(Bài
Nói Chuyện tại Buổi Họp Mặt Văn Hóa Phong
Châu Mở Hội Tiên Rồng tại San
José, Bắc Cali, Hoa Kỳ Ngày 12
Tháng 9, 2010).
Kính thưa
quí vị,
Tôi đã đầu tư một phần đời để đi
tìm cái căn cước Việt, cái sắc
thái Việt , cái bản sắc Việt và
đã viết ba bộ sách chính
mà tôi gọi là ba bộ sử là
Sử Sách, Sử Miệng và Sử Đồng. Quyển
thứ nhất sử sách là quyển Khai Quật
Kho Tàng Cổ Sử Hừng Việt dựa vào
các tài liệu sử sách. Quyển thứ
hai sử miệng là quyển Ca Dao Tục Ngữ Tinh Hoa
Dân Việt dựa vào các tài
liệu văn chương truyền khẩu và truyền thuyết.
Quyển thứ ba là sử đồng Giải Đọc Trống Đồng
Nòng Nọc, Âm Dương Đông Nam
Á dựa vào tài liệu khảo cổ học,
chính yếu là trống đồng nòng
nọc, âm dương của đại tộc Đông Sơn.
Hôm nay xin nói qua bộ sử đồng
này qua đề tài Trống Đồng Là
Trống Biểu Của Hùng Vương.
Kính thưa quí vị,
Qua các tác phẩm Khai Quật Kho
Tàng Cổ Sử Hừng Việt, Ca Dao Tục Ngữ Tinh Hoa
Dân Việt, Việt Dịch Bầu Cua Cá Cọc
và các bài viết của tôi
đăng trên blog
bacsinguyenxuanquang.Wordpress.com chúng ta
đã biết cốt lõi của văn
hóa Việt là Vũ Trụ Tạo Sinh
có tín ngưỡng là Vũ Trụ
giáo dựa trên nguyên lý
lưỡng hợp nòng nọc, âm dương,
chim-rắn, tiêu biểu là
Hùng Vương có bản thể lưỡng hợp
nòng nọc, âm dương có Mẹ
là Chim-Lửa Âu Cơ và Cha
Rắn-Nước Lạc Long Quân. Cốt lõi
Chim-Rắn này ngày nay chúng
ta gọi là Tiên Rồng như thấy qua
cái tên của buổi họp mặt văn
hóa hôm nay là Phong
Châu Mở Hội Tiên Rồng.
Và qua
tác phẩm Giải Đọc Trống Đồng Nòng
Nọc, Âm Dương Đông Nam Á, ta
cũng đã biết trống đồng của đại
tộc Đông Sơn là trống nòng
nọc, âm dương, trống biểu của Vũ Trụ
giáo. Vì thế trống đồng
nòng nọc, âm dương của đại tộc
Đông Sơn là bộ SỬ ĐỒNG của Đại Tộc
Việt, là VIỆT DỊCH ĐỒNG. Hiển nhiên
TRỐNG ĐỒNG NÒNG NỌC, ÂM DƯƠNG CỦA ĐẠI
TỘC ĐÔNG SƠN LÀ TRỐNG BIỂU CỦA
HÙNG VƯƠNG rất hợp lý.
TRỐNG ĐỒNG LÀ TRỐNG BIỂU CỦA
HÙNG VƯƠNG.
Trước hết ta hãy tìm hiểu tại sao
trống đồng lại dùng làm trống biểu cho
Hùng Vương?
1. Trống là biểu tượng văn
hóa, tín ngưỡng của ngành nọc
đực, trống, dương, mặt trời.
Mỗi một vị tù trưởng, một vị vua, một tộc,
một đại tộc, một quốc gia đều chọn một biểu tượng.
Hùng Vương cũng phải có một biểu
tượng. Một trong những biểu tượng của Hùng
Vương là trống đồng. Câu hỏi được
đặt ra là tại sao Hùng Vương lại chọn
trống đồng làm biểu tượng?
Xin thưa:
.1. Trống
có một nghĩa là trống
(đực như gà trống, trống mái)
nên trống thờ là biểu tượng
văn hóa, tín ngưỡng của ngành
nọc, đực, trống, dương, mặt trời (dương
có một nghĩa là mặt trời) ví dụ
điển hình là ở Nam Dương ngày
nay có những ngôi nhà
làng có để trống hay trang trí
trống gọi là haus tambaran, là
nhà trai tráng (bachelor’s house),
nhà phái nam (men’s house). Những
ngôi nhà trống này là di
duệ, con cháu của những ngôi nhà
nọc, nhà trống, nhà mặt trời thấy
trên trống đồng nòng nọc, âm
dương của đại tộc Đông Sơn. Trên trống
của đại tộc Đông Sơn ngôi nhà
nào có để trống hay bên cạnh
có dàn trống là ngôi
nhà nọc, nhà trống, nhà
phái nam, nhà mặt trời (của cả hai
ngành) (Giải Đọc Trống Đồng Nòng Nọc,
Âm Dương Đông Nam Á). Nhà
lang, nhà đình của chúng
ta giống như những ngôi nhà trống của
một vài tộc ở Nam Dương, là con
cháu của ngôi nhà nọc,
nhà trống, nhà mặt trời còn
thấy trên trống đồng nòng nọc, âm
dương (nhà đình là nhà
đinh, nhà tráng đinh, nhà con
trai, nhà phái nam, nhà trống.
Ngày xưa phụ nữ cấm không được bước
chân vào đình). Ví dụ
tiêu biểu nhất là tại đền Hùng
Vương có để một chiếc trống đồng. Như thế đền
Hùng Vương là nhà nọc,
nhà trống, là tổ đình mặt trời,
là đền thờ mặt trời, thờ các vua mặt
trời dòng thần mặt trời Viêm Đế. Văn
hóa trống là văn hóa của
ngành nọc, trống, dương, mặt trời. Trong khi
cồng là một thứ trống âm biểu tượng cho
văn hóa của các tộc thuộc ngành
âm (trống đồng lật ngược lên
thành cái cồng nồi mang âm
tính, xem dưới). Một số sắc tộc Tây
Nguyên có văn hóa cồng
chiêng. Họ có nguồn gốc là
các tộc ngành nòng, nước từ Nam
Đảo đi lên. Họ có truyền thuyết
nói rằng cồng chiêng là do một
người nữ sáng tạo ra. Trong mỗi bộ cồng bao
giờ cũng có một chiếc cồng chính gọi
là cồng Mẹ rồi mới đến cồng cha, cồng con.
Ta thấy rất rõ các con trai của
Hùng Vương gọi là Quan Lang là
Chàng Lang (tử nôm Tầy Quan là
Chàng), Lang là Chàng.
Chàng có một nghĩa là chiếc
chàng (chisel), chiếc đục, là đực,
trống, dương, mặt trời (Quan Lang có
chàng, có đục, Mẹ Nàng
có nàng, có nang, có
túi).
Hùng Vương có Hùng có
một nghĩa là đực, trống (thư hùng),
mặt trời.
Như thế tổng
quát trống là trống biểu của
các Lang Hùng và của
Hùng Vương có một nghĩa là
con trai, đực, trống, dương, mặt trời.
Đặc biệt hơn trống đồng còn có điểm
đặc biệt là bất cứ trống đồng nào cũng
có mặt trời ở tâm trống. Trống đồng
mà không có mặt trời ở tâm
trống không phải là trống đồng của đại
tộc Đông Sơn. Như thế trống đồng của đại tộc
Đông Sơn hiển nhiên có một
khuôn mặt biểu tượng cho ngành mặt
trời. Điểm này ăn khớp trăm phần trăm với
khuôn mặt mặt trời của các Lang
Hùng và Hùng Vương dòng
thần mặt trời Viêm Đế. Như thế trống đồng
có mặt trời ở tâm trống của đại tộc
Đông Sơn là trống biểu của các
Lang Hùng và Hùng Vương
có một khuôn mặt là mặt trời.
Tiến xa hơn, mặt trời ở tâm mặt trồng bao giờ
cũng nằm trong vòng tròn không
gian. Mặt trời-không gian là
nòng nọc, âm dương, lưỡng hợp ăn khớp
với bản thể lưỡng hợp chim-rắn của Hùng
Vương.
Tóm lại
.Trống biểu tượng cho ngành trống (đực,
hùng), cho Lang, Hùng.
.Trống đồng có mặt trời là trống biểu
của Lang, Hùng Vương dòng mặt trời
Viêm Đế (Đế Minh là cháu ba đời
thần mặt trời Viêm Đế).
.Trống đồng có mặt trời-không gian
lưỡng hợp, nòng nọc, âm dương là
trống biểu của Trăm Lang Hùng, của
Hùng Vương, Vua Mặt Trời có bản thể
lưỡng hợp chim-rắn dòng thần mặt trời
Viêm Đế.
Bằng chứng cụ thể
nhất là tại đền Hùng Vương tại Vĩnh
Phú cũng có để một chiếc trống đồng
Trứng Vũ Trụ Nguyễn Xuân Quang loại I giống
loại trống thùng (barrel drum) có
hình trứng (biểu tượng lưỡng hợp
nòng nọc, âm dương) nhưng vẫn
để hở đáy, giữ đúng theo truyền
thống của trống đồng nòng nọc, âm
dương (Giải Đọc Trống Đồng Nòng Nọc,
Âm Dương Đông Nam Á).
Xin
lưu ý
Tại sao tại đền tổ Hùng lại để
trống đồng hở đáy nòng nọc,
âm dương hìh trứng (trống Trứng
Vũ
Trụ Nguyễn Xuân Quang loại I) giống loại
trống thùng mà không để
các trống đồng loại khác thường
thấy hơn, quen thuộc hơn? Xin thưa vì
Hùng Vương lưỡng hợp sinh ra từ bọc Trứng
Vũ Trụ.
Tiến xa
thêm nữa, tất cả danh xưng của Đại
Tộc Việt thuộc ngành trống, dương, mặt
trời Hùng Vương dòng thần
mặt trời Viêm Đế đều có nghĩa
là nọc (bộ phận sinh dục nam,
đực, trống, dương, mặt trời…). Ví dụ thần
mặt trời Viêm Đế là «Trụ
Nóng, Nọc Nóng» (Viêm
là Nóng, Đế là Trụ nâng
đỡ như đế hoa). Ta thấy khuôn mặt
«Pillar of Fire» (Trụ Lửa một thứ Nọc
Nóng) của Shiva Ấn giáo có
biểu tượng là linga chính là
một khuôn mặt của Viêm Đế. Đế Minh
là cháu ba đời của thần mặt trời
Viêm Đế. Đế Minh là Cọc Sáng,
Cọc Ánh Sáng sinh ra vua tổ thế gian
của Đại Tộc Việt là Kì Dương Vương.
Kì Dương Vương có Kì
là Ki, Si (cây) là Kèo
(que, nọc) là đực, là trống,
là mặt trời (xem bài viết Kẻ Sĩ);
núi Kì là Núi Trụ thế
gian ; Lạc Long Quân con của Kì
Dương Vương có Lạc ,ngoài nghĩa
là Nước dương, hiểu theo diện ngành
mặt trời thái dương có nghĩa
là Gạc (bắn lạc = bắn gạc). Gạc có
một nghĩa là sừng (cọc nhọn) hàm
nghĩa nọc, đực, trống (như hươu gạc, muông
gạc, hươu sừng là hươu đực, hươu trống. Anh
ngữ hart, hươu sừng, hươu đực, theo g=h (gồi =
hồi), hart = gạc, Pháp ngữ garçon,
con trai, có gar- = gạc).
