Hình ảnh: Thống Tướng đến Trung Tướng
trong QLVNCH
Nhạc khúc:
VIỆT NAM MUÔN NĂM Lời: Phạm
Trần Anh Nhạc: Lê
Quốc Tấn Hợp ca:Ban CVA
& TV Bắc California - USA Tổng hợp:
Nam Phong
Để tưởng niệm,
tri ân và vinh danh những vị tướng và tá đã
trung kiên và anh dũng tuẫn tiết. Những
Quân-Dân-Cán chính cuả Việt Nam Cộng Hoà đã
bị hành quyết trong biến cố 30 tháng 4 năm
1975. Để tưởng
niệm và tri ân những chiến sỹ đã anh dũng hy
sinh cho Tự Do và Dân Chủ. Để tưởng
niệm những đồng bào và đồng hương đã tử nạn
trên đường tìm Tự Do. Để vinh
danh và hiệp thông với những nghiã sỹ đã và
đang dân thân vì Nhân Quyền, Dân Quyền, Quốc
Quyền, Tự Do và Dân Chủ cho Việt tộc. Chân thành cảm tạ quý
chiến hữu, nghiã hữu và thân hữu góp phần
làm nên video slideshow nầy.
VIỆT NAM
CỘNG HÒA - Tướng Lãnh II Video
Đề
Mục
1- Quân Lực
Việt Nam Cộng Hoà Tự Truyện - Phạm
Bá Hoa
2- Danh Sách Tướng Lãnh Việt Nam
Cộng Hoà
3- Danh Sách Tướng Lãnh Quân Lực Việt Nam Cộng
Hoà (Hình Ảnh)
Trân trọng kính chào "quí
bạn", những tế bào đã tạo nên "tôi".
"Tôi
bị bức tử" cách nay vừa hơn một phần tư thế kỷ,
nhưng cứ vào mùa hè oi bức, quí bạn đã cùng nhau tổ
chức "cúng giỗ tôi" với những nghi thức quân sự
trong những điều kiện mà quí bạn cố gắng có được. Lễ
hi trang nghiêm đó, có tên gọi "Ngày Quân Lực". Quí
bạn vẫn nhớ đến tôi. Điều đó tôi biết, và tôi rất
xúc động!
Vì
vậy, tôi thấy cần phải tâm sự đôi điều với quí bạn
về bản thân tôi, bản thân "một con người" có tuổi
đời quá trẻ, nhưng tôi có sức mạnh của một lịch sử
hào hùng, với dũng khí của một dân tộc vẻ vang, và
xông pha trận mạc bằng lý tưởng tự do dân chủ. Những
tưởng, mình sẽ góp phần quan trọng đạt đến mục tiêu
bảo vệ và phát triển quốc gia, mà trong đó mọi người
được sống trong chế độ dân chủ tự do, được tôn trọng
các quyền sống, bao gồm quyền mưu tìm hạnh phúc cho
bản thân, cho gia đình, và quê hương Việt Nam sẽ trở
nên hùng mạnh. Tôi luôn giữ cho mình niềm hảnh diện
về điều tôi nghĩ. Bởi, tôi tin là đất nước thân yêu
của chúng ta, thể nào cũng đạt đến đài vinh quang
bằng sức sống của mình, sức sống của một dân tộc đạo
nghĩa và hiếu hòa, cầu tiến và nhẫn nại. Luôn luôn
đặt tổ quốc lên trên mọi tổ chức, cũng như mọi quyền
lợi khác.
Thưa
quí bạn, tôi không tin là có định mệnh, nhưng nếu
quả thật có "định mệnh" trong cuộc sống này, thì
.......
*****
1.
Giai đoạn hình thành (1951-1954).
"Tôi"
được sinh ra trong một hoàn cảnh khác thường so với
"những đứa bạn xa xôi" của tôi, và cái chết của tôi
cũng chẳng giống ai trên cái cõi đời này. Cha mẹ tôi
đều là người Việt Nam, hoàn toàn Việt Nam. Trong
người tôi là dòng máu Việt Nam, hoàn toàn Việt Nam.
Nhưng người "cho phép tôi trở thành bào thai" lại ở
cách xa cha mẹ tôi 7 múi giờ về phía tây trên quả
địa cầu, đó là nước Pháp. Lúc bấy giờ là đầu trung
tuần tháng 5.1950, quốc hội Pháp thông qua dự luật
thành lập một quân đi cho quốc gia Việt Nam với quân
số 60.000 người. Nhưng mãi 2 năm sau, một văn kiện
gọi là Dụ (về sau gọi là Sắc Lệnh) của Quốc Trưởng
Bảo Đại, tôi mới được chào đời tại Sài Gòn, thủ đô
nước Việt Nam thống nhất. Vị ký văn kiện cho tôi
chào đời là "cha" tôi. Hôm ấy là ngày 1 tháng 5 năm
1952. "Mẹ" tôi là Thiếu tướng Nguyễn Văn Hinh, Tổng
Tham Mưu Trưởng. Ngôi nhà đầu tiên của tôi tọa lạc
trên đại l Trần hưng Đạo, thuộc Quận 5. Trong khai
sanh ghi tên tôi là "Bộ Tổng Tham Mưu Quân Đội Quốc
Gia Việt Nam".
Tôi
xin nhắc lại đôi nét về lịch sử cận đại nước ta, như
để giải thích với quí bạn khi tôi dùng chữ "thủ đô
nước Việt Nam thống nhất" mà tôi vừa nói đến. Vào
nửa cuối thế kỷ 19, Việt Nam ta bị thực dân Pháp xâm
lăng và cai trị. Họ chia nước ta như là 3 quốc gia
nhỏ mà chúng gọi: Nam Kỳ là thuộc địa, Trung Kỳ với
Bắc Kỳ là bảo hộ. Nhưng cốt lõi của chính sách cai
trị, dù tên gọi như thế nào thì cả 3 Kỳ cũng đều là
thuộc địa.
Trong
thế giới chiến tranh lần thứ 2, quân đội Nhật Bản
lật đổ Pháp tại Đông Dương hồi đầu tháng 3.1945. Đến
tháng 8.1945, Vua Nhật Bản ra lệnh đầu hàng hiệp
chủng quốc Hoa Kỳ, và thế chiến chấm dứt từ đó. Quân
đội Anh được trao trách nhiệm giải giới quân Nhật từ
vĩ tuyến 16 trở xuống phía nam, quân Trung Hoa của
Thống Chế Tưởng Giới Thạch giải giới từ vĩ tuyến 16
trở lên phía bắc. Không biết có phải là giải giới
quân Nhật để trao quyền cai trị lại cho thực dân
Pháp hay không, nhưng rõ ràng là thực dân Pháp đã
theo chân quân đội Anh quay lại chiếm Việt Nam. Đầu
tiên là Sài Gòn, rồi các tỉnh đồng bằng Cửu Long.
Lúc ấy, các đảng chính trị khuynh hướng quốc gia dân
tộc, quá tin vào ông Hồ Chí Minh - Chủ tịch đảng
cộng sản nên bị ông Hồ chí Minh giành lấy chánh
quyền và thủ tiêu hầu hết những nhân vật cao cấp,
sau đó ông Hồ đứng ra thương thuyết với Pháp. Thương
thuyết không thành. Hai bên thực dân Pháp và Việt
minh cộng sản- đánh nhau từ trung tuần tháng
12.1946.
Khi
Pháp bị sa lầy trong cuộc chiến với cộng sản Việt
Nam, chánh phủ Pháp thực hiện chính sách đẩy người
Việt không cộng sản nhập cuộc đánh nhau với người
Việt cộng sản, bằng cách thành lập quân đội cho quốc
gia Việt Nam. Trong bối cảnh đó, cựu hoàng Bảo Đại
và các đảng chính trị quốc gia cùng thân hào nhân
sĩ, vận động cho một nước Việt Nam thống nhất và độc
lập trong khối Liên Hiệp Pháp. Hạ tuần tháng 4.1949,
một hội nghị với khoảng 2.000 người tham dự, mà một
phần ba trong số đó là Pháp kiều có cơ sở kinh doanh
tại Việt Nam. Hội nghị đồng thuận bãi bỏ chế độ
thuộc địa, nước Việt Nam là một quốc gia thống nhất.
Và chánh phủ Pháp đã hợp thức hóa quyết định của hội
nghị. Đó cũng là lúc cựu hoàng Bảo Đại về nhận chức
Quốc Trưởng.
Việc
thành lập quân đội cho quốc gia Việt Nam, xuất phát
từ quyền lợi của nước Pháp thực dân. Điều đó chắc
không bạn nào nhầm lẫn. Và rất có thể vì vậy mà có
bạn thắc mắc; "Tại sao cựu hoàng và các đảng chính
trị lại tham gia vào chính sách đó của Pháp". Thật
ra quí vị ấy nhận định rằng: "Giữa Pháp với Việt
minh cộng sản, chẳng bên nào vì tổ quốc và dân tộc
Việt Nam cả, nhưng giữa hai kẻ xấu mà ta phải chọn
một, ta nên chọn kẻ xấu ít. Giữa Pháp với Việt minh
cộng sản, các vị đã tựa vào Pháp -kẻ xấu ít- để diệt
Việt minh cộng sản -kẻ xấu nhiều- sau đó tương kế
tựu kế đẩy Pháp ra khỏi Việt Nam". Mục tiêu là như
vậy, nhưng đạt được đến đâu, chắc quí bạn đã rõ.
Riêng "bản thân tôi", tôi cám ơn nhận định và hành
động của quí vị ấy, vì từ đó mà tôi có mặt trên cõi
đời này.
