Việt
Nam
Văn
Hiến
Năm Thứ 4889 www.vietnamvanhien.org www.vietnamvanhien.net www.vietnamvanhien.info www.vietnamvanhien.com
Cửa Khổng Kim Định
TỰA Dẫn vào: phương pháp đi tìm Cửa Khổng 1. Ba cấp khó khăn Trào lưu đổi mới đã thổi lên mạnh như nước trào dâng, lẽ tất nhiên các giá trị cổ truyền bị sụp đổ như những cái gì cũ kỹ hết thời và người đứng ra bảo vệ bị tiếng là bảo cổ cũng là đáng kiếp. Bởi lời tố cáo đó có rất nhiều lý do, cũng như đa số nho gia không hiểu kịp thời sự chuyển mình của lịch sử nên để cho nho học suy sụp. Chúng ta không cần nuối tiếc vì nếu nó không sụp đổ thì con đường tiến bộ sẽ không được thênh thang. Phong trào canh tân tuy có nhiều chỗ quá trớn nhưng vẫn đáng cho chúng ta biểu đồng tình.
Tuy nhiên, Nho giáo nay lại được ghi vào chương trình Đại học Văn Khoa thì vấn đề phải được đem ra cứu xét, tất nhiên không phải để dựng lại những thể chế cũ, nhưng để gỡ lấy những yếu tố còn giá trị mà trong lúc cấp bách do thời cuộc xô đẩy quá mạnh chưa kịp làm.
Việc gạn lọc tinh hoa này phải thuộc thế hệ chúng ta. Giữa chúng ta và thể chế cũ đã có được quãng lùi tạm đủ xa để sự quan sát trở thành dễ dàng và khách quan. Những hăng nồng quá đáng của hai phe tân tiến và bảo cổ cũng đã lắng đọng đủ, thể chế cũ đã cáo chung, còn người tân tiến thì sau cuộc đả phá phải nghĩ tới kiến thiết. Do đó thế hệ chúng ta có đủ điều kiện tâm lý thuận lợi để đem vấn đề ra mổ xẻ.
Muốn hiểu một nền triết thuyết nào bất cứ học giả cũng phải đọc một hai quyển dẫn lộ (introduction). Nếu với những nền triết học duy niệm quyển dẫn lộ cần một thì với triết Nho nó sẽ cần gấp hai ba. Là vì triết Nho không được trình bày cách hệ thống trong sách vở như các triết học cổ điển đã làm, người học chỉ cần chăm chú đọc hết các tác phẩm của triết gia tức khắc thấy phô diễn ra trong đó mọi khía cạnh của các vấn đề chính cốt. Triết Nho trái lại là một đạo hành vi không được trình bày kiểu đó mà chỉ có ít lời rời rạc, về một vài khía cạnh. Còn phần căn bản hơn cả lại nằm ẩn khuất giữa các dòng chữ mập mờ thấp thoáng. Mà chính cái đó mới là cốt cán. Do đó cái khó khăn lớn nhất trong việc học triết Nho có thể nói là nó hệ tại ở sự bao la ẩn khuất của nó. Nó không hạn chế vào một tầm kích nào như triết học duy niệm tự khép mình vào lý trí, nhưng đây là cả một nền đạo lý bao la gồm con người cụ thể không những có lý trí mà còn có cả tâm tình, tiềm thức, ý chí, siêu thức… một con người đa kích (multidimensionel) ăn thông với thiên với địa, nên triết học đó cũng phải có tính chất đa kích nghĩa là bát ngát mênh mông… Về phương pháp không những có lý luận mà còn có cả thi, thư, lễ, nhạc, cả trầm mặc, cả không suy từ gì hết và nhất là thể chế và thói tục. Đó là trường hợp của triết Nho nên nó rất khó hiểu, khiến nhiều người cho rằng Mạnh Tử, Tuân Tử giỏi hơn Khổng Tử (xem Zenker, Histoire de la Philo. Chinoise p.238). Vì hai ông này dùng lý luận và bàn dài về từng vấn đề, thí dụ Khổng nói sáu chữ “thứ chi, phú chi, giáo chi” thì Mạnh Tử nói từng chục trang về bảo dân, làm giàu dân… ai xem cũng có thể hiểu.
Điều này đã xảy ra liền sau khi Khổng Tử qua đời: Thúc Tôn Võ Thúc cho rằng Tử Cống giỏi hơn Khổng Tử. Tử Cống nghe biết chuyện đó liền trả lời một câu mà ta có thể dùng làm tiền đề cho lớp dự bị. Ông nói: “xin lấy cung thất tường vách làm ví dụ, tường của Tứ này cao chỉ có tới vai, nên người đi ngoài ngó vào liền nhìn ra được những hành ngơi báu vật bên trong. Chí như tường của Phu Tử cao tới vài trượng, người nào không tìm ra cửa mà vào thì đứng ngoài không thấy được cái đẹp của nhà tôn miếu, sự giàu sang của bá quan…” == Thí chi cung tường: Tử chi tường dã cập kiên, khuy kiến thất gia chi hảo. Phu Tử chi tường sổ nhận: bất đắc kỳ môn nhi nhập, bất kiến tông miếu chi mỹ, bá quan chi phú. Đắc kỳ môn giả, hoặc quả hỹ, chữ hán. (L.N. XIX 23)
“Những người tìm ra được cửa rất ít vậy thay”. Đó là cái khó chính, cái khó lớn nhất. Khó khăn thứ hai gặp phải là cái cổng đó còn bị bìm leo rêu phủ, tức là những ý tưởng của các môn phái khác đã xen vào các sách Nho giáo gây ra một khó khăn phụ trội cho việc tìm cửa ra nhà. Việc này đời nhà Hán đã có người làm (Vương Thông, Mã Dung, Trịnh Huyền) nhưng việc làm chưa tới nơi nên trải qua bao đời nho sĩ vẫn chưa nhìn rõ chân tướng của triết nho. Mãi tới thời cận kim mới được các học giả Đông cũng như Tây khai thác rộng rãi. Ở đây chúng tôi sẽ thừa hưởng các công cuộc khảo cứu đó (nhất là của Creel, Granet, Needham…) trong việc giả quyết khó khăn phụ trội để tìm ra Khổng môn chính thống hầu “nhập ư thất”, tránh cái lối học “hết đứng cửa Khổng lại sang sân Trình” mà không lo vào nhà ông mô cả.
Sở dĩ người học quanh quất ngoài Cửa với Sân ít khi vào được trong nhà là tại chỉ nghĩ tới sự khó khăn loại ba là chữ Nho. Chữ Nho khó thật đấy, nhưng chỉ đáng kể vào hạng ba vì nó cần nhiều trí nhớ đã đủ. Loại khó thứ hai (khảo đính) cần phải có trí suy luận phê phán. Còn loại khó thứ nhất phải dùng đến Tâm tư, tức là lối suy tư toàn bích gồm cả vô ngôn ẩn ngữ. Đó là hai loại khó khăn mà học giả cần lướt thắng. Loại khó thứ nhất thì chỉ có một mình triết gia làm lấy và chúng ta sẽ cố gắng làm trong các chứng chỉ. Còn trong quyển khai môn này chúng ta sẽ nhằm giải quyết phần nào khó khăn loại hai.
Muốn khảo cứu xứng với tầm Đại học thì việc đầu tiên phải làm là theo phương pháp khoa học. Phương pháp đó đòi sinh viên dự bị phải tìm hiểu những ý tưởng của triết gia mình học có phải là chính truyền chăng. Không thể cứ thấy chép trong kinh truyện mà bảo là của Khổng của Lão được. Trước khi phê phán phải cứu xét xuất xứ những lời nói đó. Phải biết minh biện.
Minh biện cách nào? Có hai lối: một là lối văn học hai là lối triết học. Lối văn học gồm 5 điểm là: 1. Sử sự, 2. Văn tự, 3. Văn thể, 4. Tư tưởng, 5. Bằng chứng. Lối triết học là Nhất quán, tức là tìm ra nguyên lý căn cơ của triết gia, tìm ra sự quán thông mạch lạc nội tại (cohérence interne). Lối văn học là phần việc của văn học sử, người học triết có thể kiêm nhiệm vai trò văn học hoặc không, vì có hay không cũng không hại cho triết . Tuy nhiên nếu không kiêm nhiệm cũng nên tham khảo các công trình nghiên cứu đó. Nhưng đây chỉ là bắt tay với khoa học, còn chính việc của triết sẽ là tìm ra mối Nhất quán.
Điểm nay cho tới nay kể như còn bỏ hoang chưa được các triết gia chú trọng cho cân xứng. Có lẽ vì đó mà Viễn Đông chưa sản xuất được một bộ triết lý có đủ bề thế như Ấn Độ. Vì thế đó sẽ là điểm chúng tôi lưu tâm ngay từ quyển đầu này và sẽ tiếp tục trong các Cảo luận về sau.