Lạc là gạc nước (ở dưới nước). Lạc Long
Quân có thú biểu là con
vật có sừng, có gạc sống được
dưới nước như con trâu, con cá sấu
(có vi sừng). Các tộc thuộc
dòng sống dưới nước, trên thuyền như
long nhân, long hộ có biểu tượng
là con rắn lạc có gạc. Các tộc
thuộc dòng đất có nước, ao đầm, ruộng
nước như Lạc Việt có biểu tượng con cá
gạc, con ngạc (Hán Việt là con
cá sấu), con cá sấu mõm dao,
rồng-cá sấu gạc mõm dao (xem dưới).
Và Hùng Vương đã nói ở
trên.
Ngay cả từ Việt có nghĩa là cây
vớt (con dao dài nhọn), là rìu
(vật nhọn) cũng có nghĩa ruột thịt với nọc,
trống, dương, mặt trời. Người Việt là Người
Mặt Trời… ( xem Việt Là Gì ? Khai
Quật Kho Tàng Cổ Sử Hừng Việt).
Tóm lại
tất cả danh xưng của Đại Tộc Việt đều có
nghĩa là nọc (bộ phận
sinh dục nam, đực, trống, dương, mặt trời…)
thuộc ngành trống, dương, mặt trời
Hùng Vương dòng thần mặt trời
Viêm Đế. Hùng Vương, Đại Tộc Việt
dùng trống làm biểu tượng
thích hợp trăm phần trăm.
Nếu còn ai
chưa chịu tin, ta có thể kiểm chứng với
những nền văn hóa thờ mặt trời nổi tiếng
nhất thế giới:
a. Các vị
vua mặt trời Pharaohs của Ai Cập con cháu
của thần mặt trời lưỡng hợp Ra, Re cổ đều có
biểu tượng nọc, đực, nam… diễn tả bằng chòm
râu dê biểu tượng cho dương
tính, nam giới ở dưới cằm. Ngay cả nữ
hoàng Hatshepsut thoán quyền tự xưng
mình là một Pharaohs các
hình tượng của bà cũng có
chòm râu dê ở dưới cầm
và vị Pharaoh vị thành niên
Tutankhamun chết vào lúc khoảng mười
hai tuổi cũng có chòm râu
dê. Con dê sừng biểu tượng cho nọc,
trống, đực, nam có chòm dâu
dê có một khuôn mặt là
biểu tượng cho thần mặt trời Ai Cập cổ. Các
vua mặt trời Pharaohs đều là có biểu
tượng nam giời tương đương với các
Hùng Vương đều là những Lang
những chàng.
b. Các tộc
thổ dân cổ Peru nói ngôn ngữ
Quechua ở vùng núi Andes thờ mặt
trời, trong đó có đế quốc Inca thờ
thần mặt trời Inti ta thấy “In the Native American
languages of the Andes, the concepts of
‘ancestor’, ‘lineage’ and ‘penis’ are linked
linguistically and metaphorically” (Salomon
1991:20; Zuidema 1977:256) (Trong ngôn ngữ
Thổ Dân Mỹ châu vùng Andes,
quan niệm về “tổ tiên”, “nòi giống”
và “dương vật” nối kết về ngôn ngữ
và ẩn ý). Hai tác giả
này không nhìn theo Vũ Trụ Tạo
Sinh, Vũ Trụ giáo nên dừng lại ở
nghĩa nọc nguyên thủy là bộ phận sinh
dục nam không chọn nghĩa mặt trời. Ở đây nọc,
dương, penis phải lấy theo nghĩa biểu tượng triết
thuyết là mặt trời mới chỉnh. Ta thấy họ
giống hệt trăm phần trăm như chúng ta
vì họ và chúng ta đều
là Người Mặt Mặt Trời. Chúng ta
có tổ tiên là Tổ Hùng
có một nghĩa là Đực, Trống, bộ phận
sinh dục nam, mặt trời thuộc giống Việt Người Mặt
Trời con cháu Thần Mặt Trời Viêm Đế
còn họ là con cháu thần mặt
trời Inti. Tên tổ tiên nòi
giống của họ liên hệ với penis hay có
ẩn nghĩa penis giống hệt trăm phần trăm tất cả
danh xưng của Đại Tộc Việt thuộc ngành
trống, dương, mặt trời Hùng Vương
dòng thần mặt trời Viêm Đế đều
có nghĩa là nọc
(bộ phận sinh dục nam, đực, trống, dương, mặt
trời…).
Ta thấy rất rõ như dưới
ánh sáng mặt trời là
Hùng Vương con cháu của thần mặt
trời Viêm Đế giống trăm phần trăm
với các vua mặt trời Pharaohs, con
cháu của thần mặt trời Re, Ra và
với các dòng vua Inca là
con cháu thần mặt trời Inti. Ba nền văn
hóa thờ mặt trời này đều có
triết thuyết Vũ Trụ Tạo Sinh, có Vũ Trụ
giáo dựa trên nguyên
lý lưỡng hợp nòng nọc, âm
dương như nhau (xem các
bài viết Sự Tương Đồng Giữa Cổ Sử Việt Với Ai
Cập Cổ và Với Inca).
Xin lưu ý
Qua những điều vừa thấy, ta phải hiểu,
phải diễn dịch truyền thuyết bọc trứng nở ra
trăm lang Hùng toàn là con
trai là bọc Trứng Vũ Trụ, bọc Trứng
không gian-mặt trời. Khi bọc trứng nở ra,
tách ra (phân cực) làm hai,
ta có phần thứ nhất là mặt trời,
là nọc, là dương, là
đực, là đục (chisel) là
chàng (có một nghĩa là
chisel), là Lang, là Hùng,
là phái tu mi nam tử vua mặt trời
Pharaohs, là các vua cọc, cược
(penis), mặt trời của đế quốc mặt trời Inca
và phần thứ hai là không
gian, là nòng, là nang(
bọc, túi), là nàng,
là các mẹ nàng. Các
Lang có chàng thuộc ngành
nọc dương mặt trời. Các mẹ nàng
có nang, có túi, có
bọc thuộc ngành nòng không
gian.
Truyền thuyết ghi bọc trứng nở ra trăm
lang Hùng toàn là con trai
là chỉ có ý
nói về phía ngành Lang
Hùng, Hùng vương mặt trời
mà thôi và cho biết
các Lang là dòng mặt trời.
Như thế trăm phần trăm Hùng Vương là
vua mặt trời (đúng trăm phần trăm theo truyền
thuyết Đế Minh là cháu ba đời thần mặt
trời Viêm Đế), Văn Lang là đế quốc mặt
trời, Đại Tộc Việt là Đại Tộc Người Mặt Trời.
Điểm này còn ghi khắc trong sử đồng
của đại tộc Đông Sơn (xem dưới).
Do đó trăm phần trăm trống đồng
nòng nọc âm dương có
hình mặt trời-không gian ở tâm
trống là trống biểu của Vua Trống
Hùng Vương mặt trời lưỡng hợp của Đại Tộc
Việt dòng thần mặt trời Viêm Đế.
2. Trống đồng là trống nòng
nọc, âm dương biểu tượng cho Hùng
Vương lưỡng hợp.
Không phải
trống nào cũng dùng làm trống
biểu cho Hùng Vương lưỡng hợp. Như
đã nói phải là trống
nòng nọc, âm dương.
Về hình
thức trống đồng có mặt đáy để hở
là mặt âm và mặt đặc là
mặt dương, trống đồng là trống nòng
nọc, âm dương. Về nội dung, chủ thể của
trống đồng là hình mặt trời ở
tâm trống bao giờ cũng nằm trong không
gian có vỏ là vòng
tròn bao quanh đỉnh các nọc tia
sáng, có nghĩa là trống đồng
có mặt trời-không gian ở tâm
trống. Trống đồng là trống mặt
trời-không gian, trống vũ-trụ, trống Trứng
Vũ Trụ, trống nòng nọc, âm dương.
Điểm này ăn khớp với khuôn mặt lưỡng
hợp chim-rắn Mẹ Âu Cơ- Cha Lạc Long
Quân của các Lang Hùng,
Hùng Vương. Như thế trống đồng nòng
nọc, âm dương của đại tộc Đông Sơn
có một khuôn mặt là trống biểu
của các Lang Hùng, Hùng Vương
lưỡng hợp.
Nếu nhìn theo duy dương ngành mặt
trời thì mặt trời nằm trong không gian
là mặt trời mang tính không
gian, mang tính sinh tạo, tạo hóa.
Điểm này cũng ăn khớp với các Lang
Hùng (con trai, mặt trời) sinh ra từ bọc
trứng không gian. Như thế trống đồng
nòng nọc, âm dương cũng có một
khuôn mặt biểu tượng cho các Lang
Hùng sinh ra từ bọc không gian, cho
các Hùng Vương có một
khuôn mặt là mặt trời sinh tạo, tạo
hóa giống như mặt trời sinh tạo, tạo
hóa (sun as Creator) Ra hay Re của Ai Cập cổ.
3. Mặt
trời-không gian ở tâm mặt trống
là Trứng Vũ Trụ là Bọc Trứng
Hùng Vương.
Nhìn dưới diện nhất thể, mặt
trời-không gian ở tâm mặt trống
là bọc Trứng Vũ Trụ, bọc trứng Hùng
Vương.
Mặt trời có
nọc tia sáng hình nọc mũi tên
(mũi mác, răng cưa, răng sói) nằm
trong vòng tròn không
gian trên trống đồng âm dương Ngọc Lũ
I mang hình ảnh Bọc Trứng Lang Hùng.
Bọc Trứng Hùng Lang mặt trời-không
gian viết theo chữ viết nòng nọc vòng
tròn-que là chữ chấm vòng
tròn.
Chữ chấm
vòng tròn diễn tả bọc trứng Lang
Hùng lưỡng hợp mang hình ảnh
Trứng Vũ Trụ.
Đây cũng chính là linh tự
(hieroglyph) Ra, Re thần mặt trời Tạo Hóa
(Sun as Creator) của Ai Cập cổ. Tổ Hùng
có một khuôn mặt sinh tạo tạo
hóa như thần mặt trời Ra vì cả hai đều
có bản thể lưỡng hợp nòng nọc,
âm dương.
Cũng nên biết chữ vòng tròn
có chấm hay chấm vòng
tròn này là chủ điểm của
tác phẩm The Lost Symbol của Dan Brown. Dan
Brown giải thích the Lost Symbol này
chưa hết ý nghĩa theo chữ viết nòng
nọc vòng tròn-que, theo Dịch
nòng nọc, âm dương.
4.
trống đồng nòng nọc, âm dương
là trống diễn tả thuyết Vũ Trụ Tạo Sinh,
là trống biểu của Vũ Trụ giáo, cốt
lõi của văn hóa Đại Tộc Việt.
