Cửa
Khổng Kim Định |
1. Pho tượng mới tô Chương
trên đã chứng minh Nho giáo không nệ cổ
mà trái lại còn là một cuộc cách
mạng xây dựng nền vương đạo để giải phóng con người.
Chương này nhằm khảo sát xem cuộc giải phóng
đó có được thực hiện chăng hay rút cục cũng chỉ
là một lý tưởng đẹp đẽ suông tình
không hơn một giấc mộng? Trả lời câu hỏi đó
có hai ý kiến: một số người cho rằng Nho giáo thất
bại từ đầu, quả là một con zéro (Fiasco complet) một thứ
không tưởng. Loại ý
kiến ngược lại cho Nho giáo là một thành
công vĩ đại (sucès énorme, Zenker. 149-502), một sự
thành đạt đồ sộ (la plus massive et la plus durable des
civilisations. Granet. Etudes sociologiques p.12), một sự đắc thắng duy
nhất của triết học (victoire unique de la philosophie, Pauthier). Đây mới
là một hai đại diện thôi, còn có thể nối
dài bản danh sách. Nhưng bấy nhiêu đủ cho ta thấy
sự khác biệt giữa hai loại ý kiến. Tại sao cùng
đứng trước một sự kiện lại có sự phán đoán chống
đối nhau đến như thế. Nên ghi nhận điều này: đây
thuộc phạm vi nhân văn, nên việc phán đoán sự
kiện hay biến thành phán đoán giá trị
(jugement de valeur) tức là phán đoán theo
ý nghĩ (estimation arbitraire) hơn là căn cứ trên
thực tại. Nếu ta căn cứ trên thực tại thì không thể
nói chung là bên này phải hay bên kia
phải, vì Nho giáo là một thực tại phiền
toái, có nhiều phương diện không thể nói
chung là thành công hay thất bại, nên cần
phải phân biệt. Nói đến phân biệt tôi
liên tưởng ngay đến câu chuyện ẩn dụ ví lý
tưởng với pho tượng hoàn toàn đẹp đẽ, nhưng đến
lúc lệt xệt kéo qua đời sống thì gặp những
chông gai hiểm trở làm cho pho tượng sứt cằm, bẻ tai, vỡ
mũi rạn mặt v.v… rút cuộc chỉ còn lại một pho tượng
đã trôi son phấn và đã mất những nét
cong kiều diễm ban sơ. Người căn cứ vào pho tượng ban đầu
thì cho là hoàn toàn thất bại. Người căn cứ
vào pho tượng còn lại thì cho là một
thành công lớn lao. Nếu muốn đánh giá cho
sát với thực tế thì chúng ta nên xem pho
tượng đó hình sắc ra sao, và đến sau đã bị
thực tế làm sứt mẻ những chi và còn lại được
gì? Có thể nói rằng pho tượng nguyên tuyền
mới tô xong chính là nền nhân bản tâm
linh cũng như nền Vương đạo khi mới tự óc Khổng Tử xuất hiện,
thật là tinh tuyền trong trắng và đẹp như những
cái gì còn trong lý tưởng. Nhưng rồi phải
vào đời: vì là triết lý nhân sinh
không ở lỳ trong bàn giấy như triết thuyết duy niệm được,
mà bó buộc phải xông pha gió bụi, đầy thực
tế cam go. Nơi đây không còn gặp Lão Trang
hay Mặc Địch để ngồi mà biện lý suông tình
nữa, nhưng sẽ gặp những tay như Lý Tư, Tần Hoàn…
dùng đến vũ lực bạo động. Đấy là nhơn gian thế sự
khác rất xa với lý tưởng thế sự, ở chỗ có đủ loại
thực tế phũ phàng đối với bản thân, với môn đệ
và đối phương. Chúng ta sẽ lần lượt xét qua từng
điểm. Trước hết về
bản thân ông, chúng ta có thể rất ngạc
nhiên hỏi tại sao một nền triết lý tranh đấu cho con
người, cho tự do nhân phẩm của người lại không được người
nồng nhiệt tiếp đón, và ghi nhớ ân huệ muôn
đời trái lại bị ruồng rẫy đối đãi bất công! Nhưng
nếu người ta đón nhận nồng hậu thì đâu còn
những thảm kịch đang diễn ra cùng khắp nơi, và nước mắt
loài người đã ngưng chảy lâu rồi. Sở dĩ thảm kịch
luôn luôn tái diễn trong xã hội loài
người là vì con người chưa tiến hóa đủ để
nhìn nhận đâu là những người dẫn đạo chân
chính: tất cả đau khổ gây nên do sự si mê
đó. Người ta bề
ngoài coi như nhau, nhưng thực ra tâm trạng thuộc nhiều
đợt tiến hóa khác nhau. Có những người còn
đang ở giai đoạn bái vật chưa thấy xa rộng hơn. Đem những thuyết
chỉ hợp với giai đoạn cao truyền bá cho họ thì tất
nhiên một là họ lãnh đạm hay rất có thể họ
chống đối kịch liệt. Vì tâm trí họ còn hạn
hẹp quá chưa thể thấy sự quan trọng ơn ích của triết
thuyết mới ở đâu cả, nhưng chỉ thấy nó khác với
những điều họ đang tin tưởng, mà những điều này hiện đang
hướng dẫn bước đường đi của họ và được họ coi như món ăn
tinh thần thiết yếu cho tâm hồn của họ. Họ chưa thể nhận ra được
tai họa đang chờ họ ở cuối đường họ đang đi, nên cũng không
ý thức nổi lý do tại sao người kia lại muốn thay thế
những điều họ đang thâm tín cho tới nay, vì thế
mà họ phản đối người đòi cải tổ. Nietzsche nói
"đã sinh là có đau, dẫu là sinh trong tinh
thần, mais toute naissance est pénible et violente" (V.P. 254).
Khoa tâm lý đã khám phá ra rằng một
trong những nỗi đau đớn nhất của bản tính loài người
đã bị gây ra do những luồng tư tưởng mới. Nên
không có chân lý nào không mang
theo một số chua xót cay cực. Một luồng tư
tưởng mới mẻ nhất là khi nó mãnh liệt thì
gây xáo trộn nơi tâm hồn những người xung quanh,
làm đảo lộn tất cả các nền nếp sống đã quen thuộc.
Nên ai đảo lộn đều bị oán ghét. Platon đã
biểu thị điều đó trong thái độ của những tù
nhân đang bị trói giam trong hầm quay mặt vào tường
trên đó có những hình dáng đi lại
mà bọn tù cho là có thật; nhưng trong bọn
có người thoát ra khỏi hầm mới nhận thấy những
hình chạy trên tường chỉ là bóng dáng
của các vật ở ngoài chiếu vào chứ không phải
sự thực, liền trở lại tiết lộ điều đó cho đồng bạn, tưởng như
thế là làm ơn cho họ, dè đâu đồng bạn toan
giết anh ta, coi anh ta như một tên tử tù vì tội
phá rối. Câu
chuyện tuy là ẩn dụ nhưng chứa đầy sự thực của nhân thế,
cũng thực như cái chết của Socrate vậy. Những nhà tư
tưởng vì vậy thường hay bị nghi ngờ hiềm ghét, bị coi như
người phá rối cuộc sống êm ả của xã hội. Vì
xã hội không ngờ rằng mình đang ở trong một hầm
đóng kín mà nhà tư tưởng đang cố đục ra một
ít cửa không khí. Vì vậy mà họ bạc
đãi nhà tư tưởng. Nhưng hình như đó
là giá đắt mà mỗi người muốn làm ơn cho
nhân loại đều phải trả. Cho tới nay lịch sử nhân loại
đã chứng minh điều ấy, mỗi bước tiến bộ nào bất cứ, nhất
là tiến bộ trong lĩnh vực tinh thần đều phải trả một giá
nào đó to nhỏ tuỳ, nhưng không tránh được:
hình như đau thương phải là hành trang của mọi
cuộc đi lên của tâm thức con người. Thần thoại Hy
Lạp đã gửi chân lý đó vào câu
truyện ẩn dụ của Prométhée: vị anh hùng này
vì đã dám trèo lên trời ăn trộm
chút lửa đem xuống soi sáng cho trái đất bớt u
tối. Nhưng rồi Prométhée bị thần Jupiter bắt được đem
trói phơi thân trên đỉnh núi Caucase để cho
chim kên kên đến moi gan mỗi ngày, ngày
này qua ngày khác cho đến vạn kiếp. Kên
kên moi gan! Thật là
một hình ảnh mạnh nói lên những nỗi sầu muộn ưu tư
của nhà tư tưởng: tâm can như bị nung nấu dày
vò, vì đã dám phát minh ra tư tưởng
mới, biết bao triết gia bị buông sông, giam cầm,
thiêu sống, bạc đãi… Khổng Tử cũng phần nào bị
công lệ đó, nào là cái xã hội
lầm thanh phải tìm phương cứu gỡ, nào là tư chất
của những người thán phục mình, muốn nối chí
mình để hoằng dương đạo lý nhưng tài ba
không đủ; thế mà phe chống đối lại đông đảo
và có thừa thế lực. Họ là cả một lớp người
còn đang trì trệ trong trạng thái Thần thoại với
sự thâm tín như kiểu Mặc Địch nói: "nếu vua
không theo Thiên chí mà làm thế
này thế khác… thì trời sẽ làm mưa
máu… rồng đen sẽ phun tai họa v.v…" Khổng Tử trái lại
đã đi xa lắm rồi, đã tới đến đợt tâm linh chỉ cốt
làm sao cho tâm hồn không trách móc
là được, hết còn sợ những thế lực bên ngoài.
"Nội tỉnh bất cữu: phù hà ưu hà cụ, 内 省 不 疚, 夫 何 憂
何 懼 ,” (L.N. XII.4). Đọc trượt đi sẽ không để ý đến sự sai
biệt xa chừng nào đối với đại chúng, nhưng trong thực tế
câu đó biểu thị một sự đi xa lắm nên đã
gây ra cả một mặt trận chống đối mãnh liệt. Tuy Khổng Tử
"bất oán thiên bất vưu nhân, hạ học nhi thượng đạt.
Tri ngã giả kỳ thiên hồ, 不 怨 天 , 不 尤 人 . 下 學 而 上 達 . 知 我 者
, 其 天 乎 !,” (L.N. XIV.37). Không oán trời, không
trách người, học từ thấp để tiến lên cao. Biết được ta
chăng duy có Trời". Nhưng khi ông than một câu:
"Quân tử hòa nhi bất đồng, cường tai kiểu, 君 子 和 而 不 同, 強
哉 矯" (T.D.2). Sống hòa hợp với chung quanh tuy không đồng
ý kiến vì mình đã vượt lên xa rồi.
Thật là hùng cường can đảm biết bao thì câu
đó đủ làm cho những người tế nhị hiểu được nỗi niềm ra
sao. Mạnh Tử nói về vụ đó rằng: "Ưu tâm tiểu tiểu.
Uấn vu quần tiểu. Khổng Tử dã, 憂 心 悄 悄 , 慍 于 群 小, 孔 子 也,
(M.T.VIIb.19)". Kinh Thi chép rằng lòng mình u sầu
buồn bã, ấy vì có nhiều kẻ tiểu nhân
oán ghét mình, đó là cảnh huống của
Khổng Tử vậy. Quả thật phải gan dạ nghị lực xiết bao mới bước ra khỏi
chỗ "tuỳ tục cầu đồng", nghĩa là sống a dua theo thói
tục, cầu được như mọi người (tiếng Tây kêu là
conformisme và có hai thứ social và intellectuel.
Hoà nhi có thể là conformisme social, còn
intellectuel thì bất đồng). Tất cả những
chống đối tư tưởng Nho sẽ dần kết tinh lại nơi Pháp gia sẽ
nói đến sau. Liền ngay đây cần dành ít lời
cho những người tán thành tức là loại thực tại thứ
hai. Khi xét
lại những bước đầu của Khổng Tử ta thấy ông gặp rất ít may
mắn, mười bốn năm rong ruổi qua từng mấy chục tiểu bang để đi
tìm thánh vương khả dĩ thực thi nổi cái đạo của
mình đã nhận thức ra, nhưng không được gặp.
Toàn một loại giá áo túi cơm "đẩu sao nhi
nhân, 斗筲之人, XIII.20". Ôi! Toàn những người
trí lự nhỏ như cái thưng cái đấu. Đến lúc
"thoái vi sư" (rút lui để dạy học) để truyền lại đạo
lý cho đời cũng không gặp được môn đệ lý
tưởng, chỉ có Nhan Hồi gọi được là hiếu học (XI, 6) giữ
Nhân được ba tháng liền thì lại vội lìa đời,
để thương để nhớ cho thầy "thiên táng dư…天 喪 予", trời hại
ta. Thế là
còn lại toàn bọn Cuồng với Quyến (cuồng giả tấn thủ,
quyến giả hữu sở bất vi, 狂 者 進 取 , 狷 者 有 所 不 為 也, VIII.21", nghĩa
là những người có chí hướng nhưng không đủ
tài ba, tức hạng có đủ thiện chí nhưng không
đủ sáng suốt. Thế là
chỉ còn lại có hai phái Tăng Tử và Tử Hạ. Tăng Tử học
rộng, thành thực, chú trọng về đàng đạo đức nhưng
dần dần đi đến chỗ hẹp hòi. Khổng Tử lấy nhân làm
nền móng, lấy hiếu đễ lễ nhạc làm phương tiện, thì
Tăng Tử lại lấy Hiếu đễ làm nền tảng nên sẽ đưa đến thuyết
"toàn nhi sinh, toàn nhi quy" mà hậu quả có
thể là "búi tó nó to tầy niêu"
và "móng tay dài bằng quả đỗ" (do chủ ý bảo
toàn thân xác). Tăng Tử truyền qua Tử Tư, và
sau nữa là đến Mạnh Tử người mở mang tâm đạo tiên
thiên và đẩy Vương đạo đến mức "dân vi quý".
Tuy nhiên tính ông khuê giác, hay bẻ
hoẹ và "phản đối như đàn bà" không thể nối
chí thầy đầy đủ. Phái Tử
Hạ chuyên về văn chương lễ nhạc được Nguỵ Văn Hầu tôn
làm thầy, đặt quan bác sĩ khảo về các kinh. Nho
giáo khởi đầu trở thành quốc giáo từ đó,
ngày ngày thêm phát đạt và trải qua
các đời Tần, Hán, Đường, tuy có châm chước
với các phái khác, nhưng cái khuôn
là do phái này. Người nối chí về sau sẽ
là Tuân Tử. Tuân Tử:
trước mặt Nho giáo tuy không được kể là
chính thống, nhưng với học giả quốc tế thì ông được
kể là độc đáo và sâu sắc hơn Mạnh Tử. Granet
cho là nhà tư tưởng độc đáo và thâm
trầm (un penseur original et profond. Granet P.C. 561). Có lẽ
không những vì ông đại diện khía cạnh thực tế
của Nho giáo, nhưng còn vì ông chú
trọng đến danh từ, dùng nhiều biện luận và trình
bày cách mạch lạc hơn. Đọc ông, ta thấy gần triết
Tây phương. Giáo sư Creel cho rằng chỉ cần xem một hai
chương như "Chính danh" hoặc "Giải tế" đủ biết ông
là một tay triết cự phách của nhân loại. Sở dĩ ông
không được xưng tụng là chính truyền như Mạnh Tử
là bởi ông đã nhãng bỏ Nhân Trí
mà nhấn mạnh Lễ Pháp và danh thực. Ông
nói: "Long lễ chi pháp, tắc quốc hữu thường, 隆 禮 至 法 則 國
有 常", nếu có lễ cao và luật pháp lương hảo,
thì nước có phép tắc vững bền. Bên
chính thống chủ trương đức nhân và trí phải
được phát triển bằng tự mình suy tư với sự trợ
giúp của một nhóm bạn thân (quân tử dĩ văn
hội hữu, dĩ hữu phụ nhân, 君 子 以 文 會 友, 以 友 輔 仁, XII. 23).
Tuân Tử trái lại đặt việc giáo dục lên những
nền tảng ngoại tại như kinh sách và ảnh hưởng xã
hội: "cổ học chi hồ lễ chi hỹ, 古 學 之 乎 禮 之 矣", cái học cổ xưa
đến chỗ lễ là cùng cực. Và nhấn mạnh sự cần thiết
phải hợp quần: con bò con trâu khoẻ hơn người sao lại phải
phục người vì chúng không biết hợp quần mà
người thì biết đoàn tụ… Bởi vậy trong việc giáo
dục, Tuân Tử nhấn mạnh phải vâng theo phép tắc của
đoàn thể, nhấn mạnh đến độ làm át mất tính
chất "tự nội" của Nho giáo. Vì thế không phải
là chuyện ngẫu nhiên mà ông có hai
môn đệ sẽ là những tay cự tử trong Pháp gia tức
Lý Tư và Hàn Phi Tử. Bàn đến pháp
gia tức đề cập đến những thực tế phũ phàng loại thứ ba vậy. Pháp gia
gồm có ba phái là Thế, Thuật, Pháp. Thế do
Thân Đáo chủ xướng. Ông
chú trọng đến cái uy thế do địa vị chứ không phải
do đức độ. Đức độ như ông Nghiêu là kẻ thất phu
thì không đủ tư cách để điều khiển lấy ba người,
mà hư nết như vua Kiệt lại có thể làm loạn cả
thiên hạ. Do đó ta biết rằng địa vị uy thế lấy làm
chỗ dựa mà đức hiền với trí thì không đủ mộ
vậy. Quản Tử
nói: "Cần phải tôn quân ty thần, dĩ thế thắng
dã, 尊 君 卑 臣 以 勢 勝 也", tôn vua lên, hạ quan xuống,
lấy cái uy thế mà thắng lướt. Thế là đặt vua
lên trên luật, mở đường cho hơn hai ngàn năm
chuyên chế.