Bây giờ chúng ta trở lại điểm chung với các học giả và chúng ta hỏi trong Tứ Thư, Ngũ Kinh phải căn cứ vào sách nào để làm điểm tựa? Vấn đề đã bàn luận kể như tạm xong nên xin thưa thẳng đó là Luận Ngữ.
Đại Học thì quy mô hệ thống
Trung Dung thì vi diệu
Mạnh Tử phát việt nghĩa là giảng diễn rộng và cao nên dễ hiểu. Tuy nhiên cả ba sách đó đã chép sau xa Khổng Tử có thể hơn trăm năm. Chỉ còn Luận Ngữ là gần Khổng nhất nên được coi là phản chiếu tư tưởng căn bản của Khổng Tử hơn cả.
Còn Ngũ Kinh thì vì chứa quá nhiều ý tưởng xen vào sau, nên không thể dùng ở khởi điểm được, trừ Kinh Thi vì là thi nên ít bị xen giặm nhưng còn các chú sớ làm sai lạc nên cũng cần minh biện.
2. Chung quanh Luận Ngữ
Có lẽ sách được hình thành trong ba giai đoạn. Đợt trước tiên gồm có 9 chương đầu. Đợt nhì thêm 5 chương từ 11-16. Đợt ba gồm từ chương 16-20. Học giả Thôi Thuật nhận xét: 15 chương đầu chỉ nói tử viết; còn từ chương 16 trở đi mới nói Khổng Tử viết.
Chương 19 của môn đệ nhiều hơn của Khổng Tử, tuy nhiên cũng có thể coi là chính thống như các chương trên, nhưng số chữ xen giặm có nhiều hơn. Người ta cho rằng đời Tiền Hán có ba dịch bản (versions) đến sau được dồn lại một bản mới, bản này được tạc vào bia năm 175 t.c.n. So với bản lưu hành hiện nay thì có ít nhiều dị biệt thuộc chi tiết không đáng kể.
Theo học giả Karlgren (34-35) thì Luận Ngữ có lẽ viết vào cùng một thời với sách Mạnh Tử, vì cả hai có hệ thống Ngữ luật giống nhau, những sự dị biệt là do các vấn đề khác nhau của hai sách mà thôi, như kiểu nói xét về đàng: Mạnh V.1 “dĩ vị”. Có người nhận xét là ở cả hai sách thấy thiếu một số ý niệm như chữ địa hiểu theo nghĩa siêu hình (tức là quan niện đối đáp với Thiên) và chưa thấy ý niệm của âm dương và ngũ hành. Nếu viết muộn vào quãng cuối Chu đầu Hán thì thế nào cũng có mấy ý niệm trên. Nhưng đó là ý kiến kông đủ thế giá. Vì âm dương ngũ hành có trướg đời Khổng (xem bài Ngũ hành trong “Chữ Thời”).
Trong Luận Ngữ, Khổng Tử không xuất hiện như một hiền triết siêu phàm, nhưng là một người đơn sơ, dễ hiểu, bình hành, chưa bị thần thánh hóa hoặc nâng lên tận mây xanh như các giai đoạn về sau, và cũng không thấy ông nói có giữ chức quan đại thần bao giờ. Trái lại, ông chỉ là một người đang chiến đấu, có những điều nghi nan, những yếu đuối cũng như những “thành kiến” (ghét lời trau chuốt), những thâm tín tư riêng.
Giáo sư Creel cho rằng Luận Ngữ là của Nho giáo thế mà lại không xóa bỏ những đoạn có thể giảm giá Nho giáo. Thí dụ chương 19 các điều tranh luận giữa môn đệ hay là ý kiến cho Tử Cống giỏi hơn Khổng, hoặc Khổng đi viếng bà Nam Tử ( L.N. VI 26) làm bối rối nhiều Nho gia có óc quá thanh giáo (Puritain) cũng như bên đối phương đã dùng làm trò chế Nho giáo (Diêm Thiết Luận 72-73) thì điều đó giáo sư cho là chứng minh được sự chính xác của Nho giáo và đáng ta kính hơn.
Tuy nhiên Luận Ngữ chứa nhiều câu có thể nghi là giả tá xen giặm. Trong đó chương 10 đặt ra một vấn đề đặc biệt và được nhiều học giả kể là một thiên thuộc nghi lễ đã được xen vào sau, khi đã rắc lên một chút Khổng (câu 2,11,12) (Waley 55 Maspéro, Chine antique 459).
Một số câu khác (XVI. 14, XVIII 9-11) không ăn nhằm chi với Khổng Tử hay môn đệ của ông nên rất có thể là xen vào sau. Những câu XIV 39,42 (hiền giả tị thế) có mùi Lão Trang ẩn dật, câu XVI 11-12 đề cao tị thế cũng vậy. Các học giả còn đưa ra một số câu nữa, nhưng có thể nói là thuộc phạm vi học thuật hơn là triết lý.
Tóm lại ở khóa giảng lớp dự bị chuyên biệt này nhằm hai điểm chính: trước nhất là tìm ra mối nhất quán của triết Nho và sau là dùng sách Luận Ngữ làm căn bản. Khi đã nắm được then chốt rồi mới đề cập các Kinh Truyện khác với những đề khác. I. VỤ ÁN NỆ CỔ 1. Bản cáo trạng "Thời đổi
mà pháp không đổi thì loạn… cho nên
thánh nhân trị dân tuỳ thời mà đổi
pháp, không thể căn cứ vào Nghiêu Thuấn
đã từ hai ba ngàn năm trước mà trị dân
được…" Đại để đó là cốt yếu bản cáo trạng do
Hàn Phi Tử và Lý Tư cũng như các
bách gia chư tử khởi tố và vẫn còn lưu ảnh hưởng
đến tận ngày nay. Trước hết,
cáo trạng dựa trên chính những câu nói
của ông tổ Nho giáo: "thuật nhi bất tác, tín
nhi hiếu cổ, 述 而 不 作 ,信 而 好 古 " (L.N. VII 1) cũng như "Ngô
tùng Châu". Tôi chỉ thuật lại chứ không
sáng tác gì cả. Tôi theo nhà
Châu. Điều nhận
xét trước nhất và cũng là căn bản: lời tố
cáo đã đặt sai bình diện. Khổng Tử chủ trương ở
bình diện triết lý đạo học vượt ra ngoài thời gian
kim cổ, còn Lý Tư lại tố cáo ở bình diện
giải pháp chế độ là bình diện tuỳ thời với nhu cầu
thời đại mà biến chế thay đổi. Thí dụ
Khổng Tử chủ trương "cầu hiền tài" (L.N. XIII 1) là một
chủ trương triết lý, còn chế độ thì có thể
tuyển người hiền bằng phép "đề cử trung chính", hay thi
cử như từ thời Tuỳ về sau, hoặc có thể "đầu phiếu" như hiện nay.