Nòng nọc,
âm dương là nền tảng của Vũ Trụ Tạo
Sinh. Hùng Vương mang trọn ý nghĩa
của triết thuyết Vũ Trụ Tạo Sinh, Vũ Trụ
giáo, dựa trên nền tảng nguyên
lý lưỡng hợp nòng nọc, âm
dương, chim-rắn.
Xin sơ lược kiểm
điểm so sánh Hùng Vương và
trống đồng nòng nọc, âm dương dựa
theo Vũ Trụ Tạo Sinh, Vũ Trụ giáo. Xin nhắc
lại sơ qua về quá trình của Vũ
Trụ Tạo Sinh là khởi đầu từ Hư Vô
(Vô Cực), sau đó cực hóa
có âm dương nhưng còn quyện
vào nhau dưới dạng Trứng Vũ Trụ
(Thái cực). Thái Cực phân cực
thành hai cực âm dương Lưỡng Nghi.
Lưỡng Nghi giao hòa sinh ra Tứ Tượng. Tứ
Tượng dương liên tác với tứ
tượng âm sinh ra vũ trụ muôn sinh gọi
là Tam Thế. Tam Thế với Trục Thế Giới tạo
thành Cây Vũ Trụ (Cây Tam Thế,
Cây Đời Sống)…
-Hư Vô, Hư
Không,
Không Gian.
Hư không là khởi điểm và cũng
là điểm cuối cùng của Vũ Trụ Tạo Sinh,
của vòng sinh tử, tử sinh. Trong
các nền văn minh cổ đại trong đó
có cổ Việt, con người khi chết được
chôn trong các vò, chum, vật
đựng hình tròn, hình trứng,
hình dạ con biểu tượng cho hư không,
Trứng Vũ Trụ, dạ con vũ trụ. Người chết được đặt ở
tư thế thai nhi ngồi trong bụng mẹ. Người chết ngồi
trong dạ con của mẹ vũ trụ để trở về với hư
không, bầu vũ trụ, để được tái sinh hay
sống hằng cửu.
Trống có một nghĩa là không.
Trống không. Như thế trống có một
khuôn mặt biểu tượng cho hư không. Tiếng
trống là tiếng nói của hư không.
Trống đồng cũng có một khuôn mặt biểu
tượng cho hư vô, hư không thấy qua một
chức vụ của trống đồng nòng nọc, âm
dương là dùng chôn đầu sọ, tro
than người chết đẻ hồn người chết trở về hư
vô. Các tù trường, các vị
vua, quan khi chết có trống đồng chôn
theo. Về sau dùng các lọai trống nhỏ
cao chừng ba bốn phân Tây (cm) gọi
là trống minh khí, dùng như một
vật tùy táng thay cho trống lớn.
Các trống minh khi này dùng như
một thứ bùa mệnh, một thứ la bàn hay
một thứ thông hành (pass-port)
giúp hồn người chết trở về hư vô, trở
về miền hằng cửu. Trống minh khí giống như
các con bọ hung scarabus của Ai Cập cổ bỏ
trong các quan tài chôn theo
người chết.
Trống (con trai)
Lang Hùng nguyên thủy sinh ra từ
cái bọc
có một khuôn mặt là bọc Hư
Vô, Hư Không.
-Thái cực
Hư không cực hóa có nòng
nọc, âm dương nhưng mới đầu nòng nọc,
âm dương còn quyện vào nhau ở
trạng thái nhất thể gọi là Trứng Vũ
Trụ, Thái Cực.
Dưới diện nhất thể bọc trứng Hùng Vương mang
hình ảnh Trứng Vũ Trụ, Thái Cực.
Trống biến âm với trấng, trứng. Trống
có một khuôn mặt biểu tượng cho Trứng
Vũ Trụ.
Như đã nói, tại đền Hùng Vương
có treo một chiếc trống đồng hình
trứng. Trống này là trống Vũ Trụ
Nguyễn Xuân Quang I có hình
trứng giống như các trống thủng trường
làng (Giải Đọc Trống Đồng Nòng Nọc,
Âm Dương Đông Nam Á). Dưới diện
nhất thể, mặt trời-không gian ở tâm mặt
trống là Trứng Vũ Trụ, Thái Cực,
là hình ảnh của bọc trứng Lang
Hùng. Dưới diện nhất thể, như đã
nói, Hùng Vương có bản thể
nòng nọc, âm dương chim-rắn còn
thấy trong sử đồng qua hình chim lửa mỏ
rìu nằm trong miệng rắn nước ở đầu các
con thuyền trên trống đồng âm dương Ngọc
Lũ I và Hoàng Hạ. Đây là
dạng lưỡng hợp cổ sơ nguyên thủy của Đại Tộc
Việt. Về sau này chim-rắn thần thoại
hóa thành Tiên-Rồng.
Trống đồng
nào không có mặt trời nằm
trong vòng tròn vỏ không gian
ở tâm mặt trống không phải là
trống đồng nòng nọc, âm dương của đại
tộc Đông Sơn.
-Lưỡng
nghi:
Khi phân
cực, bọc Trứng Vũ Trụ tách ra hai cực
nòng và nọc, âm và
dương.
Bọc Trứng Hùng Vương mặt trời-không
gian phân cực ra cực dương, ngành nọc
dương, mặt trời trăm quan Lang và cực
âm, ngành nòng không gian
trăm mẹ Nàng. Theo duy dương, ngành
nọc mặt trời, trăm Lang lại chia ra 50 Lang thuộc
ngành Nọc Việt mặt trời Lửa, nhánh mặt
trời nọc dương Viêm Đế và 50 thuộc Nọc
Việt mặt trời Nước nhánh mặt trời nọc
âm Thần Nông của ngành nọc mặt
trời thái dương.
Về phía trống đồng nòng nọc, âm
dương, tất cả các chi tiết trên trống
đồng đều diễn tả theo hai khuôn mặt
nòng nọc, âm dương. Ở đây chỉ xin
đưa ra một ví dụ điển hình là
mặt trời với hai loại tia sáng nòng
nọc, âm dương: tia sáng nọc mũi
tên (mũi mác, răng cưa, răng
sói) như đã thấy trên trống đồng
âm dương Ngọc Lũ I thuộc ngảnh nọc Việt mặt
trời Lửa thái dương và vòng
ánh sáng nòng vòng
tròn thấy ở trên trống Đào
Xá thuộc ngảnh nòng Việt mặt trời Nước
thái dương.
Trống Đào
Xá có ánh sáng
âm nòng vòng tròn.
Ta thấy trong
các nền văn hóa thờ mặt trời, duy
chỉ có văn hóa của đại tộc
Đông Sơn thờ mặt trời còn giữ được
ánh sáng ở dạng nòng nọc
vòng tròn-que nguyên thủy. Ở
các nền văn hóa thờ mặt trời
khác, mặt trời chỉ có một loại
ánh sáng hình nọc que hay nọc
mũi tên (mũi mác, răng cưa, răng
sói) mang dương tính của thời phụ
quyền ngự trị và ánh sáng
mang âm tính chỉ là dạng
âm hóa của ánh sáng
hình nọc, trở thành ánh
sáng hình cong, hình gợn
sóng, hình xoắn… Ta thấy
rõ văn hóa thờ đạo mặt trời của đại
tộc Đông Sơn thuộc đạo gốc Vũ Trụ
giáo hãy còn chính
chuyên nòng nọc, âm dương. Điểm
này giống như Dịch trên trống đồng
nòng nọc, âm dương Đông Sơn hai
hào âm dương còn viết theo chữ
viết nòng nọc vòng tròn-que
trong khi Dịch Trung Hoa cả hai hào đều
viết theo nọc que (hào dương nọc que liền
và hào âm nọc que đứt
đoạn). Như thế Dịch Trung Hoa là Dịch muộn
thời phụ quyền ngự trị, có sau thứ
Dịch nòng nọc vòng
tròn-que Đông Sơn.
-Tứ tượng
Lưỡng nghi liên tác sinh ra bốn
Nguyên Sinh Động Lực Chính gọi
là tứ tượng.
Về hình
dạng trống dựa theo sự phân loại của Nguyễn
Xuân Quang gồm có 6 loại. Như
đã thấy trống để ở đền Hùng Vương,
Vĩnh Phú là trống Vũ Trụ Nguyễn
Xuân Quang loại I, là trống Trứng Vũ
Trụ. Dưới diện lưỡng cực, trống này
có một khuôn mặt là trống
lưỡng nghi giao hòa sinh ra bốn loại trống
kế tiếp ứng với tứ tượng. Đối chiếu với truyền
thuyết và cổ sử Việt, bốn loại trống tứ
tượng ứng với bốn tổ phụ Đế Minh, Kì Dương
Vương, Lạc Long Quân, Hùng
Vương. Bốn loại trống ứng với tứ tượng
là:
-Trống hình trụ ống Nguyễn Xuân Quang
loại II (NXQ.II) hay Trống Tượng Lửa Dương, Lửa Vũ
Trụ, Trống Mặt Trời Lửa, Trống Thái Dương,
Trống Càn, Trống Cực Dương ứng với Đế Minh.
Trống moko của Nam Dương là một loại NXQ II
biến thể.
-Trống hình lọng Nguyễn Xuân Quang
loại III (NXQ.III): Trống Tượng Gió Dương,
Trống Mặt Trời Gió, Trống Thiếu Âm,
Trống Đoài vũ trụ, (Heger III) ứng với
Hùng Vương Bầu Trời Gió thấy nhiều ở
tộc Shan ở miền Đông Bắc Myanma.
-Trống hình cái âu Nguyễn
Xuân Quang loại IV (NXQ.IV): Trống Tượng Nước
Dương, Trống Mặt Trời Nước, Trống Thái
Âm, Trống Chấn (Heger IV) thấy nhiều ở Nam
Trung Hoa ứng với Lạc Long Quân.
-Trống Nguyễn Xuân Quang loại V (NXQ.V):
Trống Tượng Đất Dương, Trống Núi Nổng, Trống
Trụ Chống Trời, Trống Mặt Trời Đất, Trống Lửa Thế
Gian, Trống Thiếu Dương, Trống Li, Trống Trục Thế
Giới (Heger II) ứng với Kì Dương Vương, thấy
nhiều ở các tộc miền núi ở Bắc Việt
(ăn khớp trăm phần trăm với tộc Kẻ, Xích Quỉ
của Kì Dương Vương Núi Trụ Thế Gian).
Qua sự phân bố của các loại trống ta
cũng xác định đại lược được biên giới
của liên bang Văn Lang. Theo truyền thuyết
và cổ sử Việt nước Văn Lang Đông
giáp Nam Hải, đây là những tộc
Nam Dương có trống NXQ II, tức Moko
hình trụ; Tây giáp Ba Thục, Tứ
Xuyên, đây là những tộc Shan
có trống NXQ III, ngày nay người Shan
ở vùng Đông Bắc Myanma (Miến Điện)
nói tiếng Tai-Kadai (Tầy Thái)
liên hệ với Ba Thục Tứ
Xuyên; Bắc tới Động Đình Hồ,
đây là những tộc Nam Trung Hoa
có trống NXQ IV (mấy năm trước đây
có đào được một trống Đông Sơn ở
xa mãi tận Triết Giang) và Nam tới
nước Hồ Tôn, đây là những tộc nối
dài của vùng núi đất Bắc Việt
hiện nay có trống NXQ V (ngày nay
còn đào tìm được những trống
đồng ở miền Nam Việt Nam còn xa
hơn biên giới nước Hồ Tôn Chiêm
Thành).