Như
nói ở trên, tôi sinh ra trong một hoàn cảnh khác
thường. Khác thường vì thời gian "thai nghén" quá
lâu, và khác thường vì có một số "cơ bắp" (đơn vị)
của tôi đã chào đời trước tôi vài tuổi, là:
-
Trường sĩ quan Việt Nam tại Huế 1948, sau đó chuyển
lên Đà Lạt tiếp nhận trường võ bị liên quân đặc biệt
của Pháp, và đổi tên là "Trường Võ Bị Liên Quân Đà
Lạt". Đầu những năm 1960, trường này cải tổ chương
trình huấn luyện và thời gian đào tạo sĩ quan hiện
dịch lên đến 4 năm, và đổi tên là ‘Trường Võ Bị Quốc
Gia Đà Lạt’.
- Thiết giáp 1.1.1951.
- Truyền tin 1.2.1951.
- Quân vận 1.5.1951.
- Nhảy dù 1.8.1951.
- Công binh 1.9.1951.
- Pháo binh 1.11.1951.
- Trường Sĩ quan trừ bị Thủ đức và Nam định,
12.1950.
Tôi không chọn ngày
tháng mà cơ bắp đầu tiên của tôi chào đời để làm
ngày sinh của mình, vì lẽ lúc bấy giờ cơ bắp đó tuy
dòng máu Việt nhưng cha mẹ là Pháp. Quân nhân của
đơn vị là Việt Nam, nhưng chỉ huy là sĩ quan Pháp.
Vậy là tôi chỉ mới có cái đầu. Cha mẹ tôi -nhất là
mẹ tôi- rất khổ nhọc trong cố gắng tạo cho tôi từng
cơ bắp, từng hệ thần kinh, để tôi có đủ các bộ phận
trong người, cho dù đầu tôi hơi lớn mà thân hình nhỏ
xíu ốm o cũng được, miễn là tôi thành một con người
rồi theo thời gian tôi sẽ phát triển. Vượt bao khó
khăn từ nhân sự -nhất là cán bộ chỉ huy- đến dụng cụ
chiến tranh, bước đầu tôi có được một số cơ bắp và
từng phần của hệ thần kinh, đó là hơn 50 tiểu đoàn
bộ binh và một số các ban chỉ huy Tiểu khu, Phân
khu, Quân khu.
Trong
khi trên chiến trường, hoạt động quân sự của Việt
minh cộng sản -với sự yểm trợ tối đa của Trung Hoa
cộng sản- làm cho bộ tư lệnh viễn chinh Pháp ngày
càng bối rối bởi những trận đánh với cấp đại đoàn,
một loại đơn vị chiến thuật trên cấp trung đoàn
nhưng dưới cấp sư đoàn. Một căn cứ kiên cố bậc nhất
của Pháp tại chiến trường Đông Dương với 12.000 quân
trú phòng, được xây dựng vùng lòng chảo Điện Biên
Phủ, gần biên giới Lào. Mục tiêu là nhử các đơn vị
lớn của Việt minh cộng sản đến để Pháp dùng hỏa lực
pháo binh và không quân tiêu diệt. Nhưng, sau 3
tháng đánh nhau dữ dội với những tổn thất nặng nề
cho cả hai bên, ngày 7 tháng 5 năm 1954, quân trú
phòng Pháp đã đầu hàng. Và sự kiện này đã dẫn đến
Hiệp Định đình chiến ngày 20.7.1954 tại Genève, Thụy
Sỉ.
Hiệp
định đó không có chữ ký của Việt Nam và Hoa Kỳ. Lúc
bấy giờ, dưới Quốc Trưởng có một chánh phủ do Thủ
Tướng Ngô Đình Diệm lãnh đạo. Biết bao vấn đề khó
khăn khi đất nước chỉ còn lại từ vĩ tuyến 17 trở
xuống, trong đó công tác định cư cho 1 triệu đồng
bào miền Bắc chạy nạn cộng sản vào Nam, là một trong
những mục tiêu lớn của chánh phủ mới nhận trách
nhiệm hai tuần lễ trước ngày ký hiệp định Genève.
Về
phần tôi, đến cuối năm 1954, được xem là giai đoạn
hình thành. "Cơ thể tôi" vào cuối giai đoạn
1950-1954, có đến gần 200 ngàn tế bào (mỗi tế bào
xin hiểu là một quân nhân), nhưng tôi hãy còn là
"một thiếu nhi" cả về tổ chức, trang bị, chiến đấu,
và nhất là về mặt chỉ huy. Có thể vì vậy mà từ bây
giờ, anh bạn Hoa Kỳ nhận giúp cho tôi trưởng thành
các mặt càng sớm càng tốt, để tôi đủ khả năng bảo vệ
quốc gia trước khi thằng thanh niên cộng sản miền
Bắc tràn xuống tấn công, thực hiện mục tiêu chiến
lư#432;ợc của cộng sản thế giới là biến các quốc gia
vùng Đông Nam Á Châu trở thành cộng sản. Tôi nói "có
thể", chớ nói cho đúng là anh bạn Hoa Kỳ nhắm vào
mục tiêu chiến lược của anh ta, giúp tôi ngăn chận
"thằng thanh niên" miền bắc, con bài chủ lực của gia
đình nó có cái tên là "Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa",
cũng là tôi giúp anh bạn Hoa Kỳ ngăn chận " nó với
anh em bạn bè nhà nó tràn xuống chiếm nhà tôi và nhà
của bạn bè hàng xóm tôi" nữa. Bởi vì "các nhà hàng
xóm" tôi cũng là bạn bè thân thiết của anh bạn Mỹ.
Điều đó có nghĩa là anh bạn Hoa Kỳ không phải hoàn
toàn giúp tôi đâu nhé. "Có qua có lại" mà.
Dưới
đây là những "cơ bắp chánh" của tôi, mà quí bạn là
những thành viên trong đó:
Lục
Quân.
- Bộ binh, có: 67 tiểu đoàn. Trường Võ Bị Liên Quân
Đà Lạt. Trường Sĩ Quan Trừ Bị Thủ Đức. (Trường Sĩ
Quan Trừ Bị Nam Định chỉ đào tạo khóa duy nhất).
Trung Tâm Huấn Luyện Quán Tre (tiền thân của Trung
Tâm Huấn Luyện Quang Trung).
- Nhảy Dù, có 5 tiểu đoàn với phiên hiệu 1, 3, 5, 6,
7. Đến tháng 9.1954, các tiểu đoàn được tổ chức
thành Liên Đoàn Nhảy Dù.
- Thiết Giáp, có 1 trung đoàn thám thính và 5 chi đi
biệt lập với 1 trung tâm huấn luyện.
- Pháo Binh, có 5 tiểu đoàn với phiên
hiệu 1, 2, 3, 4, 5.
- Truyền Tin, có 6 đại đội.
- Công Binh, có 6 đại đội.
- Quân Vận, có 6 đại đội.
Không
Quân.
Là một trong ba hệ cơ bắp quan trọng nhất (quân
chủng) của tôi, nhưng lớn hơn tôi 1 tuổi. Dưới quyền
có "2 Phi Đoàn Quan Sát Trợ Chiến" được trang bị phi
cơ Morane Saulnier. Ngay trước cuối năm 1954, nhận
thêm 39 phi cơ do Mỹ viện trợ qua trung gian của
Pháp, gồm Cessna L19, phi cơ vận tải C45 và C47.
Hải
Quân.
Cũng là hệ cơ bắp quan trọng của cơ thể tôi. Lớn hơn
tôi 2 tháng tuổi. Dưới quyền có "3 Hải Đoàn Xung
Phong" trang bị LCM và LCVP. Ngoài ra còn có 3 Liên
Đoàn Tuần Giang và một lực lượng com-măng-đô. Tuy
không thuộc hải quân, nhưng khi chuyển vào Nam thì
sáp nhập vào một tổ chức có tên là "Hải Quân B
Binh". Binh chủng này là tiền thân của "Thủy Quân
Lục Chiến". (chào đời đầu tháng 5.1955).
2.
Giai đoạn phát triển lần thứ nhất (1955-1967).
Hạ tuần tháng 10.1955,
sau cuộc trưng cầu ý dân với kết quả Quốc Trưởng Bảo
Đại bị truất phế, Thủ Tướng Ngô Đình Diệm tuyên bố
"Việt Nam là một nước cộng hòa", gọi ngắn gọn là
"Việt Nam Cộng Hòa" và tự ông trở thành Tổng Thống.
Cũng từ đây, tiêu đề thường dùng trên các văn thư
quân sự, ghi tên tôi là "Quân Đội Việt Nam Cộng
Hòa".
Một
kế hoạch cải tiến tôi từ những cơ bắp nhỏ, rời rạc,
trở thành những đơn vị trong một hệ thống tổ chức
lớn hơn, chặt chẻ hơn, thống nhất trang bị, thống
nhất chỉ huy, thống nhất huấn luyện. Tuy đã đình
chiến, nhưng mãi đến đầu tháng 7.1955, "cái đầu" tôi
mới được phép điều khiễn toàn bộ các cơ bắp của mình
(chỉ huy quân đội). Nửa đầu năm 1956, khi người lính
viễn chinh cuối cùng của Pháp rời khỏi Việt Nam, tôi
dọn đến ngôi nhà bề thế hơn, khang trang hơn, tọa
lạc gần cổng vào phi trường Tân Sơn Nhất. Trước mặt
là đường Võ Tánh nối dài và sau lưng là đường Võ di
Nguy. Nhà tôi có tên là "trại Trần hưng Đạo".
