Việt Nam Văn Hiến
Năm Thứ 4889

 www.vietnamvanhien.net



Thơ Vô Đề
Tác Giả Vô Danh


Ðây là công trình làm việc suốt hai mươi năm trời của tôi. Phần lớn được sáng tác trong những năm tôi bị quản thúc. Tôi nghĩ rằng không phải ai khác mà chính chúng tôi, những nạn nhân, có sứ mạng phải phơi bày cho thế giới thấy những khổ nhục không thể tưởng tượng nổi của dân tộc tôi, hiện nay vẫn còn đang bị áp chế và hành hạ thẳng tay. Cuộc đời tan nát của tôi chỉ còn một hy vọng là nhìn thấy thế giới ý thức được rằng Cộng sản là một bệnh dịch khủng khiếp của nhân loại.

http://thovodetacgiavodanh.blogspot.com

     Tiếp Theo...

 

Mục Lục

* 142-Sẽ có một ngày...(1971)
* 143-Nghĩ tới cuộc đời...(1970)
* 144-Tôi tin chắc...(1969)
* 145-Tôi đi một mình...(1969)
* 146-Chìm thỏm giữa...(1973)
* 147-Không phải chết…(1973)
* 148-Cung đàn bịp...(1968)
* 149-Lòng vẫn nhớ...(1976)
* 150-Đừng sợ... (1975)
* 151-Hiện tại...(1968)
* 152-Đêm nay...(1962)
* 153-Thời tiết tàn thu...(1959)
* 154-Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa (1967)
* 155-Ôi mảnh đất (1967)
* 156-Giống như kẻ mù lòa...(1963)
* 157-Ngày qua...(1964)
* 158-Tôi đã đi...(1963)
* 159-Khi Na Tra...(1972)
* 160-Giữa nắng... (1970)
* 161-Nơi đây...(1974)
* 162-Ngày xuân tới...(1961)
* 163-Những truyện...(1967)
* 164-Ốm đau không thuốc...(1968)
* 165-Chúng tôi sống... (1962)
* 166-Không lối thoát... (1973)
* 167-Thư nhà (1967)
* 168-Nào có biết gì...(1971)
* 169-Biết đến bao giờ...(1966)
* 170-Từ trẻ tới già...(1973)
* 171-Ôi, người là... (1974)
* 172-Tôi nằm trên... (1962)
* 173-Xuân này chẳng khác...(1961)
* 174-Nếu một ngày mai...(1960)
* 175-Tôi sống mãi...(1961)
* 176-Khi số phận... (1962)
* 177-Chiều thứ bảy (1968)
* 178-Năm bảy mươi... (1970)
* 179-Hằng nga... (1965)
* 180-Mẹ ơi (1970)
* 181-Mắt em...(1957)
* 182-Tình câm (1963)
* 183-Tôi vẫn mơ hoài...(1960)
* 184-Bà kia...(1961)
* 185-Tình mơ (1963)
* 186-Cái thời Chiến Quốc...(1970)
* 187-Trời u ám...(1962)
* 188-Khi tổ quốc...(1972)
* 189-Đau đớn lắm...(1970)
* 188 Đoản Khúc




142 -
Sẽ có một ngày...


Sẽ có một ngày con người hôm nay
Vất súng, vất cùm, vất cờ, vất Ðảng,
Đội lại khăn tang, quay ngang vòng nạng
Oan khiên!
Về với miếu đường, mồ mả, gia tiên.
Mấy chục năm trời bức bách lãng quên
Bao hận thù độc địa dấy lên
Theo hương khói êm lan, tan về cao rộng
Tất cả bị lùa qua cơn ác mộng
Kẻ lọc lừa, kẻ bạo lực xô chân
Sống sót về đây an nhờ phúc phận
Trong buổi đoàn viên huynh đệ tương thân
Đứng bên nhau trên mất mát quây quần
Kẻ bùi ngùi hối hận
Kẻ bồi hồi kính cẩn
Đặt vòng hoa tái ngộ lên mộ cha ông
Khai sáng kỷ nguyên tã trắng thắng cờ hồng
Tiếng sáo mục đồng êm ả
Tình quê tha thiết ngân nga
Thay tiếng Tiến Quân Ca
Và Quốc Tế Ca
Là tiếng sáo diều trên trời xanh bao la!
(1971)
143 - Nghĩ tới cuộc đời...

Nghĩ tới cuộc đời, nghĩ tới tương lai
Là tim muốn nát ra vì vỡ nát
Không nghĩ tới gì, không nghĩ tới ai
Thì lửa đói đốt thiêu lòng rộp rát!
34 VÔ ĐỀ
Hai nỗi khổ như là hai cái tát
Giáng vào hai má chính cuộc đời trai
Bị ngục tù ủ mốc, bốc mùi hoai!
(1970)
144 - Tôi tin chắc...

Tôi tin chắc một điều
Một điều tất yếu
Là ngày mai mặt trời sẽ chiếu
Tôi lại nghĩ một điều
Một điều sâu thẳm
Là đêm tàn Cộng Sản tối tăm
Có thể kéo dài hàng mấy mươi năm
Và như thế sẽ buồn lắm lắm
Cho kiếp người sống chẳng bao lăm!
(1969)
145 - Tôi đi một mình...

Tôi đi một mình trong đêm trầm
Cửa đóng âm thầm, phố vắng thênh thang
Hai dãy cây tăm tắp thẳng hàng
Bên hè, cúi đầu sờ sững
Một mình đi lững thững
Bụi mưa rơi
Nước mắt cô đơn vì sao khóc trên trời!
Gió ngừng hơi
Cây lá nghẹn lời
Không biết giờ này năm tới
Mình còn đi in bóng với cây không?
Có con gì vụt qua đường không tiếng động
Một con mèo, có thể là con chuột cống
Mắt mình ngày một kém đi
Ngày trước khi buồn
Mình thường thẩn thơ, ước mơ suy nghĩ
Giờ chẳng ước mơ chi
Nhưng còn suy nghĩ
Suy nghĩ thích hơn nằm nghỉ.
Đôi tình nhân sát vào nhau, thủ thỉ
Không biết rằng họ có hiểu họ đang đi
Trên quãng đường lằn xích tăng khủng khiếp!
Quãng đường cổ kim hiền triết
Dốc cả niềm tin san bỏ vẫn chẳng thành!
Bóng ngả lênh khênh
Gù gù, tóc bù, thất thểu
Ý nghĩ đắng cay khởi đầu bằng tiếng Nếu
Lăm le chăng lưới
Khiến mình cười
(Cái cười vẽ nên hình cái mếu!)
Xe sở công an lóe đôi đèn chiếu
Vụt qua, và mất hút đàng xa
Ôi chiếc đèn pha!
Ánh man mọi chĩa vào đâu tầm nã?
Ngươi đã lùa tan sự yên tĩnh bao nhà?
Một chiếc xe thùng lọc xọc lăn qua
Khiến cô gái làng chơi đương ngồi thừ trên ghế đá
Chửi một câu tục tĩu giữa vườn hoa
(Nguyên là ngôi chùa thời thuộc Pháp)
Ờ, nghĩ lại cái thời thuộc Pháp
Càng thương cô gái làng chơi
Chân đít suốt đời như thế!
Anh hàng phở ế
Mấy năm rồi còn ôm gối ngồi đây
Những chiếc đùi gà béo căng mỡ chảy!
(Ngày mai mình sẽ ăn cơm)
Đường phố này ngan ngát giống hoa thơm
Về đêm hương mới tỏa
Nhưng đời ưa hái quả
Hương buồn thơ thẩn trong đêm...
Một đống xương da co quắp trên thềm
Trên mặt thềm bóng đen, nhẵn thín
Giống như in mặt mũi cuộc đời!
NgưTrẻa mặt trông trời
Trời mờ bụi mưa rơi
Cúi mặt nhìn đất
Đất ướt đầm nước mắt
Chắc chắn mùa đông sẽ còn cắn chặt
Hàm răng ma băng giá
Lên da thịt loài người
Loài chỉ dám cười, không dám khóc!
Từng đống gạch vôi tung bừa ngang dọc
Những ngôi nhà cũ phá đi
Những ngôi nhà đầy đủ tiện nghi
Lũ cháu mình sẽ dắt nhau tới ở!
Loanh quanh lại anh hàng phở
Những chiếc đùi gà béo căng nước mỡ!
(Cháu mình rồi cũng có chân tay)
Những ai kia mà húp híp mặt mày
À, aTrẻnh mấy tay thầu khoán
Chuyên nghề vẽ bậy
Kiểu thiên đường khủng khiếp dựng đây!
(Cổ chúng thiếu sợi dây thòng lọng!)
Mình đã quên một điều quan trọng
Là về đêm
Mọi vật đều yên
Mọi mắt nhắm nghiền
Không động đậy!
Thôi về ngủ, mặt trời lên, sẽ dậy.
(1969)
146 - Chìm thỏm giữa...

Chìm thỏm giữa biển mù đen xẫm
Giữa thanh âm muôn loại vỗ vang ầm
Giữa vấp va, ôi kiếp sống âm thầm
Đêm vô tận, hướng về đâu, mò mẫm?
Người bình tĩnh, gậy dò la, bước chậm!
Hồn cùm giam trong chiếc bị xin cơm
Mặt thỏa thuê khi ngửi thấy mùi thơm
Một mẩu cháy đầy ngô thừa buổi sớm
Biển thẳm đen sẽ trở thành ghê gớm
Nếu hồn người thoát khỏi ngục đen kia
Nhìn người đi hồn và xác chia lìa
Bao xúc động lòng ta dồn cả lại
Ta cũng sống trong khốn cùng quằn quại
Nhưng người ơi, người mới thật bi thương
Kiếp sống cầu bơ, xó chợ đầu đường
Đã biến mặt người thành ra súc vật
Ôi, đó mới là điều kinh khủng nhất!
Không phải chết...
Không phải chết, sống mỏi mòn mới khiếp
Sống niêu cơm, manh áo cũng đọa đày
Sống yên lành, song cũng khó yên thay
Sống lao tù, sống bệnh hoạn lắt lay
Sống đau nhức cả thần kinh bắp thịt
Sống giương mắt đở ngầu trong xám xịt
Năm tháng kéo ùn ùn lên bất tuyệt
Ôi sống thế chẳng thà tự diệt
Mà không hề lưỡng lự mảy may
Thiên đường hay địa ngục cũng đi ngay
Nhưng một niềm hy vọng đắng cay
Đã đóng chặt ta xuống mảnh đất này!
(1973)
147 - Không phải chết…

Không phải chết, sống mỏi mòn mới khiếp
Sống niêu cơm, manh áo cũng đọa đày
Sống yên lành, song cũng khó yên thay
Sống lao tù, sống bệnh họan lắt lay
Sống đau nhức cả thần kinh bắp thịt
Sống giương mát đỏ ngầu trong xám xịt
Năm tháng kéo ùn ùn lên bất tuyệt
Ôi sống thế chẳng thà tự diệt
Mà không hề lưỡng lự mảy may
Thiên đường hay địa ngục cũng đi ngay
Nhưng một niềm hy vọng đắng cay
Đã đóng chặt ta xuống mãnh đất này!
(1973)
148 - Cung đàn bịp...

Cung đàn bịp bợm năm xưa
Giờ nghe lạc lõng nhuốc nhơ, lỗi thời
Lừa dân mấy chục năm trời
Dã tâm quỷ sứ đã phơi rõ ràng
Ngốc ngu chúng vẫn mơ màng
Mở nguyên đĩa cũ tiếng vang đã rè
Điếc tai nhức óc chán phè
Lắm người đập cả đài nghe xuống đường
Để rồi rời bỏ gia hương
Sống đời tù ngục mục xương trên rừng!
(1968)
149 - Lòng vẫn nhớ...

Lòng vẫn nhớ làm sao cái ngày lạnh đói
Hành trang một gói lên đường
Giữa quãng đêm trường rời bỏ quê hương
Rời bỏ gia đình,
Tình thương đứt ruột!
Thôi rồi, đời đi suốt từ đây
Vĩnh biệt từ đây
Vĩnh biệt!
Ngày về nào biết khi nao?
Cửa sắt tù lao
Khép chặt!
Mẹ cha già sống trong héo hắt
Thương đau...
Lần lượt cùng nhau khuất bóng
Chẳng còn trông ngóng
Đứa con tù vô tội
Trong các trại tù tăm tối nhất dương gian!
(1976)
150 - Đừng sợ...

Đừng sợ cái cực kỳ man rợ
Dù nó đương thịnh thời rông rỡ nơi nơi
Phải vững tin vào bước tiến con người
Vì khi nó bị dìm ngang súc vật
Cũng là lúc nó tìm ra sức bật
Đau thương kỳ diệu đi lên!
Từ muôn ngàn tàn lụi không tên
Sẽ bùng nở một trời hoa lạ quý
Từ đêm cùng chập chùng chuyên chế
36 VÔ ĐỀ
Văn minh nghệ thuật chồi sinh
Chỉ xót cho lớp trẻ hiện hình
Của đói khổ, tù đầy, nhem nhuốc
Phải cứu chúng, phải tìm ra phương thuốc
Dù là thuốc nổ!
(1975)
151 - Hiện tại...

Hiện tại mồ hôi chùi xóa nhẵn
In hình đen xạm xuống da nhăn
Tròn ba mươi tuổi xòe tay trắng
Nắn bóp đôi chân nát sẹo lằn
Quá khứ mang đầy những khát khao
Vỡ tan ngàn mảnh cắm sâu vào...
Quay đầu ngoảnh lại trông chi nữa?
Hãy cố dần lê tới hố đào!
Đợi chờ ngày tháng không mang lại
Thân thế chìm trong tiếng thở dài
Thôi nếu tim còn dư chút mực
Trang đời xin gạch chữ Tương Lai.
(1968)
152 - Đêm nay...

Đêm nay đông đã tràn về
Từng cơn gió lạnh, tái tê đất trời
Rừng cây trút lá bời bời
Non xa lạnh vắng sao trời mờ sương
Chạnh lòng nhớ tới quê hương
Cách xa kể đã gió sương mấy mùa
Buồn thay số phận thiệt thua
Sa chân một bước xót chua một đời
Mẹ cha ở chốn chân trời
Thương con chắc hẳn lệ rơi đã nhiều
Tuổi già sống được bao nhiêu
Mà đau khổ tới xế chiều chưa thôi
Đời con, con đã liệu rồi
Sống hay thác cũng thế thôi khác gì?
Chỉ thương cha mẹ một khi
Con nằm dưới đất lấy chi khuây sầu
Ốm đau hai bóng bạc đầu
Sớm hôm thui thủi canh thâu nghẹn ngào
Đêm nay cây gió dạt dào
Trăng lu khuất bóng, lòng sao đượm buồn?
(1962)
153 - Thời tiết tàn thu...

Thời tiết tàn thu, sương nơi nơi
Vì sao run lạnh đứng trên trời
Rừng cây đen rậm, buồn câm nín
Bùn khô trên bãi, nước sông vơi...
Đèn khuya le lói, ai chờ đợi?
Đìu hiu trên lá tiếng sương rơi
Mẩu thuốc đở hồng trong nghĩ ngợi
Bản mường xa thoáng bóng ma trơi...
— Rừng khuya chiêng trống, ai cầu cúng
Tiếng hú ngân dài trong không trung
Dừng chân ngồi nghỉ bên nhà táng
Chấm đở thơm mùi thơm hương tang
Vầng trăng vàng sũng như phù thũng
Thời gian ngừng đọng giữa mông lung
Đường đi dần rõ, đêm về sáng
Một cành cây gãy, tiếng khô khan
Mùi hăng gỗ mục bay từng quãng
Ngực gầy đau nhói, tiếng ho khan...
(1959)
154 - Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa

Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa
Độc Lập Tự Do Hạnh Phúc
Cùm một chân
Ăn chín cân
Lý do: Dựa vào ho ra máu vài lần
Dù trói chăng giáo dục đã nhiều lần
Lao động vẫn ù lỳ
Cần nghiêm trị!
Giám thị ký.
Ôi mảnh đất...
Ôi mảnh đất nửa trên hình chữ S
Ước lìa ngươi, ta ước được lìa ngươi
Ta trót yêu ngươi từ thưở lên mười
Ngươi lừa phản nên đời ta mắc kẹt
Tình yêu đã trở thành thù ghét
Nếu rời ngươi, dù cụt mất một chân
Chặt nốt một tay, ta cũng không cần!
Mà coi đó là điều may mắn nhất
Vì sống gần ngươi là ta mất tất
Vì sống gần ngươi, ta thành súc vật!
(1967)
155 - Ôi mảnh đất…

Ôi mảnh đất nửa trên hình chữ S
Uớc lìa ngươi, ta ước được lìa ngươi
Ta trót yêu ngươi từ thuở lên mười
\Ngươi lừa phản nên đời ta mắc kẹt
Tình yêu đã trở thành thù ghét
Nếu rời ngươi, dù cụt mất một chân
Chặt nốt một tay, ta cũng không cần
Mà coi đó là điều may mắn nhất
Vì sống gần ngươi ta là người mất tất
Vì sống gần ngươi, ta thành súc vật!
(1967)
156 - Giống như kẻ mù lòa...