Bốn trống ứng với tứ tượng này là bốn
trống ứng với Tứ Dân của Đại Tộc Việt. Bốn
trống tứ tượng này hợp lại sinh ra
trống Cây Nầm Vũ Trụ (Cây Tam Thế,
Cây Đời Sống) Nguyễn Xuân Quang VI
(Heger I).
Tứ Tượng dương liên tác với tứ tượng
âm sinh ra vũ trụ muôn loài gọi
là Tam Thế. Tam thế có trục
thông thương là Trục Thế Giới. Tam Thế
và Trục Thế Giới tạo thành Cây
Tam Thế (Cây Vũ Trụ, Cây Đời Sống)
có trống biểu là trống Cây
Nấm Vũ Trụ Nguyễn Xuân Quang VI (Heger I).
Trống Cây Nấm Vũ Trụ Nguyễn Xuân Quang
VI hay còn gọi là trống Đông Sơn
vì tìm thấy nhiều nhất ở miền Bắc Việt
Nam.
Như thế ta thấy rõ qua hình dạng
và sự phân bố của các loại trống
ta thấy được liên bang Văn Lang có
trống biểu cho cả liên bang là trống
Đông Sơn, trống Cây Vũ Trụ (Cây
Tam Thế, Cây Đời Sống) Nguyễn Xuân Quang
VI (Heger I). Vùng đồng bằng sông Hồng
nơi có nhiều trống Đông Sơn và
có những trống Đông Sơn tinh vi nhất
mang trọn ý nghĩa thuyết vũ trụ tạo sinh như
trống đồng âm dương Ngọc Lũ I là
mẫu quốc, là đầu não, là trục
hành chính, là đất, là
nơi cai trị, cai quản toàn thể đế quốc Văn
Lang. Còn tứ dân của liên bang
Văn Lang ứng với tứ tượng có bốn trống biểu
ứng với tứ tượng ở bốn vùng có
biên giới của nước Văn Lang đúng theo
truyền thuyết đã ghi. Rõ ràng
trống đồng là một bộ cổ sử đồng của Đại Tộc
Việt.
Về nội dung, xin đưa ra một hai ví dụ điển
hình:
-Hình thái tứ tượng ở các
khoảng không gian giữa các nọc tia
sáng mà các tác giả hiện
nay gọi nhầm là “họa tiết lông
công”.
Tôi gọi đây là hình
thái tứ tượng vì hình gồm
có bốn chữ viết nòng nọc vòng
tròn-que. Ở tâm là hình
hai giọt nước có đuôi rơi từ trời
xuống, trong có dấu vòng tròn
chấm, theo duy dương có nghĩa là nước
dương, chuyển động, nước mưa ứng với Chấn Lạc Long
Quân. Chữ thứ hai hình nọc mũi
tên (mũi mác, răng cưa, răng
sói) có nghĩa là nọc lửa vũ trụ
ứng với Càn Đế Minh. Chữ thứ ba có
hình bờm gió, rèm gió
có nghĩa là nọc gió ứng với
Đoài Hùng Vương bầu trời. Chữ thứ tư
hình núi tháp do hai chữ nọc
mũi tên lồng vào nhau có
đánh dấu chấm nọc là đất lửa, dương
ứng với Li Kì Dương Vương.
Ta thấy rất rõ mặt trời là nọc,
dương, không gian bao quanh mặt trời là
nòng âm giao hòa với nhau sinh
ra tứ tượng được diễn tả bắng hình
thái tứ tượng ở khoảng không gian nằm
giữa các nọc tia sáng.
-qua các
tộc cò:
Hầu hết
trên trống đồng nòng nọc của đại tộc
Đông Sơn có hình cò
bay. Cò là loài chim sống ở
bờ nước chỉ biết lội nước, chân không
có màng nên không biết
bơi (“lộn cồ xuống ao” là phải kêu
cứu “ông ơi ông vớt tôi
vào”, nếu không sẽ chết đuối)
có mang ít âm tính tức
thiếu âm (trong khi loài chim nước
chân có màng biết bơi như
nông, ngỗng mang tính thái
âm). Cò có mỏ dài mang
dương tính nhưng nhỏ, thanh tao mang
âm tính tức thiếu âm. Dưới dạng
nhất thể cò là chim dương có
mang âm tính ứng với khuôn mặt
sinh tạo lưỡng hợp của Tổ Hùng Vương sinh
tạo, tạo hóa. Dưới diện tứ tượng, con
cò mang tính thiếu âm, về vật
thể, là nguyên thể của gió ứng
với khuôn mặt bầu trời gió của
các Hùng Vương thế gian, lịch sử.
Nói chung con cò là chim biểu
của Tổ Hùng và Hùng Vương.
Trống đồng nòng nọc, âm dương của đại
tộc Đông Sơn hầu hết có hình
cò là trống biểu của Hùng
Vương của Đại Tộc Việt.
Hiển nhiên cò trên trống đồng
phải có bốn loại cò ứng với tứ tượng,
với bốn khuôn mặt của bốn tổ phụ của
chúng ta là Đế Minh, Kì Dương
Vương, Lạc Long Quân và Hùng
Vương.
Cò
Tượng Lửa
Cò Lửa là cò nọc mang nhiều
dương tính, thái dương, có mỏ
dài, to, khỏe ví dụ như mỏ cò
trên trống đồng âm dương Đông Sơn
IV trông cương cường giống bộ phận sinh dục
nam đang cương cứng. Trong mỏ, tên cò
được viết bằng chữ que nọc mang nghĩa cọc, dương,
lửa.
Lưu ý cò Lửa này không
có bờm. Đây là con cò Nọc
lửa vũ trụ Càn Đế Minh.
Cò Tượng Đất
Cò Đất
dương, Cò Núi, Cò Đá,
Cò Li có mỏ được diễn tả bằng mỏ
hình rìu, búa chim và
có bờm hình núi tháp
nhọn. Ví dụ hình cò
trên trống Hà Nội I.
Đây là con cò Nọc búa,
rìu đất Li Kì Dương Vương.
Cò Tượng Gió
Cò
Gió có bờm gió như thấy
trên trống đồng âm dương Ngọc Lũ I.
Cò có bờm hình phướn
gió, có mỏ được diễn tả bằng mỏ nọc
dài có dương tính nhưng thanh
nhã mang thêm âm tính,
dương của âm là thiếu âm, về
vật thể là nguyên thể của gió.
Cò
Gió, Cò Lang trên trống đồng
âm dương Ngọc Lũ I.
Đây là
con cò gió, cò Lang
(có một nghĩa là trắng. Mầu trong,
trắng là mầu của gió), cò
Đoài vũ trụ của Hùng Vương bầu trời.
Hiện nay các nhà làm văn
hóa lấy con cò trên trống đồng
âm dương Ngọc Lũ I này làm
logo gọi là chim Lạc, một trăm phần trăm
sai (xem bài viết Chim Lạc hay Cò
Lang?).
Cò
Tượng Nước
Cò nước,
cò mưa, cò sấm, tức cò
chớp-mưa, cò lửa-nước, cò nước
dương, cò Lạc, có mỏ cong mang
âm tính như thấy trên trống
Hàng Bún.
Cò mưa
có mỏ cong âm trên trống
Hàng Bún.
Hay rõ hơn trên cánh có
hình sóng nước như thấy trên
trống Hữu Chung.
Đây
là những con cò Nọc nước , cò
Lạc Chấn Lạc Long Quân.
-Tam thế
Tứ tượng dương
liên tác với tứ tượng âm
sinh ra vạn vật muôn sinh vũ trụ được chia
ra làm ba cõi gọi là Tam Thế:
Thượng, Trung và Hạ Thế.
Cơ thể học trống
đồng nòng nọc, âm dương cho thấy
trống đồng nòng nọc, âm dương gồm
có Tam Thế (Giải Đọc Trống Đồng Nòng
Nọc, Âm Dương Đông Nam Á).
Tam Thế thấy
rõ qua đền Tổ Hùng ở Vĩnh Phú
gốm có ba tầng đền: đền Thượng, đền Trung
và đền Hạ (xem bài viết Cấu
Trúc Đền Hùng Vương).
-Cây
Vũ Trụ (Cây Tam Thế, Cây Đời Sống)
Tam thế được nối liền với nhau bằng một cây
trục gọi là Trục Thế Giới. Tam Thế và
Trục Thế Giới tạo thành hình một
cây gọi là Cây Tam Thế (Cây
Vũ Trụ, Cây Đời Sống).
Như đã thấy sáu loại trống trong
phân loại của tôi gồm có trống Vũ
Trụ NXQ I hình trứng (hiện để tại đền
Hùng Vương, Vĩnh Phú) sinh ra bốn loại
trống ứng với tứ tượng. Bốn loại trống tứ
tượng liên tác sinh ra trống Cây
Nấm Vũ Trụ NXQ VI (Heger I).
Trống đồng nòng nọc, âm dương mang
trọn vẹn thuyết Vũ Trụ Tạo Sinh là trống
Cây Nấm Vũ Trụ Nguyễn Xuân Quang VI.
Tôi cũng
khám phá ra một thứ trống minh
khí hình Cây Vũ Trụ
trông giống hệt chiếc đèn đá
Cây Vũ Trụ hiện đang được trưng bầy tại Viện
Bảo Tàng Lịch Sử ở Hà Nội.
Trên các con thuyền phán
xét linh hồn ở trống đồng âm dương Ngọc
Lũ I và các trống họ hàng
có những trống Cây Vũ Trụ.
Núi Nghĩa
Lĩnh có đền Hùng Vương Tam Thế mang
hình ành Cây Vũ Trụ (Cây
Tam Thế, Cây Đời Sống). Nghĩa là ơn
(nghĩa), tạ ơn. Lĩnh là núi nhọn
đỉnh, núi nọc, núi dương ăn khớp với
Hùng Vương (lĩnh biến âm với
lính, ngày xưa chỉ con trai,
phái nam mới đi lính và
liên hệ với Ấn ngữ linga, bộ phận sinh dục
nam). Lĩnh tương đương với từ cổ Việt nổng
(gò nổng) là núi hình
trụ chống (nổng biến âm với nống là
chống). Nghĩa Lĩnh là Núi Trụ
Chống Trời, Núi Trục Thế Giới thông
thương Tam Thế là phương tiện dâng
cúng lễ vật để tạ ơn tới Tam Thế của Tổ
Hùng được diễn tả bằng ba đền Thượng, đền
Trung và đền Hạ.
Núi Nghĩa
Lĩnh và đền Tổ Hùng biểu tượng cho
Cây Vũ Trụ (Cây Tam Thế, Cây Đời
Sống) (xem Ý Nghĩa Cấu Trúc Đền
Hùng).
5. Những
Chi Tiết Chính Khác Của
Hùng Vương và Đại Tộc Việt
Còn Ghi Khắc Trong Sử Đồng Trên
Trống Đồng Nòng Nọc, Âm Dương.