Vậy
là, trang sử nước Việt Nam thuộc địa của Pháp, được
khép lại từ đây.
Lục
Quân.
- Bộ Binh. Ngay trong năm đầu, "cơ thể" tôi từ những
cơ bắp nhỏ là cấp tiểu đoàn được tổ chức lại thành 4
Sư Đoàn Dã Chiến (1, 2, 3, 4) và 6 Sư Đoàn Khinh
Chiến (11, 12, 13, 14, 15, 16). Cuối năm 1959, 10 sư
đoàn này được tổ chức lại thành 7 "Sư Đoàn Bộ Binh".
Quân số mỗi sư đoàn là 10.500 người, bằng 2 lần quân
số sư đoàn khinh chiến. Các sư đoàn có phiên hiệu 1,
2, 5, 7, 21, 22, 23. Những năm sau đó, Sư đoàn 9,
18, và 25 được thành lập. Cộng chung là 10 sư đoàn.
Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn 1, 2, 3, 4, lần lượt chào đời
với trách nhiệm an ninh toàn lãnh thổ.
- Nhảy Dù. Năm 1962, Liên Đoàn được phát triển lên
cấp Lữ Đoàn, và tiếp tục phát triển thành Sư Đoàn
Nhảy Dù vào cuối giai đoạn.
- Biệt Động Quân. Binh chủng được thành lập năm 1960
với cấp đại đội. Ngay trong nửa đầu năm 1960, đã
hoàn tất 50 đại đội và hoạt động sâu trong vùng
thường ghi nhận có địch. Năm 1963 lên đến 86 đại
đội. Dần dần hình thành các bộ chỉ huy tiểu đoàn bên
cạnh các Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn/Vùng Chiến Thuật, với
các phiên hiệu 11, 21, 22, 31, 32, 33, và 41.
- Thiết Giáp. Một số đơn
vị trước 1954 cộng với một số mới thành lập, binh
chủng này có 4 Trung Đoàn Kỵ Binh thiết giáp được
trang bị thám thính xa, chiến xa M24. Ngoài ra còn
có 1 Liên Đoàn Thủy Xa. Năm 1963, sau thời gian trắc
nghiệm tại Sư Đoàn 7 và 21 Bộ Binh thành công, Thiết
Giáp được trang bị thiết vận xa M113 và M114. Năm
1964-1965, chiến xa M41 thay thế chiến xa M24 và
thám thính xa V100 thay thế thám thính xa M8 quá lỗi
thời.
- Pháo Binh. Năm 1955, pháo binh có 9 tiểu đoàn là
1, 2, 3, 4, 5, 6, 12, 32, 34. Năm sau đó, thành lập
thêm tiểu đoàn 23 và 25. Đồng thời tiểu đoàn 34 pháo
binh là đơn vị đầu tiên được trang bị đại bác 155
ly. Theo đà bành trướng chiến tranh của quân cộng
sản, pháo binh trong tổ chức mỗi Sư Đoàn Bộ Binh có
2 tiểu đoàn pháo binh 105 ly được trang bị 18 khẩu
cho mỗi tiểu đoàn (thay vì trước đó là 12).
- Lực Lượng Đặc Biệt, được thành lập vào những năm
cuối giai đoạn, với nhiệm vụ hoạt động dọc biên giới
Việt Nam - Cambodia và Việt Nam - Lào. Vì là "nhiệm
vụ đặc biệt", nên tổ chức không theo khuôn mẫu các
binh chủng khác. ‘A’ là đơn vị nhỏ nhất, từ những
căn cứ trong rừng dọc biên giới hoặc những hành lang
mà quân cộng sản dùng xâm nhập, xuất phát thu thập
tin tức hoặc tấn công địch. ‘B’ gồm nhiều A. Và ‘C’,
là bộ chỉ huy đặt cạnh Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn/Vùng
Chiến Thuật.
Không Quân.
Năm
1955, tiếp nhận căn cứ Nha Trang và đổi tên là "Căn
Cứ Trợ Lực Không Quân số 1". Năm 1956, tiếp nhận
thêm căn cứ Tân Sơn Nhất và căn cứ Biên Hòa. Cả hai
đổi thành "Căn Cứ Trợ Lực Không Quân số 2" và "số
3". Tính đến năm 1958, Không Quân có 7 phi đoàn,
gồm: 1 phi đoàn khu trục, 2 phi đoàn liên lạc, 2 phi
đoàn vận tải, 1 phi đoàn trực thăng, và 1 phi đoàn
đặc vụ.
Từ
1961 đến 1964, Hoa Kỳ liên tục cung cấp nhiều loại
phi cơ, nhất là khu trục cơ AD6, trực thăng H34. Đơn
vị tác chiến và yểm trợ tác chiến được phát triển
lên cấp Không Đoàn tại mỗi Vùng chiến thuật, với
phiên hiệu các Không Đoàn tính từ Đà Nẳng vào:
- Không Đoàn 41 đồn trú Đà Nẳng.
- Không Đoàn 62 đồn trú Plei Ku.
- Không Đoàn 23 đồn trú Biên Hòa.
- Không Đoàn 33 đồn trú Tân Sơn Nhất.
- Và Không Đoàn 74 đồn trú Cần Thơ.
Năm
cuối của giai đoạn này, có 1 phi đoàn khu trục được
trang bị phản lực cơ F5. Phiên hiệu của các đơn vị
xếp thành 3 số. Theo đó, số hàng trăm để chỉ công
dụng của đơn vị, như: Số 1 là phi đoàn liên lạc, số
2 là trực thăng, số 3 là đặc vụ, số 4 là vận tải, số
5 là khu trục, số 7 là quan sát, số 8 là hỏa long,
và số 9 là huấn luyện. (không thấy nói đến số 6)
Hải
Quân.
Năm 1955, quân chủng này có một lực lượng tác chiến
với 24 chiến hạm, hơn 110 chiến đỉnh, trong tổ chức
5 Hải Đoàn và 1 Hải Lực. Năm 1959, Lữ Đoàn Thủy Quân
Lục Chiến tách ra khỏi Hải Quân và trở thành lực
lượng tổng trừ bị. Hải Quân lần lượt tiếp nhận tàu
chiến từ Hải Quân Hoa Kỳ như sau:
- Năm 1956 đến 1963, gồm 31 chiến hạm với 193 chiến
đỉnh.
- Năm 1964 đến 1967, gồm 9 chiến hạm và hằng trăm
ghe xi-măng gắn máy Yabuta thay ghe buồm của lực
lượng HảiTthuyền.
Cuối
giai đoạn 1955-1967.
Tôi
trở thành một thanh niên với đầy đủ cơ cấu một con
người. Hệ thần kinh đã phát triển. Vũ khí trong tay
tôi, phần lớn sản xuất từ đệ nhị thế chiến với một
số loại thuộc thế hệ mới. Và giữa năm 1964, "ba má
tôi" là Trung Tướng Nguyễn Khánh với chức năng Quốc
Trưởng kiêm Thủ Tướng, và Trung Tướng Trần Thiện
Khiêm với chức Tổng Trưởng Quốc Phòng kiêm Tổng Tư
Lệnh Quân Lực, đã lên án thế vì khai sanh sửa tên
tôi một chữ, thành "Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa".
Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, gồm; Hải Quân, Lục Quân,
Không Quân, và Địa Phương Quân, Nghĩa Quân.
Tôi
đã đánh nhau nhiều lần với thằng thanh niên miền Bắc
có cái tên là "quân đi nhân dân". Cha hắn biết hành
động len lén đẩy hắn vào "nhà tôi" (Việt Nam Cộng
Hòa) để đánh cướp là vi phạm Hiệp Định đình chiến,
nên cha hắn "may cho hắn một cái áo" ở tiệm may vùng
biên giới Việt Nam-Cambodia hồi cuối năm 1960. Cái
áo có dòng chữ "Mặt Trận Dân Tộc Giải Phóng Miền
Nam". Hắn vi vàng trùm cái áo đó lên người rồi gây
sự tùm lum, làm cho "một số nhân vật ngoại quốc cố
tình" (các quốc gia vì quyền lợi riêng tư mà có
thiện cảm với cộng sản) cho là anh em tôi trong nhà
đánh nhau. Nhưng vải áo của hắn là loại vải thưa,
nên nhiều nhân vật khác đều thấy và biết rõ hắn là
"quân đi nhân dân" miền Bắc xâm nhập vào đánh chiếm
ngôi nhà của tổ tiên tôi, mà tôi và bà con họ hàng
tôi có trách nhiệm gìn giữ. Do đó mà các anh bạn
hàng xóm là Hoa Kỳ, Đại Hàn, Úc Đại Lợi, Phi Luật
Tân, Thái Lan, Tân Tây Lan, có cả anh bạn Trung Hoa
Dân Quốc nữa, cùng đến tiếp tay ngăn chận không cho
hắn cướp nhà.
3.
Giai đoạn phát triển cao điểm (1968-1975).
Mở đầu giai đoạn này là tên thanh niên miền Bắc đánh
lén tôi ngay trong đêm 30 Tết Nguyên đán Mậu Thân
1968. Tuy hắn được ông nội (Nga) ông ngoại (Tàu) hắn
cung cấp vũ khí mới, nhưng hắn đã bị tôi đánh trả
quyết liệt làm hắn lảo đảo lũi chạy về rừng và nằm
liệt cả năm mới hoàn hồn.
