Việt Nam Văn Hiến
Năm Thứ 4888
www.vietnamvanhien.org
www.vietnamvanhien.net






Trang mạng Việt Nam Văn Hiến  xin trân trọng lưu trữ và phổ biến những tác phẩm của Triết Gia Lương Kim Định trong mục đích bảo tồn di sản văn hóa của Việt tộc và cũng để tri ân sự hiện hữu của ngài trong dòng sinh mệnh Việt cùng những đóng góp vô cùng quí báu cho nền văn hóa Việt.

www.vietnamvanhien.net



HƯNG VIỆT


Lương Kim Định (1914-1997)
 

NỘI DUNG  

Tựa 

1. CẦN HỌC LÀM NGƯỜI VIỆT  

2. LỐT CHÂN MINH TRIẾT  

3. NGUỒN GỐC VÀ ƠN ÍCH CỦA GIA ĐÌNH VIỆT  

4. NHÀ NƯỚC  

5. DÂN TỘC HAY TIỂU TƯ SẢN  

6. TẠI SAO TÀU KHÔNG ĐỒNG HÓA NỔI VIỆT  

7. BIÊN CƯƠNG NƯỚC CỔ VIỆT 

8. NGUỒN GỐC VĂN HÓA VIỆT THEO CHỮ NHO VÀ ĐẠO NHO  

9. NGUỒN GỐC VĂN HÓA VIỆT THEO NHỮNG KHÁM PHÁ MỚI NHẤT 

10. KHAI THÁC NHỮNG THÀNH QUẢ THÂU LƯỢM ĐƯỢC.  

11. NHỮNG TRANG BỊ CẦN THIẾT ĐỂ HIỂU TRIẾT VIỆT  

12. TRỐNG ĐÔNG SƠN VỚI NỀN THỐNG NHẤT NHÂN LOẠI  

13. CON ƠI CỐ GIỮ ĐẠO BA  

14. NHÂN BẢN TÂM LINH  

KẾT  

PHỤ TRƯƠNG  

TRUYỆN TRẦU CAU  

TRUYỆN BÁNH DẦY BÁNH CHƯNG  

NÉT ĐẶC TRƯNG CỦA VĂN HÓA VIỆT NHO

SÁCH ƯỚC –  GẬY THẤN  

VĂN HÓA VIỆT TỘC

Tác giả Kim Định



Tựa

  An Việt là một tổ hợp những người muốn cứu quốc bằng văn hóa theo niềm thâm tín rằng “Đạo mất trước nứơc mất sau”. Nay muốn khôi phục lại nước trước hết phải khôi phục lại Đạo. Khôi phục lại Đạo cách thấu triệt thì gọi là triết (triết giả triệt dã: triết là đi tới triệt để, triệt cùng). Xưa nay không ai cho là Việt Nam có triết, nhưng khi khảo xét thấu đáo thì lại không những có mà còn có một cách ưu việt hay ưu thắng, nghĩa là vừa chính xác mà lại phong phú vô biên.  

  Đối với quốc tế hay những người chuyên môn thì càng nhiều người càng hay chứng tỏ câu bốn ngàn năm văn hiến không phải là lời nói khoe mẽ vô nền mà thực sự có nền tảng rất vững chắc. Nhưng với người trong nước nói chung thì không đủ giờ hay toàn cảnh để đọc cả bộ. Vì vậy chúng tôi có tóm lược vào một số bài gọn để dễ truyền bá

1. Cần Học Làm Người Việt

  Lúc còn quê hương hễ ai sinh ra bởi cha mẹ Việt thì đương nhiên là người Việt, nhưng nay ta đã cắt mất cái tình thế sẵn có đó rồi: chúng ta đã bị bứng ra khỏi đất nước và đang trở nên lạc lõng bơ vơ giữa muôn làn sóng ý hệ ngược chiều, nếu không bỏ công học hỏi nhận thức lại cái hồn thiêng của cha ông thì chẳng bao lâu con cháu ta hay chính chúng ta sẽ hóa thành những cánh bèo không cội rễ trôi dạt khắp bốn phương trời tức trở nên những con người mất hết gốc, có gốc nước lẫn gốc người.

Để tránh cái tai họa đó chúng ta cần gầy dựng một tổ chức để giúp nhau học hỏi về nguồn gốc. Đây tuy là những việc âm thầm và với nhiều người có thể là nặng nhọc nhưng được cái lợi là làm đến đâu ta thâu thập liền chưa cần đến đèn xanh đèn đỏ nào hết, cũng không cần phải rùm beng, nhưng xét cho cùng thực là quan trọng ngang với những việc cứu nước, kiến quốc. Vì nếu không làm thế thì mai ngày có còn người Việt thì đã mất hồn rồi, cho nên đã rõ ràng từ nay ai còn muốn “là người Việt”, thì phải học “làm người Việt”, y như ai muốn làm công dân Mỹ phải học về hiến pháp Mỹ với ít điều sử địa, tổ chức chính quyền v.v… Cùng vậy ai muốn là người Việt phải học về nguồn gốc, đạo lý Việt. Đã qua rồi thời hễ sinh ra thì đương nhiên là người Việt. Từ nay phải học “làm người Việt” thì mớ nên người Việt được. Học về Việt Nho là học về gốc nước, học về triết lý An Vi là học về gốc người. Và chúng ta sẽ rất hãnh diện khi nhận ra rằng cái hướng đi của triết Việt cũng là hướng mà các khoa học tối tân đang tiến tới.

  Vấn đề rắc rối chỉ còn ở chỗ nhiều người cho là triết lý khó quá không thể hiểu được. Nhưng tiền nhân nói “có khó mới có khôn”, chứ nếu cứ “làm văn hóa” kiểu dẽ dãi như trước tới nay thì không đủ cứu vãn tình thế, vì chẳng qua là xoay quanh những cái đã có rồi, mà không mấy phát huy được gì sâu xa, chưa tìm được cái cội gốc của mình thì làm sao có thể phát huy. Cho nên nói là làm văn hóa mà kỳ thực chỉ là việc làm của mấy người lo về văn nghệ, văn chương để cho đồng bào tới xem giải trí: xem văn nghệ rồi, đọc báo rồi quên đi chứ không mấy âm vang vào tới tâm hồn. Sức mấy mà con em mai ngày nó coi trọng để mà chịu tiếp nối. Muốn chúng tiếp nối thì phải làm sao cho chúng nhận thức ra được những giá trị của người Việt. Mà muốn chúng nhận thì chúng ta phải nhận thức trứơc. Muốn vậy thì không thể tránh sự học hỏi.

Chỉ còn một điều trở ngại là sách nhiều người cho là khó quá. Nhưng điều đó sẽ được giải quyết bằng học hỏi dần dần: nên ghi nhận bộ năm quyển Ngũ Kinh chính là chương trình của bốn năm cử nhân. Vậy mà nay chúng ta mới bắt đầu đọc giữa bao nhiêu là bận tâm về công ăn việc làm thì có không hiểu ngay cũng là sự thường. Đừng có nản.


2. LỐT CHÂN MINH TRIẾT

Khoa học là gì nếu không phải là sự tiếp nối kéo dài trực giác.

 

  Những nẻo đường mòn

  Bà mẹ Việt Nam quả là hình bóng của nền minh triết Lạc Việt: Người không đi trên những đại lộ huy hoàng xán lạn, nhưng âm thầm lặng lẽ bứơc đi trên những lối mòn, những ngõ ngách quê hương tầm thường, xem ra chẳng mấy quan trọng. Cũng như thế nền minh triết Việt Nho luôn đặt trên các nẻo đường mòn của dân tộc, thoạt xem tưởng không có gì sâu sắc, có cũng được mà không có cũng chẳng sao. Vì thế, từ lúc tiếp xúc với nền văn minh xán lạn Thái Tây nhiều người Á Đông đã giã từ những nẻo đường xưa cũ để tiến bước theo lối ngoại nhân. Nhưng rồi từ đó hết theo bên này lại ngả sang bên kia với muôn vàn đổ vỡ, khiến phải dần dần hồi tâm và nhìn lại… Để rồi mới nhận ra rằng những cái gì tầm thường bấy lâu không hẳn chỉ có thế, mà còn tiềm tàng một cái gì phi thường. Và lại nhận ra không nơi đâu có được cái lối bình thường của chúng ta, theo lời nhận xét của bá tước Keyserling thì không một nơi nào trên thế giới lại có sự lạ lùng này: nền minh triết ý thức lại lấy ngay đời sống bình thường của dân gian làm mẫu mực. Không nơi nào lối sống thông thường theo bản năng lại trở thành tiêu biểu hòa hợp cho một nền tư tưởng phong phú. Và cũng không nơi nào đời sống lại được tổ chức theo đạo lý cao và sâu hơn, đến nỗi ánh đạo soi thấu những hiện tượng mà bình thường ta không thấy có liên hệ chi cả (Journal II. 87).

   Tại sao lại có việc kỳ lạ đó? Để trả lời chúng ta thử xem ít nhiều sự kiện. Ta hãy mở đầu bằng quan niệm con người của tiên tổ. Con người được tiên tổ gọi là “hoa đất ngọc nước” mà sau Nho công thức hóa thành câu “nhân giả kỳ thiên địa chi đức”, người là đức của trời đất, tức người là tinh hoa của cả đất cả trời, cả âm cả dương, tổ tiên ta đã thi vị hóa thành mẹ tiên cha rồng. Mẹ tiên ở trên núi, mà núi là đất vươn lên cao để đón trời. Còn trời thì được biểu thị bằng nước, tức nước mưa xuống từ trời. Lẽ ra trời ở trên đất ở dưới, nhưng nếu đặt thế thì không có truyện bố mẹ gặp nhau, và quẻ Bĩ (quẻ số 12) mà không gặp nhau thì không ra người, nên lời kinh quẻ Bĩ nói: “Bĩ chi phỉ nhân”, “Bĩ đấy, chẳng phải là người đâu”, không phải người vì có duy đất quen gọi là duy vật thì không ra người, cũng như chỉ có trời gọi là duy tâm thì cũng không ra người nốt. Muốn ra người thì phải có trời và đất giao thoa, có thể gọi là giao chỉ. Muốn vậy thì phải đặt đất trên trời dưới như quẻ Thái (quẻ số 11) vì đất nặng đi xuống, trời nhẹ bay lên nên hai đàng gặp nhau, trong Kinh Hùng (hay Lĩnh Nam Trích Quái) gọi là Mẹ Au Cơ gặp Bố Lạc Long Quân trên “cánh đồng Tương” nhờ vậy có quẻ Thái làm nên đại ngã tâm linh.

 “Cánh đồng Tương” cũng được cha ông gọi bóng là sông Tương. “Sông Tương nước chảy hai dòng”, dòng sông trong dòng sông đục tức dòng trời dòng đất, và nó đổ vào hồ Động Đình mà tiền nhân ta quen gọi là cái nôi nước Việt. Cái nôi này phải hiểu theo nghĩa huyền sử tức theo nghĩa hàm tàng cả hai bên trong ngoài, đó là cái hồ tròn ở giữa chỉ trời, có cái nhà vuông (hay hình chữ nhật cũng được đều có góc bốn phương) chỉ đất. Còn vòng tròn chỉ trời, trời phải trội hơn đất, nên nếu nói bằng số 3 (số 3 tròn như số Pi) phải đặt trên số đất là 4. Đó cũng là số hàm ngụ trong bánh dầy bánh chưng. Sự trội hơn của trời được biểu thị bằng vòng tròn ôm lấy hình vuông, tục ngữ nói “mẹ tròn con vuông” là vậy, tức phải hiểu theo nghĩa siêu hình. Chính trong ý đó mà ta quen nghe chúc các bà sinh nở được “mẹ tròn con vuông” chứ nếu hiểu theo nghĩa thường thì con vuông sẽ ra duy vật vuông chành chạn bốn góc bánh chưng, còn mẹ mà tròn như cái chum thì trở nên quá bí: nét đan thanh có còn đâu!

  Xem như vậy thì ta hiểu chữ Giao Chỉ quan trọng ngần nào. Vì trời đất có giao chỉ thì người ta mới ra Người Đại Ngã, cho nên tiên tổ ta đã nhận cả tiên lẫn rồng làm vật biểu (symbolic animal) và đã tạc lại trong một di vật để giối lại cho miêu duệ muôn thế hệ về sau, đó là cái trống, quen gọi là trống Đông Sơn, vì tìm ra được nhiều nhất ở làng Đông Sơn tỉnh Thanh Hóa (Bắc Việt). Xem lại trông sẽ thấy quả là một cuộc giao chỉ của tiên rồng, nhưng lâu ngày con cháu không nhận ra được. Vì tiên đại diện bằng chim, còn rồng đại diện bằng thuyền rồng, tức thuyền đã hóa ra rồng có miệng có mắt, và miệng đang mở để đón nhận cái hôn nồng cháy của Au Cơ tiên nữ biểu thị bằng chim hải âu. Do đó mà trống đồng được thờ kính và mỗi năm vua quan hội nhau tại “Minh Chủ Đông Cổ”, nghĩa là Trống (Cổ) bằng Đồng chứng giám (Chủ) cho cuộc Minh ước, để thề trung thành với nhà với nước. Ta còn đọc được những câu như “Đồng cổ vang những lời thề hiếu trung”, hiếu với cha mẹ là nhà, còn trung là với nước. Đó là cách chẻ nhỏ Đạo ra cho dễ hiện thực. Thay vì nói “nhất âm nhất dương chi vị đạo” như Kinh Dịch, thì đây nói nhà nước hay hiếu trung cũng vậy.

