Việt
Nam
Văn
Hiến
Năm
Thứ
4889
www.vietnamvanhien.org
www.vietnamvanhien.net
www.vietnamvanhien.com
www.vietnamvanhien.info
Quân Sự
Võ Kinh Việt Nam
Binh Thư Yếu Lược
Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn
Hưng Đạo Vương Trần Quốc
Tuấn (1228–1300)
Nôị Dung
* Lời
Nóí Đầu
•THIÊN-TƯỢNG
•GIẢN-MỘ
•TUYỂN TƯỚNG
•MỆNH TUỚNG
•TƯỚNG-ĐẠO
•GIẢN-LUYỆN
•QUÂN-LỄ
•THUỞNG PHẠT
•MẠC-HẠ
•BINH-CỤ
•HIỆU-LỆNH
|
Lời
nói
đầu.
Việc binh là việc sống chết của nhân-dân, là
việc còn mất của quốc-gia nên bất cứ triều-đình
nào, chánh-phủ nào, cũng đều phải lưu tâm
đến binh-học. Bởi lẽ ấy, các võ-quan thời xưa đều phải
thi võ-thuật và chịu khảo-hạch về binh-thư.
Nhưng các binh-thư lại có rất nbiều thứ. Phần
Nghệ-văn-Chí trong Hán- thư có chép rằng :
Nhiệm-hoành chia các binh-thư ra làm 4 loạỉ :
1.Binh Quyền Mưu,
2.Binh Hình-thế.
3.Binh Âm Dương
4.Binh Kỹ-xảo.
Nếu điểm qua các binh-thư trứ danh của Trung-quốc trong
các đời thì về đời Tam-hoàng có các
sách:
Huỳnh Đế Binh Pháp
Ốc-Kỳ-Kinh của Phong-Hậu
Trong đời Chu được soạn các sách:
Thái-Công Binh-pháp của
Lã-Vọng
Lục-Thao của Triều-đình Chu
Chu-Công Tư-Mã-Pháp
Tư-Mã Binh-pháp của Điền-Nhương-Tư
(nuớc Tề)
Tôn-Tử Binh-pháp của
triều-đình Ngô
Ngô-Tử Binh-pháp của
triều-đình Ngụy
Uất-Liễu-Tử Binh-pháp của Uất-liễu (học
trò của Quỉ Cốc Tử)
Trong đời Hán có:
Tố-thư của Huỳnh-thạch-công
Tâm-thư của Khổng-minh
Vào đời Đường có:
Thái-Bạch Âm-Kinh của Lý
Thuyên
Lý-Vệ-Công Vấn-Đối của
triều-đình Đường,…
Nếu chỉ xét riêng các binh-thư còn thấy được
ngày nay cũng có tới 53 nhà:
-13 nhà về Quyền Mưu
-11 nhà về Hình Thế
-16 nhà về Âm-duơng
-13 nhà về Kỹ Xảo
Xem trên thì đủ hiểu rằng binh-học sâu rộng như
rừng, như biển, làm sao các võ-quan có thể
đọc hềt các binh-thư được.
Bởi thế, các đời sau có soạn những bộ binh thư tổng-hợp
thường được gọi là Võ Kinh.
Trong đời Tống có các bộ:
Võ Kinh Tổng-Yếu (40 quyển) của nhóm
Tăng-Công-Lượng
Hổ Kiềm-Kinh (20 quyển) của Hứa Động
Bị-Luận (l quyển) của Hà-Khứ-Phi
Mỹ-Cần-Thập-Luận (l quyền) của
Tân-Khí-Tật
Võ-Kinh Thất-Thư gồm có 7
sách tuyển-định là:
1.Thái-Công Binh-pháp
2.Lục-Thao
3.Tư-Mã pháp
4.Tôn-Tử
5.Ngô-Tử
6.Uất-Liễu-Tử
7.Lý-Vệ-Công Vấn-Đối
Trong đời Minh có các bộ :
Võ-Kinh Khai-Tông (14 quyển) của
Huỳnh-Hiến-Thần
Võ-Kinh Tá-Nghị (7 quyển) ;
Võ Biên (12 quyển) của
Đường-Thuận-Chí
Võ-Bị Chí (240 quyển) của
Mao-Nguyên-Nghi
Võ-Bị Tâm-Lược (7 quyển) của
Thi-Vĩnh-Đồ, vân vân.
Các binh thư soạn ra thực là nhiều, không kể xiết!
Nhưng từ đời Minh trở về sau binh-học của Trung quốc có vẻ
suy-đồi nên các binh-thư soạn ra về sau ít được
người đời nhắc nhở.
Trong dĩ-vãng, nước Việt-nam đã trải qua nhiều cuộc chiến
tranh. Các triều đại lớn như Đinh, Lê, Lý, Trần,
Lê, Nguyễn đều được xây-dựng và giữ-gìn bằng
chiến-công nên không thể xao-lãng nghề
võ. Vì chịu ảnh hưởng của văn-minh Trung-quốc, các
võ tướng Việt Nam ắt phải đọc những binh thư của Trung-quốc điều
ấy cũng hợp lẽ, vì các binh-thư ấy rất có
giá-trị, không phải riêng đối với
Á-Đông, mà còn đối với thế giới nữa. Thử hỏi
các binh-gia Âu-tây ngày nay, ai mà
không biết uy-danh của SUN TZE tức là Tôn-Tử?
Ngoài ra, các triều-đình Việt Nam cũng có
san-định võ-kinh riêng để cho các tướng sĩ học tập.
Nếu chỉ kể những bộ nổi tiếng nhất thì đời Trần có bộ
Vạn-Kiếp Tông Bí-Truyền và bộ Binh-Thư Yếu-Lược của
Hưng-Đạo Vương Trần-Quốc-Tuấn, đời Nguyễn có bộ Hổ-Trướng Xu-cơ
của Lộc-Khê Hầu Đào-Duy-Từ.
Vạn-Kiếp Tông Bí-Truyền là một binh-thư rất
quí, thuộc loại âm-dương học, không thể
phổ-thông ra ngoài dân chúng, vậy ta
không thể bàn-luận điều gì. Nhân-Huệ-Vương
Trần-khánh-Dư đề tựa sách ấy, viết như sau:
“Phàm dùng binh giỏi thì
không cần bày trận, bày trận giỏi thì
không cần đánh, đánh giỏi thì không
thua, khéo thua thì không mất.
“…Ngài Quốc công của chúng ta (tức là Vương
Hưng-Đạo) xem hoạ đồ của các nhà mà soạn
thành một bộ sách, tuy chỉ chọn lấy các chỗ
tinh-vi nhưng sao lục đầy-đủ các chỗ cốt-yếu, loại bỏ các
chỗ vụn vặt, rút lấy các chỗ thực-dụng, đều lấy năm
hành tương ứng chín cung thay nhau, phối-họp cứng mềm,
xoay-chuyển tuần-hoàn, lạ-lùng bất ngờ, về
thần-sát thất-diêu {trời, trăng và 5 sao kim, mộc,
thủy, hỏa, thổ), hưng-thần ác-tưóng, tam cát
ngũ-hung đều chỉ bày rõ ràng…”
“Sách ấy dùng đã ba đời trăm đánh trăm
thắng, cho nên đương thời có thể làm
rúng-động quân Hung-nô (Mông-cổ) ở phía
bắc, làm cho nước Lâm-Ấp ở phía tây phải
khiếp uy, nên sách này được biên-chép
làm của gia~truyền không được phép tiết lộ ra
ngoài.
“Có lời di-chúc (của Vương Hưng-Đạo) dặn rằng : Về sau
con cháu, bồi-thần học được bí thuật nay phải thi
hành cho sáng suốt không được bày trận
ám-muội hồ đồ.
“Lại có di-văn (của Vương) dạy rằng : nếu không tuần lời
dạy..thì sẽ chiêu vời tai-ương hoạn-nạn cho tới con
cháu, đó là bởi tiết lộ thiên-cơ vậy”
Xem lời dặn của Vương, ta đủ hiểu rằng Vạn-Kiếp Tông
Bí-Truyền là sách thuộc loại âm-dương-học
chỉ dành riêng cho các bậc quân-su để cha
truyền con nối mả giữ nước. Thêm nữa, danh-từ Vạn-Kiếp Tông
tỏ rõ ý-chí của Vương muốn lập một
tông-phái võ học tại Vạn-kiếp và Vạn-Kiếp
Tông Bí-Truyền chính là binh-phả biệt-truyền
của môn-phái.
Trái với bộ sách bí truyền nói trên,
bộ Binh-thư Yếu-Lược là một võ-kinh thông thường
có thể phổ-biến trong giới tướng-sĩ. Trong bài hịch răn
dạy các tỳ-tướng, Vương há chăng nói “Các
ngươi
nếu
chuyên
tập
sách
này,
nghe
lời
dạy
bảo
của
ta,
ắl
đó
là
duyên thầy-trò kiếp xưa;
còn nếu khinh bỏ sách này, trái lời dạy bảo
của ta, ắt đó là mối cừu-thù kiếp trước!” hay
sao?
Tại sao các bộ Võ-kinh của triều Tống rất được
thông-dụng mà Vương lại còn soạn ra bộ Binh-Thư
Yếu-Lược?
Hoặc Vương thấy các võ-kinh của Trung-quốc không
được đầy đủ nên Vương muốn thêm vào những
kinh-nghiệm của mình chăng?
Hoặc Vương muốn người Việt phải có óc tự-lập, tự chủ
nên Vương tự soạn ra một bộ binh-thư riêng biệt cho giới
võ tướng Việt-nam chăng?
Dầu sao, bộ Binh-Thư Yế-Lưọc đánh dấu một giai-đoạn mới cho nền
binh-học Việt-nam bắt đầu muốn giữ một bản-sắc độc lập
Một điều đáng để ý là bổn Binh-thư Yếu-lược
còn lại ngày nay có chứa nhiều sự-kiện lịch-sử
liên-quan đến hai triều Lê, Nguyễn: điều ấy chứng tỏ rằng
triều Nguyễn cùng dùng sách ấy và đã
thêml vào nhiều đoạn mới. Vậy ta có thể kết-luận
rằng :
•Binh-thư
Yếu-Lược
là bộ võ-kinh đầu tiên của Việt Nam
được thông-dụng trong
các triều Trần, Lê, Nguyễn.
Về sau, xu-hướng tự-lập, tự-cường của nền binh-học Việt Nam càng
được nhận thấy rõ ràng trong cuốn Hổ-Trướng Xu-Cơ
mà Lộc-Khê Hầu Đào-Duy-Từ" đã tự soạn ra cho
triều Nguyễn khác hẳn các binh-thư xưa, sách
này được chia ra 3 phần theo thuyết tam-tài :
Thiên-tập, Địa-tập và Nhân-tập.
Sau đây xinh trích dẫn một đoạn trong bài tựa của
Hầu Tước Lộc-Khê ở đầu cuốn Hổ Trướng Xu-cơ:
“Người xưa có nói rằng :
- Nếu đùng chiến tranh để ngăn ngừa chiến tranh dầu phải
đánh nhau, việc ấy cũng nên làm.
- Nếu giết người để yên người, dầu phải giết người, việc ấy cũng
nên làm.
“Nhưng trong việc chinh-chiến có rất nhiều phép tắc,
sát phạt có nhiều phương-sách chứng giống nhau.
Có trí thì dùng trí, không
trí thì dùng sức.
“Việc đánh phá các chỗ vững bền, cầm bắt tinh-binh
của địch, cỡi ngựa múa roi, bỏ công-lao ra sống vào
chết, nuôi chí thịt nát xương tan, đó chẳng
qua là làm kẻ võ dũng, đâu có thể
địch lại muôn người? Đó gọi là không
dùng trí thì dùng sức vậy!
“Nay tôi thà đấu trí hơn là đấu sức, do
đó ngẩng mặt tuân theo diệu ý của thánh hiền
đời trước, cúi xuống nhờ cậy vào tài năng
khéo-léo của các bạn lành, kiếm hết
các kinh sách lạ-lùng trong thiên-hạ,
tìm xem các phép-tắc khác thường xưa nay,
rửa nghiên thấm bút, cúi chép một
sách đặt nhan đề là Hổ-Trướng Xu-Cơ Trong sách ấy,
bất cứ là hoả-công, thủy-chiến, trận rắn, trận chim, chiến
lược, mưu-kế, các việc cơ-mật của binh-gia không chỗ
nào mà không hoàn bị. Nếu tướng súy
có cơ trí học được sách ấy thì có
thể lập được công danh đứng trên muôn người đem lại
thái bình trong mới hồi trống ! Vậy nên
trân-trọng giữ-gìn sách ấy mà chớ truyền thụ
cho người ngoài vận-dụng.”
Lý-do chính đã thúc giục Hầu-tước
Lộc-Khê soạn ra bộ Hổ-Trướng Xu-Cơ là các binh-thư
của Trung-quốc quá rườm-rà và khó hiểu. Ta
hãy xem một đoạn trích-dẫn từ bài tựa của
ông Cao-Khuê Chiêu-Dương trong bổn chép tay
vào đời Đồng-Khánh.
“Nếu có ai hỏi tôi rằng : Phàm
việc còn mất của xã-tắc, việc mừng lo của nước của Vua
đều tùy-thuộc vào một nguời tướng-suý. Cho
nên làm tướng mà học binh-pháp thì
cốt phải tinh-thông chớ chẳng cần học nhiều, cần phải mạnh-dạn
mà phải gom kiêm mưu-trí nhờ đó mà
khi ra khỏi cửa thành, tướng-suý có thể nắm vững
then chốt phép cầm binh, là nơi treo giữ số-mệnh của ba
quân. Nếu nghề võ chẳng được tinh-thông mà
tướng-súy lại thiếu mưu-trí thì trong khoảnh-khắc
lật nguợc bàn tay, giang-son phải chịu đổi dời, như thể chẳng
đáng cẩn-thận hay sao?
“Vả lại các sánh đã soạn ra không phải
là không hay nhưng lời-lẽ quá rườm rà, rắc
rối, nhiều chỗ tinh thô chẳng giống nhau, khiến cho độc-giả như
ngồi đáy giếng nhìn lên trời cao, thả một con
thuyền lênh-đênh trên biển cả, mờ-mịt không
biết nguồn cội ra sao, mênh-mông chẳng dò ra
manh-mối, đành phải chịu như thế vậy !
“Cho đến triều ta, có ngài Lộc-khê có
chí-khí ngang-nhiên khác thường cứ xem
ngài phò-tá Vua Thánh-tổ nhà ta. Để
danh tiếng nghĩa-đũng lại ngàn năm mang lại
thái-bình trong một ngày như thế trong thâm
tâm của ngài thực có chứa muôn ngàn
giáp-binh vậy. Đến khi ngài trả ấn về hưu, vui cạnh
núi vườn, cứ xem cái xu-hướg ấy cũng đã biết rằng
ngài đứng ngang hàng với các bậc Y Doãn,
Lữ-Vọng, Tử phòng, Khổng-minh vậy.
“Đến khi năm trời sắp hết lại sợ tâm-thuật của ngài
không được truyền lại. tài-trí thần-diệu phải bị
chôn vùi nhưng may-mắn có ông Triệu-Điền
lanh-lợi hơn người được ngài đích-thân truyền dạy,
rồi tới hai vị Bửu-Thúc, Cao-Lượng khám-phá
các điều sở-học của ngài Lộc-Khê và của
ông Triệu-Điền mà người đời chưa từng biết, đem ra truyền
dạy cho nhau, thực là của báu của trời đất, há dễ
ai mà thâu lượm hết được.
“Lại gặp bạn tôi là Hà-Hồ cũng ham-thích
môn học bí truyền, nên chẳng tiếc công-lao,
rửa nghiên thấm bút, chép ra một pho chia
thành ba cuộn gọi là Hổ-Trướng Xu-Cơ, trong đó tỏ
bày tất cả then máy huyền-bí của trời-đất, gom hết
tinh-hoa của vũ-trụ, nên tôi không thể nén
lòng phấn-khởi, vui~-mừng mà cũng viết thêm
ít lời như trên đây”.
Ta xem trên thì đủ hiểu rằng, sau Binh-Thư Yếu-Lược, bộ
Hổ-Trướng Xu-Cơ là Võ Kinh mới nhất của Việt-nam vậy.
Như thế đã từ lâu, tổ-tiên của chúng ta muốn
sáng-tạo một nền binh-học độc-lập. Óc tự-lập, tự-cường ấy
không phải là không chinh-đáng. Đọc lịch-sử,
ta thấy rằng ngoài việc bình Chiêm, sáp-nhập
Chân-lạp, đánh Xiêm, Lào để mở rộng bờ
cõi, nước Việt-Nam nhỏ bé đã lập nhiều
chiến-công hiển-hách để giữ-gìn non sông:
Đời Ngô phá Hán
Đời Lý đánh Tống
Đời Trần bình Nguyên
Đời Lê đuổi Minh
Đời Tây-sơn phá Thanh
Và trong khoảng 20 năm gần đây quân Việt mặc dầu ở
phe-phái nào cũng đều chứng tỏ khả năng chiến-đấu
khác thường khiến cho hoàn-cầu phải mỗi ngày
chú ý đến chiến-cuộc ở Việt Nam.
Nếu những chiến-công kể trên chỉ là những thắng-lợi
lẻ tẻ và tạm thời, do sự may-mắn đem lại thì ta
không nên vội tự khen. Thực ra, những chiến thắng ẩy chỉ lầ
những đoá hoa tô-điểm cho những chiến-cuộc có thể
kéo dài hàng chục năm trời.
Chính những chiến cuộc lâu dài này mới chứng
tỏ sức chiến-đấu dẻo dai và sức sống mãnh liệt của người
dân Việt.
Không cần phân-biệt kết-cuộc thành hay bại, ta
hãy xét các sự kiện sau đây:
- Hai Bà Trưng-Trắc, Trưng-Nhị đánh quân
Hán, hạ được 65 thành-trì, tự lập làm Vua,
đánh nhau với danh-tướng Mã-Viện gần 3 năm mới
chiu tử-tiết.
- Bà Triệu-Thị-Chinh cầm đầu l.000 thủ-hạ đánh nhau với
quân Hán trong 3 năm mới chịu tử-tiết.
- Lý-Nam-Đế rồi tiếp theo là Triệu Việt Vương đánh
nhau với quân nhà Lương trong 50 năm mới chịu
thua.
- Dương-Diên-Nghệ rồi tiếp theo là Ngô-Quyền phải
đánh nhau với quân Nam-Hán trong 7 năm mới
giành độc-lập
- Lý-Thường-Kiệt đánh nhau với quân Tống gần 2
năm.
- Trần-Hưng-Đạo phải đánh nhau trong 5 năm với hai đạo
quân Mông-cổ mới đuổi chúng về nước.
- Lê-Thái-Tổ phải đánh nhau gần 10 năm với
quân Minh mới khôi phục giag-sơn.
- Nội-chiến Lê-Mạc 60 năm
- Nội-chiến Trịnh-Nguyễn : 45 năm
- Tây-sơn đuổi Nguyễn, Trịnh : 17 năm
- Nguyễn đuổi Tây-Sơn : 24 năm
- Chiến-cuộc Việt-Pháp-Mỹ : gần 20 năm.
Xem thế, ta thấy rằng hình như Trời bắt-buộc nước Việt phải
trãi qua nhiều cuộc chiến-tranh lâu-dài để khiến
cho dân Việt có một truyền thống chiến-tranh trong
huyết-quản.
Do
đó,
dân
Việt
có
một định mệnh
khác thường : Người Việt phải là một nông
dân và là một chiến sĩ.
Sau bao cuộc chiến tranh tàn-phá, dân Việt lại
sinh-sôi nảy-nở, bành-trướng thêm, lại càng
làm cho thế-giới biết rõ mình hơn và sắp
bước vào giai-đoạn xây-dựng một nền văn-minh
lành-mạnh truyền-bá khắp thế giới.
Với một định-mệnh khác thường như thế, dân Việt phải
rút sức mạnh tự mình, do đó phải có một nền
võ-học tự-cường và một nền văn học tự chủ.
Ngày nay trong lúc nhân-dân đang tranh-đấu để
giang-sơn được độc-lập và thống-nhất, việc binh-học tỏ ra
cần-thiết hơn bao giờ hết. Vậy đã đến lúc nên nghĩ
tới việc san-định một võ-kinh hợp-thời cho quân-lực
Việt-nam, thâu tóm mọi kiến-thức xưa nay. Để dọn đường cho
các nhà binh-học tương-lai, tôi nghĩ rằng việc
tham-khảo các binh-thư thời trước chưa hẳn là
hoàn-toàn lỗi-thời và vô-ích.
Tôi vốn là người tân học nhưng đứng trước
sách cũ của tổ tiên, chẳng dám chê-bai
và khinh thường bởi nghĩ rằng : Dầu hay dấu dỡ, đây
là di-thư của tổ-tiên. Nhờ đó tổ-tiên của
chúng ta đã dựng nước và giữ nước, va nhờ
đó mới có chúng ta ngày nay.
Chúng ta nên trân trọng giữ nó như của
báu quốc truyền vậy.
Đối với tôi việc phiên dịch sách Binh Thư Yếu Lược
này của Vương Hưng-đạo chẳng những làm sống lại một thời
dĩ-vãng xa-xăm, bấy giờ nhân-dân Việt-nam bị
lôi-cuốn vào một cuộc tử chiến với quân
Mông-cổ, mà còn nhắc lại cho chúng ta nhớ
lại một đường lối tu-tập đã bị bỏ quên từ lâu:
đó là Thánh đạo.
Bởi thế ở đầu sách tôi có viết bài tiểu sử
và đức độ của Vương đề cụ-thể-hóa nền thánh-đạo
của nho-học Á-đông . Về bài này, tôi
không có may-mắn tham-khảo được nhiều sách
mà chỉ đọc qua-loa vài đoạn trong ba bộ sách
là bộ Đại-Việt Sử-Ký của Ngô-Sĩ-Liên, bộ
Khâm Định Việt-Sử Thông Giám Cuơng Mục và bộ
Lịch-Triều Hiến-Chương Loại-Chí (phần Nhân-Vật Chí)
của Phan-Huy-Chú Nhưng về truyện của Vương, hai bộ sau
không chép chi-tiết nào khác bộ trước,
thành-thử rốt cuộc tôi chỉ sử-dụng bộ thứ nhất mà
thôi. Tôi thành-thực nhận rằng đó là
một khuyết-điểm lớn và xin để dành việc thâm cứu
cho các sử gia.
Để làm bài tựa cho bộ sách này, tôi
có chép nguyên-văn bài hịch của Vương
và đưa ra một bản dịch tuy không hay bằng các bản
dịch văn-hoa đã biết nhưng sát nghĩa hơn để quý vị
độc giả xem đối-chiếu với Hán-văn. Bộ sách dịch
này sẽ không hoàn thành được nếu không
có sự trợ-lực của cựu Thiếu-tướng Mã Nguyên-Lương ở
Long Hoa đã kiểm-điểm giùm bổn Hán-văn, và
Dật-Sĩ Nguyễn-Phưóc-Hải ở Long-Khánh nhuận-đính
giùm bản dịch. Vậy tôi xin ghi nơi đây lời cảm-tạ
đối với hai tiên-sinh, vùa là thầy hay vừa
là bạn quý.
Tôi vốn là người tân-học không thuộc sử kinh,
lại không thông binh lược, nên việc phiên-dịch
không thể tránh khỏi có nhiều sai-lầm. Vậy
tôi xin nhận lỗi trước và thành-thực mong
quý vị độc giả bố-thí lời chỉ-giáo.
Ấp Tây
Nhì, Xã Phú Nhuận,
Quận Tân
Bình, Tỉnh Gia Định,
Mười Sáu
Tháng Giêng Kỷ Dậu.
LÊ XUÂN MAI
kính đề
QUYỂN THỨ NHỨT
TƯỢNG TRỜI
1. PHÉP
BÍ-MẬT XEM SẮC TRỜI VÀ SẮC MÂY TRONG TIẾT
NGUYÊN ĐÁN
Tiết Nguyên-đán, đúng tháng giêng,
ngày mồng một, giờ tý lên lầu bí mật xem bốn
phương.
Nếu thấy khi mây màu vàng thi năm ấy thóc
lúa trúng mùa lớn.
Nếu thấy khí mây màu trắng thì có
việc binh-biến xảy ra, nếu chỉ có một vầng mây hiện ra một
mình ở hướng nào thì ở hướng ấy có nạn
đao-binh.
Nếu thìn bốn phương không thấy mây mà chỉ
thấy hai màu đỏ trắng liền nhau, thì màu đỏ tượng
trưng cho máu, màu trắng tượng-trưng cho chất kim (gươm,
đao) hai màu ấy hiện ra ở hướng nào thì ở hướng ấy
sẽ dấy loạn.
Màu xanh là điềm có nạn gió bão, mầu
đen là điềm có nạn mưa lụt ; nước nào có
điềm ấy thì phải phòng-bị
2. PHÉP XEM
KHÍ HẬU BỐN MÙA :
NGÀY
LẬP-XUÂN : Vào giờ dần, giờ mão, nếu ở
hướng đông có mây trắng hiện ra như là trời
thòng binh-khí xuống, xứ nào có điềm ấy
thì sẽ sinh loạn lớn.
Nếu mây có hình-đạng như thanh kiếm treo ngược, đầu
trên bằng, đầu dưới nhọn, thì xứ ấy sẽ chết hết, đó
là điềm xấu. Mây ấy ở cao thì nạn còn chậm,
mây ấy ở thấp thì nạn chết mau đến. Trong mọi trường-họp
đêu phải lấy trăm phép toán thêm vào
để biết chính-xác hơn.
NGÀY LẬP-HẠ :
Vào
giờ
tý,
giờ
ngọ,
nếu
thấy
ở
hướng
nam
có
mây
đỏ
như
là
binh trời bày việc chiến-tranh, hoặc
giống như chỉa dáo, có hình dạng như khăn tay
màu hồng thì ở hướng ấy có việc đao-binh xảy ra
trong năm ấy, không đợi tới năm sau.
NGÀY LẬP THU :
Vào
giờ
thân,
giờ
dậu,
nếu
thấy
ở
hướng
tây
có
mây
trắng
mọc
thẳng
ngay lên, nếu ở tiết lập-thu
thì trong năm ấy về hướng tây có binh dấy loạn.
Nếu vào giờ ngọ mà có mây trắng chắn ngang
giữa trời như là tiến binh lập trận thì sẽ có binh
dấy loạn.
NGÀY LẬP
ĐÔNG : Vào giờ tý, giờ sửu, nếu ở hướng bắc
có mây trắng hình dạng như chim thì ở dưới
hướng ấy trong năm tới, vào tháng tư sẽ có việc
đao-binh.
Nếu mây trắng có hình-dạng giống như Hồ-binh
bày trận tiến binh thì năm tới vào thắng bảy xứ ấy
sẻ nòi loạn. Hễ nghe có loạn thì phải chuẩn-bị gấp
rút việc binh-mã
3. PHÉP XEM
MÂY BAY ĐỂ ĐOÁN THỜI TRỜI.
Mây là khí núi nhân vì gặp
đá mà bốc lên, nên gọi là mây.
Sách Cấm-thư nói rằng : Ngày
Nguyên-đán vào giờ tốt bậc chủ-tướng nên đi
lên lầu xem-xét.
Bốn phương trong sáng mà chỉ có một đám mây
xanh
hiện ra giữa. trời thì thiên-hạ sẽ
đói
kém mất mùa.
Nếu lâ mây trắng, sẽ có quốc-tang.
Nếu là mây đỏ sẽ có đổ máu,
thiên-hạ đều dấy binh, các giống mọi rợ ở hướng đông
và ở hướng bắc sẽ xâm-phạm biên-giới.
Nếu là mây đen, sẽ có mưa lụt.
Nếu là mây vàng đó là điềm
lành.
Nếu ở bốn phương trời có gió bụi màu đỏ bay
đầy
núi
sông
thì
sẽ
có
mưa.
4. PHÉP NGHE SẤM
SÉT ĐỂ ĐOÁN THỜI TRỜI.
Sấrn là trống của trời, nổ ra thì làm cho người ta
sợ-hãi tới muôn dặm.
Nếu tiếng sấm phát ra hòa nhã khác
thuờng thì trong năm ấy ở hướng có tiếng sấm sẽ được
an-ổn.
Nếu sấm dội kinh-khủng thì bên chủ nên
chuẩn-bị việc binh vì sẽ có giặc gây loạn lớn.
Nếu sấm động ở hướng chấn (đông), sẽ thấy cây-cối
tốt-tươi, năm lành, nhiều sương.
Nếu sấm động ở hướng ly (nam), sẽ có đại-hạn (nắng
lâu không mưa).
Nếu sấm động ở hưóng khôn (tây-nam), sẽ
có tai-nạn lớn.
Nếu sấm động ở hướng đoài (tây), sắt sẽ trở
nên quí-báu, nạn đao binh sẽ xảy ra.
Nếu sấm động ở hướng càn (tây-bắc), đó
là điềm xấu.
Nếu sấm động ở hướng cấn (đông-bắc), sẽ có nhiều
bệnh và nạn đao-binh.
Nếu sấm động ở hướng khảm (bắc), năm ấy sẽ mưa nhiều.
Tại nơi đang hành-binh, nếu quân đang sợ-hãi
thì lúc nghe sấm sẽ thua lớn; nếu nghe sấm trước rồi mới
sợ hãi sau, quân sẽ bi chấn-động và kiếm chỗ
ẩn-núp.
5. PHÉP NGHE SẤM
NGÀY NGUYÊN ĐÁN:
Tiếng sấm hòa-nhã thì thiên hạ an-ổn
và được mùa.
Nếu ánh chớp chói mắt, sấm nổ điếc tai thì
thiên-hạ sẽ rối-loạn, nên lo gấp việc binh-bị, thấy điều ấy
chẳng khá khinh-thường.
Sấm-sét là do âm-dương biến-chuyển và
cảm-ứng nhau mà sinh ra.
Tướng đang hành binh, nếu sấm nổ đằng sau lưng thì binh
sẽ gặp nhiều điều tốt lợi ; nếu sấm nổ ở trước mặt thì binh sẽ
gặp điều xấu lắm.
Nếu sấm nổ trước rồi mới thấy sét đánh thì
tiểu nhân thịnh mà quân-tử suy ;
nếu thấy sét đánh trước rồi mới nghe sấm
thì quân tử thịnh mà tiểu-nhơn suy.
Sấm thuộc âm, sét thuộc dương.
Tháng giữa xuân (tháng hai) sấm bèn
phát, tháng giữa thu (tháng tám) sấm
bèn ẩn, nếu nghịch thời sẽ có việc đao binh nổi
lên.