Pháp
luật
do
Thương
Ưởng chủ xướng. Thương Ưởng
thuộc dòng vua nước Vệ làm tể tướng nước Tần nhấn mạnh
đến pháp luật. Ông là người đầu tiên mở mang
hệ thống bàn giấy và giảng diễn luật cách hệ
thống, ông được kể như sáng lập pháp gia, chủ
trương sưu thuế nặng, khổ dịch liên miên, để dân
không còn hở thời giờ suy tính đến việc làm
loạn, hầu dốc toàn lực vào việc phụng sự quốc gia. Nhờ
đó mà nước Tần trở nên mạnh, sau này sẽ
thâu thiên hạ vào tay. Quyền
Thuật do Thân Bất Hại. Ông
là người nước Hàn, gốc học ở Hoàng Lão, chủ
ở Hình, Danh. Ông nhấn mạnh đến quyền thuật mưu lược: vua
cần làm thế nào cho các quan vừa trung
thành với luật pháp lại vừa trung thành với
mình. Muốn vậy cần phải dùng quyền biến, mưu lược, kế
hoạch, bí mật, che đậy… HÀN PHI
TỬ Hàn Phi
Tử dung hòa tư tưởng của cả ba nhóm thế, pháp,
thuật và đặt trên nền tảng triết lý của Tuân
Khanh và Hoàng Lão để viết thành bộ luật
hơn 10 vạn lời, sách mà Hughes cho là gần với
Âu Châu từ sau đời Trung cổ hơn hết. Quyển Le Prince của
Machiavel mà so với sách của ông thì
giáo sư Creel cho là còn nhút nhát
chưa thấm tháp gì. Hàn Phi
Tử viết: "thống nhất mà trị thì dùng số nhiều bỏ
số ít, cho nên không chú ý vào
tài đức mà chú ý vào luật
pháp". "Vi trị giả dụng chúng nhi xả quả. Cố bất vụ đức
nhi vụ pháp, 為 治 者 用 眾 而 舍 寡 , 故 不 務 德 而 務 法 ". Và "minh
chủ chi quốc vô thư giản chi văn, dĩ pháp giáo.
Vô tiên vương chi ngữ, dĩ lại vi sư, 明 主 之 國 無 書 簡 之 文,以 法
敎. 無 先 王 之 語, 以 吏 為 師". "Trong nước của minh chủ không có
văn chương sử sách, chỉ có pháp luật để dạy.
Không có lời nói của các tiên vương,
mà chỉ có quan lại làm thầy dạy học". Và
"người chủ ở trên khinh miệt pháp lệnh của mình rồi
đi tôn trọng cái biết của học giả cùng hành
vi của họ, thời buổi như thế nên mới có nhiều văn học".
Ông nói: quân, thần, thượng, hạ, quý, tiện
giai tòng pháp, 君 臣 上 下 貴 賤 皆 從 法" (chọi với "tự
thiên tử dĩ chí ư thứ nhơn: nhất thị giai dĩ tu thân
vi bản, 自 天 子 以 至 於 庶 人 , 壹 是 皆 以 脩 身 為 本 , của Khổng Tử). Với bấy
nhiêu đức tính thường được những nhà độc tài
ưa thích: thuyết Uy thế phù hợp với tính
kiêu xa của vua chúa, thuyết pháp hình
làm cho việc cai trị có vẻ minh bạch dứt khoát,
thuyết quyền thuật biện minh cho sự che đậy bưng bít rất quen
thuộc của các chúa độc tài, lại được đặt
trên nền triết lý thiên đạo, địa đạo rất uy nghi,
nên không lạ gì việc vua quan cuối thời chiến quốc
nồng nhiệt đón chào. Khi sách tới Tần Thuỷ
Hoàng thì liền được thán phục đến nỗi Tần Thuỷ
Hoàng mong được gặp mặt tác giả rồi chết cũng cam.
Và nhân đó sách ông được áp
dụng triệt để ở nước Tần trước nhất. Đây
là chỗ nên nhận xét về ảnh hưởng của nơi
phát xuất. Các nước sản xuất ra luật hầu hết ném
về phía Tây: Trịnh, Hàn, Tần, nhất là Tần.
Thương Ưởng không được hoan nghênh bên Đông
(Vệ), nhưng khi sang miền Tây đã được Tần Hiến Công
tiếp đón nồng hậu phong lên làm Tướng Quốc, giao
cho toàn quyền điều lý việc nước. Tần là đất của
người Đột Quyết (demi-ture) chuyên về du mục, văn hóa
thấp, dân chúng quen tùng phục như đàn kiến.
Vậy là hội đủ điều kiện thuận lợi cho sự phát triển mạnh
mẽ của Pháp luật, giống với miền Tây nơi theo Pindare
thì luật là Nữ Vương cả nhân cả thần, (la loi reine
de hommes et des dieux) và cũng là nơi ngự trị của
các thứ ý hệ, nghĩa là những ý tưởng được
sắp xếp cách chính xác kiểu cơ giới, khách
quan, lạnh lùng hoặc căn cứ trên những dụng cụ đo lường sự
vật như: quy, củ, xích, thốn, giới, số… Ngược lại, bên
miền Đông như các nước Vệ, Tề, Lỗ định cư lâu đời
chuyên về nông nghiệp nên ưa văn học và nghệ
thuật, là nơi nảy sinh các thứ Đạo đầy ắp tình
người của Nghiêu, Thuấn, Văn, Vũ, Khổng tất cả đều "dĩ nhân
đạc nhân, dĩ tình đạc tình, 以 仁 度 仁 以 情 度 情
(Tuân Tử)”, lấy người đo người, lấy tình đo tình
và cai trị theo lối thân dân nên vua quan kể
như "dân chi phụ mẫu". Nghĩa là phải yêu điều
dân yêu, ghét điều dân ghét. Vì
thế trong cuộc giao tranh giữa pháp trị và nhân trị
chúng ta được chứng kiến một sự tiếp xúc của hai thứ văn
hóa: văn hóa cơ giới của du mục, của thương mại thuộc
phía Tây Bắc tràn vào văn hóa
nông nghiệp ở phía Đông Nam thường có
tính cách hòa giải như cùng một cơ thể.
Bên nào sẽ thắng, pháp trị hay nhân trị?
Chúng ta có thể nói sẽ chẳng bên nào
thắng vì trong nhân loại bao giờ cũng có hai loại
tâm trí mà Pascal gọi là esprit de finesse
nặng tình người uyển chuyển tinh tế và esprit de
géométrie nghiêng về đo đếm số lượng có thể
gọi là trắc địa. Hai loại tâm trí này sẽ
mãi mãi bổ túc cho nhau. Vì vậy nói
về nơi thì bất kỳ ở đâu cũng sẽ có người phù
trợ (partisan, supporter) cho cả hai khuynh hướng. Tuy nhiên nếu
xét chung thì khuynh hướng trắc địa
(géométrie) pháp hình thường thống trị ở
miền Tây Bắc ngược với miền Đông Nam là nơi
óc tinh tế nhân trị thường được coi trọng. Nếu lấy về thời
gian mà nói thì thường thường óc tinh tế
nổi vượt trong thời bình, còn óc trắc địa
bá chủ ở thời loạn. Và có thể nói xuất điểm
của óc ý hệ và pháp luật thì bởi
miền Tây Bắc hoặc do thời loạn mà phát hiện.
Còn tinh thần nhân trị do Đông Nam. Trở lại
Pháp gia bên Trung Quốc chúng ta thấy khuynh hướng
này phát triển ở thời Chiến Quốc, tức là thời cực
kỳ ly loạn và luật hình trở thành cực thịnh ở cuối
đời Chiến Quốc, tức là lúc loạn lạc đã đến độ
tàn khốc nhất nên Hàn Phi Tử được thành
công và lại thành công ở nước Tần, một nước ở
miền Tây Bắc và mở mang trong ly loạn. Tần Thuỷ
Hoàng đã đẩy khuynh hướng luật pháp đến cực độ khi
chấp thuận việc đốt sách chôn nho chỉ còn để lại
có sách luật. Như thế là óc pháp
hình đắc thắng ca khúc khải hoàn. Nhưng đắc thắng
không có nghĩa là đắc lý, và khải
hoàn không có nghĩa là trường tồn. Bởi
vì cái chính thể dựa trên pháp
hình của Tần Hoàng đã dự trù phải bền vững
từng vạn thế hệ lại chỉ sống chưa nổi hai đời đã vội sụp đổ.
Và nhà Hán tiếp nhận di sản tuy vẫn còn bị
quyến rũ mãnh liệt bởi pháp gia (qua các tay
chính trị như Tiêu Hà, Tào Tham, Giả Nghị
thảy đều công nhận tư tưởng pháp gia) nhưng cũng
không thể quên gương nhà Tần nên bất đắc dĩ
phải để cho Nho giáo từ đống tro tàn của Tần Hoàng
phục sinh và lần lần nắm quyền nhất thống trong văn hóa.
Lý do sâu xa của sự kiện ấy ở đâu? Ở chỗ pháp
luật và ý hệ không bao quát hết con người.
Dùng cân đo, xích thốn, và số lượng chỉ đo
được sự vật; nhưng con người không phải chỉ là sự vật,
nên dùng cân đo thì đến chín phần mười
con người còn ở lại bên ngoài. Bởi thế thay
cho xích thốn, Nho giáo đưa ra "Tâm củ" tức
"yêu cái gì dân yêu, ghét
cái gì dân ghét" nói vắn là
lấy dân ý làm tiêu chuẩn cư xử. Ngoại giả
phải dùng đến pháp hình là chuyện bất đắc
dĩ, đừng chẳng được mới phải thi hành. Vì vậy bên
Nho gia đồng thanh xếp pháp hình xuống dưới, cho
là mạt (ngọn) là lưu (tầm thường). Tử viết: dư
hoài minh đức, bất đại thanh dĩ sắc: đại thanh sắc chi ư dĩ
hóa dân, mạt dã,子 曰: 予 懷 明 德 , 不 大 聲 以 色 大 聲 色 之 於
以 化 民 , 末 也 , T.D.32. Ta nhớ thương minh đức chứ không ưa to
tiếng, làm oai. Dùng uy thế mà giáo
hóa dân là tầm thường vậy. Tuân Tử
nói: "cố giới số giả, trị chi lưu dã, phi trị chi
nguyên dã. Quân tử giả, trị chi nguyên
dã, quan nhân thủ số. Quân tử dưỡng nguyên,
nguyên thanh tắc lưu thanh. Nguyên trọc tắc lưu trọc. 故 械 數
者, 治 之 流 也, 非 治 之 原 也. 君 子 者, 治 之 原 也, 官 人 守 數. 君 子 養 原, 原 清 則 流 清. 原 濁
則 流 濁 ". Cho nên những máy móc và
phép tắc ví như dòng nước của chính phủ.
Nguời quân tử nuôi nguồn: các quan chức chỉ giữ luật
tắc số độ. Nếu nguồn trong thì dòng sẽ trong, nguồn đục
thì dòng sẽ đục. (Quân Đạo) Trang Tử:
"Người xưa khi bàn về đại đạo chỉ đề cập đến hình danh
vào hàng thứ năm, nói đến hình phạt
vào hàng thứ chín. Kẻ vội nói đến
hình danh, thì không biết nguyên lý
gốc ngọn của nó. Kẻ vội nói đến thưởng phạt thì
không biết đến chỗ bắt đầu. Vội nói hình danh
thưởng phạt ấy là chỉ biết khí cụ của việc chính
trị mà không biết cái nguyên lý của
chính trị. Người ấy có thể để cho thiên hạ
dùng chứ không đủ tư cách dùng thiên
hạ. Như thế gọi là biện sĩ một chiều, chỉ biết có một
góc thôi vậy." (Khả dụng ư thiên hạ, bất túc
dĩ dụng thiên hạ. Thử chi vị biện sĩ, nhất khúc chi
nhân dã, 可 用 於 天 下, 不 足以 用 天 下. 此 之 謂 辯 士 壹 曲 之 人 也 ) Mạnh
Tử: "Chỉ có đức nhân không đủ để trị, chỉ một
mình luật pháp cũng không có thể tự
nó thi hành được". Đồ thiện bất túc dĩ vi
chính, đồ pháp bất năng dĩ tự hành, 善 不 足 以 為 政, 徒
法 不 能 以 自 行. Tuân Tử:
Nếu có lễ cao và luật pháp lương hảo thì
nước có phép tắc vững bền: chuộng người có đức
hiền, dùng người có tài năng thì dân
biết khuôn phép, bàn cãi kế tiếp và
kiểm soát công khai thì nhân dân khỏi
ngờ vực. Và "có luật pháp hay mà nước loạn
điều ấy có được. Có quân tử mà nước loạn
thì xưa tới nay chưa từng nghe thấy vậy". Sức sống rất
mãnh liệt và đầy kế hoạch len lỏi đi lên ánh
sáng, phương chi sức sống đó ở nơi con người thì
nó sẽ không chịu nằm mãi dưới những pháp
luật của thời loạn, của đời sống núi rừng, nhưng luôn
luôn hướng đến thời bình tức là hướng đến
phát huy phẩm giá con người, và đấy là
lý do sâu xa nhất tại sao Nho giáo bị đốt
phá bị chôn vùi lại có thể phục sinh sống
ngang nhiên với các ông pháp gia, bởi
vì nó là triết lý nhân sinh tức
là triết lý bênh vực tự do nhân phẩm con
người nên không thể chết được và do đó
nó đã từ đống tro tàn nhà Tần phục sinh để
gặp cuộc thử thách khác với nhà Hán,
mà chúng ta coi như đại diện cho ó chuyên
chế tức là sự phũ phàng thuộc loại khác vậy. 4. Hán Vũ Đế
quan thầy của Nho giáo? Nhiều Nho gia
đã ca ngợi Hán Vũ Đế, coi như là quan thầy của Nho
giáo, vì đã có công đưa Nho
giáo đến chỗ toàn thắng. Nhiều học giả Tây phương
ví Vũ Đế như Constantin của Nho giáo (hoặc như Acoka với
Phật giáo). Điều đó chỉ là cái dáng
dấp bên ngoài mà thôi, còn
chính nội dung thì khác. Nhà
Hán đã kế tiếp Tần không những trong di sản
chính trị là tập quyền trung ương và luôn cả
óc độc chuyên. Thực ra óc độc chuyên
không cần cho thể chế trung ương tập quyền; nhưng cớ sự nó
đã đi đôi ở đời Tần và nhà Hán thừa
tự thể chế Trung ương thì cũng kế tiếp cả óc chuyên
chế của nhà Tần nữa như Đổng Trọng Thư đã dám quả
quyết nhiều lần. Thế nghĩa là Pháp gia và
Lão gia vẫn nắm then chốt trong guồng máy chính
quyền ở đầu nhà Hán. Đó là điều thuộc sử
sách không ai nghi ngờ (vì thế mà lệnh cấm
thư mãi cho đến đời thứ hai mới được "bãi" (Huệ Đế
184-187) nghĩa là mới chịu công nhận một việc đã
rồi. Institution C. Escara p.57, Kim 16). Tuy bị triều
đình cấm đoán nhưng Nho giáo vẫn được truyền dạy ở
ngoài dân gian và càng ngày
càng thấm nhập. Khi Tần Hoàng đốt sách chôn
nho, thì Thái Tử Phù Tô đã can rằng
"chư sinh đều học và bắt chước Khổng Tử, nay lấy trọng
pháp mà bắt tội, tôi sợ thiên hạ không
yên" (K.352). Câu đó chứng tỏ rằng ngay lúc
ấy Nho giáo đã lan rộng lắm. Cho đến đời Hán Vũ Đế
thì càng ăn sâu vào dân chúng. Khi Hán
Vũ Đế lên ngôi lúc 13 tuổi tuy có vời mấy Nho
gia vào triều để gọi là tham khảo ý kiến, nhưng
sau bị bà Đẩu Thái Hậu đẩy đi. Đến khi bà qua đời
thì lòng sùng Nho đã nhạt xuống một độ, mới
lại vời Nho gia vào triều và bất đắc dĩ nghe lời Đổng
Trọng Thư mà tuyên dương Nho giáo. Nói bất
đắc dĩ vì thật ra Hán Vũ Đế không ưa gì Nho
giáo trong bản chất nó vốn chống đối óc độc
tài chuyên chế và vốn đề cao ý dân
là ý trời. Còn
Hán Vũ Đế tuy có nói là tuân theo
ý trời trong việc cai trị, nhưng ý trời lại không
tìm trong ý dân mà lại đi tìm qua
điềm trời, qua săm vĩ, bốc phệ theo thuyết âm dương gia, Mặc
Địch… Chính vì Đổng Trọng Thư giải nghĩa Xuân Thu
theo lối tai dị đó như vua đi đâu có rồng theo…
nên mới được Hán Vũ Đế chấp nhận và nghe lời
ông mà đặt ra nhà Đại Học với 50 chức bác
sĩ. Làm việc đó bề ngoài Hán Vũ Đế
có vẻ ủng hộ Nho giáo lắm nhưng thực ra là tại Nho
giáo đã lan quá rộng không thể gạt bỏ được
nên tìm cách kiểm soát sự giải nghĩa kinh
sách và uốn nắn cho hợp với ý của mình: cố
biến Nho giáo trở thành dụng cụ cho lối trung ương tập
quyền chuyên chế, chứ không phải thành thực đề cao
Nho giáo. Riêng về Đổng Trọng Thư, Vũ Đế chỉ muốn hại đi
nhưng lại sợ mang tiếng, nên lập kế mượn tay người khác
hại thay, tức là tuy có đặt Đổng Trọng Thư làm
quan nhưng đày ra giữ chức phụ tướng giúp Địch Vương trị
đất Giang Tô. Địch Vương là anh Vũ Đế rất kiêu căng
và thích sự vũ dũng, nhưng vì Đổng Trọng Thư
khéo xử, nên không những không bị hại
mà còn cảm hóa được Địch Vương khiến Địch Vương
rất kính trọng ông. Thấy
không đạt đích, Vũ Đế lại sai Đổng Trọng Thư đi
giúp một người anh khác dữ tợn hơn nhiều đó
là Giao Tây Vương, tính rất dông dài
càn dở hay giết các quan đại thần. Không dè
ông đã nghe tiếng Đổng Trọng Thư là người hiền
nên xử đãi rất trọng hậu. Tuy vậy sợ ở lâu có
thể sinh nguy nên Đổng Trọng Thư xin cáo bệnh giải chức về
hưu. Trong
bài điều trần của Hoàng có 8 khoản thì 2
khoản cuối cùng nói về hình với luật, vì
thế Nho gia xếp xuống cuối cùng trong một trăm bài thi.
