Việt
Nam Văn Hiến
Năm
Thứ 4889
www.vietnamvanhien.org
www.vietnamvanhien.net
www.vietnamvanhien.info
www.vietnamvanhien.com
Nội Dung
Bách Việt Sử :
Những Lớp Bụi Mờ cuả Lịch Sử
Đỗ
Thành
Khảo
cứu Bách Việt Sử : Những Lớp bụi mờ của lịch
sư... ( 1 )
Haǹg hàng lớp lớp bụi mờ phủ lên trên
bề dầy lịch sử Bách Việt...
Người
Việt Nam ngày nay khi viết chử
Việt với dần A B C thì người ta gọi
là chử Việt , khi người ta gập chử
tượng hình 越 (Việt ) thì đa số
người ta nói là chử Tàu ! Người Quảng
_Đông ngày nay khi viết 2 chữ 越 南 (
Việt Nam ) thì họ đọc là
"Duyệt -Nàm" , và khi phát
âm đọc lên 2 chử đó theo giọng
nói địa phương Quảng Đông thì họ gọi
tiếng của họ là Việt Ngữ...; Xin
kễ 1 Chuyện xảy ra hiện nay tại 1
trường Đại học ở Califronia -USA : Một sinh
viên người Việt Nam biết chút
it́ tiếng Quảng Đông , Tự giới thiệu
mình với một sinh viên đến từ
Tỉnh Quảng đông -Trung Quốc rằng : "Ngọ
hầy Duyệt-Nàm dành "
(Tôi là người Việt Nam) , Người Sinh
Viên kia cũng tự giới Thiệu : "Ngọ hầy
Duyệt dành" (Tôi là ngườ
Việt) ; thế là người sinh viên
Việt Nam ngớ ngẩn !!! ...Hả ?...Uả ? sao kỳ
Vậy ??? ...tuổi trẽ ngày nay it́
biết được lịch sử Bách Việt ,
...nhiều người lớn tuổi mà còn
không biết ! vì không
muốn biết , vì không được
biết v v...thì nói chi đến lứa
tuổi sinh viên hiện giờ ! vì
sao ??? đó là vì có sự
Ngộ Nhận "Hoa-Hạ"- "Hán" và
"Việt" ...
Từ khi nào thì có chuyện người
ta tự xưng là "Hoa-Hạ" hay "Hán" tộc
???
_Điều nầy khá phức tạp , nếu
như thiếu dẩn chứng hoặc trình
bài qúa ..."đơn sơ" ! thì khó
thuyết phục !
Hôm nay tôi tìm cách
trình bài những trường thiên
dài lê thê của mấy ngàn
năm bằng cách ngắn gọn , nhưng, củng phải kể
ra những chi tiết quang trọng theo tuần tự
-Những chi tiết sẽ được trình bài rỏ
ràng theo từng bài khảo cứu tiếp theo
sau nầy ; rất mong qúi vị ...cũng như
tôi sẽ cố gắng để khảo cứu thêm
chi tiết và viết thành
nhiều bài đễ công bố
online... 1 cách khoa học và nghiêm
túc
Khảo Cứu :Những chi tiết quang trọng...thời
Cổ sử và Cận đaị
-Cổ thư được gọi là "Việt
Tuyệt ký" hay "Việt Tuyệt
Thư"(*thời Xuân -THu chiến quốc :
trước Sử Ký của Tư Mã Thiên ) , Trong
đó ghi chép Vua Việt là con
cháu của vua Vủ thuộc triều
nhà Hạ ; Việt Tuyệt thư viết
bằng chữ tượng hình như "Việt cổ Văn"
và "Trung Văn" , ngày nay , sách phải
dùng bằng bản phiên dịch qua Trung -Văn bởi
những học giả Việt Học xưa nay , vì
cổ Việt văn có 1 số từ ngữ của
Cổ ngữ mà ngày nay người ta sẽ
khó hay không hiểu khi đọc !
...Ví dụ chử "Cuấy" hay "Cuây"
là "Hội" , "kây " là
"kế"; "cuấy kây" chính
là "hội-Kế" , "Cuấy
-kây"...mà viết theo chử tượng
hình xưa thì mấy ai biết được
bây giờ ? Đa số sẽ đọc là "Hội
-kế" , (Lại có 1 giọng Cối -kê
= Cuấy Kây =Hội-Kê ..là
Hàn -Châu ngày nay ) , chử 會計(
Hội-Kế ) là : 會稽 ngày xưa ,
Chử "Hội" với chử " kế "nhưng lại đọc
là Cuấy-kây với dần "C-hay K "
đó là nét đặc biệt của
vùng Giang Đông và Phiên Ngung (
bên bờ biễn đông -Thái
Bình Dương ) ; nhờ Việt Tuyệt Thư
mà sau nầy "Sử Ký" (Cuả TƯ MẢ
THIÊN )và nhiều sách sử
khác có tài liệu về
nguồn gộ́c Bách Việt bên
cạnh những truyền thuyết...
Truyền thuyết ...***Đế Nghiêu
truyền ngôi cho Đế Thuấn ,
Đế Thuấn truyền ngôi cho Vua Vủ
, Vua Vủ lên ngôi rồi truyền
ngôi cho con là "Khải" : lập nên
triều "HẠ" , triều Hạ là của
Việt tộc : VIỆT TUYỆT THƯ
chép rằng bởi vì "Vua Vủ được chôn
cất ở Mao Sơn ̣(Cuấy kây- Hội
kê ) , con cháu trong nhà phải
có người theo ở đó đễ giử đất
mộ của Vủ gia cho tròn đạo hiếu ,
và rồi lập ra Việt Quốc
." ; vậy , theo VIỆT TUYỆT cổ
thư : Hạ và Việt là 1 nhà , đả
là 1 nhà thì "Hạ " ngữ hay
"Việt " ngữ là 1 , Có ai cần
tranh luận điều nầy không ?
..chú ý : Nghiêu , Thuấn , Hạ
là Truyền Thuyết ..., nhưng
"Việt Tuyệt thư" là cổ thư
thời Xuân Thu - chiến Quốc được lưu
lại cho đến ngày nay mà nội
dung được ghi chép thật rỏ ràng ,
cổ thư nầy mang tên "Việt
Chép" và chép lại sử Việt ;
sau nầy "Hoa"văn không có chử
"chép " nên dùng chử "Choẻ ,
choé : 絕jue "/ đọc theo Hán -Việt
ngày nay là "Tuyệt "... có
phát âm na ná đễ thay chử
"chép" ; Xin đón đọc : sẽ nói rỏ
về VIỆT TUYỆT THƯ ở những bài
khảo cứu tiếp theo sau nầy ; Việt
Tuyệt Thư và những chử viết được khắc
trên xương ( Giáp cốt văn )và
những đỉnh bằng kim loại đồ đồng ( Chung
Đỉnh Văn ) thời nhà Thương và Chu mà
khảo cổ học phát hiện đã
bổ sung và minh chứng cho truyền
thuyết , và vì vậy Việt
Tuyệt thư càng thêm giá trị .