6. PHÉP XEM
HƯỚNG GIÓ THỔI LÊN TRỜI HAY XUỐNG ĐẤT
Gió từ hướng khảm (bắc) – thổi lại gọi là hắc-tuyền-phong
(gió suối đen) : năm ấy không có
nạn đao-binh, nhân dân bị bệnh-tật và giữa năm chết
về bệnh ôn dịch.
Gió từ hướng cấn (đông-bắc) thổi lại gọi
là huỳnh-tuyền-phong (gió suối vàng) :
năm ấy không có việc binh, cọp beo xuống đòng nội
làm tổn hại nhân dân.
Gió từ hướng chấn (đông) thổi lại gọi là vọng-nữ-phong
(gió gái trông chồng) : năm ấy
không có việc binh, sinh~mạng của nhân dân bị
nguy-khốn.
Gió từ hướng đoài (tây) thổi lại gọi
là kim-liên-phong (gió sen vàng) :
năm ấy không cô việc binh, gái phạm vào
tâm tư của trai, dân.chúng bị chết về bệnh ngặt.
Gió từ hướng ly (nam) thổi lại gọi là hỏa-huyết-phong
(gió máu lửa) : năm ấy nắng lâu
không mưa, có nạn đao-binh.
Gió từ hướng khôn (tây-nam) thổi lại gọi
là thai-bệnh-phong (gió bệnh thai nghén)
: năm ấy không có việc binh, đàn-bà nhiều
người chết vì sinh-đẻ.
Gió từ hướng càn (tây bắc) thổi lại gọi
là tang-phục-phong (gió tang-phục) : năm ấy
người người chét gấp, có dân nổi loạn.
Nếu hành-quân tới trận, gặp năm tuổi của tướng-súy,
gió từ hướng sao Thái-tuế thổi lại gọi là
đại sát phong (gió giết nhiều)
thì tai-hoạ đang đến gấp.
7. PHÉP
BÍ MẬT DẠY CÁCH XEM GIÓ TÁM HƯỚNG
* Thứ nhứt: Gió dữ sắc đỏ : Nếu trong nưởc có
hiền thần bị tù-tội, thì người ấy
thình-lình thấy sắc đỏ hiện lên khắp mặt.
Bỗng dưng trời đất biến ra hồng
Hiền-sĩ bất ngờ vuớng ngục gông
Kỳ-hạn không ngoài trăm ngày tới
Nước chia hai xứ quyết tranh hùng
* Thứ hai: Gió bắc sắc vàng :
nhìn không thấy người, ắt có trung-thần bị tội chết
: gió từ hướng bắc thình-lình thổi tới làm
cát bụi sắc vàng tung bay là đó vậy :
Bỗng dưng trời đất biến ra vàng,
Tất có trung thần phải chết oan,
Hạn tới không ngoài ba tuần nhật,
Bốn phương yêu quái khởi làm càn.
* Thứ ba: Gió sắc đen :
Hoặc ban đêm hoặc ban ngày, trời quang tạnh mà mặt
trời, mặt trăng và các sao vẫn không sáng,
gió ấy bỗng thổi đến làm cho trời đất u ám ; trong
vòng 300 ngày (10 tháng) sẽ có mọi-rợ miền
nam và miền đông xâm-lấn biên giới.
Gió đen bỗng thổi giũa trời quang
Trời đất sao trăng phải tối-tăm
Trăm ngày chưa tới là kỳ-hạn
Man ải ắt khởi cuộc xâm lăng !
* Thứ tư: Gió giết giặc : (sát tặc phong) : Hoặc
tại bản-dinh hoặc ở giữa trận, gió làm cho nhành
reo, cây gãy, chốc chốc lại thổi, phầng kè
ngày đêm, mỗi ngày đi được ba mươi dặm.
Giữa trận tùy thời ta hay theo
Nhành rung cây gãy, gió kêu gào
Ba quân gấp tiến theo chiều gió,
Gặp thời giao-chiến, lập công nhiều !
* Thứ năm: Gió dữ thừa lệnh quỷ-thần (thần lệnh ác-phong) :
Bỗng thấy gió ẩy uyển~chuyển thồi tới luôn cả ngày
đêm.
Giữa ngày bỗng nổi gió thần-phong,
Nhổ trại, cầm thương tất gặp hung,
Trước đường khòng quá muời dặm đất,
Phải phòng bên địch phục binh-hùng !
* Thứ sáu: Gió làm bại binh : (Bại
binh-phong)
:
Hoặc
mau
hoặc
chậm,
thồi
ngược
tới
trước
mặt
ta,
chốc
chốc
lại
thổi, trận này kbó định :
Dàn binh bỗng thay gió bại binh,
Rát mặt bụi mù gió lớn kinh.
Ba quân truyền lệnh lui binh-mã
Giao-chiến thời này ắt hại mình !
* Thứ bảy: Gió nóng ác hại (ác-noãn-phong) :
Gió nóng như lửa xuyên qua người, đang yên-ồn
bỗng nổi lên, về mùa đông cũng chảy mồ-hôi,
trong bụng hơi nóng trong vòng trăm ngày
thiên-hạ sẽ đổ máu.
Bỗng trận cuồng-phong thổi nướng người
Nóng ran sĩ tốt đẫm mồ hôi
Trăm ngày chưa tói, phòng đánh lớn
Máu đổ xương rơi ắt loạn rồi !
* Thứ tám: Gió mưa ác hại (Thủy-ác-phong) :
Gió phá-hoại tới ruột xương người đang yên-lặng
bỗng gió thổi tới vùn vụt, lạnh buốt như sương tuyết,
sĩ-tốt không mở mắt ra được Binh-mã phải giải-tán,
chắc-chắn sẽ thua.
Lạnh thấu ruột xương, ấy thủy-phong,
Thuyền, cầu thủy trận cũng toi công,
Ba quân truyện lệnh không nhìn rõ
Binh phục bên đường. phải khá phòng .
8. PHÉP XEM
GIÓ LÀNH :
Khi có gió lành (báo điềm
lành) thì ngày trong sáng, hơi gió
hòa-nhã ; theo phần ngày nào, phần
tháng nào, phần giờ nào, hoặc theo phương
sinh-khí nào mà tới thì lòng người
vui đẹp, nước được điều tốt lành.
Về ngày, âm đương là điều bí-yếu: các
ngày giáp, bính, mậu, canh, nhâm
thuộc về hướng phần dương ; các ngày ất, binh, kỷ
tân, quí thuộc về hướng phần âm. Hướng
quí là hướng dương.
9. PHÉP XEM
GIÓ DỮ :
Khi có gió báo nạn dữ thổi tới, thì
ngày đó nặng nề u-ám, khí trời tối-tăm,
bế-tắc, tiếng gió gào thét như là giận-dữ,
cát bay lá rụng, gió theo phương dữ mà thổi
đến. Nên gấp lo việc binh-bị để giữ kỹ, thế nào cũng
có giặc tới.
10. PHÉP
BÍ MẬT XEM CHÍN THỨC MÂY:
* Thứ nhất: Trời có sắc xanh biển : Trời mờ-mit,
hỗn-độn, xanh thẩm, thấy mặt người cũng có màu xanh ắt
là giặc tây nhung xâm-phạm biên-giới, nước
trung-ương chẳng được yên-ổn :
Thứ nhút, trời xanh thẩm lạ-lùng
Đế Vương lên điện hỏi Chu-Công,
Hiện ra điềm ấy chừngh nủa tháng,
Biên-cương ắt phạm giặc Tây-Nhung.
* Thứ nhì: Trời có sắc hồng : Điềm này chủ
về việc đại-tướng, hiền-than bị tù hãm, đang yên-ổn
mà bỗng đựng sinh ra như vậy Khi sắc hồng ấy hiện ra thì
trung-thần bi chết oan.
Tự-nhiên trời đất biến ra hồng,
Hiền-sĩ không ngờ vướng ngục gông,
Ví bằng chẳng có cuồng-phong khởi
Trăm ngày hai nước cũng giao-phong
* Thứ ba: Trời có sắc vàng : Trung-thần, mưu-sĩ
bị chết oan. Nếu dùng chín người để xem-xét sắc
trời ấy thì mọi người đều nhận ngay là màu
vàng.
Đang yên, tròi đất biến ra vàng,
Ắt có trung-thần phải chết oan,
Máu lan đầy đất trong muời tháng,
Yên, Tần, yêu-quái khởi làm càn.
* Thứ tư : Trời có sắc đen : Điềm này chủ về việc
trong vòng ba trăm ngày sắp tới sẽ có kẻ .
âm-mưu làm loạn. Bấy giờ sắc trời u-ám.
Đang yên, trời đất biến đen sì
Ắt có kẻ nao mưu loạn chi
Một tháng mà thôi, cơn loạn lạc
Tự -nhiên dập tắt chớ hồ nghi .
* Thứ năm : Trời làm sợ hãi vô cớ (sợ hụt)
: Trời phát ra tiếng nổ như sấm, bay ra vang dội tới ngàn
dặm. Tự-nhiên trời đang quang-đãng mà sinh ra như
vậy.
Cây có điều hòa lặng-lẽ bao
Tiếng vang như sấm tự trời cao
Kinh-hoảng không quá ba tuần nhựt
Bốn phương cùng khởì việc binh-đao.
* Thứ sáu : Trời mở cửa : Nghe tiếng động lan ra giống
như tiếng trời mở cửa. Bậc đế-vương đăng đàn bái tướng,
trong một trăm ngày lệnh chúa hưng vượng, bèn
trước hết dấy binh dẹp luạn. Nếu trong một tuần nhật, cửa trời mở về
phương Ngọc-nữ thì có tiếng nổ như sấm nhưng không
phải sấm.
Một tuần vang dội tiếng nghiêm thanh,
Ngọc-nữ phương trời cửa mở nhanh
Tiếng vọng xuống trần nghe ngỡ sấm.
Trăm ngày chưa tới ắt ra binh,
Bỗng dưng phá giặc ngoài biên-cảnh,
Hưng lệnh trời ban xuống nước mình, .
Để khiến ba quân tùy tướng lệnh,
Vua bèn bái tướng mới xuất-chinh.
* Thứ bảy : Trời thòng binh khí : Khí
mây thòng xuống ở chân trời, như là dao cưa.
Nên gấp tiến binh, đánh thì thắng lớn.
Mây trời hình:dạng giống cưa dao,
Thòng xuống chân trời, giặc bại mau
Hướng ấy tuớng binh cùng quyết chiến,
Bốn phuơng tám sớ tất hàng đầu.
* Thứ tám : Khí trời không điều hòa
: Bốn mùa đều trái thời-tiết :
Hè làm tiết đông, bắc-phiên
phản,
Đông làm tiết hè, ắt chinh nam,
Thu làm tiết xuân, giặc đông dậy,
Xuân làm tiết rhu, giặc tây tràn.
* Thứ chín : Trời sinh biến ở hướng càn : Chủ về
việc hiền-thần khó trách luận để nhà Vua nghe
theo. Mặt trời và mặt trăng khi sắp lặn còn cao một
trượng thì có sắc đỏ.
Nhật nguyệt máu hườm, biến sắc đây
Âm dương có biến, chủ không hay
Tư-thiên rõ việc, bàn sai quấy,
Ngoài cuộc nói vào xét chẳng sai.
11. PHÉP XEM HAI
MẶT TRỜI MỌC KỀ NHAU.
Hai mặt trời cùng mọc thì
thiên-hạ sẽ động binh, kẻ vô-đạo bị tiêu diệt, hai
quân đánh nhau có sức mạnh ngang nhau.
Hai mặt trời cùng mọc thì sẽ
có đánh lớn, thành-trì bị phá-hoại,
đồng nội chia ra nhiều phần mà đánh nhau.
Hai mặt trời mọc kề nhau ở nước nào
thì nước ấy gặp loạn lớn, nạn dữ .
Chất tinh trắng của mặt trời rơi xuống đất xứ
nào thì ở xứ ấy bên chủ (quốc-vương,
chánh-phủ) phải thất-bại.
Dưới mặt trời có ánh-sáng giống
như chân chim thì xứ bên phe chủ bị tai-ương,
việc binh thất-bại, quân-đội tiêu-diệt.
Trong mặt trời có vết đen thì vua
tôi chống đối nhau, trăm họ gặp việc xấu.
12. PHÉP XEM
CÁC LOẠI NHẬT-THỰC:
Dùng phép Hà-Đồ mà xem mặt trời.
Các trường hợp nhật thực đều do ở ngày hối (cuối
tháng) và ngày sóc (đầu
tháng) mà sinh ra nhật thực ; âm dương xâm
lấn nhau, đi lạc đường tới ôm nhau, đô gọi là
nhật-thực.
Nếu ở nơi có nhật-thực, có quan đại-thần âm-mưu
làm hại nhà Vua, ắt là mặt trăng đi ngược
án trước mặt trời : thiên-hạ sẽ dấy loạn.
Mặt trời mới mọc hai sào rồi bỗng dưng không
sáng nữa đó gọi là mặt trời bệnh. Mặt
trời sắp lặn ở phương tây, còn cao hai sào, bỗng
dưng không sáng nữa, đó gọi là mặt
trời
chết.Trong địa phận nước ấy, bậc vương hầu gặp nạn lớn,
các gian-thần đều nổi lên khuấy rối.
Nếu mặt trờí đỏ như máu thì
tbiên-hạ sẽ có loạn lớn.
Mặt trời mới mọc mà bị ăn thì sẽ thua binh, mất
thành.
Từ giờ ngọ trở về sau mà mặt trời bị ăn thì
binh-gia
nghỉ
việc
giao
chiến.
Vào tháng tám mùa thu mà
có nhật thực thì. có việc đao-binh xảy ra
và phe khách được thắng.
Vào tháng mười hai mà có nhật-thực,
điều
ấy
chủ
về
việc
có
binh
dấy
loạn.
Khi nhật-thực mà mặt trời bị ăn hết thì
rợ man (phía nam) và rợ di (phía đông) nổii
loạn, nên gấp lo việc binh-bị
Nguyệt thực xảy ra vào những ngày giáp, ất,
bính, đinh, mậu, kỷ thì sẽ có việc đao-binh.
Nguyệt-thực xảy ra vào những ngày canh,
tân,
nhâm,
quí
thì không nên
tính tới việc binh.
13. BÀI THƠ MẶT
TRĂNG LẠC ĐƯỜNG :
Trăng lạc giữa trời, chúa chẳng hay
Hậu-cung say đắm may nàng phi,
Ba tuần chưa tới binh liền dấy
Âm dương sai lạc khiến vong nguy.
14. PHÉP
BÍ-MẬT XEM TRĂNG :
Mặt trăng mới mọc ma đi về hưởng bắc đó gọi là “cung
giương” thì có kẻ âm-mưu vào
thành khuấy rối.
Nếu mặt trăng mới mọc mà có đám mây đen chắn
ngang như chữ nhất thì trong ngày ấy có mưa.
Mặt trăng mới mọc mà có đám mây đen ở giữa
có dạng như cầm thú thì:
- nếu vào ngày giáp ất sẽ
có hại về hướng đông;
- nếu vào ngày bính đinh sẽ
có hại về hướng nam;
- nếu vào ngày mậu kỷ sẽ có hại
về nước trung-uơng;
- nếu vào ngày canh tân sẽ
có hại về hướng tây;
- nếu vào ngày nhâm quí sẽ
có hại về hướng bắc.
Trong mặt trăng có sao lọt vào sẽ thua quân, chết
tướng.
Có mây trắng như rắn rít xuyên qua mặt trăng
thì sẽ có tướng chết, quân thua.
15. PHÉP
BÍ-MÂT XEM TRĂNG TRÒN KHUYẾT :
Mặt trăng giống như tròn nhưng chẳng phải tròn, giống như
khuyết nhưng chẳng phải khuyết, lặn mà chẳng lặn, ắt có
gian-thần mưu phản.
Mặt trăng giống như tròn mà chẳng phải tròn, bờ
trên và bờ dưới đều bị khuyết, mọc tại Phù-tang,
lặn tại Phù-tang, đó là điềm loạn-thần làm
cho nước nhà bại-vong.
16.
PHÉP XEM CÁC LOẠI NGUYỆT-THỰC :
Binh chưa đánh mà đã gặp nguyệt-thực thì
đến khi đánh, binh ấy sẽ được thắng lớn.
Binh đang ở trong mà đã gặp nguyệt thực, điều ấy chủ về
việc có tai ương.
Mặt trăng đang tròn đầy mà bi ăn, điều ấy chủ về
việc binh sẽ bị chết ở đồng nội.
Mặt trăng bị ăn một bên thì tướng súy
và bề tôi không còn giữ đạo.
Mặt trăng bị ăn ở phía dưới thì công việc
cửa tướng-quân mất phép-tắc, lề-lối.
Nguyệt-thực mà có màu xanh thì
ngũ-cốc trở nên quí-báu, híếm-hoi,
thiên~hạ đói kém.
Nguyệt-thực mà có mầu đỏ thì lúc
khởi đầu lợi cho pbe khách.
Nguyệt-thực mà có màu vàng thì
có
việc
lập
chư-hầu
thành
vương-quốc.
Mặt trăng bị ăn hết thì sẽ có quân thua
tướng chết.
Hai mặt trăng cùng mọc thì
thiên-hạ có loạn lớn.
Mùa xuân bi ăn về phía đông,
mùa hè bị ăn về phía nam,mùa
thu bị ăn về phía tây,
mùa đông bị ăn về phía bắc thì
xứ
gặp
nguyệt-thực
sẽ
có
điều
lo
buồn
về
việc
binh.
Mặt trăng đang bị ăn mà mọc lên thì chỗ
đóng quân bi tổn hại, lại thêm nữa có sự mất
mát đồ-đạc, tướng chết, binh tan.
17. PHÉP XEM MẶT TRỜI
VÀ MẶT TRĂNG ĂN NHAU :
Nguyệt-thực
xảy ra vào ngày dần, ngày mão,
thì
lúa
rẻ,
nhândân
chiu
thiệt-hại,
nên
khởi
binh
trước,
lợi
chủ mà hại khách.
Nguyệt-thực
xảy ra vào ngày ngọ, ngày mùi,
điều ấy chủ về việc có trâu ngựa
chết, binh dấy loạn tại phía tây đánh về
phía đông.
Nguyệt-thực
xảy ra vào ngày thân, ngày dậu,
trong năm này có khí độc gây ra nhiều bệnh.
Nguyệt-thực
xảy ra trong ngày hợi, điều ấy chủ về việc thiếu-thốn
ngũ-cốc.
Nguyệt-thực
xảy ra vào ngày tý, ngày sửu,
điều
ấy
chủ
về
việc
đói-kém,
loạn-lạc.
18. PHÉP BÍ MẬT XEM ÂM
DƯƠNG XÂM PHẠM NHAU :
Đường mặt
trăng mọc lên và đi theo là:
- thanh-đạo về
mùa xuân;
- bạch-đạo về mùa
thu;
- xích-đạo về
mùa hạ;
- hắc-đạo về mùa đông
;
- huỳnh-đạo trong bốn
tháng 3, 6, 9, 12.
Nếu đế-vưong
trái đạo thì mặt trời và
mặt trăng chạy trái đường, lấn âm, ôm dương,
nên gọi là âm dương lấn nhau, thiên-hạ sẽ
có loạn lớn.
Nếu mặt trăng
và mặt trời cùng đi ngang nhau, tbì
có
quan
đại-thần
âm-mưu
nổi
loạn.
Nếu hai
mặt trăng chọi nhau, điều ấy chủ về việc có hai vua tranh
thiên hạ.
Nếu mặt
trời và mặt trăng chọi nhau điều ấy chủ về việc trong nước
có đổ máu, thiên-hạ có loạn lớn.
19.
PHÉP
BÍ-MẬT
XEM
ÂM
DUƠNG
BỐN
MÙA
:
Mặt trời có sắc trắng thì trong
vòng chín ngày có rợ tây nhung
xâm-phạm biên-giới.
Mặt trăng có sắc trắng thì
hiền-thần bi lao tù. Mặt trời có sắc đỏ thì
có
âm-mưu
dấy
loạn
trong. nước.
Mặt trăng có sắc đỏ thì loạn
âm.
Đây là cách xem nhật nguyệt, âm-dương chậy
loạn :
Mặt trời hè không theo nam-đạo, mặt trời
đông không theo bắc-đạo thì
trong
vòng
trăm
ngày
rợ
man. (phía nam),
rợ di (phía đông) sẽ xâm-phạm biên-giới.
Mặt trăng đi về hướng bắc gọi là mặt trăng trương cung,
thì có kẻ âm-mưu vào thành dấy loạn,
bên ngoài giặc phiên. sẽ dấy binh xâm-đoạt
nước trung-ương.
20.
PHÉP
BÍ-MẬT
XEM
SAO
THÁI-BẠCH,
THẦN-TINH
:
Sao mai gọi là Thần-tinh, sao
hôm gọi là Thái-Bạch đều là
một sao.
Sao Thái-Bạch bi vầng sáng mặt trăng che khuất, điều ấy
chủ về việc tướng súy phải chết.
Sao Thái Bạch được mặt trăng chở ở trên, thì trong
năm ngày sẽ có dấy binh.
Tháng tám ngày mồng ba, sao Thái.Bạch đi
sai đường về phía bắc thì sẽ có binh đánh
nhau.
Sao Thái-Bạch đi về phía bắc thì nước nhỏ rối
loạn.
Sao Thái-Bạch đi về phía nam thl nước lớn rối loạn.
Sao Thái Bạch ở trong mặt trăng cũng được gọi là
nguyệt-thực.
Sao Thái Bạch là điềm xấu của nhà Vua.
Sao Thái-Bạch mọc bên trái mặt trăng thì
nước âm rối loạn, mọc bên phải mặt trăng
thì nước dương rối loạn.
Sao Thái-Bạch dính liền với mặt trăng thì trong ba
năm có việc đao-binh, mất đất.
Sao Thái-Bạch chạy vào mặt trăng thì tướng –
quân phải chết.
Sao Thái-Bạch bảy ngày không mọc thí sẽ
có nạn đao-binh dữ-dội..
Nếu sao Thái-Bạch lên giữa trời mà sáng ra
thl ba quân tan-vỡ, loạn-lạc.
Nếu trên có một đế-tinh và dưới có một
cá-tinh thẳng hàng với nhau thì các quan
phản Vua.
Nếu sao Thái-Bạch xuất hiện không đúng lúc
thì Vua Tôi cùng khởi binh.
Sao Thái-Bạch mờ tối thì chủ-tướng gặp việc xấu.
Sách Cấm-Thư chép rằng : Thái-Bạch
Thần-Tinh cùng một ngày mọc lên ở hướng đông,
ắt có dấy binh ở hướng đông ;
nếu cùng mọc lên ở hướng tây, ắt có binh dấy
lên ở hướng tây.
Nếu cùng mọc ở hướng đông mà không
gần
nhau,
từ hai mươi tới ba mươi ngày không lặn
vào hướng đông-nam thì có điều binh nhưng
không đánh ; đến mùa xuân, mùa hạ sẽ
có dấy binh.
Thần-Tinh và Thái-bạch mọc ở hướng đông, gần
nhau trong khoảng ba bốn thước thì từ bai mươi tới ba mươi
ngày có binh đánh lớn.
Thần-Tinh đi theo Thái-Bạch ở hướng đông thì
có
dấy
binh
ở
khắp
nơi,
từ
đó
đến
sáu
mươi
ngày
sẽ
có
dấy
binh ồ-ạt.
Thái-Bạch từ Thần-Tinh đi ra thì lợi chủ.
Nếu mọc ở hướng đông thì lợi cho việc đánh
hướng tây,binh ở phía đông được
thắng lớn ; nếu mọc ở hướng tây thì lợi cho việc
đánh hướng đông, binh ở phía tây
được thắng lớn.
Thái-Bạch và Thần-Tinh cùng mọc ở hướng đông;
Thái-Bạch mọc trước, Thần-Tinh theo sau rồi
vượt qua Thái-Bạch mà đi trước thì xứ ở dưới
có binh làm phản, không tới một năm sẽ thấy
ứng-nghiệm.
Thần-tinh mọc ra như tờ giấy mà Thái-Bạch chưa mọc
thì tướng-quân phải chết; thấy mọc ở nơi nào
thì ở nơi ẩy có quân tan, tướng chết.
Thái-Bạch mọc ở hướng đông, Thần-Tinh ở
phía trước mà không mọc thì trong
vòng năm mươi ngày có âm-binh dấy loạn trong
nước.
Thái-Bạch có vầng sáng thì trong
thiên-hạ có ân-xá cho kẻ phạm tội.
Thần-Tinh có vầng sáng thì sẽ có
dấy binh và mưa lụt.
Vầng sáng của Thái Bạch và Thần-Tinh mà
có ánh sáng màu vàng che khuất. thì
sẽ
có
quân
tan,
tướng
chết.
22. PHÉP
BÍ MẬT XEM SAO LÀNH :
Sao Cảnh Tinh là sao đức-tinh. Sao ấy lớn
có hình-đạng như nửa mặt trăng hiện ra vào
ngày ba mươi, mồng một. Nước nào thấy được sao ấy
thì gặp nhiều điều tốt lành.
Sao Chu Tinh có sắc vàng, ánh sáng
rực rỡ, nước nào thấy được thì gặp điều tốt lành,
ai thấy được thì người ẩy gặp điều tốt lành.
Sao Hàm-Dự sáng như sao Tuệ, nước
nào thấy được thì gặp điều vui mừng, rợ man phía
nam vào cống-hiến.
23. PHÉP
BÍ MẬT XEM SAO BẮC-ĐẨU :
Bắc-đẩu có sao nhỏ thì thiên-hạ
không yên, mọi việc chiến tranh cùng dấy lên.
Bắc đẩu có khí đỏ xâm- nhập, điều
ấy chủ về việc quân phải thua lớn, nếu cử binb g~p thì
có hại.
Nếu có mây trắng xâm-nhập, điều ấy chỉ về
việc đổ máu nhiều.
Nếu có mây như xà-mâu ăn vào, điều
ấy
chủ
về
việc
có
loạn
lớn,
nên
ra
ngoài.
Nếu có mây hình-dạmg giống như con heo, điều
ấy
chủ
về
việc
binh
sợ-sệt
vô
cớ.
Nếu có khí vàng tản-mác ở đông,
tây thì không nên dấy binh động
chúng.
Nếu có vết đỏ, đầu lợt, đuôi đậm, điều
thấy chủ về việc quân được thắng lớn.
Nếu có màu đỏ lạt thì đại thần làm
loạn.
Nếu có mây ở phía đông và
tây thì phe chủ cử đại-binh, phe khách
nên lui về mà giữ.
Nếu có mây đỏ xây thành bốn phía, điều
ấy
chủ
về
việc
dấy
binh
lớn.
Nếu hiện ra ban ngày thì xã-tắc
không yên, bậc vương*giả gặp tai-biến.
Nếu đang xoay trận mà đêm sau xem lại, thấy sao Bắc-đẩu
có mây xuyên vào thì ba mươi
ngày sau lại bị một lần lữa.
Nếu đêm mồng một đầu năm có sắc hồng bọc quanh sao
Bắc-đẩu, thì hai mươi ngày sau sẽ có tướng
chết quân bại.
24.- PHÉP
BÍ MẬT XEM SAO KHÁCH :
Các sách Thiên-văn đều nói : Chẳng
phải thường được thấy mà tình-cờ mới thấy được sao ấy
trên trời, thì đó là sứ-giả của Thiên-
Tinh
Đại-đế : sao ấy là then chốt của bí thuật xem
điềm tốt xấu.
Hoặc mọc ở hướng tây, hoặc nằm ở hướng đông.
Nếu
thấy
sao
ấy
trong
nhiều ngày thì có
vỉệc to tát xảy ra mà lại có họa lớn; nếu chỉ thấy
sao ấy trong ít ngày thì có việc
xảy ra nhưng không quan-trọng lắm mà tai-họa chỉ nhỏ nhẹ
mà thôi.
Hoặc hình-dạng biến ra sừng nhọn ắt là có
âm-mưu gây loạn; nếu sắc của nó mờ lạt, ắt
là có binh nổi loạn.
Nếu có sao (nhỏ) mà thấy nó có sắc trắng
thì sẽ có việc binh-đao xảy ra trong địa-phận của
nó ; nếu sao ấy có ánh-sáng như gai nhọn
thi xứ ở đỉnh bị quân tan, tướng chết, bị giặc lấn đất, đoạt ấp,
thiên-hạ loạn lớn.
Hễ hằng ngày thấy sao ấy trên trời, không
đúng vào giờ khắc nào cả, thì sao ấy gọi
là sao khách.
25. PHÉP
BÍ MẬT XEM SAO CHỔI :
Ngày xưa kinh của họ Sở nói rằng : Sao Tuệ
gọi là sao chổi, hoặc dài vài thước, hoặc
dài một trăm thước, sao ấy hiện ra ắt có dấy binh.
Khi nhà Vua sắp gặp tai-họa mà sao chổi hiện ra, nếu sao
ấy chỉ về hướng nào thì đánh thắng về hướng ẩy,
chỉ vào ta thì ta gặp điềm xấu, chỉ vào người
thì người chịu thất-bại, đều phải phân-biệt đia-phận
mà đoán.
Sao chổi dài ba trượng thì việc xấu kẻo dài một
năm, dài bốn trượng trở lên thì việc xấu kéo
dài ba năm, dài một trăm năm mươi trượng trở lên
thì việc xấu kéo dài bảy năm.
Sao chổi hiện ra ắt là nước địch chịu việc binh-biến. Sao chổi
lớn thì tai-họa lớn, sao chổi nhỏ thì tai-họa nhỏ ,
đuôi sao chổi mà cong giống như lá cờ thì
nhà Vua đẹp giặc bình-định bốn phương.
26. – PHÉP XEM
CHUNG NĂM SAO :
1) Sao Tuế Tinh có ý nghĩa là hướng đông,
là
mùa
xuân, là hành mộc,
là đức nhân trong năm đức thường của con người
(nhân, nghĩa, lễ trí, tín), là vẻ mặt
trong năm việc (mạo, ngôn, thị, thính, tư). Đức nhân
mà thiếu sót, vẻ mặt mà hư hỏng, thời tiết
mùa xuân mà bị trái ngược, khí mộc
mà bị tổn thương, ắt sẽ thấy sự trừng phạt.
Sao Tuế-Tinh là chủ đầu tiên của phước may.
Về mùa xuân, được gọi là Nhiếp-Đề;
Về mùa hạ, được gọi là Trùng-Hoa;
Về mùa thu, được gọi là Ứng-Tinh;
Về mùa đông, được gọi là Kỷ-Tinh.
