Đền Quốc Tổ Hùng Vương




Việt Nam Sử Lược





Đức Hưng Đạo Vương




Đức Nguyễn Trãi







Việt Nam Văn Hiến
Năm Thứ 4888
www.vietnamvanhien.org
www.vietnamvanhien.net



Việt Nam Sử Lược

Trần Trọng Kim



Phần V : Cận Kim Thời-Đại


Chương 1

Thế Tổ (1802-1819)
Niên hiệu: Gia Long

1. Thế Tổ xưng đế hiệu
2. Việc triều chính
3. Binh chế
4. Việc tài chánh
5. Công vụ
6. Pháp luật
7. Việc học hành
8. Việc giao thiệp với nước Tàu
9. Việc giao thiệp với nước Chân Lạp và nước Tiêm La
10. Việc giao thiệp với nước Hồng Mao
11. Việc giao thiệp với nước Pháp Lang Tây
12. Sự giết hại công thần
13. Xét công việc của vua Thái Tổ

1. Thế Tổ xưng đế hiệu.
Thế tổ khởi binh chống nhau với Tây Sơn ở đất Gia Định từ năm mậu tuất (1778), kể vừa 24 năm, mới dứt được nhà Tây Sơn, thu phục được giang sơn cũ của chúa Nguyễn khi xưa và họp cả nam bắc lại làm một mối. Khi việc đánh dẹp xong rồi, ngài xưng đế hiệu, đặt quốc hiệu là Việt Nam, đóng Kinh đô ở Phú Xuân, tức là thành Huế bây giờ.
Khi vua Thế Tổ lấy được đất Bắc Hà rồi, ngài xuống chỉ tha cho dân một vụ thuế, và thăng thưởng cho các tướng sĩ. Ngài lại phong tước cho con 170 cháu nhà Lê, nhà Trịnh, cấp cho ruộng đất và trừ phong dịch cho dòng dõi hai họ ấy để giữ việc thờ phụng tổ tiên.
Đoạn rồi, ngài đổi Bắc Hà là Bắc Thành, đặt quan tổng trấn, triệu Nguyễn Văn Thành ở Quy Nhơn ra sung chức ấy, để coi mọi việc. Lại đặt ra tam tào là tào Hộ, tào Binh, tào Hình, sai Nguyễn Văn Khiêm, Đặng Trần Thường, và Phạm Văn Đăng ra coi các tào ấy, để giúp Nguyễn Văn Thành.

Đến tháng bảy năm nhâm tuất (1802), Thế Tổ về Kinh, đem vua tôi nhà Tây Sơn về làm lễ hiến phù ở đền Thái Miếu, rồi đem ra tận pháp trường xử trị. Lại sai quật mả vua Thái Đức Nguyễn Nhạc và vua Thái Tổ Nguyễn Huệ lên, đem vứt thây đi, còn đầu thì đem bỏ giam ở trong ngục tối.
Những bọn văn thần nhà Tây Sơn như Ngô Thì Nhiệm, Phan Huy Ích ra hàng, đem nọc ra đánh ở trước văn miếu, rồi tha cho về. Lúc bấy giờ có Ngô Thì Nhiệm vì trước có hiềm với Đặng Trần Thường, cho nên đến khi đánh ở văn miếu, Đặng Trần Thường sai người đánh chết.
Vua Thế Tổ định tội, thưởng công xong rồi, lo sửa sang mọi việc; làm đền Cần Chính để lập thường triều, đền Thái Hòa để lập đại triều; lại sai quân dân xây thành Kinh Đô và Hoàng Thành cùng các thành trì ở ngoài các doanh trấn.
Tuy rằng ngài đã đặt niên hiệu, lên ngôi từ năm nhâm tuất (1802), nhưng mà đến năm giáp tí (1804), tức là Gia Long tam niên, vua nhà Thanh mới sai sứ sang phong vương, và đến năm bính dần (1806), ngài mới làm lễ xưng đế hiệu ở đền Thái Hòa. Định triều nghi, cứ ngày rằm và ngày mồng một thiết đại triều; ngày mồng 5, mồng 10, 20 và 25 thì thiết tiểu triều.
Lúc ngài đánh xong Tây Sơn, thì chính trị trong nước đổ nát, phong tục hủy hoại, việc gì cũng cần sửa sang lại. Bởi vậy ở trong thì ngài chỉnh đốn pháp luật, và mọi việc cai trị cùng là sửa sang phong tục, cấm dân gian không cho lấy việc thần phật mà bày ra rượu chè ăn uống, nghiêm dụ quan lại không được sinh sự nhiễu dân. Ở ngoài thì ngài lo sự giao hiếu với nước Tàu, nước Tiêm, nước Chân Lạp, khiến cho nước Việt Nam lúc bấy giờ trong ngoài đều được yên trị.