Khi Hán Vũ Đế soát lại thấy Hoàng khá nặng
óc luật, đã thấm nhuần Hàn Phi Tử và
Lý Tư mới xếp lên hàng đầu. Chính vì
thế Tư Mã Thiên cho Hoàng là vỏ nho
mà ruột luật, ngoài đại lượng mà trong mưu
mô. Hoàng tuy có công trong việc vận động lập
ra Đại Học, nhưng đại học cũng chỉ là bung xung, sự thực
thì Vũ Đế cũng còn cho Hoàng là quá
nho nên chỉ dùng làm tiêu biểu, còn
chính thực quyền thì trao cho các luật gia như bọn
Tăng Hoàng Dương ác cảm với Nho ra mặt. Vì thế
mà nhà Học liệu trở nên cái lò của
Pháp gia biến chế Nho giáo theo ý muốn độc quyền
của họ. Hán Vũ
Đế còn nghe Đổng Trọng Thư mà bãi bỏ bách
gia chư tử. Điều đó làm cho nhiều người công phẫn
với Thư, và đổ cho Thư là đổ đường cho Nho giáo đi
đến chỗ độc tôn. Sự thật thì không phải là
bãi bỏ bách gia chi hết mà chỉ là kế hoạch
chính phủ dùng để vừa lấy lòng dân vẫn
sùng Nho giáo, vừa chiếm độc quyền kiểm soát việc
chú sớ kinh sách và cả đến "san định" lại
các kinh truyện đã bị thất lạc sau vụ đốt sách
chôn nho của Tần Hoàng. "Do đấy mà Lưu Hâm
được sai ra làm sách nguỵ kinh của cổ nhân gọi
những sách bí thư trong gác Thạch Cừ của
riêng chính phủ, tư nhân không ai có. Ở
cái thời mà sách vở làm được rất khó
khăn, chính phủ lại độc quyền tư hữu, những nhà
thái học chốn kinh đô đều phải dùng sách ở
gác Thạch Cừ, làm sách Thái sử coi như gia
pháp" (Thục IV, 25) thì việc uốn nắn cho Nho giáo
trở thành công cụ của óc độc tài
chuyên chế có thể thi hành cách êm
thắm. Vì thế mà trải qua bao đời mà rất ít
người nhận ra hay có nhận ra đôi chút nhưng chưa
bao giờ nghĩ tới việc gạn lọc cho Nho giáo trở nên tinh
ròng. Hầu hết chỉ thấy "tử viết" thì cho là lời
của Khổng Tử rồi lôi ra để hoan hô hay đả đảo tuỳ khuynh
hướng, mà không nghi ngờ gì đến sự kiện lịch sử lớn
lao trên đây. Do đó ta có thể cho việc
bãi bỏ bách gia này là một cú
chí tử đánh trúng tim gan Nho giáo; đem đặt
vào miệng Khổng Tử những điều ông đả kích, để
môn đệ ông phải chấp nhận và từ đấy Nho giáo
đốc ra Hán nho. Vì thế ngày nay muốn tìm
cho ra tư tưởng chính truyền của Nho giáo, chúng
ta gặp khó khăn phụ trội: là phải phân định lại
những câu trong tứ thư ngũ kinh có phải là của Nho
chăng hay phải trả về cho chủ cũ của nó. Đó là một
việc làm rất dài hơi, đòi rất nhiều công
trình thuộc văn học. Ở đây chúng ta đứng trong
cương vị triết lý thì sẽ dùng phương pháp
triết lý; đó là nguyên lý nhất
quán, nghĩa là tìm ra tinh thần Nho giáo
nguyên thuỷ làm hồn và gạch bỏ những điều
trái với tinh thần đó. Sau đây là vài
thí dụ: Trong Luận Ngữ
chương XVI.2, Khổng Tử nói: "khi thiên hạ có đạo
thì lễ nhạc, hình phạt, chinh phạt đều do thiên tử…
Thiên hạ hữu đạo tắc lễ nhạc, chinh phạt tự thiên tử xuất…
chính bất tại đại phu… thứ nhân bất nghị". Câu
này rất dễ giải nghĩa theo lối chuyên chế nên
có thể nghi ngờ là do luật gia xen giặm ít nhiều,
nếu không toàn bích thì cũng một số chữ đủ
bẻ quặt ý nghĩa. Trước hết ngay
từ ngữ đã nói lên điều đó. Trong câu
dùng chữ thiên tử. Chữ này theo nghĩa gốc có
tính chất thần thoại: coi vua như con Trời nên được những
người chủ trương "kế thừa huyết thống Thượng Đế" ưa dùng,
vì nó bao hàm ý tưởng nâng ông
vua lên một bậc cao xa vượt hẳn dân chúng. Vì
thế Khổng Tử không dùng chữ thiên tử mà chỉ
dùng chữ Vương. Trong Luận Ngữ ông dùng chữ
đó có một lần (III.2) nhưng là khi trưng lời Kinh
Thi: "Thiên tử mục mục" (thiên tử phúc đức). Mạnh Tử
dĩ nhiên cũng theo thầy và chỉ dùng chữ Vương,
còn những lần ông dùng chữ thiên tử như "đắc
hồ khâu dân, nhi vi thiên tử" thì rõ
rệt là ông có y chọi chữ (le contraste des termes)
để nói lên chủ trương kế hiền của ông: "thiên
tử chẳng có nghĩa thần thánh chi mà hễ được
lòng thằng dân là thắng cử". Chữ Khâu
dân chỉ người dân ở đồng bái, thuộc thành
phần "bố cu mẹ đĩ": hèn hạ là thế đấy nhưng hễ ai chiếm
được lòng nó là làm đến tột phẩm cao sang,
tức là làm Thiên tử. Nếu gặp một đôi trường
hợp khác thì nên cân nhắc theo đồng văn để
nhận ra dụng ý tác giả. Sau vài nhận xét về
từ ngữ ta thử đi vào nội dung. Chủ trương của
Khổng Tử là "quan cai trị, vua kiểm soát". Đó
là công hiệu dĩ nhiên của nguyên lý cử
hiền dữ năng, thế mà đây lại dành cho vua.
Dành độc quyền đến độ dân không còn quyền
nghị luận nữa (thứ nhân bất nghị). Nếu vậy tại sao Khổng lại viết
kinh Xuân Thu để dạy việc các vua: "Xuân thu
thiên tử chi sự dã, 春 秋 , 天 子 之 事 也" (Mạnh IIIb.9),
và câu "tri ngã giả kỳ duy Xuân thu hồ, tội
ngã giả kỳ duy Xuân thu hồ, 知 我 者, 其 惟 春 秋 乎; 罪 我 者, 其 惟 春
秋 乎 " (id). Theo đó ta thấy Khổng Tử không có tước
Vương mà đứng ra nghị luận phân xử 242 năm các đời
vua. Và nếu cho rằng Xuân thu không do Khổng viết ra
đi nữa thì còn các sách khác của Nho
giáo. Trong "Thập tự tam kinh" có sách nào
không bàn luận về chính trị đâu. Thực ra
quyển nào cũng bàn một cách đanh thép cương
nghị đến nỗi Tần Hoàng đã phải đốt đi, và
nhà Hán vẫn trì diên không chịu
bãi bỏ lệnh cấm thư của Tần Hoàng. Và ngày
nay khi chúng ta nói lên câu phương
ngôn đầy tính chất dân chủ: "quốc gia hưng vong, sĩ
phu hữu trách, 國 家 興 亡 士 夫 囿 責" là mặc nhiên
chúng ta coi khinh câu "thứ nhân bất nghị" hoặc
câu "bất tại kỳ vị bất mưu kỳ chính, 不 在 其 位 不 謀 其 政 " sặc
mùi pháp gia lặp lại hai lần trong Luận Ngữ (VIII 15
và XVI 27) xem thêm hai câu (XIII 14). Cùng
dòng tư tưởng ta có thể nói câu 28 Trung
Dung xen ngang không ăn nhằm chi với đồng văn (contexte). Trong
đó có nói "tiện nhi hiếu tự chuyên" cũng để
lộ vuốt pháp gia đe dọa người nào không thuộc quyền
quý thế tập mà đòi chuyên quyền thì
chuốc vạ vào thân (tai cập kỳ thân giả, 災 及 其 身 者).
Liền sau đó những câu "phi thiên tử bất nghi lễ, bất
chế độ, bất khảo văn, 非 天 子 , 不 議 禮 , 不 制 度 , 不 考 文" (Trung Dung 28),
những câu đó là ngầm đả kích Khổng Tử
đã nghị lễ, đã khảo văn, đã phê bình
chế độ, mà đồng thời Khổng không cần giấu rằng mình
nghèo nàn ở bậc tiện dân "ngô thiếu giả tiện,
cố đa năng bỉ sự, 吾 少 也 賤, 故 多 能 鄙 事" (L.N. IX 6). Và cũng
nghịch với câu: "thánh nhân tác nhạc dĩ ứng
thiên, chế lễ dĩ phối địa, 聖 人 作 樂 以 應 天, 制 禮 以 配 地 " (Nhạc
ký 290, tr.66), thánh nhân làm ra nhạc để
ứng đáp với trời, và chế ra lễ để hòa hợp với đất.
Câu đó nói rõ "thánh nhân" rất
hợp với tinh thần "cử hiền dữ năng" nghĩa là hễ tới bậc
thánh thì tác nhạc chế lễ, chứ không
có chuyện dành độc quyền cho vua. Một thí
dụ nữa về Luận Ngữ (XVI 9): "sinh nhi tri chi giả thượng giả, học nhi
tri chi giả, thứ giả, 生 而 知 之 者, 上 也; 學 而 知 之 者, 次 也". Câu
này tuy có thể không nghịch với tinh thần Nho
giáo vốn cổ động học ráo riết nhưng cứ sự ta có
quyền nghi ngờ là do người đạo Lão đã xen
vào để hạ Khổng xuống hàng thứ tri, vì Khổng rất
mộ mến việc học suốt từ 15 tuổi trở đi, "học nhi bất yếm", và
luôn luôn đi kiểm chứng quan sát theo lối thực
nghiệm, chứ không nói đến sinh nhi tri chi. Cũng có
thể do những người chủ trương duy trì thế tập, muốn dành
độc quyền văn tự, bảo vệ một thế tập trí thức nên
tuyên dương rằng óc thông minh do trời ban cho chứ
không phải do học vấn mà sở đắc được (Hàn Phi Tử
chương 19). Hoặc do những người chống đối sự mở rộng việc học thức sợ
rằng nó sẽ trở thành cửa ngõ mở ra cho nhiều người
vào tham dự quyền chính mà họ muốn nắm giữ độc
quyền dành cho thế tập. Vì thế
ta cũng phải đặt dấu hỏi trên câu đó, cũng như phải
dè dặt mỗi khi bình luận các câu khác
trong Luận Ngữ. Chỉ đưa ra ít thí dụ có liên
hệ đến vấn đề bàn trong chương này với mục đích
thức tỉnh óc phê phán. Sự thức tỉnh đó
còn phải đẩy xa hơn nữa khi bước sang các sách
khác nhất là Kinh Lễ, nơi đây sự pha trộn đầy
tràn. Thế mà Kinh Lễ lại đóng khuôn Nho
giáo, vì thế cần nhắc đến Kinh Lễ thêm ít
lời. Ban đầu Lễ vốn
đi với Nhạc, nhưng nay chỉ sót lại có Kinh Lễ còn
Kinh Nhạc đã mất. Đó là môt sự thất lạc cực
kỳ tai hại cho Nho giáo. Vì Nhạc có thể nói
thuộc nguyên lý bao quát thiên viên
tiêu biểu cho tinh thần nhân ái phổ biến, cho đức
Thái Hòa của Nho. Còn Lễ thuộc "tứ địa" (thể chế)
phân chia ranh giới tôn ty đẳng cấp biểu thị cho cái
xác kềnh cơi. Thế mà Nhạc thì mất, Lễ lại
còn và lớn lên mạnh mẽ rườm rà đến độ thượng
Lễ kiểu Hán Nho (hyperituel) và đóng khuôn
Nho giáo suốt hơn 20 thế kỷ. Cho nên ta có thể coi
Kinh Lễ là một thí dụ điển hiền về việc Khổng giáo
che lấp Khổng Tử: cái xác đánh bại cái hồn.
Kinh Lễ trở nên một cái chợ họp tất cả các
môn phái: từ pháp gia cho đến âm dương gia,
Mặc Địch, danh gia, bách gia chư tử… đến nỗi hầu hết các
học giả thời mới phủ nhận Kinh Lễ do Khổng Tử sanh định như tương
truyền. Điều này quá rõ rệt, ai đọc kinh Lễ với
óc phê phán thì nhận ra ngay (xem thí
dụ câu trong Trung Dung 28 đã trưng ở trên).
Đã vậy Kinh Lễ còn chứa rất nhiều điều nhỏ nhen vụn vặt
và tai dị, nghịch với tinh thần Khổng (bất ngữ: quái,
lực, loạn, thần…) những điều chi ly câu nệ như chương "Công
Đàn" về tang chế, phải để tang thế nào khi chào,
mặc áo ra sao, để tay cách nào khi lạy, khi
phúng phải tuỳ theo họ xa hay gần mà khóc mấy
tiếng… Hoặc mùa nào phải ăn thức gì, mùi vị
gì. Màu áo vua mặc ảnh hưởng đến mùa
màng. Những lý lẽ đưa ra rất mạnh khiến người đời nay
không thể chấp nhận ý kiến thông thường tin
là Khổng đã san định Kinh Lễ ít ra như người ta
thấy ngày nay. Có lẽ nên theo ý chiết trung
là Khổng có để lại một nền móng, một số
nguyên tắc là những nghi lễ cốt chính, rồi sau
môn đệ thêm chi tiết vào, nên lắm điều kỳ dị,
nhất là đối với đời ta xa cách từng hai ngàn năm. Tuy Khổng bị
Lão gia, Mặc gia, Pháp gia tiêm chất chuyên
chế vào tâm, nhưng không phải Nho giáo chỉ
có chịu ảnh hưởng cách thụ động, mà không
gây lại ảnh hưởng. Dấu hiệu là Vũ Đế đã không
chinh phục nổi danh nho như Ban Cố và 15 năm sau khi kỷ niệm Vũ
Đế, Tuyên Đế muốn tôn ông nội mình lên
làm quan thầy Nho giáo thì bị nhiều Nho gia phản
đối, cho Vũ Đế là một người phung phí của chung, hiếp
đáp dân tình, chứ không làm cho
dân ơn gì. Ngay từ thế kỷ thứ nhất đã có
người nhận ra rất nhiều câu mâu thuẫn trong ngũ kinh. Những nhận
xét này sau được hai học giả Mã Dung và
Trịnh Huyền ghi nhận và quảng diễn. Đã vậy ngoài
kinh Lễ, Nho giáo còn được những sách tương đối
tinh tuyền như Luận Ngữ và nhất là Mạnh Tử, là
những sách phản chiếu khá trung thành hình
ảnh của Nho chính truyền rất nguy hiểm cho chính truyền
độc chuyên. Nên mãi tới năm 1372 Mạnh Tử còn
bị Hồng Vũ thái tổ truất phế vì dám gọi vua
là kẻ cướp kẻ thù (khấu thù, Mạnh Ivb.H). Ngoài ra
có hai chương trong Kinh Lễ gọi được là tinh tuý
nhất của sách đó, đã được người sau tách
rời làm hai sách và đặt vào hàng tứ
thư như Luận Ngữ và Mạnh Tử đó là Đại học
và Trung Dung. Việc làm này tỏ ra tác giả
có óc sáng suốt và ý thức được
đâu là nòng cốt của Nho, nhờ đó trong Nho
giáo đời nào cũng có một hai người nhận ra
chân lý qua những chú sớ của chính quyền
và nhân đấy trở thành lực lượng kình chống
óc độc chuyên, như hai lực lượng rình chực nuốt
nhau. Và ta có thể nói trải qua mỗi đời chưa hẳn
bên nào đã nuốt trôi bên nào.
Bên nhà vua tìm cách kiểm soát Nho
gia, nhưng bên Nho gia cũng tìm cách để kiểm
soát lại nhà vua, tuy cách thế có tế nhị,
nhưng nhiều lúc hiệu nghiệm hơn và đã duy
trì lại được một số điểm quý báu. Nhiều người căn
cứ trên những câu xen lộn vào sau mà
lên án Nho giáo như trường hợp Cố Biệt Cương
đã căn cứ vào câu Luận Ngữ XVI.2 viết một bản
án dài phỉ báng Nho giáo, cho là
nặng óc chuyên chế. Biết bao người khác đã
làm như thế. Cũng có người đã nghi ngờ rằng Nho
giáo đã bị bẻ quặt rất nhiều và lên
án gắt gao Hán Nho và những người như Đổng Trọng
Thư. Nhưng
xét lại và đối chiếu với nền triết lý và
đạo giáo khác ta thấy tình trạng không đến
nỗi quá bi quan như những người đã cho Nho giáo
"là hoàn toàn thất bại". Chỉ cần xem lại lịch sử
thì thấy chưa có một triết lý hay tôn
giáo nào khi đem thực hiện trong thực tế đã giữ
được đủ mọi vẻ đẹp như trong lý tưởng, và có lẽ
không một hiện thực nào lại không phải nương theo
hoàn cảnh, nên không khỏi có sự châm
chước, mềm dẻo, vì phần nào đó là điều kiện
để thành công "bởi sống là lệ thuộc". Nếu cứ phải
được y nguyên như trong lý tưởng mới chấp nhận "vào
đời" thì có lẽ Nho giáo chỉ là một
lý tưởng suông mà không ghi lại được thực
hiện nào. Trái lại ngày nay ta có thể quy
công ít ra phần lớn cho Nho giáo mấy thực hiện sau
đây trong những xã hội Viễn Đông: một là sớm
bỏ được chế độ nô lệ trước vài chục kỷ (nứơc Pháp
mới bãi chế độ nô lệ năm 1848); hai là đã
có nhiều cố gắng quân phân tài sản như
các kiểu công điền; ba là đặt chức gián quan
để dòm ngó chính quyền kể cả vua; bốn là
đặt phép thi cử để tuyển người tài đức trong cả nước
không phân biệt dòng họ. "Có lẽ
không một nước lớn nào đã chấp nhận xuyên qua
hai ngàn năm nguyên lý sau đây: "lý do
tồn tại của chính quyền là mưu sung túc và
hạnh phúc cho dân, và nếu bất lực thì bị chỉ
trích và có thể đi đến chỗ bị lật đổ". Nhận
nguyên lý đó tức là đã mở rộng cửa
cho công luận. "Khổng Tử
đã nhấn mạnh việc cai trị phải đặt vào tay người hiền
năng, được lựa chọn theo tiêu chuẩn duy nhất là tài
đức mà thôi, không kể gì đến dòng tộc.
Nguyên lý đó đến đời Tuỳ làm nảy ra
phép thi cử, mỗi thời áp dụng mỗi khác nhau
và tuy có nhiều thiên tư hối lộ, nhưng cũng
đã đặt ra đủ phép để ngăn ngừa thiên vị và
đã có những thời khá công hiệu. "Một người mới
thi đậu ở đợt sơ khởi (hương cống) tuy là con nhà thường
dân cũng đã được đặc cách và được tưởng lệ:
từ chức quan nhỏ cho đến chút ruộng làng, tức là
một cách khuyến khích rất hữu hiệu để theo đuổi việc học.
Và vì vậy rất nhiều quan bên Tàu do tầng lớp
thường dân xuất thân và người đi học bao giờ cũng
có thể đeo đuổi mộng làm quan. Dĩ nhiên trừ những
triều đại ngoại lai (Mông Mãn) không kể, còn
phần đông quan trường vẫn là người có giáo
dục theo lý tưởng Nho giáo. Điều đó không
có nghĩa là không có thiên tư
bà con và không phải chối cãi con quan bao
giờ cũng được nhiều may mắn hơn để thành đạt, vì cha mẹ
có phương tiện và được giáo dục dưới bầu
khí lễ nghĩa, cho nên đa số quan là do tầng lớp
quan lại, điều đó không có gì đáng
chú ý. Điều đáng ngạc nhiên là
có ít nhiều người đã leo tới chức quan khi
không có những thuận lợi nói trên và
hình như đời nào cũng có dòng máu
mới tiêm vào lớp quan lại. Mặc dù với những khuyết
điểm, phép thi cử đã đem lại cho Trung Hoa một thứ
chính phủ có được nhiều ích lợi, là
nó tạo điều kiện cho những người tài đức nhất trong nước
có dịp tham gia chính quyền, và làm cho
các quan phải là những người có văn hóa chứ
không chỉ là những người phóng túng thừa tự
quyền lực của cha ông, mà bởi vì nền móng
giáo dục là triết lý và luân
lý Nho giáo, nên nó gây thành
một tinh thần đoàn thể, tuy không cùng thể chế với
dân chủ mà cũng cho người dân hưởng được một thứ đại
diện trong chính quyền, đời nào cũng có người
dân làm quan gây ra một thứ dân chủ xã
hội đã không có ở một xứ nào rộng lớn bằng
và giữ được lâu dài bằng. Khi con bất kỳ một
nông gia nào cũng có thể trở thành đại thần
và thực sự đôi khi đã có một đôi người
trong họ được như thế thì điều đó đặt giới hạn cho sự
phân chia đẳng cấp không để trở thành đóng
kín. Cũng nên nhắc đến nguyên tắc "dĩ đạo sư
quân" đã làm nảy ra chứ gián quan có
nhiệm vụ phê bình mọi chức quyền kể cả vua. Tất
nhiên cũng có ông hùa theo vua nhưng cũng
nhiều ông đã can đảm, và sáng suốt can ngăn,
có khi đến liều mất cả mạng sống (thí dụ Tỷ Can vì
can gián vua Trụ mà bị giết. Vi Tử Tử Cơ… L.N. XVIII 1). "Tổng chi những
truyện đó (thi cử và chức gián quan) đã đưa
vào nền quân chủ tuyệt đối một tinh thần dân chủ
đáng kính phục. Tuy còn xa với chế độ dân
chủ, nhưng Khổng Tử đã khởi đầu hướng chính quyền về
phía dân chủ, chỉ vì người sau đã thêm
vào đó được ít quá. Thế mà
nguyên lý chưa đủ còn phải có kỹ thuật tức
đầu phiếu. Điều này đã không xảy ra trên đất
Khổng. Tuy nhiên Khổng đã có một ảnh hưởng
đáng lưu ý với việc đó." (253 C.C) Mở đầu
đã nói tới pho tượng, bây giờ chúng ta nhắc
lại để kết luận. Có thể nói rằng tuy đã bị
kéo qua những thực tế phũ phàng của các vua quan
nặng óc chuyên chế, của pháp gia chống đối… nhưng
pho tượng vẫn còn giữ được một số nét cong đẹp ở thưở ban
sơ, đủ khiến nhiều người phải nghiêng đầu bái phục.
Bình luận về bức tượng đó học giả E. Chavannes có
viết như sau: "Đạo Khổng thực
là một đạo hành vi không phải là một đạo
thuyết lý. Đạo ấy không phải đem ra mà biện thuyết
được, chỉ có thể xướng lên mà thực hành
thôi, vì nó gồm những phép tắc đã
gây dựng ra xã hội Trung Quốc. Khổng Tử chính
là tiêu biểu cho cái tinh thần cố hữu của chủng tộc
Trung Hoa, nên một mình đứng ngất trời, trong cả cuộc lịch
sử miền Đông Á. Từ Tây Âu mà
nhìn qua thì tưởng tượng như thấy ở góc bể
bên kia có một pho tượng đồng thật lớn, thái độ
nghiêm trang, chân tay lực lưỡng, là bức tường một
người trong tay đã tô tạo nên một xã hội to
nhất, đông nhất trong thế giới. Đời đời vẫn đứng trơ trơ ở đấy,
đã từng trong biết bao nhiêu phen, vận nước thành
rồi bại, thịnh rồi suy, biết bao nhiêu đời vua kế tiếp nhau
mà đời nào cũng phải tôn sùng. Người Việt
Nam, người Nhật Bản, người Cao Ly, người Mãn Châu bấy
nhiêu dân tộc khác nhau đều quy phục mà theo
luật pháp, lại biết bao nhiêu tôn giáo thay
đổi, cái nọ chưa tàn cái kia đã nở,
mà ông cổ hiền triết kia vẫn đứng vững như trồng, biết bao
nhiêu thần thánh mắt ông đã trông thấy
khởi lên, mắt ông cũng lại trông thấy diệt đi, cho
đến ngày nay chúng ta bước chân sang bờ cõi
Trung Hoa bát ngát mênh mông, ta cũng
trông thấy cái tượng đồng ông cổ hiền triết ấy đứng
sừng sững trước mắt ta, như bác nông phu trong sách
thi nhân Lã Mã kia, cày ruộng đào
thấy những bộ xương người võ sĩ từ đời xưa to lớn khác
thường mà kinh ngạc. Nay ta trông thấy cái
hình ảnh của ông Thánh nhân to lớn phi thường
ấy, ta cũng kinh ngạc và cảm phục vô cùng." Edouard
Chavannes, III. NHÂN BẢN TÂM LINH 1. Những chặng đường
dẫn tới nhân bản tâm linh Ở chương nhất
chúng ta đã bàn về Vương đạo còn chương hai
nói về sự vào đời của Vương đạo. Sau khi vật lộn với
các thực tế nguy nan đủ loại đã để lại một số kết quả. Ở
chương này chúng ta tìm đến gốc rễ ngọn nguồn của
Vương đạo, tìm đến nguyên lý căn cơ đó
là nền nhân bản tâm linh. Nó là hồn
Nho giáo nên sẽ là đề tài cho các cảo
luận thuộc các năm chứng chỉ. Tuy nhiên ở đây cũng
cần bàn qua ít điều, tất nhiên ở trình độ
"dự bị" nhưng cần vì đã biết ngọn tất phải biết gốc. Gốc rễ của Nho
giáo là nền nhân bản tâm linh. Câu
đó cũng có nghĩa rằng Nho giáo là một nền
triết lý trung thực vì triết lý là
gì nếu không là một nỗ lực tinh thần cố
thoát ra khỏi tình trạng vong thân của con người;
hoặc định nghĩa lối tích cực thì triết lý
chính là việc thâu hồi lại quyền tự chủ của người
đã bị các thế lực ngoại tại chiếm đoạt nhờ lúc
người chưa ý thức được tính bản nhiên của
nó. Do đó chúng ta có thể xếp loại
các triết thuyết cao thấp tuỳ theo với quyền tự quyết mà
nó dành lại được nhiều hay ít, và khi
nào nó dành lại được trọn vẹn thì ta đặt
nó lên trên hết gọi là đạt quan. Ở đây
chúng ta thực hiện sự cắt ngang một khúc lịch sử hay
là làm một sự xếp loại theo tâm trạng như có
thể nhận thấy trong loài người, nghĩa là ta không
bảo lịch sử tiến diễn như thế theo kiểu A.Comte với thuyết tam trạng
(trois états). Ở đây chỉ là nhận xét hiện
trạng và phân ra có thể là sáu trạng
thái tâm thức như sau: Trạng thái thứ nhất:
Bất phân Ở tâm
trạng này chưa có phân biệt phi ngã với
Ngã (non moi et Moi) hay nếu có thì mới lờ mờ vừa
đủ để gây nên nơi ngã các thứ sợ sệt trước
những sự vật bao quanh (phi ngã) được coi như đầy quyền lực
nên cũng gọi tâm trạng này là vật linh
(animisme), con người trong trạng thái đó chưa có
ý niệm nào thuộc tôn giáo và
còn sống lẫn lộn với loài vật trong những núi hang
rừng thẳm, hoàn toàn dưới sự chỉ huy của bản năng. Trạng thái thứ hai:
Bái vật Trạng
thái Bái vật kể ra đã là một bước tiến hơn
trạng thái bất phân ở chỗ ngã nhận ra mình
biệt lập phần nào với phi ngã. Bước tiến này tuy
còn rất nhỏ vì con người mới thấy mình như một vật
hèn yếu thiếu thốn, hoàn toàn lệ thuộc nên
cử chỉ tự nhiên là bái vật: cầu khẩn, van xin,
cúng tế. Bất cứ vật nào hễ có một thế lực: sấm
chớp, sông núi, các thứ hiện tượng tự nhiên,
cả đến loài vật hùm, beo, báo, rắn, giao long… tất
cả đều nhận được những bái lạy van lơn của con người vẫn kể
mình như sâu bỏ bò sát đất. Tâm trạng thứ ba: Ma
thuật Ma thuật
(magic) hay pháp môn thuật số là một thứ khoa học
phôi thai nhưng không hướng vào vật chất làm
đối tượng như ta thấy ngày nay ở vật lý mà lại
hướng vào vật linh để bắt ép vật linh phải vâng
theo ý của người như hô phong hoán vũ. Đấy
là một bước tiến khá xa, con người không những nhận
ra mình khác sự vật mà còn hé thấy
rằng mình cũng có thể có ít nhiều quyền uy;
nếu khéo khai thác thì việc ép một vật linh
phải vâng theo ý của mình cũng có khả năng
hiện thực chứ không cần nhất nhất phải ngửa tay xin xỏ. Từ
đó ma thuật phù pháp hoặc thay thế cho cúng
vái hoặc lưu hành song song với cầu tự v.v… Trạng thái thứ tư:
Ý hệ Trạng
thái này tiến bộ hơn ở chỗ Lý trí đã
thức tỉnh và nhận ra rằng dùng ngoại giao xin xỏ vô
ích đã đành, nhưng dùng phù
pháp hay phương thuật để bắt buộc cũng chẳng được; lại nhận thức
rằng con người cũng là một tự thể có khá nhiều
giá trị có thể sống độc lập bất chấp quỷ thần, hay để cho
yên chuyện hơn có thể chối tuột thần linh coi như
không có. Nhưng hữu hay vô cũng nằm trên một
bình diện chống đối chia ly, chưa tìm ra chỗ "hội
thông" thống nhất uyên nguyên. Trạng thái thứ năm:
Tâm linh Trạng
thái này tiến bộ rất nhiều so với bốn trạng thái
trên vì đã nhận thức được sự vô hiệu của
các triết thuyết xây trên lý trí, đồng
thời nhận ra được một tài năng siêu việt nơi con người,
có khả năng giàn hòa được với Nội tâm tất cả
các thế lực ngoại tại mà các thuyết trước kia hoặc
phải quỳ luỵ hay chống đối hoặc lờ đi hay thụ động chấp nhận. Tất cả
các trạng thái đó chỉ nắm được một khía
cạnh của sự vật, nhưng không tìm sao cho ra được một đường
lối thâu nạp được các mảnh sự thật ấy trong một Hòa
điệu, nên được bên nọ thì mất bên kia: được
tâm mất vật. Nay nhờ tìm ra được chiều kích mới
này gọi là tâm linh mới có hy vọng
quán thông tất cả thiên địa vạn vật vào Nhất
Thể, cũng như tóm thâu những chân lý lẻ tẻ
mà các giai đoạn trước chỉ thấy có một chiều,
nhưng không nhận thức nổi toàn diện. Với giai đoạn năm
này con người ý thức ra chiều kích tâm linh,
nhưng nói nhiều mà chưa bước chân vào được
phải chờ giai đoạn 6 là: Trạng thái thứ
sáu: Nhân sinh Giai đoạn cuối
cùng là Nhân sinh hay nói rộng hơn là
Nhân bản tâm linh cũng ở trên bình diện
tâm như trạng thái thứ năm liền trước nhưng có thể
gọi là toàn diện hơn ở chỗ lấy chính con người
làm bản gốc, và đồng thời hòa giải được với
các thế lực ngoại tại nữa. Do đó nó có thể
thiết lập được mối tình huynh đệ phổ biến có khả năng bao
dung khắp mọi người xét là người, không còn
biệt kẻ trị, người bị trị, kẻ Kinh người Thượng. Bao nhiêu
cách biệt y cứ trên dòng máu, quý
tiện, thị tộc, giai cấp, chủng tộc đều xóa mờ đi chỉ để lại
có Người an nhiên như một ông vua, cầm giềng mối
Thái Hoà, điều lý thiên địa vạn vật trong
mối cộng thông êm ả với trời với đất. Thế là chấm
dứt tình trạng vong thân của các tâm trạng
trước, nhiều ít tuỳ. Trong hai trạng thái đầu sẽ gọi
chung là Bái vật, con người sống như những phóng
thể (être aliéné: bị bán cho tha vật) chưa
được làm chủ các quyết định của mình. Sang hai
trạng thái thứ 3 thứ 4 sẽ gọi chung là Ý hệ tuy
con người đã nhận ra được quyền tự chủ của mình nhưng
dành lại hoặc bằng pháp môn ảo vọng hoặc bằng
lý trí, biện luận ý cứ trên danh từ,
là những cái vốn hạn hẹp, tương đối, vì thế hoặc
không đi tới đâu như các triết thuyết duy niệm
(conceptualisme) duy danh (nominalisme) hoặc lẩn quẩn tháo lui
trở lại như trường hợp Pyrrhus khởi đầu tranh đấu bằng triết học,
lúc mãn đời lại chết với tư cách là
sãi thần; hoặc như Kant rút lui về vị trí duy
sùng mộ (piétisme) cam phận với lý trí thực
hành của lương tri… nghĩa là biết mình vong
thân mà không tìm ra lối thoát
vì cho rằng không có buồm và chèo "ni
rames ni voiles" (Taine). Trạng
thái thứ 5 là tâm linh bắt đầu chấm dứt các
trạng thái vong thân trên bằng cách tiến
vào nội tâm bao la vượt ra ngoài các cặp
tương đối như có với không, thị với phi, thiện với
ác, nghĩa là phá hết mọi biên giới kềm tỏa
con người trong trại giam vong thân. Tuy nhiên cuộc di
chuyển có lẽ vì quá triệt để quá dứt
khoát nên nhiều lúc như giật lùi lại thời
Đồng nhất mông muội nhãng bỏ những phân biệt cần
thiết cho đời sống như trường hợp đạo giáo mà
chúng ta sẽ bình luận dưới đây. Phải chờ đến những
tay tổ như Khổng Tử cuộc di chuyển vào nhân bản tâm
linh mới toàn diện, có ngoại nội cân đối con người
mới đi đúng sinh hóa. Đó
là đại để những chặng tiến đưa đến nền nhân bản tâm
linh, chúng ta cần phân ra cho dễ học, dễ nhận định. Trong
thực tế nó không rõ ràng được như vậy
và một triết thuyết có thể cỡi lên hai hay ba
tâm trạng như trường hợp Mặc Địch vừa có tin vừa có
lý trí la tập (tức là đứng trên chặng thứ
hai và thứ tư). Đạo giáo trên chặng một 3 và
5, tức đồng nhất pháp môn và tâm linh; Đổng
Trọng Thư trên 3 và 6 tức pháp môn và
nhân sinh… Biến đại để
những chặng tiến như thế rồi, chúng ta thấy rõ hơn
giá trị quy cho Nho giáo khi nói nó
là một nền "nhân bản tâm linh" tức là
có ý nói Nho giáo đã đoạt giai đoạn
thứ sáu. Bây giờ chúng ta xem xét gần hơn
xuyên qua ít nhiều sự kiện lịch để kiện chứng và
minh họa. Trung Hoa cổ đại cũng có giai đoạn vong thân đậm
đà trong đó con người phải lệ thuộc vào quỷ thần,
bất cứ cái gì lớn nhỏ đều phải chạy đến cùng
bái cầu khấn. Xem qua các bốc từ đời Thương Ân (mới
khai quật được ở An Giang…) ta thấy quả thực tôn giáo
lúc đó chỉ là một mặc cả: tế thần để thần ban cho
ân huệ này nọ, lớn thì như thắng trận, nhỏ như khỏi
đau bụng đau răng. Có những người đứng ra làm trung gian
giữa quỷ thần và loài người. Bọn đó kêu
là Vu, Nghiễn, họ cho rằng trời cũng tai oai tác
phúc như người, cũng ái, ố, hỷ, nộ, ai, lạc không
thiếu món chi, cần phải lo đút lót khấn
vái. Suốt trong ba đời Hạ, Thương, Chu hầu như nhà
nào cũng phải có Vu sử trong nhà. Đấy là
thời toàn thịnh của thần thoại ma thuật, phù pháp
thuộc giai đoạn 2-3.Tà áo bọn Vu, Nghiễn bay phất phới
khắp nơi. Thoắt chốc bóng dáng đó rọi vào
những tâm hồn đã thức tỉnh một tia sáng giúp
họ nhận ra có một mối liên hệ bí mật nào
đó giữa hai yếu tố thần thoại mê tín với sự
hà khắc áp bức con người. Họ nhận ra rằng sở dĩ
nhân phẩm con người hay bị chà đạp là tại bao
nhiêu quyền định đoạt về thân phân con người
không nằm trong tay nó mà lại ở cả trong tay những
thế lực ngoại tại, và đó là những lý do
áp bức đè nặng trĩu trên đầu cổ con người. Họ thấy
những nhà cai trị khi đã đặt hết tin tưởng vào quỷ
ma thì hầu như không còn sót chút
tình yêu thương dành lại cho tha nhân nữa.
