Nam Cao (nguyên
danh Trần Hữu Tri, thánh danh Giuse[1], 29 tháng 10, năm 1915
hoặc 1917 – 30 tháng 11 năm 1951[2]) là một nhà
văn, nhà
thơ, nhà
báo và cũng là một chiến
sĩ, liệt
sĩ người Việt
Nam. Ông là nhà văn hiện thực lớn (trước Cách mạng Tháng Tám), một nhà báo
kháng chiến (sau Cách mạng), một trong những nhà văn
tiêu biểu nhất thế kỷ 20. Nam Cao có nhiều đóng góp
quan trọng đối với việc hoàn thiện phong cách truyện
ngắn và tiểu thuyết Việt Nam ở nửa đầu thế kỷ 20.
Thân
thế và sự nghiệp
Nam Cao tên khai sinh là Trần
Hữu Tri (có nguồn ghi là Trần
Hữu Trí[3]), sinh ngày 29
tháng 10 năm 1915 nhưng
giấy khai sinh ghi là 1917.[4] Quê
ông tại làng Đại Hoàng, tổng Cao Đà, huyện Nam Sang,
phủ Lý Nhân (nay là xã Hòa
Hậu, huyện Lý
Nhân, tỉnh Hà
Nam). Ông đã ghép hai chữ đầu tiên của tên tổng
và huyện làm bút danh: Nam Cao.[5]
Ông xuất thân từ một gia đình Công
giáo ở nông thôn. Cha ông là
ông Trần Hữu Huệ, làm và kinh doanh nghề mộc, có thời
gian làm nghề thầy lang trong làng. Mẹ ông là bà Trần
Thị Minh, vừa là nội trợ, làm vườn, làm ruộng và dệt
vải.
Thuở nhỏ, Nam Cao học sơ học ở trường làng.
Đến cấp tiểu học và bậc trung học, gia đình gửi ông
xuống Nam Định học ở
trường Cửa Bắc rồi trường Thành Chung (nay là trường Trung học phổ thông chuyên Lê
Hồng Phong, Nam Định). 1934 học xong bậc trung
học, nhưng bị ngã và đau ốm nên chưa thi lấy bằng
Thành chung. Đầu năm 1935 cưới vợ, Trần Thị Sen (tên
thánh Maria Sen), người cùng làng. Tháng 11/1935 Nam
Cao vào Sài
Gòn, ở lại đây 30 tháng, sống bằng nghề làm thư
ký hiệu may Ba Lễ, đồng thời bắt đầu viết văn, gửi cho
các báo. Năm 1936 được đăng các truyện ngắn "Cảnh cuối
cùng" và "Hai cái xác" dưới bút danh Thúy Rư trên tuần
báo Tiểu thuyết thứ bảy (Hà
Nội). Năm 1937 được đăng các truyện ngắn "Một bà hào
hiệp", "Nghèo", "Đui mù" dưới bút danh Thúy Rư trên Tiểu
thuyết thứ bảy, Truyện "Những
cánh hoa tàn" trên báo Ích Hữu (Hà
Nội). Tháng 5 năm 1938, vì lí do sức khoẻ, Nam Cao trở
ra Bắc, về quê.
Đến
với nghề văn
Trở ra Bắc, sau khi tự học lại để thi lấy
bằng Thành
chung, Nam Cao lên Hà Nội dạy học ở Trường tư
thục Công Thanh, trên đường Thụy Khuê, Hà
Nội. Ông đưa in truyện ngắn Cái
chết của con Mực trên báo Hà
Nội tân văn (1940) và in thơ
cũng trên báo này với các bút danh Xuân
Du, Nguyệt.
Năm 1941, tập truyện đầu tay Đôi
lứa xứng đôi, tên trong bản thảo là Cái
lò gạch cũ, với bút danh Nam
Cao do Nhà xuất bản Đời mới Hà
Nội ấn hành được đón nhận như là một hiện tượng văn
học thời đó. Sau này khi in lại (1945), Nam Cao đã đổi
tên là Chí Phèo.
Phát xít Nhật xâm chiếm Đông Dương, trường sở bị trưng
dụng, ông rời Hà Nội, về dạy học ở Trường tư thục Kỳ
Giang, tỉnh Thái Bình, rồi về lại làng quê Đại
Hoàng. Thời kỳ này, Nam Cao cho ra đời nhiều tác phẩm.
Ông in truyện dài nhiều kỳ Truyện
người hàng xóm trên tờ Trung
Bắc Chủ nhật, viết xong tiểu thuyết Chết
mòn, sau đổi là Sống mòn.
Tham
gia hoạt động cách mạng
Tháng 6 năm 1943, Nam Cao gia nhập Hội
Văn hóa cứu quốc Việt Nam, đoàn thể trong Mặt
trận Việt Minh, và là một trong số những thành viên
đầu tiên của tổ chức này. Trong không khí bị đàn áp
gắt gao, ông phải rời Hà Nội về quê.
Năm 1945, trong
cao trào Cách mạng tháng Tám, Nam Cao tham gia
cướp chính quyền ở phủ Lý Nhân, được cử làm Chủ tịch
xã của chính quyền mới ở quê ông. Tháng 11/1945, Nam
Cao từ quê ra Hà Nội, được cử làm Thư ký tòa soạn tạp
chí Tiên Phong, rồi
được cử làm phái viên tham gia đoàn quân Nam tiến.