Vì
hắn có vũ khí mới, nên anh bạn Mỹ đồng ý cung cấp
cho tôi những vũ khí thuc thế hệ mới, gọi là "chương
trình tối tân hoá quân dụng". Đầu tiên là lực lượng
tổng trừ bị, dần dần đến toàn bộ chủ lực quân.
Chương trình diễn tiến tốt đẹp. Đùng một cái, nhà
anh bạn Mỹ có chuyện buồn phiền (phong trào phản
chiến), nên anh ta phải rút về nước dưới một văn
kiện quốc tế nghe rất "lịch sự" là thi hành Hiệp
Định Paris 1973, và một cái tên quốc nội nghe rất
chối tai là "Việt Nam Hóa Chiến Tranh".
Tại
sao là "Việt Nam Hóa Chiến Tranh?" Chính tôi đã đánh
nhau với thằng "thanh niên miền Bắc" ngay từ hiệp
định đình chiến Genève. Vì tuy là đình chiến, nhưng
cha mẹ ông bà nhà nó -khi kéo nhau ra Bắc- đã giấu
nó lại trong đất nhà tôi, và nó cứ đập phá nhà cửa
tôi, bắt giết dòng họ tôi, và tôi buộc phải đánh trả
nó chớ có phải tôi qua nhà nó (trên đất bắc) gây sự
với nó đâu. Khi nó được dòng họ nội ngoại chú bác nó
(Nga sô, Trung quốc, và các nước cộng sản Đông Âu)
giúp nó ăn cướp nhà tôi, các bạn xa xôi đến tiếp tay
với tôi chớ đâu phải thay tôi để đánh nó. Rõ ràng là
tôi vẫn đánh với nó. Các bạn ấy cũng đánh nó. Cho
nên tức không chịu được! Nhưng nhìn lại mình, nhất
là nhìn lại "cha mẹ tôi" -Tổng thống Nguyễn Văn
Thiệu và Đại Tướng Cao Văn Viên- không thấy lên
tiếng cãi lý gì với anh bạn chơi tri kiểu ấy. Đành
vậy thôi, nhưng tức vẫn tức!
Khi
rời Việt Nam, anh bạn Mỹ để lại cho tôi hầu hết các
loại dụng cụ chiến tranh mà anh ta đang sử dụng, vì
chuyên chở về bên kia bờ Thái Bình Dương tính ra phí
tổn có thể cao hơn trị giá số lượng quân dụng đó,
với lại nó cũng thuộc vào "hàng đã dùng rồi" chớ có
mới mẽ gì đâu. Vì vậy, trong cách nhìn nào đó,
chương trình tối tân hóa quân dụng cho tôi, chưa
chắc bạn tôi là người hoàn toàn tốt với tôi đâu.
Nhưng dù sao thì tôi cũng phải "phát triển một cách
thần tốc" để có khả năng lấp vào khoảng trống mà các
bạn đó về nước, bằng cách gia tăng thêm quân số, đẩy
mạnh huấn luyện, tổ chức thêm các đơn vị, để kịp
tiếp nhận dụng cụ trang bị. Trọng tâm là phát triển
Hải Quân và Không Quân, kế đến là Pháo Binh và Thiết
Giáp.
Tính
đến đầu năm 1975, con người tôi như dưới đây:
Cơ
quan trung ương.
Bộ
Tổng Tham Mưu với đầy đủ các cơ quan, binh chủng, và
binh sở trong hệ thống quản trị hành chánh, nhân
viên, huấn luyện, chiến tranh chính trị, tiếp vận.
Riêng ngành Tiếp Vận có khả năng sửa chữa và tân
trang toàn bộ quân dụng chung, do Lục Quân Công
Xưởng, các Căn Cứ 10 Quân Nhu, 40 Công Binh, 50 Đạn
Dược, 60 Truyền Tin, 90 Tồn Trữ Sửa Chữa Dù, và các
Trung Tâm Bảo Toàn, trách nhiệm. Quân dụng chung là
quân dụng thuc Lục Quân quản trị, nhưng có trang bị
trong Hải Quân và Không Quân.
Lục
Quân.
Chỉ huy, tác chiến, và yểm trợ tác chiến, có:
- 4 Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn và các đơn vị yểm trợ trực
thuộc.
- 11 Sư Đoàn Bộ Binh (Sư Đoàn 3 Bộ Binh thành lập
tháng 10.1971).
- 1 Sư Đoàn Nhảy Dù.
- 1 Sư Đoàn Thủy Quân Lục Chiến.
- 1 Liên Đoàn Biệt Cách Nhảy Dù.
- Hơn 20 Liên Đoàn Biệt Động Quân.
- 4 Lữ Đoàn Kỵ Binh Thiết Giáp.
- Lực Lượng Lôi Hổ và Biệt Hải thuộc Nha Kỹ Thuật.
- Các đơn vị Pháo Binh biệt lập.
- Và lực lượng Địa Phương Quân Nghĩa Quân (chiếm 1/2
quân số).
Vào
những ngày cuối tháng 4.1975, Sư Đoàn 106 Biệt Động
Quân được thành lập vi vã, bằng cách kết hợp 3 Liên
Đoàn của binh chủng này với đơn vị Thiết Giáp và
Pháo Binh. Sư Đoàn có nhiệm vụ tổ chức tuyến phòng
thủ Phú Lâm, cửa ngõ vào thủ đô Sài Gòn từ hướng tây
nam.
Không
Quân.
Quân số hơn 60.000, tổ chức tổng quát gồm:
- 1 Bộ Tư Lệnh Quân Chủng với đầy đủ các cơ quan và
binh sở yểm trợ.
- 5 Sư Đoàn tác chiến.
- 1 Sư Đoàn vận tải.
- 1 Không Đoàn Tân Trang Chế Tạo.
Chỉ trong năm 1973, tiếp nhận hơn 900 phi cơ, gồm:
560 trực thăng, 230 khu trục, 100 vận tải, và các
loại khác. Trong tổ chức 6 Sư đoàn không quân, có số
lượng các phi đoàn như sau:
- 20 phi đoàn khu trục, trang bị khoảng 550 phi cơ
A1H, A37, và F5.
- 23 phi đoàn trực thăng, trang bị khoảng 1000 phi
cơ UH1 và CH47.
- 8 phi đoàn quan sát, trang bị khoảng 200 phi cơ
O1, O2, và U17.
- 9 phi đoàn vận tải, trang bị khoảng 150 phi cơ.
C7, C47, C119, và C130.
- Và 4 phi đoàn hỏa long, trang bị phi cơ AC119
(không rõ số lượng).
Ngoài ra còn có các Phi Đoàn Trắc Giác (tình báo kỹ
thuật), Phi Đoàn Quan Sát RC119L, và Biệt Đoàn Đặc
Vụ 314.
Hải
Quân.
Cùng
nhịp phát triển với quân chủng Lục Quân và Không
Quân, đầu năm 1969, Hải Quân liên tiếp tiếp nhận tàu
chiến của các Giang Đoàn 91, 533, 534, 574, và 591
của Hải Quân Hoa Kỳ.
Với
quân số hơn 40.000, ngoài các đơn vị yểm trợ hành
chánh, nhân viên, huấn luyện, tiếp vận (có Hải Quân
Công Xưởng), Hải Quân tổ chức 3 lực lượng tác chiến:
- Thứ nhất. Hành Quân Lưu Động Sông, với 14 Giang
Đoàn trang bị khoảng 260 chiến đỉnh.
- Thứ hai. Hành Quân Lưu Động biển với 1 Hạm Đội
trang bị tuần dương hạm, hộ tống hạm, khu trục hạm,
tuần duyên hạm, giang pháo hạm, trợ chiến hạm, dương
vận hạm, hải vận hạm, và giang vận hạm.
- Thứ ba. các Lực Lượng Đặc Nhiệm 211 Thủy Bộ với 6
Giang Đoàn, 212 Tuần Thám với 12 Giang Đoàn, 214
Trung Ương với 6 Giang Đoàn, và Liên Đoàn Người
Nhái. (Tôi nhớ có Lực Lượng Đặc Nhiệm 213, nhưng
trên tài liệu thì không thấy)
*****
4.
Tôi bị bức tử!
....... định mệnh đã đưa
kẻ thù của dân tộc đến trước mặt tôi (lúc quân đội
cộng sản bao quanh thủ đô Sài Gòn). Đó là "một thanh
niên" lớn hơn tôi 7 tuổi (quân đội cộng sản thành
lập năm 1945). Hắn được lãnh đạo bởi một người (ông
Hồ Chí Minh) khi sống trên đất Pháp và đất Nga, đã
cố tình thay đổi hệ thần kinh với những "gen" hiền
hòa đạo nghĩa của dân tộc Việt trong đầu ông ta,
bằng hệ thần kinh với những "gen" độc tài tàn bạo
thời Mông Cổ xâm lăng cai trị một phần Âu-Á. Ngôn từ
chính trị ngày nay gọi đó là bản chất độc tài, ngoan
cố, và lừa dối. Dưới người đó là một nhóm thuộc hạ
(bộ chính trị cộng sản), thực hiện bản chất của ông
ta, bản chất của độc tài, và luôn luôn lừa dối ngay
cả bản thân họ, thì đâu có ai dưới quyền họ mà tránh
được. Vì vậy mà hắn bị ngập chìm trong bản chất lừa
dối một cách tinh vi của nhóm người kia, để tưởng
hắn là anh hùng cứu nước cứu dân, và hắn trở nên
hung hăng khát máu.
Hắn
sẳn sàng đánh tôi ngay trong gian nhà chánh (thủ đô
Sài Gòn) của tôi. Tôi đã sẳn sàng đánh lại hắn.
