Việt
Nam
Văn
Hiến
Năm
Thứ
4889
www.vietnamvanhien.info
Nguồn
Gốc
Chữ
Nôm
Đỗ
Thành
Có
rất nhiều và đủ bằng chứng
hiển nhiên là chữ Nôm có trước chữ Hoa
và Hán-Việt.
2800 năm trước có
bài hát của người
Việt khi chèo ghe, là bài “Việt nhân ca” được truyền
đến ngày nay, là
chữ Nôm.
2500 trước có “Duy giáp lệnh” của
Việt Vương
Câu-Tiễn nằm trong sách Việt Chép,
là chữ Nôm.
Các truyền thuyết, cổ sử, cổ thư và cổ thi từ dân
gian cho đến sách
của Khổng Tử biên soạn, và “từ điển” thời xưa v v... đều sẽ chứng minh được
là “hiển nhiên” rằng: chữ Nôm có trước!
Tôi xin trình
bài khảo cứu nguồn
gốc chữ Nôm và Chữ Nôm có trước chữ
Hoa và Hán-Việt với nhiều bằng chứng rỏ
ràng được xét từ giáp cốt văn, cổ
thư-cổ sử.
Xin
lần lượt xem qua từng bằng chứng:
Sách
“Thuyết-Văn” còn gọi là “Thuyết văn giải tự”do Hứa
Thận thời Đông Hán biên soạn,
bao gồm 2 phần là Thuyết văn và
Trọng Văn.
- Phần Thuyết văn
gồm 9.353 chữ, chia theo 540 bộ chữ.
- Phần Trọng Văn gồm 1,163 chữ, chỉ ra những chữ cùng âm
cùng nghĩa nhưng mà cách
viết khác nhau.
Sách
Thuyết
Văn gồm 14 chương chính và 1 chương
mục lục, tổng cộng có 133.441 chữ trong lời ghi chú
để giải thích chữ nghĩa. Năm Vĩnh Nguyên thứ 12 (Công nguyên, năm
100), sách Thuyết-văn được hoàn tất nhưng mãi đến năm Kiến Quang thứ
nhất (Công nguyên, năm
121 ), Hứa Thận mới giao cho
con là Hứa Xung dâng
lên triều đình Hán .
Nguyên bản của
Thuyết văn đã
thất lạc, cũng là nhờ các thư tịch khác
thời Hán và các đời sau đã dùng
Thuyết văn để dẫn chứng nhiều, cho nên, sau
nầy người ta có tài liệu biên soạn
lại sách Thuyết văn. Thời Bắc Tống , rồi
đến thời Mãn Thanh đều có người
nghiên cứu và hiệu đính.
Sách
Thuyết văn dùng 2 phương
pháp “Phản” và “Thiết”
để
tra
chữ,
rồi
giải
thích
nghĩa, tạo ra
tiền lệ và trở thành quyển từ điển
đầu tiên. Các từ điển sau nầy là
phỏng theo phương cách của Thuyết văn.
-“Phản” là
cách nói phản-nghịch (nói lái): dùng từ phản (nói
lái) để đọc ra phát âm
của chữ cần tra cứu. Ví dụ:
Phát âm chữ “Thiên 天” là theo cách nói
lái của “Tha-Tiền 他
前”, là “Thiên
Tà”, thì sẽ biết
“Thiên” là phát âm của chữ “Thiên 天”: 天 = 他
前.
-“Thiết”
là nhất thiết,
là tất cả: chữ đầu lại dùng
luôn âm vần
của chữ thứ 2 để phiên âm ra
giọng đọc của chữ cần tra cứu.
Ví dụ:
Phát âm chữ “Thiên 天” là dùng chữ “Tha-Tiền 他
前”. Với cách đánh
vần chữ “Tha 他” dùng luôn
âm “iên” của chữ “tiền前” thì sẽ được
Tha-iên-Thiên: 天=他
前.
Hai phương
pháp “phản” và “thiết”
có cách dùng trái ngược nhau, nhưng
nhập chung lại thì cách nào cũng được,
và gọi chung là “phương pháp phản-thiết”
để phiên âm.
Nhờ cách
phiên âm phản-thiết của
Hứa Thận, cho nên người ta có thể căn cứ
vào cách đọc của Thuyết văn để phục
nguyên âm đọc Hán ngữ cổ. Cách giải tự
trong Thuyết văn có nhiều đóng góp
cho việc khảo cứu ngôn ngữ học. Qua đó, người ta
có thể phục nguyên cách đọc của thời
cổ xưa. Đời nhà Thanh có bốn học giả nổi
tiếng đã nghiên cứu và hiệu
đính Thuyết văn.
Có hiện tượng
“không bình thường”
là khi dùng tiếng Hoa ngày nay để đọc
“Hán ngữ” cổ thì khó khăn, không
thích hợp, còn dùng tiếng Việt để đọc lại dễ
dàng. Từ đó rút ra kết luận: đọc Thuyết văn
theo tiếng Việt thì đúng, mà đọc
theo tiếng Hoa thì nhiều khi sai vì không
hoặc khó phiên âm đúng.
Chính
vì tiếng “Hoa” không đọc nổi “Thuyết
văn giải tự”, cho nên các đời sau nầy khi
biên soạn lại sách Thuyết văn, người ta thêm
vào cách phiên âm “mới” hơn so với thời
Cổ đại. Dù là như vậy nhưng, những âm
Trung Cổ đại lại một lần nữa cũng gần với âm
Việt hơn là tiếng Hoa ngày nay.
Chúng ta có thể nhận ra những phần
phiên âm theo cách “phản-thiết” mà
người đời sau thêm vào. Khi đọc sách Thuyết văn
thấy đã có hướng dẫn cách đọc chữ
của Hứa Thận rồi mà lại có thêm 3 chữ
“X X thiết” nữa mà lại khác với cách “hướng
dẫn các đọc” của câu có trước thì
đó là bản được “soạn” lại! Bản nào được biên
soạn vào đời nhà Thanh thì có thêm
phần “XX thiết” đọc theo tiếng quan
thoại-phổ thông được hơn.
Liệu
có
còn bản chính của
Thuyết văn do Hứa Thận thời
nhà
Hán viết ra không?
Không! bản Thuyết văn xưa nhất
hiện thời, cho dù được
gọi là “nguyên bản”, được chụp hình đăng
lên Internet hay in
thành sách để bán thì cũng là
bản được biên soạn vào thời nhà Tống ! Những
bản khác còn được
làm
muộn hơn nữa.
Nhưng
dù
sao đi nữa, sách Thuyết
văn có giá trị
là nhờ nó giữ được nhiều nguyên văn
cổ xưa của Hứa Thận và có nhiều
điển
tích
trong những lời giải thích. Đồng thời sách cũng đưa ra quy
tắc
chữ viết cùng một bộ thì có phát
âm giống nhau v v...
Tôi nhận thấy, đọc Thuyết văn theo tiếng Hoa-quan thoại
thì không phiên âm được chữ như chú
dẫn của Hứa Thận, còn khi đọc theo các
tiếng Việt thì đọc đúng! Ví
dụ:
-
Chữ 夏, tiếng Hoa
ngày nay đọc là “Xia”.
Thuyết văn ghi: 夏 : 中
國之人也. 從
夊從頁從𦥑. 𦥑,兩手. 夊,兩足也. 胡雅切. (Hạ: Trung Quốc chi
nhân
dã.Tùng xuôi tùng hiệt tùng
cúc. Cúc, lưỡng thủ. Xuôi, lưỡng túc
dã. Hồ nhã
thiết.)
Giải thích chi
tiết nghĩa là: Hạ夏: người Trung Quốc vậy. Viết theo 夊xuôi theo 頁hiệt theo cúc𦥑. Cúc , hai tay
(cúc: khép, chấp
2 tay). Xuôi, hai chân vậy. Hồ nhã
thiết.
-Phiên âm theo
cách phản: Hồ nhã = Hà nhỗ, âm : “Hạ”
-Phiên âm theo
cách thiết: Hồ-nhã=Hồ-a-ha , âm : “Hạ”.
Một đoạn ngắn nêu
trên khi tra chữ Hạ 夏 cho thấy thời
cổ đại cho đến thời
nhà Hán thì chữ 夏xia của tiếng Hoa
bây giờ, ngày xưa đọc
là “Hạ夏”. Như vậy, rõ
ràng là dùng
tiếng “Hoa” khi tra Thuyết văn là trật,
là không thích hợp. “Hồ nhã”
không bao giờ phiên âm ra thành “Xia”. Đọc
theo tiếng Hoa-quan thoại thì “胡
雅 (Hủa + Dã)”
không thể nào
đánh vần ra “Xia” theo cách “phản
và thiết”. Cũng
nhờ phần chú thích giải tự thì biết
được ngày xưa khép tay, khoanh tay, hay chấp tay
gọi là Cúc𦥑và hai chân
xuôi thì viết
là xuôi夊.
*Đặc biệt: “Hồ nhã-胡
雅” đọc theo Mân
Việt “雅Nhã” là “Nghé”,
“nghe” hay “nghè”
thì “phản thiết pháp” cuả Hạ夏 trở thành âm Hè夏 theo tiếng Triều Châu và
Việt Nam.
Bây
giờ
ta thử xét một vài chữ có cách đọc
khó và lạ xưa nay:
譒 𢾭也。
从言番聲。《商書》曰:“王
譒告之.” 補過切
chữ Bôn譒 Boa- dã. Tùng
ngôn bàn
thanh. (Thương thư) viết:
“Vương bôn cáo chi”.
Bổ qua thiết, là “ Bổ-ua=bua-boa”.
Bua (Bổ qua thiết) là phiên
âm của đời sau. Nguyên văn của
“Thuyết văn” là “ngôn-bàn thanh言
番聲.”=Bôn.
Bây giờ người ta đọc chữ Bôn (bua-boa)-譒là “Phiên” hay là “Phồn”. Đọc là “phồn”
thì còn hợp với
Thuyết văn đã ghi là “ngôn, bàn
thanh”. Bôn hay Phôn hay Phồn giống nhau, chỉ
là đọc giọng nặng nhẹ khác nhau theo từng miền
“đông, tây, nam, bắc”. Người ta còn đọc là 譒phiên theo âm chữ ghép
bên phải là “phiên番”; và cách đọc “phồn譒” là vì
ghép vần 番phiên và 言ngôn. Nhưng thời xưa lại đọc chữ 番phiên là “bàn番”.
Xin giải thích
thêm: 譒 vết tích của
âm “Boa” còn được
dùng trong tiếng Triều Châu- Mân
Việt ngày nay. Hiện giờ tiếng Triều
Châu vẫn gọi “bàn chân” là
“kha-bóa” (Kha là kẳng/cẳng, Boa là
bôn/bàn…Bàn là bàn tay, bàn
chân). Từ nguyên văn “tùng ngôn
bàn thanh” của “Thuyết văn” thì chúng ta
biết được ở thời Cổ đại đọc là “Bôn,
Bồn, Bàn”, đến thời Trung Cổ người ta
“biên soạn” lại Thuyết văn thì thêm
vào “Bổ qua thiết = Bua = Boa” phù hợp với
“kha-boa (bàn chân)”. Bên tiếng Triều
Châu còn dùng cho đến ngày nay. Âm của các “Nho gia (?)” từ từ biến
thành “Phiên”- như tên gọi nước
“Thố phiên” hay
“Phồn- tức là nước “Thổ phồn”.