Đấu phiếu khác với thi cử, thi cử khác với lối đề cử
trung chính… nhưng tựu trung đó chỉ là những giải
pháp nhằm thể hiện câu "cử hiền tài". "Cử hiền
tài" là triết lý thì bất biến, nhưng giải
pháp thì tuỳ thời thay đổi. Một thí
dụ khác "bất hoạn quả nhi hoạn bất quân", "không lo
ít của cho bằng lo chia không đều" vẫn luôn
là một chủ trương triết lý nhưng trải qua các giải
pháp khác nhau tuỳ theo mỗi thời đại có thể
là tỉnh điền đời Chu, chiêu điền đời Tấn, quản điền đời
Hậu nguỵ, ban điền đời Đường. Đó là những chế độ
khác nhau, nhưng mục đích vẫn là xóa bỏ,
hay ít ra là giảm thiếu đến mức tôi đa cái
nạn "người ăn chẳng hết người lần không ra" mà Nho
giáo gọi là "hoạn bất quân", lo cái nạn
phân phối tài sản trong nước không được quân
bình. Điều lo này cũng chính là mối lo của
chúng ta ngày nay, thế giới tự do cũng như thế giới cộng
sản, mối lo là một nhưng giải pháp khác nhau tuỳ
thời. Nếu mối lo gọi là thượng luật thì giải pháp
gọi là hạ luật. Thượng luật như nhau, hạ luật tuỳ cảnh ngộ thay
đổi. Đó là ý câu trong sách Trung
Dung 30 "Thượng luật thiên thời, hạ luật thuỷ thổ, 上 律 天 時 , 下 律
水 土 ".(*) Đó cũng là Thiên viên (trời
tròn) bất dịch và Địa phương (đất vuông) tuỳ thời
biến cải. Đấy là hai bình diện cần phân biệt,
có nhận thức ra sự dị biệt mới đáng là triết
lý. Sở dĩ những người như Lý Tư không thấy điều
đó vì họ nặng óc luật gia, mà luật thuộc
"tứ địa" pháp chế tuỳ thời canh cải, nên không thể
thấy bình diện "thiên viên" đạo lý. Do
đó chủ trương của họ không thắng thế lâu bền được. Chứng cớ lớn
lao hơn hết là từ đời Hán cho tới Trung Hoa Dân
Quốc (1911) lâu từng hơn hai mươi thế kỷ lại chính
là Nho giáo nắm nến nhất thống văn hóa Trung Quốc
chứ không phải Bách gia chư tử vốn là quan thầy của
Pháp gia. Nếu quả thật Khổng cổ nghĩa là chủ trương bảo
tồn phong kiến nhà Chu, thì đã chui vào mồ
một trật với nhà Chu, chứ không có lý do
nào tồn tại trong cái chế độ "trung ương tập quyền" do
pháp gia thiết lập. Trái lại, chính trong
cái chế độ của pháp gia thiết lập thì pháp
gia lại không hoàn toàn nắm được guồng máy;
điều đó chứng tỏ rằng chủ trương nền móng của Nho
giáo không phải là chế độ phong kiến, nên
không có vấn đề cổ với kim vốn thuộc về giải pháp
mà phải đặt vấn đề đúng vào bình diện triết
lý của nó. Và khi làm như thế nghĩa
là đặt ở phạm vi triết lý chính trị thí
chúng ta có hai chủ trương đối chọi mà người đời
quen gọi là Vương đạo và Bá đạo. Nói
khác đi, nó là cái tinh thần là hiến
chương phổ biến chứ không phải chế độ. Cũng là chế độ
trung ương tập quyền nhưng người ta có thể thi hành
cách nhân đạo mềm dẻo hay một cách hà khắc
tàn bạo. Nho giáo chống với đường lối tàn bạo chứ
không chống chế độ trung ương tập quyền, và do đó
gọi là Vương đạo chống với Bá đạo. Chúng ta cần
khảo sát xem hai tinh thần đó khác nhau trong
những điểm nào. Nói vắn
tắt thì Vương đạo dùng đức trị, còn Bá đạo
dùng lực trị "dĩ lực phục nhơn giả Bá, dĩ đức phục nhơn
giả Vương". (Mạnh Tử, Công Tôn Sửu) Dùng võ
lực mà thu phục người là Bá đạo, dùng sức
mà thu phục người là Vương đạo. Chúng ta cần
xác định lập trường hai chủ trương đó bằng đưa ra những
điểm khác nhau theo năm nguyên tắc sau đây: Nguyên tắc thứ
nhất: Cử hiền Trước câu
hỏi quyền bính thuộc về ai? Người có tài đức hay
võ lực? Hoặc dòng tộc? Vương đạo chủ
trương thuộc người hiền đức: cắt đặt người hiền tài có
năng lực (cử hiền dữ năng,舉 賢 與 能 ). Khi Mặc Tử viết: "thượng hiền sự
năng vi chính" tôn trọng người có đức, dùng
người có tài năng làm chính sách
(chương Thượng hiền) là tỏ ra Mặc còn trung thành
với Khổng trong phương diện này. Chủ trương đó chống với
câu "bất thượng hiền sử dân bất tranh, 不 上 賢,使 民 不 爭" của
Lão Tử và cũng là đối lập với câu "kế thừa
huyết thống Thượng Đế" của quý tộc xây trên thần
thoại với chế độ kế tử "cha truyền con nối", kể cả trong hàng
quan lại. Đó là chủ trương "thiên hạ vi gia,
các thần kỳ thân, 天 下 為 家 各 神 其 親 ", lấy thiên hạ
làm của riêng gia đình ngược với câu Luận Ngữ
"phiếm ái chúng nhi thân nhân, 汎 愛 眾 , 而 親 仁
" rộng yêu mọi người nhưng thân hơn với người nhân
đức (L.N 16) sẽ được giảng diễn ra thành thuyết đại đồng
trình bày trong thiên Lễ vận. "Đại đạo chi
hành dã thiên hạ vi công… 大 道 之 行 也 天 下 為
公..." Nắm chủ trương
then chốt đó rồi ta dễ dàng hiểu những câu
khác. Chẳng hạn câu "thiên mệnh mỹ thường, 天 命 靡 常"
trong Kinh Thi, thiên Đại Nhã: thiên mệnh
không phải thường tồn; có đức thì còn, thất
đức thì hết, vì quyền bính thuộc người hiền đức
chứ không thuộc dòng tộc. Câu đó thường được
nhắc nhở luôn dưới nhiều hình thức. Mạnh Tử nói
"lập hiền vô phương" (IVb.20) cất đặt người hiền thì
không kể đến phương, tức nơi xuất xứ, cũng lại Mạnh Tử viết "tam
đại chi đắc thiên hạ giả dĩ nhân, kỳ thất thiên hạ
giả dĩ bất nhân, 三 代 之 得 天 下 也 以 仁 , 其 失 天 下 也 以 不 仁 ", ba đời
vua trước được thiên hạ vì có đức nhân,
mà mất thiên hạ vì không có đức
nhân: nhà Hạ lên với Vũ có nhân mất với
Kiệt bất nhân. Nhà Thương được thiên hạ với
Thành Thang có nhân mất thiên hạ với Văn
Võ, Châu Công nhân đức mất thiên hạ với
U, Lệ bất nhân (Mạnh VII 3). Cũng trong
dòng tư tưởng đó Khổng Tử đề cao sự quan trọng của chức
quan đại thần. Do đó ông đặt nổi việc vua Nghiêu sợ
ông Thuấn không ra giúp mình. Thuấn sợ
ông Cao Dao bất hợp tác (Mạnh III. 4). Trọng Cung vấn
chính, viết: "tiên hữu ty, xá tiểu quá, cử
hiền tài, 先 有 司 ,赦 小 過 ,舉 賢 才" (XIII. 2). Dưới con mắt Khổng
lúc nhà Châu thịnh đạt nhất là thời nhiếp
chính của ông Chu Công. Trong L.N XIV. 20 hỏi tại
sao Vệ Linh Công vô đạo mà nước còn? Được trả
lời là tại biết giao cho quan đại thần cai trị (Trọng
Thúc Ngữ giữ ngoại giao. Chúc Đà giữ nội vụ. Vương
Tôn Giả giữ bộ binh) vì thế mà nước còn.
Đó là chủ trương "quan cai trị, vua kiểm soát" tức
sự quan trọng đặt nơi quan chứ không nơi vua, quan phải trung với
đạo chứ không trung với cá nhân vua "dĩ đạo sự
quân, bất khả tắc chỉ, 以 道 事 君, 不 可 則 止 " (L.N. XI. 23) Chủ
trương đó sau này Mạnh Tử sẽ đặt nổi bằng câu:
"dân vi quý, xã tắc thứ chi, quân vi khinh, 民
為 貴 , 社 稷 次 之 , 君 為 輕 " hoặc câu của Tuân Tử "tru bạo quốc
chi quân nhược tru độc phu, 誅 暴 國 之 君 , 若 誅 獨 夫 " (Tuân Tử
chính luận), giết ông vua tàn bạo một nước cũng như
giết một kẻ độc phu (chứ chẳng thần thánh gì). Thật
là sớm sủa khi ta so sánh với sự kinh hoàng của
bao người Tây phương coi việc giết Louis XVI như một tội phạm sự
thánh. Chung quy đó là hậu quả của thuyết Kế hiền.
Nguyên tắc thứ
hai: Giáo chi Chủ trương cử
hiền tài như trên thật đáng là tinh thần
dân chủ, chỉ chưa có phổ thông đầu phiếu. Nhưng
bù lại ông đã có sự bình dân
hóa việc học, cố gắng giật cái độc quyền học thức ra khỏi
tay phái quyền quý để mở rộng ra trong dân
chúng không phân quý tiện: "hữu giáo
vô loài, 有 教 無 類 " (L.N. XV 38), trong việc giáo
hóa không có phân biệt giai cấp quý
tiện sang hèn. Với
chúng ta hiện nay, điều này quá tầm thường, nhưng
đời Khổng thì đó là một cuộc cách mạng tận
nền. Điều đó dễ hiểu khi ta nhận xét bên các
nước Âu Mỹ có tiếng là tiên tiến mà
mãi tới năm 1850 mới mở cửa giáo dục cho toàn
dân, còn trước kia dành riêng cho quý
tộc (C.C. 152). Như thế ta thấy việc của Khổng thật là
táo bạo sớm sủa và là một cú chí tử
đánh vào thể chế quyền quý thế tập: dưới con mắt
họ việc nhận người nghèo hèn, người thường dân
vào trường dạy cách cai trị là một việc phá
rối quốc gia. Đời ông việc giáo dục toàn dân
chưa được mở rộng, số người chống đối vì thế còn
ít, sau nhờ môn đệ hết sức nối chí là dạy
đời không biết mỏi mệt (hối nhân bất quyện) nên mới
gây ra nhiều phản đối ở phía pháp gia chủ trương
giữ độc quyền giáo dục cho quyền quý thế tập. Ở đây
nên ghi nhận câu trong Luận Ngữ "dân chỉ có
thể theo chứ không thể hiểu được", "dân khả sử do chi, bất
khả sử tri chi, 民 可 使 由 之 ,不 可 使 知 之 " (L.N. VII 10), coi như nghịch
với chủ trương trên đây. Nhưng nên chú
ý, nếu câu đó thật là của Khổng Tử
thì chúng ta không biết được trong trường hợp
nào ông đã nói câu đó và
nhân đấy giới hạn câu đó đến đâu (C. C 219).