Những cơ bắp có trách nhiệm cung cấp thức ăn nước
uống với súng đạn cho tôi (ngành Tiếp Vận), đã dự
trữ trong thủ đô và vùng đồng bằng Cửu Long, đủ cho
tôi đánh với hắn 60 ngày mới cần tiếp tế.
Lúc
bấy giờ, có thể có nhiều bạn chưa rõ lắm về sức mạnh
của tôi. Xin thưa rằng, tôi có đến :
- Hơn 2 triệu cánh tay (1 triệu quân).
- Gần 2 triệu khẩu súng cầm tay.
- 1.200 xe chạy xích, kể cả chiến xa M48.
- Hơn 1.000 khẩu đại bác từ 105 xe kéo đến 175 ly cơ
động.
- 40.000 xe chạy bánh.
- 1.600 chiến hạm chiến đỉnh.
- Hơn 2.000 phi cơ.
Tôi
có một hệ thống quân trường, đào tạo từ anh chiến
binh đến vị lãnh đạo chỉ huy cấp Sư Đoàn Quân Đoàn,
chuyên viên các ngành chuyên môn, và toàn bộ sĩ quan
tham mưu. Tôi có 3 trung tâm điện toán quản trị con
người, quản trị quân dụng, quản trị tài chánh. Tôi
có một hệ thống quân y bảo vệ sức khoẻ toàn quân.
Tôi
đã đánh và đánh thắng hắn nhiều trận lừng danh, đặc
biệt là Tết Mậu Thân 1968 và Mùa Hè Đỏ Lửa 1972.
Vậy
mà bây giờ, tôi không được đánh hắn, vì "cha mẹ cũ"
của tôi là Tổng Thống Thiệu và Đại Tướng Viên đã cao
bay xa chạy rồi, còn "cha mới" của tôi là Tổng Thống
Minh, đã ra lệnh trên hệ thống truyền thanh Sài Gòn,
bảo tôi:
- Không được đánh hắn!
- Phải buông súng xuống!
- Phải giao súng đạn cho hắn!
Quí
bạn nghĩ xem, còn nỗi đau nào hơn nỗi đau của tôi
nữa đây! Và nỗi đau này đã chồng lên nỗi đau đang
day dứt, bởi một phần hệ thần kinh của tôi (những vị
lãnh đạo, những vị có quân có quyền trong tay) đã bỏ
lại hằng chục ngàn, hằng trăm ngàn, thậm chí hằng
triệu tế bào, để chạy khỏi quê hương trước khi hắn
đến. Chừng như chỉ có nhóm hệ thần kinh đó khôn
ngoan hơn nhóm hệ thần kinh còn lại, khôn ngoan hơn
hằng triệu quân nhân trong tình cảnh "rắn mất đầu"
nhưng vũ khí vẫn trong tay! Chắc quí bạn không ai là
không nhớ rằng, một số thần kinh chính (5 vị Tướng
và hằng trăm sĩ quan các cấp) trong nhóm hệ thần
kinh còn lại của tôi, đã tự cắt đứt cuộc sống (tuẫn
tiết) làm cho tôi vô cùng ngưỡng mộ và cảm phục.
Chính nhờ lòng dũng cảm cao cả đó, giúp tôi khôi
phục được lòng hảnh diện của mình đối với những anh
bạn đã một thời giúp tôi ngăn chận kẻ cướp. Tôi
không hổ thẹn với tổ tiên, với hồn thiêng sông núi
Việt Nam, và nhất là không hổ thẹn với tất cả những
tế bào của tôi đã hi sinh trên khắp các trận tuyến,
từ quân sự, chính trị, đến kinh tế, văn hoá xã hội.
Nếu không, tôi sẽ tủi nhục biết dường nào!! Và hành
động đó, tiếp tục soi sáng thêm dòng lịch sử oai
hùng của tổ quốc, tiếp tục nâng cao thêm tinh thần
bất khuất của những anh hùng dân tộc "thành mất chết
theo thành". Đó, chính là ánh sáng của chính nghĩa
quốc gia dân tộc mà chiến sĩ và toàn dân, đã dốc
lòng phụng sự, và sẽ không bao giờ ngưng nghỉ nếu
như dân tộc Việt Nam chưa được sống trong một xã hội
dân chủ pháp trị theo nguyện vọng của mình.
Tôi
là một thanh niên 23 tuổi, nhưng tôi có một sức mạnh
phi thường, một tinh thần chiến đấu dũng cảm mà lâu
nay hắn rất ngại đánh nhau với tôi, trong khi hắn
sẳn sàng chấp nhận đánh nhau với anh bạn Mỹ cho dù
anh bạn Mỹ rất mạnh về hỏa lực, "chỉ vì anh bạn Mỹ
hiểu hắn không bằng tôi hiểu hắn". Nhưng mà, lệnh là
lệnh!
Lệnh
bắt tôi phải buông súng!
Lệnh bắt tôi phải giao súng cho hắn, mà hắn là kẻ
thù của dân tộc! Ôi!........
Vậy là, tôi bị bức tử rồi các bạn ơi!
Tôi chết, nhưng những tế bào của tôi không thể chết.
Lời
cuối của tôi, là các bạn hãy cùng nhau góp sức giải
thể chế độ độc tài cộng sản, để xây dựng một nước
Việt Nam dân chủ tự do, dân tộc được ấm no hạnh phúc
phù hợp với nguyện vọng của toàn dân, nhưng không
hành động trả thù, vì cuối cùng, tất cả chúng ta đều
là người Việt Nam. Nhưng đói với tất cả thành viên
Bộ chính trị từ khoá đầu đến khóa đương nhiệm phải
truy tố ra toà, vì họ là những người có thẩm quyền
hoạch định và điều khiễn chính sách độc tài diệt
chủng, đẩy dân tộc vào thảm cảnh tàn khốc trong nửa
cuối thế kỷ 20.
Chúc
quí bạn an lành, thành công. Tôi sẽ luôn luôn soi
sáng cho .. quí ... bạn.
Vĩnh
... b.i..ệ...t....!!!
Houston, mùa đông 2001
Trân trọng cám ơn Tiến sĩ Nguyễn
Đức Phương (Anh quốc), về một số tài liệu sử dụng
trong bài này.
Adam C. Sadowski
30 tháng 5 năm 2000
(Bảng danh sách này do Adam C. Sadowsky khởi xướng. Tiếp
sau sự góp ý của nhiều người, danh sách đã khá hoàn bị.
Xin tri ân tất cả những ai đã có công đóng góp và xin trân
trọng đón nhận mọi sửa sai và bổ túc. Tín - tháng
06/2010)
Trong lịch sử 20 năm của
Quân lực Việt Nam Cộng Hòa, có tất cả 159 vị được
phong cấp tướng, trong đó có 1 Thống tướng (truy
phong) và 5 Đại tướng.