2. Việc Triều Chính.
Ở trong cung, nhà vua không đặt ngôi hoàng hậu, chỉ có ngôi hoàng phi và các cung tần. Sau khi vua mất, thì tự quân lên ngôi, mới tôn mẹ lên làm Hoàng Thái Hậu.

Quan lại trong Triều đại khái theo chế độ nhà Lê, nhưng bỏ chức Tham Tụng và Bồi Tụng tức là chức tể tướng đời xưa. Mọi việc đều do Lục Bộ chủ trương hết cả. Mỗi bộ có quan Thượng Thư làm đầu, quan tả hữu tham tri, tả hữu thị lang, cùng các thuộc viên như là lang trung, viên ngoại lang, chủ sự và bát cửu phẩm thơ lại, v.v.....
Bộ Lại: coi việc thuyên bổ quan văn, ban thưởng phẩm cấp, khảo xét công trạng, phong tặng tước ấm, thảo những tờ chiếu sắc cáo mệnh và làm những sổ các hàng quan lại v.v....
Bộ Hộ: coi việc đinh điền thuế má, tiền bạc chuyển thông, kho tàng chứa chất, hóa vật đắt rẻ v.v...
Bộ Lễ: coi việc triều hộ, khánh hạ, tế tự, tôn phong, cùng là cách thức học hành thi cử, tinh biểu cho người sống lâu, người có tiết nghĩa, phong thụy cho các thần nhân v.v.....
Bộ Binh: coi việc thuyên bổ võ chức, giảng duyệt quân lính, sai khiến quân đi thú hoặc đi đánh dẹp, kén chọn binh đinh, xét người có công người có lỗi về việc binh.
Bộ Hình: coi việc hình danh pháp luật, tra nghĩ dâng tấu, duyệt lại những tội nặng án ngờ, xét kỹ những tù giam ngục cấm.
Bộ Công: coi việc làm cung điện, dinh thự, xây thành, đào hào, tu tạo tàu bè, đặt làm kiểu mẫu, thuê thợ thuyền, mua vật liệu v.v....
Ngoài lục bộ lại có Đô Sát Viện để giữ việc can gián vua, và đàn hạch các quan. Cấp sự trung các khoa và giám sát ngự sử các đạo, đều thống thuộc về viện ấy. Trong viện có tả hữu đô ngự sử và tả hữu phó đô ngự sử đứng đầu.
Bấy giờ vua Thế Tổ lại đặt ra Tào Chính để coi việc vận tải cùng là thuế má tàu bè. Có quan Tào Chính Sứ và Tào Phó Sứ làm đầu.
Các địa phương thì lúc bấy giờ từ nam chí bắc chia ra làm 23 trấn và 4 doanh. Từ Thanh Hóa ngoại (tức là Ninh bình bây giờ) trở ra, gọi là Bắc Thành, thống cả 11 trấn, chia ra làm 5 nội trấn: Sơn Nam Thượng, Sơn Nam Hạ, Sơn Tây, Kinh Bắc, và Hải Dương; 6 ngoại trấn: Tuyên Quang, Hưng Hóa, Cao Bằng, Lạng Sơn, Thái Nguyên, Quảng Yên. Từ Bình Thuận trở vào gọi là Gia Định Thành, thống cả 5 trấn: Phiên An (địa hạt Gia Định), Biên Hòa, Vĩnh Thanh (tức là Vĩnh Long và An Giang), Vĩnh Tường và Hà Tiên. 171
Còn ở quãng giữa nước, thì đặt Thanh Hóa Trấn (gồm cả Thanh Hóa nội, Thanh Hóa ngoại), Nghệ An trấn, Quảng Nghĩa trấn, Bình Định trấn, Phú Yên trấn, Bình Hòa trấn (tức là Khánh hòa) và Bình Thuận trấn. Đất kinh kỳ thống bốn doanh là: Trực Lệ Quảng Đức doanh (tức là Thừa Thiên bây giờ), Quảng Trị doanh, Quảng bình doanh, Quảng Nam doanh.
Ở Bắc Thành và Gia Định Thành đều đặt chức tổng trấn, và phó tổng trấn, để coi mọi việc. Ở các trấn thì đặt quan lưu trấn hay là quan trấn thủ, quan cai bạ và quan ký lục để coi việc cai trị trong trấn.
Trấn lại chia ra phủ, huyện, châu, đặt chức tri phủ, tri huyện, tri châu để coi việc cai trị.