“Phiên” hay
“Phồn” có sau và được
dùng cho đến ngày nay. Người ta lại đặt tên
gọi đó là “từ Hán-Việt”! Tên gọi
là gì cũng được! điều rõ ràng là
“Hán-Việt” của “phiên” hay “phồn” có
sau, còn chữ Nom “bóa” “boa” “bàn” mới là
có trước và đã được ghi trong sách
“Thuyết văn” cũng như tồn tại trong dân gian
Việt cho đến ngày nay. Cho nên nếu
nói rằng “bàn” là “Nôm”
thì rõ ràng
là Nôm có trước.
(Dưới đây sẽ xét
đến âm chữ Bàn trong Thuyết văn...)
番:
獸足謂之番。从釆;
田,象其掌。 附袁切
Phiên: Thú túc vị chi
phiên. Tùng 釆thể; 田điền, tượng kỳ chưởng掌. Phù viên
thiết. Phiên:
Chân thú gọi là phiên, viết theo 釆thể; theo 田điền, như là chưởng
(chưởng: bàn, bàn tay).
Phần trên
là tôi phiên dịch
theo “đa số” hiện giờ! chứ thật ra thì đoạn văn trên phải
phiên dịch là “ Bàn: thú túc vị chi
bàn, tùng
thể; điền, tượng kỳ chưởng.”
Đây là vết
tích
của chữ
Phiên番 trước và ngay thời
Hán, vào lúc ông Hứa Thận
còn sống
thì đọc là Bàn.
Cho
nên còn cách giải nghĩa phần nầy như sau:
{ Bàn番:
Thú túc gọi là Bàn. Theo (thể)釆bẻ ; (Điền)田đàn,
tựa như
cái chưởng. Bàn: chân
thú gọi
là bàn (bàn chân),
viết theo bẻ釆(thể)
và đàn田(điền), tựa
cái bàn (tay, chân)...} Vì
sao lại “diễn nôm”
như
vậy
?
Vì
thuyết văn đã
viết đây là “ngôn- bàn thanh” {Chữ bẻ釆(thể) quá đặc biệt!
“thể”
là “hái” là “bẻ”/ví dụ: “Thể 釆Trà茶” là “hái”
là “bẽ”
“chè-trà”: [Chữ Bẻ釆(thể) gồm chử mể米 và 1 dấu
“ngắt” hay “cắt” ở phía
trên mà tiếng Triều Châu đọc Mể米 là “Bía米” và có thêm cái dấu
dấu cắt phía trên thì có giọng đọc
thành “bẽ釆” là rất phù hợp]. Tiếng Triều Châu còn đọc là
“bboi” hay “bbé” hay “tiaé”, (tiếng Triều châu : “hái
lá” là “tiáe Huêét” hay “Bbé
Huêét”
Huêét âm chử Hiệt頁 nhưng mang nghĩa là “Lá” ), tiếng Quảng Đông là “chsổi釆”, tiếng Bắc Kinh là “chsài釆”. Chsổi hay chsài như là đọc
“thể” không chuẩn mà thành “chsể, chsề”, còn “thể” đọc không chuẩn qua vần “T” sẽ thành “tể” hay “Tiae”
; còn âm “bbé” hay “bẻ” là giống nhau}.
Xin hỏi ai là chuyên gia về
“Hán-Nom” thì những âm của
một
chữ “đặc biệt” như vậy thì là
âm nào là “Hán” và âm
nào là “Nôm” và chữ Hán có trước hay là Nôm có trước? Điều thú vị khi
nghiên cứu Thuyết văn giải tự của Hứa Thận để phục chế cổ Hán ngữ thì thấy rõ phát âm thời Tần và Hán
giống như các tiếng nói Việt Nam
và Quảng Đông
(Việt), Phước Kiến-Triều Châu
(Mân-Việt) ngày nay; và cũng phát giác
những biến âm đã khác tiếng
Việt thời cổ đại mà các phương ngôn
Việt Nam, Quảng Đông, Triều Châu còn
giữ được. Ví dụ tiếng Việt Nam còn giữ được tiếng “bàn” tay, “bàn” chân, và Triều Châu giữ được “boa-boá” hay là “póa” Trung cổ đại mà thời Hán
đã được ghi lại trong “Thuyết Văn”.
Biến âm của Bàn-bồn-bôn/
tùng “ngôn” “bàn” thanh trở thành bua-boa-bóa-poá, trở thành “biên” rồi thành “phiên” và “phồn”...! Thực ra thì từ “bàn-bèn” biến
thành “biên, bua, phàn, phền, phồn, phiên v v...” đó là quy luật
biến âm thường tình của ngôn ngữ theo
miền và theo thời đại với nhiều tiếp
xúc văn hóa và phát triễn khác.
Cổ âm xưa là Bàn, giáp cốt-Kim văn đã vẽ rõ chữ nầy bằng hình bàn chân thú.
Ngày
nay chỉ có tiếng Việt Nam còn
dùng “bàn” là “bàn tay- bàn chân”
thì rõ ràng là tiếng Việt Nam
còn giữ được âm cổ xưa nhất, và cũng
là một minh chứng giọng “Nôm” của chữ “Nôm” là có trước:
có thể nói giáp
cốt văn-chữ tượng hình đầu tiên là “chữ Nôm”.
Cổ
văn vẽ chữ tượng
hình:
番phiên
là “bàn -番” , chữ xưa
là tượng hình, vẽ “chữ
phiên”
là bàn chân thú
có móng vuốt, ngay cả chú thích “附
袁切phù viên thiết”.
Ngày nay đọc như vậy thì
làm sao đúng với ngày xưa? Nếu đọc là “bùa vang- 附
袁” là “bàn (vua)” thì hoàn toàn đúng là “bàn” như chú thích trong Thuyết
văn vậy! Bởi vì chính chữ “bùa符(Phù)” của bùa chú là đồng bộ
thì đồng âm với chữ
bùa附(Hay “Phù”, hay “Phụ”) đó thôi.
- Xét
thêm: Thảo bộ 艸部 蘻kỹ-(hệ) 狗
毒也
cẩu độc
dã 从
艸繫聲
tùng thảo kỷ (Hệ) thanh。古詣
切 Cổ chỉ
thiết.
Cổ chỉ (nghĩ)= kỷ,
ngày nay dùng chữ nầy cho ý nghĩa “liên
kết”,
mà khi có 2 chữ “liên kết” lại đọc là
“liên
hệ蘻”. Thật ra thì
xưa Trung
Cổ ghi là “古
詣cổ ngĩ =kỷ” và biến âm “kỷ” thành ra “kết”
nhưng
sau
nầy
thành
ra “hệ” như
ngày nay.
(Ngày
xưa đọc chữ “詣chỉ” là
“Nghĩ詣”: Ngôn言 chỉ旨 = nghĩ
và phiên âm là 五
計 / Ngũ kế). Phân
tích
kỷ
lưỡng
lời
trong Thuyết văn sẽ thấy rõ
là “nọc độc của chó gọi là
“Cẩu Kỷ (nọc độc)” và “Tùng thảo kỷ
thanh” lại là viết theo bộ thảo艸 với là âm “Kỷ-
hay kỳ”. Vì
tiếng xưa không cố định thanh sắc,
huyền, hỏi, ngã, nặng nên
âm “kỳ”
gần với “kề” và hoàn
toàn phù hợp với “liền kề” cũng có
nghĩa tương tự như “liên hệ”.
Qua khảo cứu kỷ lưỡng, sẽ
có đủ lý do để phục nguyên chữ Nôm
cổ
đại
“kề蘻” đã có trước
âm “hệ” quá mới, và âm “kỷ” với
“kết” cổ đại vẫn có sau
âm “kề”. Vậy: “liền
kì” hay “liền kề”
là
có
trước
“liên
hệ”
Ngôn
bộ 言部 詣nghĩ(chỉ) 至
也 chí dã。从
言旨聲 tùng ngôn, kỷ thanh。 五計ngũ
kế
=
ngễ(切thiết) .
Từ khảo cứu
nầy thấy “thánh chỉ” thời Cổ đại gọi
là “thánh nghĩ”, và
đến thời Trung cổ là
“thánh nghễ”
cho nên phiên âm là “Ngũ Kế五
計” = Nghễ, ngày
nay là “chỉ.”
Chỉ bộ 旨部 旨kỷ 美也mỹ dã。从甘匕聲tùng cam tỉ thanh; âm cam theo tỉ thanh là “kỷ”。凡旨之屬皆从旨phàm chỉ chi thuộc giai tùng chỉ。職雉
切 chức
thị thiết
=chỉ
(biến
âm thành chỉ): xưa đọc
là “kỷ” vì là “cam” với “tỉ thanh”.
Nay đọc
là “chỉ”
Tỷ
Bộ
匕部 匕tỷ 相
與比敘也 tương dĩ tỉ tự dã。从
反人 Tùng phản nhân {cách viết như chữ nhân人 bị lộn ngược
(匕)}
。
亦所以用比取飯.
Tỷ,
diệc
sở
dỉ
dụng tỉ thủ phạn -
“tỷ”có thể dùng để đựng cơm).
Tiếng Việt ngày nay
còn dùng “kỷ” trà, kỷ đựng trầu cau. 一
名柶
(nhất danh mứ/máng) còn gọi
là “mứ” (hay là “máng” ngày nay)。Ngày nay tiếng Triều Châu vẫn dùng chữ “tỷ-đọc thànhTeaá” là cái “chảo” để chiên cơm, còn tiếng
Việt Nam thì lại còn
dùng “máng” là “máng” đựng thức
ăn cho gia súc như cái “máng” dùng cho heo
ăn.
凡
匕之屬皆从匕phàm tỷ chi thuộc giai tùng tỷ. 卑履切 ty lý
thiết (ty
lý = âm “tí-tỉ”) => “匕tỷ” có
sau, nên được giải
thích rõ là
còn gọi là “mứ/ máng柶”.
Mộc
bộ
木部 柶 Tỷ(mứ, máng) 《禮lễ》
有柶hữu tỷ.
柶tỷ/tứ(mứ, máng),
匕
也tỉ dã。
从木四聲
(tùng “mộc”
“ tứ” thanh ) âm
cổ là theo mộc , với “tứ” thanh, tức là “mứ” hay “máng”, cái “máng” đựng thức ăn,
cái “máng” hay cái “mứ” hay cái “tỷ”, cái “kỷ” lại là dùng để đựng thức ăn trong dịp lễ禮。息利
切 tức lị thiết = tỷ
(ghi chú: lị利 đọc là “lị”, chỉ
đến khi có vua tên Lê Lị
thì kỵ húy nên lị mới đổi đọc
thành lợi).=>
从木四聲 Tùng mộc
tứ thanh:
mộc
+
tứ là “柶mứ”/ máng là “chữ
Nôm” có trước, âm “tỷ”
có sau và chỉ đọc “tức lị息
利” bằng Hán-Việt
được mà thôi,
còn “xĩa lía息
利”=
“xĩa”/
tiếng bắc kinh và “xíc lì息
利”=
“xi”/
Tiếng Quảng Đông và “xech lịa息
利”=
“xia”/
Tiếng Triều Châu... đều
“khó
lòng”
và
“không”
“phiên
âm” được chữ nầy thành ra chữ
nào có âm chính xác theo
cách “phản” cũng
như là “thiết”!
Chính vì vậy mới thấy được
cái âm “Mứ柶, Máng柶” là chính
xác và có trước,
và âm Tỷ柶 là có sau.
Các “phương ngôn”
khác của chữ nầy thì khỏi bàn
luận... vì không dùng nỗi,
dùng
sai hoặc biến âm khác xa rồi, hoặc không còn dùng chữ
nầy nữa.
Chữ nầy cũng là một
bằng chứng rằng tiếng Nôm, chữ
Nôm có trước!