Do đấy có thể dịch khác nhau, hoặc "dân chỉ cần sai
khiến không cần dạy bảo" như thường thấy. Dịch thế là đi
ngược với chủ trương "giáo chi" vừa nói trên. Hoặc
là "dân chỉ có thể theo mà không biết
được" thì dẫu ngày nay cũng không có
gì đáng trách cả, bởi nói về đạo lý
hay cả về chính trị thì làm sao chờ toàn
dân hiểu được. Ngay đời ta giáo dục phổ thông
đã tràn ngập mà đại chúng còn chưa
hiểu nổi chính trị và đạo lý phương chi đời ấy.
Nên thánh hiền theo nguyên lý tuỳ năng lực ai
có khiếu học hiểu thì đi học mà làm quan để
làm chính trị, còn nếu không đủ năng lực
thì nên làm theo. Nguyên tắc thứ
ba: Phú chi Muốn cho
dân nhờ giáo dục thì phải có của dư dả mới
tìm ra thì giờ nhàn rỗi đi học, nếu như bụng
đói thì hết có thể nói đến học với
hành, có hô hào cũng vô ích.
Vì thế tất cả sách Mạnh Tử phản chiếu mối lo âu
làm sao dân giàu "dân khả sử phú
dã" (Mạnh Tử VII. 23) Không
có sách nào trong triết học tha thiết về vấn đề
làm giàu dân bằng. Nên trước khi nói
"giáo chi" Khổng Tử đặt "phú chi". Điểm này cũng
phản lại pháp gia chủ trương làm giàu chúa
yếu dân (phú quốc cường binh, 富 國 強 强 兵). Khổng
trái lại làm giàu dân: bá tánh
bất túc quân thục dữ túc, 百 姓 不 足 , 君 孰 與 足
(L.N.XII.9.) Bá tánh không đủ ăn thì vua đủ
ăn với ai. Ông đã từ Nhiễm Hữu là người đi
sái tinh thần "phú chi" bằng câu "quân tử chu
cấp bất kế phú, 君 子 周 急 不 繼 富" (L.N. VI 3), người quân tử
thì cấp pháp cho khắp hết, chứ không gia thêm
cho người giàu. Kinh Dịch quẻ Ích "thoán viết:
Ích. Tổn thượng ích hạ, dân duyệt vô cương, 彖
曰 .益 .損 上 益 下 .民 說 無 疆 ", lời thoán nói rằng: quẻ
ích là lấy bớt của người trên mà thêm
cho người dưới thì dân ủng hộ vô bờ bến. Chính
Khổng Tử thường tuyên bố coi phú quý phi nghĩa như
phù vân, 不 義 而 富 且 貴 , 於 我 如 浮 雲 (L.N. VII 15). Muốn hiểu
câu này, nên chú trọng thời đó chưa
có kỹ nghệ, buôn bán chưa mở mang, người ta
không có cách làm giàu nào mau
chóng hơn là làm quan để bóc lột dân
chúng. Chính vì tình trạng đó
mà có câu "vi nhân bất phú, vi
phú bất nhân, 為 仁 不 富, 為 富 不 仁" (Mạnh Tử III, 3).
Vì thế Khổng nói: "nước vô đạo mà
giàu có phú quý là điều đáng
sỉ nhục, cũng như nước có đạo mà để mình
nghèo nàn bần tiện cũng là đáng sỉ hổ" 邦 有
道 , 貧 且 賤 焉 , 恥 也 ; 邦 無 道 , 富 且 貴 焉 , 恥 也 (L.N. VIII 14). Khi
Quý Khương Tử ngỏ ý sợ dân ăn trộm, Khổng Tử liền
trả lời thẳng: nếu ông trút bỏ được lòng tham,
thì có thưởng dân cũng không thèm ăn
trộm (cẩu tử chi bất dục, tuy thưởng chi bất thiết, 苟 子 之 不 欲, 雖 賞 之 不
竊, L.N. XIII 17). Điều lo
âu của ông vẫn là "bất hoạn quả nhi hoạn bất
quân,不 患 寡 而 患 不 均" (L.N. XVI. 1), không lo ít của
cho bằng lo của chia không đều, vì nó dễ chạy
xô vào tay mấy người có quyền thế. Nguyên
tắc quân phân tài sản đó sau này được
Mạnh Tử phát huy rộng trong chủ trương "minh quân chế
dân chi sản,明 君 制 民 之 產 " (I. 6), bậc minh quân phải lo
phân chia tài sản đều cho dân (đọc thêm Mạnh
1, 12, 36, 38). Và nhân đấy ông đề cao phép
tỉnh điển cũng như Nho giáo chống đối việc bán đất
mà sau này đời nhà Tần Thương Ưởng đã cho
phép (Zenker 193, C.A Maspéro 314). Cho bán đất
tức coi đất là của riêng (thiên hạ vi gia) vì
nếu coi là của công thì phải để chung rồi cứ thời
hạn mà phân phát. "Quân cấp" đời Lê Lợi
cũng như phép hạn chế ruộng không được giữ quá 10
mẫu đời Trần bên ta là hậu quả của thuyết quân
phân này. Gọi là công điền hay là đất
của vua chỉ khác danh từ mà thôi. Nhiều người tỏ
ý mỉa mai những luật cấm không ai được tậu đất làm
của tư kẻo mất quân bình. Mà không thấy rằng
từ khi bãi bỏ thể chế đó, cho phép mua bán
đất (đời Tần) thì sự chênh lệch trở thành
quá đáng: đưa đại chúng vào cảnh nông
nô cơ cực làm cớ cho những cuộc nổi loạn của Vương
Mãn, An Lộc Sơn. Ở những kỳ đó thì đất vào
tay những đại điền chủ, ruộng công chỉ còn lối 5% (xem
chẳng hạn Histoire de la Chine de Réné Grousset: 77,114,
208 và 353). Đây
là một thí dụ cụ thể chứng tỏ khi một thể chế được bảo
trợ là vì nó gây điều kiện thuận lợi cho chủ
trương Vương đạo. Tuyên bố mọi đất của vua tức là một lối
thi hành câu "thiên hạ vi công", nhờ đó
"người 50 tuổi có lụa mặc, 70 tuổi có thịt mà ăn"
(Mạnh Tử VII. 22). Những cải cách điền địa hiện nay, những khẩu
hiệu "đất đai thuộc người cày cấy"… tuy khác thể chế
mà tinh thần đều là "hoạn bất quân" của người xưa
vậy. Không nên câu chấp danh từ để nhắm mắt trước
thực tại. Nguyên tắc thứ
bốn: Lễ trị Con người hễ
đã giàu có thì sinh lễ nghĩa, nhân vị
cao lên. Bởi vậy tiếp theo chương trình "giao chi,
phú chi", ông chủ trương lễ trị. "Đạo chi dĩ chính,
tề chi dĩ hình, dân miễn nhi vô sỉ. Đao chi dĩ đức,
tề chi dĩ lễ, hữu sỉ thả cách, 道 之 以 政, 齊 之 以 刑, 民 免 而 無 恥; 道 之
以 德, 齊 之 以 禮, 有 恥 且 格. ", "dùng chính trị hình
luật mà cai trị thì dân mới biết có
tránh phạm luật, dùng đạo đức và lễ nhạc mà
cai trị thì dân mới trau dồi nhân cách". Việc lễ trị tuy
phe đối lập có chủ trương nhưng muốn dành riêng cho
phái quyền quý, còn thường dân thì
trị bằng luật (Lễ bất hạ thứ dân, hình bất thượng đại phu,
禮 不 下 次 民 , 刑 不 上 大 夫) (Couvreur 153). Tuy câu này
có trong Lễ ký, nhưng chắc do pháp gia đưa
vào, vì nó trái ngược với chủ trương
không phân biệt quý tiện của Khổng Tử. "Quân
tử vô chúng quả, vô tiểu đại, 君 子 無 眾 寡 , 無 小 大 "
(L.N. XX 20), người quân tử không phân biệt ít
hay đông, lớn hay nhỏ; như không phân biệt Kinh
Thượng, ở đâu cũng phải cư xử cung kính, trung tín.
"Cư xử cung, chấp sự kính. Dữ nhân trung. Tuy chi Di Địch,
bất khả khí dã, 居 處 恭, 執 事 敬, 與 人 忠, 雖 之 夷 狄, 不 可 棄 也 "
(L.N XIII 19), cư xử phải tự trọng, khi thi hành việc (với người
khác) phải kính tôn. Đối với tha nhân phải
trung tín. Dầu có sang miền Di, Địch (mường rợ) cũng
không thể bỏ được những nguyên tắc đó. (Không
được phân biệt Kinh với Thượng trong lối cư xử. Ở đâu cũng
là người cả.) Trước kia người
ta dành riêng cho quý tộc được quyền đặt tên
tự, mãi sau này mới mở rộng tới toàn dân.
