Đền Quốc Tổ Hùng Vương
Việt Nam Sử Lược
|
Việt
Nam
Văn
Hiến
Năm
Thứ 4888
www.vietnamvanhien.org
www.vietnamvanhien.net
Việt Nam Sử Lược
Trần Trọng Kim
Chương 5
Bắc Thuộc
Lần Thứ Ba
(603 - 939)
I.
Nhà Tùy.
1. Việc đánh Lâm Ấp
II. Nhà Đường
1. Chính trị nhà Đường
2. An Nam đô hộ phủ
3. Mai Hắc Đế
4. Giặc bể
5. Bố Cái Đại Vương
6. Việc đánh nước Hoàn
Vương
7. Nam Chiếu cướp phá Giao
Châu
8. Cao Biền bình giặc Nam Chiếu
9. Công việc của Cao Biền
10. Sự trị loạn của nước Tàu
III. Đời Ngũ Quí
1. Tình thế nước Tàu
2. Họ Khúc dấy nghiệp:
Khúc Thừa Dụ
3. Khúc Hạo
4. Khúc Thừa Mỹ
5. Dương Diên Nghệ và Kiểu
Công Tiện
6. Ngô Quyền phá
quân Nam Hán
I. Nhà Tùy (589 - 617)
1. Việc Đánh Lâm Ấp.
Nhà Tùy làm vua bên
Tàu được 28 năm thì mất. Trong bấy nhiêu năm
thì sử không chép chuyện gì lạ, chỉ
nói rằng năm Ất Sửu (605), vua nhà Tùy nghe
nói ở Lâm Ấp có nhiều của, bèn sai tướng
là Lưu Phương đem quân đi đánh. Vua Lâm Ấp
lúc bấy giờ là Phạm Phạm Chí đem quân ra giữ
những chỗ hiểm yếu, ở bên này sông Đồ Lê (?)
để chống cự với quân Tàu. Nhưng chẳng bao lâu
quân Lâm Ấp phải thua bỏ chạy. Lưu Phương thừa kế tiến
quân sang sông đuổi đánh, gặp đại binh Lâm Ấp
kéo đến, có nhiều voi thế rất mạnh. Lưu Phương bèn
dùng mưu: sai quân đào hố lấy cỏ phủ lên, rồi
sai quân ra đánh nhử, giả tảng bại trận. Quân
Lâm Ấp đuổi theo được một quãng, voi sa xuống hố,
quân sĩ loạn cả. Khi bấy giờ quân Tàu mới quay trở
lại lấy cung nỏ bắn, voi khiếp sợ xéo cả lên quân
Lâm Ấp mà chạy. Lưu Phương cũng phải bệnh về đến nửa đường
thì chết.
II. Nhà Đường (618 - 907)
1. Chính Trị Nhà Đường.
Năm Mậu Dần (618) nhà Tùy mất nước,
nhà Đường kế nghiệp làm vua nước Tàu. Đến năm
Tân Tị (621) vua Cao Tổ nhà Đường sai Khâu
Hòa làm Đại Tổng Quản sang cai trị Giao Châu.
Từ khi nước ta thuộc về nước Tàu, chỉ có nhà Đường
cai trị là nghiệt hơn cả. Nhưng sử chép lược quá:
thường cách hai ba năm mới chép một việc, chắc là
những nhà làm sử nước ta sau cứ theo sử Tàu
chép lại, cho nên mới sơ lược như vậy.
2. An Nam Đô Hộ Phủ.
Năm Kỹ Mão (678) vua
Cao Tông nhà Đường chia đất Giao Châu ra làm
12 châu, 59 huyện, và đặt An Nam đô hộ phủ18.
Nước ta gọi là An Nam khởi đầu từ đấy.
Mười hai Châu đời nhà Đường là những châu
này:
1. Giao Châu có 8 huyện (Hà Nội, Nam Định v. v.)
2. Lục Châu có 3 huyện (Quảng Yên, Lạng Sơn)
3. Phúc Lộc Châu có 3 huyện (Sơn Tây)
4. Phong Châu có 3 huyện (Sơn Tây)
5. Thang Châu có 3 huyện (?)
6. Trường Châu có 4 huyện (?)
7. Chí Châu có 7 huyện (?)
8. Võ Nga Châu có 7 huyện (?)
9. Võ An Châu có 2 huyện (?)
10. Ái Châu có 6 huyện (Thanh Hóa)
11. Hoan Châu có 4 huyện (Nghệ An)
12. Diên Châu có 7 huyện (Nghệ An)
Ở về phía Tây Bắc đất Giao Châu lại đặt một
châu nữa, gọi là Man Châu gồm cả những Mường ở mạn
ấy, lệ cứ hằng năm phải triều cống vua nhà Đường.
Ấy là đại để cách chính trị nhà Đường như
vậy. Còn thường thì cũng loạn lạc luôn: khi
thì người trong nước nổi lên đánh phá như
Mai Hắc Đế và Bố Cái Đại Vương: khi thì những nước
ở ngoài vào xâm phạm, như nước Hoàn Vương
và nước Nam Chiếu.
3. Mai Hắc Đế (722).
Năm Nhâm Tuất (722) là năm Khai
Nguyên thứ 10 về đời vua Huyền Tông nhà Đường, ở
Hoan Châu có một người tên là Mai Thúc
Loan nổi lên chống cự với quân nhà Đường.
Mai Thúc Loan là người huyện Thiên Lộc, tức
là huyện Can Lộc, tỉnh Hà Tĩnh bây giờ, mặt mũi đen
sì, sức vóc khỏe mạnh, thấy quan nhà Đường
làm nhiều điều tàn bạo, dân gian khổ sở, lại
nhân lúc bấy giờ lắm giặc giã, ông ấy
bèn chiêu mộ những người nghĩa dũng, rồi chiếm giữ lấy một
chỗ ở đất Hoan Châu (nay thuộc huyện Nam Đường tỉnh Nghệ An) rồi
xây thành đắp lũy, xưng hoàng đế, tục gọi là
Hắc Đế.
Mai Hắc Đế lại kết hiếu với nước Lâm Ấp và nước Chân
Lạp để làm ngoại viện.