Sao Tuệ-Tinh tượng trưng cho bậc có đức, muốn
được thấm nhuần sự sáng suốt của người ấy. Bậc Vua của
loài người mà có đức ắt là Tuế-Tinh tới lui
cùng thời với nhà Vua, nước ấy được phước may,
không thể đánh nước ấy được. Bậc chúa loài
người mà không có đức, ham thích việc chiến
tranh, thì Tuế tinh cũng theo đó mà mờ tối, đổi
màu làm cho tước vị bị tù hãm thất thường;
nếu nhân đó tai ương xảy ra thì nước nhà sẽ
gặp việc xấu … (*), điều ấy chủ về trong năm ấy, ngũ cốc và
người sinh ra nhiều, nhà Vua sẽ trông nom đạo làm
người ở khắp các nước chư hầu trong thiên hạ.
Tuế Tinh ở vào nước nào, thì nước ấy được đức dầy,
ngũ cốc tươi tốt, bậc chúa loài người sống lâu
và gặp điều tốt lành.
Nếu phước may xung khắc với Tuế Tinh thì có tai họa.
Tuế Tinh ở yên ở các trung độ thì tốt lành;
nếu mờ tỏ không chừng thì nước ấy có việc lo buồn,
không thể bày việc và dùng binh.
2) Sao Oanh-Cảm-Tinh có ý nghĩa là hướng nam,
là
mùa
hạ, là hành hỏa,
là đức lễ (trong ngũ thường), là sự thấy.
Lễ
nghi
và
sự
thấy
mà
thiếu
sót,
thời
tiết
mùa
hạ
mà
bị
trái
ngược, khí hỏa mà
bị thương tổn, ắt là sẽ thấy sự trừng phạt.
Sao ấy khiến cho công việc sai phép tắc, đi ra thì
mất lửa, đi vào thì binh tàn, tan rã ở đất
khách, nước nhà phải rối loạn. Sao ấy gây ra giặc
giã, bệnh tật, chết chóc, đói kém, sao ấy ở
đâu thì ở đó phải chịu tai ương. Nếu vành
bọc quanh sao dao động, đổi màu và làm trở lại như
thế, khi thì ở trước ở sau, khi thì bên trái
bên phải, nước ấy càng chịu tai ương nhiều hơn.
(*) Không nhận ra chữ nên không dịch được.
3) Sao Trấn Tinh có ý nghĩa là trung-ương,
là
bốn
tháng
3,
6,
9,
12,
là
hành
thổ,
là đức tín. Bốn đức nhân, nghĩa, lễ,
trí đều lấy đức tín làm chủ. Vẻ mặt, lời
nói, sự thấy, sự nghe đều lấy tư duy làm chủ. Bốn vị sao
kia (Tuế-Tinh, Oanh-Cảm-Tinh, Thái-Bạch, Thần-Tinh) đều mất đức
tín nên báo điềm nước sẽ biến động, ắt bậc vương
hầu không bình yên.
Sao Trấn-Tinh mà lu mờ, ắt là việc binh bất lợi.
Sao ấy ở nước nào thì ở nước ấy được điều tốt
lành.
Sao ấy nằm vào được chỗ tốt thì đàn bà con
gái được phước may, không thể đánh nước ấy được.
Sao ấy không nằm được chỗ tốt thì đàn bà,
con gái có điều lo buồn.
Sao ấy ở yên không dời chỗ thì nước ấy có
việc lo buồn.
4) Sao Thái Bạch có ý nghĩa là
hướng tây, là mùa thu, là
hành kim, là đức nghĩa, là lời
nói. Trong năm việc (mạo, ngôn, thị, thính,
tư), lời nói mà bị sai lầm, thời tiết mùa thu
mà bị trái ngược, khí kim mà bị tổn thương,
ắt là sẽ thấy sự trừng phạt.
Nhìn cách sao Thái-Bạch lui tới để xem về việc
binh; sao ở cao hay thấp, đi chậm hay mau, yên tịnh hay rối loạn,
mọc hay lặn đều tượng trưng cho phép dùng binh.
Nếu nói về điềm xấu, khi sao ấy mọc ở hướng tây mà
đi sai lạc thì rợ di (phía đông) và rợ địch
(phía bắc) sẽ bị thất bại; nếu mọc ở hướng đông mà
đi sai lạc thì nước trung ương sẽ bị thất bại; nếu chạy dọc
trên trời (theo phương nam-bắc), đó gọi là rối loạn
kỷ cương thì bậc vua chúa loài người phải chịu lưu
vong; nếu ban ngày thấy sao ấy tranh sáng với mặt trời
thì nước nhỏ mạnh, nước lớn yếu.
5) Sao Thần-Tinh có ý nghĩa là hướng bắc,
là
mùa
đông, là hành thủy,
là đức trí, là sự nghe. Đức
trí và sự nghe mà thiếu sót, thời tiết
mùa đông mà bị trái ngược, khí thủy
mà bị tổn thương, ắt là sẽ thấy sự trừng phạt.
Sao Thần-Tinh chủ về sự giết chóc, là khí
sát phạt, là sao tượng trưng cho sự chiến đấu, quân
đội ắt là bị hãm ở đồng nội.
Sao Thần-Tinh tượng trưng cho sự phòng bị của tướng súy;
tướng tay không chẳng có quân lữ, đó
là hình phạt dành cho tướng súy.
27.-
PHÉP BÍ MẬT XEM SAO BĂNG :
Sao băng là sứ giả của Trời, từ trên rơi xuống gọi
là lưu-tinh, từ dưới chạy lên gọi là phi-tinh,
sao
lớn
gọi
là
bôn-tinh, tất cả cũng đều là
lưu tinh cả.
Sao lớn thì có sứ mạng lớn, sao nhỏ thì có
sứ mạng nhỏ. Nếu có nghe tiếng kêu, đó là
tượng trưng cho sự giận dữ. Nếu chạy mau thì kỳ hạn đến gấp
rút, nếu đi chậm thì kỳ hạn còn lâu.
Nếu sao lớn mà không sáng, đó là việc
của dân chúng; sao nhỏ mà sáng đó
là việc của người tôn quí. Nếu sao khi ẩn khi hiện
đó là công việc có thành có
bại. Nếu sao trước lớn mà sau nhỏ thì có điều lo
sợ; nếu sao trước nhỏ sau lớn thì có việc vui mừng.
Nếu sao chạy ngung ngăng như con rắn thì có kẻ âm
mưu làm việc gian tà. Nếu sao chạy băng qua mau, băng qua
mà không kịp tới (rớt), đường băng dài thì
việc lâu dài và quan trọng; đường băng ngắn
thì việc mau chóng và không quan trọng. Sao
băng rơi xuống nơi nào thì dưới nơi ấy có việc
binh đao. Sao băng di chuyển mà bị ngăn trở thì có
mưu sự xảy ra.
Về sao băng, hãy xét ngày giờ, xem sao ở địa phận
nào để mà luận :
- Màu xanh tượng trưng việc lo buồn, đói kém.
- Màu đỏ tượng trưng việc đao binh, khô hạn.
- Màu vàng tượng trưng việc vui mừng, việc sửa sang đất
nước.
- Màu trắng tượng trưng việc đao binh, hình phạt.
- Màu đen tượng trưng bệnh tật, bệnh dịch, chết chóc, hỏa
tai.
Khi sao băng có ánh sáng giống như tấm vải, nếu
là màu xanh thì có sứ các
nước tới viếng, nếu là màu đỏ thì
có việc đao binh, nếu là màu đen
thì có việc chết chóc.
Nếu sao băng rất lớn, ánh sáng chiếu xuống đất,
màu xanh và mào đỏ túa ra bốn bên
thì ngũ cốc mất mùa.
Sao băng phạm vào mặt trăng hay triền mặt trăng mà
ánh sáng đỏ hướng về phía mặt trăng thì
thiên hạ không yên ổn.
Khi gặp lưu tinh và bôn tinh, nếu dấy binh sẽ thắng trận.
28.- PHÉP
BÍ MẬT XEM SAO YÊU QUÁI :
1) Sao Thiên-Ngô : Cũng có tên
là Giác-Tinh, vốn thuộc về sao Tuệ-tinh (sao
chổi) nhọn dài bốn thước. Nếu mọc ở hướng đông-bắc,
thì chủ về việc tranh đoạt. Nếu sao tuệ (chổi) mọc ở hướng
đông thì có tên là Thiên-Cách
thì nước ấy không thể cử sự, nếu dùng binh
thì phải mất thành. Sao Thiên-Ngô
dài hơn bốn thước thì chủ về việc yêu quái
nổi lên khuấy phá.
2) Sao Xi-Vưu-Kỳ (giống cờ giặc Xi-Vưu đời vua Huỳnh Đế). Giống
loại sao Tuệ (chổi) nhưng có đuôi cong như
hình lá cờ. Hoặc hiện ra một mình giống như một
đám mây đỏ, sắc của nó trên đỏ dưới trắng,
sao ấy hiện ra ở hướng nào thì ở hướng ấy có binh
dấy loạn. Sao Xi-Vưu-Kỳ mọc ra, chủ về việc đánh dẹp bốn phương.
Lại có nói sao Xi-Vưu-Kỳ thuộc loại sao Oanh-Cảm,
nhờ có khí đỏ bồi đắp mà trở nên to lớn, sắc
của nó chiếu ánh sáng xuống đất, tên của
nó là cờ Xi-Vưu, chủ về việc binh dữ dấy loạn, rợ man
(nam) và rợ di (đông) xâm phạm biên giới.
3) Sao Nguyệt-Hoàng : Hình nó lớn
và có sắc đỏ, ở cách mặt đất chừng ba trượng giống
như bó đuốc, chủ về việc bên trong có giặc
giã, tai nạn, nơi nào thấy sao ấy thì có
dấy binh, trong và ngoài đều gặp nạn đao binh.
4) Sao Chiếu-Minh : Hình lớn mà không
có sừng nhọn, khi thì lên cao khi thì xuống
thấp, nước nào thấy sao ấy hiện ra thì chịu nạn đao binh.
Sao Chiếu-Minh có hình dài 3 thước, lại có
thêm 3 sao ở trên, đó là loại sao Oanh-Cảm.
5) Sao Tư-Nguy : Có hình dạng như sao
Thái-Bạch, có 2 mũi nhọn như hai cái đuôi,
mọc ở hướng tây, cách xa mặt đất sáu thước
và có sắc trắng, đó gọi là sao Tư-Nguy.
Sao
mọc
ở
hướng
nào
thì
ở
nơi
ấy
việc
hành
binh
của
phe
chủ
không được thuận lợi.
6) Sao Thiên-Sàm : Mọc ở hướng tây, giống
như một cây kiếm dài bốn, năm trượng, có tên
là Thiên-Sàm. Sao ấy mọc ở nơi nào
thì ở nơi ấy có dấy binh, nước nào thấy sao ấy
thì có loạn lớn.
7) Sao Ngũ-Tàn : Mọc ra ở hướng đông, cách
mặt đất chừng ba đến bảy thước, giống như mũi thương chĩa ra nên
gọi là tàn, như có mũi nhọn dài
ló ra. Ngũ-Tàn có nghĩa là chia ra
năm phần. Nơi nào có sao ấy thì phải chịu nạn hủy
hoại, bại vong. Lại có nói sao ấy giống như lửa có
màu đỏ hoặc màu xanh. Sao Ngũ-Tàn xuất
hiện ở nơi nào thì ở nơi ấy có nạn binh đao,
nhà tan nước mất.
8) Sao Trường-Canh : Giống như tấm vải dính vào
da trời, nơi nào thấy sao ấy thì có dấy binh
gây loạn.
9) Sao Thiên-Tặc : Mọc ra ở hướng nam, so ấy lên
cách mặt đất sáu thước và có màu đỏ,
dao động mà chiếu sáng, đó gọi là sao Thiên-Tặc.
Nó
mọc
ở
hướng
nào
thì
dưới
hướng
ấy
có
dấy
binh
gây
loạn,
đất
ấy phải bại vong.
10) Sao Cuồng-Thỉ : Giống như sao băng có hình
mũi tên, màu xanh đen, đi như con rắn, trông như
có sừng, dài chừng vài thước. Thấy nó ắt
là có binh mưu phản nhân cơn loạn mà
gây loạn. Lại có nói rằng khi gặp sao Cuồng-Thỉ
thì quân sĩ sinh ra nhát sợ, binh Tần phải thua,
Hạng Vũ chấp chánh. Nơi nào thấy sao Cuồng-Thỉ xẹt
xuống
hướng
tây
thì
đó
làm
điềm
diệt
vong.
11) Sao Thiên-Cẩu : Hình dạng của nó giống
như chó chạy, có sắc đen vàng và có
tiếng kêu, phía trên giống như con chó. Sao
ấy rơi vào xứ nào thì xứ ấy trông như
có ánh lửa rực rỡ xông lên trời, trên
nhọn, dưới tròn mà nghiêng về một bên, giống
như sao Điền-Tinh mà có lông, một bên
có sao chổi ngắn, phía dưới có sao Cẩu-Tinh
mọc ra có ánh sáng màu đỏ, trắng, tức
đó là sao Thiên-Cẩu. Lại có
nói rằng sao băng có ánh sáng, thấy rơi
xuống mà phát ra tiếng kêu, có chưn (*)
màu trắng, ở giữa màu vàng giống như hình
con chó, chủ về việc có dấy binh, giặc tới phá
quân giết tướng, đổ máu ngàn dặm. Nó
có một tên thứ nhất là Lưu-Tinh, một
tên thứ hai là Doanh-Đầu-Tinh, đó cũng
là sao Thiên-Cẩu.
(*) Nguyên văn.
29.- PHÉP
BÍ MẬT LUẬN VỀ TÁM SAO YÊU QUÁI :
Sách Binh-Pháp nói rằng : Thần nhân
ban cho sách lạ về sao yêu quái, thế gian thường
chẳng được thấy. Nếu lại sao ấy hiện ra thì không thể
không xem xét; nước nào có sao ấy hiện ra
thì quan Tư Thiên Giám phải quan sát
kỹ. Theo phép này nếu sao đeo theo mây mà
xuất hiện thì rất khó mà đo lường.
- Thứ nhất : Mao-Đầu-Tinh : Hình của nó
dài như măng tre.
Giữa ngày so hiện giống đầu lông,
Nước chủ đang yên bỗng bận lòng
Sao hiện không đầy ba tuần nhật,
Nước sinh tai biến phải long đong!
- Thứ hai : Đới-Tinh : Sao ấy dài thẳng một đường,
trên dài ba phân, dưới dài một phân.
Treo kiếm bên trời, ấy tướng quân,
Đới ra nhất định dấy đao binh,
Ban ngày sao hiện, binh nên tiến,
Thấy ở nơi nào, ấy giặc sanh!
- Thứ ba : Thương-Ngân-Tinh : Khí của nó
hợp thành một đường đâm xuyên qua mình
nó và chui qua thẳng.
Sao cặp một đường ngó giống thương,
Xuyên hẳn qua sao thật lạ thường,
Hiện ra không quá ba tuần nhật,
Binh dấy đồng thời khắp bốn phương.
- Thứ tư : Trương-Cung-Tinh : Nó dài một đường
như hình cung giương.
Hình sao trông giống chiếc cung giương
Chủ tướng tới lui phải hiểu thông
Sao hiện trước nhà binh dấy động,
Hưng binh đánh trước mới thành công!
- Thứ năm : Thần-Xoa-Tinh : Trên có ba đường, dưới
có một đường.
Thấy được Thần-Xoa thật ít khi,
Gặp thời sao hiện, chủ thiên di,
Hiện ra không quá trăm ngày chẵn,
Máu chảy tràn trề, nước loạn ly!
- Thứ sáu : Trường-Canh-Tinh : Có hình như
sợi tơ thòng xuống, có khí trắng.
Một làn khí trắng giống đường thương,
Sao hiện nơi nào, đấy nhiễu nhương,
Giữa ngày sao hiện như mây lụa,
Nước phải kinh hoàng chịu họa ương.
- Thứ bảy : Phao-Giáng-Tinh : Có đám
mây giống như đầu người.
Hình mây trông chẳng khác
đầu lâu,
Sao hiện nơi nào chúa phải sầu,
Hiện ra chẳng đợi qua hai tháng,
Ma quỷ hại người, đổ máu nhiều.
- Thứ tám : Đảm-Kỳ-Tinh : Giống như mây,
dài như lá cờ trương ra.
Sao yêu xuất hiện trải cờ ra,
Biên ải man di quấy nhiễu ta,
Hiện ra chẳng quá ba tuần nhật,
Thây chết đầy đồng, ngửi thối tha.
30.- PHÉP XEM
SAO YÊU QUÁI HIỆN RA BAN NGÀY :
Sao hiện ra ban ngày, hình giống như cây cối, chủ
về việc có đao binh và đổ máu.
Nếu ban ngày có hai sao hiện ra thì thiên hạ
sẽ đổi đời.
Nếu ba sao hiện ra thì rợ di (phía đông)
và rợ địch (phía bắc) xâm phạm biên
giới.
Bốn sao hiện ra thì vua tôi âm mưu dấy loạn.
Năm sao hiện ra thì nước ngoài xâm đoạt nước trung
ương.
Một sao hiện ra vào tháng tám ban ngày
thì nên phòng ngừa kẻ gian tà mưu sự. Nếu
sao xẹt một bên thì chủ về việc có đánh lớn,
đổ máu. Nếu sao quay đuôi lại, xẹt xuống một bên
thì chủ về việc mất nước.
31. – PHÉP XEM
TƯỢNG TRỜI KHI HÀNH QUÂN :
A. Một là khi gặp trời đất tối tăm,
sương mù mờ mịt, gió tung cát bụi, cờ
xí không thấy rõ, chiêng trống nghe
không được, thì không thể xuất binh. Nếu có
giặc thừa lúc tối tăm ấy kéo kỵ binh kiêu dũng, dời
quân đến đánh ta thì ta ắt phải dặn dò
đôi ba phen, ước thúc ba quân, giữ kỹ dinh trận,
không cho loạn động, chỉ dùng các vật ngăn chận,
bia, phên để đón đỡ tên và đá bắn tới,
dùng cung mạnh nỏ cứng ngồi nấp mà bắn giặc. Ta chờ đến
khi giặc giải đãi thì thừa dịp bên địch tối tăm hỗn
loạn, ta xua sĩ tốt mạnh dạn lén đi ra mặt sau quân địch
để chận ngang đường rút lui cùng các chỗ hiểm yếu,
bấy giờ ta đánh thì có thể bắt được chúng.
B. Một là khi gặp trời đất mưa
gió tối tăm,, sương mù mờ mịt tất cả bốn phía,
thì không thể tiến binh, cũng không thể dời trại,
vậy nên giữ kỹ dinh trại, để phòng ngừa sĩ tốt biến loạn
hoặc giặc ở ngoài tới đánh.
C. Một là khi gặp gió to, mua
lớn, lạnh nhiều, nắng gắt, không thể ra binh đánh dẹp,
vậy nên vỗ về giúp đỡ quân sĩ, giữ vững dinh trại,
tất nhiên giặc cũng không thể ra binh. Nếu binh ta đi đường
mà thình lình gặp giặc thì
nên lập gấp dinh trận để chờ khi trời tối và chờ
lúc thế giặc suy giảm. Bấy giờ ta gắng thìm phương
sách hay, xét thời trời, thăm dò chỗ sơ hở của
địch.
D. Một là gặp khi tuyết đổ mờ mịt,
trong vòng trăm bước không thấy người ngựa, trong trường
hợp ấy thường thường giặc đặt kỳ binh nấp ở nơi hiểm ải để chờ
đánh ta vào lúc vô ý. Nếu ta ra
quân đối ứng với giặc thì chúng sẽ giả vờ thua chạy
mong rằng ta đuổi theo để dẫn dụ ta vào chỗ chúng đang
phục binh. Theo cách tự nhiên, ta trước hết nên chọn
năm bẩy tỳ tướng, vài mươi đội tỉnh kỵ, chờ khi giặc tới bốn
phía tả hữu trước sau, cho quân đến dẫn dụ ta, hoặc
dùng quân tỉnh kỵ bày trận thế xông
vào đánh ta, tức thời từ đằng sau quân ta, ta khiến
hai viên tướng đi ra, góp kế di chuyển và ứng biến
với nhau, đem người ngựa đi vòng quanh, tìm đường về của
ngựa giặc, rồi dò xem có phục binh hay không tại
các nơi hiểm ải trên đường về ấy. Nếu ta có tức
thời chia binh ra hai ba nhóm, thay phiên nhau mà
đánh thì giặc phải thua chạy.
Nếu giặc đến đánh ta trước, bên ta đầu đuôi chẳng
thấy nhau, như thế quân ta phải rời khỏi chỗ mà giặc đặt
phục binh, rồi đem nhuệ binh quay ngược lại đánh ngang
vào hông giặc. Bấy giờ đám giặc đến đánh ta
không biết rằng bên kia phục binh đã thua chạy, ta
bèn sai một toán tỉnh kỵ, vừa đánh vừa lui, thay
phiên nhau bọc đánh đích, chờ giặc đi vào
chỗ ta phục binh, ta liền đem đầu đuôi giáp lại thì
có thể cầm bắt toàn thể quân địch. Đó
là chỉ giảng sơ lược về trường hợp toàn quân đang
giao thông, phải biết tùy lúc gấp hay hoãn
mà ứng đối.
Đ. Gặp cơn tuyết lớn bay mịt mù như
vậy, nếu ta có cung cứng, ngựa hay, người mạnh thì việc
xảy ra tầm thường không quan-trọng.
Khi đi săn bắn chơi, còn phải xem trời mây huống hồ
là hai toán quân tranh nhau thắng bại, muốn
thâu lợi lớn về phía mình.
E. Sau cơn tuyết lớn, khi biết là
bộ binh của ta khó tiến, quân giặc bèn lập mưu lạ
đem nhiều tinh kỵ tới bốn phía chung quanh dinh lũy của ta,
khiêu chiẽn để dẫn dụ quân ta, hoặc dùng tinh kỵ
chạy qua chạy lại xung phong vào quân ta. Nếu ta đem binh
ra, tức thi giặc phân binh tứ tán, đầu đuôi hiệp lại
để tới đánh ta, một là đánh dinh trại của ta, một
là chận đường lương thảo của ta, ngăn cho hai đầu đuôi của
ta không cứu ứng nhau được. Nếu đúng như thế, quân
ta ngăn rào cho kỹ mà đừng đi ra, chờ giặc đem binh mạnh
tới đánh, ta bèn dùng cung nỏ cứng, loại nỏ
sàng tử, cái thì bắn ở trên, cái
thì bắn ở dưới. Khi thế giặc đã yếu, không
còn chí chiến đấu nữa, ta có thể đem toàn
quân ra bắt giặc.
G. Một là ngày mới ra quân,
nếu có mưa nhỏ gọi là mưa nhuận binh, ắt
sẽ có thắng lớn. Nếu có mưa lớn gọi là
mưa mộc thi (thây gỗ) thì phải chọn ngày
khác để tiến binh. Việc tuy gấp rút cũng không thế
tiến binh được bởi vì thời trời chưa thuận, chỉ tổn hại
nhân mạng và khí cụ mà sĩ tốt lại
không đẹp lòng.
H. Một là gặp cơn gió lớn thổi
tung cát bụi thì không thể tiến binh
đánh dẹp. Nếu binh đang đi đường thi nên tìm ngay
tại đó có chỗ nào tiện lợi để lập dinh trại, chỉnh
đốn binh mã. Nếu phía truớc bỗng gặp phục binh
đánh cắt đứt quân ta, hoặc có đánh lớn,
đó là điềm cho biết ý trời không thuận cho
sự ra binh. Nếu đóng dinh trại ở đồng ruộng thì nên
dặn dò quân sĩ hai ba lần hãy giữ vững dinh trại để
phòng ngừa giặc theo chiều gió đến la ó mà
đánh đinh trại của ta. Nếu ta lập trận đã xong mà
có gió ấy thì cũng không đánh
mà nên giữ vững.
I. Một là gặp mặt trời và mặt
trăng hơi bị ăn, thì không nên tiến binh
đánh dẹp, mà chỉ ra lệnh cho ba quân giữ gìn
chắc chắn để phòng ngừa giặc đến đánh.
K. Một là quân đang đi đường, gặp nhiều
ngọn
gió
lớn
xáp
nhau,
đập
vào
nhau, khi
thì thổi khi thi nghỉ, bấy giờ phải sợ giữa đường có phục
binh đánh, vậy nên đề phòng.
L. Một là gió đập vào mặt
người thì không nên tấn binh. Nếu khi
phát binh đi trên đường thì gập gió thuận
thổi, khi đi được nửa đường hoặc trở về thì gặp gió
nghịch thổi, bấy giờ nên lập đinh trại ngay tại đó. Nếu cứ
tiến binh, ắt sẽ gặp phục binh. Nếu gặp giặc phải đánh,
mà có gió nghịch không phân lớn nhỏ
thì không nên giao chiến mà nên giữ
vững.Vì đạo trời chưa thuận nên phải thế.
M. Một là khi mới phát binh, gió
mưa
chẳng
có, đi được nửa đường, bỗng có
đánh lớn, và có mưa to gió lớn,
thì nên chọn gấp chỗ lập dinh trại để giữ vững mà
chớ nên tiến binh. Nếu cứ đi tới ắt có huyết chiến.
N. Một là quân đang đi trên
đường hay đang đóng dinh trại ở đồng nội, mà gặp mưa
to gió lớn, tuyết rơi sương mù, tối tăm mờ mịt thì
không
nên
tiến
binh
dẹp
giặc.
Nên
vỗ
về
sĩ
tốt
để
giữ
vững
là
hơn hết.
O. Một là quân đang đóng dinh
trại tại đồng nội, chỉ có điềm trời là sắc mây,
móng trời, sao băng sa xuống, đất cát thay đổi, chim bay,
thú chạy, có giống vật lạ chạy vào dinh trận cắn
quân lính, thì nên bói đề
tìm hiểu.
32.- PHÉP XEM
SƯƠNG RƠI ĐỂ ĐOÁN THỜI TRỜI :
Hễ về tháng ba mùa hạ, dương-khí tới mà
bỗng nhiên sương rơi xuống lộp độp làm cho đầu cành
cây ẩm ướt, ắt sẽ có binh dấy lên từ phương bắc, đến
lấy nước, phá thành. Chủ nên phòng bị vực
binh. Ngày xưa, hiền thần Trâu Diễn nước Yên bị giam
trong ngục, trời bèn giáng sương vào tháng
ba thì không tới một tuần, có binh dấy ở phương
bắc.
33.- PHÉP XEM
MƯA TUYẾT:
Tuyệt là tinh túy của mưa móc không phải do
trời mà khởi, không phải do đất mà sanh, mà
chính do việc binh của nước mà ứng.
Mùa đông sinh tuyết thì thuận, mùa hè
sinh tuyết thì nghịch. Vào tiết hạ chí mà
tuyết bay ngàn dặm thì có dấy binh ở biên
giới phía bắc. Chủ nên phòng bị.
34.- PHÉP XEM
MÓC RƠI ĐỂ ĐOÁN THỜI TRỜI:
Móc là do âm khí kết
lại mà thành, nó đông lại như mỡ,
trông đẹp đẽ như kẹo. Nếu được như vậy, thì thuận
lòng trời, binh sẽ gặp điều tốt lành.
Nếu lạnh nhức xương, tê da, ắt sẽ nghịch lòng trời,
hành quân sẽ đại bại.
Móc cũng có tên là “rượu
của
trời”. Ngày xưa, người ta tin rằng Vua Hán
Võ Đế được thần tiên dùng tay hứng cho
mà uống, chắc phải có lợi gì.
35.- PHÉP XEM
MƯA GIÓ NGÀY MỒNG MỘT:
Ngày mồng một tháng giêng mưa
to, gió lớ, thổi cát bụi bay lên, làm
tróc nóc nhà, chủ về việc tơ lụa hiếm hoi, nghề
tằm thất bại, lúa mất mùa.
Ngày mồng một tháng hai có
mưa thì tơ xấu, mất mùa lúa. Ngày ba mươi
mà mưa thì dân gặp nhiều tật bệnh, chết chóc
nhiều và gặp việc dữ.
Ngày mồng một tháng ba có mưa
gió thì có nhiều bệnh, có sâu
lúa sinh ra, hai thứ lúa mì lớn nhỏ đều
không chín, nhân dân chịu sầu khổ.
Ngày mồng một tháng tư có mưa
gió thi lúa mì xấu, gạo trở nên đắt đỏ.
Ngày ba mươi có mưa lớn thì có bồ
cào (sâu keo) gieo nạn dữ.
Ngày mồng một tháng năm có
mưa gió thì trâu bò trở nên đắt đỏ.
Trong năm ấy nhân dân sẽ đói kém, trở
nên sầu oán và sẽ có dấy binh.
Ngày mồng một tháng sáu có
mưa
gió
thì
lúa
gạo
trở
nên
hiếm
hơi
đắt
đỏ.
Ngày mồng một tháng bảy có
mưa gió thi lúa gạo trở nên đắt đỏ, nhân
dân không yên ổn, thiên hạ loạn lớn.
Ngày mồng một tháng tám
có mưa gió thi đất âm có nhiều vải và
lúa mì, khan hiếm gạo và dầu mè.
Ngày mồng một tháng chín
có gió mưa thì hột mè khan hiếm cho đến
xuân hạ năm sau.
Ngày mồng một tháng mười có
gió mưa là chủ về việc có khô hạm, hột
mè khan hiếm.
Ngày mồng một tháng mười một
có gió mưa thì việc binh gặp nhiều tai nạn. .
Ngày mồng một tháng chạp có
gió mưa thì mùa xuân bị khô hạn,
mùa hè bi lụt lội, gạo lúa trở nên đắt đỏ.
36.- TUYỂN MỘ:
Đặt ra ba bậc đề tuyển mộ tráng sĩ. Từ quan lại trở xuống, đều
phải cử người mà mình biết rõ.
Những kẻ giặc cướp thi để vào bậc trên, những kẻ đả thương
hoặc trộm cắp cho vào bậc thứ hai, những kẻ không lo việc
nhà thì cho vào bậc dưới.
Khiến nhóm họp các tướng và để 300 cỗ xe ngựa cho
họ dùng, rồi tuyển mộ quân cảm tử để hầu hạ họ: nếu
không phá được địch, cũng không đến nỗi mất nhuệ
khí.
37.- BINH MẠNH:
Trong phép chiến thắng có 5 việc cốt yếu:
1) Sắp sẵn bào giáp, binh khí.
2) Lo kiếm người, ngựa. xe cho đủ.
3) Chứa trữ nhiều.
4) Huấn luyện sĩ tốt.
5) Chọn tướng giỏi.
Năm việc trên đã chuẩn bị xong rồi mới có
quân đội mạnh mẽ được.
38.- CHỌN BINH ĐỂ TẬP
LUYỆN:
Binh cần tinh nhuệ chớ không cần nhiều.
Nên chọn những kẻ khoẻ mạnh mà dùng chớ chọn những
kẻ ốm yếu để khoe số đông.
