh chiến hay chiến tranh vì ý hệ. Và con người có được hưởng nền thống nhất tinh thần đem lại cho tâm hồn trạng thái an nhiên tự tại xa hẳn tâm thức xao xuyến bất ổn ngày nay. Nhưng chẳng may đạo đó mà tôi gọi là Việt Nho nay đã mất, nên chúng ta cần làm phục hoạt trở lại. IX. TRỐNG ĐÔNG SƠN GỌI HỒN AN VIỆT Bài nói chuyện trên Oregon cuối tháng ba năm 1985 Chúng ta mất nước tại ai? Tại Pháp tại Mỹ hay tại Việt? Đó là điều đã được bàn cãi nhiều mà chưa hẳn ngã ngũ, và giả có biết rõ tại ai cũng không mấy ơn ích. Việc ơn ích và thiết thực hơn là tìm ra căn cơ sâu xa đã làm chúng ta mất nước để ta có thể tác động vào đó được. An Việt cho rằng vấn đề cuối cùng phải xét trên bình diện ý thức hệ hay là triết lý đó là điều mới nghe có vẻ xa lạ. Vì nói về triết chẳng mấy ai muốn nghe. Vậy mà nay lại nói là chúng ta mất nước vì thuyết lý cộng sản. Nhưng đó là điều dễ hiểu khi chúng ta thấy cộng sản bao giờ cũng mở đầu cuộc chinh phục bằng truyền bá triết. Cho nên kết luận được rằng chúng ta mất nước là tại thiếu triết đủ mạnh để chống lại thuyết lý cộng sản. Tóm lại nó gọn được rằng “Đạo mất trước nước mất sau”. Cho nên nay muốn cứu nước thì trước hết phải cứu đạo. Có cứu được đạo chúng ta mới có chủ đạo để cứu quốc, kiến quốc. Còn nếu không thì chưa nói đến cứu quốc mà hãy nói ngay đến việc bé nhỏ hơn vừa tầm tay hơn là xây dựng cộng đồng Việt Nam hải ngoại cũng chưa đạt. Mà chưa có cộng đồng thì nói chi đến duy trì cộng đồng. Người ta chỉ duy trì cái đã có. Nay chúng ta chưa có cộng đồng Việt Nam hải ngoại. Tuy rằng số di tản đã lên tới cả triệu nhưng chỉ là một lũ đông vô tổ chức, vô hướng vô hồn. Tuy có hội đoàn, có báo chí, nhưng chưa có một cơ chế ràng buộc những hội đoàn hay những cộng đồng địa phương lại với nhau thì phải kể là chưa có cộng đồng Việt Nam hải ngoại. Ta quen nói làng nước. Hiện chúng ta mới có làng chưa có nước. Nước bên nhà đã mất vào tay thuyết ngoại lai, còn nước hải ngoại thì chưa có, tức chưa có cơ chế nào chung cho cả mọi người để gọi được là thay mặt người Việt và khi người ngoại bang muốn nói chuyện với Việt Nam thì biết đâu là đại diện. Đó là đề tài tôi muốn nói chuyện với quý vị hôm nay. Trước hết hãy nói về Đạo. Đạo đây là Việt Đạo, tức nền đạo lý mà tổ tiên ta đã sáng nghĩ ra và duy trì qua nhiều ngàn năm để kiến quốc và báo quốc. Đạo đó đã được kết tinh trong nhiều điển chương văn hóa, mà nổi vượt hơn hết là Trống đồng Đông Sơn. Đó là một lâu đài văn hóa hàm tàng tất cả đạo lý tiên tổ ta. Hôm nay tôi xin rút ra một bài học lớn lao hơn hết mà lại có thể giúp vào việc đoàn kết chúng ta đó là cảnh Thái Hòa. Xem trên mặt trống ta thấy cảnh hài hoà vui sống: tất cả người cả vật đều đang ca vũ trong một tinh thần hoan lạc, an vui khói đất mù trời. Xét cả hàng ngang lẫn hàng dọc đều thấy có sự hòa hợp thống nhất trọn vẹn. Hàng ngang là những con vật đều theo thứ lớp tề chỉnh và luôn luôn cân đối: chim đứng chim bay, con to con nhỏ, số chẵn số lẻ (trên mái nhà bên này 1 con bên kia 2 con) hươu cái hươu đực v.v… Còn hàng dọc là Trời, Đất, Người. Trời là mặt trời ngự giữa mặt trống. Đất đại diện bằng hai vòng chim hươu ngoài cùng. Còn Người đang ca múa tưng bừng ở vòng giữa. Đó gọi là cảnh Thái Hòa: hòa trên đợt cùng tột bao gồm cả Đất, Trời, Người, tức là cảnh hòa bao la rộng lớn cùng cực không thể nào có cảnh hòa lớn hơn được nữa, cho nên các nhà khoa học khi nghiên cứu về trống đồng thì gọi đó là nhạc khí vũ trụ, hoặc là tiêu biểu đức hòa hợp phổ biến. Bây giờ ta hãy đi tìm căn nguyên gây nên cảnh Thái Hòa nọ. Thưa căn nguyên đó nằm trong chữ Trống. Phải! Chính chữ trống mà tổ tiên ta đã dùng để chỉ di vật tàng chứa phần sâu xa nhất về Đạo Việt, cả không lẫn có, cả tiên lẫn rồng, cả vô cả hữu. Và quả đã thể hiện tuyệt vời là trên vô dưới hữu, trên tiên dưới rồng. Đã có người giải nghĩa việc Aâu Cơ lên núi, Lạc Long Quân xuống biển như là sự chia rẽ có tính cách sử mạnh, nghĩa là truyền óc chia rẽ lại cho con cháu không bao giờ đoàn kết lại được. Đó là câu giải nghĩa liều lĩnh không theo khoa học tức giải nghĩa cái to bằng cái nhỏ. Người Việt chia rẽ nhiều là điều có thực, nhưng phải giải nghĩa bằng sự kiện lịch sử kéo dài đó là “ngàn năm đô hộ giặc Tàu, 80 năm bóc lột giặc Tây, 60 năm điên đảo giặc Hồ”. Chứ còn tiên rồng là một trang huyền sử u linh phải giải nghĩa theo môi sinh tinh thần của Văn Lang Quốc, của Đại Việt tộc mà nét đặc trưng vô cùng cao quý là lưỡng nhất tính. Nét đó đòi phải có hai mà một. Tức không phải cái một đồng nhất nuốt trôi bên đối ngẫu, mà là cái một thống nhất: đôi bên vẫn giữ được cá tính của mình, cho nên truyện kể 50 con theo mẹ lên núi, 50 con theo cha xuống biển. Đó không là chia rẽ mà là phân cực. Nếu chia rẽ trên cấp nguyên lý này thì sẽ nghiêng sang bên âm là duy âm. Còn đây là âm dương hòa, tức Aâu Cơ vẫn gặp Lạc Long Quân trên “cánh đồng Tương”. Nói cánh đồng Tương là nói lên mối tương quan nền móng. Cái đó vẫn giữ được. Cho nên ghi việc hai tổ tiên chia tay chỉ có ý nói lên sự phân cực của lưỡng nhất tính (dual unit): hai mà là một; nói sông núi là nói một nước, nói mẹ tiên cha rồng tuy hai mà một. Còn nói tiên trứơc rồng là vì văn hóa Việt tộc đề cao nguyên lý mẹ (nói kiểu thường là “phù yểu”: nâng phía yếu lên trên, đặt âm trứơc dương, vợ trước chồng nên đưa mẹ lên núi để cha xuống biển. Trong trống có hai phần: mặt và tang thì mẹ được diễn tả trên mặt trống, nên ta thấy toàn chim. Còn bố Lạc Long Quân ở dưới tang chỉ nước biểu thị bằng thuyền rồng, đó không là chia rẽ mà là phân cực: mặt khác tang, nhưng cả hai hợp nhất làm nên cái trống để chỉ một đạo lý cân bằng họa hiếm: không nghiêng sang một bên, không duy thiên cũng không duy địa. Duy thiên là duy tâm, duy địa là duy vật. Duy tâm hay duy vật đều là bệnh hoạn nền đều có hại cho con người. Chỉ có giữ được cảnh Thái Hòa bao gồm cả trời đất mới có được cuộc sống an vui thư thái. Trời phải ở trên, đất ở dưới, nói bằng số là trời 3 đất 2, có vậy mới đạt cảnh Thái Hòa. Đó là nền đạo lý cao cả ít có nơi đạt được. Ngoại giả là Nho giáo mà tôi gọi là sự công thức hóa đạo lý của Việt, tức Nho chỉ là đạo Việt được đặt vào những lời ngắn gọn dễ truyền tụng gọi là bi kí. Sau đó thì đạo Trống được sách Trung Dung công thức hóa vào câu sau. Trung dã giả thiên hạ chi đại bổn dã. Hòa dã giả thiên hạ chi đạt Đạo dã. (T.D.10) Trung là cái gốc của cái cội của Đạo. Hòa là cái thành tựu của Đạo. Trên mặt trống chính là cái Hòa hay là cái đạt Đạo, cái hoa trái ta thấy được. Còn khi tìm cho ra nguồn gốc cái Hòa thì phải tìm dưới tang trống, chính đó là chữ Trung là cái mắt ta không thấy