|
Việt
Nam
Văn
Hiến
Năm
Thứ 4888
www.vietnamvanhien.org
www.vietnamvanhien.net
Việt Nam Sử Lược
Trần Trọng Kim
Trần Trọng Kim (1883-1953)
Tựa
Sử là sách không
những chỉ để ghi chép những công việc đã qua
mà thôi, nhưng lại phải suy xét việc gốc ngọn,
tìm tòi cái căn nguyên những công việc
của người ta đã làm để hiểu cho rõ những vận hội
trị loạn của một nước, những trình độ tiến hóa của một
dân tộc. Chủ đích là để làm cái gương
chung cổ cho người cả nước được đời đời soi vào đấy mà
biết cái sự sinh hoạt của người trước đã phải lao
tâm lao lực những thế nào, mới chiếm giữ được cái
địa vị ở dưới bóng mặt trời này.
Người trong nước có thông hiểu những sự tích nước
mình mới có lòng yêu nước yêu
nhà, mới biết cố gắng học hành, hết sức làm lụng,
để vun đắp thêm vào cái nền xã hội của
tiên tổ đã xây dựng nên mà để lại cho
mình. Bởi những lẽ ấy cho nên phàm dân tộc
nào đã có đủ cơ quan và thể lệ làm
cho một nước độc lập, thì cũng có sử cả. Nước Việt ta
khởi đầu có sử từ đời nhà Trần, vào quãng
thế kỷ thứ XIII. Từ đó trở đi nhà nào lên
làm vua cũng trọng sự làm sử. Nhưng cái lối
làm sử của ta theo lối biên niên của Tàu.
nghĩa là năm nào tháng nào có chuyện
gì quan trọng thì nhà làm sử chép
vào sách. Mà chép một cách rất vắn
tắt cốt để ghi lấy chuyện ấy mà thôi, chứ không giải
thích cái gốc ngọn và sự liên can việc ấy
với việc khác là thế nào.
Nhà làm sử lại là người làm quan, vua sai
coi việc chép sử, cho nên dẫu thế nào sự
chép sử cũng không được tự do, thường có ý
thiên vị về nhà vua, thành ra trong sử chỉ cần
chép những chuyện quan hệ đến nhà vua, hơn là
những chuyện quan hệ đến sự tiến hóa của nhân dân
trong nước. Vả, xưa nay ta vẫn chịu quyền chuyên chế, vẫn cho
việc nhà vua là việc nước. Cả nước chỉ cốt ở một họ
làm vua, cho nên nhà làm sử cứ theo
cái chủ nghĩa ấy mà chép sử, thành ra sử
đời nào cũng chỉ nói chuyện những vua đời ấy mà
thôi. Bởi vậy xem sử ta thật là tẻ, mà thường
không có ích lợi cho sự học vấn là mấy.
Sử của mình đã không hay, mà người
mình lại không mấy người biết sử. Là vì
cái cách học tập của mình làm cho người
mình không có thể biết được sử nước mình.
Bất kỳ lớn nhỏ, hễ ai cắp quyển sách đi học thì chỉ học
sử Tàu,chứ không học sử nước nhà. Rồi thơ
phú văn chương gì cũng lấy điển tích ở sử
Tàu, chứ chuyện nước mình thì nhất thiết
không nói đến. Người mình có ý lấy
chuyện nước nhà làm nhỏ mọn không cần phải biết
làm gì. Ấy cũng là vì xưa nay mình
không có quốc văn, chung thân chỉ đi mượn tiếng
người, chữ người mà học, việc gì cũng bị người ta cảm
hóa, chứ tự mình thì không có
cái gì là cái đặc sắc, thành ra thật
rõ như câu phương ngôn: "Việc nhà thì
nhác, việc chú bác thì siêng!"
Cái sự học vấn của mình như thế, cái cảm
tình của người trong nước như thế, bảo rằng lòng
vì dân vì nước mở mang ra làm sao được?
Nhưng dẫu thế nào mặc lòng, nước ta đã có
sử ta thì cũng có thể bởi đó mà biết được
những sự đã qua ở nước ta, và có thể bởi đó
mà khảo cứu được nhiều việc quan hệ đến vận mệnh nước
mình từ xưa đến nay xoay vần ra làm sao. Hiềm vì
sử nước ta thì làm bằng chữ Nho cả, mà chữ Nho
thì từ rày trở đi chắc rồi mỗi ngày một kém
đi. Hiện nay số người đọc được chữ Nho còn nhiều, mà
trong nước còn không có mấy người biết được chuyện
nước nhà, huống chi mai sau này chữ Nho bỏ không
học nữa, thì sự khảo cứu về những việc quan hệ đến lịch sử nước
mình sẽ khó biết bao nhiêu!