  Hiểu như thế thì trống Đồng là biểu tượng rất ư cao trọng nên đã được tiên tổ tôn thờ và nhờ đấy mà các ngài đã dựng nước và giữ nước được nhiều ngàn năm, ta quen nói bốn ngàn năm văn hiến là nói non, chứ thật ra phải nói bảy ngàn năm, tức lên tới thời đá mài Bắc Sơn, vì ở đấy người ta đã gặp thấy những hòn sỏi mài nhẵn, có gạch hai vạch chạy song song, mà chún gta suy đoán là nó tượng trưng cho nét song trùng, hay là nét lưỡng hợp (dual unit) đựơc biểu diễn đầy trong các huyền thoại, bao giờ cũng có hai hạn từ (term) như sống núi, nước non, ông cồ bà cộc và nhất là tiên rồng. Trống Đông Sơn được ứơc tính chung quanh một ngàn năm trước công nguyên, nhưng đó là thời cực thịnh còn thời sơ khai thì phải tính lên tới hai hoặc ba ngàn năm trước. Vì các con số chính trong trống là bộ số vài ba (2-3), tham lưỡng 3-2 đã có từ thời Phùng Nguyên tức lối ba ngàn năm trứơc công nguyên. Vì thế nói bốn ngàn năm văn hiến là nói non, nếu nói già thì phải ngược lên đến Bắc Sơn là bảy ngàn năm, hoặc cả thời văn hóa Hòa Bình là mười ngàn năm. Không thể biết chắc nhưng quả là một thời gian dài, thế mà tiền nhơn đã giữ được nước lâu bền, đến độ đã có tên Việt Thường hay Vạn Xuân. Việt Thường có hai nghĩa, một là nứơc Việt nói chung có tính cách trường cửu, hai là chỉ miền Châu Hoan (miền Quảng Trị) nhưng nên hiểu chữ Hoan là hoan lạc, an vui thái bình (nhờ quẻ Thái) theo nghĩa huyền sử thì đúng hơn.

  Trong sách “Hùng Vương sự tích ngọc phả cổ truyền” có chép rằng: “Vua Kinh Dương Vương vâng ngọc chỉ phụng mệnh Trời về núi Nam Miên lập đô ở phía Hoan châu thuộc Nghệ An xứ”. Câu sách này cũng nên hiểu theo nghĩa huyền sử tức không cần tìm Hoan châu ở đâu, mà phải tìm xem Hoan châu có ý nghĩa gì. Và nghĩa đó là: ai vào xứ Nghệ thì sẽ được hoan lạc. Vậy chữ Nghệ kép bởi nét phẩy và nét mác giao thao nhau ở giữa. Nét phẩy đi theo kim đồng hồ có thể đại diện nét đất, nét mác đi ngược kim đồng hồ chỉ trời, hai chữ trời đất giao thoa thì mọi sự đựơc hạnh thông hoan lạc. Đấy là chân lý cần minh tâm khắc cốt, nên tiên tổ đã dùng chữ Nghệ làm nền cho chữ Văn trong Văn Lang và cả chữ Giao trong giao chỉ, và ta có thể đoán các ngài còn gửi vào thể thơ Lục Bát được coi như thể thơ của đất nước. Suy đoán này dựa trên loại trống có sáu mặt và tám mặt được nói đến trong sách “Mục Thiên Từ truyện” chương 5 (d.440) và gọi là Linh Cổ (Trống Thần). Trống kép 3 (6 mặt) để thờ thần Đất, trống kép 4 (8 mặt) để thờ thần Trời (đặt theo kiểu giao chỉ) nên 3 quy cho đất ở trên, 4 quy cho trời ở dưới, y như bánh dầy bánh chưng. Vậy thơ lục bát cũng gieo vần theo lối giao chỉ tức gieo vào lòng gọi là “yêu vận” vần ở lưng.

Trăm năm / trong cõi / ngừơi ta

Chữ tài / chữ mệnh / khéo là / ghét nhau.

 Đọc như thầm bảo “yêu em anh để trong lòng” (trong là) chứ không để ngoài da đâu mà em ngại. Để ngoài da là để ở vần cuối như mọi thứ thơ, chỉ có thể lục bát mới để ở trong lòng! Và nhờ đấy mà có cánh đồng Tương với sông Tương nước chảy hai dòng đổ vào hồ mẹ tròn con vuông gây nên cảnh hoan lạc chân chính.

 “Nhưng than ôi có một chiều thu lá rơi”, rớt xuống sông Tương, lấp đi một chiều trở nên lưu tục như sông Lục Đẩu sáu khúc nước chảy xuôi một dòng anh ơi. Thế là sông Tương biến ra Thương (quẻ Minh Di ánh sáng bị thương) và từ đấy hết chảy vào hồ Động Đình nữa, khiến nên quẻ Bĩ: non nước hết gặp nhau.

Sông Tương nứơc chảy xuôi dòng,

Cho non nhớ nước suôi đong lệ hồng.

Phải chi nhớ bạn thuỷ chung,

Phải chi nhớ bạn não nùng đường tơ!

  Tôi thú thật khi nhớ tới đoạn thơ này thì nước mắt cứ ứa ra chan hòa vì các hình ảnh đau thương cứ dồn dập tràn tới: từ bao chiến sĩ quốc gia xưa cho tới cảnh đấu tố rùng rợn, cảnh bao nhà tan tác chia ly. Đại lộ kinh hoàng, mồ tập thể ở Huế rồi bao nhiêu quân nhân công chức trong các trại tù khủng khiếp gọi là cải tạo, bao đồng bào chết trên biển Thái Bình, trong các rừng rậm, đến nỗi mấy năm đầu di tản tôi không dám thuyết giảng, vì đang nói mà hễ nhớ tới là nước mắt tràn ra, nghẹn ngào nói không ra tiếng. Mãi tới nay vẫn chưa hẳn cầm lại được. Hôm nay tôi thú điều đó ở đây để mong có thể cầm lại, cầm lại bằng một hai hành động tích cực. Vì tôi sợ nếu không thế thì tôi cũng như đồng bào tôi liều mình trở nên như Thục đế, vì quá nhớ quê hương mà trở nên chim quốc, kêu suốt mùa hè. Chúng tôi đã kêu quốc quốc suốt cả mười hè mà chưa thấy được gì tích cực. Vì thế An Việt đề ra một chương trình của vài việc bé nhỏ.

 1. Ước mong cho mọi gia đình Việt Nam treo một tranh trống Đồng làm như lễ giỗ tổ quanh năm.

 2. Học về những bài khôn ngoan tàng ẩn trong trống.

 3. Và sau cùng làm thêm một cái gì tích cực, dù nhỏ nhoi cũng kệ, miễn tích cực có làm như sẽ đề nghị ở phần dưới.

   Tranh trống thì An Việt đã in ra một lớp và có thể sẽ tiếp tục in thêm. Bây giờ đến việc thứ hai học một hai bài hàm ngụ trong trống. Nhớ câu đã trưng ở trên “Đồng cổ vang những lời thề hiếu trung”. Hai chương sau sẽ nói về hiếu hay gia đình rồi trung hay quê nước.

3. NGUỒN GỐC VÀ ƠN ÍCH CỦA GIA ĐÌNH VIỆT

  Trẻ Việt học rất giỏi ai cũng hãnh diện. Người Mỹ rất ngạc nhiên không hiểu tại đâu. Đã có người đi điều tra tận mãi bên Đông Á, họ không thấy dấu gì chứng tỏ là người Á Đông có thiên phú trội hơn người Au Tây nên hầu hết đi đến kết luận như sau: lý do căn để là bởi gia đình. Gia đình vững thì con em học giỏi. Điều ấy cũng xảy ra cho các gia đình Mỹ bậc trung lưu trở lên. Ngoài ra về tiền của, các gia đình trung lưu của người Đông phương cũng tiến mau hơn… ấy cũng nhờ gia đình. Nội một việc gia đình lỏng lẻo hay ăn cơm tiệm, con cái sớm ra ở riêng… đã tốn phí gấp bao. Chỉ kể sơ qua hai ơn ích nọ đủ chứng tỏ gia đình là một giá trị rất lớn cần phải hết sức đựơc duy trì.

  Đến khi nghiên cứu về nguồn gốc văn hóa mới thấy giá trị còn cao hơn nhiều lắm. Các nhà xã hội học nhận thấy rằng ở đâu gia đình vững thì không có chế độ nô lệ. Cái đó dễ hiểu vì người trong gia đình có ai bị bắt làm nô lệ bao giờ. Vậy mà tinh thần gia tộc của ta đã được duy trì qua bao ngàn năm. Khởi đầu là Hồng Bàng thị. Chú ý chữ thị nói lên tinh thần gia tộc. Tinh thần đó đã vẫn giữ được khi từ bộ tộc bước lên đợt quốc gia, thành ra quốc gia cũng chỉ là bộ tộc mở rộng, cũng như bộ tộc cũng chỉ là mở rộng thị tộc, như thị tộc là nối tiếp gia tộc. Chính vì thế mà người trong nước xưng hô nhau bằng những danh xưng, thuộc gia đình như bà con, cô, bác, chú, thím, cha ông. Với bất cứ ai dù không trong gia tộc cũng xưng hô là ông bà, cô, thím, chị, em… Đó là hiện tượng rất lạ.

  Tôi còn nhớ có cảm tưởng thú vị xưa khi đọc sách Tây họ bỡ ngỡ biết bao vì người văn mày bên ta cũng được gọi là ông là bà. Họ ngạc nhiên là vì bên Au Tây ai cũng gọi nhau bằng you bằng vous, chúa cũng gọi là you mà con mèo cũng gọi là you. Vì xã hội họ không xây trên mẫu gia đình mà trên mẫu chủ nô. Ai có của thì là chủ, ai không có của chỉ là nô. Đó là nền móng xã hội La Hy. Người Tàu cũng chỉ có ngộ với nị, nên xã hội nhiều nô lệ hơn ta, và phá chế độ nô lệ muộn. Bên La Mã xưa có phép đầu phiếu “bách tiền” gọi là Centuric. Tiếng này gốc tiếng La tinh Centrum là trăm. Hễ ai có một trăm ngàn thì đựơc bỏ phiếu. Nhiều trăm ngàn thì bỏ nhiều phiếu. Không có tiền không được bỏ phiếu. Đó là tại xã hội xây trên tài sản chứ không trên tình gia đình, mà vì quy chế tài sản là tuyệt đối nên 2, 3 người có 7, 8 người không, thành ra đến 70%, 80% người trong xã hội là nô lệ, chỉ chừng 20% có tự do. Đời ấy người ta chỉ mới biết có công bằng trừu tượng khái quát mà chưa biết đến công bằng xã hội, tức là người nào trong nứơc cũng phải được tham dự tài sản trong nước. Công bằng xã hội mới được nói đến từ cuối thế kỷ 19.

  Còn bên ta có ngay từ đầu với phép công điền công thổ, tức là ai ai hễ đến tuổi thì đều được làng cấp ruộng. Làng tôi mỗi đinh được 5 sào, nhưng có người giữ miếng đất hay vườn quá 5 sào mà không tiện chia cắt thì ngừơi đó phải theo “rong canh” những sào dư: mỗi sào là 5 thúng thóc. Người đến tuổi đinh được có phần điền mà không có ruộng thì được người khác theo rong canh cho 25 thùng thành thử không ai trong nước là vô sản hết. Ong Paul Mus có nói người Việt Nam nghèo thiệt, nhưng nghèo cả hàng tổng: lợi tức không có chênh lệch quá lớn về giàu nghèo như các xã hội tư bản. Đó là nhờ phép công điền. Phép công điền đã được nói bóng trong truyện Mẹ Au đẻ cái bọc trăm trứng, bà sợ, vứt ra ngoài đồng thế mà rồi con nào cũng được phương trượng hết. Không ai phải làm nô lệ vì thiếu phần điền. Đến sau Việt Nho lược đồ hóa lý tưởng trên bằng phép tỉnh điền, nghĩa là chia một lô đất ra 9 lô theo như hình chữ Tỉnh # cho 8 gia đình 8 lô, còn lô giữa để nộp cho vua, trong đó có đào một cái giếng chung chữ Nho kêu là tỉnh nên gọi là tỉnh điền. Tỉnh điền hay bọc mẹ Au ném ra ngoài đồng đều chỉ phép công điền công thổ mà tôi gọi là bình sản: tài sản chia đều cho mỗi người dân.

  Phép ấy tiên tổ ta đã có ngay từ Hồng Bàng thị. Chữ thị nói lên tinh thần gia tộc, mà về sau các bà còn mang trong tên. Lâu ngày người ta coi thường chữ ấy, nhưng ở thời khai nguyên thì chữ đó cao trọng lắm, nó chỉ tinh thần mẫu hệ, đặt vợ trứơc chồng. Nước được lập ra do 50 con theo mẹ lên núi, chứ không do 50 con theo cha xuống biển (đi đâu mà bặt tin tức vậy?) nghĩa bóng là văn hóa vẫn giữ được tình người, mà trong triết gọi là giữ được nguyên lý mẹ. Còn văn hóa Tây Au thì không, nên mang tiếng là đực rựa: duy dương, duy lý mà hình thái cùng cực là cộng sản duy vật chống lại mọi thứ tình: tình nhà, tình nước, tình trời: gọi là tam vô: vô gia đình, vô tổ quốc, vô tôn giáo, cho nên thuyết tam vô của công sản cũng nảy sinh từ Au Tây là chuyện đương nhiên. Và những người còn bênh vực Karl Marx, Hồ Chí Minh đổ tội cho Lenin, cho Đồng Duẩn là tỏ ra chưa nghiên cứu thấu triệt văn hóa Au Tây. Cũng như nói đến Việt Nam có chế độ nô lệ thì chỉ là nói theo “đẳng tính” tức đảng dậy vậy thỉ phải nói vậy chứ có xét đến nguồn gốc trung thực đâu.