Xin lấy một
vài ví dụ điển hình là
các Vật Tổ Của Đại Tộc Việt.
Từ một bộ lạc, một bộ tộc nhỏ cho tới một quốc gia,
một liên bang đều có vật tổ, vật biểu.
Hùng Vương, Đại Tộc Việt cũng vậy. Như thế
vật tổ, vật biểu của chúng ta là
gì? Hiển nhiên chúng phải
khác của Trung Hoa. Người cổ Việt sống ở
vùng rừng núi, sông biển nhiệt
đới, vật tổ, vật biểu của cổ Việt phải là
những loài có trong địa bàn
sống của cổ Việt là sông biển rừng
núi nhiệt đới Đông Nam Á
và Trung Hoa không có. Cũng xin
nhắc lại, thời cổ sơ, vật tổ và vật biểu
là những loài có thật trong
thiên nhiên, về sau thể điệu hóa,
thần thoại hóa thành các linh
vật. Văn hóa Trung Hoa với tứ linh long
ly qui phượng là văn hóa muộn sau
này, muộn hơn văn hóa của đại tộc
Đông Sơn là hậu duệ của một nền văn
hóa cổ sơ, còn giữ các vật tổ
dưới nguyên dạng trong thiên
nhiên.
Vật Tổ ở
Thượng Thế
Vật tổ ở cõi trên Thượng Thế là
một loài chim.
.Chim nông
Như đã
biết chim nông là chim biểu tối cao
của Đại Tộc Việt mang trọn vẹn ý nghĩa Vũ
Trụ Tạo Sinh. Ở hư vô là con chim nông
trung tính với nghĩa nông là
không. Ở thái cực là chim bổ
nông nhất thể là chim đẻ ra
Trứng Vũ Trụ, ở tầng lưỡng nghi là con bồ
nông có một khuôn mặt
thái âm, nước, chim biểu của
ngành Thần Nông, vân vân…
(Ca Dao Tục Ngữ Tinh Hoa Dân Việt).
Chim nông thấy rất nhiều trên trống
đồng nòng nọc, âm dương như trên
trống đồng âm dương Ngọc Lũ I, Hoàng
Hạ… (Giải Đọc Trống Đồng Nòng Nọc, Âm
Dương Đông Nam Á).
.Chim Việt
Theo duy dương
tức về phía ngành nọc dương
Viêm Đế là con chim Việt, chim
Rìu tức chim Cắt (Hornbills). Viêm Đế
có họ Khương (sừng) nên có
các thú biểu đều có nghĩa
là sừng (vật cứng nhọn mang dương
tính, nọc, mặt trời). Chim biểu của
Viêm Đế là con chim có mũ sừng
(bony casque), tức chim cắt lớn Great Hornbill.
Chim Cắt loài có mũ sừng trên
mỏ là chim Việt, thấy rõ qua Anh ngữ
Hornbill (Mỏ Sừng). Chim Cắt, chim Rìu,
chim Việt cũng mang trọn vẹn ý nghĩa Vũ Trụ
Tạo Sinh. Nhưng chúng ta thuộc Thần
Nông thị và các Hùng
Vương thuộc ngành nọc mặt trời nên
thường thấy nhất là khuôn mặt chim
Việt mang tính biểu tượng lửa ở tầng lưỡng
nghi là con bổ cắt thái dương
có một khuôn mặt nọc, thái
dương, lửa, vân vân…
Hùng Vương là di duệ của Viêm
Đế nên theo duy dương, ngành nọc
Hùng Việt cũng có chim biểu là
loài chim cắt. Đó là chim Lang,
chim Chàng, chim Tráng (của người
Mường) (Khai Quật Kho Tàng Cổ Sử Hừng Việt)
và là chim Mê Linh của hai
Bà Trưng. Mê Linh phát gốc từ
tiếng cổ Việt mling là một giống chim cắt
(xem Ý Nghĩa Ngày Lễ Hai Bà
Trưng). Sử ghi Hai Bà Trưng đóng
đô ở Mê Linh thuộc đất châu Phong
là dòng dõi Hùng Vương
là vậy.
Hình bóng chim cắt có mũ sừng,
chim Việt còn ghi khắc trong sử đồng thấy rất
nhiều trên trống đồng nòng nọc,
âm dương như trên trống đồng âm
dương Duy Tiên,
và ở đuôi thuyền trên trống đồng
âm dương Ngọc Lũ I và các trống
họ hàng.
.Cò
Việt
Như trên
đã biết con cò mang tính
nòng nọc, âm dương. Ở dạng nhất thể
cò biểu tượng cho Tổ Hùng tạo
hóa, sinh tạo. Ở cõi tứ tượng ứng
với một đại tộc của tứ dân thì
cò biểu tượng cho tượng gió,
là con cò gió có bờm
gió của đại tộc gió ứng với
Hùng Vương bầu trời.
Trên trống đồng âm dương Ngọc Lũ I,
vành 18 con cò bay có bờm
hình phướn gió rất cách điệu
và trong bờm có viết các chữ
viết nòng nọc vòng tròn-que
là những con Cò Gió, Cò
Lang, Cò Phong Châu mà hiện nay
các nhà làm văn hóa Việt
gọi nhầm là Chim Lạc (xem Chim Lạc Hay
Cò Lang?).
Địa danh Bạch Hạc có nghĩa là
Cò Trắng của Hùng Vương cũng có
nghĩa là Cò Lang (Lang có một
nghĩa là trắng, mầu trắng, trong suốt
là mầu gió), Cò Gió.
Vật Tổ ở Trung Thế
Hươu Việt
Vật tổ ở cõi Trung Thế là một
loài thú bốn chân sống
trên mặt đất. Thú biểu của Hùng
Vương, Đại Tộc Việt là loài thú
có nọc, sừng… tức Thú Việt.
Đất thế gian chia
ra làm hai vùng: vùng đất
dương, cao, khô và vùng đất
thấp, âm có nước.
Ở vùng đất dương cao, khô thế gian,
chúng ta có con hươu nọc, hươu Việt
sừng hai mấu mang gạc. Danh từ động vật là
Cervulus muntjac. Từ muntjac chính là
Việt ngữ muông gạc (con thú có
sừng), mang gạc (con hươu có sừng), danh từ
phổ thông gọi là hươu sủa barking deer
(con vật này đến mùa động đực gọi con
cái, tiếng gọi giống như chó sủa
vì thế dân dả gọi là hươu sủa),
tiếng cổ Việt gọi hươu cọc là con Cọc (Việt
Dịch Bầu Cua Cá Cọc).
Ở trên là con hươu sủa
muntjac sừng hai mấu nhọn loại lớn mới tìm
thấy ở Vụ Quang trước đây ở Việt Nam.
Đây là loài hươu hiếm
quí gần như tuyệt chủng. Bên dưới
là loài hươu sủa muntjac loại nhỏ.
Người cổ Việt chọn loài hươu, con Cọc
có sừng hai mấu nhọn này làm
vật tổ, thú biểu cho Kì Dương Vương
Lộc Tục (Hượu Đục, Hươu Chàng ‘chisel’,
hươu có vật nhọn, hương sừng, muông
gạc. muntjac). Mã Lai ngữ gọi hươu sủa
là kijang. Kijang chính là
Việt ngữ Kì Dương của chúng ta. Con
hươu sủa mang gạc loại nhỏ chính là
con thú chủ (host) thần thoại hóa
thành con nghê, còn kì
(con đực trong cặp kì lân). Mang gạc
muntjac chỉ có ở địa bàn Đông
Nam Á không có ở vùng
đất cũ tận phía Bắc của Trung Hoa nên
nghê hay kì (lân) là
linh thú của Kì Dương Vương của
chúng ta (Khai Quật Kho Tàng Cổ Sử
Hừng Việt).
Tóm lại hươu sủa
cervulus munjac là con muông gạc, con
thú cọc, con thú Việt, thú biểu
của Kì Dương Vương, vua thế gian đầu
tiên của Đại Tộc Việt (Khai Quật Kho
Tàng Cổ Sử Hừng Việt). Trong sử đồng
của đại tộc Đông Sơn thú biểu mang gạc,
hươu Cọc này còn thấy ghi khắc lại
trên trống đồng nòng nọc, âm
dương Phú Xuyên.
Hươu Việt
trên trống Phú Xuyên.
Hình con mang gạc trên trống
Phú Xuyên có sừng hai mấu nhọn,
đang há mõm sủa, có đuôi
dài của loài cáo chồn,
chó sói. Đây là con mang
sủa muông gạc Lộc Tục, con kijang Kì Dương con
thú Việt của Đại Tộc Việt.
Sấu việt
Thú biểu vùng đất thấp, âm
có nước thế gian của chúng ta
là con cá sấu mõm dao gavial,
danh từ động vật gọi là Tomistoma
Schlegelii (tomi- là cắt, stoma
miệng, tomistoma mõm cắt, mõm dao). Ta
thấy gavial có gav- biến âm với gạc.
Gavial là con sấu gạc, con ngạc (Hán
Việt ngạc có nghĩa là con cá
sấu). Đây là con cá gạc,
cá ngạc, cá Lạc, cá Sấu Việt,
Dao Việt, thú biểu của vùng đầm lầy
Lạc Long Quân (Khai Quật Kho Tàng Cổ Sử
Hừng Việt).
Sấu mõm dao
gavial (Tomistoma Schlegelii).
Trong sử đồng của đại tộc Đông Sơn thú
biểu sấu dao, sấu Việt này còn thấy
ghi khắc lại trên trống đồng nòng nọc,
âm dương Hòa Bình.
Sấu Việt mõm
dao trên trống Hòa Bình.
Lưu ý con
thú có hình thằn lằn
này có con mắt âm gồm hai chữ
viết nòng vòng tròn. Hai
nòng là hai âm, thái
âm có một nghĩa là nước. Con
thú bò sát loài thằn
lằn sống được dưới nước có mõm nhọn
như dao là con cá sấu mõm
dao, thú biểu của Lạc Long Quân
vùng đất âm có nước, Lạc điền
của Lạc Việt.
Ta thấy rất rõ các chim, thú
biểu của Đại Tộc Việt, của Hùng Vương đều
là những loài sống trong địa
bàn rừng mưa, vùng sông biển
nhiệt đới Đông Nam Á mà ở địa
bàn của người Trung Hoa cổ ở phương Bắc
không có. Những chim thú
ngành mặt trời này đều có
tên hàm nghĩa là nọc, vật nhọn
(Việt, mặt trời, có gốc từ nọc, cọc, bộ
phận sinh dục nam) giống như danh xưng của tổ
tiên Lang, Hùng, của nòi giống
của Đại Tộc Việt, Người Mặt Trời thái dương
dòng giống thần mặt trời Viêm Đế
(cũng giống như người Inca con cháu thần
mặt trời Inti).
Họ Hồng Bàng Thế Gian.