* Thống Tướng : Lê Văn Tỵ (1903-1964)
truy phong năm 1964
* Đại Tướng : Trần Thiện Khiêm (phong
năm 1964)
* Đại Tướng : Dương Văn Minh (phong
năm 1964)
* Đại Tướng : Nguyễn Khánh (phong
năm 1964)
* Đại Tướng : Cao Văn Viên (phong
năm 1967)
* Đại Tướng : Đỗ Cao Trí (truy
phong năm 1971)
=====================================================================
* Trung Tướng : Cao Hảo Hớn (Tổng
Trưởng Chương Trình Bình Định và Phát Triển )
* Trung Tướng : Dư Quốc Đống (Tư
Lệnh QĐ III )
* Trung Tướng : Dương Văn Đức ( Tư
Lênh QĐ & QK IV )
* Trung Tướng : Đặng Văn Quang (
Phụ Tá An Ninh Phủ Tổng Thống )
* Trung Tướng : Đồng Văn Khuyên (
Tổng Cụng Trưởng Tổng Cục Tiếp Vận )
* Trung Tướng : Hoàng Xuân Lãm (
Chánh Thanh Tra Dân Vệ )
* Trung Tướng : Lâm Quang Thi ( Tư
Lệnh Phó QĐ & QK I )
* Trung Tướng : Lê Nguyên Khang (
Phụ Tá Hành Quân Tổng TMT )
* Trung Tướng : Lê Văn Kim ( CHT
Trường Cao Đẳng Quốc Phòng )
* Trung Tướng : Linh Quang Viên (
Bộ Trưởng Nội Vụ )
* Trung Tướng : Lữ Lan ( Chỉ Huy
Trưởng Cao Đẳng Quốc Phòng )
* Trung Tướng : Mai Hữu Xuân ( Tổng
Cục Trưởng Chiến Tranh Chính Trị )
* Trung Tướng : Ngô Dzu ( Tư Lệnh
QĐ II )
* Trung Tướng : Ngô Quang Trưởng (
Tư Lệnh QĐ & QK I )
* Trung Tướng : Nguyễn Bảo Trị (
CHT ĐH Chỉ Huy và Tham Mưu )
* Trung Tướng : Nguyễn Chánh Thi (
Tư Lệnh QĐ I )
* Trung Tướng : Nguyễn Đức Thắng (
Tư Lệnh QĐ IV )
* Trung Tướng : Nguyễn Hữu Có ( Bộ
Trưởng Quốc Phòng )
* Trung Tướng : Nguyễn Ngọc Lễ (
Chánh Án Tòa Án Quân Sự )
* Trung Tướng : Nguyễn Văn Hiếu (
Tư Lệnh Phó QĐ & QK III )
* Trung Tướng : Nguyễn Văn Hinh (
Tổng Tham Mưu Trưởng )
* Trung Tướng : Nguyễn Văn Là ( Phụ
Tá Tổng Tham Mưu Trưởng )
* Trung Tướng : Nguyễn
Văn
Mạnh ( Tham Mưu Trưởng Liên Quân )
* Trung Tướng : Nguyễn Văn Minh (
Tư Lệnh Biệt Khu Thủ Đô )
* Trung Tướng : Nguyễn Văn Quan (
Tổng Giám Đốc ANQĐ )
* Trung Tướng : Nguyễn Văn Thiệu (
Tổng Thống VNCH )
* Trung Tướng : Nguyễn Văn Toàn (
Tư Lệnh QĐ III & QK III )
* Trung Tướng : Nguyễn Văn Vỹ ( Bộ
Trưởng Quốc Phòng )
* Trung Tướng : Nguyễn Viết Thanh (
Tư Lệnh QĐ IV & QK IV )
* Trung Tướng : Nguyễn Vĩnh Nghi (
TL Tiền Phương QĐ &QK III )
* Trung Tướng : Nguyễn Xuân Thịnh (
CHT Pháo Binh )
* Trung Tướng : Phạm Quốc Thuần (
CHT TT HL Đồng Đế )
* Trung Tướng : Phạm Xuân Chiểu (
Đại Sứ Nam Hàn )
* Trung Tướng : Phan Trọng Chinh (
Tổng Cục Trưởng Cục Quân Huấn )
* Trung Tướng : Thái Quang Hoàng (
Đại sứ Thái Lan )
* Trung Tướng : Tôn Thất Đính (
Thượng Nghị Sĩ )
* Trung Tướng : Trần Ngọc Tám ( Đại
Sứ Thái Lan )
* Trung Tướng : Trần Thanh Phong (
Tư Lệnh CSQG )
* Trung Tướng : Trần Văn Đôn ( Tổng
Trưởng Quốc Phòng )
* Trung Tướng : Trần Văn Minh ( Tư
Lệnh Không Quân VN )
* Trung Tướng : Trần Văn Trung (
TCT. TC. CTCT )
* Trung Tướng : Trịnh Minh Thế ( Tư
Lệnh Lực Lượng Cao Đài )
* Trung Tướng : Vĩnh Lộc ( Tổng
Tham Mưu Trưởng )
* Phó Đô Đốc : Chung Tấn Cang ( Tư
Lệnh Hải Quân )
=====================================================================
* Thiếu Tướng : Bùi Đình Đạm ( Tổng
Giám Đốc Tổng Nha Nhân Lực thuộc Bộ Quốc Phòng )
* Thiếu Tư&##7899;ng : Bùi Hữu Nhơn (
Chỉ Huy Trưởng Sĩ Quan Trừ Bị Thủ Đức )
* Thiếu Tướng : Bùi Thế Lân ( Tư
Lệnh Sư Đoàn TQLC )
* Thiếu Tướng : Chương Dzềnh Quay (
Tham Mưu Trưởng Quân Đoàn IV )
* Thiếu Tướng : Dương Ngọc Lắm ( Đô
Trưởng Sài Gòn )
* Thiếu Tướng : Đào Duy Ân ( Tư
Lệnh Phó Diện Địa QĐ III )
* Thiếu Tướng : Đoàn Văn Quảng (
Chỉ Huy Trưởng Trung Tâm Huấn Luyện Quang Trung )
* Thiếu Tướng : Đỗ Kế Giai ( Chỉ
Huy Trưởng Biệt Động Quân Trung Ương )
* Thiếu Tướng : Ðỗ Mậu ( Phó Thủ
Tướng Đặc Trách Văn Hóa )
* Thiếu Tướng : Hồ Văn Tố ( Chỉ Huy
Trưởng Sĩ Quan Trừ Bị Thủ Đức )
* Thiếu Tướng : Huỳnh Văn Lạc ( Tư
Lệnh Sư Đoàn 9 BB )
* Thiếu Tướng : Huỳnh
Văn Cao ( Phó Chủ Tịch Thượng Nghị Viện )
* Thiếu Tướng : Lâm Quang Thơ ( Chỉ
Huy Trương Trường VBQGĐL )
* Thiếu Tướng : Lâm Văn Phát ( Tư
Lệnh Biệt Khu Thủ Đô )
* Thiếu Tướng : Lê Minh Ðảo ( Tư
Lệnh SĐ 18 BB )
* Thiếu Tướng : Lê Ngọc Triển (
Tham Mưu Phó Hành Quân TTM )
* Thiếu Tướng : Lê Văn Nghiêm ( Tư
Lệnh QĐ & QK I )
* Thiếu Tướng : Nguyễn Cao Kỳ ( Phó
Tổng Thống VNCH (1967) )
* Thiếu Tướng : Nguyễn Duy Hinh (
Tư Lệnh SĐ 3 BB )
* Thiếu Tướng : Nguyễn Giác Ngộ (
CHT Sở Du Kích Chiến )
* Thiếu Tướng : Nguyễn Khắc Bình (
Tư Lệnh CSQG )
* Thiếu Tướng : Nguyễn Khoa Nam (
Tư Lệnh QĐ & QK IV )
* Thiếu Tướng : Nguyễn Ngọc Loan (
Tổng Giám Đốc CSQG )
* Thiếu Tướng : Nguyễn Văn Chuân (
Thượng Nghị Sĩ )
* Thiếu Tướng : Nguyễn Văn Kiểm (Trưởng
Phòng Tổng Quản BTTM )
* Thiếu Tướng : Nguyễn Văn Vận ( Tư
Lệnh Đệ III Quân Khu )
* Thiếu Tướng : Nguyễn Xuân Trang (
Tham Mưu Phó Nhân Viên BTTM
* Thiếu Tướng : Phạm Ðăng Lân ( Cục
Trưởng Cục Công Binh )
* Thiếu Tướng : Phạm Hữu Nhơn (
Trưởng Phòng 7 Bộ TTM )
* Thiếu Tướng : Phạm Văn Ðổng ( Bộ
Trưởng Cựu Chiến Binh )
* Thiếu Tướng : Phạm Văn Phú ( Tư
Lệnh QĐ II & QK II )
* Thiếu Tướng : Phan Ðình Niệm (Tư
Lệnh SĐ 22 BB )
* Thiếu Tướng : Tôn Thất Xứng ( Tư
Lệnh QĐ I & QK I )
* Thiếu Tướng : Trần Bá Di ( Tư
Lệnh SĐ 9 BB )
* Thiếu Tướng : Trần Minh Tâm
* Thiếu Tướng : Trần Tử Oai ( CHT
Trung Tâm Huấn Luyện Quang Trung )
* Thiếu Tướng : Trần Văn Minh( Đại
Sứ Tunisia )
* Thiếu Tướng : Trương Quang Ân (
Tư Lệnh SĐ 23 BB )
* Thiếu Tướng : Văn Thành Cao (
Tổng Cục Phó Tổng Cục Chiến Tranh Chính Trị )
* Thiếu Tướng : Võ Văn Cảnh ( Phụ
Tá Đặc Biệt Tổng Trưởng Bộ Nội Vụ )
* Thiếu Tướng : Võ Xuân Lành ( Tư
Lệnh Phó KQVN )
* Thiếu Tướng : Vũ Đức Nhuận ( Giám
Đốc ANQĐ )
* Thiếu Tướng : Vũ Ngọc Hoàn ( Cục
Trưởng Cục Quân Y )
* Đề Đốc : Lâm Ngươn Tánh ( Tư Lệnh
Hải Quân )
* Đề Đốc : Trần Văn Chơn ( Tư Lệnh
Hải Quân )
=====================================================================
* Chuẩn Tướng : Albert Nguyễn Cao (
Tổng Trưởng Dinh Điền )
* Chuẩn Tướng : Bùi Văn Nhu ( Tư
Lệnh Phó CSQG )
* Chuẩn Tướng : Chung Tấn Phát (
Cựu Tham Mưu Trưởng QĐ & QK IV )
* Chuẩn Tướng : Ðặng Ðình Linh (
Tham Mưu Phó Kỹ Thuật và Tiếp Vận (BTL) Không Quân )
* Chuẩn Tướng : Đặng Thanh Liêm (
Chỉ Huy Trưởng Trung Tâm Huấn Luyện Quang Trung )
* Chuẩn Tướng : Ðỗ Kiến Nhiễu ( Đô
Trưởng Sài Gòn )
* Chuẩn Tướng : Hồ Trung Hậu (
Chánh Thanh Tra QĐIII )
* Chuẩn Tướng : Huỳnh Bá Tính ( Tư
Lệnh SĐ 3 KQ )
* Chuẩn Tướng : Huỳnh Thới Tây ( Tư
Lệnh Đặc Cảnh Trung Ương )
* Chuẩn Tướng : Huỳnh Văn Lạc ( Tư
Lệnh Sư Đoàn 9 BB )
* Chuẩn Tướng : Lê Nguyên Vỹ ( Tư
Lệnh SĐ 5 BB )
* Chuẩn Tướng : Lê Quang Lưỡng ( Tư
Lệnh SĐ Nhảy Dù )
* Chuẩn Tướng : Lê Trung Trực (
Trưởng Phòng 4, BTTM )
* Chuẩn Tướng : Lê Trung Tường (
Tham Mưu Trưởng QĐ III )
* Chuẩn Tướng : Lê Văn Hưng ( Tư
Lệnh Phó QĐ & QK IV )
* Chuẩn Tướng : Lê Văn Thân ( Tư
Lệnh Phó Biệt Khu Thủ Đô )
* Chuẩn Tướng : Lê Văn Tư ( Tư Lệnh
SĐ 25 BB )
* Chuẩn Tướng : Lưu Kim Cương ( KĐT
Không Đoàn 33 Chiến Thuật )
* Chuẩn Tướng : Lý Bá Hỷ ( Tư Lệnh
Phó Biệt Khu Thủ Đô )
* Chuẩn Tướng : Lý Tòng Bá ( Tư
Lệnh SĐ 25 BB )
* Chuẩn Tướng : Mạch Văn Trường (
Tư Lệnh SĐ 21 BB )
* Chuẩn Tướng : Nguyễn Bá Liên (Tư
Lệnh Biệt Khu 24 )
* Chuẩn Tướng : Nguyễn Chấn Á ( Cố
Vấn tại Nha Chiến Tranh Chính Trị.)