Vua nhà Đường sai quan nội thị là Dương Tư Húc đem
quân sang cùng với quan Đô Hộ là Quang Sở
Khách đi đánh Mai Hắc Đế. Mai Hắc Đế thế yếu chống
không nổi phải thua chạy, được ít lâu thì
mất. Nay ở núi Vệ Sơn huyện Nam Đường, tỉnh Nghệ An, còn
có di tích thành cũ của vua Hắc Đế, và ở
xã Hương Lãm, huyện Nam Đường còn có đền
thờ.
4. Giặc Bể.
Năm Đinh Vị (767) là năm Đại Lịch thứ 2, đời vua Đại Tông
nhà Đường, sử chép rằng có quân Côn
Lôn và quân Đồ Bà là quân ở
những đảo ngoài bể vào cướp phá đất Giao
Châu, lên vây các châu thành.
Quan Kinh Lược Sứ là Trương Bá Nghị cùng với quan
Đô Úy là Cao Chính Bình đem
quân đánh phá được lũ giặc ấy. Trương Bá
Nghi bèn đắp La Thành để phòng thủ phủ trị. La
Thành khởi đầu từ đấy.
5. Bố Cái Đại Vương (791).
Năm Tân Vị (791) quan Đô Hộ là Cao Chính
Bình bắt dân đóng sưu thuế nặng quá,
lòng dân oán hận. Khi bấy giờ ở quận Đường
Lâm (bây giờ là làng Cam Lâm, huyện
Phúc Thọ, tỉnh Sơn Tây) có người tên
là Phùng Hưng nổi lên đem quân về phá
phủ Đô Hộ. Cao Chính Bình lo sợ thành bệnh
mà chết. Phùng Hưng mới chiếm giữ phủ thành, được
mấy tháng thì mất. Quân sĩ lập con Phùng
Hưng là Phùng An lên nối nghiệp. Dân
ái mộ Phùng Hưng mới lập đền thờ và tôn
lên làm Bố Cái Đại Vương, bởi vì ta gọi cha
là bố, mẹ là cái, nghĩa là tôn
Phùng Hưng lên làm cha mẹ.
Tháng 7 năm Tân Vị ấy, vua nhà Đường sai Triệu
Xương sang làm Đô Hộ. Phùng An liệu thế chống
không nổi xin ra hàng.
6. Việc Đánh Nước Hoàn Vương.
Nước Lâm Ấp từ khi bị tướng nhà
Tùy là Lưu Phương sang đánh, rồi quốc vương
là Phạm Phạm Chí dâng biểu tạ tội và xin
triều cống như cũ. Đến quãng năm Trinh Quan đời vua Thái
Tông nhà Đường, vua Lâm Ấp là Phạm Đầu
Lê mất, con là Phạm Trấn Long cũng bị người giết,
dân trong nước mới lập người con của bà cô Phạm Đầu
Lê, tên là Chư Cát Địa lên làm
vua.
Chư Các Địa đổi quốc hiệu là Hoàn Vương Quốc. Từ
đó về sau thường người nước hoàn vương lại sang quấy
nhiễu ở giao châu, và chiếm giữ lấy Châu Hoan
và Châu Ái.
Năm Mậu Tí (808) đời vua Hiến Tông, quan Đô Hộ
là Trương Chu đem binh thuyền đi đánh giết hại quân
Hoàn Vương rất nhiều. Vua nước ấy bèn lui về ở
phía Nam (ở vào quãng tỉnh Quảng Nam, Quảng Nghĩa
bây giờ) và đổi quốc hiệu là Chiêm
Thành.
7. Nam Chiếu Cướp Phá Giao Châu.
Về cuối đời nhà Đường, quan lại Tàu
lắm người chỉ vì tư lợi, ức hiếp nhân dân như
Đô Hộ Lý Trác cứ vào những chợ ở chỗ Mường
Mán mua trâu mua ngựa, mỗi con chỉ trả có một đấu
muối, rồi giết tù trưởng mán là Đỗ Tồn
Thành. Vì thế cho nên người Mường Mán tức
giận bèn dụ người Nam Chiếu sang cướp phá, làm cho
dân Giao Chỉ khổ sở trong 10 năm trời.
Ở phía Tây Bắc đất Giao Châu, tức là ở
phía Tây tỉnh Vân Nam bây giờ có một xứ
người nòi Thái ở. Người xứ ấy gọi vua là chiếu.
Trước có 6 chiếu là Mông Huề, Việt Thác,
Lãng Khung, Đằng Đạm, Thi Lãng, Mông Xá.
Chiếu Mông Xá ở về phía Nam nên gọi là
Nam Chiếu.
Trong khoảng năm Khai Nguyên (713-742) đời vua Huyền Tông
nhà Đường, Nam Chiếu là Bì La Cáp cường
thịnh lên, mà 5 chiếu kia suy hèn đi. Bì La
Cáp mới đút lót cho quan Tiết Độ Sứ đạo Kiếm Nam
là Vương Dục để xin hợp cả 6 chiếu lại làm một. Triều
đình nhà Đường thuận cho, và đặt tên
là Qui Nghĩa. Từ đó Nam Chiếu càng ngày
càng thịnh lên, đem quân đi đánh Thổ Phồn
(Tây Tạng) rồi dời đô lên đóng ở thành
Thái Hòa (thành Đại Lý bây giờ).
Năm Bính Dần (846) quân Nam Chiếu sang cướp ở Giao
Châu, quan Kinh Lược Sứ là Bùi Nguyên Dụ đem
quân đánh đuổi đi.
Năm Mậu Dần (858), nhà Đường sai Vương Thức sang làm Kinh
Lược Sứ. Vương Chức là người có tài lược, trị
dân có phép tắc, cho nên những giặc
giã đều dẹp yên được cả, mà quân Mường
và quân Nam Chiếu cũng không dám sang quấy
nhiễu.
Năm Canh Thìn (860), nhà Đường gọi Vương Thức về
làm Quan Sát Sứ ở Tích Đông và sai
Lý Hộ sang làm Đô Hộ.
Bấy giờ Nam Chiếu đã mạnh lắm, bèn xưng đế và đặt
quốc hiệu là Đại Mông rồi lại đổi là Đại Lễ19.