Cuối năm 1945 ông trở ra Bắc. Thời gian này,
1945-1946, ông đưa in trên tạp chí Tiên
phong các tác phẩm "Mò
sâm-banh" (truyện ngắn), "Đường vô Nam" (bút ký). "Nỗi
truân chuyên của khách má hồng" (truyện châm biếm
chính trị), "Cách mạng" (truyện ngắn). Ông đổi tên
truyện "Đôi lứa xứng đôi" thành "Chí Phèo" đưa in
trong tập truyện "Luống cày" (Hội Văn hóa cứu quốc VN
xuất bản, 1945) chung với Nguyễn Huy Tưởng, Nguyên
Hồng, Kim Lân.
Cuối năm 1946, Nam Cao nhận công tác ở Ty
Văn hóa Hà Nam, làm báo Giữ nước và Cờ
chiến thắng của tỉnh này. Mùa
thu năm 1947, Nam Cao lên Việt Bắc. Ông là thư ký tòa soạn
báo Cứu quốc Việt
Bắc, viết Nhật ký ở rừng. Tại
chiến khu, năm 1948, Nam Cao gia nhập Đảng
cộng sản Việt Nam.
Năm 1950, Nam Cao chuyển sang làm việc ở Hội
Văn nghệ Việt Nam, làm việc trong toà soạn tạp
chí Văn nghệ. Tháng 6, ông
thuyết trình về vấn đề ruộng đất trong hội nghị học
tập của văn nghệ sĩ, sau đó ông được cử làm Ủy viên
tiểu ban văn nghệ của Trung
ương Đảng. Trong năm đó, ông tham gia Chiến dịch Biên giới.
Tháng 5 năm 1951, Nam Cao và Nguyễn Huy Tưởng về
dự Hội nghị văn nghệ Liên
khu 3, sau đó hai nhà văn cùng vào công tác khu
4. Nam Cao trở ra tham gia đoàn công tác thuế
nông nghiệp, vào vùng địch hậu khu 3. Ông có ý định
kết hợp lấy thêm tài liệu cho cuốn tiểu thuyết dự định
sẽ viết. Trên đường đi vào vùng tề, đoàn thể trong hội
bơi tỏa ra bốn hướng, nhưng ông không biết bơi lội nên
đã bị quân Pháp phục kích vây bắt và sát hại, hy sinh
vào ngày 30 tháng 11 năm 1951 (nhằm
ngày mùng 02 tháng 11 âm lịch), tại đồn Hoàng Đan
thuộc làng Vũ Đại, xã Gia
Xuân, Gia Viễn (Ninh Bình).[1]
Sau khi hy sinh, phần mộ ông đã bị thất lạc.
Đầu năm 1996, một chương trình có tên "Tìm lại Nam
Cao" nhằm tìm lại mộ phần của ông được Hiệp hội Câu
lạc bộ UNESCO Việt Nam tổ chức với sự tham gia của 35
đơn vị tham gia như Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội, Hội Nhà văn Việt Nam, báo Nhân dân,... Với sự giúp đỡ của
7 nhà ngoại cảm mà
Liên hiệp khoa học công nghệ tin học ứng dụng (UIA)
mời dự, một ngôi mộ được cho là của Nam Cao đã được
tìm thấy ở nghĩa trang huyện Gia Viễn, (Ninh Bình) và quy tập về quê hương
ông (xã Hòa Hậu, Lý
Nhân, Hà
Nam).
Tuy mất sớm, nhưng ảnh hưởng của ông đến văn học Việt Nam vẫn
đáng kể. [2]
Cũng trong năm 1996, Nam Cao được truy tặng Giải
thưởng Hồ Chí Minh về văn học
và nghệ thuật.
Nhà tưởng niệm Nam Cao được thành lập từ
ngày 30 tháng 11 năm 2004 tại Hà
Nam để tưởng niệm 53 năm ngày
mất của nhà văn này.
Tác phẩm
Tiểu thuyết
- Truyện người hàng xóm (1944)
- Báo Trung Bắc Thứ Bảy
- Sống mòn (viết
xong 1944, xuất bản 1956)[3], Nhà xuất bản Văn
Nghệ.
- Và bốn tiểu thuyết
bản thảo bị thất lạc: Cái bát,
Một đời người, Cái miếu, Ngày lụt.
Truyện
ngắn
Trước
cách mạng
Sau cách
mạng
- Mò sâm banh (1945)
- Năm anh hàng thịt (1945)
- Một cuộc đốt làng (1945)
- Nỗi truân chuyên
của khách má hồng (1946)
- Cách mạng (1946)
- Đôi mắt (1948)
- Đợi chờ
- Trần Cừ
- Những bàn tay đẹp
ấy
- Hội nghị nói
thẳng
- Định mức
Truyện
ký kháng chiến
- Đường vô Nam
- Ở rừng (Nhật
ký)
- Từ ngược về xuôi
- Trên những con
đường Việt Bắc
- Bốn cây số cách
một căn cứ địch
- Vui dân công
- Vài nét ghi qua
vùng giải phóng
Ngoài ra ông còn làm thơ và biên soạn sách
địa lý cùng với tác giả Văn Tân: Địa
dư các nước châu Âu (1948), Địa
dư các nước châu Á, châu
Phi (1969), Địa
dư Việt Nam (1951).
Danh
hiệu tôn vinh
Gia đình
Ông có một vợ và năm người con, trong đó một
người đã mất trong nạn
đói năm Ất Dậu.
Tham khảo
Ghi chú
- ^ nhiều
nguồn ghi Nam Cao tên thật Trần
Hữu Trí
- ^ Theo
Nguyễn Văn Hạnh.
Nguồn:https://vi.wikipedia.org/wiki/Nam_Ca