được. Nhưng khi đạt được đúng cái Trung như căn do, thì sẽ đạt được cái Hòa như thành quả, nhờ đó mà biết Trung đi tới đâu. Vì thế sách Trung Dung thu gọn câu trên vào ba chữ “Chí Trung Hòa” rồi quảng diễn thêm rằng: “thiên địa vị yên, vạn vật dục yên”. “Chí Trung Hòa” là ba chữ tóm thâu Nho giáo cũng là Việt giáo đã được công thức hóa. Trong quyển Chữ Thời tôi có quảng diễn câu Chí Trung Hòa thành câu “có chí trung thì mới có chí hòa”. Nói khác muốn chí hoà thì phải chí trung. Chí trung là việc tâm tư cảm nghĩ ta không kiểm kê được, vậy ta nên căn cứ vào cái hòa bên ngoài, là cái Đạo đã đạt được mà đo lường cái trung. Về phần đạt Đạo sách Trung Dung đưa ra hai câu, một trừu tượng là “thiên địa vị yên”, một cụ thể là “vạn vật dục yên”. “Thiên địa vị yên” là có trời có đất đúng vào địa vị của mình, đó là trời trên đất dưới, nói cụ thể là việc trời hay việc thiêng liêng phải được coi là quan trọng hơn việc thuộc đất. Nói theo Kinh Dịch là “tham thiên lưỡng địa” = 3 trời 2 đất. Ta quen nói chữ “tâm” kia mới bằng ba chữ tài là thế. Ở đây tâm thay cho trời nên phải bằng ba, có vậy thì công hiệu mới trông đạt được là “vạn vật được nuôi dưỡng”: “vạn vật dục yên”. Câu cuối cùng này rất sâu xa bao gồm cả ba bình diện siêu hình, tâm lý, xã hội. Ơû đây chỉ nói về mặt xã hội tức được nuôi dưỡng. Trên mặt trống mọi người và các con vật đều đang ca múa tưng bừng thì hiểu được rằng tất cả đều được sung túc thỏa thuê vì có thế mới ca múa được. Cho nên cảnh ca múa kia chứng tỏ cho biết đạo lý của họ bao gồm cả đất cả trời thì mới được vậy. Nho nói là trời đất có ở vào đúng vị trí thì mọi người mọi vật mới được nuôi dưỡng. Mới đoc câu trên ta tưởng đâu đó chỉ là câu nói văn chương không có nội dung gì cả, kỳ thực đem câu đó mà soi vào các xã hội cổ sơ thì thấy nó thật cùng cực thí dụ Aán Độ nghiêng về trời mà hụt đất, hay xã hội cổ La Hy nghiêng về đất hụt trời thì vạn vật không có dục yên tức ở hai xã hội đó của cái giồn vào chừng ¼ dân số, còn lại ¾ không có gì nên gọi là vô sản. Vô sản thì đâu có được gọi là nuôi dưỡng. Đã thế vô sản còn là vô tự do, vô phẩm giá phải làm nô lệ, bị coi ngang hàng với sự vật. Bên Aán Độ hay Aâu Châu cổ đại đều thế cả. Còn nay thì cộng sản vô sản hóa toàn dân thì dân cũng mất tự do, nhân phẩm và trở nên nô lệ. Đấy là tư nhân, mà cả đến nước cũng thế. Ta thấy trong thế giới Cộng sản không nước nào là đủ ăn đủ mặc: kinh tế vẫn bết nát, đến nỗi nhiều người chống cộng phải lấy làm lạ. Vì trước kia nhiều người chống cộng chỉ vì nó nô lệ hóa con người mà thôi, chứ chính sách kinh tế của chúng thì cho là hay lắm. Đến nay mới thấy cả về phương thức kinh tế của chúng cũng dở ẹc, càng ngày càng xuống dốc, nhiều người lấy làm lạ chưa hiểu lý do, mà thực ra lý do sâu xa nằm ở chỗ thiên địa bất vị yên, nên vạn vật không có dục yên. Đó là câu sách nhiều người tưởng là vô thưởng vô phạt ai ngờ nó chính là câu nói thực muôn đời. Ngừơi theo cộng sản sẽ không chịu chấp nhận như thế nên cố đổ lỗi hết cho Mỹ nguỵ hoặc thiên tai, thì đến quản trị kém… Đó chẳng qua là lấy cái tuỳ để che cái chính, chứ cái căn do thất bại nằm ngay trong thuyết duy vật: tức không có trời. Nói cụ thể là cộng sản chủ trương tam vô: không tôn giáo vì chúng cho là rềnh rang vô ích, cũng không gia đình, không tổ quốc, không tình người, không tình nước, không tình nhà, mà chúng cho là những cái không sản xuất nên cần trừ đi hết thời để hết thì giờ vào việc sản xuất vào việc kinh tế. Việt cộng tin rằng nếu làm như thế thì nước sẽ giàu thịnh gấp bội. Chúng đã hứa là sẽ làm cho nước Việt Nam giàu thịnh gấp mười lần hơn xưa. Trước đây chúng tin thực như thế vì chúng chỉ nghĩ rằng quốc gia theo thuyết 3 trơi2 đất mà còn được bằng ấy tài sản thì nay chúng bãi bỏ 3 trời để giồn cả vào một cho thành 5 đất, thì của cải phải gấp nhiều lần là cái tất nhiên. Đó là cái làm căn để mà nếu không từ bỏ thì cộng sản không đời nào thoát khỏi bế tắc kinh tế. Điều này càngngày càng được chứng tỏ ở hết mọi nước cộng sản bó buộc chúng phải sửa sai mới tạm sống. Cộng sản đang vô tình chứng minh cho câu nói “một người khéo lo bằng một kho người khéo làm”. Mà khéo lo cùng cực thì phải lo cho có cả trời cả đất; duy đất hay duy vật là vụng lo thì có làmhết sức cũng vẫn không đủ ăn. Điều đó nhắc nhở ta rằng khi lìa đạo lý, xả bỏ những giá trị tinh thần là điều hết sức nguy hiểm ngay cho đời sống kinh tế. Chúng ta chống cộng nhưng biết bao người cũng lầm lẫn nghĩ rằng tinh thần có thì hay không cũng chẳng sao. Chứ có ngờ đâu rằng nó có sao ngay đến miếng ăn. Có người bảo phải thực mới vực được đạo, thế rồi lo cho cái thực ráo riết đến nỗi khi có thực rồi thì quên luôn đạo. Tai họa trước sau sẽ tới. Cho nên tất cả mọi người phải minh tâm khắc cốt rằng: một người khéo lo bằng một kho người khéo làm tức là tư tưởng chỉ huy còn quan trọng hơn là khéo làm. Tư tưởng mà sai thì có làm quần quật như cộng sản đã bắt dân làm suốt ngày cũng không bao giờ khá được. Cái khéo léo, khéo nghĩ là phải nghĩ sao cho có cả trời lẫn đất, cả có lẫn không như trong Đạo Trống. Bây giờ cần quy định thế nào là tinh thần đạo Trống. Kinh Dịch đưa ra câu định nghĩa thần cách tuyệt vời là thần vô phương. Thần không có ở nơi nào riêng cả. Vì thần là không, không là thần, co cần chi đên nơi riêng. Như vậy chữ tinh thần hạn hẹp vào những việc tôn giáo liên hệ đến chùa chiền. Đó là ý dấu cần mở rộng nghĩa tinh thần để hiểu cho đích thực. Vậy thần vô phương đây phải hiểu là thứ vô chân thực như đã nói trên gồm cả hữu lẫn vô. Chứ nếu là duy vô thì lại là duy tâm sẽ đưa đến những giá trị tinh thần nguỵ tạo, không chính cống. Phải bám sát đạo Trống để hiểu tinh thần vừa có vừa không mà cụ thể đó là những việc vì công ích. Bởi nó bao gồm cả có là công việc đồng thời cả vô tức vô vị lợi. Theo đó thì bao việc nghĩa, việc thiện, những việc cứu nguy đều là những việc tinh thần. Hiểu như thế thì chữ tinh thần trở nên rất cụ thể. Theo nghĩa đó đối với chúng ta nay thì việc có tinh thần hơn hết là việc cứu quốc. Vì cứu quốc là cứu đạo, cứu nhà, cứu bà con. Lại vì cứu quốc là việc chung, vô vị lợi, nói đúng hơn tuy có lợi nhưng rất bấp bênh mơ hồ, đang khi cái hi sinh thì rõ rệt và chắc chắn, nhiều khi phải hy sinh ngay mạng sống như các liệt sĩ vừa bị chúng giết mới rồi. Cho nên lo toan việc cứu quốc là lo toan việc tinh thần cực cao. Nhưng nói đến cứu quốc là nói đến việc quá lớn lao nên thường dễ trở nên trừu tượng. Vì thế cần tìm ra việc nào trung gian dẫn đến việc lớn lao đó, mà lại vừa tầm tay nhiều người di sản. Thiết nghĩ việc đó là việc thống nhất. Chỉ suy nghĩ một chút sẽ thấy thống nhất là điều kiện tiên quyết để cứu quốc. Thiếu thống nhất, thiếu đoàn kết thì không thể làm được cái chi lớn lao đáng giá cả. Chứ chưa vội nói đến cứu quốc. Cho nên thống nhất phải là bước đầu tiên. Vậy mà thống nhất còn thiếu. Nói đúng ra thì đã có thử làm và rất nhiều lần rồi đó là các hội đoàn, các báo chí… nhưng còn thiếu cái để thống hợp các hội đoàn, các báo chí lại với nhau để thành một nước Việt Nam hải ngoại. Vì thế đó là điều hết mọi người Việt chúng ta phải lưu tâm đến. Hết mọi đoàn thể mọi báo chí đều phải gia tâm hiện thực theo vị trí đặc thù của mỗi nơi. Riêng An Việt đang muốn thử làm bằng đưa ra bộ sách dân tộc gồm cả kinh, triết, sử, văn. Từ trước tới nay ta mới có sử và văn, cần phải thêm kinh và triết nữa mới có chiều dọc tâm linh, để gây nên thống nhất, nên nó quả đáng tên là Đạo: thiếu kinh thiếu triết cũng là thiếu Đạo. Văn và sử không đủ làm nên đạo. Ta đã mất đạo chính khi sử và nhất là văn phát đạt mạnh, là vì văn và sử phải đi theo hàng ngang, đôi khi có vươn lên một chút thì cũng là việc ngẫu hữu không phải là việc chính cốt. Vì thế có thêm bao nhiêu báo chí, sách vở mà thiếu triết thì vẫn không cứu vãn được thống nhất. Muốn thống nhất cần phải thêm Kinh và Triết. Triết mà hợp với đạo Trống thì gọi là An Việt tức không còn làm vì sợ hay vì lợi như ở chặng duy hữu mà đã vươn lên đợt an vi: thấy đáng làm là làm, lòng trí không còn để vào lợi danh. Triết đã khó lại thêm điều kiện an hành thì càng khó hơn. Bởi thế mà những người đạt tới rất hiếm. Vì hiếm hoi nên phải đưa ra tổ chức An Việt để tìm tòi và kết nạp những tâm hồn hiếm họa đó theo chân thánh Dóng ra sức đánh đuổi ý hệ ngoại xâm để trả lại quyền độc lập cho Việt Đạo. X. BỨC THƯ GỞI TỚI ANH EM BỐN BỂ 1 Trước hết xin gửi đến Các vị đang cầm quyền ở Trung Quốc Thưa quý vị Tôi nhân danh là người có nghiên cứu về văn hóa Trung Quốc mà lại rất khâm phục nền văn hóa đó nên mạo muội gửi bức thư ngỏ này trước hết tới quý vị để nói về hai điểm rất lạ mà nó lại liên can đến các vị cũng như tới chúng tôi. Điểm lạ trước hết là chức lãnh đạo tinh thần thế giới đã được các nhà triết học gia long trọng tuyên bố trao vào tay triết lý Trung Quốc như tôi đã trình bày ở bài đầu. Đó là vinh dự quá cao cả và bất ngờ. Điểm lạ thứ hai là có biết bao cường quốc hùng mạnh đang ngắp nghé chức đó nhưng không được, thế mà các ngài lại coi đề nghị kia như không có, đến nỗi người đứng ngoài quan sát có cảm tưởng như các ngài đã mất hẳn hứng vị làm lãnh đạo. Đấy là hai điểm tôi xin được nói truyện với các ngài. Về điểm nhất các ngài quá rõ là tư tưởng dẫn đạo thế giới. Vậy mà những người chuyên lo về tư tưởng là các triết học gia lại đồng thanh quy cho triết Trung Quốc vai trò lãnh đạo thì điều đó không thể giải nghĩa bằng cách khác hơn là họ thấy khả năng hòa giải trên thế giới đã không đâu có được cách sâu xa như nơi triết Nho. Về triết Tây Aâu đã không hòa giải nổi còn là tổ gây mâu thuẫn mà mâu thuẫn trầm trọng nhất hiện đang sâu xé loài người là tư bản và cộng sản, hữu thần với vô thần. Bên Ấn Độ tuy có tiến hơn về tâm linh và phần nào gọi được là đã vựơt qua sự giằng co giữa duy vật với duy tâm, nhưng khi lên tới mức siêu hình thì lại nghiêng sang bên Vô, thành ra vẫn chưa giải quyết nổi mâu thuẫn căn bản giữa Vô và Hữu. Sau khi Phật tổ viên tịch các môn đệ liền chia ra hai phe bên Vô bên Hữu. Bên Vô là “Thượng Tọa Bộ” (Theravadin). Bên Hữu là “Nhất Thiết Hữu Bộ” (Sarvastivadin) cho tới nay vẫn còn đó. Nhìn bao trùm cánh đồng văn hóa nhân loại ai cũng có thể thấy là thế, nên các triết học gia phải quay về với Trung Quốc mặc dầu nơi đây triết học phát triển kém hơn bên Âu hay Ấn, nhưng nhờ tiên Nho đã may mắn hòa giải nổi hữu với vô, vuông với tròn, thiên với địa… nên đạt được Minh triết như chúng tôi đã minh chứng bằng phân tích ngũ hành cho thấy rõ. Nhưng vì còn có thể sợ rằng ngũ hành mới chỉ là thuyết lý tiên thiên, nhỡ thực tại không được như vậy chăng. Vì thế chúng tôi hãy kiểm điểm sơ qua lịch sử xem có thấy được gì kiện chứng cho thuyết lý chăng và lúc ấy mới thấy rõ ràng lịch sử nước quý vị có được mấy đặc trưng như sau: Nét thứ nhất ai cũng thấy đó là sự trường cửu vựơt xa mọi nền văn hóa khác cùng thời từ miền Lưỡng Hà như Sumer, Babylon, Assyria chuyển qua Ai Cập rồi Hy Lạp, La Mã đều đã lần lượt sụp đổ, riêng có Đạo Nho vẫn sống dai dẳng cho mãi tới đầu thế kỷ 20. Nét thứ hai đời sống lâu đó có lý do nội khởi là sự vắng bóng khủng hoảng nội tại như xảy ra thường xuyên trong các nền văn hóa khác, nơi mỗi lần có cuộc khủng hoảng tất có việc thay đổi trọng tâm. Thí dụ gần nhất là văn minh Tây Aâu đã thay đổi trọng tâm vào thời Phục Hưng: từ tôn giáo đi sang nhân bản. Ngược là Đạo Nho không có vụ đó, chỉ có khủng hoảng về hiện thực vòng ngoài theo nhịp một tụ một tán, một bình một loạn. Thời loạn là thời khủng hoảng ở tại không thực hiện được Đạo, chứ chính Đạo không bao giờ bị khủng hoảng. Có thể nói đến nay tuy đã bị kéo đổ những mới là vòng ngoài thuộc văn minh, còn vòng trong văn hóa chưa hẳn ngã ngũ: nó bị chôn do ngoại lai chứ nội tâm chưa vỡ, những người thoát khỏi kìmkẹp áp đảo vẫn còn tin tưởng vững chắc vào việc duy trì và phát triển nền văn hóa của mình vì ngoài ra chưa có nền văn hóa nào biểu lộ khả năng lâu dài bằng. Nét đặc trưng thứ ba là sự thống nhất lẫm liệt. Nói lẫm liệt vì tự cấp siêu hình đến cấp hiện thực đều quán triệt. Siêu hình là sự thống nhất đẩy đến độ cùng cực giữa có với không: “thái cực nhi vô cực”. Đó là đợt chí trung nên tất nhiên đạt chí hòa được biểu diễn trước hết là tự trên xuống dưới = từ văn gia đến chất gia cùng chung tay xây đắp một nền văn hóa duy nhất, nói cụ thể là nho sĩ và người nhà quê không có hai nền văn hóa, chỉ khác nhau về học thức, chứ về đạo lý “như nhau”. Từ thiên tử đến thứ dân đều phải lấy “mậu kỷ” làm bản gốc. Có thể nói lý tưởng triết vương của Plato đã đựơc hiện thực ở đây, ít ra người cai trị có đạo lý để trị quốc, để bình thiên hạ; toàn dân có đạo lý để tu thân, để tề gia: cả hai như nhau cùng một đạo. Đó là đức tính thống nhất cụ thể sống động không thấy ở nền văn hóa nào khác. Nét thứ bốn là giàu chất tổng hợp, trứơc hết là tổng hợp kim cổ nên trường tồn mà vẫn tiến mạnh đến kim, không có truyện ù lì như nhiều người lầm tưởng. Nếu có không tiến thì chỉ trong phạm vi khoa học kỹ thuật từ lối thế kỷ 15 trở đi mà thôi. Về mặt triết lý trái lại phải nói là tiến đều. Sở dĩ ít được nhận ra vì nó không đi lối ầm ĩ theo kiểu cách mạng (revolution) nhưng đi theo lối diễn biến (evolution) nhờ đã có cơ cấu không thể chuyển lay, vì thế đi vào mỗi