Lý Hộ giết người tù trưởng là Đỗ Thủ Trừng, người
Mường lại đi dụ quân Nam Chiếu sang đánh lấy mất phủ
thành. Lý Hộ phải bỏ chạy về Tàu. Vương Khoan đem
binh sang cứu, quân Nam Chiếu bỏ thành rút về.
Năm Nhâm Ngọ (862), quân Nam Chiếu sang đánh Giao
Châu, nhà Đường sai Thái Tập đem ba vạn quân
sang chống giữ. Quân Nam Chiếu thấy quân nhà Đường
nhiều lại rút về. Bấy giờ có quan Tiết Độ Sứ Lĩnh Nam
là Thái Kinh sợ Thái Tập lập được công to
bèn mật tâu với vua nhà Đường rằng Giao Châu
đã yên, thì nên rút quân về.
Thái Tập xin để lại 5.000 quân cũng không được.
Tháng giêng năm Quí Mùi (863), Nam Chiếu đem
50.000 quân sang đánh phủ thành. Thái Tập
cứu không kịp, thế bức quá phải tự tử. Trận ấy có
tướng nhà Đường là Nguyên Duy Đức đem hơn 400
quân Kinh Nam chạy ra đến bờ sông, thuyền bè
không có, Nguyên Duy Đức bảo chúng rằng chạy
xuống nước cũng chết, bất nhược trở lại đánh nhau với giặc, một
người đổi lấy hai người thì chẳng lợi hơn hay sao. Nói
đoạn quay trở lại giết được hơn 2.000 người, nhưng đêm đến tướng
Nam Chiếu laà Dương Tư Tấn đem binh đến đánh, bọn
Nguyên Duy Đức chết cả.
Quân Nam Chiếu vào thành giết hại rất nhiều người.
Sử chép rằng Nam Chiếu hai lần sang đánh phủ
thành, giết người Giao Châu hơn 15 vạn.
Vua Nam Chiếu là Mông Thế Long cho Dương Tư Tấn quản lĩnh
20.000 quân và cho Đoàn Tù Thiên
làm Tiết Độ Sứ ở lại giữ Giao Châu.
Vua nhà Đường hạ chỉ đem An Nam Đô Hộ Phủ về đóng ở
Hải Môn (?) rồi lấy quân các đạo về ở Lĩnh Nam
và đóng thuyền lớn để tải lương thực, đợi ngày
tiến binh.
Mùa Thu năm Giáp Thân (864) vua nhà Đường
sai tướng là Cao Biền sang đánh quân Nam Chiếu ở
Giao Châu.
8. Cao Biền Bình Giặc Nam Chiếu.
Cao Biền là người tướng giỏi nhà Đường, vốn dòng
võ tướng môn, tính ham văn học, quân sĩ đều
có lòng mến phục.
Năm Ất Dậu (865), Cao Biền cùng với quan Giám Quân
là Lý Duy Chu đưa quân sang đóng ở Hải
Môn. Nhưng Lý Duy Chu không ưa Cao Biền, muốn
tìm mưu làm hại. Hai người bàn định tiến binh. Cao
Biền dẫn 5.000 quân đi trước, Lý Duy Chu không
phát binh tiếp ứng.
Tháng chín năm ấy quân rợ đang gặt lúc ở
Phong Châu (huyện Bạch Hạc, tỉnh Vĩnh Yên), Cao Biền đến
đánh cất lẻn một trận, giết được nhiều người, rồi lấy
thóc gạo nuôi quân lính.
Đến tháng 4 năm sau (866), Nam chiếu cho bọn Dương Tập, Phạm
Nê Ta, Triệu Nặc Mi sang giúp Đoàn Tù
Thiên để giữ Giao Châu. Khi bấy giờ có tướng
nhà Đường là Vi Trọng Tể đem 7.000 quân mới sang,
Cao Biền nhân dịp mới phát binh đánh được mấy trận,
cho người đưa tin thắng trận về Kinh, nhưng mà đi đến Hải
Môn, Lý Duy Chu giữ lại, không cho triều đình
biết.
Trong triều mãi không thấy tin tức gì, cho ra hỏi,
thì Lý Duy Chu tâu dối rằng Cao Biền đóng
quân ở Phong Châu không chịu đánh giặc. Vua
nghe tin ấy, nổi giận sai Vương Án Quyền ra thay, và
đòi Cao Biền về hỏi tội. Ngay tháng ấy Cao Biền
phá quân Nam Chiếu và vây La Thành
đã hơn 10 ngày rồi, chỉ nay mai thì lấy được, bỗng
chốc được tin Vương Án Quyền và Lý Duy Chu sang
thay. Cao Biền liền giao binh quyền cho Vi Trọng Tể, rồi cùng
với mấy người thủ hạ về Bắc. Nhưng trước Cao Biền đã sai người
lẻn về Kinh dâng biểu tâu rõ tình trạng. Vua
nhà Đường biết rõ sự tình, mừng lắm, lại cho Cao
Biền thăng trật và sai trở sang cầm quân đánh Nam
Chiếu.
Bọn Vương Án Quyền và Lý Duy Chu lười biếng
không vây đánh gì cả, đến khi Cao Biền trở
sang mới đốc quân binh đánh thành, giết được
Đoàn Tù Thiên và người thổ làm hướng
đạo là Chu Cổ Đạo. Còn những động Mán Thổ ở
các nơi xin về hàng rất nhiều.
Đất Giao Châu bị Nam Chiếu phá hại vừa 10 năm, đến bấy giờ
Cao Biền lấy lại, đem về nội thuộc nhà Đường như cũ.
9. Công Việc Của Cao Biền.
Vua nhà Đường đổi An Nam làm Tĩnh
Hải, phong cho Cao Biền làm Tiết Độ Sứ. Cao Biền chỉnh đốn mọi
công việc, lập đồn ải ở mạn biên thùy để
phòng giữ giặc giã, làm sổ sưu thuế để chi dụng
việc công20. Cao Biền trị dân có phép tắc cho
nên ai cũng kính phục, bởi vậy mới gọi tôn lên
là Cao Vương.
Cao Biền đắp lại thành Đại La ở bờ sông Tô Lịch.
Thành ấy bốn mặt dài hơn 1982 trượng linh 5 thước, cao
hai trượng linh 6 thước, đắp một đường đê bao bọc ở ngoài
dài hơn 2125 trượng linh 8 thước, cao 1 trượng rưỡi, dày
2 thượng. Trong thành cho dân sự làm nhà hơn
40 vạn nóc (?).