Giống như kẻ mù lòa mơ ánh sáng
Để trong tim sầm tối cả hơn ngoài
Trời biếc xanh tôi cất cánh bay hoài
Để tan tác mảnh hồn trăm miếng vá!
Giặc ước mơ ngày đêm đánh phá
Tòa lâu đài hoang phế trái tim tôi
Lớp rêu xanh mà đau khổ liên hồi
Phủ lên đó, không thể nào chống nổi
Sức công phá của đoàn quân dữ dội
Chịu lai hàng, mơ ước chiếm tin tôi!
Ước mơ ơi, ngươi đã bị vây rồi
Ngươi đã kẹp trong vòng vây sắt thép
Ngươi sẽ bị quân cuộc đời nghiến bẹp
Quân cuộc đời, quân khủng khiếp sao đương!
Quân ước mơ, quân nổi tiếng can trường
Quyết mở cuộc tiến công vào cuộc sống
Trái tim tôi ngày và đêm vang động
Quân cuộc đời, quân mơ ước giao tranh
Quân ước mơ thây xác chất nên thành
Bê bết máu, thân mình đầy thương tích
Vẫn quằn quại, cuồng điên, phản kích
Quân cuộc đời lạnh lẽo chém, đâm, băm
Cho tới khi chiến địa ngổn ngang nằm
Quân mơ ước chết không còn một bóng!
Cố vấn thời gian truyền: “Quân cuộc sống
Phải sẵn sàng, chinh chiến sẽ còn to
Quân ước mơ cứu viện đã sang đò
Chúng chỉ khuất khi nào tim hết máu!”
(1963)
157 - Ngày qua...

Ngày qua là đẹp sáng chan hòa
Của những trời xanh, của nắng hoa
Là tiếng ngân dài trong hối tiếc
Mơ hồ như một giấc mơ xa...
Ngày nay là mặn chát chua cay
Trộn với mùi tanh của vũng lầy
Khổ đói đan dầy xây lũy thép
Lao tù vây khép mọi chân mây!
Ngày mai là một tiếng bi ai
Của những chờ trông bị kéo dài
Ôi những con người đương ngắc ngoải
Không còn gan nghĩ tới tương lai...
Cộng cả ba thành một số không
Cùm chặt đời ta như chiếc gông
Lăn lóc muôn vòng trong hiện thực
Bao giờ lăn tới hố hư không?
(1964)
158 - Tôi đã đi...

Tôi đã đi hơn nửa đoạn đường đời
Mà chửa gặp bao la và ngớt tạnh!
Buổi cất bước hồn tôi là rượu mạnh
Giờ rượu kia nhạt loãng tựa sương trời
— Hồn đã nhầm mở đón rặt mưa rơi
Cùng gió lạnh phà luồng hơi độc ác!
Đường độc đạo, không còn mong lối khác
Gió và mưa lạnh ướt buốt tê tim!
Nửa đường sau, lòng nếu muốn đi tìm
Túp lều nhỏ của một người chăn vịt
Bỏ tất cả những huy hoàng mù mịt
Túp lều tranh cửa sẽ đóng im lìm
— Có ai đi rước kẻ gió mưa dìm
Để chuốc lấy bùn đen và ướt át?
Nửa đường trước đã đi vào mất mát
Của ước mơ vụn vỡ tới chân nền
Liệu ai còn can đảm gan bền
Xây lại giấc mơ vàng vụn nát!
— Hãy dọn hết xác lâu đài vàng giát
Rồi lợp lên mái rạ, kịp hay chưa?
“Lợp mái tranh xây lại giấc mơ xưa?”
Tôi vẫn lắng nghe tiếng lòng trung thực
Run run lên khi đáp lời: “Bất lực,
Hãy mặc đời theo sóng nước trôi đưa”
Lòng của tôi trong những tháng năm thừa
Ôm xác giấc mơ vàng không chịu táng!
(1963)
159 - Khi Na Tra...

Khi Na Tra bị băm thành thịt nát
Hồn bay về tìm Thái Ất chân nhân
Quỳ khóc than kể hết chuyện dương trần
Toàn khổ não, oan tình cùng uất hận!
Thái Ất nghiêm trang truyền học trò: Thôi giận!
Rồi buồn buồn giảng đạo lý cao xa:
Hỡi oan hồn của Thái Tử Na Tra
Ngươi đã thấy trần gian đầy khốn cực
Ta cho ngươi hạ sơn tìm sự thực
Sự thực thấy rồi, ngươi đã về đây
Quỳ dưới chân ta, nước lệ tràn đầy
Tình sư đệ thực lòng ta ái ngại
Nhưng khi trao phép màu ta buộc phải
Để cho người tắm gội giữa đau thương
Cho linh hồn tinh khiết tỏa mùi hương
Cho thể xác ố tì tiêu tán hết!
Hỡi oan hồn Na Tra đã chết
Hãy nhập ngay vào trong đóa sen tươi!
Đóa hoa sen vụt nở hóa một người
Quỳ phục xuống, hôn bàn chân sư phụ
Thái Ất chân nhân ôn tồn huấn dụ:
— Bao oán thù kiếp trước hãy quên mau
Lời ta truyền, tim óc khắc ghi sâu!
Thái Tử Na Tra vâng mệnh cúi đầu
Nhưng một mối buồn không tưởng tới
Một mối buồn mênh mông vời vợi
Từ lúc hồi sinh đã ngự trong tim
Thái Tử lui ra nhìn mây núi, như tìm
Lòng yêu sống, yêu người trong kiếp trước!
(1972)
160 - Giữa nắng...

Giữa nắng, giữa hoa, giữa trời, giữa nước
Tâm hồn tôi, bao thuốc buổi hừng đông
Trong mưa giông vẫn cứ rực hồng
Trên môi trẻ một trời hương khói biếc...
Giữa tan biến sắc hương, tan tành tượng bụt
Giữa muôn phương chết chóc cơ hàn
Rác rưởi hôi tanh, sắt thép hung tàn
Ô uế lưu niên muôn đời dồn chút!
Bao thuốc quý tôi quen dùng cuộn hút
Mong khói huyền xua xú khí chung quanh
Lại cạn từ lâu, điếu vụn cuốn không thành!
Chỉ còn trơ một thể xác gầy xanh
Tù, bệnh tranh giành nguy khốn
Và triệt hết mọi con đường lẩn trốn!
(1970)
161 - Nơi đây...

Nơi đây không có mùa xuân
Có chăng chỉ có tuổi xuân chôn vùi
Nơi đây cay đắng đủ mùi
Sắn dăm ba khẩu trộm vùi, giấu lưng
Thương xuân không kẻ đón mừng
Đành cam lạnh lẽo xó rừng đắng cay
Xuân ơi, trót tới chốn này
Mời xuân mẩu sắn cùng say với tù
Ngày mai tan lớp mây mù
Đón xuân tù hứa sẽ bù cho xuân
(1974)

162 - Ngày xuân tới...

Ngày xuân tới, hồi sinh muôn vật
Sao lòng ta khô héo chẳng tươi mầu
Ta nhớ khi xưa, ôi thưở ban đầu
Bao náo nức, bao niềm mơ, nỗi ước
Nhưng buồn, giận, đau, thương
Theo mãi ta từng bước
Biết nói sao? Và biết làm chi?
Hy vọng ư, nhưng hy vọng làm gì?
Khi đã rõ khổ đau là định mệnh.
Đất ơi, ta muốn nằm yên trong lòng đất mát
Để không còn khao khát sống tươi vui
Kiếp thê lương năm tháng ngậm ngùi
Ta sợ lắm những đêm dài nung nấu
Những trưa buồn không hiểu vì đâu
Bao bóng hình thương mến mất từ lâu
Lại trở lại hành hình tâm não
Đêm nay giao thừa, lòng ta tả tơi xác pháo
Nỗi niềm riêng đày đọa tâm tư
Cha mẹ ơi, đừng giận đứa con hư
Hãy coi nó như là đã chết.
Tình thương xót không bao giờ hết
Của mẹ cha làm tan nát lòng con
Dù cuộc đời đau khổ chất thành non
Còn cha mẹ, con còn phải sống
Vì con biết con là lẽ sống
Là niềm vui, là tất cả của mẹ cha
Biết bao nhiêu tội lỗi những ngày qua
Con đã mắc khiến cha buồn mẹ khổ
Con đã biết đời con tan đổ
Không thể làm gì báo đáp mẹ cha
Dù cho năm tháng phôi pha
Mối hận ấy con xóa nhòa sao nổi!
VÔ ĐỀ 39
Đêm nay giao thừa, ngoài sân gió thổi
Lá vàng rơi, xơ xác cành khô...
Sương rắc bụi mờ...
Ta ngồi viết mấy vần thơ
Giải niềm oan khổ.
(1961)
163 - Những truyện...

Những truyện “Mắt Thần” “Nhạn Trắng”
“Dao Bay”
Khiến con trẻ thời xưa lập Ðảng này đảng nọ
Từ Ðảng “đầu lâu” tới “đôi mắt đở”
Con trẻ thời nay không còn có
Những mắt thần, mắt quỷ trao tay
Nhưng các cô, các chú, các thầy
Lại bắt các em đọc những cuốn dày về Ðảng
Thế là các em cũng thành lập Ðảng
Cũng Trung Ương, cũng xứ ủy Bắc Kỳ!
Chuyện trẻ con tôi nói làm gì?
Nhưng Ðảng — Ðảng thật! — Lại bỏ tù
các em mới thảm!
Cha mẹ các em mặt mày xanh xám
Khi lệnh bắt con mình ghi rõ tội danh
“Phản nhân dân” “Phản cách mạng hiện hành”
Em nhẹ nhất cũng ba năm tù mới khổ!
Đó là Ðảng đã khoan hồng chiếu cố
Cho cái tuổi mười lăm, mười sáu ngây thơ
Nhưng các em cùng thân quyến chẳng ai ngờ
Mãn hạn được tha về là đại phúc!
Vô số ba năm dài ra hàng chục!
(1967)
164 - Ốm đau không thuốc...

Ốm đau không thuốc, không gì
Chuyện thông thường đó nói chi thêm nhiều!
Bác nằm liền sát cầu tiêu
Mùi phân nước giải sớm chiều nồng hôi
Bác ơi, bác sắp chết rồi
Bác không còn sức để ngồi được lên
Bác nằm thoi thóp khẽ rên
Bát cơm ngô, bát rau dền đặt bên
Bác thèm một miếng đường phèn
Nhà giam Cộng Sản bác quên bác tù
Trưa nay cái chết lù lù
Tới khiêng bác — khối hận thù ngàn thu!
(1968)
165 - Chúng tôi sống...

Chúng tôi sống giữa lòng thung lũng
Bốn bên là rừng núi bọc vây quanh
Ở rúc chui trong mấy dãy nhà tranh
Đầy rệp muỗi, đầy mồ hôi, bóng tối
Bệnh tật cho nhau, đời ôi hết lối
Tuyệt vọng ngấm dần, hồn xác tả tơi
Bảo đây là kiếp sống của con người
Của trâu, chó? So làm sao, quá khổ!
Làm kiệt lực nếu không dây trói đó
Ốm ngồi rên, báng súng thúc vào lưng
Bướng lại ư? Hãy cứ coi chừng
Xà lim tối, chân cùm dập nát!
Lũ chúng tôi triền miên đói khát
Đánh liều xơi tạt cả củ cây rừng
Bữa cơm xong mà cứ tưởng chừng
Chưa có một thứ gì trong ruột cả!
Đêm nằm mơ, mơ toàn mơ thịt cá
Ngày lắm người vơ cả vỏ khoai lang
Có ai ngờ thăm thẳm chốn rừng hoang
Ðảng cất dấu dân lành hàng chục vạn
Và sát hại bằng muôn ngàn thủ đoạn
Vừa bạo tàn, vừa khốn nạn, gian ngoan
Biết bao người chết thảm chết oan
Chết kiết lỵ, chết thương hàn, sốt rét
Chết vì nuốt cả những loài bọ rết
Vì thuốc men, trò bịp khôi hài
Chế độ tù bóc lột một không hai
Biết bao cảnh, bao tình, quằn quại!
Có những kẻ thân hình thảm hại
Phổi ho lao thổ huyết vẫn đi làm
Lời kêu xin phân giải chỉ thêm nhàm
Phòng y tế dữ hơn phòng mật thám!
Những con bệnh bủng vàng hay nhợt xám
Bước khật khừ như bóng quỷ hồn ma
Buồn thay cho cảnh sống xa nhà
Vợ con mất, thân mòn, còn đòn đả
Nỗi khổ đau nói làm sao hết cả
Đời tù nhân xiết bao nhục nhã
Có những buổi mưa rơi tầm tã
Vác áo quần ra đứng cả ngoài sân
Lũ công an lục soát toàn thân
Thu đốt cả vật tối cần — miếng dẻ!
Cụ Mác ơi, cụ là đồ chó đẻ
40 VÔ ĐỀ
Thiên đường cụ hứa như thế kia a?
Có những người đau ốm cũng không tha
Cứ bắt đứng dầm mưa cho ướt sũng!
Tôi mới sống trong lòng thung lũng
Non gần một tháng nay thôi
Nhưng mùa đông sắp đến kia rồi
Cái đói sẽ kèm thêm cái rét
Khổ cực còn gấp mấy lên đây?
(1962)
166 - Không lối thoát...

Không lối thoát, tối đen và lạnh toát
Đôi chân đau gai nát, muốn đi lùi!
Nhưng đàng sau toàn những bụi cùng tro
Nếu tôi dẫm làm mù tung chúng nó
Mắt tôi sẽ bị cay xè và đở!
Nên không tiến không lùi, tôi đứng đó
Trông thời gian lật lọng lăn qua
Vung búa liềm phá trụi các loài hoa
Cỏ úa, lau gầy cũng chẳng được tha!
Tôi đứng đó, và ghi vất vả
Qua ánh đèn pin chập chùng truy nã!
(1973)
167 - Thư nhà

Đã lâu rồi không nhận được thư con
Mẹ thầy mong tin con quá
Thầy kể qua cho con rõ cảnh nhà
Mẹ bây giờ hai mắt như lòa
Hôm sớm trong nhà quanh quẩn!
Thầy gần như lẩn thẩn
Bước đi đờ đẫn run chân
Viết phong thư phải nghĩ tới dăm lần
Mong con về đỡ đần chăm sóc
Nghĩ tới con, mẹ thầy lại khóc
Không biết con còn ở nơi trại cũ
Hay là đã chuyển đi đâu?
Mẹ vẫn nguyện cầu
Cho con được bình yên, không ốm yếu
Nhận được thư này con liệu
Viết về, thầy mẹ đợi tin con
Ôi, xưa cũng vì con còn trẻ dại
Suy nghĩ sai lầm, kêu ca khổ ải
Con phải thực lòng hối cải
Ðảng mới khoan hồng tha tội cho con
Có thế mẹ thầy mới mong thấy mặt con
Trước lúc không còn sống nữa!
Mẹ thầy chẳng biết nói gì hơn nữa
Chỉ tha thiết khuyên con giữ gìn sức khỏe
Tuổi con còn trẻ
Con còn phải sống, con ơi!
Thầy mẹ vẫn tin ở đất ở trời
Không nỡ hại người lương thiện
Hôm vừa qua thầy đã ra bưu điện
Gửi cho con đôi tất của thầy
Thuốc Rimifon con hỏi xin thầy
Phải đợi kỳ tiền hưu trí quý sau
Thầy sẽ mua gởi con dùng, cho con đỡ ốm đau
Thôi cuối cùng, thầy mong con phấn đấu
Lao động đi đầu, thi đua xây dựng trại.
Thầy Mẹ của con
(1967)
168 - Nào có biết gì...

Nào có biết gì chính trị chính anh
Chẳng qua chỉ vì cả tin, vụng tính
Chúng tôi, thằng dân, thằng lính
Khổ còn chẳng dám kêu ca!
Mà sao tù mãi không tha
Hành hạ đớn đau bằng muôn ngàn mánh!
Khẩu phần Ðảng cho: gắp rau, cái bánh
To bằng một cái huân chương!
Chúng tôi chỉ còn có xương
Con người lại không có cánh!
Thôi thời cuốc cuốc đào đào lặc lè vác gánh
Quanh vòng năm tháng thảm thương
Để khỏi dập xương
Bởi cùm, bởi đánh!
(1971)
169 - Biết đến bao giờ...

Biết đến bao giờ con trở lại
Gia đình sum họp bữa cơm rau
Được thấy được nhìn trong hốc mắt
Thầy gầy mẹ yếu một niềm vui!
Con biết đời thầy đời mẹ khổ
VÔ ĐỀ 41
Thân già cam vất vả ngày đêm
Nhưng làm sao, biết làm sao được
Khi chính đời con cũng dập vùi!
Trong những đêm dài thao thức tỉnh
Con nằm cho tất cả buồn đau
Vò xé lòng con chừng đứt đoạn
Con sợ rồi đây nhỡ tuổi già!
Ôi, trán mồ hôi còn vã lạnh
Sau phút tàn canh chợp mắt nằm
Con trót mơ về căn gác nhỏ
Bên thầy bên mẹ sống thương yêu!
Nhưng làm sao, biết làm sao được
Khi lũ tàn hung nắm cuộc đời!
Con vẫn mơ về căn gác nhỏ
Bên thầy, bên mẹ, bữa cơm rau!
(1966)
170 - Từ trẻ tới già...