Nay nhân sự học ở nước ta đã thay đổi, chữ quốc ngữ
đã phổ thông cả trong nước, chi bằng ta lấy tiếng nước
nhà mà kể chuyện nước nhà, ta soạn ra bộ Việt Nam
Sử Lược, xếp đặt theo thứ tự, chia ra từng thời đại, đặt thành
chương, thành mục rõ ràng, để ai ai cũng có
thể xem được sử, ai ai cũng có thể hiểu được chuyện, khiến cho
sự học sử của người mình được tiện lợi hơn trước.
Bộ Việt Nam Sử Lược này, soạn giả chia ra làm 5 thời đại:
Thời đại thứ nhất là Thượng Cổ thời đại, kể từ họ Hồng
Bàng cho đến hết đời nhà Triệu. Trong thời đại ấy, từ
chương thứ III, bàn về xã hội nước Tàu trước đời
nhà Tần, phần nhiều là những chuyện hoang đường, huyền
hoặc cả. Những nhà chép sử đời trước cũng theo tục truyền
mà chép lại, chứ không có di tích
gì mà khảo cứu cho đích xác. Tuy vậy, soạn
giả cũng cứ theo sử cũ mà chép lại, rồi cũng phê
bình một đôi câu để tỏ cho độc giả biết rằng những
chuyện ấy không nên cho là xác thực.
Thời đại thứ nhì là Bắc Thuộc thời đại, kể từ khi vua Vũ
Đế nhà Hán lấy đất Nam Việt của nhà Triệu, cho đến
đời Ngũ Quí, ở bên ta có họ Khúc và
họ Ngô xướng lên sự độc lập. Những công việc trong
thời đại ấy, thì sử cũ của nước ta chép rất là sơ
lược lắm. Vì rằng trong thời đại Bắc Thuộc, người mình
chưa được tiến hóa, sự học hành còn kém,
sách vở không có, cho nên về sau những
nhà làm sử của ta chép đến thời đại này
cũng không kê cứu vào đâu được, chỉ theo sử
Tàu mà chép lại thôi. Vả, người Tàu
lúc ấy vẫn cho mình là một xứ biên địa
dã man, thường không ai lưu tâm đến, cho nên
những chuyện chép ở trong sử, cũng sơ lược lắm, mà đại để
cũng chỉ chép những chuyện cai trị, chuyện giặc giã, chứ
các công việc khác thì không
nói đến.
Thời đại Bắc Thuộc dai dẳng đến hơn một nghìn năm, mà
trong thời đại ấy dân tình thế tục ở nước mình thế
nào, thì bấy giờ ta không rõ lắm, nhưng
có 1 điều ta nên biết là từ đó trở đi, người
mình nhiễm cái văn minh của Tàu một cách
rất sâu xa, dẫu về sau có giải thoát được
cái vòng phụ thuộc nước Tàu nữa, người mình
vẫn phải chịu cái ảnh hưởng của Tàu. Cái ảnh hưởng
ấy lâu ngày đã trở thành ra cái quốc
túy của mình, dẫu ngày nay có muốn trừ bỏ
đi, cũng chưa dễ một mai mà tẩy gội cho sạch được. Những
nhà chính trị toan sự đổi cũ thay mới cũng nên lưu
tâm về việc ấy, thì sự biến cải mới có công
hiệu vậy.
Thời đại thứ ba là thời đại Tự Chủ, kể từ nhà Ngô,
nhà Đinh cho đến sơ-diệp nhà Hậu Lê. Nước
mình từ thời đại ấy về sau là một nước dộc lập, tuy đối
với nước Tàu vẫn phải xưng thần và chịu cống, nhưng kỳ
thực là không ai xâm phạm đến cái quyền tự
chủ của mình. Buổi đầu, nhà Đinh, nhà Lê mới
dấy lên; còn phải xây đắp cái nền tự chủ cho
vững bền, phải lo sửa sang việc võ bị để chống với kẻ thù
nghịch, cho nên sự văn học không được mở mang lắm. Về sau
đến đời nhà Lý, nhà Trần, công việc ở trong
nước đã thành nền nếp, kẻ cừu địch ở ngoài cũng
không quấy nhiễu nữa, lại có nhiều vua hiền tôi giỏi
nối nhau mà lo việc nước, cho nên từ đó trở đi việc
chính trị, việc tôn giáo và việc học vấn mỗi
ngày một khai hóa ra, làm cho nước ta thành
một nước có thế lực, bắc có thể chống được với
Tàu, nam có thể mở rộng thêm bờ cõi.
Nhà Lý và nhà Trần lại có công
gây nên cái quốc hồn mạnh mẽ, khiến cho về sau đến
đời Trần mạt, nhân khi họ Hồ quấy rối, người Tàu đã
toan đường kiêm tính, người mình biết đồng
tâm hiệp lực mà khôi phục lại giang sơn nhà.