  Đành rằng trong thực tế không giữ được đầy đủ như trong lý tưởng, nên có những hiện tượng nô lệ. Chú ý hiện tượng chứ không phải chế độ. Nếu chế độ thì là việc luật pháp, người nô lệ có tiền cũng không thoát ra khỏi chế độ nô lệ. Còn hiện tượng không có hàng rào luật lệ nào. Con sen nếu trúng lô độc đắc thì lập tức có thể trở nên bà chủ, bà giám đốc, không ai ngăn cản cả. Nếu là chế độ thì có tới 70%, 80% người dân nô lệ. Còn hiện tượng thì chỉ vài ba phần trăm, và cũng chỉ là con ăn đầy tớ. Đôi khi bị xử tệ như nô lệ thì cũng chỉ là chuyện làm ẩu của chủ nhà chứ không có luật pháp nào cho phép coi đầy tớ như sự vật. Tuy nhiên vì ảnh hưởng Hán Nho nên chế độ công điền có suy vi dần nhưng nói chung thì đến đầu thế kỷ thứ 20 quá bán ruộng đất ta vẫn còn là công điền. Đến khi Pháp cai trị thì ở miền Nam (Bạc Liêu thí dụ) công điền nhiều nơi trụt xuống còn vài ba phần trăm, vì có những đồn điền của tư nhân chiếm hàng nghìn mẫu. Đó là chế độ tư sản Tây Au nương thế bảo hộ xen vào phá vỡ chế độ bình sản của ta, đây là nói kiểu thông thường…

  Còn nói theo kiểu triết lý chính trị thì đó chính là dân chủ. Nói theo chiều tiêu cực thì dân chủ là thoát khỏi nạn chuyên chế; còn tích cực là ăn nói. Được ăn là được tham dự tài sản trong nước gọi là bình sản. Được nói là được tự do phát biểu ý nghĩ của mình. Như vậy dân chủ chân thực phải có bình sản, và được tự do suy tư nói nghĩ. Thiếu hai cái đó thì chỉ là dân chủ giả hiệu. Xã hội Au Tây có chế độ nô lệ, nên phải dầy công mới lập được chế độ dân chủ, lúc ban đầu cũng chỉ có dân chủ trên pháp lý, chưa có bình sản, nên tự do bị gọi là tự do chết đói. Cộng sản đã có ý sửa lại chỗ đó bằng tuyên bố dân là chủ tài sản quốc gia. Nhưng thực chất vẫn là tư bản, chỉ khác chủ tư bản xưa là cá nhân nay chủ là chính quyền, dân vẫn là vô sản, đã vậy tự do cũng mất luôn nên khốn khổ hơn vô sản xưa muôn vàn.

   Xét theo mấy điều trên ta thấy gia đình là thể chế gây ơn ích hết sức sâu xa. Ơn ích ngay đời ta: con em học hành giỏi, bố mẹ làm ăn chóng nên cơ nghiệp. Còn đời xưa là chế độ dân chủ chân chính có bình sản, có tự do, làm nên một xã hội có tình có nghĩa, một quê hương tổ quốc thẳm sâu. Thật không ngờ nơi ta ra chào đời, sống bên cạnh những ngừơi thân yêu trong quãng đời tươi đẹp nhất lại chất chứa nhiều minh triết xuyên qua bao đời cho đến nay ta vẫn còn được hưởng.

4. NHÀ NƯỚC

  Ta vẫn nói nhà nước tức nối liền nhà với nước. Bài trước nói về nhà, bài này sẽ nói về nước. Nước Việt giống nhà Việt, nó có một đặc trưng không lẫn vào đâu được: đó là nét gấp đôi được gọi là nét song trùng: tức là cái gì cũng đi đôi. Cao hơn cả là vật biểu là tiên và rồng. Các nước khác chỉ có một như An Độ là voi, Mỹ là chim ó, Anh là con sư tử, Pháp là con gà… Riêng Việt mình thì có cả tiên lẫn rồng, cả chim lẫn giao long. Vì lâu ngày quá quen con cháu không để ý đến sự kiện đặc thù đó rồi coi như thường thường, nhiều người còn cho là tầm thường, kì thực là nó nói lên cái đỉnh cao chót vót mà tâm trí con người có thể đi tới được, vì điểm đó chính là Đạo viết hoa rồi. “Nhất âm nhất dương chi vị Đạo”, một âm một dương gọi là Đạo, duy dương hay duy âm, duy vật hay duy tâm đấy không là Đạo.

  Để có âm dương một trật tất phải trèo lên đến chóp bu kim tự tháp rồi cỡi trên đỉnh tháp thả hai chân xuống hai sườn, một chân bên tay chiêu, một chân bên tay mục để gồm được cả hai. Tiền nhân ta đã đạt đến đó và các vị đã thi vị hóa bằng cặp tên tiên rồng. Thay vì nói không với có, âm với dương, đất với trời thì các ngài nói tiên với rồng, và dùng chim thay cho tiên cho âm, và rồng thay cho dương. Ta hãy nghiên cứu về hai điểm nọ sẽ thấy hai chữ tiên rồng phong phú một cách kỳ thú.

  Tiên = chim. Mở đầu huyền sử nước nhà ta thấy họ khai sáng nước là Hồng Bàng thì cả ba chữ đều mang đậm ý nghĩa. Trứơc hết là chữ Hồng cũng thường gọi là Hồng Hộc. Hồng là ngỗng trời, còn Hộc là ngan trời, nên cả hai cũng có tên là thiên nga (swan) hàm ý là nó bay cao đến tận trời xanh, nên ở miền Dương Tử giang người ta hay gọi chim Hồng là Đế giang có nghĩa là vua sông Dương Tử. Còn Bàng có nghĩa là nhà lớn, nói theo triết là lối ở đời phải ở nơi nhà lớn, tức là phải để tâm tư vào những việc ích quốc lợi dân, trong lễ gia quan cha bảo con phải ở nơi lớn “cư thiên hạ chi quảng cư” con hãy ở nơi quảng khoát trong thiên hạ. Hỏi nơi nào rộng lớn hơn hết. Thưa ở nơi nào mà kiếm được cả trời lẫn đất. Do đó mới có truyện ông “Hữu Sào” chính nghĩa là “có tổ” nghĩa rộng là ở theo lối chi, chữ Nho gọi là “điểu tục”. Chim ở đâu? Thưa ở tổ tức ở giữa cùng trời đất. Khi ta gọi tiền nhân là “tổ tiên” là vì đó; nhưng lâu ngày quen đi không nhận ra rằng “tổ” là nơi ở của chim, và người ở được như vậy ra tiên, gọi là tiên tổ hay tổ tiên. Cho nên khi đọc sách xưa nói “người Cổ Việt ở trên cây để tránh hùm beo bão lụt” thì phải hiểu ở theo kiểu điểu tục với ý nghĩa cao cả đó.

  Tiền nhân ta đã thực hiện lối ở như chim (hữu sào) bằng nhà sàn. Vì nó giúp cho hiện thực ý nghĩa tam tài là trời, người, đất. Đất ở dưới nền, còn mái ở trên chỉ trời, con người ở giữa là sàn nhà nên nhà sàn hàm tàng nền triết lý tam tài. Chính vì thế sau này khi tiền nhân tả đã bỏ nhà sàn thì cũng còn giữ ở nơi tế tự công cộng tức là cái đình. Trong đình ở gian tế tự bao giờ cũng có cái sàn (làm nhỏ lại) hoặc sau mất ý thức mà bỏ hẳn thì cũng còn giữ ba cấp bàn thờ. Trên mặt trống ta thấy nhà mái cong trên nóc có chim đậu (điểu tục đó) trong đó có hai cô cậu đang hát cài hoa kết hoa ở trên sàn nhà tức ở giữa trời đất.

  Chữ thứ ba là thị, có nghĩa là họ mà sau này còn đi đôi với tên các bà. Lâu ngày không nhớ ý nghĩa nên coi thường, rồi coi khinh nhiều người né tránh chữ “thị”, nhưng thực ra ban đầu chữ đó nói lên chủ quyền trong nhà của các bà gọi là “nội tướng” sau bị ảnh hưởng Hán Nho mới gọi là “nội trợ” có nghĩa là trợ giúp, tức là coi vợ chỉ là phụ giúp trong nhà, mà thực ra bà là chủ, từ chủ tế trở đi. Xưa kia chủ tế là các bà, mãi sau các ông mới tham được nhận cho vào đồng tế. Đúc trống mà đánh khai mạc cũng là các bà. Xem trong trống ta thấy một bà đánh 14 cái cồng, mỗi bên 7 cái, hèn chi tục ngữ truyền tụng “lệnh ông không bằng cồng bà”. 4 ông đánh 4 cái trống: mỗi ông được có một cái. Thì ra tục ngữ có gốc gác mãi từ thời Đông Sơn. Con chim đậu trên nóc nhà hàm ý chim làm chủ nhà mà chim là tiên là bà, không những chủ nhà mà luôn chủ nước, vì nước được kiến tạo theo mẫu nhà. Điều đó còn được ám chỉ trong tên “bà chúa xứ” tức là bà làm chủ của cả xứ sở. Và các thần của nước ta toàn là các bà theo lối đó.

  Bà nữ Thần Mộc

  Bà Cửu Thiên huyền nữ.

 Thái dương thần nữ.

  Và nên nhớ là ba đầu rau thì hai ông một bà, tức bà làm chủ theo luật “quả vi quân, chúng vi dân” nên gọi là những nữ thần.

   Điểu tục còn đựơc thực hiện bằng các bà đều mang tên chim. Bà Au Cơ là chim hải âu. “Vụ” tiên trên nũi Ngũ Lĩnh thì “vụ” là cò bể. Lộ Bàn, Lộ Bộc thì lộ là cò trắng. Còn các bà khác không mang tên chim thì trong đồ mặc lại có lông chim. Như Mỵ Châu rải lông chim cho Trọng Thuỷ biết đường là rút lông trong đồ mặc. Rõ nhất là khi tế tự hay ca múa (ca múa để tế tự) thì đều có mang lông chim như ta thấy đầy trên trống đồng. Đồ mặc đó chữ Nho kêu là “vũ nghi”. Tự điển Hán Việt Đào Duy Anh còn ghi nghĩa là “lông chim hồng dùng làm đồ nghi sức”. Tôi ghi tên sách vì cho đó là một sự may chứ còn hầu hết các sách khác đã đánh mất ý nghĩa nguyên thuỷ nên không hiểu được ý câu “nghi thường vũ y khúc” chỉ là khúc ca vũ có mang lông chim hồng. Với Hồng Bàng còn trơ trơ ra đó vậy mà để mất ý nghĩa ngừơi ta chiếm mất.

  Tức sau chữ “nghi” cũng gọi là “nghê” thành ra “nghê thường vũ y khúc”, chữ “nghê” có nghĩa là màu ráng đỏ hay đỏ màu ráng, màu của mặt trời lúc mới mọc. Và bản “nghê thường vũ y khúc” là bài hát chào mặt trời lúc mới mọc mà Khuất Nguyên gọi là “Đông Quân” là vì đó. Tục ngữ Việt Nho có câu: “Phượng Minh Triều Dương = Con Phượng hót (minh) chào mặt trời buổi mai”. Sách Quảng Đông Tân Ngữ ghi là “tuỳ dương Việt trĩ” = con trĩ của Việt tộc khi bay thì theo hướng mặt trời. Như có ghi lại trong “Vân Đài Loại Ngữ” bản dịch Phạm Vũ và Lê Hiền nhà xuất bản Miền Nam trang 519. Nên ghi nhận con phượng chính là chim Việt trĩ này đây (xem ghi chú cuối sách Triết lý cái đình) văn tự ghi chép lại rành rẽ vậy thế mà sau có truyện Đường Minh Hoàng nằm mơ lên chơi Cung Quảng Hàm được xem tiên múa bài “nghê thường vũ y khúc” tức coi khúc hát đó là của tiên. Thế là Việt trơ ra cứ tưởng bài đó là ở cõi tiên hay có dưới trần gian thì cũng mãi ở bên An Độ chứ không ai dám nghĩ, dù chỉ có ý nghĩ, đến rằng đó là tên bài vũ của tổ tiên ta hãy còn tạc ghi trong trống đồng. Thôi tạm chấm dứt ở đây về chữ Tiên của Mẹ.