Từ trẻ tới già quét dọn nhà tù
Tới tuổi bảy mươi vô cớ đi tù
Mười năm lao động cần cù
Mưa nắng ngày công giữ đủ
Quản giáo đùa yêu dọa cùm cổ cụ
Cụ càng tăng năng suất cần cù!
Cố công thêm, thêm mãi cái lưng gù
Vãi cả ra quần, ra cót, khai mù
Ngoài tám mươi cụ bỏ xác trong tù.
(1973)
171 - Ôi, người là...

— Ôi, người là cây đại thụ
Giữa đời tỏa bóng thiên thu!
— Bóng thiên thu, hay bóng âm u?
Không theo luật tự nhiên, một ngày kia
ta sẽ là cổ thụ
Điều lúc đó lòng ta ấp ủ
Là bàn tay hữu dụng bác tiều phu
Ta không thể tự ru
Bằng khúc nhạc mọt sâu ngấm ngầm đục ruỗng
Vẳng lên vòm lá ngợi ca
Mà cam lòng nhìn bóng rợp của ta
Làm đám chồi non cớm nắng!
Ta bình sinh hình hài mọc thẳng
Thương mà khinh loài bình vôi trắng
Ngàn đời miệng ngậm hương đen
Rủi sau này có kẻ đua chen
Đeo móc được lên mình ta lũ đó
Thời hỡi Thần Mưa, Thần Gió!
Hãy đưa đường Thần Sét giáng lên ta
Lưỡi rìu nhục nhã!
(1974)
172 - Tôi nằm trên...

Tôi nằm trên chốn cao xanh
Luôn rơi luôn ngã quẩn quanh hết đời
Quản chi hồn xác tơi bời
Quản chi phàm thế những lời cay chua
Tôi ôm ảo tưởng lọc lừa
Ôm bình rượu độc say sưa tàn đời
Nhiều phen lòng ngỡ rụng rời
Nâng bình rượu lại chuốc mời cao siêu
Đời ơi, dầu tới xế chiều
Sá chi rượu hỡi, có điều đừng vơi!
Mỗi khi rơi xuống cõi đời
Nghiêng bình cạn chén cõi trời lại lên
Lại về thăm thẳm tầng trên
Lại về xanh ngát kề bên ru hời!
(1962)
173 - Xuân này chẳng khác...

Xuân này chẳng khác những mùa xuân
Chỉ thấy đôi chân nặng bước dần
Đường sống không còn xa lắm nữa
Nên mừng, nên tiếc, phân vân...
Lòng trót yêu hồng xanh tím biếc
Đêm dài thương tiếc thêm đen
Bạn quen chết dần từng đứa
Thêm mùa xuân cay đắng nữa trôi qua
Uổng phí tài hoa
Chờ trông hóa đá
Bao xanh hồng óng ả bùn pha
Tắt lụi...
Niềm tin gác núi, nhạt mầu...
Con tàu quá khứ
Đêm buồn, ga vắng, trầm tư...
(1961)
174 - Nếu một ngày mai...

Nếu một ngày mai tôi phải chết
Thời lòng tôi cũng chẳng tiếc đời xuân
Đời đáng yêu đáng quý vô ngần
Song đau khổ đã cướp phần hương sắc
Trong đêm vắng nhìn sao buồn xa lắc
Hồn chìm buông theo quá vãng thời gian
Trong phút giây quên thực tế bạo tàn
Quên tất cả nỗi cơ hàn cay đắng...
Giòng lịch sử đưa tôi về mấy chặng
Những lâu đài cung điện thưở vàng son
Cảnh hiển vinh kiệu võng với lọng tròn
Cảnh hàn sĩ canh tàn còn đọc sách
Tôi gặp lại những nhà nho thanh bạch
Sống an bần, xa cách bụi phồn hoa
Những gái quê trong trắng, hiền hòa
Ngồi giặt lụa bên bờ hồ nước tóe
Tôi mơ thấy những hội hè vui vẻ
Những đêm vàng đập lụa dưới trăng trong
Tôi vuốt ve bao hình ảnh trong lòng
Tim còn vọng tiếng hò ngân bát ngát
Tiếng nhịp nhàng thoi cửi lướt trên khung
Tôi mến yêu cảnh rừng núi mịt mùng
Đầy hiểm bí và tràn lan sức sống
Tôi thương nhớ cả tiếng cồng báo động
Cả những con đường, những hắc điếm âm u
Cảnh chiến chinh ngựa hí với quân hò
Tôi cũng thấy tâm hồn tôi đuối đắm!
Tại làm sao? Rõ ràng tôi biết lắm
Cuộc đời xưa còn có những vua quan
Bao bất công còn đầy rẫy lan tràn
Sao tôi chỉ mơ toàn hương sắc thắm
Toàn sắc mầu lộng lẫy đượm hồn thơ
Mà lãng quên bao bóng dáng nhạt mờ?
Phải chăng vì cuộc sống bây giờ
Đầy ung độc tự buồng gan, lá phổi
Còn xưa là mụn lở ở da thôi!
(1960)
175 - Tôi sống mãi...

Tôi sống mãi những ngày nồng nặc
Cuộc đời trong lòng cống sặc bùn hôi
Tháng năm dài sền sệt qua trôi
Thương tiếc mảnh trời xanh, héo hắt.
Lửa hy vọng chập chờn như muốn tắt
Trong hồn tôi giông gió bốc dâng to!
Chế độ này tội ác chất từng pho
Dầy hơn cả Hoàng Liên Sơn bát ngát!
Tôi không tiếc sẵn sàng đập nát
Mảnh đất này để cứu lấy tương lai
Thứ tôi coi như sự chết kéo dài
Là cuộc sống không mầu không sắc
Từng giờ phút quằn đau cơn bế tắc
Trời và mây dầy đặc oan khiên
Miền Nam ơi, chỉ một đường biên!
Người có hiểu cảnh tình dân đất Bắc?
Trại lính, trại tù bao la giăng mắc
Triệu ức người chồng, người mẹ, người con
Nước mắt vạn nhà chảy ướt nước non!
Quốc sách đói mòn phân phối
Miếng cơm đầy ngô, vữa mồ hôi!
Bao năm rồi, tôi không phải là tôi
Thân bất động vì tình thương gia quyến
Ôi, những buổi hoàng hôn xao xuyến
Bóng mẹ già cầu nguyện đau thương
Bóng người cha thui thủi bên đường
Lê thân ốm trên phố phường u ám
Nghĩ như vậy lòng tôi ảm đạm
Nhục nhằn ư, còn biết nói sao?
Mắt tôi khô mà ruột tím, gan bào
Bao uất hận dâng trào trong lặng lẽ!
Những đêm buồn trăng sao quạnh quẽ
Bóng nhà lao sừng sững âm u
Tôi ngồi yên trong song sắt nhà tù
Nghe phố xá âm thầm lặng vắng
Đời giam cấm, tất nhiên là cay đắng
Nhưng ngoài kia cuộc sống ra sao?
Ngày bước chân khỏi cổng sắt đề lao
Tôi nghĩ tới mà lòng không rộn rã
Giá mồ hôi rẻ hơn nước lã
Tiếng tự do chỉ nghe thấy trên đài
Đời nặng trôi như một đêm dài
Mắt không nhắm và đầu đau nhức nhối!
(1961)
176 - Khi số phận...

Khi số phận buộc ai là kẻ sống
Ở cái phần chó má của quê hương
Thì thủy chung duy chỉ gã bạn đường
Là bóng tối lao tù theo kẻ ấy
Trên nét mặt, trên áo quần như thấy
Còn mang theo tất cả nỗi cơ hàn
Một con người Ðảng dốc lực nghiền tan
Trong bộ máy khổng lồ không thể thoát
Môi với lưỡi khô se toàn vị chát
Hương ngọt ngào như mọc cánh bay xa
Trên trán xanh, xanh nhợt bóng chiều tà
Bao khát vọng đổ mồ hôi lấm tấm
Đời muôn ngả, một mình như một chấm
Nhỏ mờ trong muôn vạn nét tơi bời
Đất mồ hôi trôi mất nụ cười
Hương ẩm mốc tháng năm dài gậm nhấm
Trong vườn sống ước mơ là trái cấm
Rắn Sa Tăng hối cải, hóa Thiên Thần!
Bốn chung quanh không bóng một tình thân
Ngoài chiếc bóng nghi ngờ mờ hoặc xẫm.
(1962)
177 - Chiều thứ bảy

Chiều thứ bảy
Anh nằm đây mình mẩy ướt đầm
Trong xà lim chân cùm nghiến tím bầm
Muỗi rệp công khai, ngấm ngầm hút máu
Anh nhớ lại một chiều tháng sáu
Cũng oi nồng như thể hôm nay
Anh cùng em đi sát, cầm tay
Dạo bước rong chơi trên bờ cát trắng
Biển lúc đó vắng và tắt nắng
Gió ngoài khơi lồng lộng dâng triều
Hạnh phúc trong anh xáo động quá nhiều
Anh muốn ôm em nói điều sung sướng!
Nhưng tình cảm còn như e ngượng
Anh nắm bàn tay em chặt hơn thôi
Tới rặng phi lao, anh với em ngồi...
Giữa trời biển em nói lời gắn bó
Nhưng em ạ, lòng anh, lúc đó
Không hề nghĩ tới tương lai
Chỉ ước mong sao có thể kéo dài
Những phút thần tiên đó mãi!
Vì anh, một nhà thơ từng trải
Hiểu tim người như em hiểu đường kim!
Nên giờ đây cùm kẹp giữa xà lim
Nhận được tin em đi tìm duyên mới
Anh chỉ hơi buồn và hơi nghĩ ngợi
Về đời anh rơi rụng, tả tơi
Chẳng chút trách em về chuyện đổi dời
Chuyện quy luật cuộc đời, em ạ.
(1968)
178 - Năm bảy mươi...

Năm bảy mươi tôi gặp một thanh niên
Tôi hiểu anh qua nhiều câu chuyện
Anh yêu nhất rượu cồn thuốc phiện
Và căm thù lao động nhất trần gian
Tháng năm say, sách vở vất trên bàn
Đám nô lệ gọi anh là gã nghiện!
Men chưa giã, anh đã dùng thuốc phiện
Thuốc còn say, anh đã rượu hàng chai
Anh làm nghề buôn lậu để sinh nhai
Không lấy vợ, không thiết gì con cái
Say lướt khướt, anh thường hay lải nhải
Chửi chính quyền hút tủy đám cùng đen
Hoặc làm thơ thương xót bọn dân hèn
Bầy chó đở bỏ tù anh cũng phải!
Tù mấy lượt, anh vẫn không tỉnh lại
Vẫn nói năng bừa bãi, mặc cùm gông
Và khi buồn trong bốn ngả non sông
Vần thơ vẫn nghẹn ngào, đau đớn mãi!
(1970)
179 - Hằng nga...

Hằng nga đổ xuống hồ ao tối
Từng khối kim ngân lóe sáng vàng!
Cây cối muôn loài đương tắm gội
Nô vờn trong biển sáng thênh thang...
Ếch nhái vang lời nhạc hỗn mang
Một vì sao vụt xuống thăm làng
Tới bụi gai dầy, sao hóa dạng
Thành con đom đóm lóe lân quang
Mơ màng mây gió đi lang thang...
Bụi sương mờ trắng trên thôn trang
Đôi lúc ao vàng như sực tỉnh
Ném lên vài miếng bạc lung linh!
Những đống rơm vàng đứng lặng thinh
Mồ hôi nhễ nhại khắp thân mình
Khóm chuối thương tình phe phẩy quạt
Hàng cau kiêu ngạo đứng rung rinh...
Muôn vạn vì sao trôi lênh đênh
Trông như muôn vạn cánh buồm xanh...
Hằng nga đôi lúc buồn, lơ đãng
44 VÔ ĐỀ
Kéo tấm màn mây phủ lấy mình
Mặc mái nhà tranh đứng nấp rình
Há mõm đen ngòm trông khiếp kinh
Muốn nuốt tôi vào trong bụng tối!
Hồn tôi siêu thoát giữa mông mênh!
(1965)
180 - Mẹ ơi

Mẹ ơi!
Mẹ đã mất rồi!
Trái đất không còn có mẹ
Mẹ chẳng bao giờ còn thấy mặt con
Còn khóc nữa!
Con chẳng cần ra tù nữa
Nếu thầy không còn sống, mẹ ơi!
Mẹ đã mất rồi
Mãi mãi không còn thấy mẹ!
Mai hậu đời con cũng hết
Mà vẫn không thấy mẹ, mẹ ơi!
(1970)
181 - Mắt em...

Mắt em mềm mại con đò
Anh nhìn chẳng thấy hẹn hò một câu
Mắt em trong mát giòng sâu
Anh nhìn chẳng thấy nhịp cầu bắc qua
Mắt em là một vườn hoa
Vắng anh, thắm nở chóa lòa sắc hương
Vườn hoa ấy, cảnh thiên đường
Anh nhìn chỉ thấy cửa thường đóng nghiêm!
(1957)
182 -  Tình câm

Anh sợ lắm lòng anh xiêu đổ mất
Anh ngăn anh đừng qua lại nơi đây
Nhưng than ôi, em vắng bóng một ngày
Anh đã sống như người điên loạn nhất
Anh lạnh lẽo, em ơi, đừng tưởng thật
Anh cũng giống như vỏ ngoài quả đất
Chứa trong lòng bao khối lửa hôn mê.
Anh nhìn em, rồi lặng lẽ ra về
Để đau khổ, để âm thầm cay đắng
Không thể nữa, không làm sao cố gắng
Giữ cho tình câm nín ở trong tim
Nhưng còn chi, ngoài khao khát im lìm
Khi thương tích tình anh thầm rỏ máu
Lòng của em hờ hững thấy chi đâu!
Em có nghe trong tiếng thở u sầu
Bao yêu dấu đè sâu đang thổn thức
Em có hay trong quãng đời cơ cực
Nếu có em, trời đất lại rờn xanh!
Hãy thứ cho mơ ước của lòng anh
Mơ ước để đời đau thêm lạnh tối
Đường vào tim em, anh không có lối
Mỏi mắt chờ, em chẳng hé một giây!
Tâm linh anh ôi đã bị đọa đầy
Trong dáng dấp, trong nụ cười tiếng nói
Trong ánh mắt em, nàng tiên chói lọi!
Trong hững hờ, tan nát mộng cùng mơ
Tình của anh như một sớm sương mờ
Không được bóng vầng dương — Em — tỏa chiếu
Điều đau khổ em làm sao thấu hiểu!
— Lòng của em chưa một vết thương ghi —
Thế nên anh cam chịu ôm ghì
Bao gai sắc của tình đau buốt ấy
Niềm an ủi, anh chỉ còn trông cậy
Ở thời gian em hỡi, em có hay!
(1963)
183 -  Tôi vẫn mơ hoài...

Tôi vẫn mơ hoài một giấc mơ
Giấc mơ không biết tự bao giờ
Có khi từ thưở lòng cay đắng
Sớm biết đời tan bóng đợi chờ...
Một chiều như một chiều trong thơ
Giữa khi không tưởng cũng không ngờ
Có bàn tay nhỏ đầy thương mến
Tết lại đời tôi xác tựa vờ!
Biển sóng lênh đênh một chấm mờ
Nổi chìm, vô tận nỗi bơ vơ
Buồm tan, chèo gẫy, chờ xô vỡ
Tôi vẫn mơ hoài một giấc mơ...
(1960)
184 -  Bà kia...