Chữ “gần近” ở Triều Châu
đọc là “gìn/ kìn近”, ở Phiên Ngung đọc
là “khạnh/ cạnh近”, ở Bắc Kinh đọc là “Jín近”. Thời nhà Đường
nhiều nơi lại đọc là “cận 近” ; chữ “tiệm店” ở Triều Châu
đọc là “tiẹm店”, ở Quảng Châu đọc
là “tiêm店”, ở Bắc Kinh đọc là “tién店”, thời nhà Đường
nhiều nơi lại đọc là “điếm店”. Gần-gìn, khạnh/cạnh với “jín” cũng chính
là “gìn”, cùng với “tiệm” “tiêm” “tiẹm” “tiién”... Xin nhấn mạnh là
riêng ở bên
“tiếng Hoa” thì đã chứng minh và công
nhận rằng tiếng
Quảng Đông và
Triều Châu là có trước tiếng Hoa-Bắc
Kinh mấy ngàn năm. Như vậy cũng
có nghĩa là chữ “gần/ cạnh” có trước chữ “cận hay jín” và “tiệm/ tiêm” có trước “tién” hay “điếm” của “Hán
–Việt” vậy.
Ngày nay, lại có Khương Nhung
bên Trung
Quốc xuất bản tiểu
thuyết “Tô tem Sói”,
cho
rằng chữ tượng
hình chính là do dân du
mục sáng tạo ra. Từ
lý
giải chữ Mỹ美 chính là con dê羊 lớn mập là đại大, thì là đẹp, đẹp lòng
khi nuôi
được con dê lớn thì là Mỹ美, (美=羊+大) tác
giả cho rằng chữ
vuông là của dân “du mục”.
Vì
vậy đẹp, Mỹ美 là “nuôi dê” là “du mục” và “Người Hoa-gốc bắc-du mục” sáng tạo ra chữ
vuông!
Khương Nhung nói về cái “đẹp” là Mỹ美 mà không dính líu với
trồng tỉa và nông nghiệp!
Tác
giả
cố tình không biết hay là
thật sự không biết rằng:
Chữ Lệ麗 là cũng là mỹ là đẹp, và chữ lệ còn hay hơn
chữ Mỹ美 nhiều!
Chữ Lệ麗 là con nai(鹿lộc)
vàng
ngơ ngác với trên là đôi
mắt
nai mở to chứ không nhắm lại! Như vậy,
xét
theo chữ Lệ麗 thì chữ vuông
là thợ săn hay “thi sĩ” hay “họa sĩ”
sáng tạo ? Xin hãy cười
cho vui! Người đời hay dùng chung nói đẹp đẽ là Mỹ Lệ-美
麗 hay diễm lệ-艷
麗.
Xin dẫn chứng
tiếp:
- Chữ Diễm艷 là “đẹp” diễm
tuyệt, là sắc đẹp
đầy tràn, bên trái của chữ Diễm艷 là chữ Phong豐, bên phải là
chữ Sắc色. Chữ Phong gồm chữ Đậu豆(hạt đỗ-hạt
đậu) bên dưới và
hình ảnh bông lúa “丰丰”đầy đồng phía trên,
“diễm” được diễn tả bằng “sắc đẹp” của bông lúa“丰丰” và đậu豆(đỗ). Khi phục nguyên chữ Nôm thì
chữ “Diễm艷” nầy lúc đầu có phát âm
là “Đẹp艷”. Vì sao? Vì rất nhiều địa phương không
phát âm vần “Đê/đ” được! Ngày nay tiếng Bắc Kinh, Quảng Đông,
Triều Châu đều không có âm “Đ”,
cho nên đã đọc “Đẹp艷” là “Dep-diẹm” rồi thành-diềm艷 (tiếng Quảng đông ngày nay), diễm艷(Từ Hán-Việt), dén/yen艷 (Tiếng Bắc kinh ngày nay)”
- Phục nguyên chữ Nôm “lệ麗” chính là “đẽ麗” vì “đẽ麗” nhiều nơi đọc
không được, đọc
trệch thành “lẽ” và
“lẹ” rồi thành “lệ麗” . Nhập chung lại sẽ
thấy “đẹp đẽ-艷麗” sinh ra “Diễm
lệ” trở thành “diễm lệ-艷麗”
- Phục nguyên chữ
Nôm “Phong豐” có thể
chính là “bông豐” vì chữ nầy
nói về “bông”
lúa và âm “đậu” hay “đỗ” hoàn
toàn phù hợp ý nói “đậu bông”,
“trỗ bông”. Phong phú豐
富 là bông lúa豐
富, có nhiều
lúa (với phú富 gồm chữ Điền田 và bông
lúa) là giàu! Chữ
“bông豐(Hoa)” kết với chữ “sắc色(sắc đẹp)” thì đúng là “đẹp艷Diễm”.
- Chữ Nhã雅 là tao nhã,
là đẹp với chữ “nha 芽” tức là manh nha,
nhú mầm, nẩy
mầm,
nhảy
mầm của hạt giống mới
nẩy mầm. Phục nguyên giọng đọc
của “Nha芽” và “Nhã雅” chính là “Nhảy芽/雅” bị đọc trệch là “Nhã雅” Hán-Việt
và “Ngạ雅” / tiếng Quảng
Đông, “nghè-Nghe,
nghé雅”/ Tiếng Triều
Châu, và “Dã雅(ya)” / Tiếng Bắc Kinh… chính
là
dân nông
nghiệp ca tụng cái đẹp của “nhẩy芽nẩy, nhú” mầm của hạt giống.
Chữ Phước福 có Y/衣/áo, cũng có
Điền田 là ruộng
lúa nước.
Có thể kể ra thật
nhiều trường hợp nữa, nhưng
tôi tạm dừng ở đây, vì muốn nói cho
cùng, phải làm một công trình quy mô
khảo cứu và dịch toàn bộ sách Thuyết văn. Nhưng để
chứng minh chữ Nôm của người Việt có trước chữ Hán
của người Hoa thì có lẽ cũng là đủ, vì
còn phải dẫn chứng qua phần chi tiết
khác.
Thứ chữ mà tôi
gọi là chữ Nôm
thì nhiều người gọi là chữ Việt cổ. Không sao, chỉ
là cách gọi. người Hoa Hạ đã dùng chữ
Nôm của người Việt cổ phương Nam chế ra chữ Hán.
Khi
tìm
ra cội nguồn chữ Nôm, sẽ càng
hiểu mức độ văn hóa
và sức
sống
mãnh liệt nguồn gốc
và văn minh Bách
Việt của
tộc
Việt, càng cảm thông và kính phục cha
ông mất bao trí tuệ và công sức sáng tạo và bảo
tồn
cho chúng ta về chữ và ngữ của tổ tiên.
Chử Nôm có trước từ xưa
và vẫn
tồn tại trong suốt qúa trình lịch sữ
và cho đến ngày hôm nay; Đó là
lý do vì sao tôi đã phục nguyên được
“Việt nhân ca” và
“Duy
Giáp
lệnh”.
(Còn tiếp…{Với bằng chứng “kinh
Hoàng” và “rỏ
ràng” hơn})
Sacramento Ngày 29
tháng 03 năm 2010.
Đỗ Thành/ Nhạn
Nam Phi
Ghi chú:
Có qúa nhiều quan niệm xưa “Truyền
thống” về chử Nôm
-Xin tham khảo thêm
các bài và
tài liệu sau đây.
http://www.blogsach.com/product_info.php?manufacturers_id=10&products_id=804
*“Ghét đời Kiệt
Trụ” . Tác giả :
Nguyễn Thiếu Dũng
* ”từ chử phụ đi tìm nguồn
gốc chử tượng
hình” . Tác giả : Nguyễn Thiếu
Dũng.
*nghị luận
“văn tập” của
tổ ngôn ngữ quốc tế hán học
hội lần thứ 3
*PHÁT
HIỆN
LẠI
VIỆT
NHÂN
CA
(越人歌)
*PHỤC
NGUYÊN
DUY
GIÁP
LỆNH
CỦA
VIỆT VƯƠNG CÂU TIỄN .
*Thuyết Văn online: http://shuowen.chinese99.com/index.php
Nguồn:
http://www.anviettoancau.net
Chữ
Nôm
Cổ
Xưa
và Ý Nghiã Việt
Đỗ Thành
Chữ “Nôm”
có trước “Hán-Việt”! Nếu hôm nay tôi
không phát giác thì cũng sẽ có người
khác tìm ra điều nầy!
Trước hết xin xác định chữ Nôm là gì? để dễ
thảo luận. Theo quan niệm thông thường
của người Việt Nam thì chữ Nôm là những chữ mượn
chữ Hán để thể hiện chữ với phát
âm “thuần Việt” phương nam khác với phát âm
của “Hán ngữ” thì gọi là chữ Nôm. Còn
những thứ chữ như Nòng nọc, Hỏa tự, chữ trên đá
Sapa, chữ giả định trên trống đồng…
thì được gọi là chữ Việt cổ. Nhưng, Trong khi đó,
người Việt sống ở Hoa Nam như Việt
vùng Quảng Đông và Mân-Việt là Triều
Châu, Phước Kiến(các nơi nầy có tên là
Nam-
Việt, Mân-Việt, Đông Việt trong lịch sử) lại cho rằng những
chữ, hay tiếng nói cổ xưa
của tổ tiên để lại mà không ký âm được
bằng chữ Hán – Quan Thoại hiện giờ thì đều là
chữ (tiếng)Nam- Nôm: nhà nghiên cứu Nguyễn Thiếu
Dũng đã gọi chữ Việt cổ là “tiền
Nôm”, còn chữ Nôm từ đời Trần về sau là “hậu
Nôm”. Trong bài này, tôi gọi chữ Nôm
là
chữ do người Việt sáng tạo từ xa xưa-chữ Vuông/ Nôm.
Về nguồn gốc chữ Nôm, quan niệm “phổ biến” hiện nay như sau:
- “Chữ Nôm ra đời bắt nguồn từ tư tưởng chống Hán
hóa, là ý thức phản vệ của dân tộc
trước những gì có tính ngoại lai. Vào thời
kỳ Bắc thuộc, người phương Bắc tràn vào Việt
Nam với dụng ý muốn đồng hóa dân tộc Việt, chữ
Nôm ra đời chống lại xu hướng Hán
hóa của người phương Bắc, đồng thời khẳng định tinh thần
dân tộc, tuy nhiên, điều đó
chưa thực sự mạnh mẽ một cách có ý thức. Chữ
Nôm thuộc loại hình văn tự khối vuông
– nghĩa là toàn bộ chữ được cấu tạo trong một ô
vuông, được xây dựng trên cơ sở chất
liệu là chữ Hán và được đọc theo âm Việt.
Chữ Nôm xuất hiện ở Việt Nam khi chữ Hán đã
vào Việt Nam và đã được hình thành
một cách có hệ thống âm Hán Việt, nên
ban đầu chữ Nôm thuần túy ghi âm Việt. Dần
dần có những chữ Hán không ghi được âm
Hán Việt cho nên các chữ Nôm sáng tạo
được ra đời.
Khi ý nguyện sáng tạo ra một dạng chữ riêng của
người Việt trở nên mạnh mẽ hơn trong
thời Lê, những chữ Nôm được tạo ra một cách
có ý thức hơn đã giúp cho sự hình
thành
thêm nhiều chữ Nôm mới đủ để biểu đạt được tâm tư,
nguyện vọng, tâm hồn và khí
phách dân tộc trong các tác phẩm văn chương
như thơ, phú, chiếu, cáo, biểu v.v. Sự
sang tạo đó đã để lại cho đời sau những di sản thơ
Nôm vô giá từ những bài thơ của
Nguyễn Thuyên đến Quốc âm thi tập của Nguyễn Trãi,
từ Hồng Đức quốc âm thi tập
của Lê Thánh
Tông đến Bạch Vân am thi tập của Nguyễn Bỉnh Khiêm,
từ Đại Nam quốc sử diễn
ca đến Đoạn trường tân thanh; từ những bài thất ngôn
bát cú thơ Nôm của Hồ Xuân
Hương đến dạng song thất lục bát trong Chinh phụ ngâm của
Đoàn Thị Điểm, thơ lục
bát với Lục Vân Tiên của Nguyễn Đình Chiểu.