Đó là việc làm của Thương Ưởng nhưng người cổ động
đầu tiên là Khổng Tử (C.A Maspéro p.95). Và
lễ gia tiên, ban đầu cũng dành cho quý tộc, về sau
nhờ Khổng Tử cổ động nên đã mở rộng tới toàn
dân không phân biệt sang hèn (R.Grousser,
Histoire de la Chine p.15). Như thế không thể bảo Khổng Tử
phân biệt quý tiện, mà chính ông
là người muốn đại chúng hóa lối cai trị bằng lễ.
Bởi nó là lối cai trị trung dung giữa hai thái cực
là hình pháp và thả lỏng, và
là lối xứng hợp quan niệm con người cao cả hơn hết như sẽ
bàn về sau. Nguyên tắc thứ
năm: Tín Lễ trị
là một lối cai trị tôn trọng người dân, coi người
dân như người cộng tác với chính quyền. Đã
nói đến cộng tác thì chữ Tín là cần.
"Thượng háo Tín tắc dân mạc cảm bất dụng
tình, 上 好 信 則 民 莫 敢 不 用 情, XIII". Nếu người trên
thành tín thì không ai không hết
tình. Đã tín thì phải coi ý
dân làm trọng. Bên phía pháp trị chỉ
coi trọng thần lực và dùng quyền uy vũ lực, ít
chú ý đến lòng dân. Bên lễ trị
thì chủ trương lấy tín làm đầu. "Kính ư
dân hưng, kính ư thần vong, 敬 於 民 興, 敬 於 神 忘" (Tả truyện).
Kính nể dân thì hưng thịnh, đi cầu kính quỷ
thần thì sẽ bị diệt vong và "đắc thiên hạ hữu đạo:
đắc kỳ dân tư đắc thiên hạ hỹ, 得 天 下 有 道: 得 其 民, 斯 得 天 下 矣
" (Mạnh Tử IV.9), có một đường lối để được thiên hạ,
đó là được lòng dân và "đắc hồ
khâu dân nhi vi thiên tử, 得 乎 丘 民 而 為 天 子 " (Mạnh Tử
VIIb. 14), được lòng dân ở đồng bái là
làm được thiên tử (nên đọc cả câu trong
sách). Trong ba vấn đề "túc thực, túc binh,
dân tín nhi dĩ hỉ" thì ông cho tín
là quan trọng hơn cả bởi vì "dân vô
tín bất lập, 民 無 信 不 立" (L.N XII.7). Dân không
tín nhiệm chính quyền hết đứng nổi. Do đó chủ
trương "hữu nhơn tắc hữu địa", có dân tự nhiên
có đất (ĐH. 10) để trả lời vào mặt mấy ông cai trị
chuyên lo mở rộng đất đai, tích chứa giàu sang
mà không chú ý được lòng dân.
Ông ghét nói đến chiến tranh binh lực. "Ký
bất xưng kỳ lực, xưng kỳ đức dã, 驥 不 稱 其 力 , 稱 其 德 也" (L.N XIV.
35), con ngựa ký được xưng tụng không vì có
sức nhưng vì đức. Sau này Mạnh Tử đã phát
huy chủ trương chống bạo lực ra rộng rãi "người thiện chiến
thì tội chém chưa đủ đền…" và nhân đó
gây ra trong văn hóa Viễn Đông một bầu không
khí trọng văn khinh võ đặc biệt khác hẳn ở
xã hội chẳng hạn của Platon luôn luôn nói đến
chiến tranh binh lực." Đó
là 5 điểm mà chúng ta có thể nói
là căn bản. Hai điểm lớn nhất là cử hiền và
tín (ý dân), ba điểm kia là giáo,
phú, lễ là những điều kiện thiết yếu cho hai khoản
trên khỏi thành mây gió. Đem 5 nguyên
lý đó làm tiêu chuẩn để nhận định bản chất
một chính thể, chúng ta có thể biết là
dân chủ hay độc tài. Còn nhãn hiệu bên
ngoài là của nhà Chu hay gọi là Quân
chủ hay Cộng hòa hoặc là ý hướng thành thực
muốn mưu hạnh phúc cho dân… không thay đổi nổi bản
chất. Một chính thể lo cho tài sản phân chia
không quá chênh lệch, dân có tự do tổ
chức đời sống và tự do tư tưởng, tự do tín ngưỡng
thì dù có gọi bằng tên gì đi nữa cũng
là dân chủ là Vương đạo rồi và người đời
nào cũng khát mong những cái đó.
Chúng ta không nên tố cáo là nệ cổ khi
những điều đó đã được thi hành ở đời Nghiêu
Thuấn hay nhà Chu. Người học triết phải biết vượt qua danh từ để
nhận ra thực chất mới là đứng trong cương vị triết, đừng để
mình bị giăng trói trong danh từ: "từ đạt nhi dĩ hỹ, 辭 達
而 已 矣 " (L.N. XV 40). Lời chẳng qua để diễn tả mà thôi:
"res et non verba", quan trọng là nội dung chứ không phải
lời nói. Tuy nhiên
để cho sự tham khảo được rộng rãi, chúng ta thử đem đối
chiếu với nền dân chủ ngày nay để rọi thêm ít
tia sáng. Tinh thần đó đã được ông Charles
Merriam quy ra 5 điểm như sau: 1-
Nhân phẩm con người được bênh vực và được
dùng văn học mà cải hóa trên nền tảng huynh
đệ, chứ không trên nền tảng nào khác
(thí dụ thần thoại) và sự xóa bỏ những đặc
ân đặt nền trên những sự cách biệt giữa con người
đã được phóng đại ra và bảo vệ cách
kiên cố (sinh ra bởi miệtn Brahma thí dụ…) 2-
Tin tưởng vào sự cố gắng có thể đi tới hoàn bị
thêm mãi mãi của tính đức con người. 3-
Lấy ích lợi của đại chúng làm ích lợi của
đoàn thể; phân phát mau lẹ và công
bằng mà không đến nỗi trì diên hay
chênh lệch quá đáng. 4-
Phải lấy ý dân làm nền tảng trong những quyết định
quan trọng về những vấn đề xã hội, chính trị và
phải tìm giải pháp để dân có thể bày
tỏ được nguyện vọng của mình (như treo trống đời xưa: ai oan
thì đánh trống kêu oan). 5-
Tin tưởng vào sự có thể cải thiện được tình trạng
xã hội bằng thuận tình hơn bằng võ lực. (The New
Democracy and the new Despotism N.Y 1939) Giáo sư
Creel cho rằng Khổng Tử đã áp dụng được các khoản
1, 2, 3, 5, trừ khoản 4, và ông thêm rằng "vì
đấy là một điều chưa có dân nào lúc
đó dám nghĩ tới. Ngay đến năm 1791 mà hiến chương
của nước Pháp đưa ra chính giữa bầu khí
Cách mạng cũng còn phải từ chối việc phổ thông đầu
phiếu, bởi vì đại đa số dân chưa biết chữ, mà việc
bỏ phiếu đòi một mức độ huấn luyện từng trải." (C.C 165) Cho
nên ông kết luận tuy chưa có thể chế dân chủ
mà sự cải tổ của Khổng Tử đã mang trong tự thân
tinh thần dân chủ. Thế mà tinh thần còn quan trọng
hơn thể chế. Vì nếu chỉ có thể chế suông mà
thiếu tinh thần thì lúc đó người ta thường đoạn
tuyệt với lý tưởng với đạo đức để dồn hết tâm lực
vào những đắc thắng trực tiếp, những cái lợi nhất thời
mà thôi. Có thể ghi ở đây ý nghĩ
Keyserling cho rằng khoản 4 được thực thi bằng đầu phiếu trường ốc
(Serutin d'école nghĩa là khoa cử). Như thế ta nhận
ra Khổng Tử chẳng những không nệ cổ mà còn
là một nhà cách mạng. Có người cho rằng
Khổng học chỉ cốt để duy trì một chế độ có sẵn, chứ
không đủ khả năng để gây một cuộc cách mạng
(Journal, Keyserling t.II 104). Vậy thì
Khổng giáo có nệ cổ chăng? Để tóm
tắt vấn đề ta có thể nói như sau: không và
có! Không khi
hiểu cổ là những định chế, những giải pháp thuộc thời
phong kiến; nhưng nếu hiểu về tinh thần Vương đạo thì có
như Khổng Tử tuyên bố "Háo cổ mẫn dĩ cầu chi giả
dã, 好 古 , 敏 以 求 之 者 也 , VII.19", tôi mến cổ và
siêng năng tìm cầu được như vậy. Nhưng cái
ông tìm cầu lại chẳng phải là cái chi
khác hơn là Vương đạo. Khổng ca ngợi Thuấn rằng: "nguy
nguy hồ! Thuấn Vũ chi hữu thiên hạ dã, nhi bất dự
yên, 巍 巍 乎 ! 舜 禹 之 有 天 下 也 , 而 不 與 焉 , VIII.18", cao cả thay
Thuấn Vũ nắm giữ thiên hạ mà lòng không tham
làm dính bén. Hoặc khen ông Vũ: "ti cung
thất nhi tận lực hồ câu húc, 卑 宮 室 , 而 盡 力 乎 溝 洫 " (L.N.