Bà kia tuổi sáu mươi rồi
Mà sao không được phép ngồi bán khoai?
Cụ kia tuổi bảy mươi hai
Mà sao hội họp mệt nhoài không tha?
Tự do tôi quý thiết tha
Mà sao tù ngục hết ra lại vào?
Anh kia đi lính thưở nào
Tội chi cảnh sát cũng vào bắt đi?
Em kia học chửa biết chi
Mà sao sớm vội bỏ đi công trường
Bạn tôi học vấn khác thường
Mà sao vất vưởng cuốc đường ốm ho
Cậu kia con cụ đồ nho
Mà sao móc túi, mặt tro trát vào?
Cô kia như giải lụa đào
Mà sao bát phở vài hào cũng trao?
Nguyên nhân chẳng phải sâu đào
Thấy ngay thủ phạm: vàng sao lá cờ!
(1961)
185 -  Tình mơ

Anh yêu em, anh chỉ nói thế thôi...
Nói thế thôi cũng đã thừa rồi
Vì tình ái đâu cần ngôn ngữ
Tình từ tim, mà ngôn ngữ từ môi.
Anh yêu em, em đã hiểu lâu rồi
Em đã hiểu từ ban đầu gặp gỡ
Anh hỏi thăm đường, em trỏ lối, thế thôi!
Em hiểu anh trong dáng dấp bồi hồi
Trong ánh mắt ngập ngừng xao xuyến
Em hiểu anh trong nắng chiều lưu luyến
Em hiểu anh từ tình mới đâm chồi
Từ hạnh phúc còn như bỡ ngỡ
Trong hồn anh quen nếp đau thương...
Có những đêm trăng óng ánh trên đồng
Trăng tắm sáng lên đầu em tóc rối
Trăng lấp ló qua hàng cây gió thổi...
Em là vầng trăng ngọc của đời anh
Anh không em, anh sẽ sống âm thầm
Như những tối trăng vàng lặn bóng
Đi bên em nghe ái tình đập sóng
Trong lòng anh hạnh phúc chan hòa
Ôi phút giây không thể xóa nhòa
Giây phút ấy, tình em chói tỏa
Ở trong anh, và tất cả xung quanh!
Anh ôm em, em ngạt thở vì anh
Nhưng em biết lòng anh say đắm quá
Gì ngây ngất bằng hôn lên đôi má
Mịn như hoa và đượm hương da!
Nắm tay em bao đau khổ phai nhòa
Khắp vũ trụ chỉ còn thương mến
Tình của em nhiệm mầu vô bờ bến
Hồn anh hầu tàn úa lại rờn xanh
Đời anh như chim hót trên cành
Tươi mát tựa mùa xuân thơm ngát
Giọng ai buồn ngân nga câu hát
Bừng cơn mơ, trăng lạnh đã lên cao...
Gió ngoài song hiu hắt thổi vào
Rơi mấy cánh hoa đào trên chậu sứ...
(1963)
186 -  Cái thời Chiến Quốc...

Cái thời Chiến Quốc xa xưa
Thì Tôn Tẫn mới mong lừa Bàng Quyên
Ngày nay Tôn Tẫn chết liền
Điên thực, điên giả, hễ điên là tù!
Phù Sai thưở ấy cũng ngu
Nếm phân đã vội tha tù Việt Vương
Ngày nay ối gã dân thường
Ăn hàng sọt vẫn mục xương trong tù!
Ðảng không tim óc, đui mù
Nhưng môn vô tội om tù quán quân!
(1970)
187 -  Trời u ám...

Trời u ám, cây hay là xương xám?
Mây đục mờ, hay vải liệm màu tang?
Gió đìu hiu lạnh buốt can tràng
Hay hơi thở nơi dương tàn âm thịnh?
Lòng thung vắng mịt mù hoang lạnh
Hay mồ ma huyệt địa rấp xương khô?
Từng đoàn đi thiểu não toán tội đồ
Hay quỷ đói nơi trần gian địa ngục?
Những chàng trai mặt gầy đen nhẫn nhục
Mắt lạnh lùng, ngời sáng lửa âm u
Họ ngước trông non nước mịt mù
Và cúi xuống, nặng nề suy nghĩ...
(1962
)
188 - Khi tổ quốc...

Khi tổ quốc đen xì
Ta làm sao dám nghỉ!
Phải cân nhắc, nghĩ suy
Phải quan sát, chép ghi
Những tội ác cực kỳ
Mà cộng sản vung phí
Và xảo quyệt dấu đi
Trước con mắt hoài nghi
Của con người thế kỷ
(1972)
189 -  Đau đớn lắm...

Đau đớn lắm cái lầm to thế kỷ
Sử sách ngàn đời còn mãi khắc ghi!
Mấy chục năm trời xương máu đổ đi
Thử hỏi dân đen thu được những gì?
Ngoài một số từ lừa mị kẻ ngu si!
Người công nhân trước gọi cu li
Người lính cũ nay gọi là chiến sĩ
Song vẫn vác, vẫn khuân, vẫn đói nghèo vẫn bị
Đẩy đi chiến trường chết hoài, chết phí
Cho một lũ trung ương lợn ỉ!
Còn cuộc sống ngày xưa lầm than tắc tị
Nay vạn lần thêm tắc tị, đen xì!
Đau đớn lắm cái lầm to thế kỷ
Sử sách ngàn đời còn mãi khắc ghi!
(1970)

                                                  ---------------------  Hết ---------------------




Thursday, June 4, 2009

Tập Thơ Vô Đề Khuyết Danh: I,II Cụ Duy Xuyên

video

Bài 1 :
Một áng văn cuả muôn đời mong đợi (Duy Xuyên)
NĐ Chính Khí Việt

Bấm PLAY để nghe âm thanh.

video

Bài II Tập thơ "Vô Đề" và "Khuyết Danh" (Duy Xuyên)
NĐ Chính Khí Việt


Tập Thơ Vô Đề Khuyết Danh:

Một Áng Văn của Muôn Đời Mong Đợi

Duy Xuyên


Đã từ lâu tôi gác bút để tìm về cái yên tịch của lòng mình, tự nhủ cố gắng biết mình (nói theo nghĩa rộng), biết mình đã là khó, biết người thật là thiên nan vạn nan! Thôi ta bắt đầu học chữ BIẾT vậy, còn hơn đắm mình trong cõi u minh mà tự cho là “TRI THỨC”!

Ngày tháng trôi đi, tôi cố tình dửng dưng với thời cuộc, một vài người bạn biết quá khứ của tôi, bảo tôi phải nhập cuộc, phải làm một cái gì nếu không chúng ta đều có tội với đất nước. Tôi ví tôi như cô gái ngày xưa đứng trước mười hai bến nước, biết bến nào trong mà chọn, bến nào đục bỏ đi. Không dấn thân, các bạn mến mình mà trách, nhưng dấn thân trong cơn lốc văn hóa chính trị bây giờ, khó biết đâu là hư là thật, vì vậy năm vừa qua tôi có làm bài thơ gửi các bạn gần xa nói lên chút lòng của mình:

Tạ Từ

Áo cơm đốt hết khoảng đời

Mười năm lưu lạc nay chừ tay không

Còn đâu giấc mộng lấp sông

Giật mình tuổi đã sang đông hồi nào

Sau đó hơn một tháng được thư phúc đáp của một người bạn chí thân từ Úc châu có bài họa lại:

BÀI HỌA

Tâm tư chửa dứt được đời

Mười năm thế sự, một trời hư không

Vẫn còn dời núi lấp sông,

Vẫn còn những nỗi ước mong thuở nào.

Đọc bài họa mà rưng rưng nước mắt, nhớ xưa kia, khi hai mái đầu còn xanh, trên con đường tranh đấu lúc vui khi buồn đều có nhau, khắng khít thân thương hơn tình cốt nhục, tri kỹ hơn cả Bá Nha Tử Kỳ, nhưng nay mình lại phụ lòng mong ước của bạn, thật quả là điều buồn lòng. Muốn hồi âm cho bạn, vì bạn đang trông, không dấn thân thì bạn buồn, nhưng dấn thân biết ai thật mà gửi gấm tâm sự ngổn ngang này?

Ngày lại ngày qua nhìn gương thấy muối lấn tiêu, sực nhớ đến câu thơ của Cụ Phan Khôi:

Nỗi buồn như tóc bạc

Cắt mãi vẫn dài ra

Có những đêm thao thức suy tư cố tìm một sinh lộ, nhưng nhìn đâu đâu cũng chỉ là tử lộ và cạm bẫy, tự nhủ ta đã quá cái tuổi tri thiên mệnh từ lâu rồi, nay không cho phép ta lầm, vì lầm đâu còn thì giờ dư thừa mà sửa sai? Tôi có tật không ngủ được phải tìm một cái gì để đọc. Giở chồng sách cũ, vớ được tập thơ: Vô Đề Khuyết Danh với tựa in tại Mỹ: Tiếng Vọng Từ Đáy Vực. Càng đọc tôi càng thấy thấm thía, có những câu thơ xuyên qua tim phổi của mình, lệ trào lúc nào không hay, tự nhủ: giọng văn, lời thơ này phải phát xuất ra từ trái tim của một người yêu nước vĩ đại, liên tục đấu tranh bất khuất, nhưng lại có những bài thơ bí ẩn không chìa khóa của những vị cao nhân thì làm sao tìm ra đáp số. Đó là điều tôi thắc mắc từ bấy lâu nay. Càng đọc càng thấy giọng văn phảng phất một cái gì của Duy Dân. Xin mở dấu ngoặc: thập niên 60 và 70 tôi có cơ duyên lui tới với mấy anh em gọi là cốt tủy của Duy Dân: Thái Lăng Nghiêm, luật sư Lê Quang Luật, Lê Vinh (con cụ Á Nam Trần Tuấn Khải), Trần Quốc Việt và những cây viết Duy Dân khác, các anh thường có một lối viết, hành văn cùng một sư phụ Lý Đông A.

Đem so sánh tập thơ Tiếng Vọng Từ Đáy Vực với Đạo Trường Ngâm của tác giả Lý Đông A, tứ và từ rất giống nhau, chỉ hiểu vậy thôi, chứ nào biết ai để mà han hỏi.

Cách đây mấy tuần, gặp một người bạn mới quen bảo ngày 3 tháng 5 năm 1992 đi nghe buổi nói chuyện của Cụ Hà Lạc Dã Phu Việt Viêm Tử Lê Tư Vinh, nghe tên tôi không rõ nhân vật này là ai? Anh bạn cho thêm dữ kiện Cụ này là người duy nhất quả quyết xác định tác giả tập thơ Tiếng Vọng Từ Đáy Vực của Cụ Thái Dịch Lý Đông A đảng trưởng Duy Dân biệt tích từ năm 1946. Một vài tia sáng soi vào những chỗ tôi đang nghi ngờ. Cái rủi là tôi không đi dự buổi nói chuyện của Cụ Việt Viêm Tử, tôi cứ tiếc mãi là đã để mất một cơ hội tìm hiểu. Và cũng may sau đó do cơ duyên mà được mạn đàm với một đệ tử ruột của Cụ Vinh, tuổi đời xắp xỉ “tri thiên mệnh”. Câu chuyện thật cởi mở, anh bạn này giải đáp những thắc mắc của tôi về tập thơ Vô Đề, giải nghĩa những ẩn từ bằng những đáp số rất khoa học. Tôi không dám hỏi nhiều vì mới sơ giao, tuy nhiên chừng ấy giải đáp cũng quá đủ thỏa mãn tánh tò mò của tôi. Hỏi ra mới biết anh cùng một số anh em khác trên mười năm nay đã thọ giáo và sát cánh trong tổ chức của Cụ Vinh theo tư tưởng của nhà đại cách mạng Lý Đông A. Theo tôi biết Cụ Việt Viêm Tử nắm vững Dịch Lý “một trong những môn siêu khoa học” đó là chìa khóa đã mở tung những bí ẩn trong tập thơ Tiếng Vọng Từ Đáy Vực mà từ trước đến nay bọn Cộng Sản Hà Nội và bọn tay sai của chúng ở hải ngoại dùng thuật lập lờ đánh lận con đen, gán cái tên Nguyễn Chí Thiện là tác giả, đây phải là vụ án văn lớn nhất của cuối thế kỷ 20 này chăng? Sự thật Nguyễn Chí Thiện là ai? Niên kỷ bao nhiêu, ngay cả Bùi Duy Tâm trong lò CS mà cũng ấm ớ hội tề. Nghe đâu có nhiều phái đoàn ngoại quốc sang Việt Nam cố tìm gặp Nguyễn Chí Thiện, nhưng đi không rồi lại về không, chả ai biết mặt mũi ông Nguyễn Chí Thiện ra sao? Thật là bí ẩn, một bí ẩn đầy mưu mô quỉ quyệt của bọn Hà Nội đỏ. Nếu thật Nguyễn Chí Thiện là con người bằng xương bằng thịt thì CS còn chờ gì nữa mà chưa đem ra trình làng? Nếu có được trình làng chắc có lẽ cũng phải chờ mấy năm nữa vì Đảng cần thời gian huấn luyện Nguyễn Chí Thiện trong vai tuồng của một nhà thơ. Nhớ cách đây mấy năm, CS tung ra chiến dịch văn hóa nào là trăm hoa vẫn đua nở trên quê hương, một số cây viết chống cộng hải ngoại đã lớn tiếng chỉ trích, thế là từ trong nước chúng phát động chiến dịch bôi nhọ anh em Quốc Gia, ở hải ngoại bọn nằm vùng cộng thêm bọn bồi bếp văn nô a dua theo kế hoạch “cả vú lấp miệng em”. Nhưng nay vụ án văn học tập thơ “Vô Đề Khuyết Danh” đã nổ tung từ mấy tháng nay sao bố chúng nó ở Bắc Bộ Phủ cũng như con cháu chúng nó ở Hoa Kỳ vẫn câm hơi lặng tiếng thiêm thiếp như lũ hến dưới đáy bùn. Thế mới hay Cụ Việt Viêm Tử chiêu thức cao thâm thế nào, mới phóng một độc chưởng mà giòng họ cái bang CS từ trên xuống dưới từ trong ra ngoài đều á khẩu!!!

Sau đây xin dẫn chứng một đoạn trong bài Đồng Lầy (Tiếng Vọng Từ Đáy Vực):

..........

Nếu chúng ta quyết định một con đường

Con đường máu, con đường giải thoát?

Dù có phải xương tan thịt nát

Trong lửa thiêng trừng phạt bọn gian ma

Dù chết chưa trông thấy nở mùa hoa

Thì cũng sống cuộc đời không nhục nhã

Thì cũng sống cuộc đời oanh liệt đã!

Nếu chúng ta đồng tâm tất cả

Lấy máu đào tươi thắm tưới cho hoa

Máu ươm hoa, hoa máu chan hòa

Hoa sẽ nở muôn nhà muôn vạn đoá

Hoa hạnh phúc tự do vô giá

Máu căm hờn phun đẫm mới đâm bông.

Đây là sự cố ý của tác giả nhấn đi nhấn lại mấy chữ Máu và Hoa tức là hoa nở trong máu thật ra là Huyết Hoa, tựa một quyển sách mà Thái Dịch Lý Đông A đã sáng tác năm 1944, như vậy phải chăng: bài thơ Đồng Lầy và quyển sách Huyết Hoa cùng một tác giả? Một đoạn khác:

Màn thép kia dù không lỗ hổng

Tôi sẽ dùng răng cắn đứt một khâu

Dù quỉ yêu bắt được quẳng vạc dầu

Tôi vẫn sẽ lao đầu không hối hận

Như vậy tác giả phải là người kiên cường tranh đấu không ngừng? Nói sao hết, mỗi câu thơ là một lời Hịch quyết sống chết với bọn yêu ma. Một đoạn:

Tôi xiết rên, quằn quại tự tìm đường

Dù có phải bồi thường bằng xương thịt

Tôi không thể an tâm nằm hít

Mùi bùn đen tanh tưởi khiếp kinh...

Như vậy đâu phải là kẻ ở trong tù như Nguyễn Chí Thiện, vì phải ở ngoài, tác giả mới tự tìm đường chớ?

Trước khi chấm dứt bản “Án Văn của Thế Kỷ” xin đan cử thêm một bài thơ trong Tiếng Vọng Từ Đáy Vực:

TỪ TRẺ ĐẾN GIÀ

Từ trẻ đến già quét dọn nhà tù

Tới tuổi bẩy mươi vô cớ đi tù

Mười năm lao động cần cù

Mưa nắng ngày công giữ đủ

Quản giáo đùa yêu dọa cùm cổ cụ

Cụ càng tăng năng xuất cần cù!

Cố công thêm, thêm mãi cái lưng gù

Vãi cả ra quần, ra cót, khai mù

Ngoài tám mươi cụ bỏ xác trong tù

(1973)

Đây là bài thơ ẩn số, mới đọc nghe vô nghĩa nhưng có chìa khoá, biết xuất xứ và biết phép chiết tự, ta hiểu rõ nghĩa chữ Tù thì ta đạt được ẩn ý của tác giả.

Xưa kia Cụ Trạng Mạc Đĩnh Chi đi sứ sang Tầu, thiên triều muốn thử tài Trạng An Nam ta bằng cách ra câu đối:

An khứ nữ, thỉ vi gia

Cụ đối lại:

Tù xuất nhân, nhập vương thành quốc

1. AN ( ) bỏ chữ NỮ ( ) thêm chữ THỈ ( ) thành chữ GIA ( ) là Nhà.

2. TÙ ( ) lấy chữ NHÂN ( ) ra nhập chữ VƯƠNG ( ) vào thành chữ QUỐC ( ) tức là Quốc đơn.

An khứ nữ, thỉ vi gia

Tù xuất nhân, nhập vương thành quốc

Câu trên, gia là nhà. Câu dưới, đối lại quốc là nước, cái khó phải dùng thuật chiết tự; nhưng siêu hơn nữa tác giả đã dùng câu đối của Cụ Trạng Mạc Đĩnh Chi để giải nghĩa ẩn từ Tù không phải là tù đầy, mà “tù” này có nghĩa là quốc, là nước.

Như vậy hai câu:

Từ trẻ đến già quét dọn nhà tù

Tới tuổi bẩy mươi vô cớ đi tù

Nghĩa là từ trẻ đến già Cụ lo việc nước. Trên bẩy mươi tuổi Cụ nắm chính quyền. Câu chót: Ngoài tám mươi Cụ bỏ xác trong tù nghĩa là lúc chết tại chức trong nước.