Sử chép rằng Cao Biền dùng phép phù thủy
khiến Thiên Lôi phá những thác ghềnh ở
các sông để cho thuyền bè đi được. Thiên
Lôi ấy có lẽ là Cao Biền dùng thuốc
súng chăng?
Tục lại truyền rằng Cao Biền thấy bên Giao Châu ta lắm đất
đai đế vương, thường cứ cỡi diều giấy đi yểm đất, phá những chỗ
sơn thủy đẹp, và hại mất nhiều long mạch. Những chuyện ấy
là chuyện ngoa ngôn, không có lẽ gì
mà tin được.
Năm Ất Vị (875) vua nhà Đường sai Cao Biền sang làm Tiết
Độ Sứ ở Tây Xuyên (Tứ Xuyên). Biền dâng người
cháu họ là Cao Tầm làm Tiết Độ Sứ ở giao
Châu.
Nhà Đường tuy lấy lại được đất Giao Châu nhưng bên
Tàu lại sắp loạn, giặc cướp dần dần nổi lên, ngôi
nhà vua cũng dần dần sắp đổ, nước Tàu lại chia rẽ
làm mấy nước, cho nên ở xứ Giao Châu cũng có
sự biến cải.
10. Sự Trị Loạn Của Nước Tàu.
Xét chuyện nước Tàu từ đời nhà
Hán cho đến đời bấy giờ, cứ mỗi nhà lên cầm quyền
chính trị được vài ba trăm năm, rồi trong nước lại biến
loạn, Nam Bắc phân tranh độ chừng
Phàm sự trị loạn thay đổi trong một xã hội là
thường lý, nhưng chỉ lạ có một điều mấy lần bên
Tàu loạn cũng tương tự như nhau cả. Xem như khi nhà
Hán suy, thì nước Tàu phải loạn Tam Quốc; hết Tam
Quốc thì có nhà Tấn nhất thống. Đến khi nhà
Tấn suy, thì có Nam Bắc triều; hết Nam Bắc triều
thì có nhà Đường nhất thống. Nay thì
nhà Đường suy lại phải cái loạn Ngũ Quí.
Cái cơ hội trị loạn bên Tàu giống nhau như thế
là cũng có lẽ tại cái phong tục và
cái xã hội của Tàu. Sự giáo dục không
thay đổi, nhân quần trong nước không tiến bộ, cách
tư tưởng không khai hóa, cho nên nước tuy lâu
đời, mà trình độ xã hội vẫn đứng nguyên một
chỗ. Khi có biến loạn là chỉ có mấy người
có quyền thế tranh cạnh với nhau, chứ dân trong nước hễ
thấy bên nào mạnh là làm tôi bên
ấy. Nhà Hán làm vua là dân nhà
Hán, nhà Đường làm vua là dân
nhà Đường, việc gì cũng đổ cho thiên mệnh,
làm dân chỉ biết thuận thụ một bề mà thôi.
Xứ Giao Châu mình tự đời nhà Hán cho đến đời
Ngũ Quí vẫn là đất nội thuộc của Tàu, cho
nên sự trị loạn bên Tàu cũng ảnh hưởng đến nước
mình. Nhờ khi bên Tàu loạn lạc, người Tàu
bận việc nước, thì bên Giao Châu cũng rục rịch tự
lập được ba năm. Nhưng chỉ vì nước thì nhỏ, người
thì ít, mà người trong nước lại không biết
đồng tâm với nhau, không hiểu các lẽ hợp quần
đoàn thể là thế nào, cho nên không
thành công được.
III. Đời Ngũ Quí (907 - 959)
1. Tình Thế Nước Tàu.
Năm Đinh Mão (907)
nhà Đường mất ngôi, nhà Hậu Lương, Hậu Đường, Hậu
Tấn, Hậu Hán, Hậu Chu, tranh nhau làm vua. Mỗi nhà
được mấy năm, gồm tất cả là 52 năm, gọi là đời Ngũ
Quí hay là Ngũ Đại.
2. Họ Khúc Dấy Nghiệp. Khúc
Thừa Dụ (906 - 907).
Trước khi nhà Đường sắp mất ngôi độ
mấy năm, thì bên Tàu loạn, giặc cướp nổi lên
khắp cả mọi nơi. Uy quyền nhà vua không ra đến bên
ngoài, thế lực ai mạnh thì người ấy xưng đế, xưng vương.
Ở Giao Châu, lúc bấy giờ có một người họ
Khúc tên là Thừa Dụ, quê ở Hồng Châu
(thuộc địa hạt Bàng Giang và Ninh Giang ở Hải Dương).
Khúc Thừa Dụ vốn là một người hào phú trong
xứ, mà tính lại khoan hòa, hay thương người, cho
nên có nhiều người kính phục. Năm Bính Dần
(906) đời vua Chiêu Tuyên nhà Đường, nhân khi
trong châu có loạn, chúng cử ông ấy lên
làm Tiết Độ Sứ để cai trị Giao Châu. Nhà Đường
lúc bấy giờ suy nhược, thế không ngăn cấm được, cũng thuận
cho ông ấy làm Tĩnh Hải Tiết Độ Sứ và gia phong
Đồng Bình Chương Sự.
Năm sau nhà Đường mất ngôi, nhà Hậu Lương phong cho
Lưu Ẩn làm Nam Bình Vương, kiêm chức Tiết Độ Sứ
Quảng Châu và Tĩnh Hải, có ý để lấy lại Giao
Châu.
Khúc Thừa Dụ làm Tiết Độ Sứ được non một năm thì
mất, giao quyền lại cho con là Khúc Hạo.
3. Khúc Hạo (907 - 917).
Khúc Hạo lên thay cha làm Tiết
Độ Sứ, lập ra lộ, phủ, châu, xã ở các nơi, đặt quan
lại, sửa sang việc thuế má, việc sưu dịch và lại cho con
là Khúc Thừa Mỹ sang sứ bên Quảng Châu, tiếng
là kết hiếu với nhau, nhưng cốt để dò thăm mọi việc hư
thực.