Đó là lý do giải thích hiện tượng của những
người hết sức sùng mộ với thần linh nhưng lại rất ác
tâm với con người. Vì
lý do đó Khổng bỏ hẳn nền tảng cũ từng đặt quyền
bính trong tay Thiên tử được coi là "bậc kế thừa
huyết thống Thượng Đế" và lấy việc "tu cái thân của
người làm gốc làm nền để thay vào". Ông
tuyên bố: "Đạo bất viễn nhân, nhân chi vi đạo nhi
viễn nhân: bất khả dĩ vi đạo, 道 不 遠 人, 人 之 為 道 而 遠 人, 不 可 以 為 道 "
(T.D.13) và (L.N.VIII.29). Đạo không xa người, người lại
làm cho đạo xa người (đi tìm cầu ở sấm vĩ, và
quái đản là những cái gì ngoại tại)
thì tất nhiên không còn phải là đạo
nữa, không đáng làm nền móng cho văn
hóa vì ít hay nhiều có chứa chất giết
người. Cần phải lộn trở lại đưa văn hóa đặt hẳn sang con người:
càng sâu thẳm nơi thẩm cung càng không sợ lạc
mất đạo. Mà chỗ sâu thẳm nơi con người còn
đâu bằng Nội tâm. Lý trí là nông
vì còn có thể nhận ra dễ dàng qua ảnh hưởng
những tri thức của tai mắt, đến như Tâm linh thì thật
là vi tế vượt hẳn giác quan không thể sâu hơn
được nữa. Và đó chính là nơi Khổng Tử nhận
ra cần phải lấy làm nền móng cho đạo lý, cho văn
hóa. Đó là ý câu: "thiên
lý tại nhân tâm, 天 理 在 人 心" hoặc câu
"doãn chấp kỳ trung", mày hãy tin thuận theo
cái Trung của mày. Đây
là một cuộc cách mạng có tầm quan trọng vô
biên làm đảo lộn các bậc thang giá trị
đã được thiết lập do các đợt văn hóa trước từ ma
thuật cho tới lý trí. Vì các nền văn
hóa này còn tựa trên sự biệt lập giữa trời
đất và người được coi như những thế lực đối lập, nên đi
tìm Đạo ở xa ở ngoài con người nay bỗng nghe có
người tuyên xưng: đạo không ở xa, không trên
trời hay dưới đất mà ngay trong lòng mày.
Thiên lý tại nhân tâm, chứ không tại
thiên địa. Thế là ông đã tiến vượt bậc từ
thần thoại lướt qua giai đoạn lý trí để tiến vào
Tâm linh vậy. Trạng thức
này thật là vi ẩn, tai không thể nghe mắt
không thể thấy. Bởi thế đã biết bao triết gia muốn vượt ra
khỏi giai đoạn vong thân mà rồi vẫn luẩn quẩn ở trong
vòng biện lý la tập. Sau cùng lại phó
mình buông theo giác quan, nên chỉ thấy sai
biệt đa tạp mà không khám phá ra được mối
liên hệ ăn sâu bên trong, nên tri thức của
triết học gia cũng y như của chúng nhân không
khác, nghĩ a là chỉ thấy cái ly mạt mà
không nhận ra cái đồng bản nên không giải
quyết nổi cuộc phân quyền giữa tam tài và hầu hết
để con người vong bổn. Vì thế không làm sao thỏa
mãn được nguyện vọng sâu thẳm của con người vốn
khát mong cái gì siêu việt. Chính
lòng khát mong đó mới là nguyện vọng
sâu xa nhất trong con người mà Péguy gọi là
kẻ lữ hành tìm về siêu việt thể: "l'homme ce
pèlerin de l'Absolu". Chính lòng khát vọng
đó mới là lý do căn để gây ra những thần
thoại, ma thuật, dị đoan mà ban đầu có thể nảy sinh
nhân dịp những sợ hãi trước các thế lực thiên
nhiên. Nhưng những sợ hãi đó không là
căn cứ chính nên khi con người đã nhờ khoa học lột
trần các bí mật thiên nhiên xưa kia đã
gây nên sợ hãi như sấm sét, bão chớp,
cầu vòng v.v… thì óc mê tín dị đoan
vẫn tiếp tục lưu hành và sống mạnh mẽ ngay trong
lòng các kinh đô khoa học: New York, Paris,
Londres… Nguyên nước Pháp một năm đã tiêu
vào việc tướng số ma thuật lối 75 tỉ quan thì đủ biết
mê tín không thể tiêu diệt bằng khoa học, bằng
đả kích dựa vào lý luận… Vì thế chỉ
có một lối hiệu nghiệm hơn hết là tâm linh
vì nó là một chiều kích sâu thẳm nơi
con người ăn thông sang cõi vô biên man
mác, và chính nhờ nó mà con người
có được cái phẩm giá vô song. Và chỉ
khi nhận thức ra chiều kích đó thì mới không
chị cho ai đặt cái chi lên trên con người,
không chịu để cho con người trở thành khí cụ, phải
lệ thuộc vào vật nào ngoại tại, mới tìm ra
lý do tồn tại của loài người, tìm ra được ngay
trong nội tâm của mình. Lúc đó sẽ nhận ra
con người thật quả xứng đáng là mục tiêu tìm
hiểu cũng như phụng sự mà không gây tổn thương cho
nhân phẩm của nó như lúc phải gò lưng
bái lạy luỵ quỳ trước thần cây đa, ma cây gạo,
cú cáo cây bồ đề. Vì thế
khẩu hiệu tri thức của Khổng Tử là "tri nhân tắc triết, 知
人 則 哲", còn khẩu lệnh bên hoạt động là "vụ
dân chi nghĩa, 務 民 之 義" (VI.20) (Nhân là con người
nói chung trong vũ trụ, còn Dân là con người
sống trong xã hội). Tăng Tử đã tỏ ra ý thức được
sứ mệnh thầy chỉ cho khi nói: sĩ bất khả dĩ bất hoằng nghị, nhậm
trọng nhi đạo viễn, nhân dĩ vi kỷ nhậm bất diệc trọng hồ, tử nhi
hậu dĩ bất diệc viễn hồ… 士 不 可 以 不 弘 毅 , 任 重 而 道 遠 . 仁 以 為 己 任 , 不 亦 重
乎 ? 死 而 後 已 , 不 亦 遠 乎 ? , VIII.8". Kẻ sĩ phải có chí
khí rộng lớn và cương nghị là vì
gánh thì nặng mà đường thì xa. Nhận lấy đạo
người làm gánh không phải nặng nề trọng hậu sao,
và phục vụ người cho tới lúc chết mới thôi
không phải xa vời sao? Sự thường người ta không ý
thức nổi tầm cao trọng của con người nên chưa coi đạo nhân
cao xa đủ, bởi vậy thường quay ra tìm hiểu về trời đất quỷ thần
vốn chiếm chỗ cao hơn trong óc của họ, vẫn được suy tôn
là thần diệu hơn người nhiều, vì thế số phục vụ cho con
người trọn vẹn từ đầu đến cuối trở nên hiếm hoi so với số người
phục vụ cho những thế lực khác… Khổng Tử
ý thức được tâm trạng quần chúng vẫn còn
đứng núi nọ trông núi kia cao, nên phải
nhân nhượng mà thêm vào một vế nữa, sau vế
"vụ dân chi nghĩa" ông tiếp: với quỷ thần thì
kính mà nên xa thế mới tỏ ra là người
có trí tuệ, "kính quỷ thần nhi viễn chi khả vị
trí hỹ, 敬 鬼 神 而 遠 之 , 可 謂 知 矣 ". Đồng thời ông duy
trì lễ tế thiên và lễ gia tiên để cụ thể
lòng kính quỷ thần, nhưng cũng "viễn chi" bằng
cách gạt bỏ ý nghĩa bái vật để đưa nghĩa xã
hội vào trong hai lễ đó. Nhờ vậy lễ gia tiên trở
nên lợi khí cảm thông giữa các thế hệ
đã qua và những thế hệ đang đến. Còn chữ thần cũng
được đưa sang nghĩa mới chỉ thị sức "huyền vi linh diệu" chu lưu khắp
trong muôn vật, có khi còn gọi là
Thái Cực, có khi là Thượng Đế là
Thiên và được biểu lộ bằng lễ tế thiên, một
cách rất huy hoàng lộng lẫy nên dành cho
đoàn thể mà Vua là đại diện giữ vai trò chủ
tế; còn lễ gia tiên để cho các gia đình
mà hai bố mẹ là chủ sự. Nhờ vậy
mà lòng khát vọng siêu việt thể được thỏa
mãn qua các tâm trạng: bằng siêu thức nơi
những người đã giác ngộ, hoặc bằng những nghi lễ
bên ngoài cho các tâm thức hạng trung dĩ hạ… Như vậy
là tạm đủ đáp ứng cho nhu cầu khát mong siêu
việt. Đôi khi môn đệ chưa ý thức đủ thì
có thầy giải thích thêm. Ông nói
"sách ẩn hành quái, hậu thế hữu thuật yên,
ngô phất vi chi hỹ, 素 隱 行 怪 , 後 世 有 述 焉 , 吾 弗 為 之 矣, T.D.XI",
tìm tòi những sự bí ẩn, làm những việc
quái đản cho đời sau khen thì ta không làm.
Sao không làm? Vì bề ngoài tưởng đâu
là cao cả đáng tôn đáng quý lắm kỳ
thực chính là lộn trở lại thời vong thân,
không chịu đi hết con đường của nhân đạo: "phần ta cố
tuân theo đạo nhân mà làm, chứ nửa đường trở
lui ta không chịu làm", "quân tử tuân đạo nhi
hành, bán đồ nhi phế, ngô phất năng dĩ hỹ, 君 子 遵 道
而 行 , 半 塗 而 廢 , 吾 弗 能 已 矣 T.D.XI". Vì thế ông cố
tránh cho môn đệ sự rẽ ngang cả về tri lẫn hành. Sách ẩn
là về tri: ông tránh bàn những chuyện xa
xôi. Tử Cống viết: Phu tử chi văn chương khả đắc nhi văn
dã. Phu tử chi ngôn tính dữ thiên đạo, bất
khả đắc nhi văn dã, 夫 子 之 文 章 , 可 得 而 聞 也 ; 夫 子 之 言 性 與 天 道 , 不
可 得 而 聞 也" V.12. Về văn chương của thầy có thể được nghe nhưng
các biện luận về Tính và Thiên Đạo
thì không được nghe. Nói thế
không có ý bảo Khổng gảy ra ngoài những vấn
đề tính thiên địa vì nó đã bao
hàm trong tâm linh. Nhưng đây theo phương
pháp "tuần tuần thiện dụ, 徇 徇 善 誘, IX.10" và "quân
tử chi đạo thí như đăng cao tất tự ty, 君 子 之 道 辟 如 登 高 必 自 卑 ,
T.D.15". Đạo quân tử ví với trèo núi muốn
lên cao thì khởi từ thấp. Có ý chỉ thầy nhắc
lên cho một góc còn ba góc, môn sinh
sẽ nhắc về sau này (qua Tử Tư, Mạnh Tử, Vương Dương Minh). Nghĩa
là những vấn đề Tính mệnh Thiên địa sẽ được quảng
diễn qua các thế hệ về sau, hay đúng hơn đó
là những điều bất khả tư nghị, nên chỉ có thể cảm
nghiệm dần mà thôi. Vì thế
với những người nóng muốn nhảy cẫng như Tử Lộ, ông
đã trả lời một câu làm khoái trá
không biết bao nhiêu học giả: "Quý Lộ vấn sự quỷ
thần. Tử viết: vị năng sự nhân, yên năng sự quỷ. Cảm vấn
tử. Viết: Vị tri sinh yên tri tử, 季 路 問 事 鬼 神 . 子 曰 : 未 能 事 人 , 焉
能 事 鬼 ? 敢 問 死 . 曰 : 未 知 生 , 焉 知 死 ? , XI.2". Quý Lộ hỏi về quỷ
thần; Khổng Tử thưa: người chưa phụng sự xong đã vội tìm
hiểu phụng sự thần. Dám xin hỏi về chết? Thưa: sống chưa xong
sao đã đòi biết chết. Chưa biết người
đã đòi biết quỷ. Chưa biết sống đã đòi biết
chết. Khuynh hướng chung của con người là thích nghĩ đến
những cái cao vọng xa xôi, tưởng như thế mới xứng
đáng chí nam nhi. Kỳ thực thì "mạt chi nan hỹ, 末 之
難 矣, XIV.42", làm cái gần mới là khó, cũng
như chó gần hơn quỷ nên "vẽ chó khó hơn vẽ
quỷ" rất nhiều. Vì thế phải "hạ học nhi thượng đạt,下 學 而 上 達 ,
XIV.37", học khởi đầu từ cái thấp dần dần tiến lên cao.
Hãy nói những cái trước mắt đã: con người
và đạo sống đây này, trờ trờ ra kia còn chưa
biết được, chưa phụng sự được, đã vội bàn những chuyện
bí ẩn xa xôi quỷ thần với tử vong, thiên địa với
tính mệnh! "Phi cầu ích giả dã, 非 求 益 檟 也,
XIV.47", không chịu tiến dần dần (ích) thì
làm sao mà đạt? Chưa học tập làm trong cõi
nhân sinh rõ rệt, vội đi vào cõi quỷ thần
không ai kiểm soát được tha hồ tô điểm. Đấy là
đại lược cái đạo Nhân của Khổng Tử, cũng gọi là đạo
Trung Thứ, tức là đạo người đối xử với người căn cứ trên
chữ Tâm (cả hai nghĩa Trung Thứ đều có chữ tâm đệm
dưới) vì vậy có thể nói rộng ra cho dễ hiểu hơn,
là Nhân bản tâm linh nó hệ tại ở chỗ lấy con
người làm đích điểm tối thượng không cho ai biến
nó ra dụng cụ hoặc lấy gì để lên trên
nó được. "Háo nhân giả vô dĩ thượng chi, 好 仁
者 無 以 上 之 ", người hiếu đức nhân không có lấy
cái gì đặt lên trên nó. Đấy là
một đạo rất vững chắc có nền tảng nhưng ít người nhận ra
khi đọc Luận Ngữ vì nó chỉ được trình bày
cách vụn vặt. Để cho dễ hiểu ta nên đối chiếu với
ít triết thuyết đồng thời. 4. Những thuyết đối
lập Ở đây
khỏi nói đến những đạo sĩ thuật số, pháp môn,
âm dương gia… vì đã quá rõ họ
còn nằm trong trạng thái thứ ba là ma thuật, tức
là còn giam cầm con người dưới ách của túc
mệnh, ý trời qua sấm vĩ, định số, định mệnh v.v… Nói đến
Mặc là người ta nghĩ ngay đến thuyết kiêm ái của
ông. Nhưng thật ra đó chỉ là ý hướng triết
lý không có chi đặc biệt, có chăng là
ở danh từ mà thôi, chứ như ý hướng gồm yêu
thì thiếu gì nơi khác: phiếm ái trong Luận
Ngữ, bác ái bên Kitô, đại đồng trong Kinh Lễ,
đế đạo của Lão Trang, chúng sinh bên Phật. Hơn thế
nữa ta có thể nói không một triết thuyết nào
là không nhằm yêu hết thảy mọi người. Vậy nên
các đặc điểm không nên tìm ở trong ý
hướng nhưng phải tìm ở nguyên lý và chủ
trương. Điều đáng chú ý nơi Mặc Địch là chủ
trương phi mệnh của ông. Ông nhận xét rất
đúng rằng thuyết thiên mệnh khiến người tin đâm ra ỷ
lại, cái gì cũng phó mặc mệnh số vận hành,
con người chỉ việc khoanh tay chờ đợi cách yếm thế và thụ
động trước đời loạn ly, không chịu hoạt động. Vì thế
ông đưa ra thuyết Thiên chí tức là Ý
trời mà Ý trời là muốn cho ta phải gồm yêu
nhau. Đừng về phương diện ý thức mà nói thì
thuyết Thiên chí tiến hơn thuyết Định mệnh vì
đã vượt ra khỏi thế lực mù quáng để nại đến
Thiên chí, là cái gì có
ý thức. Nhưng điều quan
trọng hơn là phải xét ông đã đưa ra những
giải pháp nào? Ông đề ra phương pháp biện
lý bằng phép Tam Biểu gồm: Bản, Nguyên và
Dụng. Ông viết: Bản (gốc) ở
đâu? Thưa trên thì lấy gốc ở việc chánh vương
đời xưa làm căn bổn. Nguyên
(nguồn) ở đâu? Thưa dưới thì dò xét sự thực
ở trước tai mắt trăm họ. Dụng ở
đâu? Rồi đưa ra áp dụng vào hành
chính xem có lợi cho nhà nước cho trăm họ hay
không? Như thế gọi
là Tam Biểu vậy (phi mệnh thượng). Tức là ba tiêu
chuẩn hướng dẫn đạo lý cũng như hành vi. Ta hãy
xét qua từng biểu một. Biểu đầu
tiên là Bản, là cái gốc cũng gọi là
"khảo" tức là khảo cứu sách vở mà ông
dùng là bản gốc! Thật là quá đáng.
Chúng ta có thể dùng sử sách để đi
tìm biết "ôn cố tri tân", nhưng bắt y cứ vào
sách vở làm gốc thì là thư bản không
còn là nhân bản nữa. Thế là đặt sách
vở lên trên con người rồi. Tam giáo Đông
phương không một Đạo nào đặt nền trên sách vở
cả. Lão cho sách vở là cái bã
cái rác. Phật cho là cái bè,
cái ngón tay. Khổng thì nói "từ đạt nhi dĩ
hỹ", dùng lời đạt ý, dùng ý đạt Đạo.