Những trấn ở Nghệ An, Thanh Hóa và 5 nội trấn ở Bắc Thành, thì dùng những quan cựu thần nhà Lê làm quan cai trị. Còn 6 ngoại trấn ở Bắc Thành, thì giao quyền cai trị cho những thổ hào sở tại.

3. Binh Chế.
Khi vua Thế Tổ đánh được Tây Sơn rồi, ngài ban thưởng cho các tướng sĩ, tặng phong và làm đền thờ những người tử trận. Còn những quân lính già nua thì cho về quê quán. Đặt ra phép giản binh: lệ định các trấn, tự Quảng Bình vào đến Bình Thuận thì cứ ba tên đinh kén lấy một tên lính; tự Biên Hòa trở vào thì cứ 5 tên đinh kén lấy một tên lính; tự Hà Tịnh trở ra đến 5 nội trấn ở Bắc Thành thì cứ 7 tên đinh kén lấy một tên lính. Còn 6 ngoại trấn là Tuyên Quang, Hưng Hóa, Cao Bằng, Lạng Sơn, Thái Nguyên, Quảng Yên thì cứ 10 tên đinh kén lấy một tên lính.
Ở chỗ Kinh thành thì đặt ra thân binh, cấm binh, tinh binh. Lính thân binh mỗi vệ có 500 người và có 50 người tập quân nhạc. Ở các trấn thì đặt ra lính cơ, lính mộ. Lại đặt biền binh ban lệ, nghĩa là các binh lính chia ra làm 3 phiên, 2 phiên về quán, còn một phiên ở tại ban luân lưu thay đổi cho nhau.
Những binh khí thì dùng gươm giáo, mã tấu, và lại có súng lớn bằng đồng gọi là súng đại bác, súng nhỏ gọi là súng thạch cơ điểu thương, nghĩa là bắn thì mổ bằng máy đá lửa. Ở chỗ kinh thành lập ra ba sở xạ trường để quân lính tập bắn.
Ở các cửa bể đều làm đồn đặt súng để phòng giữ và để xem xét những tàu bè ngoại quốc đi lại.

Nước Việt Nam ta có nhiều bể cần phải giữ gìn, bởi vậy vua Thế Tổ lưu tâm về việc chỉnh đốn binh thuyền: lấy người ở gần bể về doanh Quảng Đức và doanh Quảng Nam làm 6 vệ thủy quân đóng tại Kinh Thành. Còn ở các hải khẩu, mỗi nơi có một cơ lính thủy coi giữ. Nhà vua lại làm một thứ thuyền lớn ngoài bọc đồng, để đi lại tuần phòng ở miền bể.

4. Việc Tài Chính.
Thuế đinh, thuế điền đều định lại cả. Thuế điền thì chia ra làm 3 hạng: nhất đẳng điền mỗi mẫu đồng niên nộp thóc 20 thăng; nhị đẳng điền 15 thăng; tam đẳng điền 10 thăng. Còn thứ ruộng mùa đồng niên phải nộp 10 thăng.
Thuế đinh thì lệ định: từ Nghệ An ra đến nội ngoại Thanh Hóa, mỗi suất đồng niên phải chịu:
Thuế thân 1 quan 2 tiền
Mân tiền 1 tiền
Cước mễ 2 bát
5 nội trấn Bắc Thành và phủ Phụng Thiên 139 , mỗi suất đinh đồng niên phải chịu:
Thuế thân 1 quan 2 tiền
Mân tiền 1 tiền
Điệu tiền (tạp dịch) 6 tiền
Cước mễ 2 bát
6 ngoại trấn Bắc Thành, mỗi suất đinh đồng niên phải chịu:
Thuế thân 6 tiền
Mân tiền 1 tiền
Điệu tiền 3 tiền
Cước mễ 1 bát
Lệ giảm thuế: Thuế lệ tuy định như vậy, nhưng năm nào ở đâu mất mùa, như là bị hoàng trùng, đại hạn hay là nước lụt, v.v... thì nhà nước chiếu theo sự thiệt hại nhiều ít mà giảm thuế cho dân. Lúa 10 phần thiệt hại tới 4 phần thì khoan giảm cho hai phần thuết; thiệt hại 5 phần thì giảm cho 3; thiệt hại 6 phần thì giảm cho 4; thiệt hại 7 phần thì giảm cho 5; thiệt hại 8 phần thì giảm cho 6; thiệt hại 9 phần thì giảm cho 7; thiệt hại hết cả thì giảm cả. Hoặc nhà nước có lấy dân đinh đi làm đường, đào sông, xây thành v.v... thì cũng được giảm thuế.