   Bây giờ ta nói về Rồng họ cha. Rồng hình thành bởi con Giao long (cá sấu) miền Nam và Xà long (rắn) miền Bắc, chữ Bắc đây là Hồ Nam, Hồ Bắc, Hồ Nam bên Tàu, Xà long cho cái mình dài, còn giao long cho 4 chân làm nên con Rồng. Ngoài ra còn có Bàn long, Ly long, Quỳ long. Bàn long có sách giải nghĩa là rồng cuộn khúc, nhưng thực nghĩa chỉ là rồng của họ Bàng (Hồng Bàng) nhưng đọc kiểu nam thành ra Bàn với Bàng lẫn lộn (xem tự điển Hán Việt Nguyễn Duy Khôn, chữ Bàn). Ly long được sách gọi là rồng vàng không có ngà. Tổ tiên ta quen chạm trên đầu cột nhà và gọi là Ly đầu và Ly là tên của “Ly Vưu” mà người Tàu gọi là Si Vưu. Không hiểu tại sao đọc như vậy trái cả với luật hài thanh là chữ ly. Ly Vưu là rồng cao cả phi thường (đàn bà cực đẹp gọi là Vưu vật) thế mà đọc Si Vưu thì ra ngu xuẩn cùng cực. Có thể vì Ly Vưu chống Hiên Viên (Hoàng Đế) nên tâm lý chiến của Hiên Viên gọi thế để hạ nhục, ngừơi sau không hay nên cứ đọc Si Vưu. Các cụ nhà ta thấy ngường ngượng sao đó nên đọc là Suy Vưu. Từ nay chúng ta đọc là Ly Vưu và nên nhớ Ly Vưu cũng là lá cờ của ta màu đỏ giữa có miếng tròn vàng. Còn Quỳ long là rồng đã mang yếu tố chim quá nhiều nên có thể dùng để chỉ người Việt do mẹ tiên cha rồng (người Việt xưa đã vẽ mình rồng và mang áo lông chim là để nói lên mình là con mẹ tiên cha rồng). Vì Quý cũng là chim nên có một chân. Do đấy có câu “Quỳ nhất túc” như Trang Tử hiểu thế trong truyện “Rết thương Quỳ, Quỳ thương Rắn”. Rết có nhiều chân thường Quỳ có một chân. Quỳ thương rắn không có chân nào, nhưng vì không có chân nào nên chạy mau hơn rết. Còn Khổng Tử thiên trọng lý trí thì cắt nghĩa “một ông Quỳ đã đủ” (nhiều thầy làm chi cho thối ma).

  Bây giờ chỉ còn bàn đến chỗ ở của rồng. Đó là nước, tức sông hay biển. Lạc Long Quân ở thủy phủ là vậy. Nên mỗi lần đi thăm bà xã thì cũng mang theo nước dưới hình thức mây ta quen gọi là long vân. Khi ta hát “đứng lên đáp lời sông nước” là ta nói tới nơi ở của hai tổ là sông của rồng cha, núi của tiên mẫu. Đó là hai thực thể đối chọi gọi là: “Non nhân của mẹ Tiên. Nước trí của cha Rồng”.

  Điều này có phản ảnh lại trong câu sách Luận Ngữ “trí giả nhạo thuỷ. Nhân giả nhạo sơn” người trí thức yêu nước, người nhân ưa núi. Đó cũng là tiêu biểu của nhân loại thời sơ khai, nên trong nhiều dân còn thấy thói quen dùng đáy biển cả để chỉ những chân lý thâm sâu. Điều đó tiền nhân ta đã diễn đạt bằng truyện sách ước. Thần Tản Viên xuống thăm vua Thuỷ Tề là Lạc Long Quân. Vua ban cho Tản Viên quyển sách 3 trang mà thần chỉ đọc được 2 trang hỏa mộc, nhờ đó nên khôn ngoan minh triết, làm ơn ích cho đời vô số kể. Sau thần lên ở trên núi Tản Viên cũng gọi là Ba Vì tức là ba chân lý sâu thẳm cho con người. Chương kế sẽ nói tới ba chân lý nào đã được tạc ghi trên mặt trống đồng ra sao.

  Tóm kết. Tên Việt có nghĩa là Siêu Việt. Việt lên cùng tột tận trời xanh chỉ bằng Thiên nga hay là Tiên mẫu (đó là triệt thượng). Đàng khác lại lặn xuống tận vực sâu biển cả chỉ bằng rồng xanh (đó là triệt hạ). Hợp cả hai lại gọi là “nứơc non chung một lời thề”… làm nên một thức thể văn hóa oai phong lẫm liệt đến độ ta có thể nói văn hóa dân tộc cũng chính là văn hóa nhân tộc, tức là đã đạt phổ biến tính (universal) có thể hợp cho hết mọi nơi mọi thời. Như vậy là khi tìm về văn hóa dân tộc một cách có hệ thống và thấu triệt, chúng ta sẽ gặp một chủ đạo cứu quốc, kiến quốc mà hiện ta đang thiếu, và hơn thế nữa, với đạo lý đó ta còn có thể đóng góp vào nền văn hóa nhân loại hiện cũng đang chới với chưa tìm đâu ra đựơc một nền triết lý dẫn đạo.

5. DÂN TỘC VÀ TIỂU TƯ SẢN

 Trong một lớp học triết An Việt (sau này sẽ được tổ chức thường xuyên) một học viên đặt câu hỏi: An Việt nghĩ sao về những vấn nạn sau đây của một số trí thức.

 a. Họ cho rằng: lập trường dân tộc, hay nói khác là tình tự quốc gia không còn thể là võ khí hữu hiệu để tranh đấu trong chính trường nữa.

 b. Muốn thành công các đảng phái quốc gia phải bỏ một phần dân tộc và nhận một phần giai cấp trong giai đoạn hiện tại, thí dụ giai cấp trí thức tiểu tư sản thành thị và tiểu tư sản nông thôn v.v…

 c. Không làm như thế là tỏ ra chưa bắt rễ vào một quan niệm chính xác về diễn tiến lịch sử…

  Thưa An Việt không đồng ý với các câu tuyên bố trên.

  Trước hết nói rằng tình tự quốc gia dân tộc không còn là võ khí hữu hiệu cho giai đoạn này? Trái lại, An Việt cho rằng chính tình tự dân tộc mới là lập trường đang lên mạnh, mạnh hơn bao giờ hết, sau khi con người đã rút ra được những kinh nghiệm đau thương do hai lập trường đối lập là tư bản rồi cộng sản. Hiện nay khuynh hướng tìm một đường lối thứ ba là hiện tượng hết sức phổ biến từ Đông sang Tây. Vậy khuynh hướng thứ ba là gì nếu không là khuynh hướng dân tộc. Chính ngay nước đầu não cộng sản là Nga Sô cũng đã nhận lập trường dân tộc tự lâu rồi, còn vô sản quốc tế chỉ là chiêu bài để lừa bịp mấy đàn em ngu muội hay bất lực không làm khác được mà thôi, nhưng trong thực tại cũng phải núp dưới chiêu bài dân tộc mới thành công.

 Tuy nhiên về dân tộc cần đưa ra nhận xét sau đây. Xưa kia các nứơc Tây Au hay An Độ không đặt xã hội trên dân tộc mà trên kinh tế như là La Hy đặt trên ý niệm bạc tiền (centuric): ai có nhiều tiền thì được làm công dân, càng nhiều trăm ngàn càng được bỏ phiếu nhiều. Đó là nền hoàn toàn kinh tế mà quyển Nhân Chủ gọi là địa khởi; còn An Độ theo thiên khởi tức phân chia người trong nước theo niềm tin: ai sinh ra bởi thần Brahma mới là người, mới có quyền sở hữu tài sản. Vì thế trong nứơc quá nửa dân chúng là vô sản, là nô lệ. Việt Nho theo đường nhân khởi nghĩa là bất kỳ ai đã sinh ra đều là người hết, đều có tự do, đấy gọi là nhân, và đã là nhân thì có quyền tham dự vào tài sản quốc gia đấy gọi là dân. Có cả hai! Cả tự do lẫn tài sản mới thực là dân tộc. Nói khác dân tộc chân chính phải gồm cả hai phần là nhân và dân.

 Nhân là hàng dọc không lệ thuộc trời hay đất, cụ thể là không lệ thuộc vào niềm tin thì dụ phải sinh ra bởi thần mới là người, cũng như không cần giàu có cũng đã là ngừơi rồi. Xét theo nhân khởi như vậy thì chỉ có Việt Nho mới có dân tộc tính chân thực, mới nói được rằng dân tộc cũng là nhân tộc. Tại vì quốc gia đã thiết lập trên nền tảng đó, nên phản dân cũng là phản quốc, phản quốc đương nhiên là phản dân. Nhưng các nứơc Tây Au hay An Độ xưa không được như vậy, nên người trong nước muốn làm người thì phải vong quốc, tức phải chống lại thứ quốc gia xây trên kinh tế, xây trên nền móng vong nhân (cũng gọi là vong thân). Ngược lại, với Việt thì vong thân cũng là vong quốc, và tranh đấu cho nước cũng là tranh đấu cho con người rồi, vì là tranh đấu cho một nước đã biết đưa ra và duy trì nhiều ngàn năm quan niệm chính xác về dân tộc gồm cả hai đàng nhân và dân, tất cả tự do và tài sản.

 Điều hai nói rằng: cần nhận một phần giai cấp, thí dụ như tầng lớp trí thức, tiểu tư sản thành thị, “để kết nạp thành mặt trận”.

Thưa hai chữ chính cốt trong câu trên là tiểu tư sản, nó sặc mùi địa khởi, đó là con đẻ của tư bản, mà tư bản là chúa bất công xã hội, đã gây nên đau khổ cho con người, nên nay mới đẻ ra hai đứa con hoang: một đứa dữ là cộng sản, còn một đứa hiền là tiểu tư sản. Gọi là con tư bản vì cả hai cùng phát xuất từ địa khởi như tư bản, tức là lấy kinh tế làm nền, vậy là duy vật. Còn dân tộc nói bình sản mà không duy vật, bởi bình sản chỉ là hệ quả của lập trường nhân dân, tức không có của không ra dân, cho nên người vô sản trong các xã hội xưa của Au An đều không phải là dân, mà chỉ là nô lệ. Tuy nhiên đó mới là nền móng tuỳ, còn nền móng chính phải là “ Thiên chi đức” hay nói khác phải là tâm linh. Đó mới là nền tảng chính, nhưng chính không được lấn tuỳ, do đấy quan niệm người của Việt Nho đòi phải có tư sản bên trong, chỉ bằng chữ “địa chi đức” trong câu “nhân giả kỳ thiên địa chi đức”. Nói bằng số thì địa chỉ đức chiếm 2, còn thiên chỉ đức mới chiếm 3: “chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài” là vậy. Đặt căn cứ trên tài sản dù là tiểu tư sản cũng là lấy tuỳ làm chính, là vô tình đi th2o bứơc chân duy vật.

 Điều thứ ba nói rằng: “Nếu không nhận một phần giai cấp là tỏ ra chưa bắt rễ vào một quan niệm chính xác về diễn tiến lịch sử”.

  Thưa rằng: quan niệm lịch sử nói đây căn cứ trên giai cấp. Đó là quan niệm lịch sử do Hegel suy diễn từ thực thể Au Tây vốn xây trên liên hệ chủ nô. Quan niệm đó sau đựơc Karl Marx thổi phồng để đưa lên thành lối giai cấp đấu tranh và được thúc đẩy cùng cực, đến nỗi chỗ không có giai cấp cũng cố tạo ra để biện minh cho đấu tranh vô lý. Đây là việc làm ban đầu có ý ngay ở chỗ nhằm cứu gỡ lớp người vô sản khỏi bao chuyện bất công xã hội. Nhưng quan niệm đó lại đặt nền trên kinh tế y như tư bản nên mắc vào cái lỗi mà tôi gọi là “mạnh chống mạnh chấp” tức là chống tư bản quá mạnh thì lại rơi vào tư bản nhà nước, thành thử vô sản vẫn là chủ nô, chỉ có đổi chủ, chứ vô sản vẫn không làm được chủ tài sản của mình. Đó là quan niệm mà họ gọi là chính xác về diễn tiến lịch sử.

  Thực ra nó chẳng chính xác chút nào hết mà chỉ là ý hệ do vài đầu óc quá khích sản sinh ra, chứ nó không “bắt rễ vào đường tiến hó đích thực của con người”. Cuộc tiến hóa ấy đại để diến biến như sau: nhờ lương tâm con người đã tiến bứơc, nhờ các cuộc tranh đấu của người bị đàn áp mà nay chế độ tư bản không còn thế đứng y nguyên như xưa kia, bó buộc phải phần nào phân phối lại tài sản quốc gia, để toàn dân đều được hưởng. Đây gọi là công bình xã hội. Trong việc này ban đầu còn nhiều người đặt hy vọng vào cộng sản, nghĩ rằng cộng sản sẽ là hướng tiến lành mạnh của con người, nhưng càng ngày cộng sản càng tỏ ra bất lực. Đã vậy lại còn gây đau khổ cho quá nhiều người, nên càng ngày người ta càng thấy cộng sản chỉ là “núi đẻ ra chuột”. Vì thế ngừơi ta quay ra tìm một đường lối thứ ba: làm sao tạo cho mọi người có được tham dự tài sản quốc gia, mà vẫn giữ được tự do căn bản, và người ta gọi đó là xã hội, là tiểu tư sản, là trí thức, là tiểu tư sản thành thị… Hô lung tung trong tên gọi và chia cắt xã hội ra lung tung, mà chủ trương đưa ra cũng không bao gồm được toàn dân, vì thợ thuyền, vô sản, dân nghèo, dân không có học còn bị gảy bỏ, hay đúng ra không có chỗ đứng minh xác trong quan niệm tiểu tư sản đó. Là vì họ không được hưởng quan niệm toàn vẹn về dân tộc như ta. Nếu đựơc như ta thì cái trào lưu đang đi lên mạnh của mọi con người kia chính là hướng tiên tổ ta đã đặt vào chữ dân tộc hay nhân dân. Hai chữ này Việt cộng lạm dụng, vì đã bỏ mất phần nhân mà cứ nói nhân dân, thì một là ngu, hai là bịp bợm chứ có còn nội dung đâu.