Những hạng có thể thâu nạp để huấn luyện là những
kẻ:
1) Có nhiều anh em.
2) Không cha mẹ.
3) Tuy đơn độc nhưng có con nối dõi,
4) Nhà tuy nghèo nhưng có tài sức mạnh khoẻ.
CHỌN TƯỚNG
39.- XÉT TƯỚNG:
Muốn biết nguời nên xét tám chứng cớ sau
này:
1) Thứ nhất là hỏi họ, buộc họ phải trả lời để dò xem kiến
thức
tường
tận của họ.
2) Thứ hai là lấy lời gạn hỏi họ để xem tài ứng biến
của họ.
3) Thứ ba là dùng gián điệp dò xét
họ để xem lòng thành thực cửa họ.
4) Thứ tư là buộc họ giảng giải rõ ràng để xem đức
độ của họ.
5) Thứ năm là dùng tiền của mà sai khiến họ để xem
tánh liêm khiết của họ.
6) Thứ sáu là dùng sắc đẹp mà thử họ để xem
lòng trinh chính của họ.
7) Thứ bẩy là đem việc khó mà bảo họ để xem lòng
dũng
cảm của họ.
8) Thứ tám là cho bọ uống rượu say để xem thái
độ của họ.
40.- DÙNG TƯỚNG:
Hỏi : Nếu có một viên tướng mạnh dạn, một
viên tướng cơ trí phải dùng họ như thế
nào mới được?
Đáp : Tướng mạnh dạn thì có tài
đánh phá chỗ kiên cố của địch, vây hãm
trận địch, có tướng mạnh thì có thể gây
nên thế mạnh. Về việc lo liệu đối phó với quân địch,
sắp đặt kế hay, tùy cơ ứng biến, nếu không có tướng
cơ
trí
thì không thể làm được.
Nếu tướng chỉ cậy dõng cảm mà thôi thì phải
thua mưu trí vậy. Cho nên ngày xưa, xây
đàn, lên đài, đẩy trục xe (*), ắt phải
tìm mời tướng súy có cơ trí để làm
chỗ trông cậy cho người tướng mạnh dạn. Do đó người
làm chủ tướng không cần phải biết phép thuật,
đánh gươm cưỡi ngựa, bắn cung, mà cần phải hiểu biết
thông suốt các việc xưa nay.
Vậy phải giao trách nhiệm chỉ huy cho ai? Muốn biết một
viên tướng là tài giỏi hay ngu tối,
ta
phải
thử
thách
họ
để
coi
họ
động
lòng
hay
không.
(*) Đó là phép đăng đàn bái
tướng của vua chúa đời xưa: Võ Vương phong tướng cho
Khương Tử Nha, Hán Cao Tổ phong tướng cho Hàn
Tín…vân vân...
41.- CÁCH ĐỐI
PHÓ VỚI TƯỚNG NGU TỐI CỦA ĐỊCH QUÂN :
Thử thách mà động lòng đó là hạng tướng
ngu
tối. Tướng ngu tối thấy lợi thì động lòng, khinh
thường quân địch nên động lòng. Về phương
pháp đối phó, ta nên dùng hai cách
phỉnh gạt sau này để bắt tướng ấy :
- Đối với tướng tham lợi, ta dùng mồi nhử để bắt họ.
- Đối với tướng coi thường đối phương, ta giả vờ khiếp nhược để
câu nhử thì có thể bắt được họ.
42.- CÁCH ĐỐI
PHÓ VỚI TƯỚNG GIỎI CỦA ĐỊCH QUÂN :
Thử thách mà không động lòng, đó
là hạng tướng tài giỏi. Tướng tài giỏi,
có mưu trí đầy đủ nên không động lòng,
có pháp thuật đầy đủ nên không động
lòng. Về phương pháp đối phó, ta nên
dùng hai cách giúp thêm sau này để
chống chọi.
- Khi hai bên dùng trí đấu nhau, mưu-trí của
ta không hơn được mưu trí của địch, thì ta
dùng pháp thuật giúp thêm
vào, để che ngăn chỗ sơ hở khi địch nhân lúc ta
thua trí mà đánh vào.
- Khi hai bên dụng phép thuật để đánh nhau,
mà phép thuật của ta không hơn được phép
thuật của địch, thì ta dùng mưu trí giúp
thêm vào, để ngăn ngừa sự biến loạn, khi địch thừa dịp ta
sơ hở về phép thuật mà đánh vào.
43.- CHIẾN LƯỢC:
Đây là mưu đánh. Khi giao binh, nếu muốn biết
tình trạng hư thực của địch, ta hãy làm cho người
lộ hình tích mà giữ cho ta vô hình.
Ta làm cho người bộc lộ tình trạng hư thực, đánh
vào chỗ sơ hở của họ mà thành ra đánh được
chỗ vững bền của họ.
Nếu ta đánh vào chỗ vững mạnh của địch, ắt là ta
sai lầm, nếu ta đánh mạnh vào chỗ sở hở của địch
thì ta được vững mạnh, sai lầm ở trên là bởi lẽ
đó. Sâu kín đến nỗi trở nên vô
hình, giấu kỳ ở trong chính, giấu chính
ở trong kỳ, lấy kỳ làm chính,
lấy
chính làm kỳ.
Phép đánh là dùng chính để
hợp, dùng kỳ đề thắng, phép chiến thắng
không ra ngoài kỳ chính, cách biến
hóa của kỳ chính không bao giờ hết được. Kỳ
và chính sinh ra nhau như
vòng tròn không có đầu múi.
Xét hư thực, hiểu rõ đâu là vững chắc
đâu là sơ hở, khéo dùng phép kỳ
chính, đó là ba vật báu của binh
pháp.
Biết mình biết người, trăm đánh trăm
thắng. Nuôi khí lực của dân, định tâm
chí của quân, đó gọi là biết
mình. Xét tình hình quân địch,
đó
gọi
là
biết
người.Việc
ấy
có
ba
điều
trọng
yếu,
phát
xuất
từ
ba
căn bản, tại sao thế?
Theo phép cầm binh thì “dụng” bên
ngoài khoan nghiêm không chừng, nhưng “thể”
bên
trong
phải
nghiêm, cho nên binh gia
và pháp gia phụ giúp cho nhau; hình trạng
bên ngoài thì động tĩnh vô thường
nhưng phải lấy tĩnh làm chủ, cho nên binh gia
và âm phù gia (pháp sư) phải nhờ cậy nhau.
Việc hình pháp không cần phải kiêm thêm
việc binh, nhưng trái lại việc binh chưa bao giờ khỏi kiêm
thêm việc hình pháp; pháp thuật không
cần dùng binh mã, nhưng binh gia chưa bao giờ khỏi
dùng pháp thuật. Cho nên mới nói rằng:
ba điều trọng yếu do ba căn bản. Dùng sở trường của các
nhà rồi suy tính lợi hại, như thế mưu lược sẽ được
hoàn bị.
44.- CÁCH
DÙNG TƯỚNG:
Hỏi : Phép dùng tướng như thế nào ?
Đáp : Tại một việc cơ quyền mà thôi. Tướng
nói có thể dùng dân thì phải
dùng, tướng nói không thể dùng dân
thì không dùng. Tướng nói có thể
dùng binh thì phải dùng, tướng nói
không thể dùng binh thì chớ dùng. Tướng
nói có thể đuổi đánh quân địch thì
phải đuổi đánh, tướng nói không thể đuổi
đánh thì chớ đuổi đánh. Như thế quân
pháp không rối loạn, cơ quyền không bị cản trở.
Nhưng muốn biết dùng tướng, trước hết phải biết chọn tướng. Muốn
biết chọn tướng, trước hết phải biết xét tướng. Ba việc hiểu
biết ấy đem lại quyền năng thần diệu cho tướng súy, cho
nên không thể không xem xét cẩn thận.
Phép khiển tướng, dùng binh như thế đầy đủ rồi sao?
Tuy nhiên theo Tôn Ngô thì phải lo đánh
thành, còn theo lời Mạnh Tử, Tuân Tử thì
chưa được. Vì sao nói thế? Đáp rằng : Kế hoạch căn
bổn đã mất nên mới dùng Tôn Ngô,
đó chỉ là búa rìu dùng để đẽo gọt
nước nhà. Bên ngoài dữ ác, bên trong
đẽo gọt thì cơ mất nước chỉ còn kiễng chân
mà mong chờ.
45.- CHIẾN LƯỢC :
Việc cốt yếu trong khi đánh giặc là trước hết xem
xét tài năng của tướng địch, tùy theo hình
thế mà dùng cơ quyền, ắt là không mệt nhọc
mà được thành công.
Tướng địch ngu ngốc mà lại tin người thì ta
có thể hứa hẹn để dẫn dụ.
Tướng địch tham lam mà không cầu danh thì
ta có thể dùng tiền mà hối lộ.
Nếu tướng địch nhẹ dạ vô mưu, thì ta có thể
làm cho phải vất vả, khốn đốn.
Bên địch trên giàu mà kiêu căng, dưới
nghèo mà oán hận thì ta dùng mẹo ly
gián.
Bên địch tới lui ngờ vực, dân chúng không biết
trông cậy vào đâu, thì ta làm cho
chúng rúng động rồi đuổi đánh chúng.
Bên địch sĩ tốt khinh tướng súy mà có bụng
muốn trở về, thì ta ngăn chận lối đi dễ, mở thông lối đi
khó rồi đón đánh thì cầm bắt được.
Bên địch đường tới dễ đường lui khó thì ta vời
chúng đến mà đánh, bên địch đường tới
khó đường lui dễ, thì ta đến gần chúng mà
đánh.
Địch đóng quân ở chỗ ẩm thấp, nước không có
chỗ chảy thông, trời mưa dầm lâu ngày thì ta
có thể khơi nước chảy vào để chúng bị chết đuối.
Địch đóng quân ở chốn đồng hoang, lau cỏ um tùm,
khi có gió mạnh ta dùng lửa để đốt chúng
chết cháy.
Địch đóng quân lâu ngày ở một chỗ, tướng sĩ
biếng nhác, quân ấy không phòng bị, ta
có thể ẩn nấp mà đánh úp.
46.- CÁC HẠNG
TƯỚNG SÚY :
Tướng súy có nhiều hạng :
- Có tướng nho nhã
- Có tướng mạnh dạn
- Có tướng khôn lanh
- Có tướng tài giỏi.
Tướng nho nhã thì có mưu trí
Tướng mạnh dạn thì đánh mạnh
Tướng khôn lanh thì biết ứng biến
Tướng tài giỏi thì có nhiều khả năng.
Nếu tướng gồm kiêm được hết thì không việc gì
mà không thần diệu, nếu tướng biết phòng bị
thì không có việc nào bất lợi.
47.- HÒA MỤC :
Hòa mục là giềng mối chính
của sự trị an. Trong nước hòa mục thì việc binh tốt đẹp.
Lính đồn thú ngoài biên cảnh hòa mục
thì không có việc kinh sợ. Nếu bất đắc dĩ mới đặt
giới cấm thì sự hòa mục càng được quí
trọng. Vua tôi hòa mục sau mới chuyên dùng.
Tướng văn tướng võ hòa mục sau mới thành
công. Tướng sĩ hoà mục sau mới nhắc nhở công lao của
nhau mà tưởng thưởng, khi gặp nguy nan mới cứu viện nhau. Vậy sự
hòa mục là đường lối tốt đẹp bất đi bất dịch cửa
phép trị quốc hành binh.
48.- TRỌNG THƯỞNG TƯỚNG
SÚY :
Tướng súy đánh trống, phất cờ, khi gặp nạn thì
quyết tử chiến, xông pha gươm dáo, chống chọi nổi với địch
thì được thưởng công, nêu danh, thua địch thì
binh chết nước mất. Như thế vấn đề còn, mất, yên, nguy chỉ
tùy thuộc vào một mảy tơ hào, do đó
không thể không trọng thưởng tướng súy.
49.- TÀI DỨC CỦA
TƯỚNG SÚY :
Tài đức của tướng súy kẻ ít người nhiều chẳng
giống nhau.
- Che giấu điều gian tà, chứa trữ tai họa, chẳng biết dân
chúng hờn oán, đó là tướng coi 10 người.
- Siêng năng cần mẫn, nói năng kín đáo
rõ ràng, đó là tướng coi 100 người.
- Ngay thẳng mà biết lo âu, mạnh dạn mà biết chiến
đấu, đó là tướng coi 1000 người.
- Ngoài mặt mạnh mẽ, trong lòng hăng hái, hiểu
rõ điều lao khổ của người, thương xót cảnh đói
rét của người, đó là tướng coi muôn người.
- Gần hiền, cử tài, được một ngày thì cẩn thận một
ngày, thành tín, rộng lượng, sửa trị việc rối loạn
mà vẫn thanh nhàn, đó là tướng coi 100
ngàn người.
- Nhân ái đối với người dưới, dùng tín nghĩa
để hàng phục nước láng giềng, trên hiểu thiên
văn, dưới thông địa lý, giữa rõ nhân sự, coi
người trong bốn biển như trong một nhà, đó là tướng-súy
của
tất
cả
thiên-hạ, không ai có thể đối địch
lại được.
49.- THỜI TIẾT :
Việc điều binh khiển tướng là việc lo sợ của binh gia vậy
nên cần chờ mặt trời, mặt trăng (ngày, tháng thuận
lợi) để được thành công.
50.- PHÉP LẬP ĐÀN :
Lập đàn 3 từng cao 3 trượng để tượng trưng tam tài,
rộng
24
trượng
để
tượng
trưng
24 khí.
Giữa đàn có 25 người đứng, mặc áo vàng,
tay
cầm
cờ
vàng, đuôi báo, trấn giữ ở giữa
cung mậu, kỷ, thổ đề tượng trưng việc chỉ huy trận
hình.
Phía đông đàn có 25 người, mặc
áo xanh. tay cầm cờ xanh, trấn giữ hướng đông,
giáp,
ất,
mộc
để tượng trưng thanh long (rồng
xanh).
Phía tây đàn có 25 người, mặc
áo trắng, tay cầm cờ trắng, trấn giữ hướng tây,
canh,
tân,
kim
để tượng trưng bạch hổ (cọp trắng).
Phía nam đàn có 25 người, mặc áo
đỏ, tay cầm cờ đỏ, trấn giữ hướng nam, bính,
đinh, hỏa để tượng trưng chu tước (phượng đỏ).
Phía bắc đàn có 25 người, mặc áo
đen, tay cầm cờ đen, trấn giữ hướng bắc, nhâm,
quý, thủy để tượng trưng huyền võ (rùa
đen).
Chung quanh đàn có 365 người cầm cờ đủ mầu để tượng trưng
vòng trời 365 độ Như thế là đầy đủ.
Đại tướng theo phương sinh khí, lên đàn
bái tướng tế trời đất, đóng giữ sáu nhung(?), sắp
đặt mà dùng.
Bên trái và bên phải có các
quan văn võ đứng hầu, nếu có ai làm huyên
náo hoặc đứng sai hàng lối thì sẽ có
quân pháp trừng phạt.
51- TRAO MỆNH CHO TƯỚNG SÚY:
Việc yên nguy của xã tắc đều tùy thuộc vào
một người chủ tướng nên mới khiến quan Thái Sử giữ trai
giới ba ngày, đến Thái Miếu bói ở mu rùa để
chọn ngày tốt trao rìu búa.
Vua đi vào cửa miếu, quay mặt về hướng tây mà đứng,
tướng quay mặt về hướng bắc mà đứng.
Vua tự cầm đầu rìu đưa cán cho tướng mà nói
rằng: Từ đây cho tới trời, tướng quân hãy lo chế
ngự.
Rồi cầm cán búa đưa lưỡi búa cho tướng mà
nói rằng: Từ đây cho tới vực thẳm, tướng quân
hãy lo chế ngự.
Tướng nhận búa rìu lạy tạ mà trả lời Vua : Hạ
thần nghe rằng việc nước không thể theo ngoài, trị
quân không thể theo trong. Hai lòng không thể
thờ vua, chí khí chia lìa không thể ứng
phó với địch quân. Thần đã chịu mệnh, cầm
rìu búa, không dám sống mà trở về.
Mong Vua ban cho thần một lời nói trao mệnh, nếu Vua không
chịu thần không dám làm tướng.
Làm như thế thì trên không có trời.
dưới không có đất, ở trước mặt không có địch,
ở sau lưng không có Vua.
52.- DÙNG TƯỚNG :
Đời sau dùng người không được như thế. Nghị bàn một
người mà phần thi hành về một người khác. Như thế
người nghị bàn không biết sự khó khăn của người thi
hành mà chỉ nói lý thuyết cao siêu.
Người thi hành muốn tuân thụ ý của người nghị
bàn nhưng không hợp với thời cơ. Thậm chí có
khi một người thi hành mà có tới mấy chục người
nghị bàn. Ở giữa kẻ hiền và người gian lẫn lộn, kẻ thương
và người ghét đều theo ý riêng của
mình mà nói. Kẻ thương tuy ít mưu nhưng
cũng phụ hội mong cho thành. Kẻ ghét tuy mưu hay những
tìm nhiều cảnh để khuấy rối. Không biết liệu lường địch
yếu hay mạnh như thế nào mà cứ cho rằng đánh
ít thì thắng ít, đánh nhiếu thì
thắng lớn. Không hỏi thời thế khó dễ như thế nào
mà thấy quân nghỉ ngơi thì buộc tội trì
hoãn, thấy quân giữ vững thì buộc tội biếng
nhác. Kẻ thi hành liếc trái, nhìn phải,
muốn đánh hay giữ, tới hay lui, đều không tự chủ được.
Đến khi có mười cỗ xe nguyên nhung chưa kịp đi mà
quan trên đã ban lệnh rối rít, mệnh lệnh trong
quân đã định mà bọn áo gấm ngồi cao
đã tới làm rộn, việc đem sĩ tốt ra mà đánh
hay đem tướng ra mà đánh đều do bọn nghị bàn đề
xướng tất cả. Các đời Đường, Tống, Minh đều thất bại vì
nạn nói trên, đời Tống vấp nặng mà đời Minh lại
càng nặng hơn nữa.
Kẻ luận việc đời Tống nói rằng : Nếu chỉ bàn suông
mà thành công, thì ai bàn ít
mà rõ việc, đó là kẻ sáng suốt trong
thiên hạ. Không chết vì tay giặc cướp mà chết
vì tay người nhà, không chết ở nơi biên cương
mà chết vì kẻ can gián ngồi cao, điều tệ hại ấy
sinh ra do những người chỉ lo làm mà không chịu
luận bàn. Trái lại đối với những kẻ chỉ bàn
suông mà không làm thì họ cứ
bàn luận phân vân như tơ vò không thể
gỡ rối. Xét lại việc xưa nay, Hán Tuyên Đế sử
dụng
Triệu Sung Quốc, là biết phép
dùng
tướng vậy.
ĐẠO LÀM TƯỚNG
53.- CẨN MẬT :
Biến động là nguồn gốc của kỳ chính, gặp việc
chẳng hé môi, dùng binh chẳng nói năng. Cho
nên khi có việc, không gì hơn được trước,
khi
động
không
gì
hơn
kín lặng, khi
dùng không gì hơn bất ngờ, khi lập mưu
không gì bằng đừng cho ai biết.
54.- HƯ THỰC :
Kẻ thắng trước thì trước hết tỏ ra mình yếu hơn địch cho
nên sĩ số chỉ bằng nửa mà sức đánh gấp bội địch.
Cho nên chưa thấy thắng mà đã đánh, dầu
đông quân cũng sẽ thất bại. Kẻ đánh giỏi ở yên
thì không lộn xộn, thấy thắng được thì dấy binh
đánh, thấy không thắng được thì dừng lại.
Ngày xưa kẻ giỏi dùng binh trong lòng muốn như thế
nhưng tỏ ra ngoài rằng mình không muốn như thế,
khiến cho địch ngờ rằng mình không muốn như thế, để thi
hành ý muốn của mình đúng như thế,
đó là phép vi diệu, để phá quân, bắt
tướng, hàng thành, phục ấp. Bây giờ nếu ý
muốn chẳng phải thế, thì làm ra vẻ muốn như thế, khiến
cho địch ngờ rằng mình muốn như thế, để mà thi
hành ý muốn riêng của mình, đó
là phép vi diệu để phá quân, bắt tướng,
hàng thành, phục ấp. Cho nên việc bày ra
ngoài là ảnh. Cho nên làm ra cho người thấy,
nhưng không có ý ấy, thì trong ảnh lại
có ảnh hiện ra. Hai gương cùng treo soi nhau, đã
sâu kín lại càng sâu kín.
Địch sắp đặt mưu kế mà ta phá hoại được, địch toan đoạt
lợi ta mà ta ngăn chặn được, ắt là cơ trí của địch
phải thất bại. Chúng giả vờ khêu chọc ta để đánh
úp ta, ta phá được. Chúng giả phô trương, ta
phá được. Chúng giả đánh, ta phá lực lượng
của chúng. Chúng dẫn dụ lừa dối ta, ta phá hỏng
mưu mô của chúng. Hoặc ta dùng cách giả
trá để phá chúng, hoặc ta dùng cách
tín thực để phá chúng. Hư thì
không thực, giả trá thì không tạo
công. Thực thì không hư,
thành việc thì được kết quả. Vận hành ở đất
không có, lay chuyển ở mối đầu đứng yên. Sâu
kín tối tăm. Địch muốn làm nhưng chẳng lo toan được. Địch
muốn mưu đồ nhưng chẳng có tâm trí để làm
việc ấy, đó là sự thần diệu của cách biến
hóa hư không vậy.
55.- XỬ THẾ :
Bỏ mình để báo ơn Chúa mà không khiến
được sĩ tốt đồng lòng cùng chết, như thế chẳng phải
là tướng giỏi thành công. Cùng sĩ tốt ăn
uống mà về sau quên lúc đói khát
trên ngựa. Cùng sĩ tốt hưởng bổng lộc mà về sau
quên việc xông pha nguy hiểm. Cùng sĩ tốt thức ngủ
nhưng về sau quên việc đánh dẹp gian lao. Lo điều lo của
sĩ tốt, cùng chịu điều khổ của sĩ tốt, những về sau quên
vết thương tên bắn. Việc đã xong thì tình
phải tròn. Cho nên chiến đấu là điều trọng yếu,
chịu thương tích chết chóc là phận sự, xông
pha gươm dáo, tranh đi trước người là nhiệm vụ, nhưng nếu
không biết đường lối thì đó là việc nguy
hiểm. Kẻ quên mình ở hoàn cảnh nguy hiểm mà
lại vui vẻ được, kẻ ấy sẽ ăn vật độc như ăn kẹo.
56.- CHIẾN LƯỢC :
Đem binh uy hiếp chỗ mà thiên hạ không biết, chế ngự
chỗ mà thiên hạ không dám cựa, đánh
vào chỗ mà thiên hạ không thể giữ, trấn giữ
chỗ mà thiên hạ không dám đánh, chạy
vào chỗ mà thiên hạ không thể chống cự, rời
bỏ chỗ mà thiên hạ sẽ không đến. Ta trấn nhiếp chỗ
nào thì thị uy ở chỗ ấy khiến cho địch chưa dùng
binh mà đã sợ ta. Đến khi dùng binh mà địch
không chống nổi ta thì bởi chúng đã một lần
sợ ta rồi nên ngàn năm chúng cũng sẽ sợ tài
của ta.
57.- THẾ CHỦ ĐỘNG :
Tới lui đánh giữ đều do nơi ta, đó là có cơ
đánh thắng. Do ta thì ta chế ngự được địch, do địch
thì bị địch chế ngự. Ta muốn chế ngự địch mà dầu địch
không muốn cũng không cưỡng lại được, đó là
do ta sắp đặt khiến cho phải được như thế.
58.- TÁNH TỰ NHIÊN :
Tự tánh thì chẳng có gì mà chẳng
chứa đựng. Quen làm một việc lâu ngày ắt là
đem dùng được tự nhiên. Cho nên kẻ giỏi dùng
binh thì chẳng thấy gì ngoài việc binh, chẳng luận
đàm gì ngoài mưu lược, chẳng trị chỗ nào
mà không biến hóa xen trộn. Đó là khi
thấy việc biến xẩy tới thì chẳng cần chờ an bài
bèn tính toán so đo để trong mọi việc kinh dinh
chẳng có điều gì mà không hoà hợp, ổn
thỏa. Trời tự nhiên mà vận hành, đất tự nhiên
mà ngưng tụ. Việc binh thi hành tự nhiên cho
nên chẳng bao giờ mà không thắng.
59.- THÁNH ĐẠO :
Dùng mưu trí để hàng phục thiên hạ
mà thiên hạ chịu khuất phục mưu trí của mình
thì mưu trí ấy cũng chưa phải là tối thắng.
Dáng hình pháp để chế ngự thiên hạ,
mà thiên-hạ chịu theo hình pháp thì
hình pháp ấy cùng chẳng có gì hay.
Dưới mưu trí hay hình pháp đều chẳng phải
là điều hay nhứt trong những điều hay. Ngày xưa
Thánh Võ giữ thế mà chẳng vây thành,
chẳng đánh lũy chẳng bày trận, đó là nhờ
nương náu ở chỗ hư không và dựa vào
chỗ ít oi.
Un đúc trong thế không tranh mà được vậy.
Sâu xa trong sạch, tang tình tang... (*)
(*) Nguyên văn trong bản scan,
có lẽ do thiếu sót trong việc in ấn ...
60.- TIẾT CHẾ :
Ngày xưa, Vua Đường Thái Tôn hỏi Lý
Tịnh rằng:
- Hiện nay, về tướng súy chi có Lý
Tích, Đạo Tông và Tiết Vạn Triệt.
Nhưng trừ Đạo Tông là chỗ thân thuộc để riêng
ra ngoài, thì ai có thể kham được việc lớn?
Lý Tịnh đáp:
- Bệ hạ thường nói Lý Tích và Đạo
Tông dùng binh không thắng lớn mà cũng
không thua to. Còn Vạn Triệt nếu không thắng lớn
thì phải thua to. Nhân nghe thánh ngôn của Bệ
Hạ, thần cạn nghĩ rằng: Không cần thắng lớn mà cũng
không thua to đó là binh có tiết chế.
Nếu
chỉ
một
là
thắng
lớn,
hoặc
một
là
thua
lớn,
thì
đó
chỉ
là
may mắn mà được thành
công. Cho nên Tôn Võ nói rằng:
Tướng đánh giỏi luôn luôn đứng vào thế
không thua nhưng không bỏ lỡ cơ hội đánh bại
quân địch. Đó là nhờ sự tiết chế ở nơi ta vậy.
61.- CÁC ĐIỀU CHỦ YẾU TRONG BINH PHÁP:
Vua Đường Thái Tôn hỏi Lý Tịnh
rằng:
- Trong binh pháp, những điều thâm yếu nhất là
gì?
Lý Tịnh đáp:
- Thần thường chia ra ba bậc để cho học giả nghiên cứu dần dần.
Thứ nhất là đạo
Thứ hai là trời đất
Thứ ba là tướng pháp
Lý thuyết về đạo rất là tinh vi. Điều mà dịch học
gọi là thông minh, duệ trí, thần võ nhưng
không
cần
phải
giết
người,
chính
là
cái
ấy.
Lý thuyết của trời là âm dương, lý
thuyết của đất là khó dễ. Kẻ dùng binh
có thể lấy âm, đoạt dương, lấy khó
đánh dễ. Mạnh Tử gọi
thiên thời, địa lợi, chính là cái ấy.
Lý thuyết của tướng pháp là dùng người,
dùng vật cho có hiệu quả. Sách Tam Lưọc nói
được
kẻ
sĩ
là
tốt,
Quản Trọng nói đồ sắc
bén, bền bỉ, chính là cái ấy.
62.- SÁCH LƯỢC:
Vua Đường Thái Tôn nói: Tuy nhiên, ta
cho rằng không đánh mà khuất phục được binh của
người, đó là thượng sách. Trăm đánh
trăm thắng là trung sách. Đào hào
sâu, đắp lũy cao để tự phòng thủ là là hạ
sách. Lấy ba bậc ấy cũng có thể so sánh với ba
bậc trong sách của Tôn Võ.
Lý Tịnh đáp: Xem văn và
xét việc cũng thấy có chỗ sai biệt. Trương Lương,
Phạm Lãi, Tôn Võ bỗng nhiên đi biệt
tích, không biết là đi đâu, nếu không
phải là hạng người biết đạo, thì sao có thể
làm được như thế? Như Nhạc Nghị, Quản Trọng, Gia Cát
Lượng đánh thì thắng, giữ thì vững, nếu
không biết xét thiên thời, địa lợi thì sao
có thể làm được như thế? Sau nữa Vương Mãnh giữ
nhà
Tần, Tạ An giữ nhà Tần, nếu
không biết dùng tướng súy, chọn nhân
tài đề giữ gìn hoàn bị, sao có thế
làm được như thế? Cho nên người học tập về binh
pháp, trước hết đi từ bậc dưới, để tiến lên bậc giữa,
rồi
từ
bậc
giữa tiến lên bậc trên, ắt
là dần dần có thể đi tới chỗ sâu xa. Nếu
không làm như thế thì chỉ là nói
suông, dầu có chép và đọc tụng cũng vô
ích, không thể dùng được vậy.
Vua Thái Tôn nói: Các đạo gia rất kỵ
việc ba đời làm tướng, nên không dám truyền
bừa bãi mà cũng không dám truyền, khanh
nên cẩn thận về chỗ ấy.
Lý Tịnh lạy tạ mà lui về, truyền hết
sách binh pháp cho Lý Tích.
63.- ĐỨC TÍNH:
Binh ở chốn chiến trường, đứng vào nơi chết chóc, quyết
chết thì được sống, cầu sống thì phải chết. Người tướng
giỏi giống như đứng trên thuyền thủng đáy, nằm dưới
nhà đang cháy, hoàn cảnh ấy khiến cho kẻ có
cơ trí cũng không kịp mưu tính được gì, kẻ
dõng cảm cũng không kịp nổi giận, như thế mới có
thể chống cự với quân địch. Cho nên trong các điều
hại của sự dụng binh, sự do dự là lớn nhất, tai nạn của
ba qua sinh ra do sự hồ nghi.
Cho nên năm điều hay giỏi của tướng súy là:
Thứ nhất: sửa trị
Thứ hai: phòng bị
Thứ ba: quả cảm
Thứ tư: kỷ luật (giới cấm)
Thứ năm: giản ước.
Biết trị yên thì có thể trị nhiều người
giống như trị ít người.
Biết phòng bị thì đi ra cửa giống như đi gặp
địch.
Có tính quả cảm thì khi gặp địch, chẳng
còn cầu sống.
Biết khép vào kỷ luật thì khi gặp nguy
nan, cũng giống như lúc bắt đầu đánh.
Có tính giản ước thì ban pháp lệnh
rõ ràng mà không phiền phức.