Triều Hạ bị lật đỗ bỡi Triều
Thương , Thương là con cháu của Đế
Nghiêu , lấy họ Chử , người Việt
không xa lạ với họ Chử qua câu chuyện
"Chử Đồng Tử "...,Thương không phải là
Việt tộc ??? hay là Việt
tộc ??? ( Xin xem bài tiếp theo )-Đọc
giã sẽ tự có câu trã lời :
Vì Đế Nghiêu truyền ngôi
cho đế Thuấn , Đế Thuấn
truyền ngôi cho vua Đại Vủ cuả nhà Hạ
;...Sau nầy nhà Thương của họ Chử ( 子 -đọc
là Chử khi là họ , chứ không đọc
là Tử . ) lớn mạnh và lật đỗ
triều Hạ , và chử viết và văn
hóa của Thương đều là kế tục
của nhà Hạ : Những chử viết trong chung
Đin̉h Văn và Giáp cốt văn cuả Khảo
cổ học chứng minh được điều nầy ,
...Nhà Thương thôn t́inh và
Đồng hóa Người Siberia da trắng là
"Trung Sơn Quốc" : gọi là "Bạch-Địch " ,
nói chung nhà Thương bao gồm
Việt tộc và những ngoại tộc ̉
bị Việt tộc đồng Hóa ..., ngay
cả tên của Trụ Vương ...cũng được ghi chép
lại là Đế Tân theo văn phạm
Việt ..chứ không phải là Tân
Đế !
Triều nhà CHu củng bị Việt tộc
đồng Hoá ; Tộc Chu là
Tộc Khương đã liên kết với
những tộc khác tiêu diệt
nhà Thương , trước khi lật đỗ
nhà Thương , thì trên bước đường
đông tiến từ cao nguyên phía
tây tiến về Trung Nguyên
là họ đã bị Việt Đồng
Hóa rồi , và họ đỗi tên
, xưng là : CHu 周 , Chu : có nghiã
là Điền 田-Khẩu 口 , Ráp chử
Điền đễ phía trên và
Khẩu chung sẽ thành chử 周 -Chu , ...Chu
là khẩu sống nhờ
Điền-(ruộng lúa)- ..., và
triều CHu tự xưng là con cháu
đích tôn của vua Vủ nhà Hạ để
được "chính Danh"; Chu Tự xưng là "Hạ" hay
là "Hoa" -vì lẩn lộn
phát âm giữa chử Hoa và Hạ của
tiếng Việt , Tiếng Khương của
dân tộc Khương vẩn tồn tại cho
đến ngày nay , cho nên khi đối
chiếu tiếng Khương với cổ sử
và Tứ THư , NGủ̉ Kinh v v...thì sẽ
thấy rỏ Chu đã Bị văn hóa Việt
của nhà Hạ và nhà Thương đồng
Hóa...: Bỡi vì Triều Chu đã
không còn dùng tiếng Khương như
người dân tộc Khương hiện nay
vẫn tồn tại và nói
tiếng Khương , -và ngay cả việc
nhà Chu phải nhâṇ thầy và học
hỏi từ nước Sở củng ̣được ghi rõ ràng trong
chính sử .(điều nầy ghi rỏ trong Sử
Ký của Tư Mả Thiên )
Nhà Hạ được xem là chính danh ,
là Hoa = hoa nghiã là " hoa lệ
" , là "qúi phái " , là
tiến bộ- là qúi tộc ,
là thống lỉnh , là chính
thống ở Trung Nguyên. Cho nên khi
mà Chu muốn gồm thâu
thiên hạ qui phục với Chu thì phải tự xưng
là "Hoa-Hạ" , ngay cái tên "hoa-Hạ" đả
tự bộc lộ là bị Đồng
Hóa rồi....!!! Vì lẫn
lộn "Hoa" Và "Hạ" !!! bỡi Vì
là bị đồng hóa mà vẫn
khó phân biệt phát âm của
1 ngôn ngử "mới " đối với họ , cho nên
họ không phân biệt được "Hạ" là
tên gọi Hoàng Triều , và "Hoa"
là tên gọi của qúi Tộc theo
lối phát âm tiếng Viêṭ ,
cho nên mới có việc tự xưng vừa Hoa
lại vưà Hạ ...trong khi lẽ ra chỉ cần xưng
là HOA , hoặc chỉ xưng là Hạ ...là
được rồi ! ( Hoa = 華 , Hạ=夏 )
-華 -
夏 Tiếng Việt cổ đại Hoa Và Hạ
đọc rất là giống nhau ...
_ 華 - 夏Tiếng Việt ở Việt Nam
ngày nay : đọc "Hoa"-"Hạ". ..Phát âm
rất giống nhau , chỉ vì dùng
cố định dấu nặng trong chử Hạ theo qui định
ngày nay cuả phiên âm a , b , c , theo
Latin mà tạo nên khác biệt hơi
nhiều .
-華 - 夏Tiếng Việt ở Qủang Đông nay :
Đọc : "Hoà" -"Hà" ...Phát âm
rất giống nhau .
_華 - 夏Tiếng Mân-Việt Triều /
Phước Kiến : đọc : "Hoe"-"he" ...Phát
âm rất giống nhau .
....Mãi cho đến Sau nầy qua
nhiều triều đại sau nhà Chu nữa , khi
nhiều dân tộc khác tiếp
tục bị người Việt đồng hóa nữa
thì dần dần mới có sự "Lai
Căn" văn hóa khác mà đổi
phát âm chử "Hạ" đọc thành
"seaé" hay "Xié" , và phiên
âm theo tiếng Anh / English ngày nay 夏
là "Xia" ; Ngày nay tiếng Bắc kinh
đọc 華 - 夏 là "Hoả-Xié" / ( là
"HUA-Xia " khi dùng English phiên âm ).
...Chính vì vậy mà có
từ ngữ Hoa- Hạ 華 - 夏 đọc thành "Hỏa -xié"
theo tiếng "Quang Thoại" ngày nay để
tự cho rằng : ta là "truyền nhân"
đích tôn của của nhà Hạ !!!