thời nó không cần đạp đổ mà chỉ phải gạn lọc cái hay của đợt trước để thâu nhận vào đợt sau. Đó là thâu nhận thay vì phá đổ. Chính nhờ lối diễn biến mà nó hội nhập được không những cổ mà luôn kim. Bao nhiêu phát minh tân tiến trong phạm vi nhân văn bên Aâu Mỹ đều tìm được mầm rễ trong Việt Nho, thí dụ về cơ cấu, phân tâm học. Cả đến cái nhìn khoa học về vũ trụ luận cũng đã có trong nét song trùng sơ thuỷ (tức âm dương). Đợt phát triển cuối cùng là tổng hợp của Chu H đời Tống, phải nói nó giống với vũ tru luận hiện đại như ông Needham đã nhiều lần ghi nhận: nó không đi qua giai đoạn vật lý Newton mà tiến thẳng vào giai đoạn vi thể kiểu Eisntein, không đi qua lý luận Aristotle mà lại đi trước Hegel trong biện chứng (Needham II 458). Do đó xã hội Việt Nho đã trở nên quê hương của đức khoan dung với những hiện tượng hi hữu là tam giáo cùng chung sống thực sự đến độ sống trong cùng một cá nhân: tức nhiều người theo cả ba đạo một trật. Đó là về khoa học còn về xã hội các học giả đều tỏ lòng rất khâm phục: có thể nói bá tứơc Keyserling rằng Trung Hoa là đế quốc duy nhất đã giải quyết vấn đề xã hội trên một thời gian kéo dài: một nước duy nhất mà khối đông dân chúng được hạnh phúc, một nước duy nhất đã đưa lý tưởng tuyệt đối về xã hội với chính trị vào thế giới hiện hình. (The travel diary of a philosopher II 55). Có thể nói đó là miền đả phá được chế độ nô lệ sớm nhất, không còn giai cấp theo nghĩa pháp luật định chế nữa, mà chỉ là tôn ti dựa trên sự phân công như sĩ, nông, công, thương, đến nỗi Keyserling đã không ngại viết “tôi không còn hồ nghi chút nào nữa là không những thời đang tới, con người có văn hóa cao sẽ tiến tới mẫu người theo Nho giáo truyền thống (tức Nho chưa bị bẻ quặt) hơn là mẫu người thời mới, xã hội tương lai cũng sẽ gần ngừơi Trung Hoa hơn là gần với mô thức của các nhà lập thuyết không tưởng của chúng ta” Journal I.64 Nét thứ năm là một khả năng thâu hóa phi thường: bao nhiêu đợt xâm nhập đều bị đồng hóa hết, như không biết bao dân du mục Mongol, Turkey, Manchu, T’opa, Tibetan, Tungu, Hsiung-nu… Đối vời những đợt du mục xưa còn thể hiểu được vì là những dân không có văn hóa hoặc văn hóa yếu thì bị sát nhập là lẽ thường. Đàng này luôn cả các dân văn minh, đã có đạo lý đàng hoàng cũng bị sát nhập luôn thí dụ dân Do Thái, dân Nga. Mấy nét trên quả là đặc trưng nghĩa là ngoài Trung Quốc và các nước lân bàng làm nên cái gọi là văn hóa Đông Á hay Viễn Đông mới có nền minh triết, ngoài ra không có đâu có hết. Riêng Viễn Đông đã có một cách vững chãi trung thực và trường cửu với lịch sử nhiều ngàn năm nhờ có những nguyên lý bền vững là nền siêu hình tuyệt luân của Kinh Dịch cũng như nền triết nhân chủ oai nghiêm là điều đã biện lý cho quyền lãnh đạo văn hóa của Trung Quốc trong nhiều ngàn năm. Năm điểm trên là những thực trạng xã hội đã được hầu hết khắp các học giả ghi nhận và đề cao. Như vậy là lịch sử quả đã cung cấp ấn tich cụ thể và đích xác để kiện chứng cho chủ đạo. Thế là ngũ hành quả có hiệu năng chứ không phải truyện thuyết lý suông. Theo đó có thể nói quả thực Nho giáo là một nền Minh Triết khi hiểu minh triết là khả năng giáo hóa giữa các thái cực, mà cao hơn hết là giữa Hữu vơi Vô, rồi giữa động với tĩnh, giữa nhất với đa… Các nơi khác chỉ có minh triết thường nghiệm của lương tri, mà không có trên bậc siêu hình triết lý. Vì sự hòa giải giữa hai đối cực là chính bản tính của vũ trụ cũng như vạn vật nên tối cần cho cuộc sống. Bởi thế Trời đã ban sẵn cho mọi loài vật nhưng chỉ ở đợt bản năng tiềm thức, hoặc lương tri. Còn đi xa hơn là việc của triết. Triết mà đi được là một sự may mắn họa hiếm và do đó có Minh Triết viết hoa, còn khi triết đi ngược lại (như các thứ duy) thì khổ luỵ cho con người mà rồi trước hay sau cũng phải từ bỏ cách nọ hoặc cách kia. Thí dụ về tôn giáo thì tin mà không thực hiện nữa, còn thuyết lý thì “xét lại” hoặc thực tiễn là theo lương tri. Thế là chia ra bên chính thống bên xét lại. Điều này hiện đang xảy ra trong các xã hội cộng sản. Bên chính thống gọi là Hồng chống với bên thực tiễn tạm gọi là Chuyên. Bên Hồng dựa vào uy thế Karl Marx mà đẳng là giáo sĩ, nên theo lối “hồng hơn chuyên”. Nhưng cái con vị thấy cứ hồng mà không xét lại thì đói, vì theo chính thống thì kinh tế kéo lê bê bết nên phải đi lối thực tiễn gọi là chuyên. Thế là cứ giằng co bên hồng bên chuyên không bên nào thắng hẳn và dân chúng trong các xã hội chủ nghĩa cứ ở trong tình trạng nửa sống nửa chết. Trừ có một vài nước phần nào thoát khỏi sự giằng co nọ nên tạm sống được, trong đó có nước của quý vị đang cố hiện đại hóa quê nước và không còn ngần ngạy bắt tay với Tư Bản. Đó là con đường tôi mong cho quý vị theo mãi và một cách quyết liệt. Tuy nhiên không nên lấy đó làm mục tiêu tốihậu. Vì xã hội Tây Aâu có tiến bộ rực rỡ nhưng đó là cái may mắn được dẫn dặt do lương tri mà không bị ông Hồng nào của triết lý cản mũi kỳ đà, là bởi các triết học gia của Tây Aâu thực rakhông là hiền triết mà chỉ là các ý gia nên không mấy khác mộng du đi bên ngoài đời sống, không ảnh hưởng chi vào đời; đời không bị cản trở bợi vụ “hồng hơn chuyên” nên có thể tiến mạnh. Nhưng vì triết bất lực nên có tiến mạnh tới đâu cũng chỉ là tiến có cái xác vô hồn, đời sống vẫn vô hướng, vô Đạo. Con người vẫn cảm thấu thiếu nhà. Họ biết điều đó lắm, nhưng không sao vươn lên được, hay đúng hơn triết học cổ truyền củahọ không cung ứng cho họ nền tảng để vươn lên, cho nên quý vị có từ bỏ cộng sản mà theo tư bản thì mới được có mặt kinh tế mà cũng chỉ phần nào. Ngược lại quý vị có sẵn nền tảng trong kho tảng tổ phụ giối lại, chỉ việc “phản thân nhi thành thì sẽ lạc mạc đại yên”. Lạc cho quý vị vì bỏ đuợc địa vị học trò hiện nay để bước lên bậc hướng đạo tinh thần thế giới với nền kinh tế sẽ tiến hơn trứơc nhiều. Đó là cái chắc. Lạc cho mấy nước Đông Nam Á ở chỗ bao lâu quý vị chưa bỏ cộng sản thì bấy lâu họ còn sợ hãi sẽ bị xâm lăng. Nếu quý vị trở lại Truyền Thống, tuy lòng sợ kia cũng còn nhưng bớt đi đến 2/3. Lạc cho cả thế giới vì có nhiều hy vọng hơn nhờ sự hướng đạo do Nho thì nhân loại sẽ thoát được nạn bơ vơ như con tàu giữa biển động mà không biết cửa ải nào để tới. Lạc cho 99% dân Trung Quốc lại được thở bầu khí tự do cổ truyền và nước quý vị sẽ trở lại Truyền Thống “là nước đã nêu cao đuốc tự do trí tuệ hơn đâu hết xuyên qua mọi thời đại” Need I.395. Đó là vinh dự cực kỳ lớn lao mà trong lịch sử chưa nước nào có được. Mạnh nhất thì có Mông Cổ Tài tổ chức nhất thì có La Mã Văn minh rực rỡ nhất thì có Hy Lạp. Còn tự do trí tuệ thì phải kể tới nước quý vị và nhờ vậy mà về nhân bản cũng như về