Rồi thi văn hát nói của Nguyễn Khuyến,
Tú Xương,v.v. và không ít những tác
phẩm truyện Nôm khuyết danh khác như Thạch
Sanh, Trê Cóc, Nhị độ mai, Phan Trần, Tấm Cám, Lưu
Bình Dương Lễ, Ngư tiều vấn
đáp y thuật, Kim thạch kỳ duyên, Nữ tú tài,
v.v.”(trích: Bách khoa toàn thư mở wikipedia:Chữ
Nôm)
Những điều nêu trên trở
thành “quan niệm truyền thống” khẳng định chữ Nôm
mới có sau nầy, do
học được từ chữ Hán! _ Điều nầy không đúng sự thật!
*Khi tìm nguồn gốc chữ Nôm mà chỉ xét theo
không gian biên giới và địa lý hạn hẹp
bởi “riêng một địa phương” là chưa rõ sự thật ! Bỡi
vì lịch sử người Việt đã cư trú trên
1 địa bàn rộng lớn hơn phần cơ bản của “những nhận định Chữ
Nôm là Mượn từ chữ
Hán”. *Ngược với quan niệm “Chữ nôm có sau”,
tôi đã phát giác phát âm
Nôm có trước,
và phát âm mà người đời gọi là
Hán, Hán-Việt, Hoa ngữ là có sau chữ
Nôm, chính là
phát âm Nôm có trước, rồi mới được cãi
tiến mà có phát âm mới hơn mà sau nầy
gọi là
Hán,và Hán Việt.
Khi xét theo “thời gian” ngắn hạn, chỉ từ thời cận đại hiện nay
đến trung cổ đại,thời bắc
thuộc, thời nhà Hán rồi dừng lại, là chưa
rõ sự thật! Bởi vì, tiếng nói và chữ viết
của
người phương nam là người Việt nó bao la vì nhiều
chi tộc, có nhiều phân chi Lạc Việt
là Lạc bộ Chuy, lạc bộ Mã cùng nhiều nước Việt nhỏ
… đã làm chủ vùng Thái Sơn và
Hoàng Hà trước thời Đông Chu Liệt quốc. Để lại
câu ca dao “Công cha như núi Thái
sơn…”;Chữ Nôm trong một chi Việt tộc chỉ là một phần trong
chữ Nôm của cái “đại thể”
là “Bách Việt tộc”. Vì vậy phải khảo cứu rộng
và xa đến thời thượng cổ, ít nhất là từ giáp
cốt văn thì mới có thể thấy được sự thật.Chữ Nôm
là chữ tượng hình và đã biến đổi trở
thành không còn là chữ tượng hình,
mà thành chữ “biểu ý”vuông cho đẹp, cho
nên gọi
là chữ Vuông.
Hình như là tổ
tiên người Việt không chỉ có sáng tạo ra một
loại chữ, mà có thể kể đến
chữ Nòng nọc (Khoa
đẩu), chữ hình ngọn lửa (Hoả tự), chữ tượng hình vẽ
chó vẽ nai
ở Sapa, vẽ hình bước
lên cao, hình đứng bên cây yêu nhau v v…
ở Vân Nam và nhiều
nơi mà người ta
đã phát hiện. Tại những di chỉ văn hóa như
Bán Pha, Ngưỡng Thiều,
Đông Sơn v v… đều
có dấu tích các chữ viết thuộc về tiền thân
của giáp cốt văn và
chữ Vuông ngày
nay. Điều éo le là đến nay chỉ có chữ vuông
của sử sách bên Trung
Hoa lưu lại và bao
trùm văn minh Á Đông (Vì Việt Nam
đã đổi qua dùng A< B < C vì
ảnh hưởng từ thời Pháp thuộc.) Chữ Vuông đi từ phôi
thai cho đến phổ cập từ đời nhà
Hạ, Thương, Chu đến ngày nay. Đó là loại chữ viết
ít nhất có trên 5000 năm lịch sử với
những tên gọi khác nhau:
-Có thể gọi đó là: là Chữ “vẽ hình”
ở thời nhà Hạ?- Chữ “giáp cốt” ở thời nhà Thương?
- Chữ “giáp cốt văn”, “kim văn”, “chung đỉnh văn” ở thời
nhà Chu ? – Chữ “Hán” ở thời
nhà Hán ?-Gọi là Trung văn, chữ Hoa, chữ
Tàu, Chữ China, Chinese v v… Ngoài ra,
người ở Hoa Nam còn gọi là chữ Đường-(người Quảng
Đông gọi là “Thòn chìa”, người
Triều Châu gọi là “Tưng Dia”); và lại gọi là
“Duyệt粵 mành文” (Việt văn) theo tiếng
Quảng Đông, gọi là “Vuông文 dia字” (chữ字 Vuông文)
theo tiếng Triều Châu. –và, Ở tận
phương nam còn
gọi cái chữ có dạng hình Vuông là chữ
Hán, là Hán Việt, là Nôm và
cũng gọi là “chữ字 Vuông文”.
Thật ra đó là chữ “Vuông文” của người Việt,
và ngày nay chỉ có Việt ngữ phương
Nam mới có âm đọc và chữ để viết “chữ Vuông”
bằng hai tiếng “chữ字 Vuông文”. Tuy
rằng người Việt Nam ngày nay đã đọc “文vuông”
là “Văn文”, nhưng dấu tích “văn文”
là “Vuông文” còn giữ được bên tiếng Triều
Châu; Người Mân Việt-Triều Châu cho đến
nay vẫn chỉ đọc chữ “văn文” là “Vuông文” mà
thôi, không bao giờ đọc là “văn文”. “Văn”
là do đọc trệch âm “Vuông文” mà thành.
Nếu nói chữ “Vuông文” là của dân tộc
khác thì
tại sao không có bất cứ dân tộc nào có
2 chữ với phát âm là “chữ字 Vuông文” để chỉ
hai chữ “chữ Vuông”= 字文 ? Tiếng Việt ngày nay vẫn gọi
cái hình vuông là “Vuông”-mà
ngôn ngữ khác thì không có điều nầy.
-“Wẻn chứa”=文字 là tiếng Bắc Kinh-Quang Thoại
- “Mành chìa”=文字 là tiếng Quảng Đông.
- “Văn Tự” =文字 là Tiếng Hán Việt.
- Tiếng Triều Châu thì vẫn gọi là “Vuông-chữ”
: Phát âm là “Vuông Dia=文字”
Chỉ cần đảo văn phạm của người Triều Châu hiện nay trở về như
trước kia, (mà sử
sách đã chứng minh là Mân Việt nguyên
có cách nói “chính trước, phụ sau” ngược
với văn phạm Sino-tibetan của Hán văn “phụ trước, chính
sau”), thì “Vuông dia” sẽ
là “dia Vuông” tức là biến âm bỡi “chịa
Vuông”- “chữ Vuông”;*** “Chữ” Vuông : –
phát âm “Chữ字” biến âm thành “chià字”:
tiếng Quảng Đông, và “chứa字”: Bắc Kinh,
và “Dia字” bên tiếng Triều Châu…. “Dia 字
Vuông文” chính là “Chữ字 Vuông文”.
Xin mách với bạn đọc hiện tượng thú vị là người
Triều Châu luôn nói tiếng Việt: Đũa nói
là “Tua”, Mắt nói là “Mắt”, đi tắm thì
nói là đi “chan ét” ( Chan cho… ướt) , bị ướt
thì nói
là bị “Tắm”(Tắm chính là Đẵm/đẵm ướt biến
âm), nhà thì nói là “chsùa”,
chùa thì nói
là “chsìa”… Đọc giả so sánh thì biết tại
sao bên tiếng Việt có tiếng “nhà chùa”
và “chùa
chiền”! “Sẽ” thì nói là “e xia”, “đọc chữ”
thì nói “thạc chưa” và còn gọi là
“thạc Dia” …và
cũng phân ra là “Hán” và “nôm” trong
tiếng Triều Châu! văn hóa thì nói
“Vuông hóe”,
khen ai hay giỏi thì nói là “khẹn” v v..
*Sách “Việt chép” có cách nay khoảng 2500
năm,
trước Sử ký của Tư Mã Thiên, toàn bộ
là chữ Nôm mà đời Tần và Hán
đã phiên dịch
ra “Hán ngữ” và đổi tên thành “Việt tuyệt
thư”, trong đó có “Duy giáp lệnh” của Việt
Vương Câu Tiễn được giữ nguyên văn là chữ
“Nôm” như sau:
維 甲 修 ‘內-矛’ _Tất cả tụ lại mau.
‘方-舟’ 航 治 ‘須-慮’ _Phóng hàng trật tự.
習 之 ‘于-夷’_Tập cho giỏi.
宿 之 ‘于-萊’ _Sống cho vẻ.
致 之 ‘于-單’_Chết cho vang.
(Xem bài “phục nguyên Duy Giáp lệnh của Việt Vương
Câu Tiễn”).
*Và 2800 năm trước đã có bài “Việt
nhân ca-越人歌” là chữ Nôm được lưu lại trong
sách
Thuyết uyển của Lưu Hướng thời nhà Hán như sau:
滥 兮 ‘抃 - 草’ 滥 予 _Năm nầy biện-thảo (bảo) năm xưa
昌 枑 ‘泽 - 予’ 昌 州 州 飠 _Thương hoàng trạch-dữ (tử) thương chiều
chiều xưa.
甚 州 焉 ‘乎-秦’ 胥 胥 _Sớm chiều em hận tương tư
缦 予 ‘乎-昭’ 澶 秦 踰 渗 ‘惿-随’ Mà ai hiểu đặng tình yêu
sâu đầy.
…河 湖_Hò Hớ。
(xem bài “Phát hiện lại Việt nhân ca”)
Đến đây thì có lẽ độc giả đồng ý với
tôi là chữ Nôm đã có từ lâu…
Và Thật ra; Chữ Nôm
có trước thời kỳ Đông Chu Liệt quốc-Thời của Khổng Tử
quá lâu:
là thời của Giáp cốt văn đời Thương, và đã
được lưu lại nằm trong dân ca, sau đó được
Khổng tử biên soạn thành sách vỡ:
-“Quan quan thư cưu” là bài dân ca cổ xưa có
lẽ đã có hơn 3000 năm lịch sử. Trong bài
có đoạn “悠哉悠哉”! Xin hãy xem và nghe chữ Nôm
này được phát âm là: “Diu chai diu
chai” = vui chơi, vui chơi (Hán-Việt đọc là = Du
tãi du tãi”: 悠哉- vui chơi). Bài “Quan thư”
hát bằng tiếng Bắc Kinh ngày nay vẫn còn
phát âm “vui chơi vui chơi” (và còn nhiều chữ
Nôm khác trong bài nầy mà tôi phải sẽ
trình bày trong 1 bài viết riêng sau nầy).