...Việt Tộc thống lỉnh Trung
Nguyên từ xa xưa , mà nổi bật
là nhà Hạ , Việt , Bách
Việt ...
ngày nay xét kỷ thấy rằng :
các ngôn ngữ cuả người da trắng vùng
SIBERIA đã lập ra "TRUNG SƠN Quốc"
rồi bị nhà NHà THương thôn
tính , rồi CHu thôn tính THương
; Rồi loạn Hung Nô thời Tấn v v...,
Xét kỷ ngôn ngữ Siberi , Turky , KHương ,
Mông Cổ v v... vẩn tồn tại
đến bây giờ , đễ người ta có
thễ đối chiếu và thấy
khác với các tiếng nói phương
ngôn Việt và tiếng Quang thoại-
phổ thông : Đó chính là
1 bằng chứng người SiBeri thời nhà Thương và
luôn cả nhà CHu đã bị Việt
đồng hóa : vì họ đã
không còn sữ dụng những ngôn ngữ "hung
Nô" nêu trên...
Vì đã bị Việt Đồng Hóa
.mà họ tự Xưng là dân tộc
"Hoa-Hạ" 華夏 !!! là con
cháu của nhà "Hạ夏 "...!
Vì Văn Hóa và ngôn ngữ
Việt đã đồng Hóa Thương , Chu
, và Yến , Nguỵ ( Người Siberi Thời
xuân thu -chiến quốc) v v...cho
nên tiếng Việt có thêm "1
nhánh mới phía bắc" mà ngày
nay người ta gọi là tiếng Bắc-Kinh hay
Mandarin , khi có thêm tiếng
phía bắc thì 2 tiếng việt Nam
Bắc khác giọng và biến âm
khó thông với nhau nên người ta chọn
tiếng Việt phía nam là
tiếng xưa - "có sẵn từ trước "và
là tiếng "tiêu chuẩn" đễ
làm tiếng "phổ thông"
dùng cho thời đó ! -và tiếng
Việt đễ "phổ thông " thời
đó đã được gọi là "Nhã ngữ 雅 語
" : thời Xuân -THu Chiến Quốc
đã gọi Việt Ngữ là Nhã NGữ ,
Nho Giaó thời đó đã phát
triễn mạnh , lịch sử đã được ghi lại
khá hoàn chỉnh , cho nên người ta
có thể kiểm chứng rỏ ràng 100
% chuyện nầy .
"nhã ngữ雅語 " Mặc nhiên trở thành
tiếng đễ dùng chung "phổ
thông" phổ cập vào thời
xuân thu-chiến quốc , và được
gọi là "Nhã ngữ" vì nghĩa là :
-Nhã : là Đẹp , văn nhã...;
Khổng Tử Dạy học củng là dùng
"nhã Ngữ" (雅語) .
- Nhã ngữ là Việt Ngữ 粵 語 ( 粵 hay 越
hoàn toàn giống nhau , xưa
dùng chung cả 2 chử nầy là
"Việt" ) tồn tại cho đến ngày
nay ờ Tỉnh Quảng Đông và nước Việt Nam
.
...Nhưng tiếng Việt Nam lại mang giọng nam
nhiều hơn vùng PHiên -Ngung / Quảng
Châu và sau nầy laị biến giọng
khi tiếp xúc nhiều với tiếng
Mường , rồi lại biến âm nhiều
khi dùng A , B , C đễ phiên âm .
...Tiếng Quảng Đông chỉ biến gịọng
rất it́ dù và vì bỡi
tiếng Bắc-kinh ngày càng phát
triễn mạnh nhưng vì không dùng
Latin a , b ,c đễ phiên âm ,
không có "sắc , huyền , hỏi ,
ngã , nặng " cố định cho nên giữ được
nhiều âm thanh cổ ..., điều
nầy có thể kiễm chứng được khi
so sánh với phương cách thuyết văn
giaĩ tự của thời Hán đã được Hứa Thận
biên sọan trong sách "Thuyết -Văn".
Người ta có thể phục chế ngôn
ngữ bằng cách nắm vững quy luật biến
hóa cuả ngôn ngữ , người ta nghiên cứu
1 vùng "Việt" ngày xưa bị "hung
nô " xâm chiếm rồi biến
âm và trở thành sử dụng ngôn ngữ
mới ...khác âm như thế nào ,
rồi lại đối chiếu với ngôn ngữ
của những nhóm Việt chạy xa ...xuống
phương nam , người ta lại tổng hợp , rồi
phân tích 1 từ ngữ đã biến
thành nhiều âm cuả các phương
ngôn khác nhau : đễ tìm ra 1 từ
gốc gác căn bản nhất đã
biến hóa thành nhiều phương
ngôn mà lại rất giống nhau
vì cùng 1 gốc...
Nhưng tiếc thay ...nhóm nghiên cứu
phục chế ngôn ngữ còn it́ ...và
lại rất "bí Mật" , và
không được Công Bố đễ phổ
biến !!! ...Trong thế gíới Của
Blogger tiếng Hoa ngày nay -thông tin
gần như là duy nhất và được
rò rỉ một cách vô tình
hay cố ý cuả nhóm phục chế
CỔ Hán NGỮ thì Từ ngữ "Thén
Thỉnh" Cuả Tiếng Bắc Kinh , "Thín
thìn" cuả Tiếng Qủang Đông , "Thenn
thénn" của tiếng Triều Châu
...là : Với kết qủa cuả "phục chế
Cổ Hán Ngữ " thì những chữ đó
ngày xưa có phát âm là
"THIÊN_ĐÌNH -天庭 " : nếu như có
hàng trăm hay hàng ngàn nhóm
nghiên cứu "phục chế Cổ Hán Ngữ
" thì kết qủa sẽ to lớn và
hùng tráng hơn nhiều , và cũng
sẽ ...không còn gì là
"bí mật" hay lạ lùng nữa !
Khi Tần Thủy Hoảng thống Nhất
"thiên hạ" thì tiếng
Việt-Nhã Ngữ được Triều đình
"qui định" để dùng thống nhất
hóa về chử viết và
tiếng nói... ; nhà Tần ra qui
địnḥ thống nhất về chử viết ,
đơn vị đo lường ...nhưng tồn tại chĩ có 15
năm thì bị người Việt của vùng Sở
và vùng Việt Giang Đông
liên kết lật đổ ...rồi
lập nên Triều Hán .