Còn câu: Vãi cả ra quần, ra cót, khai mù lấy tích của anh hùng Phạm Ngũ Lão lúc hàn vi ngồi đan rọ độ nhật, quá nghĩ đến việc nước, vãi cả ra quần mà không hay; ý nói, người yêu nước lo đại sự mà quên mình đi. Bài thơ này thật là cao thâm bí ẩn, phải những bậc kỳ tài uyên thâm bác học như Cụ Lý Đông A mới hạ bút được những vần thơ tương tự. Nói sao cho hết những vần thơ đầy tình tự ái quốc, đầy hận thù CS, đầy tấm lòng thương nòi yêu giống lồng trong những câu văn khi sáng tỏ như bạch nhật lúc mờ như sương tỏa tận đỉnh non cao, thấy đó rồi lại biến đó, phải có cơ duyên mới thấu triệt được hết tập thơ Vô Đề này. Viết ra đây để đóng góp một chút gì cho áng văn thời đại. Tự hỏi nếu tác giả tập thơ này là Cụ Thái Dịch Lý Đông A, như vậy Cụ Lý vẫn còn sống sau cơn quốc nạn Nga Mi từ 1946 đến nay trên trường chính trị quốc nội cũng như quốc ngoại, tài danh của Cụ sáng như Trăng Rằm, những tay lãnh tụ xưa nay kể cả Hồ Chí Minh có sống lại, tất cả chỉ là những con đom đóm ma trơi mà thôi. Phải chăng đất nước chúng ta đã trải qua bao cơn bĩ cực để ngày mai đây nở rộ trên quê hương đoá hoa thái lai, an lạc, hạnh phúc lâu bền. Mong lắm thay!

Houston, Hạ 1992

Duy Xuyên


Bài II



Một lé- một không lé. Lịch sử chưa thấy có lãnh tụ nào lé cả ?? Chị em quán Bà Mâu khuyên Ali Baba Nguyễn Chí Thiện muốn làm lãnh tụ hải ngoại, lãnh tụ cộng đồng, đi đến đâu được nghinh đón , dàn chào, đi diễn thuyết, bắt tay bắt chân với các lãnh tụ lớn như Chirac v..v.., trước khi lên bụt lãnh giải Nobel "không làm thơ" thì nên sửa chút diện mạo . Cụ Duy Xuyên ghi lại năm 1995 là : Nguyễn Chí Thiện tuyên bố không có " ho lao" chỉ "bệnh thần kinh". Bệnh thần kinh có làm lãnh tụ được không?




















người Hải Phòng Trần Nhu "đẻ ra Nguyễn Chí Thiện"


Tập Thơ Vô Đề và Khuyết Danh

Duy Xuyên

Tôi muốn dùng chữ Vô Đề, Khuyết Danh đúng như ý nguyện của tác giả ẩn danh gởi từ trong nước ra hải ngoại vào năm 1979, vì tôi tôn trọng Danh Chính Ngôn Thuận đó là lối cư xử kính lễ của người cầm bút với Bậc Vĩ Nhân Thượng Trí mà đời đã có mấy ai mắt xanh nhìn thấu qua những hỏa mù của bọn Cộng phỉ, qua những bản đồng ca của loài ễnh ương tay sai lặn ngụp dưới lớp bùn dơ hôi tanh vì hai chữ lợi danh.


Tập thơ chính danh Vô Đề được các nhà xuất bản, dịch giả vẽ rắn thêm chân thành ra: Tiếng Vọng Từ Đáy Vực, Bản Chúc Thư Của Một Người Việt Nam, Hoa Địa Ngục, v.v... Sự tự ý đặt tên làm buồn lòng không biết bao nhiêu người. Còn Khuyết Danh là dụng ý của tác giả, một số người tự động đổi thành Hữu Danh gán cho ông Nguyễn Chí Thiện nào đó sau 15 năm thai nghén (1980-1995) vừa mới xuất hiện tại Mỹ quốc gần đây? Theo như các ông Minh Thi, Trần Nhu, Bùi Duy Tâm, ông nào cũng vỗ ngực tự nhận thân quen với Nguyễn Chí Thiện, nhưng mỗi ông cho Nguyễn Chí Thiện được thai sinh vào các năm khác nhau, thêm vào đó những năm sinh khác biệt của Hội Ân Xá Quốc Tế của Bà Sagan, Văn Nghệ Tiền Phong và cuối cùng chính đương sự, Nguyễn Chí Thiện sinh năm 1932, 1933, 1935, 1936, 1937, 1938 và cuối cùng 1939! Như vậy ai biết mô tê mà rờ!

Xưa kia Tôn Hành Giả theo thầy Tam Tạng đi thỉnh kinh, lúc gặp nguy biến, ông bứt một nắm lông bỏ vào mồm nhai rồi phun ra hóa thành hàng trăm Tôn Hành Giả đi làm rối loạn đối phương chẳng biết ai thật ai giả; thì nay nhà đạo diễn phù thủy nào bứt lông gì mà nhai để phun ra được đến 7 ông Nguyễn Chí Thiện? Một người dân thường ít học trước 7 ông Tôn Hành Giả Thiện này cũng đặt một nghi vấn?

Tạm thời ta tin ông Tôn Hành Giả Thiện này với năm sinh như ông nói là 1939, tức đến năm 1945 ông mới 6 tuổi, đến năm 1954 (Việt Cộng về Hà Nội ông đã đỗ tú tài Pháp chưa kể những năm di cư, sự học bị đứt đoạn, thời xưa đỗ Tú Tài Pháp khó lắm, mấy vị lớn tuổi Tây học ai cũng rõ điều đó), ông ở tù 27 năm, lao phổi thời kỳ thứ ba, thổ huyết không biết bao nhiêu lần thế mà ông không chết, sang Mỹ gần đây sức khỏe tốt, ông tuyên bố không bị bệnh phổi, chỉ bị bệnh thần kinh mà thôi! Bệnh thần kinh đâu chỉ riêng ông mắc phải mà hơn 70 triệu đồng bào ta tại quê nhà đều mang phải, trừ một thiểu số Cộng nô và tay sai.



Bà Chị Nguyễn Thị Hảo




                                                                            Ông Anh Nguyễn Công Dân

Tiểu sử Nguyễn Chí Thiện cũ: cha mẹ chết, chỉ còn một vài chị ruột ở Hải Phòng, nay lại lòi ra một ông anh ruột tại Hoa Thịnh Đốn, thêm một ông Tôn Hành Giả anh nữa, chao ôi là rắc rối! Nếu là anh ruột thật, tập thơ Vô Đề gán cho ông Thiện được in ra đã 15 năm, không thấy ông anh lên tiếng đòi bản quyền?

Còn một điều tủi nhục nữa, theo ông Minh Thi kể năm 1980 anh em quyên góp một số tiền gởi giúp ông Thiện, ông mở một động mãi dâm nuôi gái rất phát tài, đời sống đầy đủ: sáng trà, chiều rượu, tối thịt (?). Ông không làm thơ chống chế độ nữa, thế là ông thành bọn chứa thổ đổ hồ loại cặn bả của xã hội!!!

Ai đã đọc tập thơ Vô Đề, là lời Hịch truyền trao, lời văn khí khái hùng hồn, dám hy sinh cả thân mình cho một lý tưởng cao đẹp: diệt Cộng, cứu dân, xây dựng một xã hội an vui trăm họ (tôi không dám lạm bàn về tập thơ này vì có biết bao nhiêu vị tên tuổi đã nghiên cứu một cách nghiêm minh từ lâu rồi, tôi chỉ muốn nói những cái nghịch lý của vấn đề).

Thử đặt câu hỏi: Ông Nguyễn Chí Thiện chứa điếm là tác giả tập thơ Vô Đề tuyệt tác bất khuất đầy tình tự dân tộc này? Hay nhân vật Khuyết Danh nào đó ẩn núp tại quê nhà (mà nhiều người xác quyết là lãnh tụ Lý Đông A) là tác giả thật sự? Chỉ cần một nhất điểm lương tri nào đó thôi ta cũng đủ thừa tìm ra câu trả lời này.

Xưa những vị anh hùng chưa gặp thời, thất thời vẫn chọn một nghề khiêm tốn để độ nhật. Ông Phạm Ngũ Lão đan giỏ, có người đốn củi, có kẻ cầy ruộng đốt than để độ nhật vì vậy mới có câu:

Chim khuyên xuống đất ăn trùn

Anh hùng lỡ vận lên nguồn đốt than.

Điển hình trước mắt, sau 1975 đổi đời tại miền Nam, trí thức đẩy xe ba gác, đạp xích lô độ nhật, miền Bắc anh hùng chiến sĩ Điện Biên thất sủng về lao động:

Đầu hè đại tá vá xe

Cuối hè thiếu tá bán chè đậu đen.

Chớ có thấy ông nào làm cái nghề ti tiện chứa thổ đổ hồ đâu?

Xin những ai lưu tâm đến tập thơ Vô Đề mà tôi gọi: "Một Áng Văn Của Muôn Đời Mong Đợi" xin đọc đi đọc lại, càng nhiều lần càng tốt. mới thấu triệt được vấn đề đem ra so với Đạo Trường Ngâm, Huyết Hoa của Cụ Lý Đông A, thì ta sẽ có ngay chìa khóa để biết sự thật.

Xin lạm bàn:

Tuổi hai mươi tuổi bước vào đời

Hồn lộng cao gió thổi chơi vơi

..........

Ôi tiếc thương bao mùa lúa vun trồng

Một mùa Thu nước lũ (ngày nổi dậy 19/8/1945 của bọn Việt Minh)

(Đồng Lầy - 1972)

Ông Nguyễn Chí Thiện sinh năm 1939 (1939 đến 1945), ông mới có 6 tuổi, sao lại gọi tuổi hai mươi? Phi lý và nghịch lý.

Ai cũng biết sống dưới chế độ Cộng Sản, động đến Lãnh Tụ là tội tầy trời:

– Nhà văn Phan Khôi chỉ gọi bóng gió ông Hồ Chí Minh là Ông Bình Vôi, thế mà bị trù ẻo bao vây không ai dám tới lui, ông chết trong nhục nhằn, bệnh tật đói lạnh!

– Ông Nguyễn Hữu Đang, một nhân vật trí thức Bắc Hà người được Hồ Chí Minh quí nể giao cho trọng trách thiết kế và ra mắt chính phủ Cộng Sản tại Ba Đình Hà Nội ngày 2/9/1945, thế mà sau vụ Nhân Văn Giai Phẩm năm 1956, ông bị đầy ải, tù lao, hạ nhục nay trên 80 tuổi về quê ở nhờ vỉa hè của trường làng, bắt ếch nhái, cóc rắn để có chút lương thực sống qua ngày, khủng khiếp quá!

Nguyễn Tuân lúc già sắp chết mới dám thố lộ với anh em văn sĩ trẻ: "Ta sống được đến ngày nay nhờ biết sợ" chỉ vào cái bóng đen trên tường: mật vụ Cộng Sản!

– Thi sĩ Chế Lan Viên cúc cung tận tụy với Đảng, lúc chết vợ con tìm được trong ngăn kéo bài thơ (tôi quên tên bài thơ):

Tôi cầm nó biết là bánh vẽ

Nhưng phải bỏ vào mồm

Nếu nói thật là bánh vẽ

tức là chống lại Đảng lại Đoàn!

Chết rồi mới dám nói sự thật!

Tập thơ Vô Đề, Khuyết Danh chửi Đảng, chửi Lãnh Tụ Vĩ Đại, xin bình tâm đọc và suy luận:

Đảng thực chất chỉ là đảng cướp

Dựng triều đình mông muội giữa văn minh

..........

Đảng còn kia bác phở hóa thành mơ!

Chửi Hồ Chí Minh, đây là lời của một vị Lãnh Tụ chửi tên hạ dân nên dùng chữ "Nó":

Không có gì quý hơn Độc Lập Tự Do

Tôi biết nó thằng nói câu nói đó

Việc nó làm tội nó phạm ra sao

Nó gọi Tầu Nga là cha anh nó

Và tình nguyện làm con chó nhỏ

Xông xáo, giữ nhà gác ngõ cho cha anh

..........

Nó là tên trùm đao phủ năm nào

Hồi cải cách đã đem tù, đem bắn

Độ nưœa triệu nông dân, rồi bảo là nhầm lẫn

Đường nó đi trùng điệp bất nhân

..........

Ngoài đói khổ rùng mình

Thời đại Hồ Chí Minh (gọi đích danh cáo Hồ)

Xuất hiện dưới hai hình

Mả tù và mả lính

Chửi cán bộ cộng sản:

Là quỷ, là ma, là thú dữ?

..........

Để gọi chúng tiếng người không đủ chữ

..........

Chửi Mác, chửi Mao, chửi Staline mà Tố Hữu là trùm văn hóa đề cao:

Thương cha thương mẹ thương chồng

Thương mình có một thương ông thương mười

Chửi Mao mà Hồ Chí Minh coi là bậc thầy, ông Hồ tuyên bố Mao chủ tịch viết triết thuyết đầy đủ quá rồi, vì vậy có còn gì nữa để ông (Hồ) viết thêm. Nghe tác giả Khuyết Danh chửi Mao:

Bác Mao cân nặng tạ hai

Thịt ùn lên mặt, mặt hai ba cằm

Người dân Trung quốc thì thầm

Nó là Đổng Trác nhưng dâm hơn nhiều

Chửi Lãnh Tụ cao cấp:

Tôi không nhớ hết tên bọn nó

Duẫn, Giáp, Hồ Hề, Chinh Xu gì đó

(Chinh Xu là Trường Chinh Đặng Xuân Khu. Xuân + Khu = Xu, và cũng là đồng chinh đồng xu).

Một người mà dám chửi Đảng Cộng sản, chửi Mác, chửi Mao, chửi Hồ Chí Minh, và đảng viên cao cấp: Đảng cướp, Mác ác, Mao dâm, gọi Hồ Chí Minh là "Nó", tay sai Nga Tầu, con chó giữ nhà cho đầu sỏ Mác xít ngoại bang. Thế mà Trung Ương Đảng Cộng Sản làm ngơ, Nga Tầu không phản ứng, Hồ, Đồng, Giáp, Duẫn im lìm, Tố Hữu là tên chó săn văn nghệ miền Bắc không sủa lên báo động, mật vụ công an bỏ qua để ông Nguyễn Chí Thiện được sống an nhàn trên chục năm nay tại Hải Phòng và mặc đồ lớn, xách samsonite đi sang Mỹ và thế giới tự do gặp đồng bào tị nạn cộng sản, như vậy Việt Nam bây giờ dân chủ hơn Âu Mỹ, tự do hơn thế giới tự do sao? Hỏi tức là trả lời. Chửi như vậy tội nhẹ nhất đối với Cộng Sản là Tru Di Tam Tộc đấy.

Ở Việt Nam hiện nay, ai động đến cái lông chân ông Hồ cũng bị tử hình, khi viết về ông Hồ, chữ "Người" không viết hoa cũng ở tù mục xương. Ôi! tại sao có cái chuyện phi lý như vậy, khi nào thấy chó mọc sừng, lợn biết nói, thì tôi mới tin Cộng Sản Việt Nam đối xử với ông Nguyễn Chí Thiện (tự nhận là tác giả tập thơ Vô Đề nầy) tử tế nhân ái đến như vậy! Chính miệng ông Thiện nói: "Cộng Sản nó thả ông ra không phải vì nhân đạo, chúng làm điều gì cũng có lợi cho chúng", mong quý vị hiểu chữ "lợi" nầy!!! ...(....)


- Thập niên 1920 tại Mạc Tư Khoa, Hồ đã cầm nhầm Nguyễn Thị Minh Khai là vợ của đồng chí Lê Hồng Phong!


Ngục Trung Nhật Ký

- Thập niên 1930, Hồ cầm nhầm tác phẩm Ngục Trung Nhật Ký mà tác giả là người Trung Hoa bạn đồng tù với ông, thế mà đảng Cộng sản ca tụng tác phẩm Ngục Trung Nhật Ký của Bác Hồ vĩ đại, mãi sau nầy Học Giả Lê Hữu Mục vạch trần, tố cáo với những chứng liệu không thể chối cãi, nếu không có ông Lê Hữu Mục đưa ra ánh sáng, thì "Trung Hoa Ngục Trung Nhật Ký" là của riêng ông Hồ! Đạo tình, đạo văn là cái sở trường của Cộng sản Việt Nam! UNESCO là tổ chức văn hóa quốc tế đã lầm tưởng đề nghị năm 1990 ông Hồ là vĩ nhân quốc tế, rất may nhờ người Việt Quốc Gia vạch trần sự thật nên Hồ Chí Minh biến thành Hồ Ly!