Không ai dám đặt nền trên sách vở cả. Biểu thứ hai về
Nguyên (nguồn) là tai và mắt của muôn
dân. Tai mắt mới là tiểu thể không sao vượt tầm
giác quan hiện tượng, nên cần đến tâm mới là
Đại thể. Vì thế nếu chỉ dừng lại mắt thì là loại
nguồn mà tri thức triết tây kêu là
sensualiste, duy giác. Tức là chuyên dùng
giác quan là tai và mắt (hạ nguyên
sát bách tính nhĩ mục chi thực). Như vậy cố gắng
đến đâu cũng không vượt đượt vong thân thứ bốn.
Vì không có quan năng nào vươn lên
siêu việt. Thượng Đế của Mặc Địch toàn loại tin tưởng,
bày vẽ, tưởng tượng làm bằng chất liệu do tai mắt cống
hiến. Biểu thứ ba
là dụng. Cái chữ này nhắc đến chủ nghĩa ích
dụng (utilitarisme) với tất cả những tính chất thiển cận của
nó, ấy là chưa kể đến tham vọng ở con người mà khi
nói đến lợi đã vô tình gợi ra, cho nên
dù là cái ích lợi chung đi nữa thì
cũng bắt người ta phải tính toán cân nhắc từng cử
động. Không vươn lên tới được những giá trị thẩm mỹ,
siêu việt. Với tam biểu
hẹp hòi nông cạn như thế thì làm sao
tránh khỏi rơi vào bệnh duy: duy một mắt được chú
trọn vẹn cả vào một điểm ích dụng; còn bao
nhiêu mối tình thanh tao cao cả cần được phát triển
bằng nhạc, bằng lễ, bằng văn học, cầm, kỳ, thi, họa thì
ông cấm đoán hết. Con người đâu chỉ cần có ăn
có mặc, "có ngồi dựa lưng để nghỉ" thôi đâu.
Như vậy là ông đã cắt hoạn con người và giản
luợc vào những chiều kích nhãn tiền hạn hẹp
nên nảy sinh những hậu quả tai hại như sau: Nhân
đó dẫn tới thuyết "thượng đồng" nghĩa là người bị trị
phải đồng ý với người cai trị, với người ở trên. "Hễ
cái gì người trên cho là phải thì ai
cũng phải nhận là phải, cho là trái thì ai
cũng phải cho là trái". Thượng chi sở thị, tất giai thị
chi, sở phi tất giai phi chi,尚 之 所 是, 必 皆 是 之, 所 非 必 皆 非 之 (Thượng đồng
thượng) Không
còn gì độc tài hơn. Ông cũng nhận như thế,
nhưng bảo phải độc tài mới tránh được nạn vô
chính phủ. Vì không có đường lối nào
khác! Thiếu chi đường
lối khác. Nhưng nếu chỉ nhắm mắt tin hay cùng lắm
dùng có kiến văn dĩ mục suông thì thấy sao
được đường lối khác. Ông
luôn luôn đưa ra tiền đề giả thiết này: "nếu
thiên hạ gồm yêu nhau", nhược sử thiên hạ kiêm
tương ái, 若 使 天 下 兼 相 愛 , coi như là lợi hại vững
vàng lắm. Có biết đâu rằng từng trăm triết
lý trước ông cũng như sau ông đã ước mong như
thế, đã khiến như thế mà thiên hạ vẫn ghét
nhau kia kìa. Cái đáng chú ý
và là chỗ hơn nhau không nằm trong chữ khiến, nhưng
ở chỗ khiến cách nào. Bởi vì đời sống có
muôn ngóc ngách cản trở việc hiện thực kiêm
ái chứ có phải hễ "khiến thiên hạ gồm yêu
nhau" là thiên hạ yêu nhau được đâu. Mặc Tử
không nhận ra chỗ ấy nên ông đưa ra những lý
luận tràng giang mà chỉ treo vào có một
tiền đề hết sức bấp bênh đó nên nghe đầy ngây
ngô nông cạn. Hồ Thích
tán dương Mặc Tử có nói: "Mòn trán
lỏng gót: cái gì lợi cho thiên hạ thì
làm, như Mặc Tử trong lịch sử Trung Quốc, không thể
có một người thứ hai". Sao lại nói thế, sao không
cám ơn đất trời ở chỗ đã không sinh ra một Mặc Địch
thứ hai, nên các dân tộc Viễn Đông mới được
thoát cái nạn "thượng đồng", thoát cái nạn
trở thành một đoàn tụ vĩ đại, đánh mất đầu
óc sáng tạo, tự chủ bất khuất. Viễn Đông nay
có còn được cái chi đáng tự hào
thì chính vì đã không có một
Mặc Địch thứ hai vậy. Hú vía! Với Danh gia
tôi muốn nói đến những người như Huệ Tử và
Công Tôn Long là những người nổi tiếng về
phép biện luận và thường được gọi là danh gia hay
biện gia. Họ là những người nối chí Mặc Địch đã
nhận ra rằng thuyết kiêm ái không có nền
móng, nên muốn tìm cách xây nền
đó. Huệ Thi đã mượn nguyên lý Đồng nhất của
Lão Trang nhưng thay vì đặt trên Đạo thì lại
đặt vào không thời gian vô biên, vì
vô biên nên mọi phân biệt đều vô nghĩa
cho nên "trời cũng thấp như đất, và núi non
cùng một mực độ với hồ ao", mọi phân biệt đều là
giả tạo, chỉ có đồng không có dị."Tôi biết
Trung tâm trái đất, nó ở mạn bắc nước Yên
(nước cực bắc) và ở mạn nam nước Việt (nước cực nam). Nam bắc
là một. Hôm qua với hôm nay không hai
(hôm nay tôi đi sang nước Việt mà đã đến nơi
hôm qua) vậy thì mọi phân biệt về không gian
và thời gian đều giả tạo, mọi sự là một nên phải
kiêm ái vạn vật. Công
Tôn Long lại tìm đặt nền trên khả năng phân
chia vô hạn "cái dây một thước mỗi ngày lấy
đi một nửa, muôn đời không hết". Khi mới phân chia
tới độ nào đó thì sự vật dị biệt; nhưng chia đến
cùng cực thì lại giống nhau, động tĩnh không
khác: "bóng chim bay không hề động đậy"… Tất cả như
nhau nên phải kiêm ái. Đại để
đó là phép biện luận tuy có ý hướng
tốt nhưng kết cục đốc ra một lối biện luận vụ danh từ phân biệt
chi ly xa thực tế. Vì vậy đã không thể cứu gỡ cho
Mặc Địch khỏi chìm vào quên lãng. Mãi
cho tới thế kỷ vừa rồi mới có một vài học giả hạng ba
khai quật lên nhưng hậu quả không vượt quá mức tầm
khảo cứu và lịch sử. Hiện nay những học giả cỡ lớn đều
công nhận là Mặc Địch mỵ dân, tư tưởng tầm thường,
mà lại đầy mâu thuẫn: tuyên dương hòa
bình chống chiến tranh mà có đến 9 chương
bàn về chinh phạt. Granet cho là "fanatisme triste,
idéal de macération, foi sectaire" (Pensée
Chinoise p.491), Maspéro: "ses principes sont en l'air, sans
aucun point d'appui" (La Chine antique p.439). Lão,
Trang là những người thượng trí đáng bậc thầy, ta
phải khâm phục không dám bừa bãi công
kích. Ở đây chỉ vì việc học hỏi chúng ta
phải bất đắc dĩ nêu ra mấy nhận xét để đặt vị trí
cho triết lý nhân sinh chúng ta đang tìm
hiểu. Những nhận xét này do người sau hiểu sai, nên
trên nói Lão giáo mà không
nói Lão Tử là có ý đó. Điều nhận
xét trước hết là câu "nhân pháp địa,
địa pháp thiên, thiên pháp đạo, đạo
pháp tự nhiên" (ĐĐK. 25). Người khuôn theo đất, đất
khuôn theo trời, trời khuôn theo Đạo, Đạo do tự
nhiên. Ta phải hỏi
ngay sao lại nhân pháp địa? Sao không pháp
Tâm hay pháp Tính, sao lại đặt nền đạo ra
ngoài? Đặt xa như vậy có còn là đạo chăng?
Hay ít nhất có còn thi hành được chăng?
Có khỏi gây thương tổn cho con người ít nhiều
chăng? Thực ra câu trên có thể giải nghĩa lối
khác, nhưng cứ sự đã bị hiểu theo lối "thiên địa
bất nhân" như câu ĐĐK.5: "thiên địa bất nhân:
dĩ vạn vật vi sô cẩu. Thánh nhân bất nhân: dĩ
bách tính vi sô cẩu, 天 地 不 仁 , 以 萬 物 為 芻 狗 ; 聖 人 不
仁 , 以 百 姓 為 芻 狗", thiên địa bất nhân, coi vạn vật như
chó rơm; thánh nhân theo đó cũng bất
nhân, coi bá tánh như chó rơm! Chó
rơm làm bằng rơm hay bằng cỏ khô chét lại, người
xưa dùng để cúng tế rồi tuỳ tiện vứt bỏ, không
chút yêu tiếc (ĐĐK Toản 28). Biết bao lần
Hàn Phi Tử nhắc câu "thiên địa bất nhân"
này để đẩy pháp hình đến mức vô nhân
đạo. Cũng như nương vào chữ "khí trí" của
Lão để bãi bỏ văn chương, học thuật, chỉ giữ lại
có Luật mà thôi. Cũng nên
chú ý chữ thánh nhân trong ĐĐK, bao giờ cũng
chỉ bậc nhân chủ (1) có địa vị cách biệt với kẻ bị
trị rất xa. Có thuyết cho rằng đạo giáo là do
những ông hoàng bị cướp đoạt: princes
depossédées mà nảy sinh. Phải chăng đấy
cũng là lý do giải thích tại sao những chúa
độc tài như Tần Thuỷ Hoàng hay các vua chúa
nhà Hán nặng óc chuyên chế đều yêu
thích Lão Trang. Cho nên một đàng ta
không chút nghi ngờ lòng thành của
các ngài khi cực lực phản đối pháp luật, chế độ…
vì cho những cái đó có thể san phẳng
cá tính con người và đưa đến nhất luật, làm
mất tự do cá nhân. Hơn thế nữa cả đến chữ lễ cũng bị phản
đối cho là nhân vi giả tạo, các ngài chủ
trương phải để mặc tình dân thoả thích tự do,
các ngài chủ trương "Hoàng đạo", "Đế đạo" nghĩa
là còn cao hơn cả Vương đạo một mức nữa vì con
người được tiêu dao du thỏa chí. Nhưng kết quả
sẽ ra sao? Một đàng các tay sáng lập pháp
gia như Thân Bất Hại hay Hàn Phi Tử đều lấy cái học
Hoàng Lão làm căn bổn "danh pháp thuật chi
học nhi kỳ quy bản ư Hoàng Lão,名 法 述 之 學 而 其 歸 本 於 皇 老"
(Sử ký). Trớ trêu hơn nữa là Tư Mã
Thiên xếp Lão vào chung một truyện với Hàn
Phi Tử! Lão Trang phản đối pháp luật, lại trở nên
thánh bổn mạng của những ông trùm pháp luật!
Vô tình sự kiện đó chứng minh cho câu tục
ngữ: "những cái thái quá bắt tay nhau". Đấy là
một lời cảnh cáo nhắc ta phải suy gẫm cực kỹ câu của Khổng
Tử: "Đạo bất viễn nhân, nhân chi vi đạo nhi viễn
nhân, bất khả dĩ vi đạo,道 不 遠 人, 人 之 為 道 而 遠 人, 不 可 以 為 道 "
(T.D.13). Đạo không xa người, đặt đạo xa người thì
không còn là đạo nữa. "Bất khả dĩ vi
đạo" vì hoặc gây tổn thương cho phẩm giá con người
bị coi là sô cẩu hoặc không thi hành được.
Lão Tử có nói "Ngô ngôn thậm dị
trí, thậm dị hành. Thiên hạ mạc năng tri, mạc năng
hành, 吳 言 甚 易 知 ,甚 易 行, 天 下 莫 能 知, 莫 能 行". Lời nói của ta
rất giản dị dễ hiểu, dễ thực hành, mà trong thiên
hạ chẳng ai có thể biết được, chẳng ai có thể thực
hành được. Ba vế trước hãy khoan bàn tới, nhưng vế
thứ tư thì đúng, nghĩa là không ai có
thể làm được. Hãy lấy hai thí dụ điển hình
sau đây. Thứ nhất Lão nói về đạo rằng: "tri bất
ngôn, ngôn bất tri, 知 者 不 言, 言 者 不 知", người biết
không nói còn người nói chính
là tại không biết mới nói. Lý do
thật là sâu xa siêu việt vì tên
nói ra được không phải là Danh thường hằng, tức
không phải là Đạo: Danh khả danh phi thường danh… 名 可 名 非
常 名. Thế nhưng những lời nói về đạo quy cho Lão Tử
có tới năm ngàn lời, và quy cho Trang Tử có
đến gấp 20 lần nhiều hơn tức 100.000 lời. Và ta thực tình
ghi ơn các ngài đã nói, nếu không
thì ta không có những lời thâm thuý
như vậy. Tuy nhiên nếu phải lấy câu "tri bất ngôn"
làm tiêu chuẩn thì rất khó nghĩ vì
có vị hiền triết khác không dám nói
chi về đạo. (Phu tử chi ngôn, tính dữ Thiên đạo, bất
khả đắc nhi văn.) Thí dụ
thứ hai là cả Lão Tử cũng như Trang Tử đều bài
xích việc biện luận và sự công kích đối
phương. "Biện giả dã, hữu bất kiến dã, 辯 者 也, 有 不 見 也",
người biện luận thì có khía cạnh không
trông thấy. Hai chương Tề Vật Luận và Thu Thuỷ đả việc
biện luận cách cực kỳ sâu sắc mấy tay hiện sinh
ngày nay đã Logique chưa thể ví được, trong
đó có câu: "Đại biện bất ngôn", người biện
luận giỏi không nói… Thế nhưng có biết bao lời đả
kích kịch liệt cái đạo nhân, nghĩa, lễ, nhạc của
Khổng Tử, gán vào miệng hai ông và sau
này cái óc hay gây lộn đó được lưu
truyền mạnh trong lòng đạo giáo. Trang Tử hỏi ai biết
được cái phép biện luận không biện luận (Thục tri
bất ngôn chi biện, bất đạo chi đạo? 孰 知 不 言 之 辯, 不 道 之 道). Ở
đây ta cũng nhận xét rằng đó có lẽ là
Khổng Tử đã giữ được câu "công hồ dị đoan tư hại
dã dĩ". Đấy là
hai thí dụ chứng tỏ Lão giáo không được thi
hành. Đời Tam Quốc, Lục Triều là thời Đạo giáo
thịnh đạt hơn hết ta cũng chỉ thấy có những người chủ trương
thanh đàm và phong lưu như nhóm Trúc
lâm thất hiền của Lưu Linh, vua rượu Nguyễn Hàn (uống rượu
bình đẳng với heo), Nguyễn Tịch đả lễ nhạc bằng treo quần
xà loỏng ngày tết. Bàn về
thời đại thịnh đạt của Đạo giáo này, Lương Khải
Siêu cho là suy kém nhất trong khoảng hai
ngàn năm văn hóa Trung Quốc: nó dẫn đến yếm thế
và chủ nghĩ phá hoại (xem Thục IV 273). Ấy là chư
kể "siêu hình biến thành một mớ mê tín
quyền năng ma thuật vụ lợi thấp hèn" (Thục II.32) làm
chìm đắm nhân tâm; khiến những người như Trương Giốc
dùng thuyết Thần thư của Vu Cát làm loạn
thiên hạ, thì cái gốc do Hoàng Lão
phát xuất cả vậy. (Thục IV.30). Đó là một loại
nhận xét bất đắc dĩ phải đưa ra để nhắc nhở rằng Lão
Trang là những bậc thượng trí không dễ gì
hiểu trúng. Nên cần chú trọng kẻo lao đầu theo sẽ
vướng vào nhiều thứ duy thiên lệch. Những lời đả
kích xuất từ miệng Lão Trang nghe thanh thoát.