Sách " Thuyết văn"( 説文 ) của Hứa Thận
- 許 慎 biên soạn và viết ra thời
Hán : phần đánh vần của
thuyết văn phải đọc bằng tiếng Việt
... (nếu như ai đọc sách đó mà
đọc theo giọng "Quang Thoại-Bắc kinh-Mandarin" thì
sẻ không đánh vần được rất
nhiều chử ) ; Đó là tiếng
Việt cổ đại thời Hán và thời
Tần và trở về trước nữa ...; Bỡi
hoàng cãnh và điều kiện
kịch sử : Tiếng Việt Cổ là
tiếng còn lưu lại được ở Quảng Đông
và Việt Nam ngày nay , thời Nam
Việt Vương Triệu Đà thì Quảng
Đông - Việt Nam ngày nay là
chung 1 nước và ngôn ngữ rất là
tương đồng giữa các vùng bắc
và nam , đông và tây dù
có khác giọng Âu , Lạc , Mân
...; Còn tiếng Việt gần
biễn đông Thái Bình Dương ở
phía bắc là Sơn Đông , Tô
Châu , Thượng hải sau nầy bị ảnh hưỡng mạnh
cuả giọng Bắc -kinh nên trỡ thành 1
nhánh riêng được gọi là
NGô-Việt Ngữ ; Phía nam
Ngô-Việt ngữ là vùng Phước
kiến, Triều Châu lại bị ảnh hưỡng cuả
gịọng nói Ngô Việt mà trỡ
thành một nhánh riêng gọi
là Mân Việt Ngữ ; Laị có
riêng 1 nhánh của người Bộc
Việt ở Trung Nguyên thời xa xưa qua bao
lần loạn lạc vì chiến tranh mà
di cư khắp nơi , nhưng vẩn giử được phần cơ
bản ngôn ngữ cuả bộ tộc họ , mà
lại trộn lẫn ảnh hưỡng các phương ngữ
khắp nơi trên đường di cư nên hình
thành tiếng Hẹ / khách-Gia -Hakka
ngày nay . và Mân Việt Ngữ
trên Đảo Hải-Nam thì có qúa
nhiều dân cuả bộ tộc Lê
/"Cữu-Lê" _Lê -Việt ngày xưa
nên hình thành tiếng Hải Nam ,
và Việt -Nam thì độc
lập và tách riêng trở
thành tiếng Việt Việt -Nam ;
Những Vùng NGô , Sở và phía bắc
thì ngày nay đã bị phát
âm Bắc-Kinh / Quang thoại /Mandarin ảnh hưỡng
gần như là toàn diện bỡi lịch
sử xâm chiếm cuả "hung Nô" và
vì đa số triều đình của
các triều đại đều đặt tại những
vùng đất "Trung Nguyên "nầy
trong mấy ngàn năm lịch sữ , nên
việc sữ dụng quan thoaị trở thành
chuyện đương nhiên .
Toàn bộ văn hóa Hạ , Thương , CHu ,
xuân thu- chiến quốc , Ngô ,
Việt , Sở ,Văn Lang , Mân , Âu , Lạc
Việt , Tần , Hán ...là văn
Hóa Việt ; Tại sao goị là văn
hóa Việt ? vì quốc hồn
, quốc túy đã mang tên
Việt ! Việt đã là tên
của truyền thống dân tộc cho
nên các vương triều mới có
tên là Việt chiếm đa số
như : Sở ,Tần , HÁN, NGÔ VIỆT ,
MÂN VIỆT , ĐÔNG VIỆT , DƯƠNG
VIỆT , NAM VIỆT , ÂU VIỆT , LẠC
VIỆT v v... , Triết học và địa danh
cuả sử xưa từ xa xưa đã được định hình
và lưu laị cho đến ngày nay ... chử
viết đã lưu lại là Đế Đoan Hạn
, Đế Cảo , Đế Nghiêu , Đế
Thuấn ...chứ không phải là
Thuấn Đế , Nghiêu Đế v
v...,và Địa danh là Sơn Đông chứ
không phải Đông Sơn , Hà Nam chứ
không phải Nam Hà , Thượng Hải chứ
không phải Hãi Thượng , Quảng Đông chứ
không phải Đông Quảng và đảo Hải Nam
chứ không phải Nam hải
V v....
Chỉ
đến khi nhà Hán mất , Thời
nhà Tấn có nhiều bộ
tộc phương bắc tràn xuống
chiếm cứ cái nôi văn Hóa
Việt vùng Hoàng Hà ,
Thái Sơn , sông Hoài , sông Lạc
, sông Phần v v...thì văn Hóa
Việt cổ ở Trung Nguyên mới bị
biến đổi và chỉ có phương nam
là còn giữ lại được văn hóa
Việt gần nguyên vẹn , ...ở phía
nam là vùng : sông Trường Giang
và Ngủ lỉnh , phương nam ...
Từ thời xa xưa đã có người da trắng di cư
xuống nam và lập ra Yến
Quốc , đến khi thái tử Yên Đan
dùng Kinh Kha mưu Sát Tần Thủy
Hoàng là Yến Đã bị Việt
Hóa lâu rồi , ngành Khảo
Cổ ở bán Đảo Sơn Đông cũng đào
được mộ của người da trắng ; Loạn thời Tấn
cũng là 1 lần nữa làm xảy ra
việc văn Hóa Việt Đồng
Hóa thêm 1 số nhiều-rất
nhiều- người Turky và và nhiều
tộc Hung Nô -Siberi , nhưng , vẫn
chính là vì vậy mà văn
hóa và ngôn ngữ phía Bắc
đã đổi khác thật nhiều
với sự lai căn mạnh mẽ bởi tiếng Thổ nhị Kỳ
, siberia, Hung nô -Chitan / Khiết Đan v
v..do đó mà có tiếng
"phổ thông-quan thoại" ngày nay
khác xa về văn phạm với Việt ngữ bằng
cách Đảo ngược văn phạm Việt , nhưng
phát âm thì lại tương đương
Việt ...ví dụ : Hoa trở thành Hỏa ,
"Diệt" trở thành "yué" , "to" lớn trở
thành "ta" hay lả chỉ đọc giọng cao hơn là
"Tá ,Tó" v v...