Đạo thì Trung Quốc đã tiến xa nhất. Đó là điều đang trở nên niềm khát vọng cho toàn thể nhân loại ngày nay, nhưng mới là niềm ao ước suông chưa hiện thực được, vì còn thiếu lãnh đạo. Khả năng lãnh đạo thì các triết học gia đã tìm ra rồi đó là triết Nho, nhưng còn thực hiện thì chưa có ai, chỉ còn trông vào các ngài nếu các ngài quay về với Truyền Thống oai hùng của nước quý vị. Tôi cho rằng đó chính là sứ mệnh Trời đã dành cho các dân tộc Đông Á và Nam Á mà các ngài đang nắm phần quan trọng nhất. Nói là sứ mạng trời trao phó có nghĩa là nước của quý vị sẽ không thể tiến cao và xa nếu không trung thành với tiên tổ mình. Vì vậy phải nói đó là đường bắt buộc Trugn Quốc phải đi, để trèo lên đài vinh quang cả về phần phồn thịnh kinh tế lẫn việc lãnh đạo tinh thần. Vì vậy tôi mong mỏi các vị nhất quyết đi vào con đường các vị đã khởi đầu và xin đi đến cùng hết. Xin từ giã cái chính thống bắt quý vị phải theo đuổi, để trở lại nền chính thống của cha ông ban cho quý vị chức dẫn đầu nhân loại. Mong thay 2. Xin gửi tới: 90% các bạn Trung Quốc (trừ 10% cầm quyền đã thưa trước). Các bạn Tibet, Hàn, Nhật, Đài Loan, Phi, Lào, Mên, Thái, Miến, Mã, Anhđônê. Các bạn sống rải rác trong các đảo Thái Bình Dương Các con cháu miêu duệ Dravidien ở Ấn Độ, Ceylan v.v… Và vân vân vì chưa kịp xét tới các bạn da đỏ ở Mỹ Châu, Astec, Maya. Thưa các bạn Chúng ta thường nghe nói đến khối thứ ba hiểu là đứng giữa tư bản và cộng sản, nhưng khối đó là gì thì chưa ai nói rõ: người ta chỉ hiểu lơ mơ rằng đó là con đường cần thiết để giàn hòa giữa hai khối tư bản và cộng sản. Thế những trong thực tế thì không có chút chi như vậy vì về kinh tế thì hầu như số không. Còn về văn hóa cũng lờ mờ cho nên đung ra thì khối thứ ba chỉ là một sự hiện diện thù lù như một vật thể, mà hai phe cố gắng kéo về bên mình cho đông. Họ làm thế vì thực ra chẳng có gì hay đúng hơn chỉ có chút uy tín cũ kỹ về đạo lý nhưng đạo lý không được canh tân thì cũng chỉ xuất hiện như những món đồ cổ cho mấy người thích sưu tập: Phật cũng như Lão, Nho, Aán Độ giáo hay Mahomét cũng vậy. Đấy là chỗ chúng ta cần phải hướng hoạt động vào để chấm dứt tình trạng này. Cần tất cả phải làm sao cho vai trò thế giới đang mong mỏi nơi thế giới thứ ba có thể hiện thực được. Về thế giới thứ ba có ba khối lớn: một của Aán Đô, một của Phi Châu và một nữa là Đông và Nam Á của chúng ta. Riêng về đạo lý của khối này thì có Nho, Thích, Lão gọi là Tam giáo. Trong dĩ vãng Tam giáo đã nhiều lần nắm vai trò hòa giải tức nhiều người theo cả ba đạo một trật. Đó là nhờ vào một sự phân công khéo léo có thể gọi là Thích với Lão thì tu tâm, còn Nho thì tu thân, lo về chính trị, vì thế khả năng giàn hòa đã được thực hiện nhiều đời mà hôm nay tôi muốn thưa truyện với các bạn là chúng ta cần phải canh tân bằng cách trở về đầu cội gốc của văn hóa tiên tổ của chúng ta và nếu đi cách nghiêm túc thấu triệt thì chắc các bạn sẽ gặp lại được những ấn tích của Nguyên Nho trong di sản tinh thần của dân nước các bạn, lúc ấy các bạn sẽ nhận ra hai điều hết sức hứng khởi: Một là chúng ta thụôc về một đại gia đình văn hóa rất lâu đời, đông đúc và trường cửu. Hai là nền văn hóa tổ này lại có tính cách ưu việt, tức đã vượt qua hai giai đoạn bái vật và ý hệ để vươn lên đợt tâm linh mà ta quen gọi là Đạo, nó có đầy chất giàn hòa, như đã chứng tỏ trong dĩ vãng là Tam giáo đồng nguyên, tuy Nho nắm quyền chính trong xã hội mà Lão và Thích vẫn được phát triển thảnh thơi. Chính vì khả năng giàn hòa có thực đó mà tôi mời hết các bạn hãy tìm về tổ chung mặc dầu nhiều bạn đã theo Lão, hay Phật và Phật cả ba phái (tiểu thặng, đại thặng, tạng thặng) là vì Nho nguyên thuỷ không ngãng trở người nước nào theo tôn giáo nước nấy, mà lại cung ứng cho tất cả một chính lược chung rất cần thiết trứơc là cho chúng ta có đất thống nhất hầu làm nên sức mạnh sau là làm cho chúng ta có thể do đó đóng góp vào sự hòa giải của cả loài người. Nhiều kẻ ước mong cho Đông Nam Á chúng ta trở nên một thị trường chung như thị trường Âu Châu. Đó là lời nguyện chúc của các nhà kinh tế, chúng ta cảm ơn và không ruồng bỏ nhưng chỉ coi đó, nếu có, như hệ quả của cái chung khác, cao hơn nhiều: đó sẽ không phải thị trường chung mà là văn trường chung hay đúng hơn Đạo trường chung. Khi có được văn trường chung, Đạo trường chung thì thị trường chung càng thêm phát đạt. Đạo trường chung đã một thời xuất hiện dưới danh hiệu Tam giáo đồng nguyên, mà nếu cần phân công thì Lạo Thích chuyên về nội thánh còn Nho chuyên về ngoại vương đặt chân trên nền nhân bản tâm linh nên sức bao quát rất lớn rộng như đã được hội nghị quốc tế triết học Honolulu 49 công nhận. Đó là một vinh dự mà chúng ta là những kẻ thừa tự cần phải phát huy cho đến chỗ cùng cực có thể. Tôi mong rằng giới trí thức mỗi nước trong khối chúng ta hãy lưu tâm tìm đến nguồn gốc văn hóa nước mình thì có ngàychúng ta sẽ gặp nhau trong những hội nghị văn hóa Nguyên Nho, mà đã nói đến Nguyên Nho thì không còn là bác học hàn lâm suông nữa, mà sẽ đi vào cải tổ xã hội chúng ta thành một mặt trận văn hóa cần thiết cho con người. Riêng với các bạn Trung Quốc tôi xin thêm vài lời: Nếu được nhà cầm quyền quý vị chấp nhận như chúng tôi đề nghị ở phần thư trước, thì khối văn hóa chúng ta sẽ tiến những bước khổng lồ trên đường hiện thực vài trò thế giới đã uỷ thác và sở cậy năm xưa ở hội nghị Honolulu. Còn nếu chính quyền chưa chấp nhận liền thì riêng đối với 90% các bạn cũng đã là một con số rất đáng kể vì vượt xa dân số những nước đông dân nhất, nên khả năng tiềm ẩn thật bao la, phương chi khi hợp với các nước chung quanh chúng tôi. Chúng tôi tin rằng các bạn không những thụôc cùng một tổ văn hóa mà còn đến 70% người Tàu là cùng dòng tộc với chúng tôi nữa, nếu có sự nghĩ khác thì chẳng qua tại chính trị đã gây ra rồi những chia cắt đó che lấp mất gốc chung, nhưng nếu chúng ta cùng đứng hẳn vào một mặt trận văn hóa thì sẽ lại nhận ra gốc gác họ hàng và lúc ấy các bạn sẽ không còn xem chúng tôi như người xa lạ mà chính là những bà con ruột thịt xa xưa mà nay cần gặp gỡ trở lại để cùng nhau chung sức hiện thực sứ mệnh cao cả mà thế giới đang kỳ vọng ở khối chúng ta. Lúc ấy chúng ta sẽ cảm thấy sức mạnh phi thường của một nền văn hóa ưu việt lại có thêm một khối anh em đồng bào trên một tỉ người thì hy vọng đóng góp phần chúng ta vào nền thống nhất nhân loại trở nên chói chang. Viễn tượng như thế lại không đáng cho chúng ta vựơt lên trên mọi tị hiềm nhỏ nhặt sao? Mong được tin từ các bạn. 3. Cùng các bạn Âu Mỹ Thưa các bạn Văn hóa của quý vị mang theo một nan đề quá lộ liệu, đó là một mặt thì văn