* Chuẩn Tướng : Nguyễn Đức Khánh (
Tư Lệnh SĐ 1 KQ )
* Chuẩn Tướng : Nguyễn Hữu Hạnh (
Tổng Tham Mưu Trưởng )
* Chuẩn Tướng : Nguyễn Hữu Tần ( Tư
Lệnh SĐ 4 KQ )
* Chuẩn Tướng : Nguyễn Ngọc Oánh (
CHT TT HL KQ )
* Chuẩn Tướng : Nguyễn Thanh Hoàng (Chánh
Thanh
Tra
QĐ
II
)
* Chuẩn Tướng : Nguyễn Thanh Sằng (
Tư Lệnh SĐ 22 BB )
* Chuẩn Tướng : Nguyễn Trọng Bảo (
TMT SĐ Nhảy Dù )
* Chuẩn Tướng : Nguyễn Tuấn Khải
* Chuẩn Tướng : Nguyễn Văn Chức (
Tổng Cục Trưởng TC Tiếp Vận )
* Chuẩn Tướng : Nguyễn Văn Điềm (
Tư Lệnh SĐ 1 BB )
* Chuẩn Tướng : Nguyễn Văn Giàu (
Bộ Tư Lệnh Cảnh Lực )
* Chuẩn Tướng : Nguyễn Văn Lượng (
Tư Lệnh SĐ 2 KQ )
* Chuẩn Tướng : Nguyễn Văn Phước (
Phụ Tá Đặc Biệt Tư Lệnh Quân Khu IV, Đặc Trách Phụng
Hoàng )
* Chuẩn Tướng : Nguyễn Văn Thiện (
Thị Trưởng Đà Nẵng )
* Chuẩn Tướng : Phạm Duy Tất ( CHT
Biệt Động Quân QK II )
* Chuẩn Tướng : Phạm
Hà
Thanh ( Cục Trưởng Cục Quân Y )
* Chuẩn Tướng : Phạm Ngọc Sang ( Tư
Lệnh SĐ 6 KQ )
* Chuẩn Tướng : Phan Ðình Soạn ( Tư
Lệnh Phó QĐ I & QK I )
* Chuẩn Tướng : Phan Ðình Thứ ( Tư
Lệnh Phó QĐ II & QK II )
* Chuẩn Tướng : Phan Hòa Hiệp (
Trưởng Đoàn LHQS 2 Bên )
* Chuẩn Tướng : Phan Phụng Tiên (
Tư Lệnh SĐ 5 KQ )
* Chuẩn Tướng : Phan Tử Nghi
* Chuẩn Tướng : Phan Xuân Nhuận (
Tư Lệnh SĐ 1 BB )
* Chuẩn Tướng : Trần Ðình Thọ (
Trưởng Phòng 3 Bộ TTM )
* Chuẩn Tướng : Trần Quang Khôi (
CHT Lực Lượng Xung Kích QĐ III )
* Chuẩn Tướng : Trần Quốc Lịch (
Chánh Thanh Tra QĐ IV )
* Chuẩn Tướng : Trần Văn Cẩm ( Phụ
Tá HQ BTL QĐ II & QK II )
* Chuẩn Tướng : Trần Văn Hai ( Tư
Lệnh SĐ 7 BB )
* Chuẩn Tướng : Trần Văn Nhựt ( Tư
Lệnh SĐ 2 BB )
* Chuẩn Tướng : Trang Sĩ Tấn ( Chỉ
Huy Trưởng Cảnh Sát Đô Thành )
* Chuẩn Tướng : Trương Bảy ( Chỉ
Huy Trưởng Cảnh Lực )
* Chuẩn Tướng : Trương Hữu Đức (
Chiến Đoàn Trưởng Chiến Đoàn 52 )
* Chuẩn Tướng : Từ Văn Bê ( CHT BCH
Kỹ Thuật và Tiếp Vận Không Quân )
* Chuẩn Tướng : Võ Dinh ( TMT BTL
Không Quân)
* Chuẩn Tướng : Vũ Đức Nhuận ( Giám
Đốc ANQĐ)
* Chuẩn Tướng : Vũ Văn Giai ( Tư
Lệnh SĐ 3 BB )
* Phó Đề Đốc : Diệp Quang Thủy (
Tham Mưu Trưởng Bộ Tư Lệnh Hải Quân )
* Phó Đề Đốc : Đặng Cao Thăng ( Tư
Lệnh Hải Quân Vùng IV Sông Ngòi )
* Phó Đề Đốc : Đinh Mạnh Hùng ( Phụ
Tá Tư Lệnh Hải Quân Hành Quân Lưu Động Sông )
* Phó Đề Đốc : Hồ Văn Kỳ Thoại ( Tư
Lệnh Vùng 1 Duyên Hải )
* Phó Đề Đốc : Hoàng Cơ Minh ( Tư
Lệnh Vùng 2 Duyên Hải )
* Phó Đề Đốc : Nghiêm Văn Phú ( Tư
Lệnh Lực Lượng Tuần Thám )
* Phó Đề Đốc : Nguyễn Hữu Chí ( Phụ
Tá Tư Lệnh Hải Quân Hành Quân Lưu Động Biển )
* Phó Đề Đốc : Nguyễn Thành Châu (
Chỉ Huy Trưởng Trung Tâm Huấn Luyện HQ Nha Trang )
* Phó Đề Đốc : Vũ Đình Đào ( Tư
Lệnh Vùng 3 Duyên Hải )
* Phó Đề Đốc : Huỳnh Mai
Nguyễn Hữu Tiến
19 tháng 7 năm 2003
(Bảng danh sách này do Nguyễn Hữu Tiến khởi xướng. Tiếp
sau sự góp ý của nhiều người, danh sách đã khá hoàn bị.
Xin tri ân tất cả những ai đã có công đóng góp và xin
trân trọng đón nhận mọi sửa sai và bổ túc.)
Nam Phong
sưu tầm hình ảnh
Cập nhật hình ảnh ngày 2/12/2013
Cập nhật ngày 30/8/2015
Cửu
Đại Thần Tướng Việt Nam
Điện Thần Việt tôn
thờ chư tướng thần Sinh ra là Tướng chết đi thành thần Thế, Ân, Thanh, Trí, Phú, Vỹ, Hai, Hưng, Nam Ngàn năm sau ghi nhớ gương anh hào.
Trúc Lâm Lê An Bình
sưu khảo
(trích Thần Việt Điện tức Tân U Linh Việt Điện)
I. Dẫn Nhập - Nguyên Nhân
Xa, Thời Tối Cổ:
Biểu tượng của nền văn minh tối
cổ của tộc Việt là Đông Sơn và Lạch Trường. Hai nền
văn minh này đã hiện diện và tồn tại cùng với tộc
Việt chúng ta 5000 năm trước Công nguyên. Sự hiện
diện và tồn tại này trước cả nền văn minh của người
Tầu phương Bắc cả 4000 năm.
Đã là một dân tộc hiện diện lâu
đời như thế trên một vùng đất phì nhiêu trù phú; tổ
tiên chúng ta biết tổ chức đời sống có trật tự, tôn
ty, trong một khoảng không gian cố định, biết tưởng
nhớ tiền nhân, anh hùng, liệt nữ, cũng như biết tôn
xưng vị lãnh đạo, thờ kính những hiện tượng thiên
nhiên v.v...Tất cả những điều nêu trên là tư tưởng
Việt Nam, và nó đã được hệ thống hóa dưới một tên
gọi khác là nền Văn Hiến Chi Bang của một đất nước
tự lập, tự cường.
Việc tôn thờ, tôn xưng những anh
hùng, liệt nữ của dân tộc Việt là một truyền thống
từ ngàn xưa, đồng thời cũng là một trong những biểu
tượng của nền Văn Hiến của 5000 năm lịch sử dựng
nước và giữ nước.
II. Nguyên Nhân Gần -
Thời Trung Đại:
Đời vua Trần Nhân Tông,
tháng 4, mùa hạ năm 1285, tổ chức xét định công
trạng những người đã đánh quân Nguyên. Như tấn phong
Hưng Đạo vương Trần Quốc Tuấn làm Đại vương; Hưng Vũ
vương Nghiện làm Khai quốc công; Hưng Nhượng vương
Tảng làm tiết độ sứ. Ngoài ra người nào có công lớn
đều được tứ quốc tính, Trần Khắc Chung cũng được dự
ân tứ này và vẫn giữ chức Đại hành khiển; Nguyễn
Khoái làm liệt hầu và được ban cho một "hương"
(làng) gọi tên là Khoái lộ. Người tù trưởng Man ở
Lạng Giang là Lương Uất, Hà Tất Năng vì biết đốc
suất dân đánh giặc, nên Lương Uất được phong làm chủ
trại Quy Hóa; Tất Năng được phong tước quan phục
hầu; Đỗ Hành vì khi bắt được Ô Mã Nhi, không đem nộp
nhà vua, nên chỉ được phong tước quan nội hầu; Hưng
Trí vương Nghiễn vì trái tướng lệnh, ngăn cản đường
quân Nguyên rút về nước, nên không được thăng trật.