Sau khi nhà Tấn mất phân nửa
đất phía bắc , thì phía bắc
có qúa nhiều chủng tộc
và ngôn ngữ khác nhau , ...những chủng
tộc cuả người mới xâm chiếm trung
nguyên thành lập nhiều
quốc gia với tình trạng đa chủng tộc
và đa ngôn ngữ , thì bắt buộc
phải chọn và bị đồng hóa bỡi
tiếng "Phổ thông " , chứ mạnh ai
nấy giữ tiếng Turky , mông Cổ ,
Nga , Tạng v v thì sẽ qúa nhiều
khó khăn khi giao tiếp ..., và sau
nhiều đời thì đã bị đồng
hóa bỡi văn hóa Việt , Vì Văn
hóa Việt nầy thời đó đã
mang danh là nhà "Hán" và
"Tiền Hán" , thì khi đã bị
đồng hóa rồi thì họ cũng xưng
là "Hán"...
Sau nầy , Khi Dân số phát
triễn và cùng Với Sự phức tạp của
giọng Việt ở các miền khác
nhau như vùng THái Sơn , Sông
Hoài , Sở , Dạ Lang , Mân , Lạc , Âu ,
An Huy , Hà nam , Tô Châu , Hàn
châu , Phiên Ngung , Giao Châu V
v...đã bắt buộc mỗi 1 triều
đại các triều đình các đời sau
luôn luôn phải dùng và bổ
túc cách nói và cách
viết chung "phổ thông " ở triều
điǹh , đó là "tiếng Phổ
thông" chung cho bá quan văn vỏ mọi
miền ...bao gồm luôn nhửng người mới
đã bị đồng hóa : cho nên đả
điṇh hiǹh và phát triễn thành
tiếng "Quan Thoại" , là tiếng
nói "mới " của chung cuả những người củ và
mới -đã bị đồng hóa ..đễ
"phổ thông" , đễ dễ dùng
chung cho tất cả các chủng tộc củ
và mới của Trung nguyên ...,vì
vậy : cho nên đả -hoàn chỉnh
dần dần -và- chính thức- sinh
ra tiếng "quan Thoại"- "phổ thông"; do
đó : Cần chú ý điều
nầy : những cổ văn từ Hán ,
Tần ...trở về trước thì không
phải là "Quan Thoại" hay "Phổ Thông"
mà là Việt Ngữ-Nhã Ngữ ;
Dù "quan-thoại " đã được hình
thành dần dần , nhưng chỉ Đến
đời nhà Tùy và Đường thì
tiếng Phổ Thông mới được đầy
mạnh và phát triễn mạnh thêm 1
lần nữa , bỡi vì Tùy và Đường
đều là gốc Hung Nô ở Siberia ,
tuy vậy , thời đó tiếng Phổ
thông chưa đủ để thay thế nỗi
cho Việt Ngữ , nên Đường thi là đa
số phải đọc theo Việt ngữ ... thì mới
đúng theo vần đả gieo trong Đường Thi (
Chú ý : Thơ văn từ Tống < Đường
trở về trước là Việt , phải đọc theo
giọng Việt , nhưng củng có 1 số
ít dùng theo tiếng "Phổ
thông-Quang Thoại " do những người "mới" đã
viết ra ...mà truy nguyên ra sẽ
thấy Họ là họ nhà làm quan cha
truyền con nối nên đã chỉ
rành và chỉ biết "quan thoại " hoặc
họ chính là dòng người Hung-Nô
, Siberi ...ví dụ như điễn hình
là nhà thơ Lý Bạch / lý Bạch
gốc Hung Nô-Siberia ) .
Sau nhà Đường là nhà Tống ...,
Tống -Từ và Đường Thi điều phải đọc
theo giọng Việt ...Bởi vì tiếng
việt "xưa" tiếp tục vẩn còn
mạnh ; Nhưng rồi Nhà Tống bị
mất bỡi nhà Nguyên của tộc
Mông Cổ ...làm thay đỗi lớn ,
Tiếng Bắc-kinh / phổ thông lại lớn
-và mạnh thêm ...
Văn chương xa xưa từ trước là nhà Hán
, Tần v v...thì văn phạm Việt rỏ
ràng :Ví dụ ... , Người Mân
Việt là người Triều châu từ xưa
đến nay vẩn dùng từ "CÔI
-BÓ 雞 母" ( Gà mẹ ) cho đến
ngày nay , -"Côi" là "kê" của
tiếng Việt cổ đại mà bên
đạo Phật ở Việt Nam ngày nay
vẫn còn nhiều người biết ...,
''côi 雞 '' là Kê/Gà ,
''Bó 母 '' là ''Po'', là
"a-phò" , là "bà" , "bà mẹ" ,
"mẹ", -"Côi bó" là "gà mẹ" ;
Đối chiếu "Côi bó" hay
"gà mẹ" với văn chương tiền
Tần-Hán thì thấy rỏ văn phạm
và phát âm bị gọi là "cổ
Hán ngữ" đúng là như vậy
và chính là Việt ngữ ,
và xa xưa thì sách thời tiền
Hán đúng là dùng là : 雞
母 .
-Côi Bó雞 母= Gà mẹ ; chử Gà
là "kê"雞 -viết trước- : Văn Phạm
tiếng "Việt" .
-ngày nay tiếng Bắc kinh dùng
là "Mẩu -kê 母雞 " với chử Gà
là "Kê"雞 viết sau : văn phạmBắc kinh/
Phổ-Thông hiện giờ .
=> rỏ ràng thời Tần , Hán
và trở về trước thì ngôn ngữ
toàn là Việt.
-xưa : tra cổ thư thấy viết là
"bộ hành 步行 " : nghiã là Bước
Đi ( chử Hành 行 là "Đi"... phải viết
phía sau ) ,chứ không phải "hành
lộ 行路 " như hiện giờ ( Chử Hành 行
là "Đi"... viết phía trước ) .
- Xưa viết là "Mắt" 目 chứ không
viết là "nhản tinh"-眼睛 như bây giờ v
v..
=>quá nhiều bằng chứng và
quá rỏ ràng là trước đây
là Hán , Tần , xuân
thu-chiến quốc , Chu , Thương , Hạ , Ngủ
Đế , Tam Hoàng v v...xa xưa là văn
hóa và ngôn ngử là Việt
.