Đừng vô tình dựa vào đó mà đả
kích lung tung làm hạ giá những lời châu
ngọc của các ngài bao giờ cũng đáng ghi. Huống chi
trong cái đời sốt rét ngột ngạt vì danh lợi của
thời đại này, những lời dạy dỗ đó có công
hiệu như làn gió thổi mát tâm hồn. Ta rất
biết ơn các bậc thầy đã nói lên những lời
đo. Cả đến những bài thơ rượu của Lưu Linh hay những câu
ngộ nghĩnh của Nguyễn Tịch ví người quân tử như rận trong
quần (Thục IV, 252-277) chúng ta cũng có thể đón
nhận cách cảm tình và thấy có một
cái thú vị đặc biệt của các ông Lãng
mạn Đông phương bao giờ cũng bao hàm nét thâm
thúy ẩn bên trong. Và chúng ta cũng
có thể coi đó là những lời cảnh cáo tế nhị
hay là một đảng đối lập đứng đắn nhắc cho những người xử thế
ý tứ đừng có sa lầy vào những lễ nhạc hình
thức; đừng mắc vướng vào trong tương đối mà lãng
quên tuyệt đối. Đấy là
thái độ cao thượng ổn thỏa nhờ đó những bậc túc
nho xưa nay vẫn công nhận được cả Lão Trang xuất thế
và Khổng Tử xử thế. Nhưng nếu không xử thế thì lấy
đâu xuất thế. Nếu bà Lưu Linh cũng đò xuất thế như
ông thì ông lấy rượu đâu mà uống, lấy
xe đâu mà đi, ai thuê người vác mai theo
ông để "khi tao chết thì chôn tao"? Vì vậy
khi thưởng thức Lão Trang xong, chúng ta phải trở lại với
thực tế phũ phàng, trở lại với cuộc sống, mà "sống
là sống với". Nơi đây
Khổng Tử không bảo ta dĩ thiên tri nhân như Mặc, cũng
không dĩ địa trị nhơn như Lão, nhưng là "dĩ
nhân trị nhân,以 人 治 人, T.D.13"(1). Trong cõi người
ta thì mình là phần nhất nên phải "khắc kỷ
phục lễ vi nhân, 克 己 復 禮 為 XII.1". Trong con người (kỷ)
thì tâm sâu hơn trí (ý) vì vậy
mà tu thân khởi đầu tự chính Tâm thành
ý... Đấy là Trung. Chu Hy giải nghĩa Trung là "tận
kỷ chi vị trung, 盡 己 之 喟 中", đi đến tận cùng cái thẩm
cung của minh là trung. Rồi từ đó mà suy ra người
là Thứ: "suy kỷ cập nhân chi vị thứ,推 及 人 之 喟 恣 ". Jame
Legge dịch trung là ở trung thực với những nguyên
lý bản tính của mình, còn thứ là đem
thi hành ra cách nhân ái đối với người
khác: to be true to the principles of our nature and the
benevolent exercise of them to others". Đó là lời một trong những Nhan Hồi đời mới, được tuyển lựa trong số các học giả uyên bác nhất bên Âu Mỹ. Họ là một Keyserling, Hughes, Pauthier, Granet, Jung, Creel, Jaspers, Dawson, Chavannes v.v... và biết bao người khác. Ta hãy kết bằng câu của Zenker: comme penseur, K'oung-tse a été indiscutablement aussi le personnage le plus remarquables que l'humainité ait jamais connus. Les Européens considèrent la tenacité et la persérévence avec lesquelles le Chinois se sont attachès à ce maitre comme un signe de régression en soi insupportable, comme un signe de régression et d'infériorité et ils préfèrent donner la palme à ceux qui, comme Laos-tse, Tchouang-tse, Meiti, Yang tchou, se sont tenus en dehors de la vie spirituelle chinoise. Mais l'Européen qui a étudié K'oung-tse avec soin, finit par éprouver une admiration sans limite pour sa pensée puissante. (His. Ph. C.149) Đại lược: người Tây phương ban đầu tưởng rằng lòng sùng mộ bền bỉ của dân Viễn Đông đối với Khổng Tử là dấu thoái hóa nệ cổ, nên muốn tôn dương Lão, Trang, Mặc thay vào, nhưng khi khảo cứu tinh tường thì lại sinh lòng thán phục vô bờ bến đối với những tư tưởng mãnh liệt của Khổng Tử. IV. CÔNG CỤ GIÁO DỤC CỦA KHỔNG TỬ 1. Tính chất
văn hóa trong hai chương trình giáo dục đông
tây Bàn về triết Đông mà không đề cập vấn đề nghệ thuật tức là không bàn đến một yếu tố cấu tạo của nó mà về phương diện học thuật lại gạt bỏ mất một khía cạnh giàu khả năng biểu thị cách cụ thể nhất, tính chất của một nền triết lý. Sở dĩ nhiều học
giả nhãng bỏ nghệ thuật khi bàn về Nho giáo
là vì họ bị chi phối bởi triết học duy niệm vốn y cứ trọn
vẹn trên lý trí. Tuy ngày nay duy niệm đang
bị công phá ở khắp các nẻo đường, nhưng vì
hậu quả nặng nề hơn 20 thế kỷ duy lý còn đè nặng
trên đầu óc các triết học gia, nên mới nặng
phần đả phá, còn tích cực xây dựng
thì hầu như chưa có gì đáng kể. Để hiểu
thấu đáo chúng ta cần ôn lại một vài
nét của chương trình giáo dục thuộc triết học cổ
điển đã ngự trị cõi trời văn hóa Tây
Âu tới thế kỷ 18, 19. Chương trình giáo dục Trung
cổ Âu Châu được chia làm hai đợt. Đợt
nhất là: Tam niên tiểu học (trivium) gồm ba
môn học là 1. Ngữ luật, 2. Khoa hùng biện,
và 3. Luận lý. Đợt
nhì: từ niên trung học (quadrivium) gồm bốn
môn là 1. Toán học, 2. Hình học, 3.
Thiên văn và 4. Nhạc. Sau đó là đại học
chuyên về thần học. Đối chiếu với Đông phương: Đông
phương thực ra không có chương trình cố định
mà tuỳ thời có thay đổi ít chút trong
vòng ba nhóm như sau: Nhóm thứ nhất có thể là: thi, thư, lễ, nhạc, dành cho trí dục (homo sapiens). Nhóm
thứ
nhì gồm: xạ, ngự, thư, số (homo faber) dành
cho thể dục. Nhóm thứ ba: cầm, kỳ, thi, họa (homo ludens): du hí. So sánh
hai bên chúng ta thấy liền tính chất duy lý
ở chương trình Tây phương cổ điển. Tính chất duy
lý biểu thị bằng lời nói nên ba môn đợt đầu
toàn hướng vào đó cả: 1. Ngữ luật có
ý dạy nói đúng ngữ luật (grammaire), 2.
Hùng biện dạy nói cách trau chuốt hùng hồn
(rhetorique), 3. Danh lý dạy để nói cho đúng
lý sự (ticlique). Sang đợt nhì thì hai khoa
toán và hình học dùng để đo và đếm,
khoa thiên văn để ngắm nhìn. Còn nghệ thuật (thi,
thư…) không có, chỉ có nhạc được giữ là để
phụng sự tôn giáo. Ngược lại chương trình
Đông phương nghiêng nặng về tình về nghệ thuật, thi,
thư, lễ, nhạc, cầm, kỳ, thi, họa hầu hết là nghệ thuật. Chỉ
có thi là dùng đến lời nói nhưng
không là lời lý sự mà là lời
tình tự thường có vũ kèm. Duy có số nhưng
mang nhiều yếu tố tượng trưng như sẽ bàn rộng về sau. Còn
thư là viết chữ cũng được nâng lên hàng nghệ
thuật và có những người lưu danh hậu thế vì chữ
đẹp như Vương Hy Chi, Trương Húc. Hai chương trình
giáo dục cổ đại trên đây nói lên
rõ nhất tính chất lý sự của Tây và
tình thâm của Đông. Nhưng hiện nay triết học đang đổi hướng: một mặt đả phá óc duy lý hẹp hòi, một đàng lại cố gắng đưa vào chương trình tất cả nghệ thuật và đang tranh đấu cho nghệ thuật một địa vị trong triết học, như nói về thi ca, âm nhạc, v.v… Đại biểu lớn nhất của trào lưu này chính là Nietzsche với tác phẩm đầu ta "La naissance de la Tragédie" có thể coi là một biến cố lớn lao trong lịch sử triết học Châu Âu. Nội dung sách đó là một bản át gắt gao óc duy lý của Socrate, đồng thời đặt nổi bật vai trò của bi nhạc kịch trong nền triết cổ đại Hy Lạp trước thời Socrate như đã trình bày trong bài "Truyền Thống" (Triết lý giáo dục). Như thế
là triết học hiện đại Âu Tây đang đi sát lại
gần triết lý Đông phương, và chính nhờ
đó mà chúng ta có thể nhận ra giá
trị của nền Đạo học Truyền Thống. Chúng ta thấy tiên tổ
đã có một ý niệm khá đầy đủ về việc huấn
luyện con người cả đến thể dục cũng được chú trọng (xạ, ngự). Do
đó mà cho thấy tính chất thời đại của cái
học cổ xưa tuy là cổ nhưng lại đáp ứng được nguyện vọng
của con người toàn diện, thành ra khi trở lại khám
phá cái cổ của tiền nhân ta có được
cái thú vị tìm ra những yếu tố dân tộc để
cải tiến chương trình giáo dục, đem lại cho nó
tính chất nhân bản toàn diện hơn hẳn chương
trình ngoại lai quá duy lý đã được
áp dụng. Đó là chuyện dài chúng
tôi sẽ trở lại một dịp khác. Ở đây xin tiếp tục
bàn về nghệ thuật theo khía cạnh triết lý. Để dễ
tiến hành chúng ta sẽ nêu ra ít cứ điểm hầu
hướng dẫn sự khảo sát suy tư. Điều
đáng chú ý trước hết là tìm ra
cái lý do sâu xa tại đâu nghệ thuật lại trở
nên quan trọng đối với triết Đông? Chúng ta
đã có lần nhận định rằng tinh tuý triết đông
không nằm trong những danh từ lộ liễu, những phạm trù minh
bạch có mốc giới đo đếm được, nhưng nó ẩn náu đằng
sau danh từ như cái gì uyên náo âm u,
như cái gì vượt lên trên hình tượng
và rất vi tế nên lời nói không sao miêu
tả hết được, do đó gọi là "hình nhi thượng" hay
là "vô ngôn" hoặc "ẩn ngữ" hay là "Tâm
đạo…" Nếu triết được quan niệm cách siêu vượt như vậy
thì bộ môn nào càng giàu sức gợi
ý càng là những dụng cụ tốt cho triết. Thế
mà nghệ thuật có sức khêu gợi cảm xúc phong
phú hơn danh từ lý luận, vì đó mà
nghệ thuật nắm phần chủ chốt trong chương trình triết
Đông. Đây
là điểm thứ ba cần được mổ xẻ vì nó giúp
khá nhiều vào việc tìm hiểu nghệ thuật. Lời
phán đoán của Fenellosa là lời thông thường
của hầu hết học giả. Dầu thế vẫn hời hợt vì căn cứ trên
quan điểm Tây phương đề cao hội họa trên thi nhạc.
Vì Nho giáo chú ý thi nhạc nhiều nên
bị cho là cản trở hội họa. Có thật Nho học cản bước hội
họa chăng? Sở dĩ người ta tin như thế vì cứ sự Hội họa Trung Hoa
đã phát triển mạnh dưới ảnh hưởng gián tiếp của
Lão Trang. Nói gián tiếp và cứ sự là
có ý nói do hậu quả của chủ trương thanh
đàm và phong lưu đem lại nhiều thì giờ hơn
nên hội họa được phát triển tới tuyệt độ cao; đang
lúc Nho giáo chủ trương xử thế nhập cuộc ít
thì giờ dành cho hội họa, nên coi là cản
trở. Trên kia
tôi gạch chữ cứ sự, là có ý dành
quyền bàn tới điểm cứ lý. Về phương diện này
Lão Trang có những nguyên tắc không lợi cho
hội họa bị coi là hữu vi, giả tạo, lợi xảo v.v… những câu
như: Ngũ sắc linh
nhân mục manh (năm màu làm mù mắt). Ngũ
âm linh nhân nhĩ lung (ngũ âm làm điếc tai), 五
音 令 人 耳 嚨. Hai câu này có lợi cho Họa và
Nhạc chăng? Câu
"tuyệt xảo khí lợi, dứt khéo bỏ lợi" của Lão,
và câu "hay bưng mắt người vẽ bịt tai người chơi nhạc bẻ
ngón tay tinh xảo" của Trang Tử giúp cho sự phát
triển của Họa, Nhạc chỗ nào? Nói
là chống lại Văn minh, Văn học, Nghệ thuật thì
đúng hơn nghĩa là một chủ trương chống đối Nho
giáo cổ vỏ học thuật. Vì thế ngành Hội họa khởi
đầu do ảnh hưởng Nho giáo và chuyên vẽ nhơn
hình, nên thời cựu truyền hội họa đã gọi là
"lối vẽ Khổng Mạnh" có tính cách xã hội
chân dung hậu quả của thể chế thờ tổ tiên. Những họa sĩ đại
biểu giai đoạn này là: Tào Bất Hưng, Vệ Hiệp, Lục
Thâm Vi, và Cố Khải Chi… Có thể
mở ngoặc đơn để thêm ngay rằng lối vẽ sơn thuỷ do Vương Duy thiết
lập thế kỷ VIII cũng sẽ căn cứ trên sáu nguyên tắc
của giai đoạn nhơn hình này. Sáu nguyên tắc
này của Tạ Hách nhằm cấp cho hình vẽ một đời sống
huyền bí siêu việt, một sinh khí, một luồng sống. Vì
sáu nguyên lý này mang theo tính chất
triết lý rõ rệt nên được học giả Đông
Tây năng bàn tới. (Học giả Tây phương bàn kỹ
nhất là ông Petrucci. Có thể xem phỏng dịch của
ông Trương Cam Vinh trong văn hóa nguyệt san số 81, 82 Mai
Juin 1963) 1. Khí
vận sinh động 1)
Nguyên tắc đầu tiên biểu thị cái dịch lý của
âm dương, của triết lý nhân sinh mênh
mông luôn luôn biến động như tinh thần, như
làn sóng mênh mông, mà họa sĩ cần phải
cảm thông được với cái tiết diệu nhịp nhàng của
nó, tìm ra mối liên hệ giữa khí vận
và sự vận hành của vật được vẽ. Nó là đỉnh
cao nhất. Nếu triết lý phải tận cùng bằng siêu thức
thì hội họa phải biểu lộ được khí vận huyền vi. Sao cho
cái vô biên biểu lộ được xuyên qua những
nét vẽ hữu hạn. Đấy là sứ mạng của nghệ thuật. Nói
về Tào Bất Vi vẽ rồng xong bay ra khỏi tấm lụa… là ngụ
ý hiện thực được nguyên lý này. 2)
Nguyên tắc thứ hai: "cốt pháp dụng bút" là
tìm ra cái đặc tính căn bản diễn đạt bằng mấy
nét chấm phá của bút lông, chứ không
cốt sao lại dáng vóc vật lý bên
ngoài, nhưng cốt biểu thị được phần chính yếu tiềm
tàng bên trong, vì thế cần phải nhìn
cây trúc 10 năm, rồi quên hẳn đi thì mới vẽ
ra được cái cốt của cây trúc, phải có cảm
thức vô biên mới biểu lộ ra được cái vô
biên. Do đó họa sĩ phải gạt bỏ những chi tiết tầm thường
trực tiếp để tiến sâu vào thực tại uyên thâm,
nắm lấy cái hồn phổ biến của sự vật. Vì vậy mà lối
Mê (mờ ảo) thường vượt lối Chu (đầy đủ). Lối biểu tượng vượt lối
cá biệt tỷ mỷ. Đó cũng là theo nguyên tắc
triết Đông lướt nhẹ trên dị biệt nhấn mạnh trên Đồng
nhiên. 3)
Ưng vật tả hình sao cho cá vật cân xứng hòa
nhịp với toàn thể. Nguyên lý này cấp cho họa
phẩm Viễn Đông một nét tổng hợp kỳ tài riêng
biệt. Xem một bức tượng Hy Lạp (Appolon thí dụ) ta có cảm
tưởng đứng trước một cái đẹp trọn hảo cân đối và
hợp lý dễ hiểu không có chi là ngoại
lý âm u cả. 4)
Tuỳ loại phó thái. Nguyên lý trước
nói về hình. Nguyên lý thứ tư này
nói về màu sắc. 5)
Kinh doanh vị trí. Nguyên tắc này nói
rõ chất nhân chủ phải đứng đầu không được để
nét bút tùng phục vị trí, nhưng giữ chủ lực
để tự "kinh doanh" chứ không bị suy phục. Phải bảo đảm cho
nét bút một đời sống riêng biệt có ý
nghĩa hẳn hoi theo tâm cảm hơn vật hình (perspective
subjective et non géométrique). Tức theo viễn thị
tâm linh cũng gọi là viễn thị không khí, tức
đứng từ trên cao, từ đỉnh núi nhìn xuống ngược với
viễn thị bình song theo lối cố định bắt hình tượng
tòng phục đường chạy trốn hình học thuộc trắc địa (point
de fuite géométrique kiểu hội họa Tây Âu).
Nghĩa là yếu tố tâm bao giờ cũng nổi vượt trên yếu
tố vật, do đó mà không chịu tôn trọng đường
trốn hình học khiến bức họa Đông phương có sự di
động chứ không tĩnh chỉ như bức họa Tây Âu cổ điển.
"Le manque de perspective géométrique assure à la
peinture Orientale une mobilité essentielle qui n'existe pas
dans la nôtre òu la représentation du mouvement
reste toujours statique." (Peinture Chinoise de Cohn p.12) 6)
Truyền mô di tả. Người tập vẽ phải sao đi chép lại những
bức danh họa truyền đời để cho được nhuần thấm tinh thần truyền thống,
trước khi vẽ một mình. 1) Những
nguyên lý này nặng chất triết lý vì
yếu tố nhân chủ (kinh doanh vị trí, truyền mô di
tả…) bao trùm không những ở nguyên lý 1, 2
thuộc đạo lý nhưng tiêm nhiễm luôn cả những
nguyên lý 5, 6 thuộc "kỹ thuật". 2) Đàng
khác yếu tố khí vận sinh động, hồn thiêng đặt
lên trên những nguyên lý thuộc kỹ thuật vật
lý: tức là đặt Đạo lên trên kỹ thuật. 3) Sự sống được
chú ý như trong lối vẽ thảo trùng (vẽ sâu
và cỏ). Trùng tuy lệ thuộc cây cỏ nhưng không
phải là vật trang trí đậu vào bừa bãi nhưng
là có nơi riêng xứng hợp đã được quan
sát để tìm ra lối sống riêng của mỗi giống. Về "truyền
mô di tả" thuộc kỹ thuật nên là nguyên tắc
kém quan trọng nhất thì những họa sĩ thời nay đã
khá thành công trong việc tả hình thể bề
ngoài và đã lấy được ít nhiều vẻ giống,
nhưng họ không thể tả được phản hưởng của khí vận. Những
tranh của họ có thể khá rực rỡ vì màu
mè nhưng phần bút pháp thật chẳng đáng kể,
sao có thể gọi là tác phẩm của họa sĩ được.
Có thể căn cứ vào thứ tự 6 nguyên lý của Tạ
Hách mà nhận định sự sa sút trong Hội Họa. Trước hết
là hai nguyên tắc 1, 2 thuộc tinh thần (Sinh Đạo vận
hành và bút pháp) mất trước nhất, kế tới
hai nguyên tắc 3, 4 về hình thể và màu sắc
mất sau: tỷ mỷ thêm và dùng màu nhiều. Cuối
cùng hai nguyên tắc 5, 6 vị trí và bắt chước
thuộc kỹ thuật thì giữ được khá. Đó chỉ
là kỹ thuật chuyên môn, tuy là phương tiện
thiết yếu, nhưng không phải cùng đích. Lộc
Sái nói: "không phương pháp (kỹ thuật)
là không tốt, nhưng bao giờ cũng theo phương pháp
lại không tốt. Nghệ sĩ không nên để mình bị
kiềm tỏa trong vòng chuyên môn, nhưng cần biết
siêu thoát biến hóa. Đó là vấn đề Đạo
nghệ vậy. 4.