Lưu Ẩn ở Quảng Châu đóng phủ trị ở Phiên Ngung được
4 năm thì mất. Em là Lưu Cung (trước gọi là Lưu
Nham) lên thay. Được ít lâu nhân có
việc bất bình với nhà Hậu Lương, Lưu Cung tự xưng đế,
quốc hiệu là Đại Việt. Đến năm Đinh Sửu (947) cải quốc hiệu
là Nam Hán.
4. Khúc Thừa Mỹ (917 - 923).
Năm Đinh Sửu (917) Khúc Hạo mất, truyền
nghiệp lại cho con là Khúc Thừa Mỹ. Khúc Thừa Mỹ
nhận chức Tiết Độ Sứ của nhà Lương, chứ không thần phục
nhà Nam Hán. Vua nước Nam hán lấy sự ấy làm
hiềm, đến năm Quí Mùi (923) sai tướng là Lý
Khắc Chính đem quân sang đánh bắt được Khúc
Thừa Mỹ, rồi sai Lý Tiến sang làm thứ sử cùng với
Lý Khắc Chính giữ Giao Châu.
5. Dương Diên Nghệ và Kiểu
Công Tiện (931 - 938).
Năm Tân Mão (931) Dương Diên
Nghệ là tướng của Khúc Hạo ngày trước mới nổi
lên, mộ quân đánh đuổi bọn Lý Khắc
Chính và Lý Tiến đi, rồi tự xưng làm Tiết
Độ Sứ. Được 6 năm, Dương Diên Nghệ bị người nha tướng là
Kiểu Công Tiện giết đi mà cướp lấy quyền.
6. Ngô Quyền Phá Quân Nam
Hán.
Khi ấy có người tướng của Dương Diên
Nghệ là Ngô Quyền cử binh đi đánh Kiểu Công
Tiện để báo thù cho chúa. Ngô Quyền
là người làng Đường Lâm, cùng một
làng với Phùng Hưng ngày trước (huyện Phú
Thọ, tỉnh Sơn Tây) làm quan với Dương Diên Nghệ.
Dương Diên Nghệ thấy người có tài trí mới gả
con gái cho, và phong cho vào giữ Ái
Châu (Thanh Hóa). Khi được tin Kiểu Công Tiện
đã giết mất Dương Diên Nghệ, Ngô Quyền liền đem
quân ra đánh.
Kiểu Công Tiện cho sang cầu cứu ở bên Nam Hán,
Hán Chủ nhân dịp cho thái tử là Hoằng
Tháo đưa quân đi trước, mình tự dẫn quân đi
tiếp ứng.
Khi quân Hoằng Tháo vào gần đến sông Bạch
Đằng, thì bên này Ngô Quyền đã giết
được Kiểu Công Tiện (938), rồi một mặt truyền lệnh cho quân
sĩ phải hết sức phòng bị, một mặt sai người lấy gỗ cặp sắt nhọn,
cắm ngầm ở dưới lòng sông Bạch Đằng, xong rồi chờ đến
lúc nước thủy triều lên, cho quân ra khiêu
chiến; quân Nam Hán đuổi theo, đến lúc nước xuống,
Ngô Quyền hồi quân đánh ập lại, quân Nam
Hán thua chạy, bao nhiêu thuyền mắc vào cộc gỗ
thủng nát mất cả, người chết quá nửa, Hoằng Tháo
bị Ngô Quyền bắt được, đem về giết đi.
Hán Chủ nghe tin ấy, khóc òa lên, rồi đem
quân về Phiên Ngung, không dám sang quấy nhiểu
nữa.
Ngô Quyền trong thì giết được nghịch thần, báo
thù cho chủ, ngoài thì phá được cường địch,
bảo toàn cho nước, thật là một người trung nghĩa lưu danh
thiên cổ, mà cũng nhờ có tay Ngô Quyền, nước
Nam ta mới cởi được ách Bắc thuộc hơn một nghìn năm,
và mở đường cho Đinh, Lê, Lý, Trần, về sau
này được tự chủ ở cõi Nam vậy.
-------------------------------
{18 Nhà Đường lúc đó chia nhiều
tỉnh bên Tàu ra làm Đô Hộ Phủ như Tứ
Xuyên Đô Hộ Phủ, An Nam Đô Hộ Phủ, v.v.... Vậy
Đô Hộ là một chức quan chứ không phải là một
chính thể cai trị các thuộc địa như ta hiểu bây
giờ. }
{19 Đến đời Ngũ Quý vào quãng nhà Hậu Tấn
có người tên là Đoàn Tư Bình
lên làm vua đổi quốc hiệu là Đại Lý, truyền
đến đời Hồng Võ (1368-1392) nhà Minh mới mất. Nhà
Minh đặt là Đại Lý Phủ, thuộc về tỉnh Vân Nam. }
{20 Có người bảo rằng người Việt Nam ta phải đóng sưu
thuế khởi đầu từ Cao Biền. năm bảy mươi năm, khi ấy có một
nhà đứng lên dẹp loạn yên nước, lập lên cơ
nghiệp một nhà khác. }
Chương 6
Kết Quả Của Thời Bắc
Thuộc
1. Người Nước Nam
Nhiễm Văn Minh Của Tàu
2. Nho
Giáo
3. Đạo
Giáo
4. Phật
Giáo
5. Sự
Tiến Hóa Của Người Nước Nam
1. Người Nước Nam Nhiễm Văn Minh Của Tàu.
Từ khi vua Vũ Đế nhà Hán sai Lộ Bát
Đức sang đánh lấy Nam Việt cho đến đời Ngũ Quí, ông
Ngô Quyền đánh đuổi người Tàu về bắc, tính
vừa tròn 1.050 năm.
Xứ Giao Châu ta bị người Tàu sang cai trị bấy lâu
năm thì chắc là sự sinh hoạt của người bản xứ cũng bị
thay đổi một cách khác hẳn với trước. Khi đất Giao
Châu còn gọi là Văn Lang hay là Âu Lạc
thì người bản xứ ăn ở thế nào, phong tục làm sao,
nay cũng không có di tích gì mà
kê cứu rạch rõ được. Có lẽ cũng tự hồ như Mường hay
là Mán ở mạn thượng du đất Bắc Việt bây giờ. Giả
sử? có đem vua Hùng Vương họ Hồng Bàng và
vua An Dương Vương họ Thục mà sánh với mấy người Quan
Lang ở mạn thượng du thì dễ thường cũng không xa sự thực
là mấy. Nhưng đây là một điều nói phỏng
mà thôi, chứ lấy gì làm đích
xác?