minh các ngài tiến lên rực rỡ xưa nay chưa bao giờ được như vậy, không một ai dám phủ nhận. Vì tất cả đều đang thừa hưởng những ơn ích của nền văn minh này và riêng tôi thì tôi quý mến kính phục hết mình. Nhưng đàng khác thì người ta vẫn kêu là văn hóa các ngài có chỗ kém cỏi thí dụ duy vật, thiếu tinh thần, gieo nhiều tai họa: hết thực dân thì đến tư bản, cộng sản v.v… Điều đó chính các người Âu Tây nói trước, mà lại nói ra do những phần tử ý thức hơn hết. Đã vậy lại nói những lời rất trầm trọng như Carl Jung thì bảo văn hóa Tây Âu như cái túi bệnh, động vào chỗ nào cũng thấy toàn bệnh là bệnh. Nietzsche thì cho là tinh thần Tây Aâu trống rỗng “Nihilisme Occidental”. Keyserling thì cho là “lộn xộn và bất hạnh” (chaos et malheur). Spengler còn viết cả một quyển về sự suy thoái của Tây Aâu (le Déclin de l’Occident). Còn thể kể ra vô số chứng từ khác… Quả thật đó là một sự mâu thuẫn quá to lớn nó bó buộc chúng tôi phải làm một chuyện hết sức ngại ngùng là khen mình chê người: khen triết Đông chê triết Tây. Càng ngại hơn nữa khi người mình che lại nổi vượt hơn mình về mọi mặt: trừ có một điều Tây Aâu không thèm để ý tới thì mình lại chú tâm trọn vẹn, đó là triết. Nhưng đấy chưa hẳn là mâu thuẫn mà mới là sự nối dài của mâu thuẫn chính, nó ở tại việc quí vị quá giỏi về khoa học kỹ thuật và nhiều mặt khác mà lại “bất lực” về triết học. Tôi nói bất lực vì đã có những trí không siêu quần như Kant, Hegel, Nietzsche, Heidegger… đều nhận ra chỗ bất ổn của triết Tây thế mà lại không chữa trị được. Tại sao? Y như các nhà nghiên cứu về Trung Hoa thấy Trung Hoa rất tiến bộ về nhân bản, mà tại sao khoa học lại không được phát triển nữa. Chúng tôi cũng vậy, thấy những thành tựu nguy nga về khoa học của Tây Aâu nên cũng hỏi tại sao lại không có minh triết. Oâng Needham đã viết một bộ sách đồ sộ 7 quyển lớn để trả lời câu hỏi trên về Tàu mà chúng tôi thấy chưa ổn thỏa. Đến câu hỏi tại sao Tây Aâu nổi nang về mọi mặt mà lại không đạt được minh triết tôi cũng chưa gặp được lời giải đáp nào ưng ý, nên hôm nay tôi đưa ra giải đáp của tôi nằm trong “Chữ Thời”. Theo đó tôi cho sự bất lực đó chính là con đường sứ mạng: nó phải diễn tiến như thế chứ không phải bất lực. Đó chỉ là chưa phải lúc. Sự thể xảy ra như sau: Triết lý An vi quan niệm sự xuất hiện của loài người như những đợt tiến hóa kế tiếp nhau, đợt đến sau cao hơn đợt trước. Ngừơi Âu Tây thụôc đợt tiến mới nhất nên trổi vượt hơn các dân khác đã xuất hiện trước. Nếu kể đợt Âu Tây là đợt năm thì người Á Châu mới ở đợt bốn. Nhưng vì dân Á Châu xuất hiện trước nên đã đạt độ chín mùi (Maturity). Nói bằng tuổi thì đã là tuổi 70, còn Âu Tây mới hết đợt trẻ trung, đang chung quanh tuổi 40-45 và hiện đang sửa soạn bước vào đợt chín mùi tức từ 50-70. Như vậy Á châu có hơn về đàng minh triết thật, nhưng đó là cái hơn của những người đã già nên giàu kinh nghiệm hơn. Còn về khoa học thì Aâu Tây có hơn nhiều đó là cái hơn do đợt tiến sau, nhưng còn kém về minh triết thì đó là cái kém do chưa tới tuổi và hiện đang sắp bước vào. Vì thế trứơc sự bất lực của Trung Quốc trong khoa học, cũng như bất lực của Tây Âu trong triết lý là do Chữ Thời: tức chưa phải lúc nghĩa là đường tiến hóa của con người nó diễn tiến như thế; có thể nói thế này trong giai đoạn sắp qua Trời đã chia việc cho Ấn Độ chuyên về Vô thể chỉ bằng số 1-4. Tây Âu chuyên về Hữu, Hữu Thể chỉ bằng số 4-1. Còn Viễn Đông chuyên về trung Đạo lưỡng hành chỉ bằng cặp số 2, 3. Nay đang bước vào giai đoạn của một tổng hợp mới một Trung Đạo mới cũng chỉ bằng 2-3 nhưng trên cấp cao hơn và Âu Tây vì xuất hiện sau nên sẽ dần dần trong tổng hợp mới và nền Minh Triết này sẽ cao hơn minh triết Đông phương nên trước mắt còn cả một tương lai huy hoàng đang chờ đón: quý vị sẽ lãnh đạo cả về tinh thần. Nếu mai ngày Nguyên Nho có chu toàn được vai trò hòa giải như hội nghị Honolulu mong ứơc thì cũng chỉ là vai trò hòa giải mà thôi, chứ còn tiến mạnh đáng mặt dẫn đạo sẽ là Tây Aâu. Đông phương chỉ còn giữ vai cố vấn. Không có vụ Tây Aâu suy thoái như Spengler nghĩ, mà chỉ có suy thoái cái giai đoạn duy vật của Tây Aâu. Đó là bệnh sốt rét vỡ da cần phải xảy đến và bệnh nọ chỉ có tốt cho Tây Aâu là để Tây Aâu tiến lên được tuổi 50 là tuổi “tri thiên mệnh”. Aù Đông đã dẫn đầu rồi, đã chu toàn vai trò trao phó rồi, nay có dẫn đầu một lúc nữa chẳng qua là để trao trọn đuốc văn minh cho Aâu Tây từ lối thế kỷ 15 và cho đến nay vẫn còn đang tiếp tục trao sang dần. Dấu hiệu của Minh triết là các số 2, 3, 5. Ta hãy xem các số đó trao sang Tây Aâu ra sao. Mở đầu lễ trao là Bản Kinh và thuốc súng với phép in. Đó là trao số 2 ẩn trong bản là kinh. Tiếp theo là cặp đôi âm dương xuyên qua từ học và điển khí đó là số 2 hiện rõ trong cực tiêu cực tích cực điện khí. Sau đến điện toán quá lối toán nhị số (số 2 gồm 0 và 1) của Leibnitz đựơc gợi hứng từ Kinh Dịch. Người sau đã kết tiếp tại bồi để thành được computer ngày nay. Cơ cấu luận là bứơc sâu xa nhất trong triết cũng do Nho (Levi Strauss nhờ Nho gia Granet hơn hết, xem cơ cấu Việt Nho tr.15) và cuối cùng là triết lý cơ thể đã gieo mầm nhưng chưa nảy nở, tức cũng do Leibniz gợi hứng rồi được vun xói qua Hegel cuối cùng Whitehead, nhưng tính chất còn quá cơ khí, quá khoa học chưa hẳn hợp với cơ thể, là thứ triết lý hàm hồ nứơc đôi từ trên cấp nền tảng: có mà như không, không mà lại có. Đó là số 3. Như vậy đó là số đang trao. Vì thế triết Tây Aâu chưa bước vào được còn vướng cẳng với nguyên lý triệt tam. Nhưng một chân trời mới đang mở rộng dọn đường cho thứ triết lý hàm hồ xuất hiện, đó là thuyết Tương Đối trong cả ba đợt: Đợt đầu 1905 xóa biên cương giữa vật chất với khí năng bằng phương trình E=mc2 chấm dứt sự chia đôi bên tinh thần bên vật chất. Đợt sau 1915 nhìn ra vũ trụ có hình tròn và có sinh có diệt, có nở ra bóp vào: đó là số 2 theo chiều xoáy ốc. Đợt cuối cùng vào thập niêm 1970 là các lỗ đen cộng với khoa lượng tử giúp cho thấy chiều đi ngược kim đồng hồ neguentropy (ngược entropy) của vũ trụ tức của thờigian không gian, của vạn vật làm cho người ta như sở được chiều Vô của vũ trụ. Đó là bước quyết liệt để đi đến cái nõn Kinh Dịch gọi là “Dịch nghịch số dã” và làm cho vật lý phải cấp chiếu khán cho vô thể tức cũng là cho tinh thần, vì vật chất và phi vật chất đã được thừa nhận (Dirac), đến nỗi chúng ta sắp được khoa tâm vật lý (psychophysique) và cuối cùng là vũ trụ chi tâm, nghĩa là vật lý mà đi đến cùng thì cũng sẽ gặp tinh thần như chủ trương Kinh Dịch là tổ triết lý cơ thể, tố triết lý hàm hồ: có mà như không “Thái cực nhi vô cực”: thái cực mà vẫn vô cực tức có và không