Đến khi Mông Cổ thôn tính
trung nguyên và lập ra nhà
Nguyên qúa lâu , thì
tiếng Phổ Thông chiếm thượng
phong , nhà Minh lật đổ nhà
Nguyên , cố khôi phục lại ngôn
ngữ , nhưng khi dời thủ đô từ phía nam
lên vùng Bắc -Kinh thì quan và
triều đình lại phải dùng "quang
-Thoại"... , nhưng ...và rồi lại đến
1 nhánh Hung Nô khác là
tộc Nữ Chân -của vùng Mản Châu
lập nên nhà Thanh , tiếng
Phổ Thông -Bắc kinh tiếp tục
"lên ngôi" và đồng hóa
người tộc Mản/ Kim , Triều đình Mản
Thanh bắt buộc thi cử tuyễn "Trạng
nguyên" , "tiến-Sĩ" V V...là phải thi
tuyễn bằng tiếng Phổ-Thông /
Quang Thoại .... , vùng Lưỡng Quảng là Quảng
Đông và Quảng -Tây chống
đối , vẫn chỉ thi bằng tiếng
Việt , Vủng Mân Việt là Phước
-Kiến , Triều Châu thì dung
hòa thi bằng song ngữ Quan-Thoại và
Mân Việt Ngữ ....; Nếu gộp
chung lại là "Thương"-Bị ảnh hưỡng bỡi Bạch Địch
Siberia , "Chu" , "yến" , Ngụy" , "kim" ,
"liêu" ,"Tây Hạ" v v...thêm vào
nhà "Nguyên" và "Mản Thanh"
tính chung cộng lại hàng ngàn
năm bắc thuộc "Hung Nô" làm cho
vùng Hoàng Hà và bán
đảo Sơn Đông -Trung Nguyên đả bị ...trở
thành "Văn hóa Việt đồng
hóa ngoại tộc " : Trở thành văn
hóa "phổ thông" -mà
thành phần mới nầy lại rất
là mạnh và xưng...là dòng dỏi
của "Hạ" ," Hán " , xưng ...là " Hoa Hạ "
tộc ! ...xưng là " Hán " tộc
với tiếng nói là tiếng
Phổ Thông - Quang Thoại ! -Và sau
nầy còn có tên là
tiếng "Bắc Kinh " hay là "Madarin "-
(Mandarin là Do phiên âm từ chử Mản Đại
cuả Triều Mản -Thanh bỡi người Tây Phương "
....; Họ đọc chử Hạ夏 là "Xia" ...TRONG KHI SỬ
SÁCH CỦA "HẠ 夏" LÀ VIỆT TỘC
VỚI VĂN PHẠM Và NGÔN NGỮ RỎ RÀNG
...đọc là " Hạ " .
Sau khi nhà Thanh bị Mất bỡi Tôn
Dật Tiên làm cách mạng ...,
nước "Trung-Hoa" mới được thành lập ,
Việt ngữ phương nam đã được cân nhắc
làm tiếng Phổ thông để
dùng thống nhất , nhưng vì
trong hàng ngũ tướng lãnh có
qúa nhiều người phương bắc sử dụng
tiếng Phổ Thông , nên vì
đại cuộc mà một lần nữa
tiếng Phổ thông-Quang Thoại -Mandarin
lại được chọn làm tiếng
"Phổ-Thông".
_Và điều đó tiếp tục ảnh
hươn̉g trở thành hiện traṇg ngày
nay...
Khi HỨA THẬN Biên soạn "TỰ ĐIỂN"
THUYẾT VĂN Thời HÁN Thì chữ ''HẠ''
Vẫn là được ghi phiên âm
là : 胡 雅 切= Hồ Nhả Thiết " ,
hồ nhả thiết...,nghiã là
...Hồ a ha . Hạ 夏 ", đó là
tiếg Việt : Khác xa với "phổ
thông là "Xia 夏 ". Chú Ý : Xin
đón xem bài bài khào cứu "
Thuyết Văn " ...
Theo Tôi thấy :
=>Chỉ khi nào có việc sách
THUYẾT VĂN ...để giải tự của Hứa Thận
thời nhà Hán mà lại đánh
vần chử "HẠ" là " x-i -a -xie =xié
",và toàn bộ những chử khác
trong thuyết văn phải đọc theo giọng "Phổ
thông-Bắc kinh" thì người ta mới tin được
là có 1 nền văn Hóa gọi
là "Hoa-Hạ" hay "Hán" có trước văn
hóa Việt .
=>Chỉ khi nào có việc triều
Hán không nói tiếng Việt
mà lại có riêng 1 thứ tiếng
"Hán !" thì người ta mới nên nghỉ tới
những lập luận : Hán ngữ , Hán
tộc , Hán hóa những dân
tộc khác , v v....; Nhưng chĩ riêng 1
quyển "tự điển"/ "Thuyết Văn" của
triều đại mang tên Hán 漢 do Hứa
Thận biên soạn cũng đủ chứng minh tất
cả Hán là Việt : 越 / 粵 ...bởi
phát âm của từ điển , của ngôn
ngữ là Việt 越 ; Vậy thật ra
là Việt Hóa 越 化...các
tộc khác .
.=> -Và đặc biệt là nên phải
nhấn mạnh và lập lại điều
nầy : tất cả NHỮNG CHỬ KHÁC trong
TOÀN BỘ SÁCH "THUYẾT VĂN" của
Hứa Thận thời nhà Hán PHẢI ĐỌC THEO
TIẾNG VIỆT ̣( đã biến
thành mấy phương ngôn Việt
ngày nay ).../ Nếu như đọc theo tiếng
"Mandarin-quang thoại" thì : thứ nhất
là đánh vần sẽ sai , thứ hai
là đọc được 1 it́ chử trùng hợp thôi ,
và thứ ba là có chử sẽ không
đánh vần phiên âm được :
Điều nầy có thể kiểm
chứng dễ dàng bằng cách mở
sách "thuyết Văn" của Thời Hán ra
mà Đọc thử ...
=>Và ĐƯỜNG THI Với TỐNG TỪ PHẢI ĐỌC THEO
CÁC PHƯƠNG NGÔN VIỆT ...mới
đúng vần , mới hay...
-...=>Và KHỔNG TỬ DẠY HỌC BẰNG NHÃ
NGỮ tiếng VIỆṬ̣( 雅語) , NHÀ CHU
VÀ NHỮNG NƯỚC THỜI XUÂN THU -CHIẾN
QUỐC PHẢI DÙNG NHÃ NGỮ VIỆT
ĐỂ LÀM TIẾNG "PHỔ
THÔNG'' KHI GIAO THIỆP...LIÊN LẠC ,
tất cả những điều nầy được ghi trong
nhiều cổ thư , bằng chứng vẫn
còn đó và qúa nhiều
bằng chứng ...