Vả lại, khi người một xã hội đã văn minh như người
Tàu mà đi mở đất chưa khai như đất Giao Châu
lúc bấy giờ, thì e rằng người Tàu chiếm giữ lấy
chỗ bình địa rồi tụ họp với nhau mà làm ăn,
còn những người bản xứ thì hoặc là lẫn với kẻ khỏe
hơn mình, hoặc giết hại đi, hoặc vào ở trong rừng trong
núi rồi chết mòn chết mỏi đi. Kể như thế thì người
mình bây giờ cũng không xa người Tàu
là bao nhiêu.
Dẫu thế nào mặc lòng, hết đời Bắc Thuộc rồi thì
người Giao Châu ta có một cái nghị lực riêng
và cái tính chất riêng để độc lập, chứ
không chịu lẫn với nước Tàu. Duy chỉ có sự
sùng tính, sự học vấn, cách cai trị thì bao
giờ mình cũng chịu cái ảnh hưởng của Tàu.
Nguyên nước Tàu từ đời Tam Đại đã văn minh lắm,
mà nhất là về đời nhà Chu thì cái
học thuật lại càng rực rỡ lắm. Những học phái lớn như
là Nho Giáo và Lão Giáo đều khởi đầu
từ đời ấy. Về sau đến đời nhà Hán, nhà Đường,
những học phái ấy thịnh lên, lại có Phật
Giáo ở Ấn Độ truyền sang, rồi cả ba đạo cùng truyền
bá đi khắp cả mọi nơi trong nước. Từ đó trở về sau nước
Tàu và những nước chịu ảnh hưởng của Tàu đều theo
tông chỉ của những đạo ấy mà lập ra sự sùng
tín, luân lý và phong tục tương tự như nhau
cả. Vậy ta xét qua xem những học phái ấy gốc tích
từ đâu, và cái tông chỉ của những học
phái ấy ta thế nào.
2. Nho Giáo.
Nho giáo sinh ra từ đức Khổng Tử. Ngài
húy là Khâu, tên chữ là Trọng Ni, sinh
ở nước Lỗ (thuộc tỉnh Sơn Đông) vào năm 551 trước
Tây Lịch, về đời vua Linh Vương nhà Chu.
Ngài sinh ra vào đời Xuân Thu, có Ngũ
Bá tranh cường, dân tình khổ sở, phong tục bại
hoại. Ngài muốn lấy đạo luân thường mà dạy người ta
cách ăn ở với nhau trong đời. Ngài đi du lịch trong mấy
nước chư hầu, hết nước nọ qua đến nước kia, môn đệ theo
ngài cũng nhiều. Đến lúc già, ngài trở về
nước Lỗ, soạn kinh Thi, kinh Thư, kinh Dịch, định kinh Lễ, kinh Nhạc
và làm ra kinh Xuân Thu, rồi đến năm 479 trước
Tây Lịch về đời vua Kính Vương nhà Chu thì
Ngài mất, thọ được 72 tuổi.
Ngài chỉ cốt lấy những điều hợp với bản tính của
loài người mà dạy người, chứ không dạy những điều u
uẩn huyền diệu khác với đạo thường. Ngài nói rằng:
"Đạo bất viễn, nhân chi vi đạo nhu viễn nhân, bất khả dĩ vi
đạo". Nghĩa là: đạo không xa cái bản tính
người ta, hễ vì đạo mà xa cái bản tính ấy
thì đạo ấy không phải là đạo. Bởi vậy cái
tông chỉ của Ngài là chủ lấy Hiếu, Đễ, Trung, Thứ
làm gốc, và lấy sự sửa mình làm cốt
mà dạy người. ngài chỉ dạy người về sự thực tế hiện tại,
chứ những điều viễn vông ngoài những sự sinh hoạt ở trần
thế ra thì Ngài không bàn đến. Nói
đến sự sống chết thì Ngài bảo rằng: "Vị tri sinh,
yên tri tử", chưa biết được việc sống, sao đã biết được
việc chết. Nói đến việc quỉ thần thì ngài bảo
rằng: "Quỉ thần kính nhi viễn chi", quỉ thần thì
nên kính, mà không nên nói đến.
Tổng chi, đạo Ngài thì có nhiều lý tưởng
cao siêu (xem sách Nho Giáo)21 nhưng về đường thực
tế thì chú trọng ở luân thường đạo lý.
Cái đạo luân lý của Ngài có thể
truyền cho muôn đời về sau không bao giờ vượt qua được. Đối
với mọi người thì Ngài dạy: "Kỷ sở bất dục, vật thi ư
nhân", điều gì mình không muốn người ta
làm cho mình, thì mình đừng làm cho
ai". Đối với việc bổn phận của mình thì ngài dạy:
"Quân tử động nhi thế vi thiên hạ đạo, hành nhi thế
vi thiên hạ pháp, ngôn nhi thế vi thiên hạ
tắc, viễn chi tắc vọng, cận chi tắc bất yếm", người quân tử cử
động việc gì là để làm đạo cho thiên hạ,
nói năng điều gì là để làm mực cho
thiên hạ; người ở xa thì muốn lại gần, người ở gần
thì không bao giờ chán22.
Đạo của Khổng Tử truyền cho thầy Tăng Sâm; Tăng Sâm truyền
cho Khổng Cấp; Khổng Cấp truyền cho thầy Mạnh Kha tức là thầy
Mạnh Tử.
Thầy Mạnh Tử là một nhà đại hiền triết nước Tàu,
làm sách Mạnh Tử, bàn sự trọng nhân nghĩa,
khinh công lợi, và cho tính người ta vốn
lành, ai cũng có thể nên được Nghiêu, Thuấn
cả.
Đến đời nhà Tần, vua Thỉ Hoàng giết những người Nho học,
đốt cả sách vở, đạo Nho phải một lúc gian nan. Đến đời
vua Cao Tổ nhà Hán lại tôn kính đạo Nho, sai
làm lễ thái lao tế đức Khổng Tử. Đến đời vua Vũ Đế
nhà Hán lại đặt quan bác sĩ để dạy năm kinh. Từ
đấy trở đi, đạo Nho mỗi ngày một thịnh, dẫu trong nước có
đạo Lão, đạo Phật mặc lòng, bao giờ đạo nho vẫn trọng hơn.