Khi chịu mệnh rồi, nguời tướng không kịp từ giã gia
đình, phá địch xong rồi mới nói chuyện trở về,
đó là lễ nghi của tướng súy.
Cho nên ngày ra binh, chỉ mong chết vinh mà
không cầu sống nhục.
64.- THAM MƯU:
Việc binh có bốn quân cơ:
Thứ nhứt: khí cơ
Thứ nhì: đia cơ
Thứ ba: sự cơ
Thứ tư: lực cơ
Quân dầu có ba cánh, đông tới trăm vạn, mọi
việc sắp bày to hay nhỏ đều do ở một người: đó là khí
cơ.
Đường sá chật hẹp, hiểm trở, núi cao bít nghẽn,
một người trấn giữ có thể ngăn chận một ngàn người
không qua được, đó là địa cơ.
Khéo sắp đặt việc gián điệp khiến khinh binh lui tới
phân tán kắp nơi, khiến cho vua tôi oán nhau,
trên dưới đổ lỗi cho nhau, đó gọi là sự cơ.
Biết rõ bốn điều ấy, có thể làm tướng súy
được.
( *)
65.- NGHIÊM CHỈNH:
Chiêng trống phải làm cho tai khiếp uy
Cờ xí phải làm cho mắt khiếp uy
Cấm lệnh, hình phạt phải làm cho tâm khiếp uy
Âm thanh làm cho tai khiếp uy thì không thể
không trong trẻo.
Màu sắc làm cho mắt khiếp uy thì không thể
không sáng.
Hình pháp làm cho lòng khiếp uy thì
không thể không nghiêm.
Ba điều ấy mà không hẳn hoi đúng đắn thì dầu
được nước cũng sẽ bị địch đánh bại.
Cho nên mới nói rằng: Tướng vẫy tay về phía
nào, thì không thể không đi theo phía
ấy, tướng chỉ tay vào nơi nào thì không thể
không tới nơi ấy mà chết.
66.- UY QUYỀN VÀ TÀI ĐỨC:
Kẻ làm tướng, trời không chế ngự được, đất không chế
ngự được, người không chế ngự được, không thể chọc giận,
không thể dùng của cải mua chuộc. Lòng nóng
giận, tai điếc mắt mù, lấy ba cái ấy để dẫn dắt người,
điều ấy thực là khó.
67.- XỬ THẾ:
Các điều gian lao của quân đội, tướng súy phải nếm
trải trước đã. Trời nắng không che lọng, trời lạnh
không mặc áo cầu dầy, gặp chỗ đường khó thì
xuống đi chưn; giếng nước trong quân đào xong, tướng mới
được uống nước; cơm của lính nấu chín rồi, tướng mới được
ăn; lũy trong quân xây xong rồi tướng mới được nghỉ; khi
cực nhọc hoặc khi nhàn hạ, tướng phải cùng sống với
quân lính: như thế tuy dùng binh lâu
ngày mà quân đội vẫn mạnh mẽ, hăng hái.
68.- KHINH VÀ SỢ:
Dân không thể có hai ý. Sợ ta thì
khinh địch, sợ địch thì khinh ta. Thấy bị khinh thì bại,
giữ được uy thì thắng. Nếu một tướng súy hiểu rõ
nguyên tắc ấy thì các lại sĩ sợ tướng ấy lắm.
Lại sĩ sợ tướng, thì sĩ tốt sợ lại sĩ và quân địch
sẽ sợ sĩ tốt của ta.
Cho nên muốn biết phép thắng bại thì trước hết phải
biết cân nhắc hai viêc khinh sợ.
69.- UY NGHIÊM VÀ ÂN HUỆ:
Nếu lòng người chẳng vui thuận thì ta không thể sai
khiến họ, nếu lòng người chẳng uy nghiêm thì ta
không thể thành công. Dưới thương yêu
thì thuận, trên uy nghiêm thì ngay thẳng.
Thương yêu thì không ngay thẳng, uy nghiêm
thì không xúc phạm. Cho nên bậc tướng giỏi
chỉ lo hai việc thương yêu mà lập uy
mà thôi.
Uy nghiêm nhờ không đổi,
Ân huệ bởi kịp thời
Cơ trí nhờ ứng biến
Đánh được nhờ trị khí
Công hãm nhờ ý bày
Giữ kỹ nhờ sắp ngoài
Không lầm nhờ tính số
Không nguy nhờ dự bị
Cẩn thận do sợ nhỏ
Trí dũng nhờ coi lớn
Trừ hại do dám giết
Được người nhờ người dưới
Khinh lờn bởi dùng ngờ
Ác nghiệt tại hay giết
Thiên lệch bởi lo riêng
Chẳng lành vì nghe ác
Quá độ vì lấy hết của dân
Không sáng vì nghe can gián
Không đủ vì dấy bừa
Cạn hẹp vì xa hiền
Mang họa bởi tham lợi
Mang hại vì gần người thấp
Mất vì không có chỗ giữ
Nguy khốn bởi không hiệu lệnh
70.- NHÂN NGHĨA:
Khi dùng binh, không được đánh thành
không lỗi, không được giết người vô tội.
Giết cha mẹ, anh em của người, bắt con cái của người làm
tôi tớ hầu thiếp, đó là cướp bóc. Cho
nên việc binh chỉ là trừ bạo dẹp loạn, ngăn chận điều bất
nghĩa. Tại nơi dùng binh, nhà nông không bỏ
ruộng, kẻ mua bán không rời chợ, kẻ sĩ đại phu không
rời nơi quan phủ. Sở dĩ các điều ấy được thực hiện, đó
là nhờ việc điều binh chỉ do tay một người. Nhờ đó
dùng binh không đổ máu mà lại được
thiên hạ thương yêu.
71.- GIẾT VÀ THƯỞNG:
Giết là để làm sáng tỏ
võ đức. Giết một người mà làm ba quân chấn
động, giết một người để muôn người làm điều lành
thì nên giết.
Khi giết nên giết người lớn, khi thưởng nên
thưởng
người
nhỏ,
nếu
đáng
giết
dầu
là
người
cao
quý
cũng
giết,
đó
là
phép tra xét
người trên của hình pháp. Thưởng cho đến kẻ chăn
trâu cắt cỏ, đó là cách thưởng kẻ hạ lưu.
Có thể tra xét người trên, tưởng thưởng kẻ dưới,
đó là võ đức của tướng súy, cho nên
bậc chúa loài người thường trọng tướng.
72.- UY QUYỀN:
Kẻ làm tướng, trên chẳng bị ngăn bởi trời, dưới chẳng bị
ngăn bởi đất, giữa chẳng bị ngăn bởi người. Cho nên việc binh
là việc dữ, kẻ nào tranh giành thì hại đức.
Tướng là hạng quen giết người cho nên bất đắc dĩ mới
dùng tướng.
Trên chẳng có trời, dưới chẳng có đất, sau lưng
chẳng có vua, trước mặt chẳng có địch. Binh của một người
như cọp như sói, âm thầm, rung chuyển, thiên hạ đều
phải sợ sệt.
73.- BIẾN HÓA:
Binh thắng giống như nước. Nước là vật rất mềm yếu, nhưng ở
trên chỗ gò núi hóa thành băng
đá chẳng khác khi chuyên nhất thì sắc
bén như gươm Mạc Tà, cứng nhọn như sừng tê.
Hình tượng của ba quân nếu biết biến hóa theo
phép kỳ chính thì thiên hạ
không thể chống cự lại.
74.- NHÂN HÒA:
Cho nên mới nói rằng: Dùng kẻ hiền thì
không cần chọn ngày giờ mà chỉ cần lợi ích.
Pháp luật sáng suốt, hiệu lệnh đắn đo thì
không cần bói toán, công việc cũng sẽ tốt
lành. Biết quí trọng công lao thì
không cần cầu đảo cũng được phước may.
Lại có nói: Thời trời chẳng bằng đất lợi, đất lợi chẳng
bằng người hòa. Các thánh xưa chỉ biết thận trọng
nhân sự mà thôi.
75.- TỔ QUỐC TRÊN HẾT:
Ngày chịu mệnh tướng liền quên nhà, kéo
quân đóng trại thì quên người thân, cầm
dùi đánh trống thì quên mình.
76.- PHÒNG NGỪA:
Khi Ngô Khởi ra trận, hai bên tả hữu dâng
kiếm. Khởi nói rằng: Tướng chỉ trông coi cờ
trống, gập nguy nan thì quyết đánh, lo điều khiển ba
quân, đó là việc của tướng. Chỉ cầm một thanh kiếm,
đâu phải là việc của tướng.
Cho nên kẻ biết đạo ắt trước hết phải lo liệu, chẳng chịu thất
bại về sự không biết ngăn ngừa. Điều xấu là ở chỗ kẻ
có công nhẹ dạ tiến lên cầu đánh. Quân
địch lo liệu ngăn ngừa ta, ta tới thì bị địch chế ngự. Cho
nên binh pháp nói rằng: Cầu có mà
theo, thấy có thì giúp vào nên chủ
nhân chẳng dám chống cự, nếu xúc phạm thì bị
đánh tan.
77.- MƯU TRÍ:
Lời nói bừa bãi, không cẩn thận thì sự phạm
thượng không thể ngăn ngừa. Nước lụt, sấm sét có
thể làm cho ba quân loạn lạc. Bấy giờ phải dùng mưu
trí để trị yên, dẹp loạn. Thảo luận tại miếu đường để
tìm kế hay. Luận việc trao mệnh để thêm long trọng. Luận
cách khắc phục gian nan để thêm sắc bén. Như thế
có thể đánh thắng nước địch và hàng phục
họ.
78.- CHÂM NGÔN:
Việc binh có năm điểu cần nhớ:
- Làm tướng thì quên nhà
- Xông pha nguy hiểm thì quên người thân
- Đánh địch thì quên mình
- Quyết chết thì được sống
- Thắng gấp là hạ sách
*
* *
Trăm người mang đủ khí giới có thể hãm trận;
Ngàn người mang đủ khí giới có thể bắt địch giết
tướng;
Muôn người mang đủ khí giới có thể hoành
hành giữa thiên hạ.
*
* *
Chuyên nhất ắt thắng;
Ly tán ắt bại;
Trận dày kín thì vững chắc;
Tiên phong thưa thì thông suốt;
Lính sợ địch hơn sợ tướng mình thì bại.
Sở dĩ biết thắng bại là nhờ so sánh tướng nhà với
quân địch. Tướng nhà và quân địch cũng giống
như cân và quả cân vậy.
Yên tĩnh thì trị.
Dĩ gấp thì loạn.
79.- SÁU ĐỨC:
Người xưa đuổi giặc không quá trăm bước, treo cờ xí
không quá hai xá (*),
đó là bày tỏ đức lễ. Không dồn kẻ
yếu vào thế cùng và thương xót người kẻ bị
thương tích và bệnh tật, đó là bày
tỏ đức nhân. Thành thực tỏ bày ra,
đó là làm sáng tỏ đức tín.
Giành nhau điều nghĩa mà chẳng giành nhau
điều lợi, đó là bày tỏ đức nghĩa.
Lại có thể cởi áo ra, đó là bày tỏ
lòng dũng cảm. Biết đầu biết đuôi, đó
là bày tỏ trí tuệ. Đem sáu đức ra
mà khuyên dạy cho hợp thời để làm giềng mối cho
dân chúng, đó là phép chánh
trị của người xưa.
(*) Xá: ba mươi dặm.
80.- TRIỀU ĐÌNH VÀ QUÂN NGŨ:
Thời xưa những kẻ dung túng trong triều đình không
được vào quân ngũ, những kẻ dung túng trong
quân ngũ không được vào triều đình. Những kẻ
dung túng trong quân ngũ được vào triều đình
thì đức hạnh của nhân dân bị hư hoại. Nếu những kẻ
dung túng trong triều đình được vào quân ngũ
thì quân ngũ sẽ yếu ớt.
Cho nên trong nước, ngôn ngữ văn nhã và
ôn hòa, tại triều mọi người đều cung kính
khiêm tốn, lo sửa mình để đối xử với mọi người. Mọi người
không được triệu thì không tới, không được hỏi
thì không nói, khó tới dễ lui.
Trong quân lữ kháng chiến vững vàng, trong
hàng ngũ thi đua hăng hái. Mặc quân phục, mang
giáp trụ thì không lạy, ngồi trên binh xa
thì không làm lễ, canh giữ ở trên
thành thì không bỏ chạy, gặp cảnh nguy nan
thì không tỏ ra yếu hèn.
Cho nên ng hi lễ và quân pháp
là bề ngoài và bề trong, văn và võ
là tay mặt và tay trái.
81.- LÒNG NGƯỜI, SỨC MẠNH, TẬP LUYỆN, CHIẾN ĐẤU:
Lòng của tướng và lòng của quân sĩ là
lòng của ta. Lính, xe, trâu, ngựa khỏe khoắn no đủ
đó là sức mạnh. Việc răng dạy cốt là dự
phòng, việc chiến đấu cốt là tiết độ. Tướng
quân là thân mình, sĩ tốt là tay chưn,
hàng ngũ là các ngón.
82.- THỜI TRỜI, TÀI SẢN, TÀI NĂNG:
Muốn chiến đấu phải được thời trời, phải có tài
sản, phải thực khéo giỏi.
Ngày giờ chẳng sai chệch, bói được quẻ tốt và
hành động kín nhẹm, đó là được thời trời.
Dân chúng có đủ, nhờ có đủ mà
làm điều tốt lành, đó là có tài
sản.
Người được luyện tập, trận bày sắc bén, sắp đặt
các việc hết mức để dự bị, đó là khéo
giỏi.
83.- GÁI TƠ VÀ THỎ:
Lúc đầu binh giống như gái tơ, nhưng về sau khi
địch mở cửa thì chạy lẹ như thỏ, địch không kịp
chống cự.
84.- TINH THẦN:
Người người đều ngay thẳng, lời lời đều nóng bỏng như lửa.
85.- PHƯƠNG CHÂM DÙNG BINH:
Chiến xa lấy sự dày kín làm kiên cố,
lính bộ lấy sự ngồi giữ làm vững chắc; giáp trụ
lấy sự nặng nề làm bền bỉ; binh lấy sự nhẹ nhàng
làm ưu thắng.
Gửi thư từ để kết thân giao hay tuyệt giao, đó gọi
là lo tính đến cùng cực (dứt lo nghĩ); chọn binh
tốt hay xấu, đó gọi là làm người thêm mạnh;
bỏ hay dùng, cho ăn hay bắt nhịn, đó gọi là
dò ý người: đó là phép chánh
trị của thời xưa.
86.- NĂM ĐIỀU KIỆN:
Phép dùng binh buộc năm điều kiện: nhân
ái, tín thực, trí mưu, dõng cảm, uy
nghiêm, thiếu một điều cũng không thể được.
87.- BA THẾ:
Việc hành binh có ba thế lớn: một là trời,
hai là đất, ba là người.
Thế trời là trời trăng trong sáng,
năm sao đúng độ, sao chổi không sinh, thời tiết điều
hòa.
Thế đất thuận lợi là thành cao, bờ
dốc, nước rộng ngàn dặm, cửa đá, động hẹp, đường đi
khúc khuỷu như ruột dê.
Thế người là chúa thánh,
tướng hiền, ba quân giữ lễ, sĩ tốt tuân mệnh, lương thực
và giáp trụ đầy đủ, chắc chắn.
Tướng giỏi thì nhân thời trời,
dùng thế đất, dựa vào lợi người, cho nên hướng
vào nơi nào địch cũng không đánh lại được,
đó là nhờ hoàn toàn vậy.
88.- NĂM TÀI VÀ MƯỜI LỖI:
Tướng có năm tài và mười lỗi.
- Năm tài ấy là dũng, trí, nhân,
tín, trung.
Dũng thì không để cho ai xúc
phạm mình.
Trí thì không rối loạn.
Nhân thì thương dân.
Tín thì không lừa dối.
Trung thì không hai lòng.
- Mười lỗi là:
Dõng cảm mà khinh chết.
Làm gấp rút mà lòng nôn nóng.
Tham lam mà mong lợi.
Nhân ái mà bất nhẫn.
Có mưu trí nhưng lòng khiếp sợ.
Tín thực nhưng hay tin người.
Có tánh liêm khiết nhưng chẳng thương người.
Có mưu trí nhưng lòng trễ biếng.
Có tánh cương nghị nhưng cậy mình.
Có tánh nhu nhược mà thích dùng
người.
Dõng cảm mà khinh chết thì có trở nên
hung dữ.
Làm gấp mà lòng nôn nóng thì
có thể bị làm chậm trễ.
Tham lam mà mong lợi thì có thể hối lộ (đút
lót).
Nhân ái mà bất nhẫn thì có thể khuấy
nhọc.
Có mưu trí nhưng lòng khiếp sợ thì
có thể dồn vào chỗ cùng quẫn.
Tín thực mà hay tin người thì có thể bị lừa
dối.
Liêm khiết mà không thương người thì
có thể bị khinh lờn.
Có mưu trí nhưng lòng trễ biếng thì
có thể bị đánh úp.
Cương nghị nhưng cậy mình thì có thể thờ người.
Nhu nhược mà thích dùng người thì có
thì có thể bị lấn hiếp.
89.- DÙNG NGƯỜI:
Phải biết sử dụng những kẻ có mưu trí, những kẻ
dõng cảm, những kẻ tham lam, những kẻ ngu ngốc.
Những kẻ mưu trí thì thích lập công.
Những kẻ dõng cảm thích thực hành chí hướng
của mình.
Những kẻ tham lam thích chạy theo lợi lộc.
Những kẻ ngu ngốc không nhìn thấy cái chết.
Tùy theo tánh tình của mỗi người mà
dùng họ, đó là phép dùng người vi
diệu của quân lữ.
90.- TÁM ĐIỀU TỆ HẠI:
Trong nghề làm tướng có tám điều tệ hại:
Thứ nhứt: Tham lam cầu mong không biết
chán
Thứ hai: Ghen ghét kẻ hiền tài
Thứ ba: Tin kẻ dèm pha, ưa kẻ nịnh
hót
Thứ tư: Liệu lường về người mà chẳng liệu
lường về mình
Thứ năm: Do dự mà không quyết định
được
Thứ sáu: Mê say rượu ngon, sắc đẹp
Thứ bảy: Thích việc dối trá nhưng
lòng hãi sợ
Thứ tám: Nói năng bừa bãi
mà chẳng giữ lễ nghi.
91.- PHẨM CÁCH CỦA TƯỚNG SÚY:
Người tướng có nhiệm vụ nguy hiểm, bởi vì nhiệm vụ quan
trọng ắt phải nguy hiểm. Cho nên người tướng giỏi không ỷ
mạnh, không cậy thế, được thương yêu mà không
mừng, bị lăng nhục mà không sợ hãi, thấy lợi
mà không ham, thấy rượu ngon sắc đẹp mà không
mê say, một lòng liều thân vì nước mà
thôi.
92.- ĐIỀU MONG ƯỚC:
Bốn điều mong ước là:
- Đánh thì mong dùng được kế lạ.
- Mưu đồ thì mong được kín nhẹm.
- Quân lính thì mong được yên tĩnh.
- Lòng người thì mong được chuyên nhất.
93.- TƯỚNG GIỎI:
Đức tánh của người tướng giỏi là: cứng rắn mà
không bị bẻ gẫy, mềm mỏng mà không bị vày
vò. Cho nên có thể dùng yếu để chống mạnh,
dùng mềm để chống cứng. Mềm mãi, yếu mãi
thì sẽ bị tước đoạt. Cứng mãi mạnh mãi thì
sẽ bị thất bại. Không cứng, không mềm, đó là
lẽ thường của đạo.
94.- HAI TÁNH XẤU: KIÊU CĂNG VÀ
BIẾNG NHÁC:
Người tướng không thể kiêu căng. Kiêu căng
thì thất lễ. Thất lễ bị người rời bỏ. Bị người rời bỏ thì
quân lính sẽ phản loạn.
Người tướng không thể biếng nhác, nếu biếng
nhác thì việc tưởng thưởng không được thi
hành chu đáo, sĩ tốt sẽ không hết lòng
vâng mệnh, quân đội sẽ không lập công, nước
nhà sẽ bị hư hoại, giặc cướp sẽ đầy rẫy.
Khổng Tử nói: Nếu có người tài giỏi như
ông Chu Công, nhưng kiêu căng và biển
lận thì kẻ ấy không dùng được, không cần
xét tới các đức tánh khác.
95.- NĂM ĐỨC TÍNH:
- Cao quý, trong sạch để khuyên đời
- Hiếu kính để nêu danh
- Tín nghĩa để giao du với bạn bè
- Nhân ái để dung người
- Hết sức để lập công.
Đó là năm đức tính của người tướng.
96.- TÁM VIỆC XẤU:
- Có mưu trí mà không phân biệt được
phải trái.
- Biết lễ nghi mà không dùng được bậc hiền lương.
- Làm chính trị mà không chỉnh đốn được
hình pháp.
- Giàu mà không cứu giúp được kẻ
nghèo.
- Có trí thức mà chẳng có thể chuẩn bị khi
việc chưa thành hình.
- Lo toan mà không phòng bị được việc nhỏ
kín.
- Khi thành đạt mà không thể tiến cử kẻ mà
mình biết khả năng.
- Thua mà không thể tự mình ngăn mình đừng
hủy báng.
Đó là tám việc xấu.
97.- KHINH NGƯỜI:
Kinh thư nói rằng: Khinh lờn người
quân tử thì không thể được lòng hết mọi
người, khinh lờn kẻ tiểu nhân thì không thể
dùng hết người.
98.- PHÉP DÙNG BINH:
Điều cốt yếu trong việc dùng binh là: cầm nắm lòng
dạ của mọi anh hùng, thi hành nghiêm chỉnh việc
thưởng phạt, bao gồm nghề văn nghiệp võ, kiêm cả hai thuật
cứng mềm, xem hết các thuyết lễ nghĩa, trước dùng đức rồi
sau mới dùng võ lực, yên tĩnh như cá lặn, di
chuyển mau lẹ như con rái cá, phá tan chỗ
kín liền của giặc, bẻ gãy chỗ mạnh của giặc, dùng
cờ xí rực rỡ, ban hiệu lệnh bằng chiên trống, lui như
núi dời, tiến như gió mưa, dấy binh như xuống dốc,
đánh mạnh như cọp dữ, bức bách nhưng dung nạp địch, lấy
lợi để dụ địch, dùng lễ để giữ địch, tự hạ mình để địch
sinh kiêu căng, kết thân để ly gián địch, làm
cho ta thêm mạnh, mà trái lại làm cho địch
suy yếu.
99.- CHÁNH TRỊ CỦA TƯỚNG SÚY:
Ai bị nguy khốn thì làm cho họ yên ổn, ai sợ sệt
thì làm cho họ vui lòng, ai phản nghịch thì
đem họ trở về, ai bị oan ức thì giải cứu họ, ai cường thắng
thì đè nén họ, ai yếu đuối thì nâng
đỡ họ, ai nhiều mưu kế thì gần gũi họ, ai dèm pha
thì lật tẩy họ, ai được của cải thì cho họ, không ỷ
sức mạnh mà khinh địch, không cậy giầu có để tỏ vẻ
kiêu ngạo đối với người, không cậy được yêu mến để
thị uy, tính toán trước rồi sau mới dấy binh, biết chắc
thắng rồi sau mới đánh, được ngọc lụa không được
dùng làm của riêng, được con trai, con gái
không được tự sai dùng. Như thế, khi sửa trị và ban
bố mệnh lệnh mọi người đều tình nguyện chiến đấu, dùng
binh không đổ máu nhiều mà địch tự thất bại vậy.
100.- TAY CHÂN CỦA TƯỚNG SÚY:
Bậc tướng súy ắt phải có kẻ tay chân làm tim
bụng, có kẻ tay chân làm tai mắt,
có kẻ tay chân làm móng răng. Nếu
không có người làm tim bụng thì cũng giống
như người đi đêm không đuốc, không có người
làm tai mắt cũng giống như ở chỗ tối tăm không biết
cách vận động, không có người làm
móng răng cũng giống như người đói ăn vật độc không
thể nào khỏi chết. Cho nên người tướng giỏi phải có
những kẻ nghe rộng, nhiều mưu trí làm tim bụng,
phải có những kẻ trầm lặng, dò xét kỹ càng,
cẩn thận, kín đáo làm tai mắt, phải
có những kẻ gan dạ, mạnh dạn làm móng răng.
101.- TRÍ VÀ NGU:
Dùng ngu để chống trí là nghịch,
dùng trí để chống ngu là thuận,
dùng trí để chống trí là
có cơ mưu.
102.- BA CƠ HỘI:
Có ba đường lối:
- Thứ nhất là công việc;
- Thứ hai là thế lực;
- Thứ ba là tình cảm.
Cơ hội của công việc đã xẩy tới mà
không ứng biến được, là không có trí
thức.
Cơ hội của thế lực đã chuyển tới mà không
mưu đồ được là không có tài năng.
Cơ hội của tình cảm đã phát sinh mà
không thi hành được là không mạnh dạn.
Người tướng giỏi ắt nhân cơ hội mà xếp đặt để
thắng trận.
103.- LỀ LỐI:
Khi ra quân, phải có lề lối. Mất lề lối
thì phải gặp việc bất lợi. Lề lối có 15 thứ là:
Thứ nhứt: Biết lo liệu, nghĩa là rành rẽ về việc
gián điệp
Thứ hai: Biết nói, nghĩa là giữ gìn lời nói
Thứ ba: Mạnh dạn, nghĩa là đánh với số đông
mà không nhiễu loạn
Thứ tư: Liêm khiết, nghĩa là thấy lợi mà vẫn nghĩ
đến điều nghĩa
Thứ năm: Công bằng, nghĩa là thưởng phạt đều nhau
Thứ sáu: Nhẫn nhịn, nghĩa là giỏi chịu điều xấu
Thứ bảy: Khoan hồng, nghĩa là dung nạp người
Thứ tám: Tín thực, nghĩa là nhận lời một
cách khó khăn
Thứ chín: Cung kính, nghĩa là giữ lễ đối với
các bậc hiền tài
Thứ mười: Sáng suốt, nghĩa là không dung nạp
các điều sai lầm
Thứ mười một: Cẩn thận, nghĩa là không làm điều
trái lẽ
Thứ mười hai: Nhân ái, nghĩa là giỏi nuôi
dưỡng sĩ tốt
Thứ mười ba: Trung nghĩa, nghĩa là liều thân vì
nước
Thứ mười bốn: Giữ phận, nghĩa là biết dừng, biết đủ
Thứ mười lăm: Có mưu trí, nghĩa là tự lo cho
mình rồi sau lo cho người
104.- TƯỚNG LÀ GỐC:
Vả lại nước lấy binh làm gốc, binh lấy tướng là
gốc,
sĩ
tốt
lấy
tướng làm chủ. Bởi thế muốn có
binh mạnh để đánh thắng hoặc giữ vững thì trước hết phải
biết dùng tướng, tìm được người phò tá rồi
sau mới có thể thị uy giữa thiên hạ, làm cho mọi rợ
bốn phương phải tới hàng phục, đó là gốc lớn của
kẻ được nước.
105.- PHÒNG THỦ VÀ TẤN CÔNG:
Tướng chỉ biết dùng phép chính mà
không dùng phép kỳ, đó là
tướng phòng thủ.
Tướng chỉ biết dùng phép kỳ mà
không dùng phép chính, đó
là tướng chuyên về chiến đấu ( tấn công).
Tướng chuyên về kỳ hay chuyên về chính đều
có
thể
giúp
nước
được
cả.
106.- QUAN SÁT:
Khi dấy binh, lập dinh, đánh trận, hãy xem cờ xí
lay động thế nào, lắng nghe tiếng chiêng trống,
tính toán ngày giờ để xem điềm tốt xấu, tùy
theo cách chuyển vận của năm hành, tùy theo sự ra
vào của thần vị, để tùy cơ ứng biến mà dùng
binh.
107.- THIÊN TƯỚNG:
Nếu có bậc thiên tướng thì quân địch
không biết quân ta từ đâu mà tới, thực giống
như thần linh dùng binh. Quân ta không biết tướng ấy
làm gì. Tướng ấy động hay tĩnh đều có tiết độ
phương hướng, nắm sự thắng bại trong tay, thấy trước lòng dạ của
trời đất quỷ thần nên có thể làm cho binh sĩ
yên lòng.
108.- TƯỚNG CẦM NẮM HẾT THẢY:
Trong biên giới, việc của trăm họ đều giao cho tướng.
Ngoài biên giới, việc của nước ngoài cũng giao cho
tướng.
109.- KHÔNG CẦN DÙNG BINH:
Ngạn ngữ nói rằng:
Tướng văn, tướng võ hiểu rành việc nước
thì không cần dùng binh.
110.- ĐẠI TƯỚNG:
Biết mềm, biết cứng; tài hoa mà mạnh dạn; dõng cảm
mà mưu cao; tròn nên có thể vận chuyển; quay
về mà ngay thẳng; thông hiểu khắp muôn loài
mà lòng muốn giúp thiên hạ; người
thông thạo các điều trên có thể gọi là
bậc đại tướng.
111.- NƯỚC MẠNH HAY YẾU TUỲ THUỘC VÀO TƯỚNG
SUÝ:
Cho nên nói rằng: tướng súy là người
giúp nước, giúp chu đáo thì nước mạnh,
giúp sơ hở thì nước yếu. Dùng tướng ắt phải xem
dáng mạo, xét thần khí để biết lòng dạ như
thế nào.
Đặt làm vua cũng do nơi tướng, chọn người hiền tài để
trao quyền bính, cất nhắc mà chẳng nghi ngờ, tướng
súy ắt bên trong phải ứng biến cho ngay thẳng, bên
ngoài phải xử sự phải thuận mệnh. Ứng biến ngay thẳng thì
quân kỷ nghiêm minh, xử sự thuận mệnh thì bề
tôi giữ tròn trinh tiết, dấy binh chống địch há chả
là nạn chết chóc hay sao?
112.- TÀI NĂNG CỦA TƯỚNG SÚY:
Việc thành bại của quân lữ đều có thể trông
thấy ở người tướng, há là hành vi của người tướng
hay sao? Hành vi của người tướng là việc dùng.
Trí ngang với muôn người mà nếu không
dùng được muôn người thì cũng giống như kẻ ngu.
Võ dũng hơn ba quân thì cũng giống như kẻ yếu đuối.
Kẻ giỏi làm tướng thì đường đường chính
chính nhưng cũng biết biến hóa, cứng cỏi nhưng biết
thương người, nhân từ nhưng có thể chém giết, mạnh
dạnh nhưng hiểu biết rành rẽ, có đầy đủ kế sách để
chế ngự bọn lại sĩ, có thể lay chuyển mọi trở lực, lập được
công lao to tát để trừ họa, dẹp loạn.