Sau khi tước thưởng đã ban hành
rồi, có người thắc mắc vì sao ban thưởng ít, thượng
hoàng Trần Thánh Tông an ủi rằng: "Nếu các ngươi
biết chắc rằng giặc Nguyên không sang nữa, thì dầu
phong đến cực phẩm, trẫm cũng không tiếc gì, nhưng
nếu một mai giặc lại kéo sang, mà lúc ấy các ngươi
lại có chiến công, thì trẫm biết hậu đãi các ngươi
thế nào để khuyến khích thiên hạ được?". Mọi
người nghe xong không ai có ý kiến gì cả.
Nhà vua định những người đã
có công đánh giặc hai lần, người nào đã xung phong
trước phá được trận tuyến của giặc, lập được chiến
công đặc biệt, nay được chép vào tập Trùng
hưng thực lục và khiến thợ vẽ hình dạng
vào tập sách ấy.
Đời vua Trần Hiến Tông (1329), có
Lý Tế Xuyên là Thủ Đại tạng thư hỏa chính chưởng
Trung phẩm phụng ngự, An tiêm lộ chuyển vận sứ đã
tập hợp những truyện tích về các bậc anh hùng, anh
thư tộc Việt có công giữ nước biên chép thành quyển
Việt Điện U Linh Tập gồm Lịch Đại Nhân Quân,
Lịch Đại Nhân Thần, Hạo Khí Anh Linh, tổng cộng là
27 truyện.
Mục đích nhằm xây dựng cuộc sống
tinh thần, tâm linh một cách lành mạnh mang màu sắc
cổ truyền cũng như gầy dựng lại một quá khứ thần
thoại, hiển thánh của dân tộc.
Việt Điện U Linh Tập của Lý Tế
Xuyên được biên chép khoảng giữa thế kỷ 13; Đến thế
kỷ thứ 15 được tiến sĩ Nguyễn Văn Chất bổ túc thêm
những chuyện khác vào. Tên gọi là Việt Điện U Linh
Tục Tập hay Tục Việt Điện U Linh Tập.
Như trên đã viết, đời vua Nhân
Tông ghi ơn những người có công đánh giặc Nguyên
bằng cách phong tước, phong hàm. Ngoài ra những ai
lập chiến công đặc biệt thì vẽ hình cũng như chép sự
tích vào tập sách Trùng hưng thực lục.
Đồng thời một Thần Việt Điện đã được dựng nên (ghi
chép và phổ biến Việt Điện U Linh Tập) để cho dân
chúng tôn thờ những vị thần của tộc Việt, để cho mọi
người có thể hãnh diện với quá khứ cao quý, hào hùng
và thiêng liêng. Qua hành động này cho chúng ta thấy
sự đối kháng mãnh liệt nhất của tộc Việt trên mặt
văn hóa tư tưởng đối với giặc Tầu phương Bắc.
III. Nguyên Nhân Gần -
Thời Cận Đại:
Tiếp nối tinh thần
tôn vinh những bậc anh hùng dân tộc mà Việt Điện U
Linh Tập của Lý Tế Xuyên đã thực hiện vào
khoảng giữa thế kỷ thứ 13 và được tiến sĩ Nguyễn Văn
Chất bổ túc vào thế kỷ thứ 15 qua Việt Điện U Linh
Tục Tập, Nhóm Nghiên Cứu Lịch Sử Việt Nam và Tinh
Thần Trúc Lâm Yên Tử thành lập Thần Việt
Điện 2010 (trên trang Trúc Lâm Yên Tử) để
tôn thờ những bậc anh hùng, anh thư thời hiện đại.
Ôn cố tri tân là tinh thần không
thể thiếu vắng được ở bất kỳ không gian và thời gian
nào. Chiến cuộc Việt Nam hay chiến tranh Đông Dương
khởi sự từ 1946 và kết thúc năm 1975, đã gieo biết
bao cảnh thống khổ đau thương cho đất nước và dân
tộc Việt Nam.
Trong suốt cuộc chiến đã có không
biết bao nhiêu bậc anh hùng, anh thư đã xã thân liều
mình bảo vệ đất nước và dân tộc Việt trước làn sóng
xâm lăng từ phương Bắc của Cộng sản Việt Nam.
Nhân dịp kỷ niệm 35 năm ngày quốc
tang, quốc hận 30/04/1975 - 30/04/2010, với tinh
thần tri ân và tôn vinh Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa
nói chung, đặc biệt những vị tướng lãnh đã hy sinh
trong lúc thi hành công vụ từ lúc khởi đầu của cuộc
chiến cũng như những vị đã bất khuất không chấp nhận
đầu hàng quân Bắc xâm Việt cộng ngày 30/04/1975.
Chúng tôi chân thành tôn xưng
Chín Vị Tướng Lãnh Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa là Cửu
Đại Thần Tướng Việt Nam - thời cận đại vì họ
đã hy sinh trong lúc thi hành công vụ, cũng như biểu
hiện khí phách phi thường của một bậc thần tướng;
ngoài ra, những vị này cũng đã thi thố tài ba trên
chiến trường làm binh sĩ các cấp kính phục cũng như
đã chỉ huy các đơn vị thuộc quyền chiến thắng quân
thù một cách vẻ vang. Hơn nữa, họ đã chứng minh là
những vị Tướng lãnh biết nhận trách nhiệm trước lịch
sử dân tộc.
Chín vị
tướng lãnh đó là:
1/ Trung tướng Trình Minh Thế
(1922 - 1955)
2/ Thiếu tướng Trương Quang Ân và phu nhân (1932 -
1968; 1931-1968)
3/ Trung tướng Nguyễn Viết Thanh (1930 - 1970)
4/ Đại tướng Đỗ Cao Trí (1929 - 1971)
5/ Thiếu tướng Phạm Văn Phú (1929 - 1975)
6/ Chuẩn tướng Lê Nguyên Vỹ (1933 - 1975)
7/ Chuẩn tướng Trần Văn Hai (1929 - 1975)
8/ Thiếu tướng Lê Văn Hưng (1933 - 1975)
9/ Thiếu tướng Nguyễn Khoa Nam (1927 - 1975)
Chúng tôi sắp xếp theo thứ
tự ngày tháng thành thần của chư vị Tướng lãnh nêu
trên. Riêng trường hợp Thiếu tướng Trương Quang Ân
vì có phu nhân cùng tử nạn nhưng chúng tôi vẫn xin
tôn xưng chung là Cửu Đại Thần Tướng Việt Nam.
Sự tôn xưng này xin được xem như
là biểu tượng, một biểu tượng cao quý. Và là một ý
thức hệ thần thoại cao quý để ghi ơn các bậc thần
Tướng có công giúp nước cứu dân.
Việc tôn xưng chư
vị tướng lãnh nêu trên còn dựa trên 3 điểm:
Đạo Đức với
chính bản thân Nhân Nghĩa với người ngoài Thao lược trên chiến trường
Ngoài ra chúng tôi dựa vào giây
phút thành Thần của chư vị như sau:
Một vị bị ám sát tại mặt trận
(Trung tướng Trình Minh Thế)
Ba vị tử nạn phi cơ khi thi hành nhiệm vụ (Thiếu
tướng Trương Quang Ân, Đại tướng Đỗ Cao Trí, Trung
tướng Nguyễn Viết Thanh)
Năm vị tuẫn tiết không đầu hàng quân thù (Thiếu
tướng Phạm Văn Phú, Thiếu tướng Nguyễn Khoa Nam,
Thiếu tướng Lê Văn Hưng, Chuẩn tướng Lê Nguyên Vỹ,
Chuẩn tướng Trần Văn Hai).
IV.
Sự Tích Cửu Đại Thần Tướng Việt Nam Thời Cận Đại:
(Nguồn: http://www.quansuvn.info)
1/Thần
tướng Trình Minh Thế (1922 - 1955) 2/ Thần tướng Trương Quang
Ân và phu nhân (1932 - 1968; 1931-1968) 3/ Thần tướng Nguyễn Viết
Thanh (1930 - 1970) 4/ Thần tướng Đỗ Cao Trí
(1929 - 1971) 5/Thần tướng Phạm Văn Phú
(1929 - 1975) 6/Thần tướng Lê Nguyên Vỹ
(1933 - 1975) 7/Thần tướng Trần Văn Hai
(1929 - 1975) 8/Thần tướng Lê Văn Hưng
(1933 - 1975) 9/Thần tướng Nguyễn Khoa
Nam (1927 - 1975)
Trúc Lâm Lê An Bình sưu khảo
(trích
Thần Việt Điện tức Tân U Linh Việt Điện)
Trang
mạng
Việt Nam Văn Hiến Trang
Quân
Sự 3 www.vietnamvanhien.net www.vietnamvanhien.org www.vietnamvanhien.info www.vietnamvanhien.com Email:
thuky@vietnamvanhien.net
Trang mạng Việt Nam Văn
Hiến là nơi bảo tồn di sản văn hóa của Việt tộc. Thắp
sáng niềm tin Diên Hồng và nếp sống Văn Hiến hầu phục
hồi nền "An Lạc & Tự Chủ" ngàn đời cuả Việt tộc.