3. Đạo Giáo.
Đạo giáo là bởi đạo của ông Lão Tử mà
thành ra. Lão Tử là người nước Sở (thuộc tỉnh Hồ
Bắc) họ là Lý, tên là Đam, sinh vào
năm 604 trước Tây Lịch về đời vua Định Vương nhà Chu, sống
được 81 tuổi, đến năm 523 trước Tây Lịch, vào đời vua Cảnh
Vương nhà Chu thì mất.
Tông chỉ của Lão Tử là trước khi có trời
đất, thì chỉ có Đạo. Đạo là bản thể của vũ trụ,
là cái gốc nguyên thỉ của các sự tạo
hóa. Vạn vật đều bởi Đạo mà sinh ra. Vậy sửa mình
và trị nước nên phải theo Đạo, nghĩ là người ta
nên điềm tĩnh, vô vi, cứ tự nhiên, chứ không
nên dùng trí lực mà làm gì cả.
Lão Tử soạn ra sách Đạo Đức Kinh, rồi sau có Văn
Tử, Thi Tử, Trang Tử, và Liệt Tử noi theo mà truyền
bá cái tông chỉ ấy.
Đạo của Lão Tử lúc đầu là một môn triết học
rất cao siêu nhưng về sau cái học thuyết biến đổi đi, rồi
những người giảng thuật thần tiên cũng phụ theo đạo ấy mà
nói những chuyện số kiếp và những sự tu luyện để được
phép trường sinh bất tử v. v... Bởi vậy đạo Lão mới
thành ra Đạo giáo là một đạo thần tiên,
phù thủy, và những người theo Đạo giáo gọi
là đạo sĩ.
Nguyên từ đời vua Thỉ Hoàng nhà Tần và vua
Vũ Đế nhà Hán, người Tàu đã tin sự thần
tiên, sau đến cuối đời nhà Đông Hán có
Trương Đạo Lăng soạn ra 24 thiên Đạo Kinh giảng cái thuật
trường sinh. Bọn giặc Hoàng Cân Trương Giác
chính là học trò của Trương Đạo Lăng. Đến đời
nhà Đông Tấn lại có Cát Hồng nói rằng
được tiên thuật rồi làm sách dạy những thuật ấy. Từ
đấy về sau Đạo giáo thịnh dần lên, tôn Lão Tử
làm Thái Thượng Lão Quân.
Đời vua Cao Tổ nhà Đường có người nói rằng thấy
Lão tử hiện ra ở núi Dương Giác Sơn xưng là
tổ nhà Đường23. Vua Cao Tổ đến tế ở miếu Lão Tử và
tôn lên là Thái Thượng Huyền Nguyên
Hoàng Đế. Bởi vậy nhà Đường trọng đạo Lão Tử lắm,
bắt con cháu phải học Đạo Đức Kinh.
Tuy đạo Lão về sau thịnh hành ở nước Tàu, nhưng
cũng không bằng đạo Phật. Đạo Phật là một đạo ở Ấn Độ đem
vào nước Tàu, và lại là một tôn
giáo rất lớn ở thế gian này.
4. Phật Giáo.
Tị tổ đạo Phật là đức Thích Ca Mâu Ni. Không
biết rõ ngài sinh vào đời nào. Cứ ý
kiến của đạo phái ở về phía Bắc đất Ấn Độ thì cho
là ngài sinh về năm 1028 trước Tây Lịch kỷ
nguyên, vào đời vua Chiêu Vương nhà Chu.
Còn đạo phái ở phía Nam thì cho vào
năm 624. Những nhà bác học thời bây giờ cho
ngài sinh vào năm 558 hay là 520, cùng với
Khổng Tử một thời.
Đức Thích Ca là con một nhà quí tộc đất Ấn
Độ. Ngài đã lấy vợ, có con, nhưng vì thấy
người ta ở trần thế này không ai khỏi được những khổ
não như sinh, lão, bệnh, tử, cho nên ngài bỏ
cả vợ con mà đi tu, để cầu phép giải thoát. Vậy
đạo Phật cốt có hai chủ ý: một là đời là
cuộc khổ não; hai là sự thoát khỏi khổ não.
Người ta gặp phải những sự khổ não như thế là tại
mình cứ mắc trong vòng luân hồi mãi. Vậy
muốn cho khỏi sự khổ não thì phải ra ngoài
luân hồi mới được; mà ra ngoài luân hồi
thì phải cắt cho đứt những cái nhân duyên
nó trói buộc mình ở trần gian này. Ra được
ngoài Luân Hồi thì lên đến cõi
Nát Bàn (nirvana) tức là thành Phật, bất
sinh, bất tuyệt.
Nguyên đạo Phật là do ở đạo Bà La Môn
(Brahmane) mà ra, nhưng tông chỉ đạo Phật không
giống đạo Bà La Môn cho nên hai đạo chống nhau
mãi, thành ra đến ba bốn trăm năm sau, khi đức
Thích Ca mất rồi, đạo Phật mới phát đạt ra ở Ấn Độ.
Đạo Phật sang nước Tàu kể từ nhà Tây Hán.
Đời vua Hán Vũ Đế (140 - 86) quân nhà Hán đi
đánh Hung Nô đã lấy được tượng Kim Nhân
và biết rằng người Hung Nô có thói đốt hương
thờ Phật24. Đời vua Ai Đế năm Nguyên thọ nguyên niên,
là lịch tây năm thứ 2, vua nhà Hán sai Tần
Cảnh Hiến sang sứ rợ Nhục Chi có học khẩu truyền được kinh
nhà Phật.
Đến đời vua Minh Đế nhà Đông Hán, có Ban
Siêu đi sứ các nước ở Tây Vực biết đạo Phật thịnh
hành ở phương Tây. Vua bèn sai Thái Am đi
sang Thiên Trúc lấy được 42 chương kinh và rước
thầy tăng về dạy đạo Phật. Bấy giờ nhân có con bạch
mã đem kinh về, cho nên nhà vua mới lập chùa
Bạch Mã để thờ Phật ở đất Lạc Dương.