113.- CHỌN TƯỚNG:
Quốc gia dùng binh, ban bố luật pháp, quyền sinh
sát đều ở trong tay đại tướng. Người tâm phúc của
nước nắm giữ vận mệnh của ba quân, đâu có thể tuyển
dụng bừa bãi được?
Nếu muốn trao mệnh cho tướng thì phải xem trước thử người tướng
có được chân thành hay không. Muốn biết
có được hay không, phải quan sát bốn điều:
Thứ nhứt là vẻ mặt.
Thứ hai là lời nói.
Thứ ba là cử động.
Thứ tư là việc làm.
Sách Vạn Cơ Chi nói rằng: Tuy có
quân đội trăm vạn, cũng phải kiếm cho được bậc tướng súy
nuốt địch rồi đem tất cả lợi khí của quốc gia mà trao cho
tướng ấy. Nếu không được người như thế, thì dùng
tướng cũng vô ích.
114.- TÁM LOẠI TƯỚNG SÚY:
Tướng súy có hai hạng lớn nhỏ, mỗi hạng có bốn
thứ. Nếu không thuộc vào tám loại ấy, sao
đáng gọi là tướng?
Bốn loại tướng bậc cao là:
- Thứ nhứt: Thiên tướng (xem mục số 107).
- Thứ hai: Địa tướng.
- Thứ ba: Nhân tướng.
- Thứ tư: Thần tướng.
Bốn loại tướng bậc thấp là:
- Thứ nhứt: Uy tướng.
- Thứ hai: Cường tướng.
- Thứ ba: Mãnh tướng.
- Thứ tư: Lương tướng.
115.- ĐỊA TƯỚNG:
Hạng địa tướng có các đặc điểm sau này:
Đến nơi nào thì quan sát địa lý kỹ
càng, núi đầm xa gần, rộng hẹp, khó dễ như thế
nào, rừng rú thưa dày như thế nào, khe lạch
sâu cạn như thế nào. Nếu xem tướng ấy chỉ huy, thì
khi chiến thắng, trước và sau không trở ngại, trái
và phải không ngưng trệ, lính bộ và
lính kỵ đi lại tiện lợi, qua và kích dùng
rất thích hợp, quân lính tới lui rất thuận
tình, người và ngựa không bao giờ bị cùng
khốn, công hay thủ đều được tiện lợi, hành quân
thì kiếm được vùng nhiều cỏ nước, người và ngựa
khỏi bị đói khát, dầu có rơi vào đất chết
cũng sống sót, gặp đất nghịch thì dùng thuận, gặp
đất thuận thì dùng nghịch, không cần chọn đất
khó hay đất dễ đều có thể yên ổn để hành
động về sau, hành động rồi thì quyết thắng đó
là hạng địa tướng.
116.- NHÂN TƯỚNG:
Hạng nhân tướng có các đặc điểm sau
này: Không tham tiền của, làm việc có tiết
độ, chẳng mê tửu sắc, giữ mình theo lễ, đem lòng
trung thờ bề trên, cùng chia xẻ vui buồn với sĩ tốt, đoạt
của cải của địch mà không dành riêng, bắt
được đàn bà con gái mà không giữ
riêng, dùng mưu mà biết dung hòa, nghi ngờ
mà quyết đoán, dõng cảm mà không
xúc phạm ai, nhân ái mà không bỏ luật,
trừng phạt tội nhỏ, tha thứ lỗi lớn, khi phạt tội không chừa kẻ
thân thuộc, khi thưởng công không chừa kẻ thù
địch, giúp đỡ người già nua, vỗ về trẻ thơ ấu, an ủi kẻ
sợ sệt, làm vui lòng kẻ lo buồn, phán xét
kẻ thưa kiện, tố cáo kẻ nhũng lạm, trừ dẹp bọn giặc cướp, ức chế
kẻ cường hào, che chở kẻ yếu đuối, sai khiến kẻ dõng cảm,
trừ giết kẻ ngang dọc, có kẻ đến hàng phục thì cho
làm lại chức cũ, ai mất thì trả lại cho họ, đuổi bỏ kẻ
vong bản, ban tước cho kẻ theo mình, kiềm chế kẻ hung bạo, gần
gũi kẻ mưu trí, lìa xa kẻ dèm pha, được
thành mà không cần đánh, được đất mà
không cần giữ, gặp địch cạn hẹp thì chờ xem cách
chúng biến hóa, gặp địch dối trá thì theo
mệnh mà hành động, gặp cảnh nghịch thì xem
xét, gặp cảnh thuận thì tiến đánh, đó
là hạng nhân tướng.
117.- THẦN TƯỚNG:
Hạng thần tướng có các đặc điểm sau này:
Lấy trời để tỏ bày, lấy đất để biến hóa, lấy người để sử
dụng, lấy ba tướng để kiêm các việc ấy, đó gọi
là thần tướng.
1 18.- CƯỜNG TƯỚNG:
Hạng cường tướng có các đặc điểm sau này:
Khi hành binh không cần xét thiên thời địa
lợi, dùng người không cần biết là mạnh dạn hay
nhát sợ, nghe có địch thì đi ngay ắt không
ngờ lo, khi có ai trái lệnh, không cần biết
là tội to hay tội nhỏ, đều dùng hình pháp
để xét xử, ai nghe tướng ấy đều sợ hãi, ai chống lại
thì quyết phá, đó là hạng cường tướng.
119.- MÃNH TƯỚNG:
Hạng mãnh tướng có các đặc điểm sau
này: Không cần biết quân đội nhiều hay ít,
không cần biết địch mạnh hay yếu, ba quân đều tuân
lệnh răm rắp, quân có thể biến hóa hàng
muôn ngàn cách khác nhau theo ngón
tay chỉ huy, ra quân bất ngờ, cử động thần diệu, một ngựa một
kiếm có thể xung phong đi trước, khiến quân địch
không kịp xoay trở, phải sợ mà tránh xa, đó
là hạng mãnh tướng.
120.- LƯƠNG TƯỚNG:
Hạng lương tướng có các đặc điểm sau này:
Bên ngoài thì uy nghiêm, bên trong
thì dữ tợn, ở giữa thì mạnh mẽ, gồm kiêm tất cả ba
tướng mạo ấy, đó là hạng lương tướng.
121.- CÁCH DÙNG CÁC LOẠI TƯỚNG:
Tướng là người mà nước nhà
sai dùng.
Nước được thiên tướng, thì có thể chống cự
với quân địch làm trái đạo trời.
Nước được địa tướng, thì có thể chống cự với
quân địch làm trái đạo đất.
Nước được nhân tướng, thì có thể chống cự
với quân địch làm trái đạo người.
Nước được thần tướng, thì có thể chống cự với mọi
địch thù trong thiên hạ, mỗi lần dấy binh không hề
tính toán sai lầm.
Uy tướng có thể giúp thiên
tướng, cường tướng có thể giúp địa tướng,
mãnh tướng có thể giúp nhân
tướng, lương tướng có thể che chở cho bốn phương.
Tuy nói là mãnh tướng, cường tướng
nhưng có thể hành động mau lẹ, được việc. Nên
các hạng tướng súy không thể dùng
riêng một mặt. Như trên là thể của tướng.
122.- ĐỨC HẠNH CỦA TƯỚNG SÚY:
Hạnh của người tướng là không lưu luyến vợ con để tỏ rằng
mình liều thân vì nước. Về mệnh của Vua, tướng
không dám khinh lễ nghi để tỏ rằng mình tha thiết
được trọng dụng. Khi tướng ở ngoài, có thể có
lúc không tuân lệnh Vua, mà chỉ ráng
làm lợi cho nước nhà, đối với mình thì
trong sạch, đối với kẻ sĩ thí quí trọng.
Bởi thế cho nên nếu tướng súy không nghe lời
khuyên can thì các anh hùng sẽ lẩn
tránh, tướng không theo kế sách hay thì mưu
sĩ sẽ bỏ đi, coi thiện ác như nhau thì kẻ hiền và
người ngu ở lẫn lộn, thưởng phạt lộn xộn thì giềng mối sẽ tan
rã, thường mừng thì thiếu uy nghiêm, thường giận
thì lòng người xa lìa, nói nhiều thì
việc cơ mật phải tiết lậu, ham thích nhiều việc thì
tâm trí nghi ngờ, mê loạn; khoan dung thì
làm cho quân sĩ cảm kích, hung bạo thì
làm cho quân sĩ tức giận.
Tướng chuyên quyền thì kẻ dưới quy lỗi về tướng, tướng tự
cho mình là tài giỏi thì kẻ dưới
không có công trạng, tướng nghe lời dèm pha
thì kẻ ngay thẳng sẽ xa lìa, tướng làm việc tư
tà thì kẻ dưới trộm cắp, tướng lưu luyến chốn nội
phòng thì sĩ tốt sinh ra dâm đãng.
123.- PHƯƠNG CHÂM CỦA TƯỚNG SÚY:
Khinh rẻ tiền của, sắc đẹp để giữ mình trong sạch;
Tránh xa các việc hiềm nghi để vượt lên;
Lặng lẽ lo xa để khỏi thất bại;
Tùy theo thời cơ mà biến hóa cho thuận tiện để lập
công;
Rộng rãi với người, dốc lòng làm việc để qui tụ
tình thương;
Nghe điều lành, đuổi bỏ kẻ dèm pha để tiến xa;
Trước đo lường, sau hành động để mà ứng biến;
Trước tin sau nói để hàng phục kẻ dưới;
Trừng phạt tội lỗi, tưởng thưởng công lao để sửa người;
Xét xưa rõ nay để soi sáng cho người;
Coi rẻ sắc đẹp, quý trọng người để được người;
Lìa bỏ việc tư, liều thân vì việc công để giữ
nước;
Thần sắc phải ngay thẳng, hình dung phải đoan trang;
Cử động nhanh như gió, ngừng nghỉ lặng lẽ như gò
núi;
Đánh trận như sấm sét, sắp đặt khéo léo như
quỷ thần;
Suy tư như ảnh chiếu, mệnh lệnh như sương tuyết;
Nếu được như thế, tướng súy có thể đảm đương việc lớn của
quốc gia.
124.- LÒNG NHÂN ÁI CỦA TƯỚNG
SÚY:
Trong quân có bệnh tật, tướng phải thân hành
chữa trị. Trong quân có việc chết chóc, tướng phải
khóc thương. Quân đóng giữ ở nơi xa thì cho
phép vợ đến thăm viếng. Khi làm lễ khao quân
thì phải chia đều cho quân lính và lại sĩ.
Khi muốn dấy binh hoặc sắp đặt việc gì thì phải
nhóm họp tất cả tướng tá để bàn luận, mưu kế phải
sắp đặt xong rồi sau mới đánh. Cho nên tướng súy
đối với quân lính phải có ban huệ “ đổ rượu”
ban ân “ hút máu”. Ngày xưa Huỳnh
Thạch Công kể rằng: Có một lương tướng khi ai biếu bầu
rượu lao thì ném xuống sông rồi khiến tướng sĩ
đón giòng nước mà uống. Một bầu rượu lao
không thể làm cho nước sông có mùi vị
rượu thế mà ba quân cảm kích bởi ân huệ
bèn đồng lòng quyết chết. Lại kể chuyện Ngô Khởi
cầm binh, có một lính tốt bị mụt nhọt, Khởi thân
hành
điều
trị
và
mút
mụt
nhọt,
khiến
cho
ba
quân
cảm
kích
mà
hết
lòng đánh giặc.
Cho nên sĩ tốt được cái vui vật trâu nấu rượu, chiến
đấu hăng say, thương yêu giúp đỡ chủ tướng như con em theo
cha anh, như tay chân che chở cho đầu mắt, không ai
có thể chống cự lại được.
Nếu bóc lột làm cho sĩ tốt phải đau khổ, bắt chúng
làm việc nhọc nhằn, buông ra lời nói oán
thù khó nghe, như thế là tướng súy xem sĩ
tốt như cỏ rác, thì sĩ tốt sẽ xem tướng súy như
cừu thù, đến tình trạng ấy chỉ mong cho hàng ngũ
được đầy đủ cũng là việc rất khó, làm sao
có thể trông mong quân sĩ sẽ liều chết xông
đến đánh địch? Đó là nói sơ lược về
phép tướng súy an ủy vỗ về quân sĩ.
125.- KIÊU CĂNG VÀ NHỤT KHÍ:
Kẻ làm tướng không bao giờ thấy quân mình
nhiều mà kiêu căng, không bao giờ thấy
quân mình ít mà nhụt chí.
Không có con vật nào mạnh như con hổ nhưng khi bắt
heo chuồng mà bị dân cư đuổi thì cũng phải cong
đuôi mà chạy chẳng dám quay lui, như thế đủ hiểu
rằng có thể lấy việc nghĩa để sai khiến người.
Tướng kiêu căng thì phải thất bại. Kẻ làm tướng
không thể cậy rằng mình trí dũng mà khinh
người. Tống Nghĩa sở dĩ đánh được Hạng Lương, Bạch
Khởi sở dĩ giết được Triệu Quát cũng vì lẽ ấy.
126.- KHÍCH ĐỘNG SĨ TỐT:
Việc khích động sĩ tốt có nhiều cách:
- Hoặc lấy sự quả cảm để khích động: như Lưu Kỳ
đời Tống giữ Thuận Xương; gặp khi người Kim xâm lấn phía
nam, Kỳ bèn đục và đốt cháy thuyền bè, tỏ
ý không chịu đi, để răn người nhà không được
khuất phục trước quân địch.
- Hoặc lấy lòng trung nghĩa để khích động: như Trương
Tuần bày ra bức tượng của vua Đường, lạy khóc để
trách sáu tướng, nhận đại nghĩa mà chém họ,
nhờ đó khuyến khích chí khí của quân
sĩ.
- Hoặc lấy lòng chí thành để khích
động: như Trương Tuần thề quyết chết làm cho tướng sĩ
phải thương tâm mà giặc bị tan vỡ. Vua Đường Đức
Tông nhận lỗi về mình mà trăm quan liều
mình quyết chết.
- Hoặc nêu điều lợi hại để khích động: như Dương
Khánh giữ Thành Đô, tuyển mộ hiền sĩ,
tích trữ lương thực, trợ cấp cho nhân dân, dân
Thục luyện tập dao gậy để giúp quan quân làm cho rợ
Man phải thua lớn. Lý Mục đời Tống trấn giữ Dực
Châu, được vật gì chia đều hết cho sĩ tốt.
- Hoặc lấy tiền của, vải lụa để khích động: Huỳnh
Thạch Công nói rằng: Được tiền của mà đem
phân phát cho mọi người thì quân sĩ sẽ liều
mình quyết chết. Lý Mục đời Tống cũng làm
giống như thế.
127.- MƯỜI HAI CÁCH CHẮC THẮNG:
Bậc vua của loài người biết phép chắc thắng, cho
nên có thể gồm kiêm việc rộng lớn để thống nhất chế
độ, và thị uy giữa thiên hạ theo mười hai cách sau
này:
Thứ nhất là liên hình (hình
pháp liên đới) nghĩa là những kẻ giữ gìn đội
ngũ sẽ cùng chịu một tội như nhau.
Thứ hai là địa cấm (đất cấm đi lại) nghĩa là ngăn
cấm việc đi đường để lùng bắt kẻ gian từ bên ngoài
đột nhập vào.
Thứ ba là toàn quân (bảo toàn
quân đội) có nghĩa là các thủ lãnh
nương tựa vào nhau, ba và năm giống nhau để liên
kết với nhau.
Thứ tư là khai tái (mở cửa) nghĩa là chia
đất làm giới hạn, mọi người phải giữ vững, liều chết để
làm tròn chức vụ.
Thứ năm là phân hạn (chia giới hạn) nghĩa
là trái và phải ngăn nhau, trước và sau chờ
nhau, quân đóng vòng quanh giữ chắc, để đón
hoặc để ngăn.
Thứ sáu là hiệu biệt (số hiệu phân biệt)
nghĩa là quân đàng trước sắp đặt để tiến tới,
khác với quân đàng sau, không được tranh nhau
đi trước hoặc leo trèo mất thứ tự.
Thứ bảy là ngũ chương (năm chương) nghĩa là
sáng tỏ hàng lối, đầu đuôi không loạn.
Thứ tám là toàn khúc (cong queo hết
thảy) nghĩa là khúc chiết theo nhau, đều chia,
thành nhiều bộ phận.
Thứ chín là kim cổ (chiêng trống) nghĩa
là cất nhắc kẻ có công, trọng dụng kẻ có
đức.
Thứ mười là trận xa (xe trận) nghĩa là cầm
mâu liên tiếp nhau, che mắt người lại.
Thứ mười một là tử sĩ (quân sĩ liều chết)
là những kẻ tài trí trong ba quân, cỡi chiến
xa, tung hoành trước sau, dùng mẹo lạ để chế ngự
quân địch.
Thứ mười hai là lực tốt (lính mạnh) nghĩa
là coi sóc mọi chỗ không lay chuyển.
Dạy quân sĩ cho thành thục mười hai phép
trên, ai trái lệnh không được tha thứ. Được như thế
thì: có thể làm binh yếu trở nên mạnh,
làm chúa thấp hèn trở nên tôn
quý, làm mệnh lệnh yếu ớt trở nên mạnh mẽ,
làm dân chúng xa lìa trở nên
thân yêu, làm cho khối đông nhân
dân trở nên yên trị, có thể giữ gìn đất
đai rộng lớn, chiến xa không bao giờ bị nguy khốn, chỉ cần
dùng áo giáp bằng tơ mà không cần
rèn giáp sắt, thế mà cũng làm cho
thiên hạ phải phục uy của mình vậy.
128.- CHUYÊN, PHÁP, THÀNH, ĐẠO:
Quân đội áp dụng pháp luật cho mình, gọi
là chuyên; buộc người dưới phải sợ pháp
luật thì gọi là pháp. Dùng binh
không vì việc nhỏ, chiến đấu không vì lợi
nhỏ, gọi là thành; hành động kín
đáo, lặng lẽ gọi là đạo.
129.- CHÍ KHÍ:
Tướng là chí, ba quân là khí.
Khí thì dễ động mà
khó chế ngự.
Nếu tướng trấn giữ chế ngự được khí thì những kẻ
sợ hãi sẽ yên định, sự phản trắc sẽ được dẹp yên,
quân địch dầu đông tới trăm vạn cũng sẽ bị đánh
đuổi.
Chí ngay thẳng mà mưu thống
nhứt, khí phát ra mà lòng dũng
cảm tăng gấp bội, thì chắc thắng.
130.- LỜI KHUYÊN:
Thấy hư thì tiến, thấy thực thì dừng.
Chẳng thấy ba quân đông đảo mà khinh địch. Chẳng
thấy việc nhận mệnh làm trọng mà quyết chết, chẳng thấy
mình tôn quý mà khinh rẻ người, chẳng
vì thiên kiến của riêng mình mà
hành động trái ngược với quần chúng, chẳng nghe
lời biện thuyết mà cho là đúng hẳn, quân sĩ
chưa ngồi thì mình chớ nên ngồi, quân sĩ chưa
ăn thì mình chớ nên ăn, khi nắng rét đều
phải như nhau, được như thế thì quân sĩ sẽ liều
mình quyết chết.
131.- GIỮ BÍ MẬT:
Việc của một người chớ để tiết lộ cho hai người biết. Ngày mai
phải đi nơi nào, ngày nay chớ tiết lộ ra. Phải kéo
quân một cách kín đáo, lặng lẽ, và
cẩn thận đừng cho gián điệp hay biết gì. Điều bí
mật trong công việc chớ để tiết lộ ra ở lời nói. Điều
bí mật trong lời nói chớ để tiết lộ ra ở dáng mặt.
Điều bí mật trong dáng mặt chớ để tiết lộ ra ở tinh thần.
Điều bí mật trong tinh thần, chớ để tiết lộ ra ở mộng mị.
Có hành động nhưng giấu kín manh mối, có sử
dụng nhưng phải kín miệng. Nhưng điều nói được cũng
không hại vì nói cho biết để tỏ ra thành
tín. Có điều vốn chẳng bí mật, mà
làm ra vẻ bí mật.
132.- VIỆC CỦA TƯỚNG SÚY:
Việc của tướng quân là yên tĩnh để được sâu
kín, ngay thẳng để sửa trị, bịt tai bịt mắt của sĩ tốt để
chúng không biết gì, thay đổi mưu để chúng
không hiểu, thay chỗ ở đổi đường đi để không ai tính
toán được điều gì.
Thời kỳ dấy binh cũng giống như trèo cao mà vứt thang đi.
Đem quân đi sâu vào đất chư hầu cũng giống như bắn
tên, giống như xua đàn dê, xua đi thì đi, xua
lại thì lại mà chẳng biết phải đi đâu. Nhóm
họp ba quân đông đảo, ném chúng vào
nơi nguy hiểm, đó là việc của tướng quân.
Luận về việc làm thì việc xưa khác việc nay. Việc
nhiều thì phép tắc cũng nhiều, thời thay đổi thì
lý cũng thay đổi. Cho nên giỏi đọc binh pháp
ngàn xưa, thấy có chỗ không thích hợp
thì chớ chấp nhận, thấy lời nói bậy thì biết sai
lầm, như thế cũng chưa đủ để biết quyết đoán, để phân biệt
điều nào đúng, điều nào sai.
Vật gì nổi phồng thì đi lên, nên đoạt lấy để
mà thoát. Ngăn cấm mà lại thi hành, răn đe
mà lại làm ra, xét thưa mà đặt dầy, do một
bên mà được toàn thể, khi làm ra thì
thấy kỳ diệu, bộ máy biến hóa tuần hoàn. Người ta
câu nệ vì phép tắc mà ta thì
bày ra phép tắc. Ai đặt phép hay thì thần
linh làm sáng phép ấy.
133.- HỌC HỎI:
Xét tính mệnh để rõ nguồn gốc việc binh.
Tìm tòi sử xưa để thấy dấu vết của việc binh. Biết hết
tượng số để thấu triệt tượng trưng của việc binh. Biết thời vụ để
thông suốt qui tắc của việc binh. Khảo sát khí cụ
để biết rõ các vật dụng trong nghề binh. Khi tĩnh
có thể lập mưu mà không để tiết lộ ra ngoài.
Khi ra ngoài ắt tìm tòi điều mong muốn của người
để sửa trị thiên hạ.
134.- LỄ TƯỚNG:
Tướng mùa đông không mặc áo cầu, mùa
hè không phẩy quạt, gặp mưa không che lọng,
đó gọi là lễ tướng, chẳng tự mình theo lễ
thì không thể biết sự nóng rét của sĩ tốt.
Ra khỏi nơi quan ải, gặp đường bùn lầy, tướng phải xuống bước đi
bộ, đó gọi là lực tướng, nếu chẳng ráng
sức thì chẳng biết sự lao khổ của sĩ tốt.
Khi đóng quân, chờ quân đã sắp đặt xong,
tướng mới vào quán nghỉ, chờ thức ăn quân sĩ nấu
chín xong, tướng mới ăn, quân không đốt lửa
thì tướng cũng không đốt lửa, đó gọi là ngăn
điều
muốn. Nếu tướng không ngăn điều thèm muốn
thì không biết sự no đói của sĩ tốt.
135.- CHIA LOẠI ĐỂ LUYỆN TẬP:
Hỏi: Phép luyện tập sĩ tốt phải như thế
nào?
Đáp: Trong quân nếu có những
kẻ mạnh dạn, liều chết, không sợ bị thương tích thì
gom họ lại thành một toán gọi là quân
xông pha gươm dáo (quân cảm tử).
- Nếu có những kẻ trèo cao, vượt xa, nhanh chân,
chạy giỏi, thì gom họ lại thành một toán gọi
là quan binh.
- Nếu có hạng vương thần thất thế muốn được lập công trở
lại thì gom họ thành một toán gọi là quân
tử
đấu (liều chết).
- Nếu hạng con em của tướng chết trận muốn báo thù cho
tướng ấy thì gom lại thành một toán gọi là quân
tử
phẫn (phẫn uất mà liều chết).
- Nếu có những kẻ nghèo khó tức giận muốn được
thỏa chí thì gom họ lại thành một toán gọi
là quân tất tử (quyết chết).
136.- QUI CỦ:
Vua Đường Thái Tôn nói: Gia Cát
Lượng nói là binh có quy củ mà tướng bất
tài cũng sẽ không thể thất bại, binh không có
quy củ mà tướng tài giỏi cũng không thể thắng được.
Trâm nghi ngờ rằng bàn luận ấy chưa được chí
lý.
Lý Tịnh đáp rằng: Võ Hầu
nói như thế hơi quá đáng. Thần xét Tôn
Tử có nói rằng: Răn dạy và tập luyện
không sáng suốt, lại và tốt thay đổi không
thường, bày trận ngang dọc, đó gọi là rối loạn. Từ
xưa các trường hợp nhờ quân ta rối loạn mà địch
được thắng lợi không thể đếm xuể. Răn dạy không
sáng suốt có nghĩa là giáo huấn và
kiểm soát không đúng theo phép xưa. Lại
và tốt không thường có nghĩa là tướng
tá và quan lại giữ chức được lâu. Quân ta
loạn đem lại thắng lợi cho địch có nghĩa là quân ta
tự tan vỡ, chớ không phải địch đánh thắng ta. Bởi thế cho
nên Võ Hầu nói là sĩ tốt có qui củ
thì dầu tướng súy là người tầm thường, binh ấy
cũng không thất bại. Nếu sĩ tốt tự rối loạn, dầu là tướng
tài cũng phải chịu nguy hại, như thế không còn nghi
ngờ gì nữa.
Vua Thái Tôn nói: Về phép
giáo duyệt thì phải tín thực, không thể sao
nhãng.
Tịnh nói: Dạy mà đúng đạo
thì quân sĩ vui lòng làm theo. Dạy mà
không đúng phép thì tuy sáng
thúc dục, chiều quở trách cũng không ích
gì cho công việc. Hạ thần thường xuyên xét
qui chế đời cổ, soạn được nhiều đồ hình nhờ đó tổ chức
được đạo binh có qui chế.
Vua Thái Tôn nói: Khanh hãy
vì ta mà kể lại các trận pháp, nhất
là các đồ hình.
137.- TRẬN LỤC HOA:
Vua Thái Tôn nói: Trẫm cùng
Lý Tích bàn luận về binh pháp phần nhiều
cũng giống với ý kiến của khanh, chỉ có khác
là Lý Tích không cứu xét đến xuất xứ.
Hỏi khanh chế trận pháp lục Hoa từ thuật nào mà
ra?
Tịnh nói: Tôi vốn học theo
phép Bát Trận của Gia Cát Lượng, trận lớn bọc trận
nhỏ, các góc các cạnh đều liền nhau, khúc
chiết đối diện nhau. Đời xưa bày ra như thế, hạ thần theo
đó mà vẽ đồ hình, cho nên bên
ngoài vẽ hình vuông, bên trong vẽ vòng
tròn, do đó mà có tên trận là
Lục Hoa.
Vua Thái Tôn hỏi: Trong tròn, ngoài
vuông, vì sao gọi như thế?
Tịnh đáp: Vuông sinh ở bộ,
tròn sinh ở kỳ, dùng
vuông làm qui củ cho bộ, dùng tròn để nối
vòng quanh, Như thế bộ số định ở đất, hàng nối ứng với
trời. Khi bộ được định, vòng nối được tề chỉnh thì sự
biến báo không loạn. Bát trận mà làm
sáu là phép cũ của Võ Hầu.
Vua Thái Tôn nói: Vẽ hình
vuông để thấy bộ, điểm vòng tròn để thấy binh. Về
bộ thì dạy phép dùng chân, về binh
thì dạy phép dùng tay. Khi tay chân đều được
tiện lợi, như thế là quá nửa rồi chăng?
Tịnh nói: Ngô Khởi nói
rằng: Xa mà không lìa, lui mà không
tan, đó là bộ pháp. Dạy quân sĩ cũng giống
như bày cờ trên bàn, nếu không vẽ đường cho
cờ đi, thì làm sao đánh cờ được? Tôn Tử
nói rằng: Đo đất đai để biết rộng hẹp, dài ngắn, đo rồi
thì phải ước lượng để biết nhiều ít, ước lượng rồi
thì phải tính số, tính số rồi thì phải
cân nhắc để biết nặng nhẹ, cân nhắc rồi thì sự thắng
bại có thể quyết đoán được. Binh thắng giống như lấy quả dật
(20 lạng) so với quả thù (1/24 lạng).
Binh bại giống như lấy quả thù so với quả dật,
tất cả đều do sự đo lường vuông tròn cả.
Vua Thái Tôn nói: Sâu sắc thay lời
nói của Tôn Tử. Không đo lường thế đất xa
hay gần, hình dạng rộng hay hẹp thì làm sao đặt ra
tiết độ được?
Tịnh nói: Tướng quân tầm thường
có thể biết tiết độ được. Kẻ đánh giỏi có thế
đánh rất nguy hiểm, thời nhịp hành động của họ thật chớp
nhoáng, thế đánh giống như giương nõ, thời nhịp
giống như phóng tên.
Hạ thần theo thuật ấy, phàm khi lập đội đều để cách nhau
mười bước, trú đội cách sư đội hai mươi bước, mỗi khoảng
cách một đội, lập một chiến đội, phía trước tiến
lên lấy năm bước làm tiết, nghe một tiếng giốc thì
các đội đều tản ra, đứng không cách nhau quá
mười bước. Đến tiếng giốc thứ tư thì những quân cầm thương
đều quì xuống. Bấy giờ đanh ba tiếng trống, hô lên
ba tiếng, để chế ngự sự biến hóa của quân địch từ ba mươi
đến năm mươi bước. Đến khi gặp việc thì xếp đằng trước là
chính, đằng sau là kỳ, để
xem địch ra sao. Đến khi đanh trống lần nữa thì sắp kỳ ở
đằng trước, sắp chính ở đàng sau, chờ địch đến để
xem chỗ sơ hở, yếu ớt của địch. Trận Lục Hoa đại để là
như thế.
138.- CỜ XÍ:
Vua Thái
Tôn hỏi: Về phương sắc lấy năm cờ làm chính
chăng? Dùng cờ phan vẫy xông vào đánh
làm kỳ chăng? Lấy phân hợp làm biến, lấy số
đội cho thích nghi chăng?
Tịnh
nói: Hạ thần dùng theo phép xưa, phàm ba
đội hợp lại thì cờ dựa vào nhau mà không
tréo nhau, năm đội hợp thì hai cờ tréo nhau, mười
đội hợp thì năm cờ tréo nhau. Thổi tiếng giốc, mở năm
lá cờ tréo nhau thì một lại tản ra làm
mười, mở hai lá cờ tréo nhau thì một lại tản ra
làm năm, mở thứ cờ dựa nhau mà không tréo
nhau thì một lại tản ra làm ba. Binh tản
thì lấy hợp làm kỳ, binh hợp
thì lấy tản làm kỳ. Dặn dò
đôi ba phen rằng ba tản năm hợp rồi rở về chính.