VII 21), cung thất của mình thì bé nhưng
ngòi lạch trong nước thì tận lực sửa sang. Ngày
nay chúng ta vẫn cầu mong có được những ông thủ
tướng, tổng trưởng, giám đốc… nắm quyền điều khiển việc chung
mà lòng không dính bén! Không
phải hễ người đời Hạ Thương Châu cầu mong vua quan chú
trọng đến ý dân, trong nhân phẩm con người…
mà ngày nay ai nói đến ý dân
và nhân phẩm con người đều bị coi là cổ hủ được.
Cho nên sự phân biệt hai bình diện: nguyên
lý (thiên viên) và giải pháp (địa
phương) rất quan trọng. Như thế tưởng là tạm giải đáp xong vấn đề nệ cổ trong Nho giáo. Sau đây là mấy vấn đề phụ thuộc.
4.
Một chút
chiến thuật Câu hỏi
đầu tiên là tại sao một cuộc cách mạng tận nền
móng như thế mà không trình bày kiểu
mới mẻ, lại cứ đưa những người cổ đại xa xôi: Nghiêu,
Thuấn, Văn, Vũ mà giới thiệu; sao không nói
rõ chủ trương mình là Vương đạo, là một
cuộc "cách mạng" có tránh khỏi mang tiếng cổ
chăng? Thưa
không nên làm thế vì những lý do sau
đây: 1) Hoàn
cảnh trong lúc đó không cho phép làm
khác. Vì chủ trương Nho giáo lúc đó
là quá táo bạo, bởi coi thường thế tập,
tuyên dương tinh thần dân chủ. Nói toạc ra sẽ bị
phiền hà rất nhiều. Nay muốn trình bày khéo
léo ông chỉ chọn trong các vua đã qua những
người hợp cho chủ trương của mình rồi tô điểm lên.
Chủ trương đó là đánh đổ chế độ kế tử để lập ra
chế độ kế hiền, đặng dễ tìm ra thánh vương bất kỳ bởi
đâu mà đến, không cứ phải dòng tộc sang. Cần
hiền đức không cần thế tập dòng họ. Đó là
một cuộc cách mạng tận nền, vì thế nếu vận động thiếu
khôn khéo rất dễ bị vua quan lúc ấy bịt miệng, cho
là lập dị tai hại. Cái nguy chống đối do nhà quyền
quý còn lớn gấp mấy lần sự đòi hỏi đổi mới.
Lúc đó cái mốt chính là theo cổ.
Đã tuyên bố là theo cổ mà Khổng Tử
còn bị tố cáo là làm hư thanh niên
và bị mấy lần nguy đến tính mạng vì phái
quyền quý thế tập: hai lần bị vây ở đất Bồ, đất
Khuôn, một lần bị tuyệt lương ở đất Trần, một lần bị ám
sát hụt do Hoàn Khôi. Cho nên Khang Hữu Vi
gọi đó là "thác cổ cải chế". Đề nghị một cuộc cải
đổi chế độ theo với tinh thần tổ tiên giả thiết đã
có thực sự xưa rồi. 2) Đứng về
phương diện giáo dục, cũng lợi hơn. Có hai lối
giáo dục: một là đặt ra nguyên tắc trừu tượng rồi
từ đấy rút ra những câu kết luận như Kant hay Spinoza
đã làm. Nếu theo lối đó Khổng sẽ nói
nguyên tắc thí dụ "cần phải chọn người hiền, còn
thế tập là cổ hủ cần phải khai trừ" v.v… Nói thế
không những đã làm mếch lòng bọn quyền
quý đương thời mà xét về lối giáo khoa cũng
không có lợi bằng vì nó quá trừu
tượng không hợp cho dân Viễn Đông lúc
đó hoàn toàn nông nghiệp: cần phương
pháp khác cụ thể hơn tức là dạy bằng gương truyện.
Khổng Tử đi lối thứ hai này. Ông đã đưa vua
Nghiêu vua Thuấn ra và mặc cho các đức tính
mình mong hiện thực, nói mãi cho quen tai đến
lúc nhắc tới Nghiêu Thuấn là quần chúng
hình dung ngay ra một ông vua có hiếu thảo
đã nhường ngôi cho người tài đức… Thuấn tự nơi
bình dân mà lên làm vua, lúc
xong trở lại bình dân như trước. Nghiêu Thuấn đều
hết lòng lo cho công ích… Hơn thế nữa
Nghiêu Thuấn đều do Di Địch (Mạnh Ivb.1) mà xuất
thân, thì lại càng nói lên được chủ
trương huynh đệ đại đồng bất phân người Kinh người Thượng: ai
có tài có đức đều được làm thiên tử,
dẫu là Di Địch. Đó
là một lối giáo dục có thể đời ta không
thích ứng, nhưng cứ sự thì nó đã tỏ ra hiệu
lực gấp mấy những nguyên tắc trừu tượng của Aristote hay Platon.
W.Durant cho rằng quyển Vie des hommes illustrés của Plutarque
làm ơn ích cho đời nổi xa hơn mấy sách triết
lý trừu tượng rất nhiều, cũng theo lối gương truyện cụ thể như
thế. 3) Đứng về
phương diện tâm lý, nó lại có sức hun
đúc tâm tình là điều Nho giáo
chú ý đặc biệt coi như động cơ mạnh nhất thúc đẩy
thực hành, điều đó đã được tâm lý
chứng minh. Nay nếu
nói đến những nước không tưởng như kiểu Platon hay
Fénélon trong "Télémaque phiêu lưu"
thì kém hẳn lòng sùng mộ đối với tổ
tiên của đất nước. Trái lại khi dùng gương lịch sử
thì lúc bấy giờ không còn phải là
nói truyện gì xa lạ mà chính là
nói truyện tổ tiên và nói đến những việc xảy
ra ngay trên mảnh đất nước nhà có quan thiết tới
mình. Vậy thì dùng kiểu không tưởng chỉ
là chuyện bất đắc dĩ, không tìm được dữ kiện trong
lịch sử mới phải chịu xài đỡ, hoặc là khi đề nghị một lối
chính trị quá xuất thời gian mới phải chịu dùng.
Nếu tìm ra được dấu vết lịch sử dầu ít mà tô
điểm ra vẫn có giá trị hơn là tưởng tượng
suông. Và như vậy có thể đi đến cái
lý sâu thẳm giáp với siêu hình gọi
là nhu yếu thần thoại, một đợt sâu xa nhất, nên cũng
cần phải bàn luận kỹ hơn. 4) Nhu yếu thần
thoại: giai thoại, truyền kỳ vô số… tất cả chứng tỏ một nhu yếu
của con người muốn phóng đại đức tính những người
mình tôn thờ. "Người trông xa ma trông gần".
Nếu ta có cách xem gần được những bậc vĩ nhân, hiền
thánh đang được suy tôn thì hầu chắc các
ngài khó có thể nói được một phần ba đức
tính mà ta thích gán cho các
ngài. (Đó có lẽ là ý nghĩa câu
chuyện của Trương Chi: chỉ nên nghe tiếng mà chớ có
xem mặt kẻo vỡ mộng.) Người thế kỷ 19
quá duy trí và đầy óc kỹ thuật đã
đập pháp hết mọi truyền kỳ, lột trần mọi thần thoại. Đấy
là một việc làm vô ý thức rất hại mà
Nietzsche đã vạch ra ác quả. Khổng Tử tuy
có lui khỏi thần thoại, nhưng ông không cực lực
đã phá thần thoại vì ông nhận thức được nhu
cầu thần thoại hóa của con người, nên ông lẳng lặng
đặt lý tưởng trên "nhân thoại"; tức là
lý tưởng hóa ngay những nhân vật "lịch sử". Từ đấy
lý tưởng của con người được đặt vào tầm kích con
người, và nhân đó lý tưởng vẫn còn ở
cùng một trình độ của con người chúng ta (toujours
au niveau humain) như Mạnh Tử nói "Thuấn hà nhơn, dư
hà nhơn giả? Hữu vi giả, diệc nhược thị. Nhân giai khả dĩ
vi Nghiêu Thuấn. Nghiêu Thuấn chi đạo: hiếu đễ nhi dĩ hỹ"
(Mạnh Tử III.1). Thuấn là ai? Ta là ai? Chẳng qua tại
làm việc mà được như thế. Ai ai hễ có làm,
thì là có thể trở nên Nghiêu Thuấn.