một trật và đấy là số 5 Hành Thổ. Đó là những biến cố đang giật chuông sầu chôn táng sự độc tôn của nguyên lý đồng nhất và công ty của nó (nguyên lý triệt tam và nguyên lý căn nguyên) như đã thấy khởi đầu bàn tới thí dụ nhà vật lý kiêm triết gia Jean Charon. Đó là những bứơc đầu rồi sẽ đến các bứơc sau. Lúc ấy Aâu Mỹ sẽ mở đầu cho giai đoạn mới là cuộc sống phong lưu tức triết lý có Vô Hữu. Nay con người đang ở giai đoạn triết lý lao động tức mới có chuyền về Hữu chưa nghĩ gì đến Vô. Nhưng rồi Vô thể đang tự chân trời khệnh nệnh đi tới và chúng ta sẽ gặp nền triếtlý sống như chơi, tức có thêm chiều kích vô vào đời như sự chơi, sự tu luyện. Từ đó triết sẽ được đưa lên bậc cao quý, không còn bị khinh khi như triết học Tây Aâu hiện nay. Đó là chiều kích Vô thể hiện còn thiếu cho người đời nay, nên đời chỉ có một chiều và trở nên duy vật. Mai ngày khi Tây Aâu bước được vào đợt minh triết rồi sẽ nhận ra đời sống không thể chỉ có Hữu mà còn cần cái Vô. Chính cái Vô mới làm nên giá trị cao cả cho đời. Những trang viết về triết lý sống như chơi in trong sách này xin tặng riêng các bạn Aâu Tây để bù lại những chỗ tôi nhỡ tay hoặc có hạ triết Tây quá đáng chăng. Đó lẽ ra là điều nặng nhất mà hóa ra lại “nhẹ” nhất, vì như tôi đã nói trong xã hội Tây Aâu triết học bị khinh thị, bị coi thường nên chỉ đóng có vai trò làm cảnh. Còn xã hội Đông phương thì lại coi triết là cao cả nhất vì triết đã đạt Minh triết cũng bị chôn táng rồi, thành ra có dựa vào Đạo mà chê bai triết Tây đến đâu cũng không khoả lắp được lòng tôi mộ mến quý phục tài cao quý vị. Huống chi đã có những dấu chứng tỏ quý vị đang bước vào giai đoạn tâm linh, như có lần tôi đã nói: đường tiến con người cứ một bước sinh thì đến một bước tâm. Khi phần sinh (physic) đã đi vào cửa hàm hồ tức số 2, 3 thì rồi đến bước tâm (mind) số 5 cũng sẽ đến, tức Aâu Mỹ sẽ có Đạo hay là Minh Triết viết hoa, nó sẽ làm cho quý bạn có thể vẽ được cái vòng mà lại vuông, tức có khả năng giàn hòa giữa triết học và tôn giáo cũng như giữa tôn giáo với khoa học. Đó là điều cho tới nay các bạn không làm được, vì các bạn còn thiếu Minh Triết, còn thiếu Đạo. Nhưng các bạn sắp có Đạo mà hễ có Đạo thì sẽ làm được. Có điều theo luật tiến hóa thì cái gì con người cũng phải tự làm ra hết kể cả Đạo. Đó sẽ là một việc lớn lao vượt xa các tiến bộ khoa học, nên cũng khó vô cùng. Xem xuyên qua lịch sử ta thấy tất cả những gì lớn lao đều phải khởi từ ban đầu, hoặc liên hệ với ban đầu. Dựng nên được một nền triết có Đạo (có minh triết) là một việc cực kỳ lớn lao nên tôi quen gọi nền triết đó là ưu việt nó sẽ cứu chúng ta khỏi gọng kìm nhất đa. Nhất mà duy hữu thì chuyên chế cần phải tránh, nhưng tránh bằng đa phương thì lại thiếu hướng, thiếu hồn. Vậy cần nhất mà không độc hữu, tức nhất mà vẫn dung nhiếp được đa tạp thì vừa có tự do (nhờ có đa tạp) vừa có thống nhất, nên có hồn có hướng. Cái đó hiện còn thiếu và phải có được một nền triết ưu việt mới làm được. Muốn có cần các vị phải trở về nguồn gốc của các bạn, phải vượt qua nhóm Socrate, Plato, Aristotle là những người đã làm đứt quãng dòng Truyền Thống tâm linh, phải về tới thất hiền và có lẽ xa hơn nữa, mà nếu không gặp được ai đáng mặt tổ thì các vị hãy trở về lòng mình, tất các bạn sẽ gặp đựơc cái tâm bao la như vũ trụ. Trong chiều hướng đó sự trở về nguồn của Đông phương có thể đóng góp được vào việc xây đắp của quý vị. Bởi vì tuy Minh triết sắp tới của quý vị sẽ thêm nhiều sự xác định cao hơn do những bước tiến của khoa học cung ứng, nhưng về dạng thức thì vẫn là một: đó vẫn là ngũ hành với các số “vài ba tham lưỡng” Chào quý vị 4 Cùng các anh em Á Phi Thưa quý vị Chúng tôi chưa biết quý vị cũng như quý vị chưa có việc gì với nước chúng tôi nên mối tình người giữa chúng tôi và qúy vị hãy còn trong trắng như tấm lụa bạch. Các vị cũng như chúng tôi còn tương đối xa văn minh nên còn gần bản tính tự nhiên, do đó chúng ta gần nhau hơn. Đó là điều quý hóa và cần thiết trong cái thê giới đang tiến tới mà mọi phần tử dù rất xa nhau, cho tới nay không biết gì nhau, rồi cũng chịu ảnh hưởng của nhau. Trong tinh thần đó tôi xin gửi tới quý vị lời chào quý mến với muôn vàn kính tôn. Chào Phần II: PHẦN PHỤ TRƯƠNG XI. ĐÍNH CHÍNH VỀ TOÀN BỘ TRIẾT LÝ AN VI Trước nhu cầu tái bản một số sách trong bộ Triết lý An Vi có lúc chúng tôi tính sẽ sắp đặt lại, nhân tiện sửa đổi vài điều. Sau cùng chúng tôi quyết định là cứ để nguyên như cũ rồi viết mấy điều cần cải chính sau đây: Điều cải chính trứơc hết không là cải chính mà là xác định phạm vi về phần Việt chỉ còn là triết, rút chân ra khỏi sử. Trong quyển Việt lý Tố Nguyên khởi đầu 10 quyển về Việt Nho tôi có đưa ra một số giả thuyết về cổ sử. Thí dụ Việt tộc từ mạn Tây Bắc tràn vào nước Tàu v.v… đến nay tôi thấy điều đó không cần cho chủ thuyết Việt Nho. Vì thế các sách viết tại Mỹ tôi bỏ hẳn phạm vi cổ sử, xin dành lại cho các nhà chuyên môn, tôi chỉ đặc chuyên về triết. Về vấn đề này tôi đã viết một đoạn sẽ cho in ở cuối bài này. Nhan đề là sự khác biệt giữa quyển Việt lý tố nguyên và Sứ điệp trống đồng. Tôi chỉ giữ lại có một điều ước mong xin được bày tỏ ở đây là sau này có người muốn dùng sách tôi làm luận án thì hầu hết nên lấy một chương làm đề tài mà đừng lấy cả sách, phương chi cả bộ. Tuy có thể làm thế nhưng chỉ nên vài ba lần trong số hàng trăm luận án có thể lấy ra từ bộ triết này, mỗi chương có thể trở nên một luận án lớn vì lúc ấy phải nghiên cứu xuyên qua cổ sử, cổ học Trung Hoa mới so sánh chi tiết được. Điều đó tôi có làm rồi nhưng chỉ đứng trên phạm vi nguyên lý không đi vào chi tiết lịch sử. Thí dụ tôi nói rằng địa vị phụ nữ bên Việt cao hơn bên Tàu… là căn cứ trên một số tiêu điểm chung chứ chưa xét từng thời và từng nơi cách chi tiết. Nếu hậu lai làm theo điều tôi mong ước thì nền quốc học của chúng ta sẽ rất phong phú mà lại có căn bản thật vững vàng. Về ông Bàn Cổ đựơc một số học giả Tàu đặt liên hệ với chó Bàn Hồ của dân Dao và Miêu mạn Nam nứơc Tàu giáp với Bắc Việt của ta. Tôi có chép lại trong quyển Nhân Chủ. Nay tôi xin đính chính đó là sự nói buộc tầm bậy. Chính ra phải móc nối Bàn Cổ với Lộ Bàn Lộ Bộc. Bàn cũng đọc là Bàng là Bành. Nên họ Bàn là họ rất lớn của Việt tộc đã có ngay từ thời khai sáng của đại tộc, và cũng là tị tổ của ta, vì cùng họ với Bàng (Hồng Bàng) và Bành (Bành Tổ). Bàn cũng còn đọc là Ban (Lọ Ban) Bàng cũng đọc là Bang… Đã vậy lưu truyền nói là mộ phần của ông nằm đâu đó trong miền rừng núi của tỉnh Quảng Đông. Mà Quảng Đông cùng với Quảng Tây trước gọi là Lưỡng Việt. Kinh đô nứơc ta thời Triệu Đà còn ở đấy. Nên ông Bàn Cổ là của Việt