Như
thế
bốn
sư,
tám
đuôi
có
thể
tập
hợp
được,
phép
sử
dụng
đội
ngũ mới thích nghi được.
Vua Thái
Tôn khen hay.
139.-
PHÉP HOẠCH ĐỊA:
Vua Thái
Tôn hỏi: Sách Thái Công nói rằng:
Đất vuông hoặc 600 bước, hoặc 60 bước, đều tiêu biểu cho 12
giờ, thuật ấy như sao?
Tịnh
đáp: Vạch đất vuông 2200 bước, là hình khai
phương. Mỗi bộ chiếm đất vuông vức 20 bước, bề ngang 5 bước đặt
một người, bề dọc 4 bước đặt một người. Tất cả 2500 người chia ra 5
phương, là không địa và bổn xứ. Cái gọi
là khoảng trận là chỗ chứa trận vậy. Võ Vương
đánh Trụ, dùng quân hổ bôn là 3.000
người, mỗi trận 6.000 người, cộng lại là 3 vạn quân,
đó là phép hoạch địa (chia đất) của Thái
Công.
*
*
*
Vua Thái Tôn hỏi: Trận Lục Hoa của khanh
chiếm bao nhiều đất?
Tịnh
đáp: Đất Đại Duyệt vuông vức 1300 bước, nghĩa là
Lục Trận chiếm 400 bước chia ra hai khu đông tây.
Không địa 1200 bước là chỗ dạy đánh. Hạ thần thường
dạy 3 vạn quân sĩ, mỗi trận 5.000 người, lấy một trận để dạy
phép cất dinh trại, lấy năm trận để xếp đặt hìnhn thế
vuông, tròn, cong, thẳng, nhọn. Mỗi trận có năm lần
biến, tổng cộng là 25 lần biến trở lên.
Vua Thái
Tôn hỏi: Trận Ngũ Hành như thế nào?
Tịnh
đáp: Vốn theo 5 phương, sắc mà đặt ra tên ấy,
còn 5 trận vuông, tròn, cong, thẳng, nhọn là
do địa hình mà ra. Nếu không tập sẵn 5 thứ trận ấy,
làm sao có thể gặp địch được? Thuật cầm binh là
thuật dả dối, nên tạm gọi là ngũ hành. Bề
ngoài thì lấy nghĩa ở thuật số là tương sinh,
tương khắc, mà thực ra bề trong hình thế của binh
là giống như nước, tùy theo hình dạng của đất đai
mà tìm đường chảy, ý nghĩa là như thế.
*
*
*
140.- CÁCH TẬP LUYỆN:
Người ta
thường chết ở chỗ mà mình bất lực, thường thất bại ở chỗ
bất tiện cho mình. Cho nên trong phép dùng
binh, sự tập luyện phải đứng đầu.
- Một người
học đánh, dạy lại vạn người biết đánh.
- Vạn người
học đánh, dạy lại thành ba quân biết đánh.
Lấy ta ở gần
chờ đánh địch từ xa tới.
Lấy ta nhàn
chờ đánh địch mệt.
Lấy ta no
chờ đánh địch đói.
Binh ta đang
bày viên trận, ta buộc chúng đổi
thành phương trận.
Binh ta đang ngồi,
ta
buộc
chúng
đứng dạy đi.
Binh ta đang đi,
ta
buộc
chúng
đứng lại.
Binh ta đang
đi qua trái, ta buộc chúng đi qua phải.
Binh ta đang
quay ra trước, ta buộc chúng quay ra sau.
Binh ta đang phân
tán, ta buộc chúng tụ hợp lại.
Binh ta đang kết
hợp, ta buộc chúng giải tán.
Mỗi việc biến
dịch ấy đều phải tập luyện cho quen thuộc rồi mới sử dụng binh ấy được,
đó là phận sự của tướng súy.
141.-
KIỂM
SOÁT
VIỆC
TẬP
LUYỆN:
Binh sĩ
thường ngày chìm đắm trong cảnh tiện nghi, an lạc,
không được tập quen sự cần lao. Nay muốn sửa lại sự đồi trụy,
luyện gân cốt, làm cho mạnh khỏe thì không
gì bằng thi hành phép tắc then chốt sau này.
Từ nay trở về
sau phải kiểm soát xem các quan đốc phủ, đề trấn
có theo lệ cử hành việc tập luyện cho đều hay
không? Mỗi năm vào khoảng thu đông, phải cử
hành hai ba lần để tập cho lính quen việc lao khổ
và khuyến khích sĩ khí, phép ấy rất hay.
142.-
THƯỞNG PHẠT TRONG KHI TẬP LUYỆN:
Về
giáo lệnh trong việc binh, việc chia dinh lập trận, nếu
có ai không nhận được lệnh mà cứ tùy
ý tới lui, thì buộc họ vào tội trái lệnh.
Ai cần đi trước, hoặc đi sau, hoặc đi bên phải, hoặc đi bên
trái, thì nên dạy họ phải đi như thế nào.
Việc răn dạy được chu đáo, thì người thủ lãnh được
thưởng. Không răn dạy cũng đồng một tội như là trái
lời dạy vậy.
Khi lâm
trận, một ngũ (toán 5 người) phải hành động như một
người.Nếu có một người không chịu liều chết tiến
đánh quân địch thì người răn dạy cũng có tội
như kẻ phạm pháp. Mỗi thập (toán 10 người)phải tự giữ
gìn, nếu mất một người mà chín người không
liều chết tiến đánh quân địch thì người răn dạy
cũng có tội như kẻ phạm pháp. Từ thập trở lên cho
tới tỳ tướng nếu có ai trái phép thì người
răn dạy cũng có tội như kẻ phạm pháp.
Người ngũ
trưởng (cầm đầu ngũ) dạy bốn người kia, lấy ván làm
trống, lấy ngói làm chiêng, lấy trúc
làm cờ. Nghe đánh trống thì tới, thấy hạ cờ
thì chạy, nghe đánh chiêng thì lui. Thấy vẫy
cờ thì quay qua trái, vẫy cờ thì quay qua phải.
Nghe chiêng trống cùng đánh thì ngồi. Ngũ
trưởng luyện tập xong thì hợp với tốt trưởng, toết trưởng luyện
tập xong thì hợp với bá trưởng, bá trưởng luyện
tập xong thì hợp với binh úy, binh úy luyện tập
xong thì hợp với đại tướng, đại thướng luyện tập xong thì
bày trận ở đồng giữa, đặt bảng lớn, cứ 300 bước một bảng.
Bày xong thì đi gấp rút cách bảng 100 bước,
phóng gấp 100 bước. Tập đánh cho đúng tiết độ rồi
bày ra thưởng phạt.
143.- CHIA
THỨ HẠNG SANG HÈN:
Ngày
xưa muốn răn dạy dâng chúng, người ta phải chia thứ hạng
sang hèn, để cho những kẻ học kinh sử chẳng tranh giành
nhau, những kẻ đức nghĩa chẳng lấn lướt nhau, những kẻ tài nghề
chẳng che giấu nhau, những kẻ mạnh dạn chẳng xúx phạm nhau, nhờ
đó mà ý chí đồng nhất, tâm ý
hòa hợp.
144.-
TRIỀU ĐÌNH VÀ QUÂN NGŨ:
Ngày
xưa, khách của triều đình không được vào
quân ngũ, khách trong quân ngũ không được
vào triều đình cho nên tài đức chẳng lấn
nhau.
145.- KHUA
ĐỘNG:
Về các
cách khua động, thì có phất cờ xí, đập xe,
đập ngựa, khua binh khí, vỗ đầu, dậm chân: bảy cách
khua động đều phải thực hành một lần.
146.-
KHUYẾT ĐIỂM:
Nếu đông cũng như ít, hơn cũng như thua, binh khí
chẳng sắc bén, giáp trụ chẳng bền bỉ, xe không vững
chắc, ngựa không chạy hay, đông mà chẳng tự
mình có nhiều, như thế là chưa được đạo.
147.-
TÁM
TRẬN,
CHÍN
QUÂN:
Khí
thế mạnh mẽ đều do tám trận Thiên, Địa, Phong,
Vân, Long, Hổ, Điểu, Xà mà ra. Lại lập ra
chín quân, để phân biệt rõ, và
xây đắp khí thế của trận hình.
Một là thân
quân gồm những gia đinh mạnh mẽ
để hộ vệ đại tướng.
Một là phẫn
quân gồm những người muốn báo
thù, nguyện đi trước.
Một là thủy
quân có thể xông pha
sóng nước, lật thuyền trộm chèo.
Một là hỏa
quân có thể phi ngựa xông
pha lửa đạn, từ xa đến hãm trận địch.
Một là cung
nỗ
quân có thể ẩn nấp chỗ hang
hầm, kéo dây cung cùng buông tên một
lượt, chế ngự được quân địch nhgoài trăm bước.
Một là xung
quân có sức mạnh lay chuyển
núi non, khí thế hiện ra ở cờ xí, dùng để
hãm trận người, bắt bọn giặc mạnh.
Một là kỵ
quân, kiêu dũng khác thường,
phóng ngựa qua lại giữa hai trận, đuổi đánh quân
địch ở chốn xa xôi.
Một là
xa quân, tài sức khéo léo nhanh nhẹn, tới
thì xông pha tên đá, lui lấn át
quân kỵ, khiến địch không thể đụng đến ta.
Một là du
quân qua lại lanh lẹ để tuần
phòng, cứu ứng ba quân, mọi cử động đều liên hệ đến
ba quân, có những kẻ leo trèo nhanh nhẹn, đi như
rắn, nấp như chuột, leo đèo, xuống vực, vượt thành,
khoét vách…
Chín
toán quân nói trên chạy đi chạy lại để che
chở trung quân, còn dư thì chia ra tám
góc. Ở các góc để chế ngự, hợp lại để cùng
ra quân. Có thể co, có thể dãn, khiến cho
trong một trận tất cả huyết mạch đều liên lạc với nhau,
liên kết chằng chịt mà thông suốt hết thảy.
148.- HÒA HIẾU VÀ
THÀNH TÍN:
Kết hợp ba quân thì được đông đảo vậy. Chỉ nhờ
vào sự hòa hiếu để kết hợp mà thôi.
Kẻ trí xét nó, kẻ dạn dùng nó, kẻ
muốn thỏa mãn nó, kẻ bất khuất nuôi sống nó.
Làm bộc lộ sự căm tức, làm sống lại hận thù. Thấy
mụt nhọt của người như của mình, bắt tội người mà trừ
giết thì như tỏ lòng bất nhẫn. Kẻ có công
lao nhỏ nhặt cũng phải ghi chép. Kẻ làm được việc
thì ban cấp chẳng thường. Được tiền của thì chia đều. Đối
với kẻ theo hầu giúp việc thì thương xót. Vỗ về
dân chúng, tìm mời kẻ thành tín. Bắt
địch chớ giết nhiều. Nếu thành tín như thế,
há chỉ có ba quân tuân theo sự chỉ huy của ta
thôi đâu? Tất cả thiên hạ sẽ trông ngóng
ta như đón gió mát vậy.
149.- CẦM BINH:
Việc binh chẳng phải là việc hay. Cái tài
làm lợi cho mình cũng là cái tài
chuốc hại vào mình. Kẻ mạnh ắt phải giết, kẻ dạn ắt
có lòng lang sói. Kẻ trí ắt phải giả
trá, kẻ mưu đồ ắt phải nhẫn nhịn. Việc binh không thể bỏ
sót những kẻ m ạnh, dạn, trí, mưu mà
không dùng, tức là không thể bỏ sót
những kẻ lang sói, ham giết, giả trá, nhẫn nhịn. Cho
nên kẻ cầm binh giỏi thì dùng được tài năng,
bỏ điều bất lợi, thâu thập điều bổ ích, trừ khử điều tổn
hại, như thế thiên hạ không khi nào thiếu kẻ
tài năng. Kẻ cựu thù cũng có thể chiêu vời,
kẻ làm giặc cũng có thể vỗ về, kẻ trộm cướp cũng
có thể cất nhắc. Kẻ quả cảm khinh thường pháp luật, kẻ
theo hùa với quân địch, và kẻ xa lạ đều có
thể dùng được cả.
150.- RÈN LUYỆN:
Ý khởi mà sức yếu, đó là khí suy.
Sức dư mà lòng sợ trở ngại, đó là thiếu gan
mật. Lúc khí đã suy, gan mật đã mất,
thì trí dũng cũng hết mà không thể
dùng. Cho nên cần phải lập thế để luyện khí, coi
nhẹ thắng lợi để luyện mật, bày tỏ lòng mình để
luyện tình, tập tành để luyện trận.
151.- KHÍCH LỆ:
Khi khích lệ quân sĩ, chẳng nên nhờ cậy vào
pháp luật. Danh vọng được thêm thì kẻ cương dũng
phấn khởi. Đem lợi lộc mà dẫn dụ thì kẻ nhẫn nại, quả
quyết sẽ phấn khởi. Dùng thế lực mà bức bách, lấy
nguy nạn mà vây hãm, dùng xảo thuật
mà lừa dối thì kẻ nhu nhược cũng phấn khởi. Nếu tướng
biết thi ân, thị uy thì lòng quân hòa
hiệp, việc mưu đồ sẽ thành tựu, ắt là sĩ tốt trong ba
quân sẽ giống như rồng cọp rình mồi, khi gặp địch
thì khắc chế ngay mà lại có thể lập thế
giúp oai nêu cao tiết khí, nếu có thua chạy
cũng không mất nhuệ khí, tuy gặp nguy nan vẫn không
sờn lòng, như thế bất kỳ ai, ở lúc nào cũng được
phấn chấn.
152.- PHÁP LỆNH:
Ràng buộc ngựa thì lấy giàm mà đóng
vào đầu, muốn ràng buộc binh sĩ thì dùng pháp
lệnh. Cho nên muốn hơn thiên hạ thì không
thể bỏ pháp luật. Nhưng phải thi ân trọng hậu rồi mới
có thể thi hành pháp luật. Hình phạt phải
thi hành rồi sau mới lập uy được. Như thế kẻ giỏi dùng
binh lấy tiêu chuẩn được, thua để định công tội,
biết rõ ai đánh, ai chạy để cứu
giúp kẻ tổn thương. Giết một người mà mọi người khiếp uy,
phạt kẻ hèn nhát, chém kẻ thất bại, mà
quân sĩ càng thêm phấn khởi. Đứng nghĩ lặng lẽ như
núi non, chuyển động mau lẹ như băng đổ, khiến cho quân sĩ
không dám khinh lờn phép tắc, cho nên chỉ
thắng lợi mà không thất bại.
153.- DÙNG TÀI:
Than tiếc rằng trời khó sinh nhân tài mà
có kẻ sĩ trí mưu đến nhờ vả lại không được trọng
dụng, có tướng chịu đi đánh địch mà ta lại ngăn
cản.
154.- LO NGHĨ ĐẾN QUÂN SĨ:
Kẻ làm tướng phải hỏi thăm việc hư hại, chẳng bao giờ sai khiến
mà không thông cảm, đó là cách
lo nghĩ bậc nhất đến quân sĩ. Khi quân sĩ phải mang
giáp trụ trải nắng dầm sương, đói khát thiếu thốn,
thân thể bị thương tích mà chẳng dám than
khổ, gặp cơn hiểm nạn mà chẳng dám kêu mệt, cho
nên kẻ giỏi dùng binh chẳng để quân sĩ của
mình bị địch vây hãm, ai theo thì
dùng, ai bỏ thì giết, đó là cách lo
nghĩ bậc hai đến quân sĩ.
155.- NHUỆ KHÍ:
Nuôi uy thì quý ở sẵn có, ứng biến
thì quý ở mưu cao. Hai quân đang đánh nhau,
nghe hô một tiếng thì phấn khởi, đó chỉ nhờ nhuệ
khí mà thôi. Quân địch đông đảo
đánh tới dữ dội, còn ta ít quân mà
tới ngăn chặn chúng được, đó cũng là nhờ nhuệ
khí. Giữa đám quân địch, quân ta ra
vào, lui tới, xông xáo dọc ngang được, đó
cũng là nhờ nhuệ khí. Tướng kiêu dũng, mạnh
mẽ, dữ tợn, đó là tướng có nhuệ khí.
Như
gió,
như
mưa,
làm
rung
chuyển
núi
rừng,
đó
là
có
nhuệ khí. Tướng
đánh tới dữ dội, quân nhảy tới xông xáo,
đó là tướng, quân đều có nhuệ khí.
Dùng
nhuệ
khí
không
đúng
chỗ
thì
vấp
ngã,
không
có
nhuệ
khí
thì
suy.
Có
cơ trí mà có thể chu toàn,
phát ra mà thâu lại được thì nhuệ khí
không bao giờ hết.
156.- PHÉP CHIẾN ĐẤU:
Phép chiến đấu là so sánh đạo nghĩa, lập tốt ngũ,
định hàng cột, chỉnh đốn đường ngang lối dọc, xét danh
thực. Khi đứng mà đi tới thì cúi xuống, khi ngồi
mà đi tới thì quỳ gối. Sợ thì sắp cho dày,
thấy nguy hiểm thì ngồi xuống. Ở xa mà nhìn
thì không sợ, ở gần đứng nhìn thì
không tan rã. Dưới ngôi vua, quân hai
bên trái phải bỏ giáp ngồi xuống, thong thả thề
nguyền.
157.- HỔ BÔN:
Trong một toán quân, ắt có hạng hổ bôn
(dõng sĩ) có sức gánh nổi vạc, khỏe chân
chạy hơn ngựa nhung, đều đủ sức giựt cờ giết tướng. Nếu được như thế,
nên chọn riêng họ ra để mà thương yêu
quí mến họ, đó gọi là quân lệnh.
Chia họ ra năm thứ binh, có tài năng, có sức
mạnh, có sức khỏe, nhanh nhẹn, nuôi chí
nuốt địch. Ban thêm phẩm tước cho họ, để họ quyết thắng, chăm
nom cha mẹ vợ con của họ, thưởng để khuyến khích họ, phạt để họ
sợ uy, đó là phép bày trận vững chắc,
có thể giữ gìn lâu dài. Biết xét liệu
việc ấy thì có thể dấy binh gấp bội.
158.- CONG THẲNG:
Võ Hầu nói rằng: Biết trước
được cái kế cong thẳng thì sẽ thắng, đó là
phép tranh giành.
159.- HIỆU LỆNH:
Sách Quân
Chính nói rằng: Nói mà không nghe
nhau nên mới bày ra chiêng trống. Nhìn nhau
mà không thấy nên mới bày ra cờ xí.
Mọi người đã chuyên nhất nên kẻ mạnh dạn không
được tiến tới một mình, kẻ khiếp sợ không dám đi
lui một mình, đó là phép sử dụng số
đông vậy.
160.- ĐIỀU TRÔNG MONG:
Năm điều trông mong:
-
Mong
sĩ
tốt
được
tráng
kiện
-
Mong
cung
tên
bắn
trúng
-
Mong
tập
luyện
dao,
dáo
được
tinh
thục
-
Mong
bộ
ngũ
bày
trận
được
hợp
độ
-
Mong
dùng
chiên
trống
cờ
xí
cho
đúng
tiết
Không được làm điều
gì bậy bạ vô ích. Cho nên nếu không
trông mong ở công việc thì có thể trông
mong thắng trận được sao?
161.- PHÂN
CÔNG:
Theo phép giao chiến
thì kẻ ngắn cầm mâu kích, kẻ dài cầm cung
nỏ, kẻ mạnh cầm cờ xí, kẻ dạn cầm chiêng trống, người yếu
làm việc vặt vãnh và nuôi ăn, người
trí làm chủ mưu, hàng xóm nương nhau,
các đội thập đội ngũ che chở nhau.
162.- CHIÊNG TRỐNG:
Nghe một tiếng
trống thì sắp binh chỉnh tề, nghe hai tiếng trống thì tập
trận, nghe ba tiếng trống thì đi ăn, nghe bốn tiếng trống
thì làm việc nghiêm chỉnh, nghe năm tiếng trống
thì vào hàng, nghe trống và chiêng
cùng đánh một lần rồi mới đưa cờ lên.
QUÂN LỄ
VÀ THƯỞNG PHẠT
163.- LỄ NGHI:
Muốn trị quân thì dùng lễ và giữ đầu
cán trong tay mình. Theo phép trị quân
thì nhỏ hay lớn đều phải giữ lễ nghi, lòng biết
đủ phải thực hành ra. Trị quân mà không nhờ
vào lễ nghi thì kẻ trợ tá sẽ xúc phạm tướng
suý, tướng suý sẽ xúc phạm thiên tử, do
đó sinh ra các việc họa hoạn. Quyền bính tối cao
không thể không ở trong tay mình. Nếu quyền
bính bị rơi vào tay kẻ dưới thì trên dưới
có thế lực bằng nhau, trên chẳng sai khiến được dưới, dưới
chẳng trình bẩm người trên, đó là bởi quyền
bính tối cao không ở trong tay mình. Đời Hậu
Đường quân sĩ giết Tiết Độ Sứ rồi giành
luôn chức vụ của người bị giết.
(Gần đây nhà Trịnh suy yếu không kiềm chế được
người dưới, quân sĩ sinh kiêu căng đem đến cảnh loạn vong,
trường hợp này cũng giống như trường hợp trước)*.
* Đoạn này do người đời sau
thêm vào, nhắc tới loạn "kiêu binh" thời
Trịnh Khải.
164.- SĨ KHÍ:
Trao kiếm dấy binh, giết trâu bò để đãi quân
sĩ, an ủi và khích lệ sĩ tốt thì sĩ khí sẽ
tăng gấp bội. Nên trọng thưởng công lao giữ gìn
biên giới.
165.- GHI CHÉP CÔNG LAO NHỎ NHẶT:
Nghe giặc xâm phạm biên giới, bọn gian bèn âm
mưu làm loạn. Bậc nhân thần phụng mệnh ra quân để
chỉnh đốn vương quốc, bảo tồn vương nghiệp, lập công trạng lớn
lao. Binh pháp nói rằng: công lao nhỏ nhặt
mà không được ghi chép thì chẳng nên
thưởng công lao ngoài biên giới.
166.- MIỄN LỄ NGHI CHO QUÂN SĨ:
Trong quân thì ráng sức mà tiến lên,
trong hàng ngũ thì thi đua lấy thành quả. Mang
giáp trụ thì không lạy, ngồi binh xa thì
không làm lễ. Nên việc thì chẳng để sai
chệch, gặp cảnh nguy nan chẳng sờn lòng. Cho nên lễ
nghi và phép tắc là bề ngoài
và bề trong, văn và võ là
tay phải tay trái.
167.- TIẾP ĐÓN BỀ TRÊN:
Nếu bề trên đi kiệu mà đến, thì đạo tôi con
là phải giết trâu bò, rót rượu mà
đãi đằng trăm quan, há dám vin cớ có giặc
mà thiếu lễ với bậc vua, cha hay sao?
168.- TRỄ NÃI, ĐÀO NGŨ:
Lính đến trại của đại tướng trễ sau tướng và lại sĩ một
ngày thì cha mẹ vợ con cũng mang tội như nhau.
Lính trốn về nhà một ngày mà cha mẹ vợ con
chẳng bắt nộp hay không báo cáo thì mang tội
như nhau.
169.- BỎ RƠI ĐỒNG NGŨ:
Ham đánh mà quên cả tướng súy và lại
sĩ hay là tướng súy và lại sĩ bỏ rơi quân
lính mà chạy trốn một mình thì phải đem
chém hết.
Lại sĩ trước bỏ lính mình mà chạy, lại sĩ sau
chém được lại sĩ trước và giữ lính lại thì
được trọng thưởng.
170.- LIÊN ĐỚI TRÁCH NHIỆM:
Ba quân đang đánh lớn, nếu đại tướng chết mà
có trên 500 quân theo lại sĩ không chịu liều
chết đánh lại quân địch thì phải chém hết,
các quân lính theo hầu gần đại tướng ở giữa trận
cũng phải chết chém. Ngoài ra các sĩ tốt có
công trạng phải bị giáng xuống một cấp, sĩ tốt không
có công trạng thì phải đi lính thú ba
năm.
Trong một ngũ có người thất lạc hay chết mà
không lấy được thây, thì mọi người trong ngũ đều mất
hết công trạng, nếu tìm được thây thì
xá tội hết thảy.
171.- BA THẮNG LỢI:
Nay dùng pháp luật để trừng trị sự bỏ trốn, ngăn ngừa sự
giảm quân số, đó là thắng lợi thứ nhất về việc
binh.
Thập và ngũ nối liền nhau. Khi
chiến đấu, lính và lại sĩ cứu nhau, đó là
thắng lợi thứ hai của việc binh.
Tướng giữ uy võ, lính giữ tiết độ, hiệu lệnh tính
thực, đánh hoặc giữ đều thành công, đó
là thắng lợi thứ ba của việc binh.
172.- LỆNH NGĂN CẤM QUÂN SĨ:
Nghe rằng người xưa trị quân, khi trời mưa, trong quân
có người lấy của dân một cái nón để che đầu
thì người ấy phải bị chém đầu để rao cho mọi người biết.
Huống là chặt phá cây cối, dẫm nát ruộng
nương của dân, phá hủy nhà cửa của dân, gian
dâm, trộm cắp, chặt đầu của binh sĩ chết (?), giết con trai của
giặc, làm nhục vợ của giặc, thậm chí giết thường
dân bừa bãi rồi chặt đầu bào là đầu giặc,
như thế lý trời chẳng dung, phép vua chẳng tha. Ai mang
tội ấy thì sẽ bị xét xử theo quân pháp.
173.- THƯỞNG NGƯỜI NHỎ, PHẠT NGƯỜI LỚN:
Tướng lấy việc giết người lớn làm uy, thưởng người nhỏ
làm sáng suốt. Bởi vì giết người đang ở địa vị
quý trọng, đó là hình pháp cực
nghiêm vậy. Thưởng cho kẻ chăn trâu, giữ ngựa, đó
là sự tưởng thưởng thông suốt tới người dưới. Do đó
mà tướng suý xây dựng được uy tín cho
mình.
174.- DÙNG NGƯỜI:
Lính chưa thân thiết với mình mà đã
phạt chúng thì chúng không phục, nếu
chúng không phục thì khó dùng. Khi
lính đã thân thiết với mình mà sự
trừng phạt không thi hành thì cũng không
dùng được. Cho nên lấy văn mà sai khiến
chúng, lấy võ mà sửa trị chúng,
đó là phép dùng người. Mệnh lệnh mà
mình đã tự thi hành rồi đem ra dạy dân
thì dân sẽ phục, mệnh lệnh mà mình tự thi
hành rồi đem ban bố cho dân thì sẽ được hợp
ý.
MẠC
HẠ
175.- CHỌN LỰA NHÂN
VIÊN CHO MẠC PHỦ (BỘ TƯ LỆNH):
Chọn hai người cho việc thiên
văn: Xem sao, xem lịch, xét phong thổ, khí hậu, chọn
ngày giờ, quan sát các việc thiên tai
quái dị.
Chọn hai người coi việc địa lợi:
xét
hình
thế
đất
đai
lợi
hại,
xa
gần,
khó
dễ.
Chọn hai người coi việc coi việc binh
pháp: giảng luận binh pháp, luyện tập việc binh.
Chọn hai người coi việc thư
toàn (kế toán): ghi chép lương hướng,
quân số, khí giới.
Chọn hai y sĩ: để điều trị
quan nhân.
Chọn ba du sĩ (điệp
viên hay thám tử): để làm việc gián điệp,
tuần thám.
Chọn bốn người coi việc thư từ
(công văn): để soạn thảo các từ, trát, chương, sớ,
viết các bài tấu, biểu.
176.- DÙNG PHÉP KỲ
(TRÁI VỚI PHÉP CHÍNH):
Cầm quân mười vạn, biết bao
nhiêu là sĩ tốt phải chết vì xông pha nguy
hiểm, cho nên không thể dùng phép kỳ.
Đem quân đi đường ngàn
dặm, gặp biết bao nhiêu là gián điệp tài
nghề thần diệu nên cũng không thể dùng phép kỳ.
Ta xem các nhà
chuyên dùng phép kỳ, hễ mưu kế lập sẵn rồi
thì thành công, còn nếu gặp đánh bất
ngờ thì phải thất bại, thực có trường hợp như thế.
Há chẳng phải quân cảm
tử chẳng giúp tướng súy, gián điệp chẳng được
tưởng thưởng công khai! Ân huệ đã cảm động được
lòng người, nghĩa khí đã kết thành, thế
mà thường phải lo sợ không rằng được, huống hồ là
tướng súy chẳng từng trải gian lao, huống hồ là lương
hướng không sẵn sàng, bấy giờ gặp lúc cần
kíp, nháy mắt còn chưa kịp, dẫu có
dùng phép kỳ, đâu có thể mình
tự dùng được hay sao?
177.- DÙNG NHÂN
TÀI:
Bậc vương giả có nhiều người
làm tay chân, tai mắt, bậc đại tướng có lắm kẻ
làm vây cánh giúp rập. Cho nên
quân đội dùng nhân tài giống như triều
đình.
Có hạng trí sĩ
(kẻ sĩ có mưu trí) coi việc tham mưu, việc tán
hoạch, việc mưu lược, dùng ngay dưới trướng để quyết định việc
quân cơ.
Có hạng dũng sĩ (kẻ sĩ
mạnh dạn) như là kiêu tướng, kiện tướng, mãnh tướng
… chuyên lo việc quyết chiến, xung đột, dẫn quân đảm đương
các việc nguy hiểm trước mọi người.
Có hạng thân sĩ
(kẻ sĩ thân cận) như là tư tướng, ốc tướng, nha tướng, cốt
để hầu gần ở hai bên mình, tuyên bố mệnh lệnh, nắm
giữ cơ quyền.
Có hạng thức sĩ (kẻ sĩ
biết rộng) hiểu trận nghi, biết biến hóa xem cảnh trí,
thăm dò mây, nước, gió, mưa, xét đất đai,
thấy rõ địch tình, biết được điều sâu kín,
nhỏ nhặt, quyết định việc quân tới, lui, ngừng nghỉ.
Có hạng văn sĩ (kẻ sĩ
văn học) thông suốt việc xưa nay, hiểu rõ dịch lý,
giữ gìn nghi tiết, soạn thảo các tờ hịch sớ, từ, chương …
Có hạng thuật sĩ (kẻ
sĩ biết pháp thuật) thông thạo các việc thần linh,
âm dương, ngày giờ tốt xấu, bói toán,
pháp thuật, để làm lợi cho mình, tổn hại cho địch.