Con đường Nghiêu Thuấn có xa xôi chi đâu,
chẳng qua là hiếu đễ. Do đó
có thể nói ở điểm này Nho giáo vượt cả bạn
đồng phương tức Lão, Thích. Nơi những đạo này ta
còn gặp nhiều dị đoan ở cấp dưới, chứ bên Nho thì
tuyệt nhiên vắng bóng thần thoại. Vì lý do
đó mà nhiều học giả gọi Nho là một nhân bản
tinh tuyền (purifié d'éléments mythiques)
và toàn diện (đáp ứng được cả nhu cầu tình
cảm và thần thoại hóa). 5. Vấn đề
Nghiêu Thuấn Nhưng có
thật hay không chuyện Nghiêu Thuấn như ghi trong
sách của Nho giáo? Nhiều người trước đây cho rằng
Nghiêu Thuấn là chuyện bịa đặt, nên kể là
vô nền móng luôn cả Nho giáo, coi như
là những điều bịa đặt không đáng bàn đến.
Đó là một thái độ quá khích
không đứng vững được. Giữa một bên bảo có
Nghiêu Thuấn thật như y trong sách và một bên
bảo hoàn toàn bịa đặt, sao ta không tìm ra
một lập trường ở giữa cho rằng có ít chút sự thực
nhưng đã được thêu dệt khá nhiều. Trước hết người
ta cho rằng có yếu tố lịch sử… Không lẽ
trong hai ba trăm ông vua cổ đại Trung Hoa lại không
có được năm mười ông vua tốt hay sao. Vì thế ta cho
rằng có. Tuy nhiên đã bị lý tưởng hóa
nhiều, nhưng điều đó không quan trọng bậc nhất. Ta
nên nhận xét điểm này: kinh Thư không phải
là một sách lịch sử nhưng là một kinh, nghĩa
là một sách triết lý. Chỉ cần đọc qua chương mục
ta thấy liền điều đó: Nghiêu điển, Thuấn điển, Đại Vũ
mô, Ca Dao mô, Cam thệ và then chốt là Hồng
phạm… toàn những chữ về gương mẫu như điển mô hay
là lời giảng huấn như thệ, cáo, lệnh… Để cho lời huấn đức
khỏi trừu tượng thường chúng được lồng vào điển
tích. Trong mấy trăm ông vua, đưa ra có năm mười
ông thì đủ biết kinh thư không phải là lịch
sử "tận tín ư thư, bất như vô thư,盡 信 於 書 不 如 無 書". Mạnh
Tử nhấn: tin cả vào kinh thư (như sách sử) thì
thà đừng có kinh thư còn hơn. Như thế chúng
ta phải hiểu rằng việc có hay chăng Nghiêu Thuấn chưa đủ
quan trọng để chối bỏ hay phi bác được cả một nền triết thuyết
lớn lao đặt trọng tâm nơi nhân sinh, và chúng
ta nên nhớ đây là cương vị của triết lý
thì chủ trương mới là then chốt còn dữ kiện lịch
sử thì đóng một vai trang sức tuỳ phụ (lịch sử chỉ
là chính trong phạm vi của nó) không
nên căn cứ trên dữ kiện lịch sử để định giá trị một
triết thuyết vốn phải tìm trong cái hồn của nó,
tức là cái sức mạnh lôi cuốn các năng lực
của con người quy tụ vào một đích điểm nào
đó. Sức lôi cuốn càng mãnh liệt thì
triết lý càng có giá trị, có một hai
số dữ kiện lịch sử không xác đáng cũng không
đến nỗi làm hư cả một nền triết: histoire fausse mais
légende vraie là thế. Biết bao nền triết thuyết có
đủ mọi dữ kiện lịch sử "xác thiết" với cả một hệ thống rất khoa
học, vậy mà vẫn chết ngay từ trong nôi, vì
tác giả đặt trọng tâm không đúng chỗ. Phải hiểu như
thế để đừng quá quan trọng hóa việc có hay
không Nghiêu Thuấn. Điều phải xét là
chính cái chủ trương mà Nghiêu Thuấn chỉ
là mô thức: chủ trương đó là truyền hiền,
là Vương đạo v.v… Ta nên bênh vực chủ trương
nào: truyền tử hay truyền hiền, Vương đạo hay Bá đạo? Nếu
theo ngôn từ đời nay là theo quân chủ cha truyền con
nối hay là theo dân chủ trao quyền cho người đức độ
tài ba? Vấn đề then chốt nằm ở chỗ đó, chữ không ở
chỗ có hay không Nghiêu Thuấn. Muốn biết chuyện
đó xin hãy ra khỏi kinh, nghĩa là hãy ra
khỏi phạm vi triết để đi vào sử học, khảo cổ. Nói thế
không có ý bảo rằng triết gia được bóp
méo dữ kiện lịch sử theo ý muốn của mình. Chỉ
có ý nhấn mạnh rằng triết lý phải đặt nền tảng nơi
tâm lý sâu thẳm con người, ngoài ra nếu thấy
cần dùng lịch sử để chứng minh thì phải cố gắng
"khách quan". Vì tuy nó là tuỳ phụ nhưng
dùng sai đi cũng có làm giảm sút thế
giá của triết gia đi phần nào. Vì thế
ta cũng cần phải xét xem có Nghiêu Thuấn hay chăng.
Theo học giả Tsui Chi (p.9) thì không thể chứng minh
cách khoa học để chối hay quyết việc có Nghiêu
Thuấn. Vì thế chúng ta có thể theo lưu truyền cho
rằng việc đó có nhưng theo với trạng thái
xã hội lúc ấy khác xa với xã hội
ngày nay. Ta có thể ước chừng đại cương qua mớ sử
sách cổ như sau: Theo Lã
Thị Xuân Thu thì ở các xã hội thái cổ
con người còn ở từng bày chưa có quần áo.
Con chỉ biết có mẹ mà không biết cha. Vì thế
có truyền tụng các bà mẹ của những bậc vĩ
nhân hầu hết đều là "đồng trinh" cả. Sách
Công Dương viết: thánh nhân không có
cha vì cảm với Trời mà sanh ra (nhân đó
có thuyết kế thừa huyết thống, Thượng Đế). Mẹ ông
Nghiêu ông Thuấn hợp với rồng đỏ mà đẻ, bà
Hoa Lư giẫm phải dấu chân người to lớn ở Lôi Trạch rồi sinh
ra Phục Hy, bà Khương Nguyên giẫm vào vết
chân thần thấy động, bụng lớn dần có mang và đẻ ra
ông Hậu Tắc (Kinh Thi: sinh dân). Những truyền
thuyết này chỉ thỉ một trạng thái cộng đồng nguyên
thủy chưa có tư hữu tài sản hay vợ con mà sau
này các sử gia gọi là chế độ mẫu hệ: nhân
đó việc "truyền hiền" không phải khó khăn họa hiếm
như sau này khi có tục "kế tử" như tự đời ông Vũ…
nghĩa là từ lúc có quy chế hôn phối…
và trạng thái "phụ hệ", tức là đã đạt trạng
thái có cheo cưới để hạn chế tự do nguyên thủy. Nghiêu
Thuấn như vậy là ở vào trạng thái mẫu hệ,
nên việc truyền hiền rất có thể xẩy ra xét về đại
cương. Truyền hiền thì có hiền. Hiền ấy là con của
ông. Thời đó chưa đặt ra hôn lễ thì con
gái nào chả có thể là vợ? Còn
triết gia có thể tô tạo để hình ảnh Nghiêu
Thuấn trở nên linh hoạt hơn hầu đả phá chế độ hiện
hành là kế thừa huyết thống dựa trên thần thoại.