  Đại để đó là vài quan niệm của An Việt về dân tộc hay không dân tộc. Cần nhận xét từ quãng 1930-1975 nhiều trí thức “quốc gia” đã bỏ nhẹ dân tộc để nhận lập trường giai cấp, đề cao tiểu tư sản, nói rằng nứơc ta chưa có được một nền triết lý quốc gia dẫn đường, để đến nỗi giới trí thức đang bị lôi kéo trong cao trào đi tìm hướng mới, loạng quạng chạy theo những chủ trương èo ọt phiền toái: chia cắt dân ra be bét; nào thành thị, nào nông thôn, nào trí thức với vô học thức (không dám nói rõ ra), nào tiểu tư sản với vô sản, thương gia với thợ thuyền… thành ra bao nhóm tranh đấu cho quyền lợi của giới mình, mà bỏ nhẹ tình tự dân tộc bao gồm khắp hết. Thật là bi thảm! Tây Phương không được hưởng quan niệm về dân tộc lành mạnh và toàn bị như ta mới phải chia cắt theo kiểu duy vật, chứ ta là con một mẹ, cùng trong một đại gia đình, đủ sức bao dung khắp hết: “tram con Mẹ Au đều phương trược đồng đều” thì việc chi phải phân chia vì quyền lợi: dầu là sĩ, nông, công, thương cũng chỉ là chuyện phân công trong việc làm, chứ tuyệt đối khôgn phải đặc ân dành cho nhóm này, thành phần kia để mà phải tranh đấu đặng bảo vệ quyền lợi riêng rẽ. Thành thử mọi chia phân ra thành phần nọ giai cấp kia đều là những phản ánh của nguỵ tín, của ý hệ ngoại lai đặt nền trên kinh tế mà không trên tình người, cho nên thâu nhận vào chúng chỉ bôi bẩn cuộc tranh đấu cao thượng của chúng ta. Chúng ta chỉ biết tranh đấu cho con người, mọi con người. Vì thế ta cần bồi đắp, phát triển tình tự dân tộc không để cho những chia cắt kiểu trí thức tư sản, tiểu tư sản, thành thị rồi nông thôn… làm hoen ố mặt trận dân tộc của chúng ta. Bất cứ thị dân hay thôn dân, có học hay không có học đều là người Việt như nhau, không việc gì phải phân chia bè phái, cho nên bất cứ chủ trương nào hễ gảy ra ngoài chỉ một số rất nhỏ người trong nước thì chúng ta nên coi như bấy nhiêu rớt rãi của ngoại lai cần lau chùi cho sạch.

6. TẠI SAO TÀU KHÔNG ĐỒNG HOÁ NỔI VIỆT?

  Đó là câu hỏi chưa được thấy nêu lên, mặc dầu rất nhiều người đã ghi nhận sự kiện là Tàu không đồng hóa được Việt, nhưng chỉ ghi nhận như một hiện tượng chứ chưa có sự đi tìm lý do. Ong Paul Mus có đi sâu hơn được một bước khi nói lễ gia tiên và sự thờ thổ thần đã giữ cho Việt Nam khỏi đồng hóa với Tàu. Nói vậy đúng nhưng chưa hết vì chưa chỉ ra đựơc căn do nội tại. Theo Việt Nho thì căn do đó nằm trong sự vụ Việt là chủ, Tàu là khách, do đấy Việt biến đổi Tàu, chứ không phải Tàu biến đổi Việt. Nói thế cho mạnh để đề cao tinh thần trên vật chất, còn muốn nói cho rành mạch thì phải nói về văn hóa thì Việt cải đổi Tàu, còn về văn minh thì Tàu ảnh hưởng Việt: văn minh như về cách cai trị, quân bình, thi cử, cùng các kỹ thuật. Ngược lại về văn hóa tức tinh thần hay nói rõ hơn là những tư tưởng lãnh đạo làm nền tảng cho Nho thì do Việt.

  Sở dĩ câu trên coi như cách mạng vì xưa rày chưa hề có ai nói tới: các học giả mới căn cứ vào có sách, mà bởi thời nay chưa có sách cũng gọi là từ, chưa có từ, mới có tượng, số và chế, đôi khi gọi là “kinh vô tự” như Lạc Thư, Sách Ước, Trống Đồng v.v… Tất cả những lâu đài văn hóa nọ hàm tàng những chân lý nền tảng hơn hết và được Nho giáo múc ở đấy, nếu không thì múc ở đâu ra được Đạo. Sách nói “Bất do cổ huấn, vu hà kỳ huấn” là thế, và vì vậy ta thấy ông tổ Nho là Khổng Tử luôn luôn xưng mình là hiếu cổ, học với cổ, ông xưng rõ ông không phải là người sáng tạo mà chỉ thuật lại lời các tiên tiền đã truyền ra, cho nên khi đọc Tứ Thư Ngũ Kinh ta thấy bao nhiêu đạo lý đều quy cho những vị cổ xưa như Nghiêu, Thuấn… Phục Hy làm ra Kinh Dịch, Oa Hoàng làm ra phép linh phối. Thần Nông làm ra nông nghiệp. Hữu Sào làm ra nhà sàn. Bàn Cổ xếp đặt trời đất… Xưa rày ngừơi ta vẫn nghĩ rằng bấy nhiêu vị là người Tàu cả. Nhưng đến nay khoa học mới khám phá ra rằng các ngài không phải là người Tàu? Hỏi vậy là ai? Các học giả chưa nói ra ngã ngũ. Và đến đây An Vi giơ tay xin góp ý kiến như sau: xin đem các vị đi thử máu, xem là máu Tàu hay máu Việt.

 Đó là phương pháp rất khoa học vì đây không phải là máu chủng tộc mà là máu văn hóa. Đến lúc thử xong thì ra toàn loại máu TR (Tiên Rồng).

 Phục Hy cũng có tên là Thanh Tinh: rồng xanh, đúng là máu R, đã thế lại còn giao chỉ với bà Nữ Oa tức hai vị quấn lấy đuôi nhau làm sao không lây máu nhau được. Vì thế cần xin bà Nữ Oa tí huyết để phân tích, mới rút ra thì đã thấy là máu T (chim). Vì khi bà chết thì hóa ra chim tinh vệ (tức máu T tiên) tha đá lấp bể. Vá trời lấp bể là những việc của các nghi mẫu chúng ta. Đó là những việc có tầm vóc vũ trụ, ngầm chỉ những chân lý bao la phổ biến mà các bà sáng nghĩ ra. Vì thế truyền thuyết nói bà lập ra phép hôn phối. Thực ra là phép linh phối tức nối trời với đất, cho nên tay bà cầm cái quy, chỉ phép tắc trong trời đất. Quy cũng gọi là thập tự nhai + gồm nét dọc chỉ trời, ngang chỉ đất, hai nét giao thoa làm nên con người đại ngã tâm linh. Về sau Nho giáo công thức hóa thành câu: “Nhân giả kỳ thiên địa chi đức”. Còn Phục Hy cầm cái củ là dụng cụ để đo góc vuông với hàm ý là đất, vì đất có bốn phương, nên nói là trời tròn đất vuông (thiên viên địa phương). Vì thế hai chữ quy cù có nghĩa là trời tròn đất vuông, còn nghĩa thực tiễn là rường mối phép tắc.

  Đấy là tổ của Nho nhưng cũng mới là tổ đợt nhì gọi là đợt cơ cấu. Còn tổ đợt nhất là các ông Hữu Sào, Toại Nhân và cuối cùng là Bàn Cổ. Hữu Sào là “có tổ” có ý nói tới nhà sàn vì nó giống với tổ, tổ làm trên cây ở giữa trời cùng đất. Nhà sàn cũng vậy có nóc chỉ trời, người, đất. Sau này Nho công thức hóa thành thuyết tam tài là Thiên, Địa, Nhân, ta quen gọi là đạo Ba. Còn Toại Nhân là người phát minh ra phép dùng lửa đã chấm dứt thời bắt sống ăn tươi như thú vật, đặng bứơc vào thời nấu, nướng, chiên, xào. Vì liên hệ với cụ Toại Nhân nên nước ta có tên Xích Quỷ. Quỷ làm chủ, còn Xích là đỏ, hiểu là đỏ lửa, tức làm chủ đựơc lửa, hay là biết áp dụng lửa vào cuộc sống. Cũng vì thế phương Nam thuộc Xích đế (Tây Bạch đế, Đông Thánh đế, Bắc Huyền đế, ở giữa là Hoàng đế). Chính vì liên hệ này mà Việt tộc có tên Viêm tộc (chữ Viêm kép bởi hai chữ hòa). Thần Nông có tên Viêm đế và một ruỗi những chim lửa như chim Tất phương và chim Chương dương đều là thần lửa phương Nam, cũng như có những tổ làm thần Chúc Dong coi về lửa, tức kỷ niệm thời tổ tiên ta còn thờ mặt trời nên mới có những tên như Viêm Đế, Viêm Bang, Viêm chủng mà nhà Phật dịch là Nhật chủng cũng như nước ta nhận hoa Nhật quỳ làm quốc hoa v.v…

  Còn về văn hóa thì dấu vết được tỏ rõ trong phép tả nhậm: vắt áo bên tả biểu lộ lề thói trọng tả của ta cũng là trọng Văn, còn Tàu trọng Hữu tức trọng Võ. Số 5 là của Việt. Tàu ưa số 6, về sau Tàu mới đổi sang số 5. Nhà mái cong cũng của Việt ngay từ thời Đông Sơn, còn Tàu mãi đến đời Đường mái mới cong, tức cong sau ít gì mười thế kỷ. Nét cong nói lên sự hòa hợp giữa tròn và vuông ý nghĩa số 5 giữa chẵn và lẻ (2+3) vậy. Điều nổi cuối cùng: Rồng là của Việt. Tàu trước nhận Bạch hổ. Đời Thương còn mang cờ hổ, đang khi các chi tộc của Việt đã mang cờ rồng. Kinh Dịch nói là “Long kỳ dương dương” (các cờ rồng bay phơi phới). Tàu mới nhận rồng vào lối nhà Hán.

  Tất cả những điều này đã nói nhiều nơi (xem nhất là bài Tại sao hai chữ Việt Nho trong Pho tượng) nên xin thông qua để đi đến kết luận.

  Là các khoa tân nhân văn như triết, khảo cổ, cổ tục v.v… đều chứng minh là Việt có văn hóa trước, Tàu mới đến sau và chỉ làm cho văn hóa kia trở nên xác định rõ ràng, ngừơi ta gọi là văn minh. Việt học mới bàn về văn minh mà quên giai đoạn văn hóa nên nay có người nói tới thì tưởng là nói ẩu vì ái quốc quá khích. Sự thực thì rất là vừa khít.

7. BIÊN CƯƠNG NƯỚC CỔ VIỆT

    Cái làm cho mọi người cả Tàu lẫn Việt lầm về nguồn gốc nứơc Việt cũng như nước Tàu là lấy hình ảnh nước Tàu đời Tần Hán mà gán cho nước Tàu những đời trước, thành ra cả vú lấp miệng em, khiến cái nước Cổ Việt giống miếng da lừa cứ lần lượt co rút lại. Vậy trước hết ta cần liếc nhìn qua nứơc Tàu trong thế sinh thành (dans l’ordre génetique). Nước Tàu mới là Tàu tự năm 221 tr.c.n mà vẫn còn mang tên nước Tần. Ngừơi Tàu đọc Tsin, nhân đó Au Tây dịch là Chine. Đến nhà Hán cũng là người nước Ngô Việt, nên khi mới lên vẫn xưng mình là “Hán Man” và còn tế Li Vưu v.v… Ay là Tần Hán đã vào giai đoạn hình thành chót mà còn vậy, huống hồ trên nữa là nhà Chu thế kỷ thứ 12, rồi nhà Thương thế kỷ 17 trước, thì nứơc Tàu mới là khởi đầu thực sự, chứ trên nữa là nhà Hạ cũng chỉ là truyền tụng chưa tìm được chứng tích khảo cổ. Phương chi trên nữa là Hoàng Đế thì các nhà nghiên cứu quốc tế đồng thanh cho là mới được tạo dựng lên tự đời Hán sơ hay cùng lắm đời nhà Chu. Còn trước nữa toàn cõi nước Tàu chỉ có một giống người, một văn hóa, không phân biệt, chưa có ngừơi Tàu với Man Di chi cả.

   Trong khối lớn lao đó có hàng vạn quốc, sau này gọi là chư hầu, mỗi “nước” to bằng một tổng hay huyện của ta, nên thực sự chỉ là một bộ lạc hay thị tộc. Dần dần có những bộ lạc mạnh lên rồi chinh phục thêm một hai bộ lạc chung quanh mà thành nứơc, khi đã chinh phục được dăm bộ lạc thì dễ dàng chinh phục các bộ lạc khác, vì thế mà ban đầu có vạn quốc, rồi rút xuống 800. Đời nhà Chu còn 160, đến đời Chiến Quốc chỉ còn ngũ bá, trong đó có Sở, Ngô, Việt (U Việt). Rồi Việt nuốt Ngô. Sau Sở nuốt Việt, để cuối cùng Sở bị Tần thôn tính. Ba nước này đều là Việt có thể nhận diện dễ dàng qua tục cắt tóc, xâm mình, trọng bên tả (tả nhậm).  Chính trong sự to dần đó mà có nước Tàu kéo theo sự bé dần của Văn Lang quốc.

   Văn Lang quốc ở vùng Ngũ lĩnh, có nhiều ngũ lĩnh, nhưng ngũ lĩnh ở đây nên hiểu về Việt Chiết Giang đó là ngũ lĩnh ở Hàng Châu. Việt Chiết Giang cũng gọi là U Việt, do đó có tên “Việt điện u linh”, về sau nhiều sách gọi là U Việt, kinh đô ở Hội Kế, không hiểu tại sao cac cụ lại đọc ra Cối Kế. Chính U Việt này lan rộng lên cả miền Giang tô, tức Châu từ (quê hương của đồ sứ là kiểu đọc chữ Từ) với Hoài Giang v.v… Đó là quê của bà Nữ Oa với ông Phục Hy, cũng là miền nằm trong tên chung là Dương Châu trong tên “Kinh Dương Vương”. Kinh là nước Sở sau này, còn Dương là miền sông Hoài, Châu Từ, U Việt v.v… Chính ở vùng này mà có truyện vua An kéo quân xâm lăng, bị Thánh Gióng đánh phải chôn xác lại trên đất Việt, có nói đến trong Kinh Thư, mà các sử gia người Tàu có ý dập bớt đi.