Tất
cả sách diển giải sử của từng thời đại
đều khó thoát khỏi "tư tưởng sử" của
THẾ LỰC Chính Trị của mổi 1 thời đại
! Nhưng hảy dùng khoa học nghiên cứu
về NGÔN NGỮ , PHONG TỤC , khảo cổ , di
truyền , tôn gíao ,thiên văn ,
địa lý , toán học v v... để lý
giải bằng tinh thần Chân , Thiện , Mỷ
thì lịch sử sẻ ̣được sáng tỏ ...;
Chúng ta không có máy thu
âm thời cổ sử để lưu lại tiếng
Việt thời xưa : Nhưng đả có VIỆT
TUYỆT THƯ , và có thể tham
khảo Chiến Quốc Sách , Ngô
Việt -Xuân Thu , Tứ Thư -Ngủ Kinh , Thuỷ kinh
chú ,Tiền Hán Ký , Hán
Thư , Sử Ký , Tống Sử , Minh Sử , Thanh Sử
-Tứ Khố Toàn Thư , Quảng Châu
Ký v v...và bên cạnh sách sử
của nước Việt-Nam ; Về văn hóa
dân giang còn có những bài
Đường Thi , Tống Từ , còn Việt Kịch
của Giang-Tô , Chiết Giang , những văn
hóa , và phong tục dân giang
...và đặc biệt là có
sách "Thuyết Văn " với ghi chú
cách đánh vần Việt rỏ
ràng ở thời nhà Hán của Hứa
Thận , cộng thêm có
nhiều ngôn ngữ Bách Việt
còn tồn tại cho đến ngày nay
như Bộc Việt ,Ngô Việt ,
Mân Việt , Lê Việt ̣(
tiếng của người dân sống trên
đảo Hải Nam ) ,Lạc Việt , Việt v v...,
Tất cả chi tiết trên đã
là bằng chứng sống động cho
thấy Văn Hóa người Việt đã
trải rộng và đồng hóa
biết bao dân tộc khác ở Trung
Quốc từ ngàn xưa cho đến hiện
thời...; Những sự ngộ nhận và
diễn giải sai lầm ý nghiã
chung quanh chử Hoa và Việt bởi các
thế lực chính trị để tranh
dành vai trò "chính Thống"
và "quyền lực" đã làm
gây ra phân ly và chiến tranh
và đau khổ cho biết bao muôn
dân của đại gia đình Bách Việt.
Có 1 thuyết cho rằng nước Việt cuả
vua Câu Tiễn không phải là con
cháu của vua Vủ nhà Hạ như Việt
Tuyệt thư đã ghi chép , vì vua
Việt mang họ Mi , sau đổi họ Lạc , trong khi
nhà Hạ mang họ 姒-Tự,
lập luận nầy rất quang trọng
và cần chú ý , Xưa hay
đỗi họ do được phong Quan và Đất v
v..Các đời tổ tiên trước cuả Vua Vủ
cũng thay đổi Họ nhiều lần ,
THuyết trên không đủ bằng chứng
thuyết phục đễ bải bỏ những gì
đã được ghi chép trong Việt
Tuyệt thư , bỡi vì Việt thư ghi
chép qúa rỏ ràng ; muốn phủ
nhận Việt thư không phải là
dễ .
Có thuyết cho rằng người Việt
là THổ dân lâu đời ở 1
vùng rộng lớn , lập ra nhiều
nước Việt nhỏ và trong đó có
nước Việt của Việt Vương Câu
Tiễn , thuyết nầy được các
nhà nghiên cứu sử "tin Cậy" hơn , bỡi
vì khảo cứu theo thực tế lịch sử thì
nhóm Việt cư trú trên địa
bàn qúa rộng .
Tại sao người ta không nhập 2 thuyết
làm 1 ? Và Còn chuyện
đỗi họ vẫn đầy vẫy trong lịch
sữ xa xưa cũng như sau nầy , họ Mi , họ Lạc cũng
đổi làm họ ÂU và Âu_Dương
ở vùng Âu giang của Âu Việt , Họ
Mi cũng đỗi thành Họ Sỡ ..., Họ Lạc khi chạy
loạn cũng đỗi thành họ LA , Họ Lai đễ
giữ an toàn ... ; Và từ cổ xưa cũng
thế thôi , ở đâu thì gọi theo
tên đó lâu ngày thành họ
mới , đất Trịnh , đất Triệu ,
đất Ngụy v v...đều tạo ra họ mới ; xưa
có họ Cơ là vì sống ở
sông Cơ , lâu ngày thì được gọi
là Cơ , Họ Khương là vì ở sông
Khương V v....; nên nghĩ đến là
nhóm Việt trải rộng trên 1 địa
bàn bao la bỡi vì giỏi dùng ghe
thuyền , cho nên theo bờ biễn
và theo dòng sông di chuyển ,
di cư rất dễ dàng ? Dù
không phải là du mục , nhưng còn
phương pháp du canh đốt rừng làm
rẩy , đễ tiã lúa khô ,
trồng kê , bấp , đậu , khoai
trên cạn ...cũng đòi hỏi phải di
chuyển hoài đễ đốt rẩy
mới là có thu hoạch tốt hơn cho
mùa trồng tiã kế tiếp ,
như hiện nay chúng ta vẫn hiểu
và thấy rỏ qua lối du canh , du cư ,
... Câu "khoai đất lạ , mạ đất
nhà " cũng là 1 lý do đễ phải
"di cư " ..., hiện nay thì việc
trồng lúa và nuôi heo đã
được xát định là của Việt tộc
biết làm sớm nhất... , gia
đình , dòng họ , gia phả , xả hội ,
đời sống và thực phẩm phong
phú , ở đâu có người Việt
là ở đó có trái bầu
và rau qủa v v..., văn minh nông
nghiệp cũng tạo ra âm lịch và quang
sát thời tiết , bầu trời ,
thiên văn-địa lý , sau nầy còn
có đoàn quân Hổ và Voi
ra trận xông pha chiến trường của Mạnh
Hoạch và của Hai bà Trưng , đời sống
thực tế cuả người Việt mới thật
là lạ và hay cho những sáng
kiến và ứng dụng , thuyết nhất
nguyên Thái cực sinh lưỡng nghi của
vùng đất Sở thật là cao
thâm khó lường , vẽ bùa và
thần chú của vùng Mao-Sơn
(Cối-kê) , yêu tinh hay thần
thánh nhập xác người dùng
cây nhọn xuyên gò má ,
xuyên lưỡi , cắt lưỡi lấy máu
làm bùa vùng Phước kiến-
Triều châu thật lạ lùng đặt
biệt , gọi hồn , xem phong thủy địa
lý , tử vi , bói toán thuật
số , thư-trấn-yếm bùa
đối với người và công tr̀inh xây
dựng thật là huyền bí ,
nghiên cứu vỏ công , thế
trận-binh thư , nhạc cụ , thi ca , tiên tri ,
khoa học v v..., chế tạo thuốc pháo ,
giấy , xe , ghe , nhà sàn ,
thành quách -cung đình , đền
thờ- lăng tẵm , vủ khí , mỷ phẩm , y dược v
v...; những người khảo cứu lịch sử Bách-
Việt còn hay nhắc lại những phát
hiện người Việt giỏi dùng ghe ,
thuyền di chuyễn trên sông
biễn và trồng lúa , cắt
tóc ngắn đễ dễ làm việc
đồng án ở ruộng lúa nước ... ?