Nhân đó học giả Creel cho rằng không phải Khổng Tử
mượn của Nghiêu Thuấn nhưng chính là Nghiêu
Thuấn Văn Vũ đã được Khổng cho mượn khá nhiều. Điều
đó cũng hợp với ý kiến của Tể Ngã, nghĩ rằng Khổng
Tử giỏi hơn Nghiêu Thuấn (Mạnh I, 20 Dĩ dư quan ư Phu tử, hiền ư
Nghiêu Thuấn) hay là ý kiến của Mạnh Tử khi quả
quyết: "tự hữu sinh dân dĩ lai, vị hữu Khổng tử, 自 有 生 民 以 來, 未 有
孔 子" (Mạnh 20), từ ngày có người về sau chưa ai giỏi hơn
Khổng Tử… theo ý kiến này thì việc nói
Khổng Tử cho Nghiêu Thuấn mượn cũng có lý do. Tuy
nhiên không nên nghĩ rằng chỉ một mình Khổng
Tử phát minh ra được tất cả truyền thống tâm linh y như
trước không có gì; trái lại trước cả
Nghiêu Thuấn vẫn có một nền truyền thống nhân sinh,
nhưng lâu mới có một hiền triết nhận thức lại được
và làm rung động trước lương tâm người đồng thời
những chân lý đã bị cát bụi thời gian che
khuất. Trong các hiền triết đó ta có thể coi Khổng
Tử là một đại diện ưu tú nhất, nên nói Khổng
Tử cho Nghiêu Thuấn mượn không đến nỗi quan trọng như người
ta nghĩ ở thế kỷ 19 thời duy sử (historicisme). Ở đây
tưởng cũng là chỗ nên ghi chú nhận xét sau
thuộc về bí thuật thành công vừa nói
trên: Lý tưởng
càng đặt gần con người thì càng ở trình độ
con người và càng gặp nhiều may mắn hiện thực được. Tất
cả hiền triết Viễn Đông đều thành đạt ở điểm nhất, nghĩa
là đã dứt khoát được với thần thoại và đặt
nền nơi nhân thoại, do đó hầu hết đã là
những triết lý nhân sinh, nghĩa là có hiện
thực đi kèm, chỉ khác nhau ở chỗ sâu nông tuỳ
theo thời gian nơi họ khai quật ra mô thức cho lý tưởng
của họ. Và chúng ta nhận ra rằng những người tố
cáo Khổng Tử là nệ cổ lại dựa vào những thế
giá còn cổ hơn nhiều. Sau đây
là bảng thứ tự: 1) Trước hết
là Hứa Hành đặt lý tưởng mãi đời Thần
Nông. 2) Rồi tới
Lão Trang cũng như Âm Dương gia đều đặt ở thời
Hoàng Đế, tức là cách xa chúng ta từ 5, 6
ngàn năm trở lên. 3) Sau đến Mặc
Địch đặt lý tưởng nơi Đại Vũ (tiên cổ) cách ta lối
4, 5 ngàn năm. 4) Khổng Tử bỏ
hẳn Ngũ đế để bắt đầu từ Nghiêu Thuấn và nhà
Châu cách ngài lối 2 ngàn năm cho tới 4, 5
trăm năm như vậy là mới nhất. Về sau Mạnh Tử đại diện
khía cạnh lý tưởng của Nho giáo nên nhấn
mạnh Nghiêu Thuấn, tức là Tiên Vương. Còn
Tuân Tử đại diện khía cạnh thực tế chống lại tiên
vương, đem ra Pháp hậu vương tức là các bậc khai
sáng nhà Châu. Ta có thể căn cứ vào
bảng trên đây để biết mức độ thực tiễn trong lý
tưởng của mỗi môn phái. Nho giáo chính
vì đặt lý tưởng gần nhất nên thực tiễn hơn
Lão Trang và vì vậy nắm được guồng máy
chính trị tại Viễn Đông, đang khi Lão Trang chỉ
là một đạo thanh đàm. Còn những Mặc Địch, Hứa
Hành, phương chi những người đặt lý tưởng ngoài
cõi người ta kiểu nước Cộng Hoà của Platon hay
Télémarque thì sử xanh xếp vào loại
không tưởng. Điều nhận
xét thứ hai là Khổng đã tỏ ra thận trọng nhất
trong việc dùng các dữ kiện lịch sử khi đặt mô thức
ở thời gần nhất như vừa nói. Đến lúc đi vào Kinh
Xuân Thu có nhiều sử tính hơn thì ông
chỉ khởi đầu từ năm 722 mà không đi lên cao hơn nữa.
Nhiều học giả đã ca ngợi óc khoa học của ông biết
giữ khuyết nghi (bỏ trống chỗ còn nghi ngờ). Nên sau
này làm nảy ra những sử gia có óc khoa học
sớm được vài chục thế kỷ. Âu Châu mới thiết lập được
sử "khách quan" từ thế kỷ 19. Còn trước kia toàn
là một lối văn chương (genre littéraire) kể cả Thucydide,
Tacite, Hérodote v.v… (xem Introduction aux sciences humaines
của Gusdorf nói rõ từ trang 211-330. Coi thêm
Histoire de la Chine, Eberhard p.114). Đang khi đó bên
này đã có một Tư Mã Thiên, mà
Chavannes phải chịu kể là nhất trên thế giới về phương
diện khách quan khoa học (xem Introduction Mémoires
Historiques) và M.Oursel viết như sau: "La Chine offre à
notre désir d'information de presti-gieuses annales d'une
objectivité hors de pair que pourrait lui jalouser notre propre
culture" (Philosophie comparée p.19). Ngoài ra
còn hơn hẳn về quan niệm sử vì không hạn cục
vào việc vua chúa triều đại, hay chiến cuộc, nhưng
chú trọng đến hết các ngành từ bói
toán đến "hóa thực" cho đến tư tưởng văn chương người
hiền đức, cả đến đứa thích khách cũng có truyện.
Kinh tế, tài chính… không sót thứ chi y như
một lịch sử thời nay. Nên hầu hết học giả đều ca ngợi, ông
Hughes cho là một "phép lạ". "It was a miracle of reason…
This, one of the greatest literary achievements of all time and all
cultures, was conceived and carried out in the second half of the
second century B.C" (Chinise Philosophy in classical times. Oxford
University p.32). (Đây có thể là một đề tài
luận án rất hay, nên tôi cho hơi nhiều xuất xứ) Kim cổ trở
thành vấn đề là vì nó từ chối những giải
quyết "độc tài" kiểu duy: duy cổ đã hỏng mà duy
kim cũng nguy. Học cổ để rồi chỉ biết mửa ra cổ, thì đó
là cổ hủ nhưng học kim để rồi chỉ biết cho ra có kim
thì đó là bật rễ. Cả hai đều phiến diện, đều hời
hợt và cuối cùng dẫn tới một thứ duy nào
đó, tức là một hình thức độc tài trong tư
tưởng. Duy cổ sẽ nhắm mắt trước những thực tế hiện tại, điều đó
đã rõ rồi. Nhưng duy kim lại không kể gì tới
dĩ vãng cũng là một thực tại mà tâm
lý "các miền sâu" đã chứng tỏ cái
hiệu lực quyết định của nó khi gọi nó bằng những danh từ
"tiềm thức, vô thức những huân tập do thuỷ thổ, giáo
dục di sản" v.v… Muốn phớt tỉnh dĩ vãng là đi ngược khoa
học vậy. Làm thế nào để hòa giải hai hạn từ vốn
mâu thuẫn này vì cổ không đi được với kim
cũng như kim chống lại cổ. Thưa chỉ
có cách giải quyết ổn thỏa nhất là vượt lên
trên kim cổ. Đó là đường lối Khổng Tử đã
áp dụng. Ông nói: Ôn cố nhi tri tân,
khả dĩ vi sư hỹ, 溫 故 而 知 新, 可 以 為 師 矣 , II.11". Ôn lại, khảo cứu
lại những truyện xưa hầu khám phá ra được những điều
áp dụng cho hợp thời mới đó mới là cách học
đáng mặt làm thầy. "Ngoại giả tôn cổ chỉ biết cổ,
thì không làm thầy, không làm chủ được
cái môn học, nhưng là làm nô dịch.
Nô dịch cho cái cổ hay nô dịch cho cái kim:
cả hai đều làm tôi mọi hết trọi". Đó là điều
các triết gia mới đang khởi đầu nhận ra. Cả những người đại
phá phách như Nietzsche mà người ta quen gọi
là le négateur cũng đã nhận ra giá trị của
cái cổ. Ta hãy nghe ít lời của ông.
Thí dụ: phải công bằng với dĩ vãng. Phải ham
mê học hiểu nó cho tới thâm sâu. Zarathoustra
không muốn mất chút chi của dĩ vãng nhân loại
hết. Người muốn cho cả vào lò nấu "ấp ủ dĩ vãng để
đẻ ra tương lai, đó phải là hiện tại của tôi". "Être
juste envers le passé. Vouloir connaitre à fond en toute
affection (V.P. 325. Zara), ne veut rien perdre du passé de
l'humanité. Il veut tout jeter dans la coulée. (Zara.
224). Féconder le passé et enfanter l'avenir, que tel
soit son présent" V.P.508. Học cổ
không phải để lặp lại những dữ kiện lịch sử lấy ra ở một thế giới
đã chết, nhưng là làm nảy ra những biểu tượng
có khả năng hiện thực được lý tưởng ngày nay của
chúng ta. Học cổ là cốt để kích thích
lý trí tiến lên đều đặn mong suy diễn ra một viễn
ảnh cho tương lai do một sức tạo dựng linh hoạt tự do". Đó thật
là một câu giải nghĩa chữ "Ôn Cố nhi tri tân":
học cổ để tạo dựng ra mới. Nietzsche đã học cổ và
đã tạo dựng ra một người mẫu là Zarathoustra. Khổng Tử
cũng đã học cổ và đã tạo dựng ra một Nghiêu
một Thuấn, một Vũ một Văn để mặc cho triết lý của ông
những mô thức cụ thể và linh động. Đó là
cách ôn cố đáng mặt thầy. Nhờ ông
ôn cố mà một di sản tinh thần vĩ đại đã được duy
trì. Nhờ tri tân mà ông đã trở
thành "một tiên tri cho hậu thế" tiền hô tinh thần
dân chủ và nhân đó đã ghi trên
đời sống tinh thần của các dân tộc Viễn Đông một
nét sâu đậm ăn vào tiềm thức chúng ta. Do
đó những người muốn xây dựng cho dân nước một nền
văn hóa ăn nhịp với chiều tiềm thức dân tộc không
thể không kể đến Nho giáo. |
||
Trang [ 1 ] [ 2 ][ 3 ][ 4 ] |