Theo duy dương họ Hồng Bàng hiểu
giản dị theo người ít chữ thánh hiền
là Họ Đỏ, Họ Mặt Trời, Họ Người Mặt Trời
Xích Quỉ dòng thần mặt trời
Viêm Đế (Khai Quật Kho Tàng Cổ Sử
Hừng Việt) có chim biểu là chim
Khướng (Mường ngữ gọi loài chim có
mũ sừng tức chim cắt), Khướng biến âm với
Hán Việt Khương là Sừng. Viêm
Đế có họ Khương nên có chim
biểu là chim Khướng, chim (mỏ có mũ)
sừng, chim cắt, chim rìu, chim Việt. Chim
Cắt tên “chữ” là chim Hồng
Hoàng. Dòng giống Lạc Hồng là
con cháu hai ngành chim Lạc,
ngành nước Lạc Long Quân (con ngỗng)
và con chim Hồng, ngành Lửa Mẹ Tổ
Âu Cơ (chim cắt). Vì thế nếu hiểu họ
Hồng Bàng theo chim biểu thì họ Hồng
Bàng là Họ Chim Hồng (Hoàng),
chim cắt, chim Khướng, chim Việt biểu tượng cho
nhánh mặt trời Lửa thái dương. Như
đã nói chim Cắt, chim Khướng, chim
Việt còn thấy ghi khắc trong sử đồng
trên trống Duy Tiên và ở
đuôi thuyền trên trống đồng Ngọc Lũ I.
Như thế theo duy dương họ Hồng Bàng
có một khuôn mặt là Họ Đỏ, Họ
Mặt Trời thuộc dòng thần mặt trời
Viêm Đế.
Xích Quỉ
Họ Hồng Bàng theo duy dương là họ
Mặt Trời của Người Việt Mặt Trời rạng ngời thuộc
giống nòi thần mặt trời Viêm Đế.
Đây chính là Người Mặt Trời
Xích Quỉ con dân của vua thế gian đầu
tiên Kì Dương Vương của họ Hồng
Bàng thế gian của Đại Tộc Việt, Người
Mặt Trời thái dương .
Kì Dương Vương thế gian Lửa-Đất (dương
thế) là vua đầu tiên của Đại Tộc Việt
Xích Quỉ có cốt là con Hươu
Đực Lộc Tục, là mặt trời thiên đỉnh
(trên Trục Thế Giới). Xích Quỉ
là Kẻ Đỏ, Người Mặt Trời (Xích trong
Xích Quỉ cùng nghĩa với Xích
trong Xích Đạo, con đường tưởng tượng của
quả đất trên đó mặt trời được cho
là ở ngay trên đỉnh đầu, thiên
đỉnh tức là mặt trời trên đỉnh Trục
Thế Giới, Kì Dương Vương vua tổ của Người
Mặt Trời Xích Quỉ) (Khai Quật Kho
Tàng Cổ Sử Hừng Việt).
Hình bóng Xích Quỉ
còn thấy ghi lại trong sử đồng trên
trống nòng nọc, âm dương Ngọc Lũ I. Ở
hai bán viên âm dương của mặt
trống này có hai nhóm người
nhẩy múa. Cả hai nhóm đều có
trang phục đầu giống nhau cho biết cùng một
họ người. Trang phục đầu có hình
chim có đường nét thẳng, có
góc cạnh mang dương tính, mặt trời,
trong có phụ đề chữ viết nòng nọc
vòng tròn-que hình chấm
vòng tròn. Theo duy dương chữ
này có nghĩa là mặt trời sinh
tạo.
Người nhẩy
múa trên trống đồng âm dương
Ngọc Lũ I.
Đây là những Người Mặt Trời
thái dương đội lốt chim (giống như thấy
trong văn hóa Aztec, The People of the
Sun). Nhóm 6 người là
nhánh mặt trời âm thái dương
(số 6 là số lão âm, âm
thái dương) và nhóm 7 người
là nhánh mặt trời dương thái
dương (số 7 là số lão dương, dương
thái dương). Những người này
là Người Mặt Trời rạng ngời, thái
dương có một khuôn mặt là
Xích Quỉ Người Mặt Trời, tổ tiên
Người Việt Mặt Trời thái dương.
….
Kì Dương Vương
.Trống Kì Dương Vương Phú
Xuyên
Trống Phú
Xuyên có bốn con mang gạc.
Trống Phú Xuyên là trống biểu
của Kì Dương Vương hay của tộc người
dòng Kì Dương Vương. Như đã
nói trống có bốn con hươu sủa mang
gạc, kì dương thú biểu của Kì
Dương Vương. Xin lưu ý số 4 là số
Cấn (đất âm) đi với hươu cọc là
loài thú bốn chân sống
trên mặt đất biểu tượng cho đất rất
chí lý. Điểm này thấy
rõ qua sự kiện là Mẹ Tổ Âu Cơ
có một khuôn mặt Cấn đất non
(núi âm), đem 50 con lên
núi nên theo truyền thuyết Mường, Ngu
Cơ có biểu tượng là con Hươu Sao
cái.
Vành cò bay có 6 con.
Sau cổ cò có viết chữ nòng
nọc vòng tròn-que là chữ
nọc tam giác delta có một
nghĩa là núi tháp Li,
Núi Trụ Thế Gian Kì Dương Vương.
Hai vành ngoài biên là
hai vành nọc mũi tên (mũi mác,
răng cưa, răng sói) trong có dấu
chấm nọc dương cũng cho biết khuôn mặt
núi đất dương thái dương mang
tính chủ (xem thêm bài viết
chi tiết về trống này).
Trong những trống muộn về sau này, trống
biểu của Kì Dương Vương hay của các
tộc dòng Kì Dương Vương được
diễn tả thể điệu hóa nhưng mộc mạc hơn
ví dụ trên trống Thành
Vân có những người thể điệu
hóa thành người hươu nọc có
trang phục đầu có hai sừng có chấm
nọc dương:
Trống
Thành Vân.
Người hươu cọc dĩ nhiên là tộc thuộc
dòng Kì Dương Vương.
Những còn cò bay có
thân hình núi tháp nhọn
gồm hai chữ nọc mũi tên (mũi mác,
răng cưa, răng sói) lồng vào nhau.
Cánh và thân tạo thành
hình chữ T mang hình ảnh Trụ Chống
Trời, Núi Trụ Thế Gian, Núi
Kì. Những con cò này
là cò núi, đất dương
Kì Dương Vương.
Ở các trống thật muộn sau này
thì giản dị và “bình
dân học vụ” hơn nữa là trên mặt
trống có hình tượng hươu nọc hai mấu
mang gạc (thay vì có hình
tượng cóc) như ở trống Mậu Dục:
Trống Mậu Dục
(xem thêm bài viết chi tiết về những
trống này).
Lạc Long Quân
Ở cõi đất âm thế gian như đã
biết Lạc Long Quân thế gian có một
thú biểu là con Sấu Lạc, Sấu Dao,
Sấu Việt như thấy trên trống Hòa
Bình.
Trống Hòa
Bình.
Trống Hòa Bình có mặt trời
12 nọc tia sáng. Số 12 là số Cấn
tầng hai, thế gian (12=4+8). Cấn Mẹ Tổ Âu Cơ
hôn phối với Cha Tổ Lạc Long Quân
Chấn, có một khuôn mặt là Sấm
(Chấn vi lôi), Mưa, Biển… Theo truyền thuyết
thần Sấm có nhà ở đầu non tức Cấn.
Lạc Long Quân sấm mưa có nhà ở
đầu non, nơi Mẹ Tổ Âu Cơ ở. Có nhiều
tác giả tán láo cho rằng Mẹ
Tổ Âu Cơ và Cha Lạc Long Quân
ly thân hay ly dị nên dân Việt
bây giờ chia rẽ. Làm gì
có chuyện Mẹ Tổ Âu Cơ và Lạc
Long Quân ly thân ly dị. Hai người
chia tay nhau đi hai ngả lên non xuống biển
chỉ là một cách phân quyền để
cai quản non sông đất nước liên bang
Văn Lang của Đại Tộc Việt. Như đã thấy Lạc
Long Quân thần sấm mưa có nhà
ở đầu non. Ban ngày trời nắng, nước biển
bốc hơi, chiều tối gặp lạnh hơi nước tụ lại
thành mây bay về nhà đầu non.
Chiều chiều Lạc Long Quân ở biển theo
mây bay về với vợ Âu Cơ ở đầu non.
Có đêm mây mưa với vợ.
Sáng hôm sau, theo nước mưa đầu nguồn
Lạc Long Quân lại đi ra biển. “Nước đi ra
biển lại bay về nguồn” (Tản Đà). Non non
nước nước…
Mặt trống có vành chủ yếu có
chữ viết nòng nọc vòng
tròn-que là chữ hai vòng
tròn đồng tâm (thái
âm, nước) có chấm nọc dương có
một nghĩa là nước dương, nước-lửa, nước
chuyển động, ở cõi trời là mưa,
mưa-chớp (sấm) ở cõi thế gian là
nước dương, nước chuyển động như biển ứng với Lạc
Long Quân.
……
Trống Hòa Bình là trống Lạc
Long Quân hay của tộc người dòng Lạc
Long Quân (xem thêm bài viết
chi tiết về trống này).
Lang Hùng, Hùng Vương
Hùng Vương là di duệ của hai
ngành nọc chim mẹ Âu Cơ Mặt Trời
Viêm Đế và ngành nòng
rắn cha Lạc Long Quân Không Gian Thần
Nông nên mang dòng máu
vũ trụ, tạo hóa, sinh tạo. Ở Cõi
Trên có có chim biểu sinh tạo
(nòng nọc, âm dương nhất thể)
là con Cò. Hầu hết trống đồng
nòng nọc, âm dương của đại tộc
Đông Sơn đều có hình cò
cho thấy trống đồng nòng nọc, âm
dương là trống biểu của Hùng Vương.
Liên bang Văn Lang có hai
ngành nòng nọc, có nhiều đại
tộc, tộc, chi tộc nên hình cò
trên trống đồng nòng nọc, âm
dương khác nhau như đã thấy ở
trên. Ví dụ con cò gió
bờm phướn gió rất cách điệu thấy
trên trống đồng âm dương Ngọc Lũ I
là con cò Gió, cò Lang
chứ không phải là cò Lạc như
các nhà khảo cổ học và
các nhà làm văn hóa
Việt Nam hiện nay gọi nhầm là như vậy.
Điển hình xin dưa ra một ví dụ
là trống Lang Hùng Quảng Xương.
Xin văn tắt ở đây.
Trống có mặt
trời có 8 nọc tia sáng.
.Trống Quảng
Xương
Số 8 là số Khôn thế gian (trong 8
chuỗi hay 8 tầng của 64 quẻ của Dịch những số
Khôn là 0, 8,16, 24, 32, 40, 48, 56.
Những số Khôn trong Dịch có
giá trị Khôn như nhau chỉ khác
ở tính chất nòng nọc, âm dương
sinh tạo tùy theo ở tầng nào của
Dịch ví dụ 0=32 như ta thấy trong nhiệt học
0 độ bách phân Celcius = 32 độ
Farenheit). Mặt trời có khối sáng
không thấy đĩa tròn hình cầu
gai Càn đi với 8 nọc tia sáng nọc
mũi tên là mặt trời
Càn-Khôn thế gian. Mặt trời ở
đây mang tính Càn-Khôn,
sinh tạo, tạo hóa.