Kế đến nhà Lê, trong khoảng một trăm năm về buổi đầu, nước
mình cũng có thể gọi là thịnh trị, nhất là
về những năm Quang Thuận (1460-1469) và Hồng Đức (1470-1497),
thì sự văn trị và võ công đã
là rực rỡ lắm. Nhưng về sau gặp những hôn quân dung
chúa, việc triều chính đổ nát, kẻ gian thần dấy
loạn. Mối binh đao gây nên từ đó, người trong nước
đánh giết lẫn nhau, làm thành ra nam bắc chia rẽ,
vua chúa tranh quyền. Ấy thật là một cuộc biến lớn ở
trong nước vậy.
Thời đại thứ tư là Nam Bắc phân tranh, kể từ khi
nhà Mạc làm sự thoán đoạt cho đến nhà
Tây Sơn. Trước thì nam Lê, bắc Mạc, sau thì
Nguyễn nam, Trịnh bắc, sự cạnh tranh càng ngày
càng kịch liệt, lòng ghen ghét càng
ngày càng dữ dội. Nghĩa vua tôi mỏng mảnh, đạo
cương thường chểnh mảng: nước đã có vua lại có
chúa. Trong Nam ngoài Bắc mỗi nơi một giang sơn,
công việc ở đâu, chủ trương ở đấy. Tuy vậy việc sửa đổi ở
ngoài Bắc cũng có nhiều việc hay, mà việc khai
khẩn trong Nam thật là ích lợi. Nhưng cuộc thành
bại ai đâu dám chắc, cơn gió bụi khởi đầu từ
núi Tây Sơn, làm đổ nát cả ngôi vua
cùng nghiệp chúa. Anh em nhà Tây Sơn vẫy
vùng không được 20 năm, thì bản triều nhà
Nguyễn lại trung hưng lên, mà đem giang sơn về một mối,
lập thành cái cảnh tượng nước Việt Nam ta ngày nay
vậy.
Thời đại thứ năm là Cận Kim thời đại, kể từ vua Thế Tổ bản triều
cho đến cuộc Bảo Hộ bây giờ. Vua Thế Tổ khởi đầu giao thiệp với
nước Pháp Lan Tây để mượn thế lực mà đánh
Tây Sơn. Nhưng về sau vì những vua con cháu
Ngài đổi chính sách khác, nghiêm cấm
đạo Thiên Chúa và đóng cửa không cho
ngoại quốc vào buôn bán. Những đình thần
thì nhiều người trí lự hẹp hòi, cứ nghiễm
nhiên tự phụ, không chịu theo thời mà thay đổi. Đối
với những nước ngoại dương, thì thường hay gây nên
sự bất hòa, làm cho nước Pháp phải dùng
binh lực để bênh vực quyền lợi của mình. Vì những
chính sách ấy cho nên mới thành ra có
cuộc Bảo Hộ.
Đại khái đó là những mục lớn trong những phần
mà soạn giả đã theo từng thời đại để đặt ra. Soạn giả
đã cố sức xem xét và góp nhặt những sự ghi
chép ở các sách chữ Nho và chữ Pháp,
hoặc nhữNg chuyện rải rác ở các dã sử, rồi đem
trích bỏ những sự huyền hoặc đi mà soạn ra bộ sách
này, cốt để người đồng bang ta biết được chuyện nước nhà
mà không tin nhảm những sự huyễn hoặc. Thời đại nào
nhân vật ấy và tư tưởng ấy, soạn giả cứ bình tĩnh
cố theo cho đúng sự thực. Thỉnh thoảng có một đôi
nơi soạn giả có đem ý kiến riêng của mình
mà bàn với độc giả, thí dụ như chỗ bàn về
danh hiệu nhà Tây Sơn thì thiết tưởng rằng sử
là của chung cả quốc dân, chớ không phải riêng
cho một nhà một họ nào, cho nên mới phải lấy
công lý mà xét đoán mọi việc
và không vị tình riêng để phạm đến lẽ
công bằng vậy.
Độc giả cũng nên biết cho rằng bộ sử này là bộ Sử
Lược chỉ cốt ghi chép những chuyện trọng yếu để hãy tạm
giúp cho những người hiếu học có sẵn quyển sách
mà xem cho tiện. Còn như việc làm thành ra
bộ sử thật là đích đáng, kê cứu và
phê bình rất tường tận, thì xin để dành cho
những bậc tài danh sau này sẽ ra công mà
giúp cho nước ta về việc học sử. Bây giờ ta chưa có
áo lụa, ta hãy mặc tạm áo vải, tuy nó xấu
xí nhưng nó có thể làm cho ta đỡ
rét. Nghĩa là ta hãy làm thế nào cho
những thiếu niên nước ta ngày nay ai cũng có thể
biết một đôi chút sự tích nước nhà, cho khỏi
tủi quốc hồn. Ấy là cái mục đích của soạn giả, chỉ
có thế thôi. Nếu cái mục đích ấy mà
có thể tới được thì tưởng bộ sách này
là bộ sách có ích vậy.
Trần Trọng Kim
|