   Đây cũng mới là giai đoạn hai. Giai đoạn đầu của Cổ Việt là toàn cõi nứơc Tàu với những tên Viêm Việt, với Thần Nông gọi là Viêm Đế, nước tên là Viêm Bang, nhà Phật dịch là Nhật chủng, vì thời ấy còn thờ mặt trời, và chưa có gì gọi là Tàu xét như một dân tộc. Thời này có thể “kinh đô” nằm đâu đó ở miền sông Lạc và sông Hoàng Hàa với Bành thành của Bành tổ. Nên nhớ chữ Bành là một âm khác của Bàng trong Hồng Bàng. Chữ Lạc sau được di cư xuống Bắc Việt gần với Au Lạc cũng có khi đọc theo giọng Tàu là Lô. Lô là tiếng cũ gọi sông Hồng Hà. Còn chữ Hồng hay sông Hồng Hà chắc là di cư của chữ Hồng Bàng chứ không phải đỏ phù sa, hay đỏ phù sa chỉ là nghĩa phụ, nghĩa sử ký, còn nghĩa huyền sử là Hồng Bàng.

  Tóm lại đây là giai đoạn đầu của Việt hay gọi là “Hà Lạc chi anh”, nghĩa là tinh thần Hà Đồ Lạc Thư, tiếp theo là giai đoạn hai với “Văn Lang U Việt” ở Dương Châu.

   Giai đoạn ba mới đến Nam Việt, với lưỡng Việt là hai tỉnh Quảng Đông, Quảng Tây bây giờ. Nhờ vụ vua Gia Long lên ngôi liền sai sứ sang Tàu xin phong với quốc hiệu Nam Việt. Triều đình Mãn Thanh e ngại tên Nam Việt gợi lại ý niệm lưỡng Việt nên không cho, sau thương lượng mãi mới đi đến chữ Việt Nam. Và Việt Nam là giai đoạn chót. Trong bốn giai đoạn có hai danh hiệu rất quan trọng, một là Văn Lang từ năm 2879-258, hai là Đại Việt từ đời Lê đến 1802 kể là 8 thế kỷ. Đứng trong phạm vi huyền sử thì quan trọng nhất là Văn Lang, không những vì là thời dài nhất, mà còn vì văn hóa đựơc hình thành và kiện toàn trong thời này. Còn sau đó chỉ là lịch sử chứ văn hóa đã phát triển xong rồi.

  Có thể nói phát triển xong ngay quãng đầu Văn Lang cho nên khi Tàu xuất hiện thì không thêm chi nữa ngoài vụ công thức hóa nghĩa là đặt thành lời gọn ngắn và trang sức ý tưởng cho nên rực rỡ, nhưng toàn là bên ngoài gọi là văn minh, có cố thêm bốn yếu tố thì toàn là lấy từ văn hóa du mục, đó là: 1/ chức thiên tử, 2/ hoạn quan, 3/ luật hình, 4/ quân đội chuyên nghiệp. Bốn yếu tố này với một ít thói tục riêng của nhà Chu như tay áo rộng, vắt vạt áo sang tay hữu (hữu nhậm) tức trọng bên hữu, ưa số 6 làm nên cái gọi là văn minh Tàu.

   Hán Nho sau này coi như một ngành cong queo của Nho tại vì đã khướng từ gốc chung khi gọi anh em cùng khối là Di là Di Địch hay Man Di, Nhung Địch nên Tàu không được gọi là Việt nữa. Còn Việt Nam vì vẫn ôm giữ gốc chung, đã vậy lại những điểm chính đi với ba bộ số 2, 3, 5 đều phát xuất từ miền Việt cả, nên phải kể Việt là chủ của Nho.

  Các điều trên đây khác với những sách vở từ trứơc tới nay, nên người đọc có dịp phải tìm đọc têm các công trình khảo cổ và nghiên cứu đời nay mới nhận ra bằng chứng khách quan chống lại cái cổ học lơ mơ vô nền.

8. NGUỒN GỐC VĂN HOÁ VIỆT THEO CHỮ NHO VÀ ĐẠO NHO

  Chữ Nho ta thấy ngày nay mới có từ đời Tần (thế kỷ thứ ba tr.c.n) và gọi là chữ Lệ. Đó là thứ chữ cuối cùng do Tần Thuỷ Hoàng thống nhất nước Tàu thì cũng thống nhất chữ Nho luôn.

   Còn trước nhà Tần thì có rất nhiều kiểu viết, nhưng nổi hơn cả là chữ con quăng cũng gọi là khoa đẩu và trước nữa có chữ chân chim (điểu tích tự). Hai thứ chữ này là của Việt tộc, liên hệ ngầm với hai vật biểu tiên rồng của ta. Tiên là chim nên chữ gọi là chân chim; còn rồng là xà long, giao long mà long là vua loài bò sát, vì thế khi tượng hình thì ra như con nòng nọc gọi là quăng. Hai thứ chữ này có lâu đời trứơc mãi tự Hồng Bàng. Về sau Hoàng Đế thống nhất văn tự bắt dùng có chữ lệ nên chữ chân chim và con quăng tiêu trầm. Đấy là về chữ Nho.

  Còn Đạo Nho được ghi trong Tứ Thư và Ngũ Kinh. Tứ Thư là bốn sách Đại Học, Trung Dung, Luận Ngữ, Mạnh Tử. Ngũ Kinh là Thi, Thư, Lễ, Dịch, Xuân Thu. Ngũ Kinh có từ đời nhà Chu quãng từ tám đến năm thế kỷ trước, còn trước nữa là thời hình thành Nho chưa có sách rõ ràng như thế, mà phần nhiều Nho được gói ghém trong những điển chương văn hóa như Kinh Dịch, Trống Đồng, Lạc Thư v.v… Tất cả những điển chương này đều phát triển từ ngũ hành, mà ngũ hành thành bởi hai bộ số 2-3, nôm na gọi là vài ba, còn Kinh Dịch gọi là “tham lưỡng” hay là 3-2. “Tham lưỡng” là nói tắt câu sách “Tham thiên lưỡng địa nhi ỷ số” nghĩa là ba trời hai đất là con số nền tảng, con số cần phải tựa (ỷ là tựa). Nói thế có nghĩa là hễ ai hiểu được ý nghĩa hai bộ số đó là hiểu được Đạo gồm có Đạo đất (số 2), Đạo trời (số 3). Cả hai chập lại thành số 5 chỉ Đạo người, cho nên nói người là đầu mối của ngũ hành (nhân giả ngũ hành chi đoan dã). Đạo ngườiphải xuất từ ngũ hành. Vì vậy ngũ hành cũng có nghĩa là Đạo.

   Khi đã quy kết Đạo Nho vào vài con số như vậy rồi thì việc đi tìm nguồn gốc của Đạo Nho trở nên dung dị hơn nhiều: ta chỉ việc theo chân khảo cổ và cổ tục học mà tìm thì sẽ ra tung tích. Vậy hai khoa đó đều tìm ra số 2, 3, 5 ở miền Việt tộc từ sông Hoài, Sơn Đông chạy xuống đến các đảo Thái Bình Dương như số 2 thấy ở Bắc Sơn trong nét song trùng, số 3 thấy ở di chỉ Phùng Nguyên (tỉnh Vĩnh Phú, Bắc Việt) và trong các huyền thoại như sách ước gậy thần. Sách ước thành bởi ba trang mà thần Tản Viên đọc có hai trang hỏa và mộc. Hành hỏa số 2, mộc số 3 tức văn hóa Việt gồm hai số 2-3 hay vài ba, hoặc Đông Nam. Vì Đông số 3, Nam số 2.

   Các số đã vậy mà những thể chế lớn trong Nho cũng tìm thấy nơi Việt trước đậm nét hơn. Thí dụ:

    Lễ gia tiên là đạo thờ ông bà. Lễ gia quan do lễ Thành Đinh.

  Tinh thần gia tộc bên ta cũng đậm nét hơn như được biểu thị bằng cái bọc trăm trứng Mẹ Au.

  Câu Trời tròn Đất vuông là do bánh dầy bánh chưng v.v… Còn có thể kể ra rất nhiều, nhưng trong bài vắn tắt này tạm ngưng ở đây.

  Có lưu truyền kể rằng, vào đời Đường nước Việt Thường biểu vua Nghiêu rùa thần, trên mu có chữ con quăng ghi việc từ khai thiên lập địa về sau. Để Nghiêu ra lệnh ghi chép lại và gọi là “quy lịch”. Quy lịch hay Quy thư cũng gọi là Lạc Thư, tức là sách của Lạc dân thành bởi 9 bộ số, nhưng 9 cũng quy vào là số 2 đất và 3 trời, trong truyện nói bóng là ghi truyện tự khai thiên lập địa… Sự thực đó là đạo trời, đạo người, đạo đất. Lý do nền tảng tại sao tìm hiểu về nguồn gốc văn hóa Việt mà phải nghiên cứu về bộ số vài ba tham lưỡng với các phó sản của nó là Âm dương, Tam tài, Ngũ hành, Hồng phạm, Cửu trù, Lạc Thư, Sách ước. Vì tất cả đều do Việt tộc chính, về sau Tàu có lẽ thêm vào được chút ít bằng sự tô chuốt trang hoàng bề ngoài mà thôi, chứ cái nõn thì đã có sẵn rồi.

   Tóm lại cả chữ Nho lẫn Đạo Nho đều do Việt tộc trước rồi người Tàu công thức hóa sau nghĩa là trau chuốt đặt thành những câu văn gọn. Vì thế Nho là của chung Tàu Việt, tôi gọi là Việt Nho.

  Việt sáng tạo ra gọi là thời văn hóa. Tàu đưa vào sách vở gọi là văn minh. Đó là những điều đã được chứng minh bằng khảo cổ và cổ tục học, nghĩa là rất khoa học không thể chối cãi. Vì thế khuynh hướng ruồng bỏ Nho, lấy lẽ là của Tàu chỉ là mắc bẫy thực dân muốn nhổ mình ra khỏi gốc Việt cho dễ đồng hóa, chứ thực tế chối Nho tức là chối Việt, vì Nho là 2-3 mà 2 là tiên rồng, còn 3 là Đạo Ba hay Đạo của cha ông. Trong Hưng Việt 3, chúng ta sẽ bàn về hai con số này với các huyền thoại liên hệ như được ghi trong Trống Đồng. Chỉ cần kết rằng muốn bỏ Nho lấy cớ là của người Tàu thì cũng như lấy cớ rồng là của Tàu mà ruồng bỏ tiên rồng của mình mà quên đi rằng Tàu đã mượn rồng của Việt thay thế cho bạch hổ là vật biểu trước hết của họ.

   Đàng khác vì các lâu đài văn hóa ta đều là “kinh vô tự”, sau Tàu cho vào kinh sách thành hữu tự. Vì thế nay muốn nghiên cứu về nguồn gốc văn hóa Việt thì phải dùng cả sách Nho cũng như phải nghiên cứu về nước Tàu, cũng như về sự sinh thành ra nứơc Tàu, vì nứơc Tàu sinh ra và lớn lên trên lưng nước Việt. Nước Việt ví như khóm tre to lớn, nước Tàu khởi thuỷ ví như đọt măng, nhờ hoàn cảnh thuận lợi măng mọc mạnh phát triển tràn ngập lật ngược thế cờ, biến Việt chủ thành ra Việt khách.


9. NGUỒN GỐC VĂN HOÁ VIỆT THEO NHỮNG KHÁM PHÁ MỚI NHẤT

   Bàn về 2 quyển khảo cổ và cổ sử mới nhất về nước Tàu có liên hệ tới nguồn gốc văn hóa Việt Nam. Đó là quyển “The Origins of Chinese Civilisation” gồm những bài đã thuyết trình trong hội nghị Berkeley 1980. Sách in tại University of California Press 1983. Sẽ viết tắt là Origins. Quyển thứ hai là “The Chinese Heritage” by K.C.Wu, 496 trang, in tại Crown Publisher Inc. New York 1982 sẽ viết tắt là Wu. Tiến sĩ Wu làm đại sứ kiêm học giả.

 Bài này theo hai quyển trên và một ít tài liệu cập nhật hóa để xét lại nguồn gốc nước Tàu và Việt. Theo đó nước Tàu mới có từ quãng 20 thế kỷ trước công nguyên gồm ba nhà Hạ, Thương, Chu. Ta hãy điểm qua từng nhà.

  Nhà Hạ kéo dài 439 năm (2205-1898). Tiếng Hạ không phải là tên chủng tộc mà chỉ là một mảnh đất nhỏ ở Mạn Nam sông Hoàng Hà đối với người ở Mạn Bắc thì kể là mùa hạ. Có thể người Chàm Châu Đốc đã ở đây vì họ cũng có tên là Hạ và có tục cưới rể y như ông Vũ nhà Hạ về ở quê vợ là Đồ Sơn tức Hội Khê. Cha ông tên là Cổn được trao cho việc trị thuỷ hiểu theo ẩn nghĩa là “cai trị nước”. Ong Vũ trị thuỷ được là nhờ có con quy nổi lên ở sông Lạc đội quyển sách có 9 khoản. Theo cái nhìn của huyền sử thì đó là cách cái trị của Lạc Việt gọi là Cửu Lạc, sau Nho giáo gọi là Hồng phạm Cửu trù với Lạc thư, tất cả đều phát xuất từ Việt tỉnh cương tức là 9 điều xếp theo 9 ô của chữ tỉnh của Việt tộc.