Điểm này thấy rất rõ qua sự kiện
là mặt trời nằm trong không gian
có vỏ không gian là
vòng tròn bao quanh đầu các
nọc tia sáng. Vỏ này là một
vành trống không mang nghĩa
không gian Kkôn. Các khoảng
không gian có sọc song song cũng mang
nghĩa không gian Khôn. Vậy trống
này là trống Càn-Khôn
thái dương.
Đây chính là bọc trứng Lang
Hùng, là khuôn mặt sinh tạo,
tạo hóa, lưỡng hợp của Lang Hùng ở
ngành dương. Nếu hiểu theo duy dương họ mặt
trời thì là mặt trời sinh tạo, tạo
hóa. Chữ chấm vòng tròn
chính là linh tự Ra của Ai Cập cổ
có một nghĩa là mặt trời tạo
hóa (Sun as Creator). Hùng Vương thế
gian, lịch sử đội lốt Tổ Hùng tạo
hóa.
Ở Cõi Giữa, Trung Thế, trống này
có mặt trời 8 nọc tia sáng là
trống thế gian nên vành 3 chủ đạo
diễn tả cảnh sinh hoạt của cõi người
trên mặt đất.
.Người
Giữa hai ngôi nhà mỗi bên
có hai nhóm người nhẩy múa.
Cả hai nhóm người đều có chữ viết
nòng nọc vòng tròn-que
là chữ chấm-vòng
tròn ở một bên mặt trông
như con mắt. Theo duy dương chữ này
có một nghĩa là mặt trời sinh tạo
(ăn khớp với Lang, Hùng Vương) . Lưu
ý ta thấy rõ một số chữ mặt trời
này có những tia sáng tỏa ra.
Người Mặt Trời
Rạng Ngời có chữ chấm vòng
tròn mặt trời có ánh
sáng tỏa ra rạng ngời trên mặt.
Do đó trăm phần trăm những người
này là những Người Mặt Trời rạng
ngời. Đối chiếu với truyền thuyết và cổ sử
Việt những Người Mặt Trời rạng ngời
này là những Lang, những
Hùng Vương mặt trời, tổ tiên của
Xích Quỉ, Kẻ Đỏ, Người Mặt Trời, Người Việt
Mặt Trời Rạng Ngời.
Thật vậy, những người này trông rất
trai tráng, trẻ trung với thân
hình vạm vỡ mang hình ành của
các Lang, các Hùng trai trẻ.
Ta thấy rõ có hai chi tộc người. Một
tộc người ở trần truồng và tộc người kia
có mặc váy.
Chi tộc trần truồng thuộc tộc nước, tộc rắn (ở
trần truồng là tộc nước, thuộc phía
âm nước cũng thấy ở hai con thuyền
trên trống đồng âm dương Ngọc Lũ I).
Giải dài buông xuống
phía sau trang phục đầu hình
dòng nước chẩy giữa hai viền bờ tô
đậm trông rất kiên cố như cản
không cho nước tràn ra, trông
như một dòng nước từ trên cao,
trên trời, trên núi, trên
nguồn chẩy xuống thành suối thành
sông chảy ra biển. Phần trên trang
phuc đầu có thể là hình đầu
rắn có sừng.
Tộc người Rắn,
Nước, Mặt Trời-Nước.
Cả trang phục đầu có thể diễn tả
hình rắn nọc (có sừng) tiếng cổ gọi
là con dải (rắn trông như dải
dây) thể điệu hóa biểu tượng cho nước
dương, mặt trời-nước. Dù gì đi nữa
thì duy chỉ yếu tố ở trần truồng cũng đủ
cho biết đây là tộc nước, tộc mặt
trời-nước.
Tộc người mặc váy tỏa ra hai bên
hình cánh chim, đầu đội trang phục
đầu hình đầu chim có mỏ và
có mũ sừng giống chim cắt, chim rìu,
chim Việt, thuộc tộc lửa, đất, vùng
đất cao, tộc chim.
Tộc người Chim,
Lửa, Mặt Trời-Lửa.
Đối chiếu với truyền thuyết và cổ sử Việt,
tộc người nước trai tráng vạm vỡ là
nhánh 50 Lang theo Cha Lạc Long Quân
Rắn-Nước ngành Thần Nông xuống biển.
Tộc người Lửa-Chim cắt có mũ sừng là
nhánh 50 Lang theo Mẹ Tổ Âu Cơ Chim
Lửa ngành Viêm Đế lên
núi.
Thêm vào đó tên những
người này cũng được “xâm” lên
người. Ta thấy rõ trên người
có những chữ nọc que (ở những người nước
trần truồng chữ được viết trên lưng hay ở
bên cạnh sườn tức phía âm,
trong khi ở những người chim, chữ nọc được viết ở
trước ngực tức phía dương). Nọc que
là bộ phận sinh dục nam, đực (Hùng),
con trai (Lang), dương (có một nghĩa
là mặt trời), vật nhọn (Việt).
Như thế người trên trống Quảng Xương
là Lang, Hùng, Đại Tộc Việt, Người
Mặt Trời rạng ngời thuộc hai nhánh
chim-rắn, Tiên Rồng.
.Nhà
Trống chỉ có hai căn nhà nọc,
nhà mặt trời. Nhà này
là nhà nọc truyền thống đầu
mái có mũi đao, cọc nhọn.
Không có nhà nòng. Như
thế trống này là trống biểu của
phía nọc nam. Đối chiếu với truyền thuyết
và cổ sử Việt, đây rõ như ban
ngày là trống biểu của 100 Lang
Hùng (bọc trứng chỉ sinh ra một trăm con
trai, chỉ nói về phía nọc dương, di
thể chim trong bọc trứng chim mang tính
chủ) không có con gái Mẹ
Nàng nên không có
nhà nòng mái vòm
không gian như thường thấy trên
các trống khác có cả hai loại
nhà nòng nọc, âm dương.
Xin lưu ý
Một lần nữa sử đồng ở đây cho thấy ta
phải hiểu và diễn dịch bọc trứng của Mẹ
Tổ Âu Cơ sinh ra toàn con trai Lang
là các Lang ứng với tròng
đỏ mặt trời của Trứng Vũ Trụ. Phải hiểu ngầm
phần còn lại là cái bọc
tròng trắng không gian của Trứng Vũ
Trụ ứng với các mẹ nàng. Truyền
thuyết bọc trứng chim nở ra toàn
là Lang Hùng phải hiểu là
chỉ nói tới ngành chim, theo duy
dương di thể chim trong bọc trứng chim mang
tính chủ.
Nhà nọc ở đây có hình
‘hình trụ’ ứng với các nọc Lang, bốn
đầu mái cong mũi đao, hình nọc nhọn,
có hình mặt trời. Bốn hình
mặt trời ở bốn góc mái nhà
biểu tượng cho Bốn Tộc Người Mặt Trời. Đây
là nhà diễn tả nhà nọc,
nhà mặt trời, đền tổ mặt trời của họ mặt
trời có bốn đại tộc (tứ dân ở bốn
phương) người mặt trời ứng với Mặt Trời
Ánh Sáng Đế Minh, Mặt Trời Đất
Kì Dương Vương, Mặt Trời Nước Lạc
Long Quân và Mặt Trời
Gió Hùng Vương của Đại Tộc Việt mặt
trời của họ thần mặt trời Viêm Đế.
Điểm này được xác thực đúng
một trăm phần trăm là nhà ở trống
này có hình mặt trời ở hai
bên cửa mà các ngôi
nhà nọc trên những trống đồng
âm dương khác không thấy
có mặt trời.
Một ngôi
nhà nọc hai bên cửa có hai
hình mặt trời.
Ở đây hiển nhiên trăm phần trăm
ngôi nhà nọc là nhà mặt
trời, thờ phượng mặt trời.
Đi ngược dòng thời gian trở lên, hai
căn nhà Nọc mặt trời này cho thấy
rõ những căn nhà nọc trên
những trống đồng nòng nọc, âm dương
của đại tộc Đông Sơn cổ đại hơn trống Quảng
Xương mặc dù không có
hình mặt trời cũng là những
ngôi nhà mặt trời, thờ phương mặt
trời.
Đối chiếu với truyền thuyết và cổ sử Việt,
đây là những ngôi nhà
nọc, nhà mặt trời, thờ phượng thần mặt trời
Viêm Đế, thờ phượng Hùng Vương, vua
mặt trời của Đại Tộc Việt Người Mặt Trời.
Nhà mặt trời này có di duệ
là nhà Lang, nhà đình,
nhà phái nam trăm phần trăm của
chúng ta ngày nay. Xin hãy
trả lại ý nghĩa nguồn cội mặt trời cho
các ngôi nhà Lang, nhà
đình của chúng ta ngày nay.
Sử đồng còn khắc ghi rõ rành
rành ở đây.
Tóm lại nhà trên trống Quảng
Xương nói chung là nhà nọc
mặt trời của đại tộc Việt Người Mặt Trời
thái dương, con cháu của các
Lang, Hùng Vương Mặt Trời.
Những trống chỉ có nhà nọc như
trống Quảng Xương này chỉ là trống
biểu của một ngành và những trống
đồng có đủ cả nhà nòng
và nhà nọc như trống Hoàng Hạ
(có mặt trời 16 nọc tia sáng
cùng nhóm trống
Càn-Khôn với trống Quảng Xương), Ngọc
Lũ I… là những trống đồng mang ý
nghĩa biểu tượng lưỡng hợp âm dương (cho
dù là lưỡng hợp âm dương theo
duy dương) biểu tượng cho cả họ.
Xin Lưu Tâm
Điểm quan trọng nhất và quí
giá nhất ở đây là sự hiện
diện của những hình mặt trời rạng ngời
ánh sáng ở hai bên cửa
ngôi nhà. Sự có mặt của
những hình mặt trời ở các căn
nhà nọc trên trống này
xác quyết rằng những ngôi
nhà nọc trên trống đồng âm
dương là những Ngôi Nhà Mặt
Trời, là những ngôi nhà thờ
phượng mặt trời. Đây là
nguyên thể của các đền thờ Mặt trời
sau này. Những ngôi nhà nọc
có hình mặt trời này cung
cấp một dữ kiện kiên cố, nếu đi ngược
dòng thời gian lên, ta có
thể vững tin là những ngôi
nhà nọc, nhà dương trên
trống đồng âm dương là những
ngôi nhà thờ phượng mặt trời của
ngành nọc. Những người ở trong loại
nhà này là những người đang
thực hiện những giáo vụ liên hệ tới
mặt trời, thờ phương mặt trời, không
có chuyện đang chơi trò trẻ con
“trồng nụ trồng hoa” gì đó như một
số tác giả suy diễn ra. Bên cạnh
đó những ngôi nhà
nòng, nhà âm là những
ngôi nhà thờ phượng không
gian hay mặt trời nòng của ngành
nòng của họ mặt trời thái dương.
Những ngôi nhà mặt trời này
cũng xác quyết rằng những người có
xâm chữ nọc que trên người là
những Người Mặt Trời (The People of the Sun),
những người Việt Mặt Trời thái dương.