Đây
là Video clip trên youtube ở đoạn1:10 phút sẽ nghe
rõ phát âm “diu chai, diu chai” tức
là “vui chơi, vui chơi”:
http://www.youtube.com/watch?v=TMESHyECkKY&feature=related
***Chữ Nôm có trước chữ Hán quá lâu,
lâu đến đỗi người ta quên mất “Cố đô thành”
mà chỉ biết là “Cô tô 菇蘇” thành một
cách vô nghĩa-khiến không ai hiểu nổi “cô
tô” là
gì…Trong khi tiếng Mân Việt-Triều Châu thì
“Cố Tô” nghĩa là “Cố Đô”! và Xin hãy
xem
Phong kiều dạ bạc hát bằng tiếng Tô Châu (Tiếng
Ngô Việt – vùng đất của Ngô Vương
Phù Sai trước đây) ở đoạn 1:50 phút : “Thành
Ngoại 城外” ngày nay vẫn đọc là “sành
ngoài外”. “sành城 ngoài外” nầy hoàn
toàn phù hợp âm Nôm “ngoài外”:
http://www.youtube.com/watch?v=dpST2A1wYYs&feature=related
Cũng với lý do trên, người ta quên tên gọi của
Việt Vương Câu-Tiễn (鳩淺) và Phạm
Lãi(范蠡). Câu-Tiễn (鳩淺)đọc theo Nôm là
Cu-Tí hay Cu Tửng. Nôm rất là “lạ”, cùng
một chữ đi đôi thì “喜喜-Hỉ Hỉ”có thể đọc là
“喜喜Hí-hửng”; “淺淺tí tí” thì là
tí tửng-Tí ti-
Tí tẹo… cũng vậy; Người Việt có chuyện “kỵ Húy”
nhiều lắm…chợ “Đông Hoa” gọi thành
chợ “Đông Ba”, Lê Lị thành Lê Lợi, thì
ngày xưa “Cu-Tí” trỡ thành “Câu-Tiễn”;
Tên của Phạm Lãi (范蠡)đúng là chữ
“蠡lãi” của con Lãi (Lãi蠡/ Nôm). Cha của Phạm
Lãi muốn đặt tên con là “Long” là “rồng”,
nhưng ngại và đặt tên là “Lãi 蠡” cũng viết
bằng chữ “Trùng-虫”. Chữ trùng ngày xưa là
chữ “Long-rồng-虫-Trùng” (đây là phong
tục đặt tên con cho “xấu” để cho “dễ nuôi”!).
Cũng vì vậy, người ta cũng quên và không hiểu
nghĩa tên của “Trụ Vương” là “Đụ”
(Nôm) và “Đắc-kỷ” là “Đĩ” (nôm) thời
nhà Thương. …Tên vua cuối cùng của nhà Hạ
thật
ra là bị dân chúng chữi là “Kẹch (cặc)桀”
theo giọng phát âm Mân Việt, khi cần nói đến
tên nầy, vì ngại phát âm chữ đó
mà đọc thành ra là “Kiệt”, vì ông vua
nầy mê gái quá
xá!_đây là những vết tích rõ
ràng thời của nhà Hạ và Thương-Thời của
Giáp cốt văn là
phát âm Nôm-chữ Nôm, và Sau nầy, đến
thời Hán và càng về sau thì phát
âm đọc chữ
đã biến âm theo thời gian lịch sử và gọi là
Hán ngữ,…Và Phát âm của Hán, Hoa ngữ
đã
không thể nào hiểu nỗi nghĩa của những “chữ” ghi trong cổ
sử có nghĩa là gì! May thay!
Tôi phát giác đó là CHỮ NÔM-chỉ
cần đọc theo phát âm Nôm là Rõ nghĩa.
Vì Đó là:
Chữ Nôm có trước.
Người ta quên đi chữ Vợ媒(媒-某-畝: các chữ nầy đều là
“Bợ”, “Vợ”) “chồng棕” là chữ
Nôm (bây giờ chỉ thấy tự điển ghi là “Mỗ某” và
“tông棕”), chữ “Thổ-土” cũng là chữ Nôm,
chữ cái chân, bàn chân,
“bàn番”(bàn tay, bàn chân) là chữ
Nôm trong giáp cốt văn v
v….
*** Chữ Nôm là có trước chữ Hán qúa
lâu, lâu đến đỗi người ta quên đi “chữ字Vuông文
” mà chỉ biết có “Văn文Tự字”. Xin Trích phần nầy từ
“thuyết văn” cuả Hứa Thận thời nhà
Hán: 号:5693 文部 文 wen2 錯畫也。象交文。凡文之屬皆从文。 無分切 :
(Phiên hiệu:5693_Văn Bộ_Văn_WEN2_Thác Họa dã._Tượng
Giao Văn>_Phàm Văn
chi thuộc giai tùng Văn_Vô Phân Thiết.)
Giải thích của “Thuyết văn” 2000 năm trước về chữ Văn文 nghĩa
là: “Văn文” : Vẻ sai
vậy, như “chéo” là Văn. Phàm là thuộc về
văn thì theo Văn (cách giải thích ngày xưa
khó hiêủ nhưng rõ nghĩa là “viết sai”
cái hình “vuông”, “như đường chéo” của
“hình
vuông”). Nghĩa là, 2000 năm trước, Hứa Thận đã giải
thích chữ “Văn文” được trình
bày theo cách như là “viết sai” : thay vì
phải vẽ “hình Vuông” thì khó khăn, người ta
đã
dùng cách thể hiện bằng 2 đường chéo “X” của
hình vuông, để nói lên hình ảnh của
cái hình “Vuông”/文. “Văn文” là “Vuông”
từ xưa, được Hứa Thận “ghi nhận” trong sách
Thuyết
văn, và người Triều Châu vẫn luôn luôn đọc
là “Vuông文”. Cám ơn Hứa Thận, và cám
ơn tiếng Triều Châu-Mân Việt đã chứng minh
dùm tôi là: Chữ “Vuông – 文”có trước,
chữ “Văn – 文” có sau.
Dưới
đây xin dẫn một số chứng cứ cho thấy chữ Nôm có
trước chữ Hán:
Ngày nay, tuy rằng đã thay đổi và chữ
“cổ”, chữ “vuông” được gọi là chữ Hán, hay là
Hán-Việt, nhưng nhìn kỹ thì vẫn thấy đầy rẫy chữ
Nôm trong đó mà người Việt không
biết. Sự thật này làm tôi ngỡ ngàng!
Và người Hoa bên Trung Quốc cũng không biết,
càng làm cho tôi kinh ngạc! Chữ tượng hình,
chữ vuông được cho rằng của người Hoa,
không phải của người Việt! Lịch sử Trung Hoa được chính
thức tính từ thời Hạ, Thương,
Chu. Và văn hóa, văn học viết bằng chữ tượng hình,
chữ Vuông đã phát triển rực rỡ từ
thời Chu với Bách gia chư tử, có Nho giáo, Đạo
giáo và Tứ thư, Ngũ kinh, có nhiều cổ
thư và sách sử. Sự thật đã bị đánh
tráo! Thật ra thì chữ tượng hình, chữ Vuông
là của
người Việt. Vì không phải là 24 chữ cái
kèm theo nguyên âm để đánh vần, cho nên,
thuở ban đầu chữ viết là phôi thai rồi lớn dần như em
bé còn chưa định hình tính cách
của mình và còn nhiều khuyết điểm. Theo thời gian
phát triển thì chữ vuông được cải
cách thành hình vuông và đạt nhiều
tiến bộ, đạt tới sự “định hình” và “ổn định”. Cũng
chính vì vậy, sau một thời gian, người ta đã
quên đi cái gốc là “chữ Nôm” ban đầu rồi
cho đấy là chữ Hán của người Hoa. Nhận định sai lầm nầy
làm người ta không thể nào
hiểu nổi lịch sử cổ đại được ghi bằng chữ vuông cho đúng!
Đi vàochi tiết, thì nhiều dòng
chữ và địa danh, tên người v v… thật “ngắn gọn” của cổ sử
mà người ta còn không hiểu
nổi nghĩa thì làm sao hiểu cho đúng lịch sử ? Chữ
Vuông là của người Việt sáng tạo ra.
Đúng ra thì chỉ là một loại chữ, bây giờ
đã bị phân
biệt ra “Hán”, Hán Việt” và “Nôm”!
Thành thử tôi phải dùng đến từ “Hán”,
“Hán-Việt”
và “Nôm” để giải thích và ví dụ như
sau:
Có một số chữ được “Nôm” và “Hán”
dùng chung, vì thật ra chỉ là 1 thứ chữ trước-sau.
Chữ vuông với phát âm cổ là Nôm
dù đã bị gọi là chữ Hán, nếu như so
sánh với cách
phát âm Hán-Việt hay Hoa ngữ-quan thoại ngày
nay, thì vẫn bộc lộ cách phát âm Nôm
có trước khi bắt đầu có chữ Vuông. Vì sao ?
Ví dụ: chữ “Cổ古”(từ Hán-Việt) ở Phiên Ngung
là ngoại ô Quảng Châu tỉnh Quảng
Đông,Trung Quốc ngày nay vẫn đọc là “Củ古”(từ Thuần
Việt-Nôm). Người Việt ngày
nay vẫn nói “đồ cũ” hay “đồ cổ”. Chữ “văn文” thì người
Triều Châu vẫn đọc là “Vuông文
”. Người Việt vẫn nói “hình Vuông” chứ không
nói “hình Văn”. Thì ra, có quá nhiều
lớp
bụi mờ của lịch sử đã phủ lấp sự thật xa xưa, và biến đổi
cách phát âm Nôm làm cho
người ta không biết rằng “phát âm Nôm-chữ
Nôm có trước âm Hán-Việt/ chữ Hán”.
Các
nhà ngôn ngữ học do chối bỏ hay là thiếu tiếp
xúc, so sánh và thiếu hiểu biết tường tận
về lịch sử và cổ sử, nên đã không thấy rằng
đường ranh biên giới nhân tạo của quốc
gia không thay đổi được tiếng Việt của dân chúng bao
nhiêu! Ví dụ, Cắt đôi một miền
đất người Việt ra làm hai bên A và B với thời gian
dài thì tiếng nói hai bên vẫn là Việt!
- Sau khi phân chia, cả A và B cùng nói
“cũ古”. Sau đó nhiều trăm năm, bên A do có
những biến đổi bỡi “thiên-địa-Nhân”, “古” chuyển
thành âm mới là “Cổ”. “Cổ古” sau đó
được thông dụng bên A.
-Nhiều thời gian sau nữa, đại đa số người bên A chỉ biết
“Cổ古”(quên đi âm “cũ古”)
và có đông dân hơn. Bên B vì
ít người hơn, trở thành thiểu số, và bắt buộc phải
bị ảnh
hưởng và học thêm phát âm “Cổ古” của bên
A, đồng thời vẫn dùng âm “Cũ古”.
- Thời gian lâu sau nữa, thiểu số B muốn thoát khỏi ảnh
hưởng của bên A, và bắt
đầu muốn dùng lại “Cũ古” mà thôi. Khi B bắt đầu
dùng lại “Cũ古” thì “cổ 古” đã tồn
tại từ ngàn xưa! Thêm thời gian kéo dài
đã làm A và B bên nào cũng
“quên”, và cho
rằng “Cổ古” có trước và “Cũ古” có sau! Vì
dân số nói “Cổ古” đông hơn bên “Cũ古”, nên
dễ làm người ta nghĩ rằng “đa số” là cái gốc!
Nhưng có một vài nhóm nhỏ bên A, vẫn
sống theo tinh thần “bảo thủ” và “bảo tồn văn hóa truyền
thống”, họ chỉ nói “Cũ 古” từ
thời cổ đại cho đến ngày nay. Ví dụ nầy là để
nói lên nguyên nhân sự ngộ nhận về phát
âm Nôm hay chữ Nôm có sau Hán Việt.
Để chứng minh rằng “chữ Nôm- 字喃” có trước chữ Hán,
“Nôm喃” lại là phát âm của
dân “Nam”, của người Việt越/粵, vậy, tôi xin trình
bày về “chữ Nôm” đơn giản nhất đó là
chữ Việt.