Có hạng số sĩ (kẻ sĩ
coi về toán số), coi sổ sách kế toán, quân
số, việc bổ dụng, thăng thưởng, quân nhu …
Có hạng kỹ sĩ (kẻ sĩ
khéo léo) như kiếm khách, cảm tử, giỏi việc trộm
cướp, giỏi việc du thuyết, gián điệp, ra vào thành
lũy của địch một cách dễ dàng…
Có hạng nghệ sĩ (kẻ sĩ
có nghề riêng) lo về tiền của, khí cụ, đào
hào rãnh, tu bổ vật hư hỏng, sáng chế các
máy móc lạ lùng…
Ngoài ra, mỗi người đều
có biệt tài, thí dụ như cười đùa, nhảy
múa, chưởi mắng, ca hát, nấu nướng, giả dạng, chạy nhanh …
178.- TRÍ VÀ LỰC:
Trời sinh ra người, nếu khí tụ
tại trung hư thì sinh ra trí tuệ, nếu khí
tan ra bốn tay chân thì mộc mạc. Mộc mạc
thì có nhiều sức. Kẻ trí thì yếu ớt. Những
kẻ trí dũng kiêm toàn ở trên đời không
có nhiều. Cho nên ai hơn được một trăm người thì
đứng đầu một trăm người, ai hơn được một ngàn người thì
đứng đầu một ngàn người. Hơn một ngàn người thì
thành một quân. Ai có tài ứng biến với thời
cơ, có thể đương đầu với một cuộc tấn công thì đủ
sức làm trưởng quân (cầm đầu một quân). Quân
có lúc bị cô đơn, sai khiến tướng quân ắt
mong dùng lấy một mình, cho nên nếu giỏi
dùng nhân tài thì kẻ trợ tá cũng
có thể làm đại tướng.
BINH
CỤ
179.- CÔNG DỤNG CỦA MỖI
ĐỒ VẬT:
Móc, dùi dùng để
làm đất
Búa, rìu, dao, cưa
dùng để làm cây gỗ
Thợ rèn dùng để
làm đồ kim chất
Trâu ngựa dùng để chuyển
vận
Gà chó dùng để
dò xét
Thợ may dùng để may áo
trận
Thuốc men dùng để chữa bệnh
Chông gai để phòng
lót đường bẫy giặc
Giày da để phòng chạy
gấp
Lương khô đề phòng thiếu
thức ăn
180.- PHÉP DỤ BẮT NGỰA GIẶC:
Ngày xưa đời Hậu Đường, Sử
Tư Minh làm phản. Hắn có ngàn ngựa hay, mỗi
ngày đem ra sông Hà Chữ mà tắm rửa,
làm tuần hoàn như thế để tỏ rằng mình có
nhiều ngựa.
Lý Quang Bật khiến
tìm trong năm quân trăm ngựa đực, đánh vào
đầu chúng ở trong thành, chờ khi ngựa giặc đến sông
Hà Chữ, thì cho ngựa của mình đi ra hết.
Đàn ngựa hí mãi không thôi. Ngựa giặc
nghe tiếng hí bèn bơi qua sông đi hết vào
trong thành.
182.- HỎA TIỄN:
Hỏa tiễn có thế rất mạnh,
quân địch sợ nó hơn là cung nỏ. Nếu chế hay, mỗi
chiếc có thể bắn xa sáu bảy trăm bước. Phải nện thuốc
súng chừng ba vạn cái mới dùng được, đầu
trên dùng chất mồi lửa chừng hai phần mười.
Gặp trường hợp hỏa tiễn quá
mạnh mà buồm chiếu quá mỏng, hỏa tiễn bắn vào
thì xuyên lút qua mà đi luôn
thành thử không cháy được. Nếu sợ đi xuyên
qua luôn, thì cách miệng chừng hai ba tấc, ta gắn
một chữ thập bằng tre để chận nó lại. Chỗ tre và sắt tiếp
nhau, người ta dùng giây vấn và sơn một lớp sơn cho
kín. Dưới lớp sơn có thể dùng linh hoa để ngăn ẩm
thấp. Ở phuơng nam người ta dùng tới ba trăm chiếc cho
vào một ống, gọi là oa phong hay hỏa lung.
Dùng
chín
chiếc
thì
gọi
là
cửu lung đồng.
Thứ nhỏ gọi là dũng tiễn.
Có thể ngồi trên ngựa
mà phóng hỏa tiễn.
183.- HẦM CHÔNG GAI
DÙNG ĐỂ BẪY NGỰA GIẶC:
Đào hố
vuông sâu chừng bốn thước, rồi đặt chông gai ở dưới,
mặt trên gác cây, phù cỏ và đất cho
bằng phẳng như là đất hoang. Nếu giặc xông tới đánh
dinh trại thì sẽ sụp vào hố chông ấy. Người
và ngựa của giặc bị thương sẽ bị phục binh của ta bắt giữ.
HIỆU
LỆNH
184.-
QUÂN LỆNH:
Một khi hiệu lệnh được
phát ra, ba quân đều chấn động sợ sệt.
Nghe trống thì tiến, nghe
chiêng thì dừng.
Nghe súng bắn thì đứng
dậy, nghe chuông đánh thì ăn.
Nghe đánh phẫu thì
ráng sức, thấy vẫy cờ thì chạy mau.
Gặp mưa không núp, gặp
nóng không cởi giáp.
Mệt không buông vũ
khí.
Thấy nguy nan không trở lui.
Gặp tiền của không lấy.
Hãm thành không
giết bừa bãi.
Có công trạng
không khoe khoang.
Dong ruỗi thì lặng lẽ.
Bị đánh cũng không
rúng động. Bị chấn áp cũng không sợ hãi.
Bị đánh úp không
bỏ chạy, bị đánh cắt ngang mà không phân
tán.
Đó gọi là binh nghiêm
chỉnh.
185.- VIỆC QUẤY:
Thánh hiền không thấy
sai quấy thì miễn lỗi, binh pháp không thấy
sai quấy thì ghi công. Cho nên kẻ giỏi dùng
binh thì thi hành dối trá trái ngược, dấy
nghịch lấy bậy.
Trời luân hành theo
thời, quỷ thần mượn thời mà hành động, mộng mị cũng theo
thời mà hiện ra, các vật lạ cũng theo thời mà sinh
ra, câu ca dao, lời sấm cũng theo thời mà nói, mọi
việc sắp đặt cũng theo thời mà chia riêng, tiếng lời cũng
theo thời mà phát biểu.
Khuyến khích lòng
quân, ngăn trở khí thế của địch, khiến người không
thể liệu lường. Luân chuyển trừ bỏ điều quấy rồi lại dùng
điều quấy. Vả lại điều hư quấy, ngay thẳng nhờ cậy vào
nó thì không đủ, dả dối mượn dùng nó
thì thường có dư.
186.- DÙNG PHỤ NỮ:
Thường nghe bậc đại tướng ngày
xưa cũng từng nhờ cậy vào sự mềm yếu của phụ nữ. Khi dùng
văn thì khiến cho giặc vui chơi sướng
khoái, khi dùng võ thì cỡi xe chiến
đấu, cứu nạn giải nguy, tùy cơ ứng biến, đều có lợi cả.
187.- DÙNG VĂN ĐỂ DẠY ĐỀU
ƯỚC CẤM LỆNH:
Nghề võ chuyên luận về
tánh dũng, nhưng cáo, hịch … thì cần văn.
Có khi một lời nói mà có thể cứu nước,
làm cho quân giặc phải đầu hàng. Sĩ tốt thì
ít biết văn chương, chữ nghĩa. Bởi thế cho nên, khi
nhàn hạ nên buộc sĩ tốt tập hò, tập hát,
truyền tai nhau các điều ước, cấm lệnh, các bài
chiếu giảng giải các điều nghĩa dũng và cái đạo
của quân tử, của nho sĩ, tức là chẳng làm tổn hại
người bề trên. Đó là binh pháp vậy.
188.- BAN BỐ ĐIỀU LỆNH:
Con người lấy tâm
mà định lời, định lời để ra lệnh. Bởi
thế nên phấn khích tánh hào hùng, mưu
lược, nói lời cứng cỏi, mạnh mẽ, giữ lòng sắt đá,
chịu trải phong sương, sau đó mới ban bố hiệu lệnh, lập
quân pháp nghiêm minh.
Trước ba ngày, treo lệnh tại
quân môn, khiến viên quan quân chính cầm
ban tuyên bố giữa sáu quân. Nếu có ai
trái lệnh thì khiến quan quân chính tập họp
quân nhân, rồi theo lệnh mà hành hình
để cho sáu quân đều biết rõ.
189.- TRỪNG PHẠT KẺ PHẠM
QUÂN LỆNH (QUÂN PHÁP):
Khi bậc đại tướng quân
đã nhận mệnh, cầm hết quyền chinh chiến trong tay, làm lễ
khao quân xong rồi mới ban bố mệnh lệnh. Ai trái lệnh sẽ
bị giết.
Nghe trống mà không
tiến, nghe chiêng mà không dừng, thấy đưa cờ
lên mà không đứng dậy, thấy hạ cờ mà
không nằm nấp, đó là quân bội nghịch,
phải chém chúng.
Nghe gọi tên mà
không đáp, được vời mà không tới, hoặc tới
mà trễ nãi, cử động sai quy luật, đó là
quân ngạo mạn, phải chém chúng.
Ban đêm thì kháo
chuyện gian dối, thường biếng nhác không hăng hái,
trù tính sai lầm, hiệu lệnh không rõ
ràng, đó là quân lười biếng, phải
chém chúng.
Thường nói lời oán
vọng, không được thưởng thì giận hờn, được chủ tướng
dùng thì tỏ ra cứng đầu khó trị, đó
là quân ngang dọc, phải chém chúng.
Tự xưng tên họ phẩm chức
mà cười nói, như là trên mình chẳng
có ai, bị ngăn cấm vẫn không chừa, đó là
quân kiêu căng, phải chém chúng.
Giữ khí giới mà để cung
nỏ đứt dây, tên thì thiếu mũi hay thiếu lông
đuôi, kiếm kích thì đùi lụt, cờ xí
rách nát, đó là quân lừa dối,
phải chém chúng.
Nói lời dối trá
bày đặt việc qủy thần, mượn chuyện mông mị, phỉnh gạt lại
sĩ, đó là quân yêu nghiệt, phải
chém chúng.
Đến nơi nào thí
phá phách nhân dân, hãm hiếp phụ nữ,
đó là quân gian tà, phải chém
chúng.
Miệng lưỡi sắc bén, hay
bàn phải trái, gieo oán giữa các lại sĩ,
khiến họ chẳng hòa hiệp, đó là quân dèm
pha, phải chém chúng.
Trộm tiền của người để làm của
mình, đoạt thủ cấp của người khác để dành
công lao về phần mình, đó là quân trộm
cắp, phải chém chúng.
Khi tướng quân tụ họp để
bàn mưu, mà đến gần trướng để nhìn trộm, nghe trộm
sự tình, đó là quân dọ thám,
phải
chúng.
Khi nghe được mưu kế và hiệu
lệnh của quân mình, mà bắn tiếng ra ngoài để
địch quân nghe được, đó là quân bội phản,
phải
chém
chúng.
Khi được sử dụng, mà câm
miệng chẳng đáp, gục đầu ủ rũ làm ra vẻ khó nhọc,
đó là quân hèn yếu, phải chém
chúng.
Chẳng giữ hàng ngũ, tranh
giành trước sau, nói năng ồn ào, chẳng theo cấm
lệnh, đó là quân lộn xộn, phải chém
chúng.
Giả vờ bị thương hoặc mang bệnh để
tránh việc khó nhọc, giả vờ cứu giúp kẻ thương
vong để lẩn xa, đó là quân dối trá,
phải chém chúng.
Khi giữ tiền của, đến lúc ban
thưởng lại tây vị những người thân thuộc khiến cho lại
và tốt hờn oán nhau, đó là quân thối
nát, phải chém chúng.
Thấy giặc mà không
xét, xét giặc mà không biết rõ, giặc
động mà nói không, giặc không động mà
nói có, giặc nhiều mà nói ít, giặc
ít mà nói nhiều, đó là quân lầm
lạc, phải chém chúng.
Tại chốn đồn trại, chẳng phải
lúc khao quân mà bày ra uống rượu, đó
là quân phóng đãng, phải chém
chúng.
Khi pháp lệnh trên
đã lập xong, trong lại sĩ có ai phạm phép
thì cứ theo phép mà xử chém.
190.- DÙNG BINH TRÊN
TÁN ĐỊA (ĐỊA PHẬN CỦA MÌNH):
Quân địch vào sâu
trong nước ta, mà thành quách chưa hoàn bị,
cỏ lương thiếu thốn, cố thủ thì không lơi. Bên ta
nên hẹn nhau quyết chiến, còn nếu sợ sệt mà thối
lui thì ắt chết. Ai bắt được gì, lấy được gì
thì ban thưởng. Ai làm tướng quay lui cũng đem
chém, gặp địch mà thân không định, số mục
thay đổi cũng chém; có sắc mặt lo buồn, nghiêng ngả
nhìn nhau mà nháy mắt bỏ bê chiêng
trống chẳng ứng đối, đều phải chém hết. Được một thủ cấp cũng
trọng thưởng, như thế mới có thể dùng binh trên
tán địa được.
191.- THƯỞNG PHẠT THEO LỄ NGHI:
Nếu bậc đại tướng cũng dùng lễ
nghi để thi hành việc thưởng phạt thì sĩ tốt không
hờn oán mà mọi người sẽ lo sợ.
Một là các điều
quân lệnh phải thật nghiêm khắc khi ra quân lần đầu
để cho tai mắt quân sĩ phải thấm nhuần, khiến chúng phải
tránh né không dám phạm vào.
192.- XỬ CHÉM:
Một là giả vờ có bệnh,
có ý muốn trốn. Đi nửa đường rồi bỏ trốn, thì phải
chém.
Một là cướp tiền của của
nhân dân và hiếp dâm phụ nữ, thì phải
chém.
Một là đào bới mồ mả để
lấy tiền của thì phải chém.
Một là tự ý vào
các đền, miếu để lấy các đồ vật thì phải
chém.
Một là ngầm giao thiệp
riêng với quân địch, làm tiết lậu quân cơ
thì phải chém.
Một là bỏ đội ngũ, tự ý
vào nhà dân mà ngủ nghỉ thì phải
chém.
Một là trong đêm
vô cớ la ó khiến quân sĩ lo sợ, thì phải
chém.
Một là trong đêm đốt lửa
không cẩn thận làm cháy dinh trại, thì phải
chém.
Một là canh giữ, tuần
phòng sơ xuất để quân địch thừa cơ lẻn vào
thì phải chém.
Một là tự ý giết tướng
và lính đến đầu hàng, thì phải chém.
Một là làm cho cha con,
chồng vợ của tướng lính đến đầu hàng phải xa nhau
thì phải chém.
Một là hiếp bức nhau,
đánh nhau đến nỗi chết người, thì phải chém, quản
viên cũng bị phạt.
193.- ĐÁNH ĐÒN:
Một là cướp tiền của, chọc
phá phụ nữ, thì phải đánh nhiều bằng gậy.
Một là chửi bới nhau,
trái với quân lễ thì phạt đánh bằng gậy.
Một là trên dưới tranh
giành nhau làm mất thứ tự, thì phải đánh
nhiều bằng gậy.
Một là nhận riêng rượu
và thức nhắm đến nỗi ăn nhằm thuốc độc của quân địch
thì quản viên chịu trọng tội.
Một là giao thiệp riêng
với thầy phù thủy, thầy bói, đồng cốt, bày đặt ra
việc họa phúc, gieo nghi ngờ trong quân ngũ, thì
phải đánh bằng gậy.
Một là say rượu, nói
bậy, chẳng giữ vị thứ, chờ tỉnh rượu xong sẽ đánh bằng gậy
và giảng luận cho nghe.
Một là phá phách
nhà cửa của nhân dân, bẻ hái hoa quả
thì phải đánh bằng gậy.
194.- KHẨU HIỆU:
Một là phát hiệu lệnh:
Buổi chiều trong quân ngũ hãy xét chung các
nhân viên. Tề hầu, Tham tán tới biên
lãnh khẩu hiệu. Mỗi canh đổi một khẩu hiệu. Một khẩu hiệu
có hai chữ. Hỏi chữ này phải đáp chữ kia.
Thí dụ: Hỏi võ thì đáp cường,
hỏi
dũng thì đáp an.
195.- ÁM HIỆU:
Quân đi mà không
thông đồng với nhau, ắt những nhóm bị phân chia
không thể kết hợp với nhau, những nhóm ở xa không
thể cứu ứng, đây đó đâu có thể hiểu nhau
được, đó là đường lối thất bại. Nhưng thông đồng
với nhau mà không kín đáo thì ngược
lại bị địch mưu toan phá hoại. Cho nên nếu không
dùng chiêng, cờ, không dùng ngựa chạy mang
lệnh tiễn, không đốt lửa, phun khói, thì lấy
gì mà thông báo những việc kinh động cấp
bách?
Hai quân gặp nhau thì
nên dùng ám hiệu để liên lạc với nhau, đi xa
ngàn dặm thì liên lạc bằng thư trắng (không
đọc được) viết bằng chữ không ra chữ, dùng lời văn
không hiểu được, không viết trên giấy. Kẻ mang thư
cũng không hiểu gì, dầu có tìm tòi
cũng không ra gốc tích. Thần diệu thay! Thần diệu thay!
Hoặc bị địch ngăn cách, hoặc bị mất liên lạc, hoặc ở
quá xa không kịp gặp nhau, ắt phải dùng cơ mưu để
thông tin theo cách trên.
196.- HIỆU LỆNH LÀ GỐC:
(Ngày xưa) Võ Vương
hỏi rằng: Nếu binh của ta bị phân ra ở nhiều nơi, muốn
chúng tụ hội đúng kỳ hạn, phải làm thế nào?
Thái Công
đáp: Theo phép dùng binh thì ba quân
đông đảo phải biết cách biến hóa phân hợp.
Bậc đại tướng trước hết phải định chỗ đánh và ngày
đánh rồi mới truyền hịch cho tướng sĩ biết ngày hẹn
đánh thành vây ấp, phải tụ hội nơi nào,
ngày đánh phải nói rõ, giờ khắc phải
đúng đắn. Đại tướng lập dinh, bày trận, xây dựng
viên môn, dọn đường để chờ tướng sĩ tới, xem thử ai tới
trước, ai tới sau. Ai tới trước hẹn thì thưởng, ai tới sau hẹn
thì chém, như thế xa gần đều chạy lại, ba quân đều
tới đủ để góp sức cùng đánh.
Vua hỏi: Thái
Công giảng bày sách Cấm Thư,
phép thắng bại ngũ âm như thế nào?
Thái Công
đáp: Theo phép dùng binh, hiệu lệnh là tai
mắt. Kẻ dùng binh mà không rõ hiệu lệnh cũng
như người mù đi đêm. Hạ thần xem phép dùng
binh trong kinh đều lấy hiệu lệnh làm gốc vậy.
Hết
Nguồn:
http://vnthuquan.net
Trang mạng Việt Nam Văn
Hiến
Trang Binh Thư Yếu Lược
www.vietnamvanhien.net
email: thuky@vietnamvanhien.net
Trang
mạng Việt Nam Văn Hiến là nơi bảo tồn di sản văn hóa của
Việt tộc
và phục hồi nền An Lạc
& Tự Chủ.
|
Binh Pháp Tôn Tử
Tôn Vũ và Sơ lược về Binh
pháp Tôn Tử
Tôn Vũ(LAC™) Nói đến các sách lược chiến đấu
thì trên thế giới có không ít, nhưng
không thể không nhắc đến “Thập Tam Thiên” (13 Chương)
của “Tôn Tử Binh Pháp”. Vậy bạn biết gì về
Tôn Tử Binh Pháp? Trong một đêm không
gió… không mưa… không sương… không trăng sao…
và đặc biệt là không ngủ (được)… Lắc đã ngồi
nghiền ngẫm cuốn Tôn Tử Binh Pháp này và
muốn giới thiệu cho mọi người biết những nét đặc sắc của
Tôn Tử Binh Pháp. Cuốn sách mà ngày
xưa là sách lận lưng của tướng soái xuất chinh
còn ngay nay là cuốn sách gối đầu của các
nhà tài phiệt, kinh doanh hàng đầu thế giới. Cuốn
binh thư đầu tiên của thế giới, đúc kết những kinh nghiệm
trận mạc của nhà quân sự hàng đầu thế giới:
Tôn Vũ.
I.
Tôn Vũ là ai?
Tôn Vũ (孫武 - pinyin: Sūn Wǔ), 554 - 496 trước Công Lịch,
là người gốc nước Tề (Trung Hoa). Ông sinh ra trong thời
loạn Xuân Thu Chiến Quốc (722 - 481 trước Công Lịch),
đây cũng là thời kỳ ra đời của Khổng Phu Tử, hay
còn gọi là Khổng Tử, học thuyết gia nổi tiếng với Nho học
và Đạo Khổng tồn tại và phát triển ở các
nước ảnh hưởng của văn hóa Trung Hoa cho tới tận ngày
nay. Xuân Thu Chiến Quốc là giai đoạn mà chiến
tranh và tư tưởng quân sự bao trùm gần như
là tất cả.
Ngay trong tên gọi của ông, chữ Vũ có nghĩa
là vũ khí, vũ lực. Ông đã làm quan
đến chức Phá Sở Đại Nguyên Soái, quân sư cho
vua Ngô Hạp Lư và đã lập được nhiều công lớn.
Vì nước Ngô mà ông đã đem ba (03) vạn
quân phá tan hai mươi (20) vạn quân của nước Sở để
vào Sính Đô, làm cho các nước Tề, Tấn
ở chung quanh phải khiếp sợ, đưa nước Ngô từ một tiểu quốc chư
hầu trở thành một đại quốc chư hầu có thể xưng
hùng xưng bá với 6 nước còn lại. Mặc dù
là một nhà quân sự lỗi lạc nhưng quan điểm của
Tôn Tử là hòa bình và thanh đạm. Do
không ham công hầu, danh tướng mà ông
đã về ở ẩn tại La Phù Sơn (núi La Phù),
thuộc nước Ngô và viết nên Thập Tam Thiên (13
chương) Binh Pháp, còn gọi là Tôn Tử Binh
Pháp (孫子兵法 - pinyin: Sun-tzu ping fa).
Tuy thời gian tham chiến không lâu nhưng những gì
ông đã để lại cho đời có giá trị rất lớn
và lâu dài.
II. Sơ
lược về Tôn Tử Binh Pháp
Binh
pháp Tôn Tu
Binh pháp Tôn Tử là cuốn binh thư bằng tiếng Trung
Quốc đầu tiên, được viết vào thế kỷ thứ 6 trước Công
Lịch. Bao gồm 13 chương, mỗi chương là một khía cạnh
khác nhau của chiến tranh quân sự, tập hợp các kỹ,
chiến thuật trong đấu tranh. Có thể xem đây là một
cuốn sách cổ xưa nhất về chiến thuật chiến tranh của thế giới.
Cuốn sách đã được dịch thành 29 thứ tiếng
và tạo được sức ảnh hưởng rất lớn về chiến thuật chiến tranh
quân sự từ Đông sang Tây bán cầu. Thậm
chí còn tạo ảnh hưởng đến thương mại và còn
hơn thế nữa. Tôn Tử là người đầu tiên nhận thấy được
tầm quan trọng của chiến thuật, kết hợp với các điều kiện,
hoàn cảnh để tác động đến đối phương.
Năm 1782, cuốn sách lần đầu tiên được dịch sang tiếng
Pháp, và đã gây ảnh hưởng rất mạnh mẽ cho
Hoàng đế Napoleon. Nhà lý luận quân sự nổi
tiếng người Anh, người đặt nền móng lý luận ”đại chiến
lược” Lydern Hatill không chỉ tự mình dịch toàn bộ
nguyên bản cuốn Tôn Tử Binh Pháp ra tiếng Anh
mà ông còn viết thêm một quyển “Luận chiến
lược” để dẫn giải và tường thuật lại. Hatill cho biết, trong
tác phẩm quân sự của ông, giải nghĩa rất nhiều quan
điểm tìm thấy qua nguyên bản cuốn Tôn Tử Binh
Pháp từ hơn 2500 năm trước. Nó cũng góp phần hoạch
định chiến dịch Bão Sa Mạc tại Kuwait năm 1991 của Quân Mỹ
và NATO. Theo ghi chép, cuốn sách là gối
đầu của các đại tướng, tướng quân nằm trong 10 đại tướng
của Thế Giới qua các thời đại như Võ Nguyên
Giáp, Trần Hưng Đạo (người đã viết ra Bình Thư Yếu
Lược). Mao Trạch Đông và Joseph Stalin cũng chịu ảnh hưởng
rất lớn từ cuốn sách này.
Nội dung của sách cũng đã được ứng dụng và rất
thành công trong lĩnh vực thương mại và quản
lý.
III.
Tôn Tử đã cầm quân bao nhiêu lần ?
Trong bộ sử ký của mình, Tư Mã Thiên
có viết về tài năng quân sự của Tôn Vũ
(Tôn Tử) như sau: “Tôn Vũ phía tây đại
phá nước Sở mạnh, phía Đông dẹp yên Tề, Tần
uy danh lừng lẫy khắp chư hầu, làm tướng như thế thật khó
ai so bì”. Quả thật trong 30 năm sự nghiệp quân sự của
mình, Tôn Vũ đã lập nhiều chiến công hiển
hách và luôn xứng đáng với những lời
tôn vinh trong sử sách. Tuy nhiên có một vấn
đề luôn gây ra sự tranh cãi kịch liệt từ trước đến
nay đó là: rốt cuộc Tôn Vũ đã thân
chinh chỉ huy bao nhiêu trận đánh. Vừa qua giới
nghiên cứu lịch sử cổ đại Trung Quốc khi đã nghiên
cứu, đối chiếu, tổng hợp, so sánh từ các sử liệu như:
“Ngô việt Xuân Thu”, “Việt sắc thư”, “Tả truyện”, “Sử
ký” đã đưa ra kết luận: Trong sự nghiệp quân dịch
của mình, Tôn Vũ chỉ trực tiếp chỉ huy 5 trận đánh
và chính 5 trận chiến “để đời” này đã
góp phần đưa tên tuổi của ông bất hủ cùng
thời gian.
* Lần
chỉ huy thứ nhất: Xảy ra vào tháng 12 năm 512
trước công nguyên, khi đó Ngô Vương là
Hạp Lư ra lệnh cho Tôn Vũ chỉ huy quân tiêu diệt 2
nước nhỏ là nước Chung Ngô và nước Từ. Trong lần
cầm quân đầu tiên này, Tôn Vũ đã xuất
sắc hạ gọn 2 nước trên đồng thời thừa thắng chiếm được đất Thư
thuộc nước Sở lập công lớn được Ngô Vương ban thưởng.
* Lần
chỉ huy thứ hai: Theo lệnh của Hạp Lư, năm 511 trước công
nguyên, Tôn Vũ lại thống lĩnh ba quân cùng Ngũ
Tử Tư, Bạch Hỷ đi chinh phạt nước Sở bởi lý do “Sở Vương từ chối
không chịu trao thanh bảo kiếm Trạm Lô cho Hạp Lư”. Dưới
quyền chỉ huy của Tôn Vũ quân Ngô đánh hai
trận thắng cả hai, chiếm gọn 2 xứ Lục và Tiềm thuộc đất Sở.
* Lần
chỉ huy thứ ba: xảy ra vào năm 510 trước công
nguyên, lúc này giữa nước Ngô và nước
Việt lần đầu tiên xảy ra cuộc chiến tranh quy mô lớn
mà sử sách còn ghi lại đó là cuộc
“Đại chiến Huề-Lý”. Trong cuộc chiến này lần đầu
tiên Tôn Vũ đưa ra cách dụng binh “Quý hồ
tinh bất quý hồ đa” trong đánh trận do vậy chỉ với 3 vạn
quân với phép dụng binh tài tình của
Tôn Vũ đã đánh bại 16 vạn quân nước Việt.
(Ghi chú: nước Việt này không phải là Việt
Nam của chúng ta, vì thời gian đó, chúng ta
là nước Âu Lạc).
* Lần
chỉ huy thứ tư: Vào năm 509 trước công nguyên
xảy ra cuộc “đại chiến Dự Chương” giữa hai nước Ngô và Sở.
Khi đó vua Sở sai con trai là công tử Tử Thương
và công tử Tử Phàm dẫn đại quân tiến
đánh nước Ngô, nhằm báo thù nỗi nhục mất đất
năm xưa. Một lần nữa Ngô Vương Hạp Lư lại giao cho Tôn Vũ
cầm quân chống giặc. Lần này Tôn Vũ khôn
khéo vòng tránh đội quân chủ lực của
công tử Thường, dùng lối đánh vu hồi tập
kích doanh trại bắt sống công tử Phàm, quân
Sở từ thế mạnh, chuyển sang yếu cầm cự chưa đầy một tháng phải
rút chạy về nước.
* Lần
chỉ huy thứ năm: Vào ngày 18-11-506 trước
công nguyên, 2 nước Ngô-Sở một lần nữa xảy ra chiến
tranh, sử sách gọi đây là “cuộc chiến Bách
Cử”. Đây là cuộc chiến lớn nhất trong lịch sử 2 nước. Lần
này quân Sở huy động 25 vạn quân tiến đánh
nước Ngô, khí thế báo thù rất sôi sục.
Theo kế của Tôn Vũ và Ngũ Tử Tư, vua Ngô bí
mật liên kết với 2 nước nhỏ là Đường và Thái
làm thành liên minh chống Sở. Khi tác chiến,
Tôn Vũ triệt để lợi dụng địa hình thuận lợi của 2 nước
“đồng minh” để triển khai chiến thuật “Khống chế chính diện”,
“Tập kích vu hồi mạn sườn” của mình. Sau 5 lần giao chiến
với quân Sở, Tôn Vũ đều giành thắng lợi. Cuối
cùng 3 vạn quân Ngô đã phá tan 25 vạn
quân Sở tiến vào kinh đô nước Sở buộc Sở vương phải
tháo chạy.
( File: pdf)
Nguồn:http://www.kinhluan.com/web/?frame=products&id=344&options=0
Trang
mạng
Việt
Nam
Văn
Hiến
là
nơi
bảo
tồn
di
sản văn hóa của
Việt tộc
và phục hồi nền An Lạc
& Tự Chủ.
Trang
mạng
Việt
Nam
Văn Hiến
Trang Quân Sự
www.vietnamvanhien.net
www.vietnamvnahien.org
www.vietnamvnahien.info
www.vietnamvnahien.com
Email:
thuky@vietnamvanhien.net
Lấy Nhân Tâm làm phương
tiện, dụng Dân Tâm làm kế sách "An Dân
- Lạc Quốc" là kim chỉ nam cuả thể chế dân chủ văn hiến.
|