Chúng ta là những người có ăn học, có liêm sỉ, chúng ta phải tìm ra sự thật ai là tác giả tập thơ Vô Đề, để trả lại César cái nào thuộc về César, nó không đơn giản như chúng ta tưởng đâu, nhưng sự thật rồi cũng phải phơi bày, đã đến lúc ông Tôn Hành Giả Thiện phải ra trước quần chúng giảng giải những gì ông gọi là của ông, mong rằng một tổ chức nào có một tầm vóc, nhất là vô tư, tổ chức cho ông Thiện trình bày về 376 bài thơ ngắn dài và trả lời những câu hỏi, thắc mắc, nghi ngờ, ý thơ, lời văn, v.v... như vậy mới sáng tỏ được vấn đề, vì Văn Học là cái gì Tinh Hoa Cao Đẹp, đừng vì tham vọng, tục hèn mà làm hoen ố đi rất có tội với hậu thế, và cũng xin ai kia đừng chửi bới những người có đầy nhiệt tâm đặt câu hỏi: "Nghi Án Văn Chương", tự xưng cầm bút mà chửi người có nhiệt tâm đặt vấn đề với những từ ngữ thô tục thì chỉ có bọn điếm Văn Nghệ mới thường dùng, và cầm đầu điếm Văn Nghệ không ai qua Tố Hữu, tên đao phủ miền Bắc Việt Nam.

Không viết thì mang tiếng với bạn bè, là "mũ ni che tai", vô tích sự loại "Ông Bình Vôi". Còn viết thì thế nào cũng có một số người không ưa, nhưng biết làm sao hơn! Chưa viết thì băn khoăn, viết xong thấy lòng thanh thản như đêm Thu trăng sáng.

Duy Xuyên

Thu 1995

 Nguồn: http://www.hon-viet.co.uk/DuyXuyen_TapThoVoDeVaKhuyentDanh.htm



Tuesday, January 6, 2009

(Nhật báo Saigon Nhỏ, số ra ngày 03-01-09- Tú gàn

video
 


Nguồn: http://thovodetacgiavodanh.blogspot.com/2008/12/108-khp-non-sng1964.html



Ai Là  Tác Giả Cuả Tập Thơ Vô Đề
 Hoàng Dược Sư


                         
                             Nghi Án Văn Học: Ai là tác giả tập thơ Vô Đề?

Trong nhiều số báo của tôi, tôi có nêu lên một nghi án văn học: Ai là tác giả của tác giả tập thơ Vô Đề.

Hệ thống báo của tôi khi đi tìm sự thật đã tìm ra quá nhiều điều “tiền hậu bất nhất” về những dữ kiện quan trọng khi ông Nguyễn Chí Thiện trả lời các cuộc phỏng vấn từ khi ông ra hải ngoại: niên kỷ của những lần ông ở tù, dữ kiện về những gì xảy ra tại Toà đại sứ Anh ngày 16 tháng 7, 1997, “bản thảo” tập thơ Vô Để đã “luân lạc” từ tay người này sang người khác một cách vô cùng bí ẩn. 

Trong số những bài viết về vấn đề này có hai bài viết người đọc nên lưu ý:  

- Bài của tác giả Sơn Tùng (*) về ông Nguyễn Chí Thiện là một bài nên đọc, phải đọc vì nhiều lẽ: tác giả Sơn Tùng làm việc trực tiếp với ông Nguyễn Chí Thiện trong việc liên lạc với Bộ Ngoại Giao Anh và Tổ chức Ân xá Quốc tế - Amnesty International. 

- Bài của tác giả Triệu Lan: ghi lại những điều tương phản, tiền hậu bất nhất của ông Nguyễn Chí Thiện qua nhiều cuộc tiếp xúc, nhiều cuộc phỏng vấn từ khi ra hải ngoại.

  Sau đây là phần căn bản liên quan đến “sự thật” về ngày 16 tháng 7 1997 trích ra từ bài viết của ông Sơn Tùng:

 Tác giả Sơn Tùng

Nguồn: OntheNet

 Có lẽ cũng nghĩ như vậy nên năm 2006 ông Nguyễn Chí Thiện đã muốn tôi giúp ông làm sáng tỏ sự thật, và tôi cũng muốn thực hiện một cuộc điều tra khách quan và khoa học để chấm dứt một nghi án văn học trong cộng đồng người Việt hải ngoại khởi đầu với việc giảo nghiệm dấu tay trên tập bản thảo. 

Nhưng sau gần 30 năm, số phận tập bản thảo nguyên thủy là điều rất đáng lo ngại. Liệu nó có còn được lưu giữ tại Bộ Ngoại Giao Anh? Và nếu còn, nó đang nằm nơi xó xỉnh nào và do ai trách nhiệm? Hiển nhiên, tập bản thảo không phải là một tài liệu quan trọng cần được xếp hạng và lưu giữ giữa hàng triệu giấy tờ, hồ sơ của Bộ Ngoại Giao Anh. Có thể nó đã bị thất lạc vì không ai có trách nhiệm lưu giữ. 

Sự lo ngại của tôi về sau đã chứng tỏ là không xa sự thật. Sau mấy tháng không nhận được hồi âm của Bộ Ngoại Giao Anh, tôi nhờ một người bạn tại Virginia dò hỏi vì ông có liên hệ hoạt động về nhân quyền với tổ chức Ân Xá Quốc Tế (Amnesty International) ở London. Không bao lâu sau, vào giữa tháng 12, 2006, người bạn chuyển cho tôi e-mail của một viên chức tại tổ chức Ân Xá Quốc Tế báo tin đã tiếp xúc. 

Về sau, tôi được Nguyễn Chí Thiện cho biết ông đã gọi nói chuyện với ông Alexander Honey và ông ta cũng không biết tập thơ ở đâu, và nói rằng nếu ông Thiện biết tập thơ đang do ai giữ thì cho ông ta biết! 

Đúng như tôi lo ngại, tập bản thảo đã bị thất lạc. Bộ Ngoại Giao Anh không thấy cần phải lưu giữ tập bản thảo sau khi đã làm theo yêu cầu của tác giả là phổ biến ra ngoài Việt Nam. Người Anh không biết đến cuộc tranh cãi trong cộng đồng người Việt hải ngoại chung quanh tập thơ. 

Bẵng đi hơn một năm không có tin gì thêm về tập bản thảo, bỗng vào tháng 4, 2008, tôi được ông Nguyễn Chí Thiện cho biết ông đã nhận được tập bản thảo do vợ một nhà văn người Anh gửi tới. Theo lời ông Thiện, nhà văn này (tôi quên tên) vừa qua đời, bà vợ trong khi dọn dẹp kho sách của chồng đã thấy tập bản thảo nên tìm cách liên lạc với ông để trả lại. Cũng theo lời Nguyễn Chí Thiện, ông đã yêu cầu bà vợ nhà văn Anh gửi tập bản thảo cho ông Đinh Quang Anh Thái, một nhà báo quen thân với ông tại Orange County, California. Khi nhận được tập bản thảo, ông Thái đã bóc ra, sau đó giao lại cho ông Nguyễn Chí Thiện. Ông Thiện cho biết ông Thái không chịu cất giữ, vì sợ thất lạc. 

Vào đầu tháng 8 vừa qua, trong dịp sang Virginia, ông Nguyễn Chí Thiện ngỏ ý muốn tôi thực hiện việc giảo nghiệm dấu tay và chữ viết trên tập bản thảo. Tôi đã từ chối, cả vì lý lẫn vì tình. 

Về lý, ông Nguyễn Chí Thiện đã nhận và giữ tập bản thảo, nó không còn giá trị để giảo nghiệm dấu tay nữa. Nó đã bị “ô nhiễm” (contaminated), theo cách gọi của khoa học hình sự. Tôi không rõ với tiến bộ khoa học hiện nay, các chuyên viên giảo nghiệm có thể phân biệt được dấu tay mới với dấu tay 30 năm về trước hay không, nhưng dù sao vai trò của tôi cũng không còn cần thiết nữa khi ông Nguyễn Chí Thiện đã cầm trong tay tập bản thảo. 

Về tình, năm 2006 ông Nguyễn Chí Thiện đã làm chứng thư ủy nhiệm cho tôi liên lạc với Bộ Ngoại Giao Anh tìm bản thảo tập thơ để giảo nghiệm dấu tay. Tôi đã tiến hành công việc một cách nghiêm túc. Khi được tin về tập bản thảo, thay vì báo cho tôi, ông Thiện lại tự quyết định gửi tập thơ cho người khác. Hành động này, dù suy diễn cách nào cũng cho thấy ông Nguyễn Chí Thiện đã chấm dứt sự ủy nhiệm đối với tôi.

Hành động của ông Nguyễn Chí Thiện có thể đưa tới nhiều suy đoán, nhưng kết quả vẫn là ông đã bỏ lỡ một cơ hội có một không hai để chứng minh ông chính là người đã cầm tập bản thảo Hoa Địa Ngục vào tòa đại sứ Anh ở Hà-Nội ngày 16/07/1979. 

Tôi đã đề nghị với ông Nguyễn Chí Thiện, nay đang có tập bản thảo trong tay, nên tự tiến hành việc giảo nghiệm chữ viết và tìm dấu tay, nếu có thể phân biệt dấu tay mới và dấu tay 30 năm trước. 

Chỉ cách đó mới có bằng chứng vật chất để bác bỏ suy đoán của những người nói rằng Nguyễn Chí Thiện không phải là người cầm tập bản thảo vào tòa đại sứ Anh ở Hà Nội năm 1979. Nếu không làm được như vậy, suy đoán này vẫn còn tiếp tục được nói đến mà không ai có thể dứt khoát bác bỏ. 

Trong những lần nói chuyện với tôi trước đây, ông Nguyễn Chí Thiện cho biết khi trao tập bản thảo cho nhân viên tòa đại sứ Anh, ông có viết nhan đề tập thơ là Hoa Địa Ngục và tên ông cùng địa chỉ trên một tờ giấy kèm vào tập thơ. Rất tiếc cho đến nay, không có ai đủ thẩm quyền để xác định có tờ giấy ấy và giải thích vì sao tờ giấy ấy không còn trong tập bản thảo. 

Trước những nghi ngờ và tranh cãi đang diễn ra, việc Nguyễn Chí Thiện thật, Nguyễn Chí Thiện giả đã trở thành một nghi án văn học và chính trị, và tạo chia rẽ trong cộng đồng người Việt hải ngoại. Mặt khác, tuy việc nghi ngờ không trực tiếp đe dọa tác quyền của ông Nguyễn Chí Thiện trên tập thơ Hoa Địa Ngục, nhưng không thể chối cãi việc ấy đã gây phiền nhiễu cho ông và làm tổn thương danh dự của ông.  

 (*) DCVOnline: Trong bài Chung quanh cuộc bàn cãi Nguyễn chí Thiện thật, Nguyễn chí Thiện giả cùng tác giả, Sơn Tùng viết:  

... Trên thực tế, ông Nguyễn Chí Thiện đã cho xuất bản và tái bản tập thơ Hoa Ðịa Ngục, đã đăng ký tác quyền tại Thư Viện Quốc Hội Hoa Kỳ, và cho đến nay, tác quyền của ông chưa hề bị thách thức trước pháp luật hay trên văn đàn. Chưa có ai nạp đơn kiện trước tòa án và cũng chưa có nhà văn hay nhà phê bình văn học nào, ở ngoài nước hay trong nước, viết bài nghiêm chỉnh nêu ra “nghi án” về tác quyền tập thơ Hoa Ðịa Ngục.  

Vì những lý do trên đây, mặc dầu những tranh cãi đã và đang diễn ra, hầu hết người đọc đều mặc nhiên coi Nguyễn Chí Thiện là tác giả tập thơ Hoa Ðịa Ngục. Giới văn học quốc tế thì lại càng không có ai thắc mắc và không có ai đặt vấn đề “Nguyễn Chí Thiện thật, Nguyễn Chí Thiện giả”, và cũng không quan tâm đến những tranh cãi trong cộng đồng người Việt ở hải ngoại về đề tài ấy.  (...)  

 

Mặt khác, ông Nguyễn Chí Thiện nói rằng khi đem tập thơ vào Tòa Ðại sứ Anh ở Hà Nội, ông có viết tên tập thơ cùng với tên và địa chỉ của ông vào một miếng giấy kèm trong tập bản thảo. Một nhân chứng đáng tin cậy cho tôi biết ông Ðỗ Văn, thuộc Ban Việt Ngữ đài BBC, người được Bộ Ngoại Giao Anh trao cho một bản chụp của tập thơ, nói rằng chính ông ta đã rút tờ giấy đó ra trước khi chuyển cho báo Văn Nghệ Tiền Phong vì sự an ninh của tác giả còn ở Việt Nam. Theo ông Ðỗ Văn, Nguyễn Chí Thiện là tác giả tập thơ và có mời về nhà ăn cơm khi ông tới London vào năm 1996...

Đây là những sự thật ghi nhận sau khi đọc đoạn văn này của ông Sơn Tùng  

 - Bộ Ngoại Giao Anh không biết gì về tác phẩm Vô Đề, không có ghi nhận (record) gì về những việc xảy ra ngày 16 tháng 7, 1979 tại Toà Đại sứ Anh tại Hà Nội. 

- Ông Nguyễn Chí Thiện có tiếp xúc với ông Alexander Honey của Bộ Ngoai Giao Anh sau khi có số điện thoại của nhà ngoại giao Anh này không? Tại sao ông Nguyễn Chí Thiện không công bố ra ngoài việc bộ ngoại giao Anh xác nhận họ không có bản chánh của tập thơ Vô Đề?  

- Tháng 4, 2008, ông Nguyễn Chí Thiện cho ông Sơn Tùng biết từ trong đống sách của người chồng quá cố, bà vợ ông nhà văn Anh nào đó có bản thảo viết tay của tập thơ Vô Đề tìm ông Nguyễn Chí Thiện mà giao lại. Tin tức phối kiểm qua lời của một biên tập viên lâu năm với đài BBC cho biết người này không phải là nhà văn mà là giáo sư Sử Học Ralph Smith, thầy của ông bà Lê Mạnh Hùng và ông này đã qua đời từ năm 1998. Ông Ralph Smith là bạn của bà Judith Snow (Judith Stowe – DCVOnline), Giám đốc chương trình Việt Ngữ đài BBC. Bà Judith Stowe cũng đã qua đời cách đây 3 năm.  

- Tại sao đã ký giấy Affidavit giao cho ông Sơn Tùng làm đại diện mà ông Nguyễn Chí Thiện không giao cho ông Sơn Tùng việc lấy bản thảo(?) này từ ông Lê Mạnh Hùng để làm giảo nghiệm như giao ước mà lại giao cho phái viên Đinh Quang Anh Thái. 

-Trong bản in đầu tiên của báo Văn Nghệ Tiền Phong, tập bản Chúc Thư của Một Người Việt Nam trang 220, báo VNTP cho biết người ủy thác cho VNTP phổ biến tập thơ này tên là Q tức ông Đỗ Văn. Sau này mới có tin là toà đại sứ Anh chuyển giao về Bộ Ngoại Giao Anh, Bộ Ngoại Giao Anh giao cho ông Đỗ Văn đài BBC và ông Đỗ Văn giao cho ông Châu Kim Nhân mang về cho Nguyễn Thanh Hoàng, báo Văn Nghệ Tiền Phong. Ông Nguyễn Thanh Hoàng đã qua đời nhưng hai ông Đỗ Văn và Châu Kim Nhân thì giữ thái độ im lặng rất khó hiểu. Nhưng theo ông Sơn Tùng thì Bộ Ngoại Giao Anh xác nhận họ không biết, không thấy, không có bản thảo này. Nhưng chính ông Thiện là người tìm thấy đúng lúc, đúng kỳ khi nghi án văn học về việc ông Nguyễn Chí Thiện không phải là tác giả tập thơ Vô Đề bùng nổ trong cộng đồng người Việt tị nạn cộng sản ở hải ngoại.  

- Một người sinh sống tại Hải Phòng cho biết sau khi đọc đoạn ông Nguyễn Chí Thiện trả lời phỏng vấn: 

... Tối hôm thứ Sáu 13/07, trước ngày 14/07 là ngày Quốc khánh Pháp, sứ quán có chiêu đãi. Tôi đã lên Hà Nội trước đó ba hôm, lên nhà thằng cháu gọi tôi bằng cậu. Bây giờ nó chết rồi. Vợ nó, bây giờ tôi nói thật ra là vợ nó gọi thiếu tướng Quang Phòng là cậu, ông ấy là Cục trưởng An ninh Quốc gia phụ trách về văn hoá. Nhà đó thì công an rất nể, không ai dòm ngó đến cái nhà đó cả. Thế là tôi mới lủi vào nhà đó tôi viết. Vợ nó đi làm thì tôi mới viết, khi vợ nó về thì không viết nữa. Một ngày có 8, 9 tiếng ở nhà để viết, viết gấp rút, chỉ có thằng cháu biết thôi vì tôi nói nó đóng cho tôi một cái tủ hai ngăn, để giấu tập thơ. Nó giỏi thợ mộc nên làm được ngay. Tôi dặn nó tuyệt đối không được mở ra. Viết xong nó đóng hộ tôi thành ra quyển sách vì tay tôi yếu. Giấy viết hai mặt, đôi lúc thiếu bút, vì thế nguyên bản có nhiều trang viết bằng mực đỏ. Cũng may trước khi đóng, nó khuyên tôi: Cậu phải viết một cái thư, chứ gửi nguyên thế này đâu được, ai biết chuyện gì. Tôi nói nó đưa bút, ngồi ngoáy chớp nhoáng lá thư bằng tiếng Pháp. Kí tên, đề thẳng là 136 Rue de la Gare, Nguyễn Chí Thiện, địa chỉ nhà tôi ở Hải Phòng. Dưới lá thư đó tôi đề: Hoa Địa Ngục, mở ngoặc đóng ngoặc: Fleurs de l' Enfer, đề tên tác giả hẳn hoi.