Ngày xưa chữ “Việt” viết như thế nào? và
phát âm như thế nào trong
“Nôm”-“Hán”-“chữ
Vuông”?
-Trước hết, chữ Nôm hay chữ Hán đều là chữ “tượng
hình”, rồi trở thành chữ “biểu ý” và
thành ra “chữ Vuông”.
-Khi viết Nguyệt月 là vẽ hình/ “tượng hình” về mặt
trăng, hình bán nguyệt.
-Khi viết Nhật日 là vẽ hình/ “tượng hình”,
hình mặt trời.
- khi nhập Nhật日 và Nguyệt月 chung thành chữ “Minh明”,
là “biểu Ý”, chứ không
còn là vẽ hình nữa. Và biểu hiện ý
nghĩa thì còn dùng cách ghép
và mượn chữ có
sẵn bằng ý nghĩa của chữ gốc (gọi là giả tá), bằng
âm thanh của chữ gốc (gọi là hài
thanh). Ví dụ: Thỉnh請 là sinh, thanh清 là sạch, đều
là theo cách “biểu ý”; cũng như
chữ tình情 và chữ thanh青 là xanh cũng là chữ
“biểu ý”, để nói lên ý nghĩa, chứ không
thể “dùng màu xanh để vẽ ra cái hình
màu xanh”! và Làm sao vẽ ra hình chữ
“tình” ?
Thông thường thì người ta chỉ đề cập hai chữ Việt
là : Việt粵 và Việt越.
“Việt” có phải là Nôm hay không ? Khi vẽ
hình mặt trời là vòng tròn >O<
phát sáng bởi
có nhiều tia sáng chung quanh, thì đó
là chữ tượng hình. Sau đó chữ tượng hình
được
đơn giản hóa, bỏ đi các tia sáng, chỉ còn
vòng tròn O và gạch ngang ở chính giữa
vòng
tròn. Sau đó, cái vòng tròn lại được
sửa lại, thành ra hình chữ Nhật日 ngày nay.
Phát
âm Hán Việt đọc là“Nhật日”. Phát âm Bắc
kinh-Hoa ngữ đọc như là “Rướ日”.
-Thật ra là được biến âm từ chữ Nôm “Rực/rỏ日-hay
(Diệt)” và thường dùng Anh văn/
English để phiên âm là “ri日”. Phát âm
Mân Việt-Triều Châu thì đọc là “Diềt日”.
“Diềt日” hay là “Rực日” là Nôm ngày xưa của
Bách Việt, và chỉ có người Việt có
phát
âm “Diềt日” nầy. Tôi xin trình bày rõ ở
đây và Xin phục nguyên âm đọc cổ xưa và
có
thể gọi là Nôm hoặc là Nôm cổ đại đọc
là Diềt/(Việt)日. (Việt)/Diềt日 là mặt trời, và cũng
là “Việt” mà có nhiều cách viết khác
là “Việt粵” và “Việt越” v v…(Điều này giải
thích vì
sao có quá nhiều trống đồng có hình mặt
trời ở chính giữa: đó là linh vật của người Việt
cổ đại). Diềt=Việt=日= là mặt trời, là nóng +
sáng, là Quang + Minh của cổ
Việt tộc, tức là tiền Việt mà người đời nay hay gọi
là người gốc “Australoid”. Phát
âm “Việt/diềt日” tương đương âm “Vic” của “victory”
bên tiếng Anh/ English, và có quá
nhiều biến âm đều có gốc âm là “Việt”. Sau
nầy “Việt/ diềt日” còn có rất nhiều chữ “Việt”
khác tùy theo các phân chi và
các vùng của tộc Bách Việt. Tiếng Việt ngày
nay đọc
là “Nhật日”, rất gần với âm “Diềt日” của người Mân
Việt-Triều Châu hiện nay.
Tiếng Mân Việt-Triều Châu là một phương ngữ rất xưa,
được nhìn nhận bởi nhiều
chứng minh là có cỡ ít nhất là 7000 năm
lịch sử, xưa hơn âm Hán Việt thời nhà Hán hay
nhà Đường và thời nhà Tống rất nhiều! Chữ
Nôm với âm Nôm có trước là “Diềt日”, chứ
không phải là âm “Nhật日” của Hán Việt
có trước.
Khi vẽ hình mặt trăng, để phân biệt với hình mặt
trời, thì người ta chỉ vẽ hình
trăng lưỡi liềm, rồi cũng dần dần “vuông” hóa thành
ra chữ “Nguyệt月”. Nguyệt ngày
xưa cũng đọc là “Việt/ Duyệt月”. Tiếng Quảng Đông
ngày nay vẫn đọc “Nguyệt月
” là “Duyệt月” y như phát âm của chữ “Việt粵”
và “Việt越”. Tiếng Việt ngày nay đọc
là “Nguyệt月” rất gần với âm “Việt/ duyệt月”.
-Tiếng “Nam Việt-Việt Quảng Đông” cũng là phương ngữ xưa,
xưa hơn âm Hán hay
Đường và thời nhà Tống rất nhiều… Chữ Nôm với
âm Nôm là “Duyệt月” có trước, chứ
không phải là âm “Nguyệt月” của Hán Việt
có trước.
Người Triều Châu đọc Nhật日 là “Diệt/ diềt” và người
Quảng Đông đọc Nguyệt月
là “Duyệt”, tiếng Việt ngày nay thì là
“Nhật-Nguyệt”. Điều nầy cho thấy thời “tiếng Việt
nguyên thủy” thì dù là mặt trời hay
là mặt trăng, miễn là “ngôi sao – chiếu
sáng” đều có
chung ý nghĩa là soi sáng, là “Diệt/Việt”,
là “Viêm-nhiệt”, là sức nóng và tỏa
sáng, là ánh
sáng quang minh… Và ngay cả ánh sáng của
quang minh được soi chiếu bởi một âm là
mặt trăng và một dương là mặt trời đều có
tên chung cùng phát âm giống nhau là
“Việt/
Diềt”.
Xin liệt kê các chữ “việt” theo tôi đã
nghiên cứu như sau và Trước hết là xin nói
về 3 chữ
Việt “rất là quen thuộc và quan trọng” :
*Việt越: Chữ Nôm đọc là “Duyệt” ở Quảng Đông. Bắc
Kinh đọc là “Yúe越”. Hán-Việt Đọc
là Việt. Triều Châu đọc “Việt越” là “Oắt”
(chú ý: từ âm “yué” qua “úe” rồi
“Oắt” chẳng
bao xa; và thật ra chữ nầy mượn bộ tẩu là “chạy” cộng với
âm cái “Rìu” để thể hiện phát
âm “chiếu”,“chiếu” –> iếu->Oắt).
*Việt粵: Chữ Nôm đọc là “Duyệt粵” ở Quảng Đông.
Ngày nay Hán Việt và Việt đọc
là “Việt粵”, âm Bắc kinh đọc là “Yué粵” (ghi
chú: bên Triều Châu dùng chữ “Việt越”
thay chữ “Việt粵” nầy). Cách viết chữ “Việt粵” nầy rất giống chữ
“dịch易”. chữ “Việt粵
” nầy là “Hướng向” về mặt trời Chiếu sáng- với chữ “thể采”:
là “Bẻ” để “biểu hiện ý” của
âm “E” là “Yue” là “Việt”_ bản thân của chữ
“thể采” trong cổ văn thì đó là chữ Nôm
nghĩa là “Cháy采”, chứ “Cháy” là “Mộc木” đang
phát cháy bằng mấy nét phía trên
là
ngọn lữa, Tôi là người Mân Việt nên hiểu rỏ
chữ “Cháy采”nầy,(“Cháy采” còn 1 phát âm
khác là “Bẻ采” để nói nghĩa khác, và
“bẻ” hay “Bén” cũng lại quay về ấm Bén, cháy
bén…)…cháy采-sáng nguyên 1 vòng
câù tức là “Cầu vòng” mà ngày
nay được viết
bằng “Thể Hồng-彩虹” tức là “Cầu vòng”…nhiều người cứ tưỡng
rằng Việt粵 với bên
trong chữ Hướng向 là “Mễ米” là gạo…, không phải vậy
đâu: Bỡi vì nghĩa cuả “Việt”
là “Nhật- Nguyệt” là Quang Minh-Soi sáng… như
Trống đồng của Cổ Bách Việt tộc đã
lưu dấu trong lịch sữ).
*Việt易: chữ Nôm đọc là “Diệt/ diềt易” ở Quảng Đông.
Hán Việt và Việt đọc là “Dịch易”,
Bắc kinh phát âm là “Yi易”, Triều Châu
Phát âm là “éck易”. Quảng Đông
phát âm
là “diềt易” tương đương với “Diệt易” là “Việt易”. Chỉ
có âm Quảng Đông là còn đọc chữ
nầy gần với âm “Việt易” nhất (tiếng Quảng Đông đọc chữ
“Việt易” nầy là: “Diềt易diệk”
hoàn toàn như người Triều Châu đọc chữ “Việt日”
(nhật日) nầy là: “Diềt日Diệk”). “Việt易
” đây là chữ dịch易chính là chữ tượng
hình vẽ mặt trời hình tròn ->O<- với
các tia sang
chung quanh được mỹ thuật hóa và vuông hóa
thành chữ “nhật日” được đặt ở phía trên,
và các tia sáng chung quanh được gôm lại
biến thành chữ “Vật勿” để ở phía dưới thành
ra “Việt易”. Chữ Việt nầy với chữ Việt cổ xưa nhất là vẽ
hình mặt trời ->O<- có tia sáng
phát ra tứ phía là chung một chữ mà
thôi. Thật ra Kinh Dịch易 là đọc trại âm từ chữ
Kinh Việt易:Kinh của người Việt thì mới gọi là Kinh
Việt(日/Mặt trời+勿/ tia sáng)= “Việt/
易”. =>Việt=Trời/Trăng soi sáng=Hình mặt trời
các tia phát sáng,hình trống đồng,và
viết
bằng>O<, 日, 易, 粵; 2 chữ Việt nầy: 易, 粵…Đều là “mặt trời
cháy sáng” nhưng lại cố
xếp
hình cho giống như chữ Điểu-鳥 là con chim! Bỡi vì
trong tộc Bách Việt có 1 bô tộc là
Lạc bộ chim mà “Từ hán Việt” đã gọi là “Lạc
bộ Chuy” ( Chuy隹 là Chim隹). Vì là Lạc
bộ Chim鳥/Điểu cho nên đã thể hiện chữ Việt 易, 粵 cho giống
như hình chữ “Điểu鳥
” là chim_Và hình của Trống đồng thuộc Lạc Bộ
Chuy/chim thì có rất nhiều hình鳥/
Điểu Chim_Và cũng vì “quang Niệm” là con của
“Huyền Điểu” cho nên là “chim” thì “đẽ”
ra “trứng” cho nên “Rất là dễ hiểu khi có sự
tích đẽ ra 100 trứng cùng chung 1 bào, cho
nên gọi là đồng bào”-Vì đã có
“Con cháu của Huyền Điểu là Lạc bộ Chim/ Chuy” . “Lạc
洛-Chim隹/ “Điểu鳥”, Phục nguyên âm Nôm của “Lạc”
là “Nước”, “Lạc洛” là nước, lạc
ngày xưa đọc là “Thác洛” hay là “Nak洛” như
người Mường hiện giờ, và “nak/洛Nước/
Lạc” được ghép bằng bên trái là bộ
thuỷ-Nước氵 và bên phải là bộ các各
thành ra
Nak洛lạc.