  Nhà Thương kéo dài 612 năm (1766-1154). Về văn hóa thì phát xuất từ Hoài Di tức theo văn hóa Di Việt. Bà Giản Địch đẻ tổ nhà Thương theo lối dã hợp của Di, cũng theo mẫu hệ: gọi tên theo lối Việt như vua Đê At, khi đánh với nhà Chu thì hầu hết là nhờ quân các nước Di nên nói được nhà Chu thắng nhà Thương là Tây thắng Đông. Nhưng thắng Di, mà Di với Việt có liên hệ chặt chẽ cả về tiếng nói cùng một gốc Nam Á (Austro-Asiatic) (xem Origins p.437-442). “Thế mà đất của Di rất bao la gồm Sơn Đông, Đông Hà Nam, Bắc Giang Tô, Đông Bắc An Huy, có thể cả miền duyên hải Hà Bắc và Trực Lệ, hai bên Liêu Đông và bán đảo Triều Tiên trong đó có những tên họ như Thái Hạo (Phục Hy), Thiếu Hạo (Kim Thiên) họ Phong, họ Doanh, họ Yếm… tất cả đều liên hệ với Di. Những biến cố lớn đời nhà Hạ là những cuộc đụng chạm với Di”. Học giả Phó Tự Niên, trưng theo Origins tr.498. Cho đến hết nhà Thương thì chưa có gì được gọi là văn hóa Tàu. Tất cả còn là Di, chỉ tự nhà Chu mới có sự khác biệt về văn hóa.

   Nhà Chu kéo dài 897 năm từ 1122-225 phát xuất từ Tây Di, học Cơ thuộc bộ tộc Nhung (hoặc Khương). Về văn hóa sút hơn nhà Thương rất nhiều, tuy nhiên chính nhà Chu đã biến đổi văn hóa Di Việt thành ra văn minh Tàu là do đến sau và cai trị lâu năm, và nhất là vì có tính cách du mục: phụ hệ, võ biền: đưa vào văn hóa Di Việt nhiều yếu tố du mục như chức thiên tử (ghé vua thần) quân đội chuyên nghiệp, luật hình, hoạn quan, hữu nhậm, ưa số 6 và 4, đàn áp đàn bà, khinh miệt dân chúng gọi là lê dân (dân đen đầu) hay kiềm thủ. Vì có pha máu Turc tóc vàng nên gọi dân thế. Và cũng từ đấy thì bắt đầu phân biệt Tàu với Di Việt bằng cách coi khinh và những chữ Di Địch mới hàm ý “rợ mọi” chứ trước không hề có thế. Vì Tàu đều xuất phát từ Tứ Di cả, nhưng khi đã chinh phục được Tứ Di rồi thì quay lại khinh dể gốc của mình.

  Nhà Tần kéo dài 49 năm từ 255-206, nhưng chiếm toàn cõi nước Tàu nhất là Sở, Việt, Ngô và xưng là Tần Thuỷ Hoàng Đế thì mới từ năm 221. Tuy cai trị vắn nhưng đã để lại một hình ảnh nước Tàu to lớn thống nhất, nên từ ấy về sau các nhà viết sử bám vào hình ảnh này mà quên đi những quãng đầu lúc nước Tàu còn nhỏ xíu. Từ Tần Thuỷ Hoàng nứơc Tàu mới có như nay nhưng vẫn phải mượn tên Tần để gọi nước. Ngừơi Tàu đọc Tần là Tsin thành ra Chine, China. Tần là một trong Tứ Di, nhưng vì tiếp cận với du mục quá lâu nên đi theo hướng du mục, chuyên chế, không hợp với Nho nguyên thuỷ là vương đạo theo tinh thần dân chủ. Vì thế chỉ cai trị nước Tàu quãng 49 năm.

  Nhà Hán chia hai là tiền Hán 174 năm (206-35 tr.c.n) cũng phát xuất từ Tứ Di, miền Giang Tô. Khi mới lên ngôi còn tế Ly Vưu và xưng mình là Hán Man. Chữ Hán chỉ là hình dung từ nghĩa cao sang vinh hiển, chứ không là tên dòng tộc, y như chữ Hạ và Hoa đều thế. Vì Tàu chỉ từ Tứ Di phát xuất chứ không có dòng tộc riêng nên không có tên riêng. Trứơc đây người ta tưởng là Hoa hay Hạ là tên dòng tộc nhưng mới đây ông Wu (tr.106-110) đã chứng minh là không phải thế mà là tên mới từ đời nhà Chu thêm hình dung tù Hoa vào Hạ để chỉ sự hiển vinh, lâu rồi người ta dùng chữ Hoa bỏ chữ Hạ. Đến đời mới vì Tần nổi quá nên ngừơi Mông Cổ gọi Tàu là Tần và tên này dính luôn.

  Những điều này chứng tỏ Tàu không là một chủng tộc riêng mà chỉ do tự Tứ Di phát xuất. Điều này đã trở thành hiển nhiên khi xem mấy vị thuỷ tổ như Phục Hy, Nữ Oa đều xuất thân từ Di (miền Châu Từ, sông Hoài… Thần Nông thì có lưu truyền phát xuất từ miền Tibet đi vào Tàu qua ngã Tứ Xuyên và định cư ở Hồ Bắc bên bờ Dương tử giang. Còn vị nổi nhất là Bàn Cổ thì nay đã tìm ra là người Việt họ Bàn đọc là Bàng (Hồng Bàng) là Bành (Bành tổ) theo lối đọc miền Nam mấy âm đó xuýt xoát (xem Hán Việt tự điển Nguyễn Văn Khôn chữ Bàng, Bàn. Vì không nhận ra điều đó nên nhiều sách gán với chó Bàn Hồ của dân Dao). Tương truyền mồ mả ông còn đâu đó trong miền rừng núi tỉnh Quảng Đông, ông mới được đưa vào Tàu đời Tam quốc trong quyển “Tam ngũ lược kỳ” của Từ Chỉnh và đến đời Tống thì được đưa vào Triết. Trong hoàn vũ Đông Tây kim cổ không có hình ảnh nào về nhân chủ cao đẹp hơn hình ảnh Bàn Cổ. Ngày 15/8/1984 An Việt khám phá ra những điều này (trong sách ông Wu tr.2 nên đã đặt tên cho một chi ở San Jose là Bàn Cổ để ghi “biến cố quan trọng” là tìm ra tổ chót vót của mình.

  Hỏi: Sao lại nói Việt Nho mà không Di Nho hay Hán Nho?

   Thưa: Gọi Di Nho được lắm, nhưng vì nay không còn dân nào mang tên Di để đại diện nên phải lấy tên Việt vốn gắn liền với Di như đã nói trên. Nên chú ý chữ Việt đây tuy là siêu việt cùng một căn với phủ việt là thứ rìu lưỡi cong đặc biệt của Đông Sơn cũng là của Việt. Việt này bao la ăn từ Chiết Giang lên mãi Liêu Đông dính với Địch như đã nói ở trên (triệt 3) và có thể là U Việt (Việt điện u linh). Còn phía Dương tử giang thì có Liêu Việt, Bộc Việt. Lại có Lạc Việt miền Hoàng Hà… Việt mênh mông này có trước Bách Việt. Bách Việt viết với bộ mễ mới có sau tự lúc Việt Chiết Giang bị Sở thôn tính thì tỏa xuống phía Nam lập ra nhiều nước nhỏ mà Tàu gọi là Bách Việt trong đó nổi nhất có Nam Việt của ta ở Quảng Đông, thứ nhìa là Mân Việt ở Phước Kiến…

  Vì Việt gắn liền với Di, lại còn việc nước mang tên Việt với vật biểu đi đôi tiên rồng. Đó là nét đặc trưng nòng cốt, nên phải dùng tên Việt để đặt nổi nguồn gốc văn hóa nứơc ta, sau này nếu cần vì lý do ngoại giao không nên dùng chữ Việt Nho thì sẽ dùng từ Nguyên Nho, Di Nho hay Nho suông thay thế.

  Đằng khác khảo cổ đang hướng mạnh về trục Nam Bắc tức văn hóa phát xuất từ miền Nam (văn hóa Hòa Bình, Non-nok-Tha, Banchiang…) tiến lên Bắc là Ngưỡng Thiều (tỉnh Thiểm Tây) và Long Sơn (tỉnh Sơn Đông). Mỹ có người đi theo hướng đó như ông Solheim và Gorman đại học Hawaii. Nga cũng đi theo hướng đó. Xem bài ông Karl Jettmar, Origins tr.217.

  Tóm lại tuy khảo cổ chưa thể quyết đoán về mọi chi tiết cách chắc nịch theo lối huyền sử, vì huyền sử xem bao quát để nhìn ra cái dạng chung của cánh rừng, còn khảo cổ ví như đi vào rừng để xem xét từng chi tiết, nên gặp phiền toái hơn nhiều, dầu vậy có thể nói những nét lớn thì khảo cổ và cổ sử đã kiện chứng cho thuyết Việt Nho, theo đó Việt sáng tạo ra ý tưởng, còn Tàu thì công thức hóa và làm trọn vẹn. Việt là kế thừa trung tín của Di Nho hơn Tàu. Tàu theo đạo Khổng mà Khổng đã học với Di Nho tức Nghiêu Thuấn mà Thuấn là “Đông Di chi nhơn”.

10. KHAI THÁC NHỮNG THÀNH QUẢ THÂU LƯỢM ĐƯỢC

   Thành quả đó là Việt có trước Tàu cũng như Việt đã đặt nền văn hóa, còn Tàu xét như một dân tộc xuất hiện sau quãng tự nhà Hạ lối 20 thế kỷ trước công nguyên, đã hoàn chỉnh văn hóa của Di Việt, tôi gọi là công thức hóa. Trên đây đã có một bài tóm lược những kết quả của khảo cổ mới được cập nhật hóa để có được cái gì cụ thể trong việc khám phá nền tảng văn hóa nứơc nhà.

  Ở đây hãy nói về việc áp dụng điều đó thế nào cho ơn ích, bởi vì việc khám phá đó đã làm cho mối liên hệ Tàu Việt trở nên tế nhị, có thể gây chia rẽ. Tôi thiết nghĩ ta sẽ cố tránh điều đó bằng trình bày theo lối tin mừng chung cho cả hai dân tộc, tức là tìm lại được nguồn gốc chung, đó là gốc văn hóa: đừng xét đến chủng tộc. Vì nứơc Việt xưa gọi là Văn Lang đã chứng tỏ yếu tố văn hóa được đề cao. Còn Tàu thì các học giả quốc tế cỡ lớn đều cho là một thực thể văn hóa chứ không là chủng tộc, nói kiểu khác không có chữ Nho và đạo Nho làm cốt thì không có nước Tàu như nay mà chỉ là một châu xuýt xoát như Au Châu gồm lối vài chục nước; nhưng nhờ Nho (tức văn hóa đó) mà Tàu có được nền thống nhất lớn lao, nhưng vì yếu tố chính trị lấn át làm cho người Tàu cũng như người Việt quên gốc văn hóa chung, chỉ còn thấy có hai nước coi nhau như thù nghịch.

   Sự thực thì phần lớn là anh em một nhà trong một nền văn hóa thống nhất, điều đó còn ảnh hưởng vào lối bang giao Tàu Việt, tức hai nước sống bên nhau tương đối hòa bình. Có điều chính người Việt đã quên điều đó nhiều hơn nên sử sách xưa rày chỉ nhấn mạnh có khía cạnh dị biệt và hận thù. Gần đây học giả Nguyễn Thành Nhơn đã chú ý đến khía cạnh thống nhất khi nhận ra rằng, từ ngày Việt Nam độc lập năm 937 đến đầu thế kỷ 20 chỉ có 5 cuộc chiến, mà cả 5 đều liên hệ đến việc phế lập. Thế mà phế lập lại liên can đến việc phong vương và triều cống, cho nên việc xin phong chính là một thứ hiệp ước trá hình để giữ thể diện cho đại quốc, còn việc triều cống cũng thế, thực ra chỉ có tiếng mà không có miếng. Còn hao tài là khác, do cái tôn chỉ “hậu vãng lai bạc lai”, tới cống thì ít, mà lì xí phải nhiều. Thí dụ có lần Việt cống 15 con voi. Tàu van nỉ xin mua lại mà Việt không chịu. Vì nếu mua được thì để voi đâu cũng xong, bằng không thì đó là vật cống thiên triều, đoàn sứ giả đi tới đâu phải nghinh đón và cung phụng người, đã vậy lài còn đoàn voi. Nghĩ đến việc 15 con voi cứ thủng thỉnh vừa đi vừa tương ra tự Nam chí Bắc nước Tàu mà ngán, chỉ duy việc xúc phân voi đủ mệt. Thế mà vẫn phải giữ thể diện.