.Chim
Vành 4 của trống Quảng Xương là
vành 6 chim bay. Đây là trống
thế gian nên vành cò bay biểu
tượng cho bầu trời thế gian. Ta đã biết
cò là chim biểu của khí
gió, bầu trời thế gian, một khuôn mặt
biểu tượng sinh tạo của Hùng Vương
có một khuôn mặt bầu trời thế gian,
đội lốt bầu vũ trụ tạo hóa, sinh tạo.
Sáu con cò với số 6 là số
Tốn gió âm tầng 1 vũ trụ, bầu trời.
Số 6 là lão âm, sinh tạo, số
thành. Số 6 Tốn cũng hôn phối với
Chấn số 9 ứng với Mẹ Tổ Âu Cơ Tốn 6
hôn phối với Lạc Long Quân Chấn
9 đẻ ra Hùng Vương có
bản thể khí gió, bầu vũ trụ, bầu
trời ứng với Khí gió dương
Đoài vũ trụ số 3. Ta đã biết ma
phương có số trục 3, 6, 9 đều có
tổng số các chi số là 18, mã
số DNA của Hùng Vương (xem bài viết
Mã Số DNA của Hùng Vương).
Như thế 6 con cò bay mang trọn biểu tượng
cho Hùng Lang, Hùng Vương.
Thật vậy cò có mỏ thon dài
thanh tao mang tính dương của âm tức
thiếu âm khí gió. Bờm thẳng
hàng với mỏ gợi hình mũi tên
bay trong gió, lướt gió. Cánh
có những sọc ngang không gian
và các chấm nọc dương tức Khôn
dương khí gió.
Tóm lại 6 cò bay cho biết trống
thuộc đại tộc Cò Gió thế gian thuộc
đại tộc cò bầu trời sinh tạo thế gian
Hùng Vương ứng với các tên
Bạch Hạc, Hạc Trì của Hùng Vương.
.Vùng Nước Tang Trống
Có sáu hình thuyền.
Thuyền trên
trống Quảng Xương (Nguyễn Văn Huyên).
Rất tiếc chỉ có hình vẽ chi tiết
một chiếc thuyền, còn năm thuyền kia
không biết ra sao. Theo hình vẽ
này, thuyền đã thể điệu hóa
cùng cực (extremely stylized). Thuyền
hình rắn nước. Đầu thuyền hình đầu
rắn nước có bờm chim. Tôi gọi
là rắn-chim nhất thể.
Dạng Rắn-Chim nhất thể ở đây là dạng
thể điệu hóa, thần thoại hóa của
dạng lưỡng hợp Chim-Rắn còn ở dạng
riêng rẽ là chim dương, lửa mỏ
rìu nằm trong miệng rắn nước thấy ở
các đầu thuyền trên Ngọc Lũ I
và các trống họ hàng. Ở
đây, chim bây giờ thể điệu hóa
chỉ còn hình bờm chim gắn vào
đầu rắn nước. Đầu linh thú nước có
bờm chim ở đầu thuyền ở đây cũng mang biểu
tượng Lưỡng Hợp Chim-Rắn Âu Cơ-Lạc Long
Quân, nhưng nòng nọc, âm dương
rằn-chim còn quyện vào nhau dưới
dạng Trứng Vũ Trụ, Thái Cực, bọc trứng Lang
Hùng.
Đây chính là hình ảnh
Rắn-Lông Chim Quetzal Coatl của Aztec
và Kukucan của Maya. Cũng xin nhắc lại
Aztec có nghĩa là Người Cò
(Heron People). Ta thấy rất rõ Người
Cò Aztec liên hệ với người Việt con
cháu của Hùng Vương có một
khuôn mặt biểu tượng Cò mà sử
đồng của đại tộc Đông Sơn còn cho
thấy hầu hết trên các trống đều
có hình cò bay. Truyền thuyết
của người Aztec cũng có một vị thần tổ
là một người già râu
dài khi chia tay thần hẹn sẽ trở về cứu
giúp họ khi họ gặp nguy khốn. Truyền thuyết
này cũng giống như truyền thuyết Lạc Long
Quân của chúng ta. Đế quốc Aztec
vì truyền thuyết này mà bị
sụp đổ vào tay viễn chinh Tây Ban Nha
Hernandez Cortes, dưới tay ông ta chỉ
có mấy chục người (Khai Quật Kho
Tàng Cổ Sử Hừng Việt). Aztec là tộc
Cò thiếu âm còn Maya là
tộc thái âm (Maya có một nghĩa
là Không, Mẹ). DNA đã chứng
minh Maya có cùng nhóm di thể
với người Việt (xem Sự Tương Đồng Giữa Cổ Việt
và Maya). Hình Rắn-Chim (Rồng
Tiên) Lạc Long Quân-Âu Cơ ở
đây sẽ giúp cho các nhà
Aztec, Maya học hiểu rõ thêm
và diễn giải đúng đắn hơn về Rắn
Lông Chim Quetzal Coatl và Kukucan.
Hiện nay hai vật tổ này đều được giải
thích chưa tới và sai lệch. Ta thấy
rõ người Cò Aztec có vật tổ
Rắn-Lông Chim Quetzal Coatl ứng với
Rắn-Chim Rồng-Tiên Lạc Long
Quân-Âu Cơ. Người Việt Nam con
cháu Hùng Vương có biểu tượng
Cò còn ghi khắc trên hầu hết
các trống đồng nòng nọc, âm
dương của đại tộc Đông Sơn. Hùng
Vương thuộc dòng giống Rắn-Chim
Rồng-Tiên Lạc Long Quân-Âu Cơ
thấy rõ qua hình Chim-Rắn Tiên
Rồng ở đầu mũi thuyền ở trống Lang Hùng
Quảng Xuyên này.
Người có mặt hình lục giác
biểu tượng cho hư không, không gian
sinh tạo giống như các trống hình
lục giác để trên trụ cao biểu tượng
cho Cây Vũ Trụ (Cây Tam Thế, Cây
Đời Sống) (hình lục giác là
khuôn mặt sinh tạo dương của O, số 6
là số thành, sinh thành).
Giữa mặt không gian lục giác
có chữ chấm-vòng tròn mặt
trời giống như con mắt. Người này có
mặt là mặt trời-không gian, vũ trụ
sinh tạo ứng với Lang Hùng.
Những người ở thuyền
này mặc váy hình hai
cánh chim xòe ra và trang
phục đầu hình đầu chim cắt có mũ
sừng thể điệu hóa thuộc tộc Lửa-Chim
Âu Cơ. Đặc biệt là những người tộc
chim này trên người có
đánh dấu các chấm nọc dương,
lửa, mặt trời thay vì chữ nọc que cho
biết rõ họ là người tộc lửa, mặt trời
sinh tạo (chấm nọc là dạng nguyên
tạo của nọc que) ứng với các Lang
Hùng có một khuôn mặt sinh
tạo.
Có thể ở các con thuyền
khác có những người trần truồng
thuộc tộc Nước-Rằn Lạc Long Quân (rất tiếc
không có hình vẽ).
Những người mặt trời trên thuyền này
tay cầm những vật biểu có hình rắn
thể điệu hóa có thân uốn cong
chữ S (hình bên trái của người
đứng ở phía đuôi giống hình
đầu rắn-chim ở mũi thuyền) và hình
chim thể điệu hóa (hình bên
phải). Đây là những vật biểu Chim-Rắn
Tiên Rồng. Trăm phần trăm những người
trên thuyền có mũi thuyền Rắn-Chim
Rồng-Tiên này là con Rồng
cháu Tiên.
Tóm lại thuyền lưỡng hợp chim-rắn, người
mặt trời-không gian, hình vật biểu
chim rắn mà hai người đang cầm ăn
khớp hoàn toàn với các Lang,
Hùng Vương, với ngưới Việt con Rồng
cháu Tiên.
Tóm lại trống Quảng Xương là một
trang sử đồng ghi khắc lại truyền thuyết Lang
Hùng.
(xem thêm bài viết chi tiết về trống
này).
Kết Luận
Trống đồng nòng nọc, âm dương của
đại tộc Đông Sơn diễn tả Vũ Trụ Tạo Sinh,
là trống biểu của Vũ Trụ giáo,
là Việt Dịch đồng nòng nọc,
là bộ Dịch đồng diễn tả bằng hình
ảnh duy nhất của nhân loại, là bộ sử
đồng của Đại Tộc Việt, là trống biểu của
Hùng Vương.
Trống đồng nòng nọc, âm dương của
đại tộc Đông Sơn tuyệt nhiên
không phải là trống có nguồn
gốc Trung Hoa.
Phụ Ghi
Chữ Việt
Trong buổi họp mặt văn hóa Phong
Châu Mở Hội Tiên Rồng này
có diễn giả Đỗ Ngọc Thành
nhà nghiên cứu chữ Nôm cổ
Việt (Nôm hiểu theo nghĩa là tiếng
của người phương Nam của Đại Tộc Việt) đã
góp ý cho biết là Việt
trong tiếng Nôm cổ của Bách Việt
có gốc là rực, sáng, mặt
trời. Xin xem trong: http://newvietart.com/index4.667.html
Điều này hỗ trợ vững chắc thêm cho
những bài viết của tôi như Việt
Là Gì?, như trong Khai Quật Kho
Tàng Cổ Sử Hừng Việt, Giải Đọc Trống Đồng
Nòng Nọc, Âm Dương Đông Nam
Á… đã chứng minh Việt là
Mặt Trời thái dương, Đại Tộc Việt
là đại tộc Người Mặt Trời
thái dương rạng ngời. Trống đồng của đại
tộc Đông Sơn có mặt trời rực sáng ở
tâm mặt trống (trống đồng nào
không có mặt trời không phải
là trống đồng của đại tộc Đông Sơn)
là trống biểu của Người Việt Mặt Trời
Rạng Ngời, rực sáng, con cháu của
Hùng Vương, Vua Mặt Trời dòng thần
Mặt Trời Viêm Đế (đây là
lý do tôi gọi là Hừng
Việt có nghĩa là Việt hừng rạng,
hừng sáng nên mới đặt tên
tác phẩm viết dựa vào
tài liệu trong sử sách là
Khai Quật Kho Tàng Cổ Sử Hừng Việt).
Tài Liệu Tham Khảo
1.Nguyễn Xuân Quang
bacsinguyenxuanquang.wordpress.com, Ca Dao Tục
Ngữ Tinh Hoa Dân Việt, Giải Đọc Trống Đồng
Nòng Nọc, Âm Dương Đông Nam
Á, Khai Quật Kho Tàng Cổ Sử Hừng
Việt, Tiếng Việt Huyền Diệu, Việt Dịch Bầu Cua
Cá Cọc.
2.Salomon Frank, Introductory Essay: The
Huarochiri Manuscript. In The Huarochiri
Manuscript: A Testament of Ancient and Colonial
Andean Religion,1991:20.
Frank Salomon, annotations and introductory
essay. George 1.
Urioste, trans. Pp. 1-40. Austin: University of
Texas Press.
3.Zuidema, Reiner Tom
The Inca Kinship System: A New Theoretical View.
In Andean
Kinship and Marriage. Ralph Bolton and Enrique
Mayer
eds. Pp. 240-288. Washington, DC: American
Anthropological
Society. Special publication, 7, 1977:256 ).
Bác Sĩ Nguyễn Xuân Quang
Nguồn:
http://bacsinguyenxuanquang.wordpress.com/