Từ đó đạo Phật cứ dần dần truyền bá ra khắc nước
Tàu, nhưng chỉ có người Ấn Độ sang dạy đạo Phật mà
thôi, mãi đến đời Tam Quốc mới có người Tàu
đi làm thầy tăng. Về sau người Tàu sang Ấn Độ lấy kinh
đem về giảng dạy cũng nhiều.
Đời vua An Đế nhà Đông Tấn (402) đất Trường An có
ông Pháp Hiển đi chơi hằng 30 nước ở xứ Ấn Độ, qua đảo
Tích Lan (Ceylan) rồi theo đường hải đạo về Tàu, đem kinh
nhà Phật dịch ra chữ Tàu và làm sách
Phật Quốc Ký.
Đến đời Nam Bắc Triều, vua Hiến Minh nhà Ngụy sai tăng là
Huệ Sinh và Tống Vân sang Tây Vực lấy được hơn 170
bộ kinh đem về. Từ đó đạo Phật rất thịnh, kinh điển có
đến 450 bộ, chùa chiền được hơn 3 vạn, tăng ni có đến 2
triệu người.
Đời vua Thái Tông nhà Đường (630), có
ông Huyền Trang (tục gọi là Đường Tăng hay Đường Tam Tạng)
đi sang Ấn Độ ở hơn 10 năm lấy được 650 bộ kinh nhà Phật. Đến
đời vua Cao Tông (672) ông Nghĩa Tĩnh lại sang Ấn Độ lấy
được 400 bộ kinh nhà Phật nữa.
Từ đời nhà Đường trở đi, thì ở bên Tàu đạo
Phật càng ngày càng thịnh, mà người đi lấy
kinh cũng nhiều.
5. Sự Tiến Hóa Của Người Nước Nam.
Khi những đạo Nho, đạo Khổng, đạo Phật phát đạt bên
Tàu, thì đất Giao Châu ta còn thuộc về nước
Tàu, cho nên người mình cũng theo những đạo ấy. Về
sau nước mình đã tự chủ rồi, những đạo ấy lại càng
thịnh thêm, như là đạo Phật thì thịnh về đời
nhà Đinh, nhà Tiền Lê, và nhà
Lý, mà đạo Nho thì thịnh từ đời nhà Trần
trở đi.
Phàm phong tục và chính trị là do sự học
thuật và tông giáo mà ra. Mà người
mình đã theo học thật và tông giáo
của Tàu thì điều gì ta cũng noi theo Tàu
hết cả. Nhưng xét ra thì điều gì mình cũng
thua kém Tàu, mà tự người mình không
thấy có tìm kiếm và bày đặt ra được
cái gì cho xuất sắc, gọi là có cái
tinh thần riêng của nòi giống mình, là tại
làm sao?
Có lẽ một là tại địa thế nước Nam ta, hai là
cách ăn ở của người mình.
Phàm sự tiến hóa của một xã hội cũng như
công việc của người làm, phải có cái
gì đó nó đun đẩy mình, nó bắt phải
cố sức mà tiến hóa thì mới tiến hóa được.
Sự đun đẩy ấy là sự cần dùng và sự đua tranh. Nếu
không có cần dùng thì không có
cố gắng, không cố gắng thì không tiến hóa.
Nếu không có đua tranh thì không có
tìm kiếm, không tìm tìm kiếm thì
không tài giỏi, sự lý tất nhiên là
vậy.
Xem như nước Nam ta, thì hai cái yếu điểm ấy đều
kém cả. Người mình ở về xứ nóng nực, cách
ăn mặc giản dị, đơn sơ, không phải cần lao lo nghĩ cũng đủ sống,
cho nên ai cũng thích nhàn lạc, quí hồ khỏi
chết thì thôi, chứ không ai muốn lao tâm lao
lực lắm như những người ở nước văn minh khác. Tính người
mình như thế, thì hễ ai nói cái gì,
mình chỉ bắt chước được mà thôi, chứ không
phát khởi bày đặt ra được điều gì nữa.
Còn như sự đua tranh, phải có nhiều người, nhiều nước
thì mới đua tranh được. Nhưng nước ta ở phía Đông
thì có bể, ở phía Tây, phía Nam
thì những người Mường, người Lào là những người
văn minh kém mình cả, còn ở phía Bắc
có nước Tàu là hơn mình, nhưng Tàu
lại to quá, sự giao thông với mình thì
cách trở sơn xuyên, đường sá khó khăn
không tiện, chỉ có quan tư thỉnh thoảng đi lại mà
thôi, chứ dân trong nước không mấy khi ra đến
ngoài bờ cõi nước nhà. Người mà cả đời
không đi đến đâu, mắt không trông thấy
cái hay cái dở của người, thì tiến hóa
làm sao được? mà sự học của mình thì ai
cũng yên trí rằng cái gì đã học của
Tàu là hay, là tốt hơn cả: từ sự tư tưởng cho
chí công việc làm, điều gì mình cũng
lấy Tàu làm gương. Hễ ai bắt chước được Tàu
là giỏi, không bắt chước được là dở. Cách
mình sùng mộ văn minh của Tàu như thế, cho
nên không chịu so sánh cái hơn cái
kém, không tìm cách phát minh những
điều hay tốt ra, chỉ đinh rằng người ta hơn mình, mình
chỉ bắt chước người ta là đủ.
Địa thế nước mình như thế, tính chất và sự học vấn
của người mình như thế, thì cái trình độ
tiến hóa của mình tất là phải chậm chạp và
việc gì cũng phải thua kém người ta vậy.
----------------------------
{21 Nho Giáo - Trung Tâm Học Liệu xuất
bản trọn bộ 2 quyển. }
{22 Sánh với lời của Khang Đức tiên sinh là một
nhà đại triết học ở phương Âu: "Agis de telle que la
maxime de ton vouloir puisse être acceptée comme
règle universelle", ăn ở thế nào cho bao nhiêu
những việc mình làm có thể làm cái
công lệ cho thiên hạ. }
{23 Lão Tử và vua nhà Đường cùng họ
Lý. }
{24 Tục lệ đốt hương mà thờ cúng khởi đầu từ đó. }
nguồn: vnthuquan.net
|