(Trích Bui van Phu: 2 gio voi NCT 11/19/02) 

[Bài phỏng vấn Nguyễn Chí Thiện mang tựa đề “Hai giờ với thi sĩ Nguyễn Chí Thiện” của tác giả Bùi Văn Phú đăng ngày 19/11/2007 trên talawas, © 2007 talawas – DCVOnline]. 

Hoa Địa Ngục, Nguyễn Chí Thiện (Bản dịch của Huỳnh Sanh Thông)

 Có hai “sự thật” trong đoạn ông NCT trả lời trên đây cần ghi nhận: 

 1. Trong cuộc họp báo do ông Nguyễn Chí Thiện tổ chức ngày 25 tháng 10, 2008 tại khách sạn Ramada ở Orange County, khả năng Pháp ngữ của ông Nguyễn Chí Thiện cho thấy việc “ngoáy chớp nhoáng lá thư bằng tiếng Pháp” này không thể là sự thật vì khả năng Pháp ngữ yếu kém cuả ông. 

2. Từ năm 1955, sau khi cộng sản vào tiếp quản thành phố Hải Phòng thì phố Ga đã đổi tên là phố Lương Khánh Thiện. Nếu năm 79 (24 năm sau 1955) NCT đưa tập thơ vào toà đại sứ Anh mà vẫn dùng tên phố Ga thì thật là vô lý. Người Anh phải tra cứu lịch sử tên phố thời Pháp thuộc thì mới biết được ông Nguyễn Chí Thiện ở đâu ?  

Sau đây là phần căn bản trong bài viết của tác giả Triệu Lan đã đăng trên nhật báo của tôi số ra ngày Thứ bảy 25 tháng 10, 2008: 

Sau đây người đọc hãy nghe Nguyễn Chí Thiện (NCT) cho biết Thiện bị bắt và được thả tù từ năm nào. Trong 6 cuộc phỏng vấn NCT trả lời 3 năm bị “cầm tù” khác nhau. Tại sao?

A1) Mr. Thien was first sent to jail in 1958 when the Vietnamese communist government repeated the Chinese campaign of “Hundred Flowers Blossom” to discover and purge dissenting elements. (fva.org NCT Renowned Poet Landed freedom 11/01/1995)

 Ông Thiện bị cầm tù lần đầu từ năm 1958.

A2) Nguyễn Chí Thiện tham gia nhóm Nhân Văn Giai Phẩm bị bắt giam tù về tội làm thơ chống Cộng. Lần thứ nhất từ tháng 5/1961 đến 11/1964 ...

(Báo Người Việt số 32 tháng 11 năm 1980):

 Ông Thiện bị cầm tù lần đầu từ năm 1961 đến 1964.

A3) Sau vụ bắt bớ và tù đày của nhóm Nhân Văn Giai Phẩm (1956-1958), Nguyễn Chí Thiện sáng tác thơ, bí mật luân lưu. Lần đầu tiên ông bị nhà cầm quyền Cộng sản cầm tù vào năm 1961, nhưng được thả 1963 ...

(Vo Minh Cuong NCT tái ngộ Úc châu 04-18-2006)

 Ông Thiện bị cầm tù lần đầu từ năm 1961 đến 63

 Chào Mừng Ngục Sĩ Nguyễn Chí Thiện Tái Ngộ Úc Châu của tác giả Võ Minh Cương đăng ngày 27/04/2006 trên Việt Báo – DCVOnline)

Tóm lại, theo báo Người Việt thì Nguyễn Chí Thiện được thả tù năm 1964. Nhưng nói với Võ Minh Cường tại Úc Châu thì Thiện được thả tù năm 1963. Tại sao ? 

 A4) “Ông Nguyễn Chí Thiện bắt đầu sáng tác thơ trong thời gian bị tù năm 1957 cho đến năm 1978 ...”

(Radio VNHN Vuong ky Son pv NCT 10/12/03)

 A5) Nguyễn Chí Thiện: Lý do đi tù đơn giản thôi anh ạ. Năm 1956, tôi bị bệnh lao. Tôi về Hải Phòng để chữa bệnh.. Tôi có người bạn dạy trường Bổ túc văn hóa. Anh ấy ốm nhờ tôi dạy thế. Nhằm vào môn sử, tôi có nói nguyên nhân Nhật đầu hàng là do hai trái bom của Mỹ bỏ xuống đất Nhật. Như thế là phản tuyên truyền đáng lẽ phải nói là do Hồng quân Liên Xô đánh thắng Nhật ..."

(DCV Nguyen Van Luc pv NCT 06/07/07)

 Bài Mạn đàm với Nguyễn Chí Thiện của tác giả Nguyễn Văn Lục đăng ngày 06/07/2007 và © DCVOnline – DCVOnline)

 A6) Hồng Vân: Anh ở Hải Phòng được mấy năm?

- Nguyễn Chí Thiện: Đầu năm 1957 tôi xuống Hải Phòng (chữa bệnh), đến tận đầu năm 1961 tôi mới đi tù ... Nhưng khi đi tù thì tự nhiên hết bệnh (Lao) ...

 ((WAD) web Ánh Dương. Hoàng Vân PV Nguyễn Chí Thiện 1st Oct, 2008)

 Thắc mắc: Năm 1957, năm 1958 và năm 1961. Nguyễn Chí Thiện thật sự bị ở “tù” năm nào? Và năm 1963, năm 1964 và năm 1978 Nguyễn Chí Thiện được thả tù năm nào?

 Trong cuộc trả lời cho Nguyễn Văn Lục, thì Nguyễn Chí Thiện bị “bệnh Lao” và xuống Hải Phòng vào năm 1956. Nhưng trả lời cho web Ánh Dương thì Nguyễn Chí Thiện cho biết Thiện xuống Hải Phòng để chữa “bệnh Lao” vào năm 1957. Tổng cộng 6 đoạn trả lời bên trên Nguyễn Chí Thiện bị “bắt tù”, được “thả tù” và “bịnh bệnh Lao”, Nguyễn Chí Thiện đã trả lời mỗi nơi mỗi khác nhau. Những mâu thuẫn trong các cuộc phỏng vấn của Nguyễn Chí Thiện thì đã có quá nhiều nhưng ở đây Triệu Lan chỉ đưa ra vài đoạn tiêu biểu cho đọc giả nhận định về con người “chống cộng và chưa làm gì hại gì cộng đồng” của Nguyễn Chí Thiện.

Riêng vấn đề bệnh “Ho Lao” Nguyễn Chí Thiện đã trả lời dưới đây một cách “tự nhiên” đã khiến người nghe nhăn mặt và khó có thể tin theo những điều “chứng minh” phản khoa học này.

- Nguyễn chí Thiện: “ ... đến giữa 1956 bị ho lao, có khi ho ra hàng cốc máu, bố mẹ có cái nhà ở phố Lò Đúc, phải bán đi “chữa bệnh hết MẸ nó cả tiền” (nguyên văn câu nói của Thiện). Cho nên 1957 phải xuống Hải Phòng chữa bệnh ho Lao ở bệnh viện Việt-Tiệp. Nhưng khi bị tù thì tự nhiên hết bệnh!

(Web Ánh Dương: Hoàng Vân phỏng vấn NCT ngày 1st tháng 10 năm 2008)

Như trên đã nói những điều Nguyễn Chí Thiện cho biết bệnh Lao "tự nhiên hết" đã hoàn toàn phản với lý luận khoa học. Vì lý do đó nên Bác sĩ Phùng Văn Hạnh (*) hiện ở Montréal, Canada cũng đã "Thắc Mắc về Tình Trạng Ho Lao Thổ Huyết Nặng của Nguyễn Chí Thiện.”

 “Tự Nhiên Bệnh Hết?”. Được biết Bác sĩ (*) Phùng Văn Hạnh cũng là người đã từng “nếm mùi tù” của Cộng sản Hà Nội trong một thời gian dài, ông cho biết như sau:

BS (*) Phùng văn Hạnh: Trong cuộc phỏng vấn Hoàng Vân-Nguyễn chí Thiện, ông Thiện cho biết: “đến giữa 1956 bị ho lao, có khi ho ra hàng cốc máu ... nhưng khi bị tù thì tự nhiên bệnh hết". Thơ thì nói tình trạng ho lao thổ huyết nặng, nay lại nói, “khi bị tù thì tự nhiên bệnh hết!”

Thứ 2 - Bệnh Lao là bệnh của những kẻ nghèo đói, suy dinh dưỡng, lao động mà không được nghỉ ngơi. Khi tôi ở tù Tiên Lãnh 12 năm, những trại viên bị Lao đã ổn định trước khi vào tù, bệnh tái phát, trở nên nặng thêm và lần lượt chết. Ngoài ra những năm đầu không có khu cách ly bệnh lao, nhưng sau bệnh xá phải có trại cách ly (người bị bệnh) Lao vì số trại viên bị Lao tăng lên vùn vụt, do ăn uống thiếu thốn va lao động khổ cực. Cho nên lời ông Thiện nói “nhưng khi vào tù thì tự nhiên bệnh hết”, thì thật là phi lý. Cái tự nhiên của ông sao trái với y lý, y khoa đến thế.

Về học vấn và những năm bị bắt thì Nguyễn Chí Thiện đã cho biết trong các cuộc phỏng vấn như sau:

 B1) Nhà thơ Nguyễn Chí Thiện cũng cho biết rằng ông tốt nghiệp trung học năm 1955, tức là năm 1954 mới 15 tuổi ông đã đậu tú tài 1, nghĩa là ông phải làm đơn xin miễn tuổi để dự thi? Nghề nghiệp chính thức của ông là dạy Anh văn và Pháp văn. Ông đi tù lần đầu từ tháng 5.61 đến tháng 11.64, lần thứ nhì từ tháng 2.66 đến tháng 7.77. Trong thời gian được thả từ tháng 11.64 đến tháng 2.66 thì ông dịch sách và cư trú tại Hải Phòng.

 (Thế Huy Paris, 1997, Trích Văn Nghệ Tiền Phong số 512)

 Nhưng theo Diễn đàn Hưng Việt thì học vấn và những năm Nguyễn Chí Thiện bị bắt khác nhau như sau: 

B2) Thi sĩ Nguyễn Chí Thiện tốt nghiệp cử nhân văn chương đại học Hà Nội. Bị bắt lần đầu vào năm 1958. Cùng bị bắt có Trần Dần, Văn Cao, Hoàng Cầm, Hữu Loan, v.v... Lần thứ 2 bị bắt vào tháng 11/1961 được thả năm 9/1964, bị bắt lần thứ 3 tháng 10/65 được thả tháng 6/1978 ...

 (WHV) xem web Hưng Việt/phần giới thiệu về Nguyễn Chí Thiện 

 Thắc mắc: Tại sao Nguyễn Chí Thiện có thể nói khác biệt những năm Thiện bị “tù” một cách lạ lùng như vậy? Phải chăng Nguyễn Chí Thiện đã “lớn tuổi” nên không còn “minh mẫn” để nhớ rõ các năm mình bị “tù tội” một cách rõ ràng khiến người đọc có thể đặt nghi vấn; Có thể Nguyễn Chí Thiện quên rằng Thiện đang ở Pháp hay Mỹ thay vì đang ở Hà Nội nên không một ai dám “phê bình” hay có thể kiểm chứng những gì Thiện đã nói ra? Chưa nói đến kể từ năm 1954 đến năm 1975, thì ở Hà Nội không có một cuộc thi Tú Tài nào cả. Như vậy “có thể” Nguyễn Chí Thiện mới thi tú tài vào đầu năm 2008 này chăng? 

Trong phần nhật ký của bà Jean Libby cho biết bà đã trực tiếp ngồi nhiều giờ để phỏng vấn Nguyễn Chí Thiện, thì “học vấn” của Nguyễn Chí Thiện được bà Jean cho biết như sau:  

C1) Nguyễn Chí Thiện: -Tôi học Pháp văn lúc 6 tuổi do chị là Nguyễn Thị Hảo dạy.  

C2a) Năm 1949 lúc 10 tuổi, gia đình Nguyễn Chí Thiện trở về Hà Nội, và Nguyễn Chí Thiện được theo học trường tư, trường dành riêng cho những gia đình khá giả.  

C3b) Năm 1954, lúc 15 tuổi, Nguyễn Chí Thiện nhất quyết học ngoại ngữ tiếng Anh, tiếng Pháp, tiếng Trung Hoa để trở thành một nhà thơ. 

C4c) Năm 1949 - 1956 lúc 10 - 17 tuổi Nguyễn Chí Thiện học ở trường Nguyễn Huệ, Minh Tân, Văn Lang, Albert Sarraut. Thời gian này Hà Nội là thuộc địa của quân thực dân Pháp.

 (JTANCT trg.2, Jean Libby) 

 Thắc Mắc: Năm 1956 Hà Nội là thuộc địa của thực dân Pháp?! (Lẽ ra bà Jean Libby phải nói rằng năm 1956 Hà Nội là thuộc địa của thực dân Đỏ Nga - Tầu) chứng tỏ Nguyễn Chí Thiện đã “coi thường” các nhà văn như bà Jean Libby, vì Thiện nghĩ rằng có lẽ bà Jean Libby không hiểu gì về lịch sử của tập đoàn cộng sản Hà Nội đã vào chiếm miền Bắc vào năm 1954 chăng? Năm 1956 đến 1958 Cộng sản Hà Nội đã phát động vụ án Nhân Văn Giai Phẩm đã làm rúng động cả miền Bắc, thì làm gì có chuyện “Năm 1956 Hà Nội là thuộc địa của thực dân Pháp”. Không phải bà Jean Libby không biết gì về lịch sử Việt Nam vào thời đó. Nhưng đây là “chủ ý” của bà, nên bà chỉ ghi lại những gì Nguyễn Chí Thiện đã kể cho bà trong cuộc phỏng vấn.  

Chỉ riêng 3 cuộc phỏng vấn (A, B, C) ở trên Nguyễn Chí Thiện đã cho người đọc thấy ba (3) lần trả lời khác nhau về “học vấn” cũng như những năm bị “tù tội", chứng tỏ Nguyễn Chí Thiện phải có những điều bí ẩn trong phần học vấn cũng như những năm Nguyễn Chí Thiện bị “tù tội". Những trường học như: “Nguyễn Huệ, Minh Tân, Văn Lang, Albert Sarraut", thì thời điểm cũng như một số tên thầy, cô, hiệu trưởng, bạn cùng lớp Nguyễn Chí Thiện đã không bao giờ cho biết một cách rõ ràng mà chỉ nói chung chung rằng: người này hay người kia là bạn học cùng lớp với Thiện.  

Cũng như vào ngày 1st tháng 10 năm 2008 vừa qua, trả lời cho Hồng Vân thì Nguyễn Chí Thiện cho biết Thiện học Anh văn người thầy dạy cho Thiện là ông Lê Bá Kông. Nhưng nếu kiểm chứng thì người đọc sẽ thấy (ở mục C3b phía trên lúc Nguyễn Chí Thiện 15 tuổi) vào năm 1954 thì có lẽ ông Lê Bá Kông đã không có mặt ở miền Bắc vào thời điểm đó (nếu Triệu Lan không nhầm lẫn)

 

Sự kiện Nguyễn Chí Thiện đã đem tập thơ “Vô Đề” vào “sứ quán Anh” ở Hà Nội vào năm 1979 ra sao cũng được dàn dựng không kém phần hấp dẫn. Điều này cũng đã làm người Việt tị nạn Cộng sản lưu vong tại hải ngoại đặt nhiều nghi vấn. Trong cuộc phỏng vấn của ông Bùi Văn Phú vào 11-19-2002 thì Nguyễn Chí Thiện đã cho người đọc biết sự việc như sau:  

D1) Nguyễn Chí Thiện: Tôi lao đến mở cửa nhưng phải qua cái bàn, ở đó có người (1) đàn bà đang ngồi ở phía ngoài cùng. Chị ta thấy tôi lao đến, chị ta nói không được làm thế, đi đâu thế này. Tôi đẩy chị ta ngã thì hai (2) thằng ngồi đấy đứng lên ngăn ở cái cửa. Thế là không vào được, chạy ngược ra. Nhìn bên phải thấy có một cái buồng con con, buồng bu-loa có kính, trong đó có một cô gái người Anh, tóc vàng, đang ngồi chải tóc. Tôi nghĩ là may ra cô ta cứu được mình, tôi nói với cô ta bằng tiếng Anh: “I am a honest man. Do not fear... I need to talk to Mr. Ambassador”. Nghe tôi nói thế cô ta bỏ cả lược. Cô ta sợ quá vì cái mặt của mình có vẻ hung ác. Trong khi đó một người đã ra báo công an, còn hai tay kia cứ xua đuổi mình ra. Họ chỉ đuổi thôi chứ không ôm hay đánh mình vì trong sứ quán nên họ không dám làm mạnh. Bí quá mình nhấc cái bàn cho nó nghiêng lên, những thứ trên bàn rơi xuống đất kêu loảng xoảng... Đây là điều may vì nghe những tiếng đó cánh cửa đỏ bên trong mở ra, ba người Anh đi ra. Một nhân viên Việt Nam nói một câu: “He is a mad man”. Tôi vội vàng nói ngay: “I am not a crazy man. I have an important document to give to you”. Khi bọn Anh ra thì đám nhân viên Việt Nam dạt ra hết, đứng qua một bên. Tôi chạy tọt vào bên buồng trong.  