tộc từ danh xưng đến nơi an nghỉ. Đó là hình ảnh đẹp nhất về Nhân Chủ tự cường tự lực. Điều đính chính thứ ba về Hùng Vương truyền ngôi cho Lang Liêu. Có sách nói là Hùng Vương thứ 6, hoặc 7. Lang Liêu là công tử thứ 8 hoặc 18. Tôi cho đó là những sự tam sao thất bản, phải nói là Hùng Vương thứ 3 truyền ngôi cho công tử thứ 9 mới là huyền số, cùng loại trống đánh 3 hồi 9 tiếng… cho nên trong sách cũ có chỗ nào đã in là 6, 18… thì xin bỏ đi thay vào là 3, 9. Điều đính chính thứ 4 là bảng “tiên thiên bát quái” trong sách Việt Hùng Sử Ca trang 138 xin đặt ngược lại. Trứơc kia tôi không chú ý lắm nên cứ sao lại các sách hầu hết là đặt xuôi (Bắc trên Nam dưới) nhưng sau khi xét lại tỉ mỉ Kinh Dịch mới thấyrằng phải đặt ngược như tiên thiên là Nam trên dưới Bắc mới giữ được ý nghĩa chính truyền. Vì vậy xin cải chính điểm này cách trang trọng và lưu ý các thành viên An Việt tự rầy phải đặt Nam trên Bắc dưới và trống Đồng cũng phải đặt như vậy mới giữ được lối tả nhậm. Đó là âm trước dương v.v… Còn một số sai lặt vặt thuộc xếp chữ thì sẽ sửa khi tái bản thí dụ câu về thánh Gióng (xin đổi Dóng ra Gióng). Đứa thì sứt mũi sứt tai Đứa thì chết chóc vì gai tre già. Chữ nhóc in lầm là chóc. Nói chung là về Triết thì cơ cấu kể như đã ổn định, nếu sau gặp một vài sự kiện khác thì cũng không hại cho chủ trương triết lý An Vi. Vì triết bàn về nguyên lý. Sự kiện chỉ là bàn nhún dùng để vươn lên đợt nguyên lý. Về trống đồng tự nay xin nói Trống Đồng Đông Sơn để dễ hiểu cho người ngoại quốc. Họ chỉ cần biết loại mà không cần đi vào chi tiết cá thể… PHẦN II: PHỤ TRƯƠNG XII. SỰ KHÁC BIỆT GIỮA VIỆT LÝ VÀ SỨ ĐIỆP Quyển Việt lý tố nguyên xuất bản năm 1970, còn quyển Sứ điệp trống đồng xuất bản năm 1984, cách nhau 15 năm; đạo là một nhưng thể tài có khác nhau. Ở “Việt lý” mới bứơc vào rừng cổ Việt học nên tất cả còn là giả thuyết làm việc. Ở “Sứ điệp trống đồng” trái lại đã vào sâu đủ để giả thuyết trở nên chủ thuyết sau khi bỏ những phần không cần thiết như những vấn đề thuộc chủng tộc và nơi xuất xứ. Trong Việt lý thì theo giả thuyết rằng Viêm Việt vào nước Tàu trứơc Hoa tộc. Đến Sứ điệp thì bỏ hẳn giả thuyết đó, kể là không cần cho chủ thuyết Việt Nho, chỉ còn phải chứng minh những biểu tượng văn hóa xuất hiện nơi Việt tộc trước thí dụ các số 2, 3, 5, 9 hoặc tục tả nhậm v.v… có trứơc nơi Việt tộc. Đó là nhữn dấu thuộc văn hóa hay dân tộc nhường hẳn khía cạnh chủng tộc cho các nhà nhân chủng (phải đo sọ) và cổ sử. Chỗ này nên ghi nhận là năm 1950 Văn Hóa Liên Hiệp Quốc có uỷ thác cho một số chuyên viên thời danh nghiên cứu về vấn đề chủng tộc. Kết quả đựơc tuyên cáo là trong nhân loại chỉ có ba nhóm dân lớn là da trắng (caucasoide), da vàng (mongoloide), da đen (negroide). Ngoài ra các nhóm nhỏ khác chỉ có trong óc những người chủ trương mà thôi (coi Vấn Đề Quốc Học tr.44). Xem thế đủ biết vấn đề chủng tộc không những vô ích cho triết mà còn không hợp cả khoa học nữa. Vì vậy ta nên đứng hẳn vào phạm vi triết lý. Sở dĩ đôi khi có đả động tới một số dữ kiện thuộc lịch sử, là vì triết Việt dùng rất nhiều biểu tượng mà sự xuất hiện của chúng liên can đến cổ sử. Về cổ sử đã có một số người gay gắt với thuyết Việt Nho, vì dám đặt Việt trứơc Nho là điều quá trái với “sự thực” và sử sách nhiều ngàn đời. Sau nữa là vì đề cao Nho. Đó là thuyết lý đang bị mọi người khinh khi coi như đồ cổ hủ, đã cản đà tiến hóa của các nước Á Đông mà nay còn không hiểu thời thế lại đi đề cao cái đồ bỏ nọ. Đó là điều làm cho nhiều người bực tức. Về điểm này không thể trả lời vắn tắt phải xem toàn bộ mới xét đoán được, mới hiểu triết khi nó trung thực thì vượt thời gian và không gian không có cổ với kim như sự kiện. Triết đã đi vào nền nguyên lý đời đời cũng gọi là Minh Triết tiếng Pháp dịch là Sagesse principielle. Còn mấy người gay gắt thì có thể giải nghĩa cách khác là như họa đang sửa soạn đưa Việt Nam vào quỹ đạo một chủ thuyết ngoại lai nào đó nhưng họ không hẳn ý thức, không ngờ rằng họ đang bị thực dân điều động. Thời thực dân có thuyết chức năng (functionalism) của Malinowski chủ trương phủ nhận dĩ vãng chỉ xét hiện tại các xã hội, nghe có vẻ khoa học hơn, thiết thực hơn. Thực dân khóai thuyết này vì nó giúp cho các thụôc địa quên cội gốc mình nên dễ dàng để mình bị đồng hóa. Vì thế chúng tung ra khuynh hướng chối bỏ những huyền thoại dựng nước có mòi móc nối văn hóa ta với Nho, thí dụ họ cho những truyện trong Lĩnh Nam Trích Quái là tầm phào, nhảm nhí, cho truyện Viêm Đế Thần Nông … là lệ thuộc Tàu, hoặc tung hô nguồn gốc Mã Lai của Việt tộc… Những chủ trương này được đón nhận do những học giả lơ mơ hoặc quá chuyên môn về một ngành không thể nhìn bao trùm để thấy hướng lớn hoặc có thể do Việt Cộng nằm vùng v.v… đúng hơn thì không rõ ràng vì lúc đầu tất cả chưa ý thức được thâm ý của ngoại nhân cứ tưởng là theo khoa học khách quan chứ có ngờ đâu đến những ý đồ cướp hồn nước của dân mình, nên dễ bị mắc mưu thực dân hay cộng sản, tưởng chỉ theo lòng thành muốn cho nước mình được canh tân như người ta, có được nền văn hóa độc lập khỏi Tàu v.v… rồi đâm ra vô tình chạy cờ cho địch thủ dân tộc. Trong bộ triết lý An Vi tất cả những gì bàn về nguồn gốc văn hóa dân tộc nay đã được minh chứng cách khoa học, chỉ có một phần sử coi như lơ mơ, lý do vì đó là huyền sử chứ không phải lịch sử. Lịch sử thông tin tức. Huyền sử không nhằm thông tin mà nhằm nói lên cái dạng thức văn hóa, nói lên cái ý tưởng dẫn đạo, những nguyên lý uyên nguyên v.v… nhưng nói bằng mảnh vụn của lịch sử, nên có vẻ sử, kỳ thực đó chỉ là phương tiện bày tỏ, đừng xét chúng theo phương thức sử ký tưc theo phạm trù không gian thời gian, lấy tự sách nào, có phải chính thống chăng, hay đã bị bẻ quặt… mà chỉ nên coi chúng như ẩn dụ, nên điều quan trọng là nói lên ý tưởng của tác giả dùng nó. Có xét thế mới đúng tôn chỉ của huyền sử, và lúc ấy sẽ thấy triết Việt Nho thực đặc biệt. Triết mà được minh họa bằng hàng trăm hình ảnh, thì chỉ Việt Nho mới có tiềm năng nọ. Những hình ảnh này sẽ bịt miệng những kẻ muốn chối bỏ hay xuyên tạc nguồn gốc văn hóa tổ tiên ta, cũng như đồng thời soi sáng cho nền triết lý An Vi cao vút của dân tộc được thêm chói lọi. Kim Định
Trang
mạng
Việt
Nam
Văn
Hiến
Trang Việt Triết Nhập Môn www.vietnamvanhien.net www.vietnamvanhien.org www.vietnamvanhien.info www.vietnamvanhien.com Email: thuky@vietnamvanhien.net Trang
mạng Việt Nam Văn Hiến là nơi bảo tồn di sản văn hóa của
Việt tộc. Thắp sáng niềm tin Diên Hồng và nếp sống
Văn Hiến hầu phục hồi nền "An Lạc
& Tự Chủ" ngàn đời cuả Việt Tộc.
|
|||||||||||||||||||||||||||||||||||
Trang[ 1 ] [
2 ] |