Đạo
nghệ Đạo nghệ không phải là nghệ
thuật tôn giáo (art religieux) nhằm phụng vụ tôn
giáo phần nhiều hình thức vì thế nghệ thuật dễ bị
gò bó trong khuôn khổ… Đạo nghệ cũng phải là nghệ thuật vị
nghệ thuật, là một sự phản động chống lại nghệ thuật phục vụ
nên cũng còn nằm trên một bình diện và
thường biểu lộ sự kém cỏi về khả năng phán đoán.
Những thi sĩ đời mạt Hán (phú) đời Lục triều (duy mỹ) kể
là lạc hướng. Đạo nghệ xuất phát do sự nổi vượt của
yếu tố nhân chủ trên cảnh vật trong quan niệm nghệ thuật
Đông phương. Do đó nhân cách nghệ sĩ được coi
trọng hơn kỹ thuật: nhân cách cao siêu thì
nghệ phẩm cũng cao siêu theo đà như bóng với
hình. Cái tài đó vượt xa
chuyên môn kỹ thuật tuy không bị lãng
quên nhưng luôn luôn để xuống hàng dưới.
Và chúng ta thấy những thời nghệ thuật suy vi thì
không phải thiếu chuyên môn, nhưng là thiếu
cái tinh thần đạo nghệ. Đạo nghệ phải khám phá
và diễn tả thần linh hay là Thái Hòa tức
hòa hợp cái vô biên vào những
cái hữu hạn, đang tàng ẩn trong vũ trụ bằng tiết điệu thế
nào cho người thưởng ngoạn được cảm thấy và như tham dự
vào. L'artiste se propose de découvrir, de
traduire et de nous faire percevoir le Divin ou l'Harmonie qui
s'exprime dans le monde par le rythme et de nous y faire participer
activement. (Herbert p.576, Intro. à l'Asie) Ông Byng nhận xét về nghệ thuật
Đông phương có nói: "nghệ thuật ở đây
là chú trọng đến cái gì nằm ngầm bên
trong những hình dáng sự vật, là tìm mặc
khải ra cái ánh sáng và tiết điệu thuộc
cái thực tại đại đồng". (Vision of Asia 65) Như thế nghệ thuật cũng như Minh triết đều
nhằm một mục đích như nhau là cảm thông được với
nguồn suối tâm linh bát ngát đang ngầm chảy trong
mọi người cũng như trong muôn vật. Tuy mục đích là
một nhưng phương tiện khác nhau. Triết gia thì
tuyên ngôn những nguyên lý những luật tắc,
còn nghệ sĩ lại phải từ một chi tiết cụ thể dùng
làm trung gian để vươn lên tiếp xúc với thực tại
sâu thẳm để "hội thông" với hồn linh thiêng của vũ
trụ. Nghệ sĩ chính tông phải đem hết tâm hồn
ý chí dồn vào việc cảm thông tiếp xúc
được với nguồn Mỹ cảm tự tại đó, và nghệ phẩm phải biểu
hiện ra được một "làn khí" thiêng liêng
khôn tả đó để giải bày cho người phàm tục
được thấy một chút gì của thế giới vi tế diệu huyền. Như
vậy nghệ sĩ trung thực không đặt trọng tâm vào kỹ
thuật phải được coi là phương tiện tuỳ phụ nhưng phải chú
tâm vào điểm nhập thần vật hóa (extase) để cho thần
được thức mà rung cùng nhịp với tiết điệu của vũ trụ của
nguồn sống thống nhất sáng tạo. Muốn đạt đích đó,
ông Coomaraswamy nhận xét về nghệ sĩ Ấn Độ trước khi hiện
thực một tác phẩm, nhiều khi họ thi hành một số nghi tiết
nhằm mục đích xóa nhòa ảnh hưởng của ý
thức, của lý trí để nhường chỗ cho những năng khiếu ẩn
trong tiềm thức tỏa ra hầu giúp vào việc đồng hóa
với Mô dạng. Thi sĩ An-sook-Poong đã trai giới suốt cả
trăm ngày để viết một chữ để đặt trước điện. Một thợ rèn
Nhật Bổn đã trai tịnh 21 ngày để làm một lưỡi
gươm. Có người định vẽ một con gà phải trầm ngâm
soạn sửa cả một năm. Nhất là việc điểm nhãn đòi
nhiều công phu, người ta quen nói "họa long điểm
nhãn" là để chỉ việc nắm được then chốt của hội họa. Cố
Khải Chi đã phải để 20 năm suy tư mới dám điểm mắt cho
một bức chân dung. Nghệ sĩ kiểu đó có thể gọi
là giáo sĩ của Đạo Nghệ, họ lo lắng thanh tẩy tâm
hồn làm bí thuật thành công, vượt xa việc
tập luyện kỹ thuật. Thường họ dành ra một thời gian
lâu dài để suy tư là cốt được thấm nhập cái
tinh tuý, phân biệt và chọn lấy cái cốt tuỷ,
để cho nó nổi vượt lên xóa mờ hay lấn át hẳn
những tiểu tiết cá tính, nhưng phải làm sao cho
tác phẩm lại gợi ra được cái toàn thể mà
không phương hại cho óc tưởng tượng. Ông Herbert
nhận xét nếu nghệ thuật Tây phương có khuynh hướng
biểu lộ những cái cụ thể thuộc cá tính, những sự
xác thiết trong không gian và thời gian, thì
nghệ thuật Đông phương lại tìm diện tả cái đại đồng
bất dị. Bên Âu hầu bao giờ người ta cũng có thể biết
được ai đã đứng làm kiểu cho nghệ sĩ trong một tác
phẩm hội họa hay điêu khắc, dẫu có tính cách
biểu tượng đến đâu người ta cũng nhận ra được đã vẽ trước
phong cảnh nào, lấy ai làm mẫu. Thí dụ nghệ sĩ vẽ
hay khắc tượng Đức Jesus thì cũng dùng một hay hai ba mẫu
mà họ cố lặp lại cả đến những đặc thù về cơ thể
(caractéristiques anatomiques). Trái lại không thể nhận ra điều
đó trong nghệ phẩm Viễn Đông, nơi đây những
nét cá biệt đã được trút bỏ hầu hết.
Không trọng sự tỉ mỉ, họ tránh sự làm trọn vẹn
mà chỉ cốt đưa ra được những nét chấm phá
giàu chất khêu gợi, do đó thường để những chỗ trống
trong tranh dường như cho người thưởng thức tham dự vào
công trình tạo tác… Ông Herbert nhận
xét bên Nhật có những trà thất để một
vài chỗ chưa xong (Asie 599) như để cơ hội cho người thưởng thức
tìm ra và hoàn thành lấy để cảm thấy
mình cũng dự phần sáng tạo để có thể thả tâm
hồn vào chỗ hư vô đặng trôi theo dòng cảm
xúc. Đó cũng là áp dụng lối "cử nhất ngung"
mà không nhấc hết 4 góc, cả hai đều theo tinh thần
Kinh Dịch tận cùng bằng quẻ Vị Tế nghĩa là chưa xong.
Đó cũng là một bằng chứng tỏ ra Minh triết và nghệ
thuật gặp nhau vậy. Người nay khi in lại tác phẩm (như
quyển Dictionnaire des Oeuvres chẳng hạn) có lúc nối liền
nét đứt hay là tô rõ những đường viền lờ mờ
là làm sai ý hướng của người xưa. Cũng nên
kể vào số này những người Viễn Đông khi xem tranh
xưa chỉ cố tìm ra sự lỗi luật hình và sắc,
tìm ra sự cân đối mà không cố tìm hiểu
cái tinh thần thiêng liêng, cái hồn vô
biên ẩn sau, thì thật tỏ ra đã bật rễ lắm rồi. Họ
có biết đâu rằng chính những nghệ sĩ Tây
phương thời mới "từ Rimbaud đến Breton, từ Picasso đến Gauguin" đang từ
bỏ những sình lầy Tây phương để được trở lại với
Đông phương, trở lại với nền Minh triết sơ thuỷ và vĩnh
cửu "ils guittent les marais occidentauz pour retourner à
l'Orient et la sagesse première et éternelle" (une saison
un enfer cité dans Encyclopédie Francaise, 20.28.8). Bởi
những luật tắc về hình sắc và những nét cá
thể tuy có giúp cho "sao lại" thiên nhiên,
nhưng lại trói buộc vào vật chất và không
giúp diễn đạt được cái nhìn nội tâm của họa
sĩ. Chính vì đã cố
siêu lên trên những luật hình với sắc
mà nghệ sĩ Đông phương đã đạt những kết quả
siêu thặng biểu lộ được sự thiêng liên. Ông
Byng viết: "Sự đóng góp lớn lao của Trung Hoa vào
di sản nhân loại là ở chỗ các nghệ sĩ của họ biết
nhìn thấu vào được cái thần linh tính trong
mọi hoàn cảnh của đời sống bí ẩn và hiện
còn đang chờ đợi được khám phá ra do những tay
phiêu lưu đi tìm hòa điệu". "La grande contribution de la Chine à
la cause de l'humanité se trouve dans la profonde reconnaissance
par ses articles de la divinité en toute ambiance de la vie
secrète qui attend d'être découverte par les
aventuriers de l'harmonie." (P.C.Cohn 208) Nhận xét quân bình
trên đây vừa kiện chứng nguyên tắc chúng ta
đã nêu lên ở trên: "Đông chú
trọng tâm tình, Tây chú trọng lý
trí", đồng thời giúp hiểu rõ hai quan điểm
khác nhau ở chỗ nào, khỏi phải trói buộc
mình vào một quan điểm duy nhất mà không
còn biết nhìn cái đẹp có muôn
khía cạnh tuỳ quan điểm khác nhau mà biểu lộ dị
biệt, điều đó phải áp dụng vào cả thi, thư, lễ
và nhạc. Có người viết: "Tôn giáo
của dân Viễn Đông chính là nghệ thuật".
Câu nói đó không phải là quá
đáng khi bàn về đại diện những phần tử đại trí
thức, vì Viễn Đông thường dành cho nghệ thuật một
ý nghĩa hầu như huyền niệm. Nhiều học giả lấy làm lạ tại
sao Khổng Tử thí dụ óc rất thiết thực lại gán cho
thi nhạc một sức huyền bí là tại đó. Bởi vì
với Khổng thì nghệ thuật cũng theo đuổi một mục phiêu như
Minh triết tức là "suất tính", mà tính
là Thiên mệnh, đã nói đến Thiên mệnh
là nói đến cái gì vô biên huyền
ảo vậy. Ngày nay thì quan điểm
Đông phương đã được thừa nhận, tuy nhiên người
mình cần thấu triệt để giữ vững hướng tiến. Âu Châu
hiện đang phá đổ mọi luật hình sắc mà còn
phá luôn cả đề tài, sợ đề tài ngoạn mục lưu
hết chú ý không còn để tự do sáng
tạo. Tuy nhiên vẫn chưa đưa ra được một đường hướng vững chắc để
tiến đến nguồn mạch của Mỹ. Đó là chỗ phải lưu ý:
Đông phương không quá chú trọng đề tài
như Âu Châu cổ điển nhưng vẫn còn dùng để
làm bàn nhún. Nhờ đó không xa
lìa khỏi phàm nhân mà nghệ sĩ chính
tông vẫn không bao giờ bỏ nghĩa vụ nâng đỡ họ
giúp họ siêu lên nhìn ra được cái linh
diệu ẩn ngay trong những cái nhỏ hẹp của cuộc sống thường
ngày, để bay vào cõi u linh huyền diệu. Đàng khác sự thừa nhận quan
điểm Đông phương không cho phép ta hạn hẹp nghệ
thuật vào hội họa, điêu khắc mà cần mở rộng cho thi
cho nhạc để nhìn thấy sự đóng góp của Khổng Tử
nó ở tại chỗ ông đã đề cao thi, đề cao nhạc. Trước
ông chức trưởng nhạc thế tập thường bị coi khinh, nhưng ông
đã xử đối tôn trọng như mọi người, hơn nữa như thầy (Sư
Khoáng). Nhờ đề cao thi và nhạc mà ông
đã gây sự điều hòa cân đối giữa nhân
tình và thiên nhiên. Với Lão
"thiên địa vô tình" có thể làm ngạt
thở con người, thì với Khổng "non nước hữu tình" nghệ
thuật thêm vây cánh cho nhân sinh. Ở
Lão Trang ta thấy nhấn mạnh đến tiêu dao du trong
thiên nhiên bát ngát, thì ở Khổng ta
thấy chú trọng đến con người như Petrucci đã nhận
xét sâu xa rằng Khổng Tử đã đưa lại thế quân
bình cho một quan niệm đôi khi môn phái
Lão Trang đã để thiên nhiên lấn át.
Nhờ đó những quan niệm vũ trụ sinh thành thái cổ
được đưa gần xuống tỉ xích con người: từ thiên địa xuống
núi sông, từ núi sông đến thuỷ hò, nam
nữ... Le système fondé par lui (Khổng) trouve cette
conception de la nature prêtant à l'ensemble des
êtres une destinée égale, un intérêt
réel… Le vaste système des cosmogonies primitives se
trouve ainsi ramené à la proportion humaine p.23 (xem
thêm Malraux 320 Voix du silence). Hughes nhận xét rằng có lẽ nhờ
quan điểm Trung dung như thế mà một nghệ sĩ Viễn Đông giữ
được thế quân bình cân đối "It may well be that here
the artiste genius of the Chinese people asserts itself, desiring in
the intellectual realm expression of a sense proportion, of balance and
subtle harmony… XXXIII Nếu nghệ thuật là hòa hợp l'art
c'est l'harmonie như ngạn ngữ nói thì Khổng Tử quả
là một nghệ sĩ lớn lao đến độ không những biết hiện thực
mối thái hòa ở giữa thiên với địa mà biết
tỏa sang hàng ngang dung hòa người với người trong một
nghệ thuật rất tế vi linh động tức là nghệ thuật sống vậy (Kinh
Lễ). Đó là mấy nhận xét đại
lược về mặt triết lý nghệ thuật chỉ nhằm mục đích
khiêm tốn là trình bày hai thế giới
khác nhau hẳn; từ lối kinh doanh vị trí, viễn thị
không khí đến lối Mê trên Cka (mờ ảo hơn
là trọn vẹn), nhân chủ choán ngoại cảnh và
nhất là ảnh hưởng mãnh liệt của triết lý đem lại
cho nghệ thuật Á Đông cũng như các khoa học
khác một sự thống nhất lẫm liệt (unité impressionnante.
Petrucci) không có bên văn hóa Tây
Âu. Điều nên chú ý là
sự phân biệt Đông Tây ở đây cũng chỉ có
giá trị đến thế kỷ 19. Vì nay Tây phương đã
phá hết mọi quy luật hội họa cổ điển để đi vào lối
siêu thực và trừu tượng thì những nhận xét
trên không còn thể áp dụng ý
nguyên. Và Đông cũng như Tây hiện đang đi
tìm đường hướng mới. Tuy nhiên những nguyên
lý Đông phương còn chứa nhiều hơn những yếu tố khả
thủ chẳng hạn lối mê, lối siêu thoát trong hội họa
có thể gợi hứng cho những lối siêu thực, lập thể đang
lúng túng trong ngõ bí chỉ biểu lộ được
trạng thái sứt mẻ, rách nát của người thời đại
mà thiếu hòa hợp và hậu tình nên chưa
thấy đâu là lối thoát để đặt con người vào
toàn thể như Jung cảm nghĩ trước các họa phẩm của Picasso
(Les problèmes de l'âme moderne p.443-447). Triết lý với nghệ thuật liên hệ
mật thiết như hình với bóng, như biểu tượng cụ thể của
những ý niệm trừu tượng. Để thấy rõ điểm này
chúng ta dùng bốn loại căn nguyên của Triết
lý cổ điển làm điểm tựa để minh biện, đó
là: 1. Căn nguyên mô hình:
cause formelle Lấy đại cương mà bàn thì
nghệ thuật Tây phương chú trọng tới ba căn nguyên
trên. Socrate quan niệm đẹp là cái gì
có ích dụng, tức căn nguyên của cùng
đích. Còn Platon chú trọng tới căn nguyên
Hình Thức cho là cao trọng nhất (causa formalis nobilior)
nên nghệ thuật cũng trọng hình thức, tuân theo đường
hình học có tính chất bất động. Aristote
chú ý tới căn nguyên vật chất với chủ trương duy
thực (réalisme) ảnh hưởng vào khuynh hướng sao
chép từng nét tỷ mỷ của thiên nhiên: coi
thiên nhiên đã có sẵn sự cân đối
và nhất trí rồi chỉ cần chụp lại, tả chân… Cả ba
căn nguyên có chỗ gặp nhau là thuộc sự vật ngoại
tại khách quan, tức là nghệ sĩ chú trọng đến sự
quan sát sự vật bên ngoài nhiều hơn chú
ý đến nội tâm. Ngược lại nghệ thuật Đông phương
có thể nói là chú ý đến căn
nguyên tác động của chủ thể nội quan, chú trọng đến
thanh luyện tâm hồn như đã bàn ở đạo nghệ,
và ở những nguyên tắc của Tạ Hách đặt nổi tầm quan
trọng của chủ quan. Có thể nói là chủ thể nắm
chính quyền không cần vâng theo luật đường trốn
hình học hoặc không buộc chép những nét tỷ
mỷ, nhưng được phép "Tòng Tâm" để mô tả
và kinh doanh vị trí. Nhận xét trên đây tuy chỉ
có tính cách đại cương nhưng trong buổi xáo
trộn khủng hoảng cả trong phạm vi triết lý cũng như nghệ thuật
hiện đại tưởng có thể giúp gợi lên vài ba
tia sáng. Và có lẽ đó cũng là hướng
tiến của Âu Châu. Hégel cho thời lãng mạn
tiến hơn cổ điển ở chỗ biết từ bỏ cái thực tại bên
ngoài để quay về nội tâm mà tìm ra
cái thực tại hợp cho vũ trụ linh thiêng của nó.
"Abandonner cette réalité extérieure pour se
replier en lui-même pour trouver la seule réalité
qui lui correspond dans son propre monde, le monde spirituel et
intérieur de l'âme. Du Romantisme en général 3-séction.
|