(Bui van Phu: 2 gio voi NCT 11-19-02 (1))

 D2) Nguyễn Chí Thiện: “ ... Độ 9 giờ sáng tôi bất thình lình vượt qua viên lính đứng ngoài (viên lính này mặc thường phục) lọt vào. Tôi bất ngờ vì trong fòng có 7 nam 1 nữ ngồi làm việc ở một chiếc bàn lớn. Tôi nói là tôi là cán bộ ngọai giao tới cần liên hệ với sứ quán.”

 (4 trang thư viết tay của Nguyễn Chí Thiện gởi đồng bào hải ngoại ngày 7 tháng 11 năm 1995).

 D3) Nguyễn Chí Thiện: “ ... Nhưng vào sau bình phong tôi thấy một căn phòng rộng, có cái bàn lớn kê ở giữa phòng, có ba (3) tên người Việt, hai (2) đàn ông, một (1) phụ nữ, ngồi ở bàn, tôi thấy cánh cửa phòng bọc da đỏ ....".

 (NSVN Cong Tu Ha Dong pv NCT 2001)

 D4) Nguyễn Chí Thiện: Qua khỏi cái bình phong ấy, giữa phòng có một cái bàn to và bốn (4) người Việt Nam: ba (3) đàn ông và một (1) đàn bà, tuổi trung niên cả, độ chừng 40, đang ngồi viết. Đó là những nhân viên hành chánh, Anh nó thuê làm công việc lặt vặt. Thấy thế là mình vã mồ hôi ra. Bỏ mẹ rồi, đi ra cũng không được mà tiến vào cũng không được. Lúc bấy giờ mình bình tĩnh, bảo: “Báo cáo đồng chí, tôi ở Bộ Ngoại giao sang có việc cần liên hệ với ông đại sứ". Mình cũng ăn mặc lịch sự, áo ni-lông, quần cũng ni-lông, ..."

 (Bui van Phu: 2 gio voi NCT 11-19-02 (2)).

 

Thắc mắc: Quý đọc giả đọc đến phần D này cũng không khỏi thắc mắc và đặt nghi vấn về vấn đề NCT kể lại cuộc “đột nhập” vào sứ quán Anh tại Hà Nội vào năm 1979 như thế nào.

 Mục D1 thì Nguyễn Chí Thiện khi vào sứ quán Anh, Thiện gặp ngay Ba (3) người, Hai (2) nam và Một (1) nữ, nhưng khi được phỏng vấn lần thứ 2 ở ...

Mục D2 thì Nguyễn Chí Thiện lại nhân con số người lên hơn 2 lần là Thiện gặp trong sứ quán Anh đến 8 người gồm Bảy (7) nam và Một (1) nữ. Nhưng có lẽ sau khi “điều nghiên” lại thì NCT cảm thấy con số 8 người hơi cao ngồi làm việc quanh một cái bàn, cho nên NCT lại rút lại con số người từ 8 còn lại 3 như trong lần phỏng vấn ở ...

 Mục số D3 là vẫn Hai (2) người đàn ông và Một (1) người đàn bà. Sau đó có vẻ hơi ít, nên trong lần phỏng vấn thứ tư ở ...

 Mục số D4 Nguyễn Chí Thiện lại “rặn” thêm 1 người đàn ông nữa nên khi vào sứ quán Anh ở Hà Nội lần này NCT lại gặp tổng cộng 4 người Ba (3) đàn ông và Một (1) đàn bà. Đặc biệt lần này NCT ăn mặc “bảnh bao” hơn: “Mình cũng ăn mặc lịch sự, áo ni-lông, quần cũng ni-lông", mặt mày của NCT cũng không “hung ác” hơn như ở đoạn D/1 và vì vẻ mặt của Thiện “hung ác” nên bảo làm sao cô gái người Anh không sợ thất kinh mà “đánh rơi cả lược?”

 Như vậy thật sự Nguyễn Chí Thiện có vào sứ quán Anh không? và Thiện đã gặp chính xác là bao nhiêu người trong sứ quán Anh vào năm 1979? Điều này đọc giả nên tự trả lời thì đúng nhất. Nhưng theo Triệu Lan thì Nguyễn Chí Thiện Không và Chưa bao giờ vào sứ quán Anh tại Hà Nội vào năm 1979 và ngay cả hôm nay 2008 cũng vậy.

 (ngưng trích bài của Triệu Lan) 

 Sự hiện diện của ông Nguyễn Chí Thiện tại hải ngoại dĩ nhiên không phải chỉ là sự đạo diễn của riêng Hà Nội là mà một quá trình có sự hợp tác của Hoa Kỳ cùng nhiều quốc gia khác trên thế giới. Khi thả một người như ông Nguyễn Chí Thiện hoạt động, đi lại giữa cộng đồng người Việt hải ngoại chắc chắn là chính phủ Hoa Kỳ đã phải có hậu ý rồi. Trong phần suy luận và nhận định của một người cầm bút, tôi chỉ trình bày ý kiến của chúng tôi về văn hoá và sự tranh đấu chống cộng của người Việt hải ngoại qua vấn đề Nguyễn Chí Thiện.

Cuối thập niên 80, Hoa Kỳ đồng tình với Hà Nội bắt đầu mở cửa cho người Việt hải ngoại về thăm quê hương. Sau 15 năm, số tù nhân chính trị dưới sự vận động của các cộng đồng người Việt tị nạn cộng sản ở hải ngoại, Hoa Kỳ đã cho các tù nhân chính trị này trong đó có các nhà văn danh tiếng của miền Nam Việt Nam lần lượt ra hải ngoại. Thử tưởng tượng từ thời điểm đó, nếu người đọc không có những khuôn mặt như Bùi Tín, Vũ Thư Hiên, Nguyễn Chí Thiện thì sân khấu chính trị chống cộng và những người xứng đáng để dại diện cho văn hoá Việt Nam tiếp xúc với cộng đồng người Việt tị nạn cộng sản sẽ là ai?

Chắc chắn là những tên tuổi của miền Nam tự do như các ông Doãn Quốc Sĩ, Võ Phiến, Hà Thượng Nhân, Phan Lạc Phúc, Thảo Trường, Võ Phiến, Lê Tất Điều, Tô Thùy Yên... Nhưng người Việt hải ngoại đã nhìn thấy những người phía bên kia về theo bên mình mới là đáng đề cao và chú ý trên phương diện chống cộng. Khi những cựu đảng viên cộng sản như Bùi Tín, như Vũ Thư Hiên (Tác giả Vũ Thư Hiên không phải, chưa từng, là đảng viên đảng Cộng sản Việt Nam – DCVOnline) chống cộng mới là những điều đáng đề cao. Coi như chính nghiã tự do, dân chủ đã ‘chiêu hồi’ họ về với hàng ngũ những người không chấp nhận chế độ cộng sản tại Việt Nam.  

Từ đó, những bài viết của những người này cũng như sự hiện diện của ông Nguyễn Chí Thiện được báo chí Việt ngữ khắp nơi hưởng ứng nồng nhiệt. Vô hình chung, người Việt hải ngoại đã nhường những diễn đàn văn hóa tại hải ngoại lại cho Bùi Tín, Vũ Thư Hiên, Nguyễn Chí Thiện, Dương Thu Hương... Khách quan, nếu kể về văn nghiệp thì những người này không thể so sánh với các nhà văn tên tuổi của miền Nam. So với thành tích chống cộng thì thua xa. Thành tích tù tội thì lại không thể so sánh được. Nhà văn Thảo Trường đã bị cộng sản bắt tù gần 17 năm. Những nhà báo Hà Thượng Nhân, Phan Lạc Phúc đều hơn 13 năm. Nhưng cộng sản Hà Nội đã thành công trong việc dành cái diễn đàn văn hoá của người Việt hải ngoại về cho Bùi Tín, Vũ Thư Hiên, Nguyễn Chí Thiện, Dương Thu Hương, đẩy những tên tuổi lớn của Văn Học Tự Do Việt Nam vào bóng tối. 

Có thể đó cũng là do ý cuả người Mỹ, chính phủ Mỹ. Họ không muốn thấy sự xuất hiện của những lãnh tụ xứng đáng đại diện cho cộng đồng người Việt hải ngoại, họ không muốn thấy một cộng đồng người Việt hải ngoại đoàn kết, từ đó có thể đưa đến việc thành lập một đảng đối lập với cộng sản Hà Nội trên đất nước của họ, thành lập một lực lượng có thực lực để đương đầu với chính quyền cộng sản trong nước. Thật ra, ông Nguyễn Chí Thiện có phải là tác giả tâp thơ Vô Đề hay không, giả hay thật, vụ toà đại sứ Anh ngày 16/07/1979 có một người chạy vào toà đại sứ Anh ở Hà Nội trao một tập thơ có hay không, người Mỹ đã biết từ lâu rồi vì đối với thế giới tình báo, có gì là bí mật sau gần 30 năm kể từ ngày 16 tháng 7, 1979?

Do đó để kết thúc nghi án văn học này, chúng tôi cò đề nghị một cuộc giảo nghiệm chữ viết với ông Nguyễn Chí Thiện mà chúng tôi biết trước là Nguyễn Chí Thiện sẽ không dám nhận lời. Khi ông Nguyễn Chí Thiện họp báo vào ngày 25 tháng 10 vừa qua, giới truyền thông tại Nam California đã giúp cho thế giới thấy rõ hơn tư cách và con người của ông Nguyễn Chí Thiện. Tôi đã không có được 20 phút như ông Nguyễn Chí Thiện hứa hẹn để đặt câu hỏi để ông Nguyễn Chí Thiện minh chứng cho việc ông là tác giả cuả tập thơ Vô Đề.

Tóm lại, với những người từ trước đến nay vẫn tin vào ông Nguyễn Chí Thiện là tác giả tập thơ Vô Đề thì sau cuộc “họp báo” ngày 25 tháng 10 vừa qua của ông Nguyễn Chí Thiện, quí vị chỉ cần tự trả lời 3 câu sau đây:

1. Tại sao một ngưới có trí nhớ siêu việt, có thể nhớ hàng ngàn câu thơ và chép lại trong vài đêm lại không thể nhớ năm mình đi tù?

2. Tại sao chỉ một dữ kiện “toà đại sứ Anh ngày 16 tháng 7, 1997” ông Nguyễn Chí Thiện tuyên bố 4 “sự thật” khác nhau khi được phỏng vấn?

3. Tại sao khả năng Pháp Ngữ của ông Nguyễn Chí Thiện lại kém cỏi đến như vậy trong khi bức thư tiếng Pháp cuả tác giả Vô Đề cho thấy tác giả này có khả năng Pháp Ngữ cao hơn nhiều? Tại sao ông Nguyễn Chí Thiện không dám chép lại bức thư này khi tôi đề nghị sẽ đọc cho ông Nguyễn Chí Thiện viết lại trước mắt mọi người. Việc giản dị là chỉ cần ông Nguyễn Chí Thiện viết được trơn tru, không có lỗi chính tả bức thư mà do chính ông trước kia với cùng một dạng tự trước mặt mọi người thì ông Nguyễn Chí Thiện đã có thể giải toả được mọi nghi ngờ.

Ông Nguyễn Chí Thiện lại chứng tỏ kém tư cách, khi tránh né việc giảo tự, giảo văn này bằng đề nghị cá cược 200.000$. Tôi, một người cầm bút đi tìm sự thật về một nghi án văn học, tôi không đi đánh bạc. Quan trọng hơn cả là trong buổi họp báo này, ông Nguyễn Chí Thiện không đưa ra một bằng chứng nào khả tín để minh chứng ông là tác giả tập thơ Vô Đề ngoài vài kết quả giảo nghiệm tự biên, tự diễn trong khi tôi đề nghị một cuộc giảo tự và giảo văn trước mắt mọi người thì ông Nguyễn Chí Thiện không dám nhận lời. 

  Tóm lại sau hai tháng đọc tất cả những bài viết, những cuộc phỏng vấn của ông Nguyễn Chí Thiện, qua những điều căn bản sau đây:

 - Không hề có người đưa bản thảo tập thơ nào vào tòa đại sứ Anh ở Hà-Nội ngày 16/07/1979.  

- Chuyện Toà Đại Sứ Anh là chuyện bịa đặt hoàn toàn. Đó là một sản phẩm của tình báo. 

- Ông Nguyễn Chí Thiện không thể giải thích về những lời tuyên bố khác biệt nhau của chính ông trong các cuộc phỏng vấn về những gì đã xảy ra ngày 16 tháng 7 năm 1979 tại Toà Đại Sứ Anh ở Hà Nội thì người đọc co tin rằng chuyện này không hề xảy ra.

- Ông Nguyễn Chí Thiện trong cuộc họp báo do chính ông tổ chức ngày 25 tháng 10 chứng tỏ hai điều: không dám giảo văn vì khả năng Pháp ngữ thấp kém so với trình độ của tác giả Khuyết danh cuả tập thơ Vô Đề, không dám giảo tự để so sành chữ viết của ông với tác giả Khuyết Danh này trước công chúng.

 Việc trả lại tập thơ Vô Đề cho tác giả đích thực của nó là một bổn phận của mọi người Việt không chấp nhận chế độ cộng sản chứ không phải riêng của cá nhân tôi hay báo của tôi. Như đã viết trong nhiều bài viết: hệ thống báo của tôi đã cố gắng lãnh trách nhiệm của một cơ quan ngôn luận trong việc chứng minh ông Nguyễn Chí Thiện không phải là tác giả tập thơ Vô Đề.

Chúng tôi rất hãnh diện là sau nhiều cố gắng chúng tôi đã có thể trả tập thơ này lại cho tác giả Khuyết Danh, một người Việt Nam có thể đã không còn trên cõi đời này vì bị đày đọa nhiều năm trong lao tù cộng sản vì ông là tác giả của những vần thơ bi hùng chống chế độ cộng sản vô nhân đang đày đọa dân tộc Việt Nam.

Những đóng góp ý kiến về vụ ông Nguyễn Chí Thiện sẽ được hệ thống báo của tôi tiếp tục đăng tải trong mục Diễn Đàn để người đọc có thêm tài liệu về vấn đề này.

Cá nhân tôi, Đào Nương Hoàng Dược Thảo, tôi xin chân thành cảm tạ mọi an ủi, mọi chia sẻ của bạn đọc và thân hữu trong những ngày vừa qua khi tôi cố gắng dùng tâm trí cuả tôi và tài lực của hệ thống báo của tôi minh chứng cho một nghi án đã được nhiều người, nhiều tổ chức bắt đầu từ 27 năm qua mà chưa ai kết thúc được cho đến ngày Thứ Bảy 25 tháng 10, 2008 vừa qua.

Chính ông Nguyễn Chí Thiện đã giúp cho người đọc kết thúc nghi án này sớm hơn người đọc dự định bằng hành động và chứng từ mắt thấy tai nghe của chính ông nói ra hơn là những bằng chứng mà chúng tôi đang có. Thực sự nếu ông Nguyễn Chí Thiện là tác giả của tập thơ Vô Đề thì khi được chính diễn đàn nêu lên nghi vấn cho biết sẵn sàng nhường diễn đàn này cho ông lên tiếng, minh chứng về những nghi vấn này thì ông đã phải cám ơn hệ thống báo của tôi đã cho ông một cơ hội để cứu vãn danh dự cuả ông chứ không tìm cách đẩy chúng tôi vào vị thế đối nghịch của ông như ông và những người ủng hộ ông đã làm khi chúng tôi chỉ là những nhà báo đi tìm sự thật về một vấn đề văn học.

 

(*) DCVOnline: Ông Phùng Văn Hạnh hiện cư ngụ tại Montreal, Quebec, Canada chưa khi nào có giấy phép hành nghề hay đã hành nghề y sĩ (medical doctor) tại địa phương và quốc gia này.

 
Nguồn: http://www.buinhuhung.com

 

Trang mạng Việt Nam Văn Hiến
Trang Thơ Vô Đề
www.vietnamvanhien.net
Email: thuky@vietnamvanhien.net

Trang mạng Việt Nam Văn Hiến là nơi bảo tồn di sản văn hóa của Việt tộc, thắp sáng niềm tin văn hiến, phục hoạt nếp sống văn hiền để phục hồi nền An Lạc & Tự Chủ.


Trở lại trang mặt

Trang [ 1 ][ 2 ][ 3 ] [ 4 ]