Phục nguyên chữ
Nôm của âm chữ “Lạc洛- Chim隹” chính là
“Nước洛Nak-Chim隹” :
tức là nước Việt-Chim của người Việt ở vùng đất
Chiêm thành ngày xưa, đó là phần đất
ở Miền Trung của Việt Nam ngày nay vậy-chính là từ
nơi đây mà khoa học ngày nay đã
phát hiện văn Hóa Hoà Bình là
cái nôi của văn hóa Lúa Nước và
Đông Nam Á, và từ
đây mà “Việt” đã phát triễn và đi xa
Đông, Tây, Nam, Bắc.
Xin tuần
tự xét các chữ “Việt” viết khác nhau mà
có ý nghĩa và phát âm giống như nhau:
1*Việt = Việt日; là hình “mặt trời”, hình “trống
đồng”, chữ “Nhật日” là hình mặt trời được
đơn giản hóa.
Ghi thêm: nước Nhật ngày nay thật ra là một nước
“Việt日” thuộc đại chủng Bách Việt,
phát âm Japan 日本tương đương “Jan” hay “yan” giống như
là nước “Yến” của thời
Đông Chu Liệt Quốc. Thật ra cổ âm đều là: “Việt”,
là mặt trời hay là mặt trăng, là soi
sáng.
2*Việt = “Việt易”. Hình chữ Dịch “易” là mặt trời
(“Nhật日Việt”) chiếu sáng được đơn
giãn hóa và xếp theo nghệ thuật, các “tia
sáng “勿” được gom lại để ở phía dưới theo
chữ “Vuông” vừa đúng vừa đẹp. Kinh “Dịch易” là kinh
“Việt易”, nước “Dương楊”-Việt là
thêm chữ “mộc木” vào chữ nầy.
3*Việt = “Việt炎” được viết bằng 2 chữ hoả chung 炎; hình “Hoả火”
chữ Viêm “炎”
đại diện cho lửa mặt trời. Bây giờ bị đọc là “Viêm炎”
xưa là “Việt炎”. Ngày xưa để lại
tên “Viêm炎 Đế” mà thật ra thì phải gọi
là “Việt炎 ĐẾ”, mà người ta không biết nên gọi
là “Viêm Đế”. Hai chữ 燕yan và 炎yan trong tiếng Bắc
Kinh phát âm giống nhau và đều
là nói về “Trung tâm hỏa-Mặt trời”.
4*Việt = “Việt燕”, chữ “yến”燕 là Hỏa ở trung tâm,
các tia sáng tỏa từ 8 phương với chữ
có hình mặt trời được đại diện bằng “Khẩu口” ở
chính giữa, và 4 chấm phía dưới là 4
nét của chữ Hỏa火.Tự điển online MDBG-Chinese English Dictionary
ngày nay còn biết
nguồn gốc và giải thích chiết tự của chữ “Việt燕” nầy
là “Trung tâm hỏa: 中心火” chứ
không phải là chim Én, “Yến燕” như cách hiểu
bình thường của nhiều người. Việt nầy
biến âm thành Yan, yen, Yến.
Ghi thêm: nước Yến燕 thời Đông Chu liệt quốc là nước
Việt燕, phải đọc phát âm chữ
nước “Yến燕” nầy là nước Việt燕 thì mới đúng. “Yến燕”
hay “Yan燕” là do biến âm đọc
trệch.
Nước Yến燕 là Việt燕, nói tiếng Việt, cho nên quan
trong triều dưới cấp “Tướng”
là “tá”… Ví dụ như: “Thượng đại大 phu夫” là
Thượng “tá”, “Trung Đại Phu” là Trung “Tá”.
Chữ “Đại大 Phu夫” ngày xưa vùng nầy đọc là
“Tài Phá”, Tài-Phá là chữ đa
âm của “Tá”!
Chuyện Thái Tử “Đan丹” của nước “Yến燕” nhờ “Kinh荆 Kha轲”
thích sát Tần Thủy
Hoàng rất
nổi tiếng. Thái Tử tên “Đen丹” thì đúng hơn,
“Kinh-Kha/荆轲” tên là “Cả” đúng
hơn…(Yến
có nhiều dân Siberia nhập cư và làm vua: vẫn
giữ tên Yến燕)
5*Việt = Việt楊. Việt viết bằng chữ “Dương楊”, cũng là chữ
Dịch易Việt , chỉ thêm
vào bên trái bộ Mộc木. Nước “Dương楊-Việt越” là
nước “Việt 楊”, thêm vào thành ra
là “Dương楊” “Việt越” để phân biệt với những nước Việt
khác mà thôi. “Dương楊 Việt”
vùng nầy phát âm như “yuôn”, “duyồn” gần với
âm của tiếng khmer. Sau nầy còn gọi
là “Yuồn” Việt. Vì chữ Hán Việt đã
quên chữ “Việt楊” nầy mà đọc là “Dương” vì bắt
chước âm “yuôn” nên phải thêm vào “Việt”
thành ra “Yuôn Việt tức là Dương Việt”.
Âm “Yuôn楊” Việt nầy là Nôm có trước,
lâu quá đến đỗi người ta đã quên và
chỉ nhớ
là “Dương楊”.
6*Việt = Việt陽, thể hiện bằng chữ “Dương陽”, chữ nầy ngày nay vẫn
dùng để chỉ mặt
trời như chữ “Nhật日”. Có vua tên là “An安 Dương陽
Vương王” không? Vô lý! Thật ra
là “An Việt陽 Vương”, chỉ là do người đời sau bị ngộ nhận
do quên mà đọc sai theo âm
mới là “Dương陽”, âm cũ là “Việt陽”. Chữ Nôm
có trước quá lâu và người ta đã
quên.
7*Việt = Việt有, viết bằng chữ “Hữu有”, “Việt有” nầy là ghép
từ chữ Đại大 và
Nguyệt月(Duyệt/Việt). Hữu有 Hùng thị thật ra là
Việt有Hùng thị. “Hữu有 sào thị” thật
ra là “Việt有 sàn thị” (Người Việt ở trên nhà
sàn). Âm Bắc Kinh ngày nay đọc là
“dù有”
tương đương với “yuồn有”/ “Duyồn有” tức là “Việt有yuồn” mà
người Khmer hiện nay vẫn
dùng là “Yuồn”/ Việt.
8*Việt = Việt夜, thể hiện bằng chữ “Dạ夜” cũng là “Nguyệt月Việt”
trong cách ghép
chữ “người人” “Việt月/Diệt/duyệt” dưới ánh sáng “trăng月”.
Chữ Nôm là “yẹ夜Duyệt/
Việt”, âm Quảng Đông “Yè夜” vẫn dùng cho đến
ngày là có trước, biến âm thành “da” /
Ya / Dạ).
Nước Dạ夜 Lang朗 thật ra là nước Việt夜 Làng朗. Tức là
“Làng Việt” hay là “Việt soi
sáng”, Dạ-Lang còn sinh ra âm “dang” “dàng”
và “dãng 楊-tiếng Bắc Kinh”. Xin chú ý:
chữ Làng朗 nầy có nhật日 và nguyệt月 hai bên
như chữ Minh明, khác với chữ Lang郎
là anh chàng “情tình 郎lang”
9*Việt = Việt吳, thể hiện bằng chữ “Ngô 吳”, với mặt trời là
chữ “Khẩu口” phía trên
chữ “Thiên天” nghĩa là mặt trời soi sáng trên
bầu trời, phát âm là “uả, úa, Ổ, Ngổ ,
Ngô”
là do biến âm của Việt/ Yué/ ué;
Oắt-Úe thành “úa”, “uả吳-Tiếng Bắc Kinh” v v…
Ngày
nay chữ Hán Việt đọc là “Ngô吳”, xưa viết chữ
“Việt吳Úa” nầy là hình mặt trời trên
chữ Thiên吴 và đọc là “Duyồn吳” như tiếng Khmer, biến
âm thành Dô吳, gô吳, Ngô吳
. Úa, uả của tiếng bắc kinh là có sau, nước
Ngô吳 là “Việt吳(yuồn)” cho nên gọi là tiếng
Ngô吳Việt.
Chữ Nôm “Duyồn吳Việt” có trước rồi biến âm “Dô”
và Ngô… làm người ta quên đi cái
gốc!
Ghi thêm :“Cô Tô thành” của nước Ngô
thật ra là “Cố đô thành”, sách Việt
chép hoàn
toàn bằng chữ Nôm là do Ngũ Tử Tư người Sở chạy qua
Ngô吳 làm tướng biên chép
là chủ yếu tại nước Ngô吳/duồn/dô/gô/ngô.
(Xem bài : Phục nguyên Duy Giáp lệnh của
Việt Vương Câu Tiễn)
10* Việt = Việt粵, thật ra thì chữ Việt粵 nầy thể hiện rất giống
với chữ Việt易/dịch .
Đa số người Việt và “Hoa” đều biết chữ “Việt粵” nầy. Đối với
bên Trung Quốc thì đây là
chữ Nôm của người “Quảng Đông”( tức là gốc Việt ) ở
Hoa Nam.
11* Việt = Việt越, thể
hiện bằng Việt越 nầy là vùng ven biển Đông,
tên Việt Nam, Mân
Việt, Ngô Việt , Âu Việt, Đông Việt, Ư Việt, Vu Việt,
Việt Thường, v v… “Bách Việt” là
dùng chữ “Việt越”nầy. Chữ Việt nầy giữ phát âm
“Việt” nhưng khác với tất cả những chữ
Việt khác, và mang ý nghĩa là “Vượt+vũ
khí trong tay là cái Rìu Việt”. Nhưng chữ
Việt
nầy vẫn là mang ý nghĩa “chiếu越”, chiếu sáng,
và hoàn toàn phù hợp với chữ Nôm
có
trước. Bộ “tẩu走” là chữ “chạy走” ghép với cái
“qua戈” là cái “Riù”, thành ra âm
“Chiếu越
”. Người Việt ngày xưa gọi vua là “chiếu” hay
“chúa” . chính vì âm “chiếu” mà người
Triều châu Đọc “iếu越” và thành “oát越”
ngày nay. Và người Dao lại đọc thành Yìu越,
còn lên tới Sơn Đông và Bắc kinh đọc
thành “Dù有/ gần giống như “yuồn’’(有Hửu)”
12* Việt = Việt瑤,thể hiện bằng chữ “Dao瑤”, âm chính của
người thời nay được đọc
bởi chính người Dao thì đọc là “Dìu瑤”,
Diêu, Diều, yiu gần với âm “diệt” mà đọc theo
dấu “huyền” cho nhiều là thành “Diều瑤”. Chữ Việt瑤/ Dao/
dìu nầy có bộ “nguyệt月”
phía trên, bên góc phải. Đây cũng
là chữ Nôm có trước, ngày xưa đọc
“Dìu” hay “Diềt” .
Người Dao瑤 hay chính xác gọi theo người Dao瑤 hiện nay tự
xưng hô mình là
người “Yíu瑤 Mien”, ”Dìu mien/ diềt mien”, thật ra
là giống nhau với “Việt Mân”, hay là
Mân Việt như người Triều Châu và Phước Kiến.
Ngôn ngữ của người “Dao瑤 Việt” hiện
nay là sự pha trộn bởi tiếng Triều Châu, Quảng Đông,
Thái, Việt, Lào. (Tôi có nhiều tiếp
xúc với người Dao瑤 từ xưa và nay, nên nhận
rõ điều này.).