có tục xâm mình , vẽ mặt , đội
lông chim (điều nầy cũng thấy
rỏ ở thổ dân Châu ÚC và
Châu Mỹ La-tin), quan niệm sống
là "THiên" và "NHân" hợp
nhất , khi làm lễ cúng
tế thì ca hát và nhảy
múa , những từ ngữ "chìa khoá" cuả
tiếng Việt có liên hệ
với nhóm ngữ hệ nam đảo Thái
Bình Dương v v...; người ta ước tính rằng
ngày xưa 1 chiếc thuyền bườm
(không có́ máy móc cơ
khí như hiện nay ) nếu xuất
phát từ vùng Cối -kê /
Hàn Châu thì chỉ trong vòng 1
tuần lễ là đến nước
Nhật hiện giờ...
Tiếng Việt thời tiền sử là đa
âm , rồi biến dần thành
đơn âm , tôi không dám lạm
bàn nhiều hơn , không dám đụng
đến "chuyên khoa" ngôn ngữ học với mớ
kiến thức Lơ-tơ-mơ cuả mình ," lang -thang "
và "lênh- đênh" trên 1
biễn taì liệu cổ sử
Bách Việt , khảo cứu và đối
chiếu với thực tế là sở thích
cuả tôi đễ tìm cội nguồn
tổ tiên , chuyện nầy rất
là bình thường đối với tôi
và với biết bao người khác ,
bài khảo cứu của tôi sẽ chẵng mang lại lợi
lộc vất chất gì ! sẽ chẳng
có danh hay lợi gì đễ bóp
méo sự thật , chỉ là những lời
tâm tình và chia sẽ công khai
đễ mong những người có tâm
huyết nghiên cứu sẽ đưa ra những bằng chứng
mà phê phán cho tôi biết
là tôi hiểu đúng hay là
Sai ...???
Khi qúi vị đọc bài viết nầy :
xin phép cho tôi nhắc lại Ca dao Việt
...đễ thấy người Việt Ngày xưa
với tiếng Việt đã từng sống ở
đâu ...
Gió Động Đình mẹ ru con
ngủ
Trăng Tiền Đường ấp ủ năm canh
Bống bồng bông ,
bống bồng bông
Võng Đào mẹ bế con
Rồng cháu Tiên
Và
Công cha như núi Thái Sơn
Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra
Một lòng thờ mẹ kính cha
Cho tròn chử hiếu mới là đạo
con
( Động Đình Hồ là hồ
nước lớn chính giữa 2 tỉnh Hồ Bắc và
Hồ Nam ; Thái Sơn là ngọn núi
hùng vĩ ở bán đảo Sơn Đông ).
Và...
Nước đóng băng khi thời tiết băng giá
, khi băng tan rồi thì băng lại là
nước ..., với thành tựu khoa học và văn
hóa khiêm tốn của nhân loaị
ngày nay cũng đã bắc đầu vén
được bức màn bí mật của DNA và
của lịch sử ; trong tương lai thì lịch sử
Việt hóa , và lịch sử Việt
tiến hóa như thế nào từ xưa
cho đến nay ...cùng với những trang sử bị
cải biên hay bị ngộ nhận chắc chắn sẽ
được làm sáng tỏ rỏ ràng. _Một
ngày nào đó ...tất cả
tiếng Việt : gồm Hoa ngữ- Phổ
Thông -Bắc Kinh của phương bắc ,Bộc
Việt-Hakka ,Ngô Việt-Tô
Châu , Thượng Hải , Dương Việt-Vùng
Kinh Sở và Dương Châu , Giang Tây ,
Mân Việt-Phước kiến , Triều
Châu , Lôi Châu , Lê
Việt-Hải Nam , Việt-Quảng Đông, Quảng
Tây và Việt Nam ,_một
ngày nào đó _Vì lý do
"Toàn cầu hóa" , hay vì khoa
học vi tính và "bàn phím
đánh máy hóa" mà tất cả
các tiếng Việt nêu trên
được đánh vần chung 1 phương cách
và bằng cùng 1 loại mẩu tự La-tinh A
B C ...thì tât́ cả Việt ngữ nêu
trên sẽ lại quay về 1 gốc Việt
thống nhất ;Và đó cũng
là cách học và hiểu các
Việt Ngữ khác biệt nhau hiện
nay của tôi là cứ việc phiên
âm tất cả trở thành tiếng
Việt A B C... thì sẽ thấy được sự
tương đồng hay tương đương với tiếng
Việt gốc của cá nhân gia
đình mình đang dùng- thì sẽ
dễ học và dễ hiếu lắm !
Nhạn
Nam Phi ( Thanh Đỗ ) .
Kính bút : Cùng
qúi vị đọc giã...
-Đề tài "đồng hóa" rất
dễ trở thành đụng chạm đến tinh
thần "tự ái dân tộc" , với tinh
thần cầu và xin tìm được sự
thật khi khảo cứu lịch sử ..., xin trân trọng
gữi lời chào qúi mến -không
phân biệt chủng tộc , vì sự
thật khoa học -đến qúi vị nào
đã lưu tâm và đọc hết
bài nầy ; tất cả mọi ý
kiến đóng góp thêm hay
phê bình hoặc phản biện đều
rất đáng qúi ...
Kính chào qúi vị và xin
bổ túc thêm những chi tiết
và ý khác ở những bài khảo cứu
sau ...
Bài Viết nhân ngày 09 /09 /2009
Trang mạng Việt Nam Văn
Hiến
Trang
Bách
Việt Sử
www.vietnamvanhien.net
www.vietnamvanhien.org
www.vietnamvanhien.info
www.vietnamvanhien.com
Email:
thuky@vietnamvanhien.net
Trang mạng Việt Nam Văn
Hiến là nơi bảo tồn di sản văn hóa của
Việt tộc, thắp sáng niềm tin Diên Hồng
và nếp sống văn hiến hầu phục hồi nền An Lạc
& Tự Chủ.
|