   Theo hiệp ước không tên đó thì vua Tàu phải bảo vệ triều vua Việt đã được phong để không cho ai cướp ngôi. Vì thế khi nhà Hồ tiếp thu giang sơn nhà Trần thì nhà Minh bên Tàu bắt phải tìm cho được dòng tộc nhà Trần. Chính vì tìm không ra nên mới có cớ chiến tranh. Đến trận chiến với nhà Thanh khởi đầu cũng là do vua nhà Lê cầu cứu. Còn hai trận đánh với nhà Nguyên thì kể là do Mông Cổ, nhưng cũng lấy cớ nhà Lý bị nhà Trần chiếm đoạt. Còn trận trời Tống 1087 thì thực ra do Việt đánh Tàu trước: năm 1075 Lý Thường Kiệt sang vây Khảm Châu và Liêm Châu, còn Tôn Đản đánh sang Ung Châu… giết sơ sơ có 58 ngàn người Tàu! Ong ghê mà bà cũng gớm chứ không hiền lành gì đâu. Tóm lại trong quãng một ngàn năm chỉ xảy ra có 5 trận chiến, thì phải kể đó là một thứ thống nhất, một hậu quả hiếm có.

  Tuy đó là tương đối, nhưng nếu có ai làm một luận án so các trận đánh đó với bên Au thì chắc sẽ thấy nhiều điều hay, như những trận chiến 30 năm, 100 năm v.v… Trong quyển The Anatomy of Human Destructiveness (Faucet Crest Book, 1973) trang 243 ông Eric Fromn có cho bảng sau về số các trận chiến xảy ra bên Au Châu.

Thế kỷ 16 có 87 trận

Thế kỷ 17 có 237 trận

Thế kỷ 18 có 781 trận

Thế kỷ 19 có 651 trận

Từ 1900-1942 có 892 trận

   Tất nhiên đây kể cả những trận nhỏ, người làm luận án sẽ xét kỹ bao nhiêu là trận giữa quốc gia, với giữa các nhóm v.v… Dù sao thiết nghĩ so sánh rồi sẽ thấy bên Việt Nho “hòa bình” hơn rất nhiều. Tóm lại, khi nhìn bao quát như vậy ta mới thấy được liên hệ giữa Tàu với ta không thiếu tình người và tình dòng tộc, nếu không chủng tộc thì ít nhất về văn hóa để ta trình bày với người Tàu về mối tình xa xưa mà nay các khoa học đang giúp chúng ta tìm lại (người viết nên tránh những danh từ nặng như kiểu ăn cắp, pickpocket, escroquerie… cả trong khi viết lẫn trong câu chuyện).

   Chính vì thế mà sau này tôi sẽ dùng chữ Nguyên Nho hay Nho thay cho Việt Nho. Lúc đầu còn cần nói Việt Nho để mọi ngừơi dễ nhìn ra gốc gác cũng như để nói lên rằng Nho nơi Việt còn chính truyền hơn của Tàu. Tóm lại khi viết cũng như nói chuyện ta nhấn mạnh yếu tố chung kiểu nhận họ để chúng ta Tàu cũng như Việt, cũng như các nước Đông Á: Hàn, Nhật, Phi, Mã, Miến, Thái, Miên, Lào cùng chung vui xiết cánh để thiết lập một “Đạo trường chung” đặng dọn mình lên nhận chức “triết lý ưu thắng” trong thiên hạ, mà hội nghị quốc tể triết học 1949 đã trao nhân danh Khổng Tử, nhưng “Khổng Tử” không nhận được vì Việt Nho chưa ý thức được tầm quan trọng của cử chỉ đó, tức chưa ai phục hoạt nổi đạo xưa để làm cho mình xứng đáng. Vì thế ta hãy hợp nhau để làm cho mình đủ tư cách lãnh nhận ghế danh dự mà quốc tế khi không đã tặng cho mình. Vì thế tất cả nên quy tụ tài bồi cho di sản xa xưa để có chủ đạo ra góp mặt với thế giới cũng như đóng góp với thiên hạ.

11. NHỮNG TRANG BỊ CẦN THIẾT ĐỂ HIỂU TRIẾT VIỆT

     Điều trước hết là ngũ hành phải nhận diện thật kỹ về vị trí, số độ, phương hướng, màu sắc. Số chẵn (2, 4) chỉ đất. Số lẻ (1, 3, 5) chỉ trời.


   Ngũ hành

   Có 2 chiều chiêu mục: vòng sinh: tay mục (hữu nhậm) theo kim đồng hồ, vòng khắc: tay chiêu (tả nhậm) ngược kim đồng hồ.


 Vòng sinh, vòng khắc

  Vòng trong từ 1-5, vòng ngoài từ 6-10. Lấy số 5 làm cốt rồi cộng dọc lên thì được số 7, dọc xuống được số 6, ngang mục số 9, ngang chiêu số 8. Đôi khi thêm số 10 là cộng với 5 (vòng 10 chấm đen trong Hà Đồ là nó).


   Vòng trong vòng ngoài

 Hồng Phạm Cửu Trù chính là lược đồ của Việt Tỉnh Cương (vì nó do khung chữ tỉnh #) xưa cũng gọi là Cửu Lạc (con số 9 của dân Lạc) sau Nho công thức hóa thành Hồng Phạm Cửu Trù.


 Cửu Trù Hồng Phạm

    Nếu lấy các số ra khỏi Hồng Phạm thì sẽ có lược đồ các số như hình Chữ Viên mà tôi gọi nó là chữ Văn tả nhậm, An Độ gọi là sauvastika. Ngược lại với chữ Vạn Đức quốc xã, hữu nhậm, An Độ gọi là swastika. Nếu ta đặt tên bắn vào các số từ to đến nhỏ thì sẽ nhận ra 2 chiều cả Vạn lẫn Vãn trong Hồng Phạm Cửu Trù. Chữ vãn do tôi đưa vào để chỉ đường tiến vào nội tâm để khỏi lẫn với chữ Vạn. Vì thiếu tên gọi.


 Chữ Viên

  Hà Đồ, Lạc Thư chính là lược đồ bánh dầy bánh chưng. Bánh chưng vuông là Lạc Thư tiến theo chiều khắc (tả nhậm như các vùng trống đồng) tức tiến vào nội tâm gọi là sách mẹ. Nam ngoại nữ nội là thế.


 Hà Đồ


 Lạc Thư


  Đồ Thư Hợp Nhất (Hà Đồ Lạc Thư)

  Các bình đèn ở Đông Sơn, các đỉnh, cả lịch là những đồ dùng để tế tự tức đồ cao trọng nhất đều hàm tàng số 2-3 (3 chân 2 tai). cái phủ Việt (cốt yếu ở chỗ lưỡi cong) cũng hàm chứa số 2-3; trên 2 giao long dưới 3 người hoặc 3 con vật. Đủ biết bộ số vài ba quan trọng biết bao.


 Bình Đèn


Phủ Việt

  Điều cần nhận chân là Trống Đồng với Kinh Dịch cũng đặt theo hướng tả nhậm (trọng tả). Về Kinh Dịch bốn quẻ bên chiêu đều là quẻ âm (tốn, khảm, cấn, khôn) cứ xem hào nền tảng (hào bên dưới hay bên trong) là âm – thì gọi là quẻ âm, 4 quẻ bên mục đều dương: kiền, đoài, li, chấn nên là quẻ dương. Chiêu mục là bên trái bên phải, theo tinh thần Kinh Dịch không được nói bên nào trái bên nào phải, âm không xấu, dương không tốt, mà tốt ở tại hai bên hòa hay là thăng bằng động đích: dynamic equilibrium.


 Thái Cực Đồ

  Mấy phù hiệu trên (Kinh Dịch, Lạc Thu, Trống Đồng) đều xếp theo hướng tả nhậm là hướng phù yểu, nâng đỡ bên yếu, đặt yếu lên trên như quẻ thái xếp Đất (Khôn) trên, Trời (Kiền) dưới thì mới gặp nhau. Vì Đất nặng đi xuống, Trời nhẹ bay lên mới có cơ gặp gỡ. Tu thân là hiện thực quẻ thái, hạ vật dục xuống đưa tinh thần lên. Nên ghi nhận các bình, các đỉnh, các lịch, các giả, các đồ để tế đều xếp theo quẻ Thái là hai tai (số chẵn chỉ đất) ở trên, 3 chân ở dưới (số 3 chỉ trời) tức cũng là tả nhậm phù yểu.

  Ngũ hành còn có vòng trong vòng ngoài như hình trên, vòng trong là 5 số sinh: 1, 2, 3, 4, 5 thêm vòng thành là 4 số: 6, 7, 8, 9/


 Vòng trong, vòng ngoài

 Các số trong Trống Đồng có đủ cả 5 số sinh lẫn 4 số thành (hay vòng ngoài). 5 số sinh là:

 - Số 1 là mặt trời ở trung cung chỉ bằng số không = zero = 0 = vòng 1.

 - Số 2 là nét song trùng chạy song song giữa có vòng tiếp tuyến. Có 2 còng kép và 2 vòng đơn.

 - Số 3 là các vòng tam giác gốc (tiếp cận mặt trời) và tam giác nhỏ ở ngoài (quen gọi răng cưa).

 - Số 4 là 4 quai trống chỉ 4 phương hoặc 4 người đánh trống ở vòng 3.

- Số 5 là 5 vòng: Mặt trời, 14 tam giác gốc, vòng con người, vòng hữu và chim, vòng ngoài cùng toàn là chim: 36 con.

 Số 5 cũng được tìm ở hàng ngang là:

1 người đánh trống

2 người giã gạo

2 người hát “cài hoa kết hoa”

4 người đánh trống.


 Mặt Trống Đồng Ngọc Lữ

 

 Xếp theo quẻ Thái:

  Đất trước là số 4 và 2, Trời sau là số 3 và 1. Số 1 và 4 cộng lại 5 (số du mục vì ở hai đầu). Số 3 và 2 cộng lại cũng là 5 số nông nghiệp vì ở giữa có hợp thành. Số 6, 7 ở vòng 3: 6 bên chiêu, 7 người bên mục. Số 8 là chim ở vòng 4 bên chiêu.

  Số 9 là 36 chim ngoài cùng tượng 4 hoa quỳ 9 cánh: 4*9=36 chúng chỉ hoa nhật quỳ vì hoa quỳ hướng về thái dương, đây là 36 con đều đi hướng đó, hướng của “phượng minh triều dương” những con trĩ chào mặt trời (mới mọc).

  Số 10 là 5 cặp nai chà, có thể chỉ “ngày tiên tháng rồng”: ngày tiên là mồng 10 (2*5=10), tháng rồng là tháng 3 ở cung thìn (thì là cung 5: tí sửu dần mão thìn), nên trống có thể hàm chứa cả ngày giỗ tổ. Theo những điều đã nói trên đây ta thấy rằng Trống Đồng hàm chứa toàn nền triết Việt, có thể tóm vào hai chữ Tiên Rồng: tiên là chim trên mặt trống. Còn rồng là thuyền rồng dưới tang trống xếp theo quẻ Thái và tả nhậm tức mặt trống chỉ mẹ tiên ở trên, còn tang trống chỉ cha rồng ở dưới.

 

Vài thế giao chỉ uyên nguyên


 a. Nữ Oa Phục Hy giao chỉ: bà bên chiêu, ông bên mục. Bà cầm cái quy cũng gọi là thập tự nhai + (5 số sinh) làm nội tướng. Ong cầm cái củ (thước vuông) vòng ngoài.

 b. Trống cũng vậy: số chẵn ở bên chiêu, số lẻ ở bên mục tức âm (đất) trên, dương (trời) dưới.

 c. Thái cực đồ cũng âm bên chiêu, dương bên mục.

 d. Chữ Nghệ cũng nét dương theo hữu nhậm, nét mác theo tả nhậm. (Lạc Long Quân đóng đô ở xứ Nghệ An là thế)

 e. Văn Lang: văn kép bởi nghệ và bộ đẩu.

 f. Giao Chỉ: giao là kép bởi chữ nghệ và bộ lục.


Cài hoa kết hoa

  Lối hát giao tay nhiều khi cả giao chân gọi là “cài hoa kết hoa”. Đó là mô thức cho các lối hát hai bè, mà lớn lao hơn hết là hát trống quân. Trong đó hai bè nam nữ hát đối nhau (xem bài trống quân trong Văn Lang Vũ Bộ). Đó là lối hành đạo cụ thể hơn hết nên ta còn gặp đầy.


 Thuyền tình bể ái

   Đây là nét giao chỉ cụ thể để đẻ ra cái bọc trăm trứng. Hình phóng đại từ mũi thuyền trong trống. Au Cơ lao vào miệng rồng. Đó là cánh đồng Tương nơi mẹ Au Cơ gặp bố Lạc Long Quân đẻ ra cái bọc trứng rồi nở ra con, 50 con theo mẹ lên núi, 50 con theo cha xuống bể. Còn số 5 (ngũ hành) đã tàng ẩn trong truyện.

 
  Lưỡi rìu xoè ở Đông Sơn

Trên 2 giao long giao tay, dưới hình 3 người hoặc 3 con thú.

 Vài trên ba dưới = di vật Đông Sơn.  Giống Phủ Việt (Sứ Điệp 170), Phủ Việt là một cái “búa” có lưỡi cong cong.


 Nhất điểu nhì xà

Nhất điểu nhì xà tìm thấy trên Trường Sa có cả ở Mường: hai chim với hai rắn (xà long) tiền đề cho cặp đôi tiên rồng.

( Đọc tiếp trang 2)

                                                                                                 


Trang mạng Việt Nam Văn Hiến
Trang : Hưng Việt
www.vietnamvanhien.net
www.vietnamvanhien.org
www.vietnamvanhien.info
www.vietnamvanhien.com
Email: thuky@vietnamvanhien.net

Trang mạng Việt Nam Văn Hiến là nơi bảo tồn di sản văn hóa của Việt tộc. Thắp sáng niền tin Diên Hồng và nếp sống Văn Hiến hầu phục hồi nền An Lạc & Tự Chủ.
Trở Lại Trang Mặt


Trang [ 1 ] [ 2 ]