13* Việt: Việt夏. Chữ Việt nầy thể hiện bằng chữ Hạ夏, thật ra chữ nầy
tiếng Triều châu
đọc là “He夏” như “Hè夏” bên tiếng Việt, và
chữ nầy cũng được dùng trong “mùa hè夏
”. Chữ “hè夏” nầy có chữ “Hiệt頁” phía trên,
phát âm “Hiệt頁” ngày xưa cũng tương
đương là chữ “Diềt夏 Việt”. Chữ “biểu hiện bằng thanh và
hình” nầy thật ra cũng là mặt
trăng “nguyệt月” ở chính giữa, và các tia
sáng được sắp xếp trên và dưới cho đẹp. 2000
năm trước thì Hứa Thận đã giãi thích
không đúng chữ nầy trong sách Thuyết văn! Tiếng
Quảng Đông và Triều Châu có lịch sử hơn 7000
năm còn vết tích đọc chữ nầy là
“Hè夏” nhưng phát âm hơi giống “Hiệt”, rất
khó phiên âm bên Triều Châu, và
“Hà夏” bên
Quảng Đông. Nhưng âm cổ xưa nhất bên Quảng Đông
lại đọc như “Hè”, “Hẻ” và “Ẽ”, ở
ngoại ô Quảng Châu là vùng còn mang
tên là thành “Phiên Ngung” ngày nay
đọc “Ẽ夏
” hay “hè, he, hẹ, hạ夏” lại được dùng để chỉ người
“Lão佬” hay “Lào佬” của nước “Hạ夏
Lào佬”, đều là “Ẽ, E tương đương Ye, Yué” tức
là Việt. “Hè夏 vương” hay “Hạ夏/ Hà
vương” âm đọc như là “Hùng夏-Vương”. Theo tôi
thì Việt夏/Hè/ Ẻ cũng chính là “Hùng夏
vương”, và “Ẻ夏Lao佬-ẻ Lào-ẻ Lủ” của người Phiên
Ngung lại là nói về người ở “Ai Lao”
của nước Lào! Thủ đô “Viêng Chăn” của nước
Lào hiện giờ vẫn được giải thích nghĩa
là “thành phố Trăng”.
14* Việt: Việt黃, thể hiện bằng chữ Hoàng黃, thật ra là
“Vàng黃” và thật ra là “dàng黃
” và thật ra là “Yuồn黃” biến âm; “Hoàng黃 đế”
chỉ là “Việt黃vàng/ dàng/ yuồn đế”…cho
nên sử sách còn nói rõ: Hoàng黃
đế và Viêm炎 đế đánh nhau nhưng là anh em
cùng
một tộc._chính người Mường-Nhánh Hmong có rất
nhiều người họ “Vang/ Vàng/Voòng”
còn nhận họ là người ở Hoàng hà ngày
xưa …phải chạy về phương Nam.
15* Việt華. Thể hiện bằng “Hoa華” hay là “Huê華”. Tiếng Triều
Châu-Mân Việt còn đọc
là “Hoe華” tương đương với “yue” là do biến âm từ
“Yue/ tức là Việt” mà thành “Hoe華
” và thành ra “Hoa華”, lại đọc là “Hoả華” theo tiếng
Bắc Kinh… âm “Hoả火” là Nói
về “Lữa火” như chữ “Viêm炎”, nhưng chữ nầy Rất đặc biệt, nhất
là thể hiện bằng họ “Mi
芈” hay đọc là “Mỵ 芈” là họ của vua người Việt, chỉ
thêm bộ “艹thảo” ở phía trên… Xin
qúi vị đừng tra tự điển về chữ “Hoa華” hay là “Hoe華” do
biến âm từ “yue/ tức là Việt”
như tôi đã trình bày ở đây…Vì
đâu có ai thấy chuyện nầy qua bao lớp bụi mờ của lịch
sử mà đưa vào từ điển ???, ngày nay chử nầy
đã được dùng để chỉ dân tộc “Hoa華”,
…trong khi , đây lại là Họ Mỵ芈 hay Mi芈 của vua Việt
và ngày xưa cở thời gian …trước
khi Nhà Chu tiêu diệt nhà Thương thì chắc
là phải đọc là “Việt-diềt-yue-yúe-hue-hoe華
” bởi chữ My芈 hay Mỵ芈 và cũng là âm
“dê羊(dương)” để sinh ra âm “Yue” hay “Diệt/
Việt”. Khi nhà Chu lật đổ nhà Thương và tự xưng
“ta là Hoa華-Hạ夏” thì đủ biết chữ
Hoa華 nầy chính là Hạ夏 là Yúe là Việt
với nguyên âm “Hiệt頁” hoặc “Nguyệt月” làm
chủ: chỉ chờ sự khảo cứu kỹ lưỡng của các nhà
nghiên cứu ngôn ngữ “uy tín” và “đang
có chức vụ” có nhiệm vụ nghiên cứu và
xác định-Hoe-Hoa là Yue/ Việt biến âm mà
thôi.
-Các chữ “Việt” có rất nhiều âm Nôm cổ xưa
biến âm chằng chịt cùng 1 gốc và gọi
là “Bách Việt”, Ngoài ra, có những chữ
Nôm là tên của quốc gia, mang tên và
phát âm
Nôm của người Việt, nhưng khó nhận ra nên cứ tưởng
là từ Hán-Việt, đó là :
-Nước Lỗ魯, thật ra tên là nước “Rõ魯” nghĩa
là sáng rõ, không thoát khỏi ý
nghĩa là:
Mặt trời chiếu sáng, “Rõ魯” đọc không được “Đ”
thì thành ra “Lỗ魯”. Rõ魯 mới nhìn vào
tưởng như là “Ngư魚 và Nhật日”, nhưng thật ra chữ nầy được
thể hiện bằng Nhật日,
hoả火(Viết thành cái dấu phía trên 日…
thành 4 chấm), Điền田, Cung弓-nghiã là Mặt
trời/日-cháy/火-chiếu sáng-trên sông/弓
và ruộng/ 田; Nước Lổ魯 có Khổng Tử- 孔子 nổi
tiếng mà ai cũng biết.
-Nước Triệu 趙 âm xưa là “chiếu趙”, có chữ Nguyệt月
nằm bên phải,có nghĩa là chiếu
sáng bởi ánh trăng,có kinh đô là
“Tấn晉 Dương陽”(Tấn晉 là Tiến, Dương 陽là Việt như
đã trình bày).
-Nước Tấn晉,Tấn là Tiến, Tiến nầy lại là theo hướng mặt
trời chiếu mà tiến. Phía dưới
chữ Tấn晉Tiến nầy là “Nhật-日-Việt”, phía trên
là chữ “Tùng從” viết tắt. “Tấn” nầy nghĩa
là “theo nhật日-theo mặt trời日”. “Tấn” có âm xưa
là “tiến” hay “chín” nên ngày nay tiếng
Bắc Kinh là “Jín晉”
-Nước Hàn韓, Hàn韓(hay “Hùng韓”) hay “Hòn韓,đọc
theo tiếng Việt vùng Quảng Đông”,
có kinh đô tên là “Dương Trì-陽翟” …thật
ra là “ Việt Trì”, “Dương陽” là “Việt” như đã
giải thích, còn “Trì翟” chính là chim
“Trĩ翟”, Trĩ viết bằng “Vũ羽” là lông vũ ở phía
trên,
và “chim隹chuy” ở phía dưới. “韓Hòn” phát
âm như “Hùng”, nhưng “Hòn” sau nầy còn
biến âm là “Hon”, và “Hon漢” tiếng Quảng Đông,
lại thành “Hán漢” bên tiếng Bắc Kinh,
và cũng thành ra “Hán漢” bên từ Hán
Việt, âm “Hán漢” là có sau.
-Nước Tề齊, Tề thật ra là nước “Chói齊”, chữ nầy gồm mặt
trời là chữ Khẩu viết
theo “nghệ thuật” và các tia sáng chói được
nghệ thuật hóa ở phía trên. Tiếng Triều
Châu ngày nay vẫn đọc “齊齊-Tề Tề” là “choi
chói- 齊齊”. “Tề齊” nầy nghĩa là “Sáng-
đều đặn,đẹp”- “chói sáng-đầy đủ ánh sáng”.
-Nước Đường唐, chữ “Đường唐” nầy có “khẩu口” là mặt trời
viết ở phía dưới, và ruộng
田điền ở phía trên trong mái nhà cao, (nước
“Tề齊” là nước Đường 唐 Cũ ở tỉnh Sơn Tây
đổi tên); cần phân biệt nước Đường唐 ở các thời đại
và địa phương khác nhau.
“Đường唐” phát âm Bắc Kinh là “Thản唐” và
Quảng Đông là “Thòn” đều là biến âm
của “Thượng” và “Thường”. Người Triều Châu lại đọc
“thường” thành ra “Từng唐”.
Nhóm “Việt Đường” hay “Việt Thường” ngày xa xưa hay
là người ở Hoa Nam thường tự
xưng hô mình là người “Thòn唐”chính
là “người Thường” hay “người Thượng”
…và cũng còn chữ Việt Khác nữa, nhưng rắc rối hơn,
cần giãi thích dài dòng hơn, cho
nên tôi đã không đưa vào trong
bài viết nầy.
_Bài Viết nầy dù đã cố gắng ngắn gọn mà vẫn
hơi dài…, vì để cần giãi thích cho rỏ mỗi
1 chữ là có thể thành ra 1 bài viết
riêng thì mới rỏ hơn…, Tôi đã tóm tắt,
Vì đây là bài
viết chứng minh phát âm “Nôm” có trước, chứ
không phải là “đi vào chi tiết của từng
chử”.
Xin hẹn qúi đọc giã: còn có thêm
nhiều bằng chứng Chữ Nôm có trước…
Đỗ
Thành/ Nhạn Nam Phi
Tham khảo :
-Nguyễn Đức Hùng
:http://vietsciences.free.fr/lichsu/lichsuchuhan.htm
- Một quan niệm xưa nay thường thấy về nguồn gốc chữ Nôm:
http://www.youtube.com/watch?v=1DO7uDutp1c&feature=related
-Một trang chữ Nôm : http://www.lannhithiquan.com/st_kcuu.htm
-Giới thiệu “Lược khảo chữ Nôm của Cụ Trần Văn Giáp”
(Nguyễn Ngọc Bích).
http://e-cadao.com/Chunom/gioithieulkvdcntranvangiap.htm
-Bách khoa toàn thư mở wikipedia: Chữ Nôm :
http://vi.wikipedia.org/wiki/Ch%E1%BB%AF_N%C3%B4m
-Chử Nôm và nguồn gốc tiếng Việt :
http://ttvnol.com/forum/tiengviet/903135.ttvn?v=2k2dkmzyquv2gq8m37kj
http://e-cadao.com/Chunom/chunomvacovan.htm
-Đi tìm nguồn gốc chữ quốc ngữ
:http://www.dactrung.net/phorum/tm.aspx?m=444060
-字喃-Chữ Nôm:http://zh.wikipedia.org/zh/%E5%96%83%E5%AD%97
- 喃字:http://baike.baidu.com/view/71827.htm
- 越南语-Việt nam Ngữ:http://baike.baidu.com/view/68830.htm
Chữ Nho 儒字:http://zh.wikipedia.org/
zh/%E8%B6%8A%E6%96%87%E6%BC%A2%E5%AD%97
-甲骨文 giáp cốt văn:http://zh.wikipedia.org/
zh/%E7%94%B2%E9%AA%A8%E6%96%87
-金文Kim văn:http://zh.wikipedia.org/zh/%E9%87%91%E6%96%87
-Việt Nhân Ca-越人歌:khoa hoc@doi song/Phat hien lai Viet Nhan Ca
-“Duy Giáp Lệnh”Nhạn Nam Phi » Blog Archive » DUY
GIÁP LỆNH
Trang
mạng Việt Nam Văn Hiến là nơi bảo tồn di sản văn hóa của
Việt tộc, thắp sáng niềm tin Diên Hồng và nếp sống
văn hiến hầu phục hồi nền An Lạc
& Tự Chủ.
|