139
Tức là phủ Hoài Đức bây giờ. 172
Vụ thuế: Nhà vua lại tùy từng địa phương mà định vụ thuế. Từ Quảng Bình đến Bình Thuận cứ mỗi năm một vụ thu thuế, khởi đầu từ tháng 4 đến tháng 7 thì hết. Từ Nghệ An ra đến Thanh Hóa ngoại, cùng các trấn ở Bắc thành mỗI năm thu thuế 2 vụ: mùa hạ thì khởi tự tháng 4 đến tháng 6 thì hết; mùa đông thì khởi sự tự tháng 10 đến tháng 11 thì hết.
Đinh bạ: Lệ định 5 năm một lần làm sổ đinh, trong làng từ chức sắc cho đến quân dân, đều phải vào sổ. Kể từ 18 tuổi trở lên, 59 tuổi trở xuống, đều phải khai vào sổ.
Điền bạ: Các làng, hoặc ruộng mùa, hoặc ruộng chiêm, hoặc ruộng hai mùa, hoặc có đất hạng nào, bao nhiêu mẫu, sào, thước, tấc, tọa lạc tại đâu, đông tây tứ chí phải chua cho rõ ràng. Mỗi làng phải làm 3 quyển sổ, cứ 5 năm làm một lần đệ vào bộ đóng dấu kiềm, rồi một bản lưu lại bộ, để phòng khi xét đến; còn hai bản giao về tỉnh, tỉnh để một bản lưu chiểu, còn một bản gia trả dân xã lưu thủ.
Cấm bán ruộng công điền: Từ khi nhà Lê mất ngôi, dân xã có nơi thì đem công điền đổi ra tư điền, có nơi thì đem cố bán đi, bởi vậy năm Gia Long thứ hai (1803) nhà vua lập lệ cấm dân xã không được mua bán công điền công thổ, chỉ trừ lúc nào xã thôn có công dụng điều gì, thì mới được phép cho điển cố, hạn hết 3 năm lại phải trả lại. Ai giữ quán hạn ấy thì phải tội.
Thuế các sản vật: Năm Gia Long thứ hai (1803), định lệ các quế hộ ở Nghệ An, đồng niên phải nộp các hạng quế 120 cân. Ở Thanh Hóa phải nộp 70 cân, và đều được miễn trừ thuế thân cả. Những người tìm được cây quế, phải trình quan để cấp cho văn bằng mới được đẵn. Đẵn xong rồi một nửa nộp quan, một nửa cho người tìm được.
Năm Gia long thứ tư (1805), định lệ những người đi lấy yến sào ở các đảo về hạt Quảng Nam, mỗi người đồng niên phải nộp thuế yến 8 lạng, và được tha việc binh lính.
Còn những thuế hương, thuế sâm, thuế chiếu, thuế gỗ, đều có lệ riêng, định cho nộp bằng tiền hay là bằng sản vật.

Vua Thế Tổ lại định lệ đánh thuế những thuyền các nước vào buôn bán, cứ do thuyền lớn nhỏ mà định số thuế phải nộp.
Những mỏ đồng, mỏ thiếc, mỏ kẽm, cũng cho người Tàu khai để đánh thuế.
Đúc tiền: Năm Gia Long thứ hai (1803), mở sở đúc tiền ở Bắc Thành, để đúc tiền đồng và tiền kẽm; lại đúc ra nén vàng, nén bạc, lượng vàng, lượng bạc, để cho tiện sự giao thông buôn bán trong nước.
Mỗi đồng tiền kẽm nặng 7 phân, một mặt in chữ "Gia Long Thông Bảo", một mặt in chữ "thất phân", mỗi quan tiền nặng 2 cân 10 lạng.

Giá vàng ở Bắc Thành thì định cứ một lượng vàng đổi lấy 10 lượng bạc.
Về sau mở thêm lò đúc tiền ở Gia Định Thành và ở các trấn.
Thước đo: Vua Thế Tổ chế tạo ra kiểu thước đồng đo ruộng, một mặt khắc 7 chữ "Gia Long cửu niên thu bát nguyệt", một mặt khác 10 chữ "ban hành đạc điền xích, công bộ đường kính tạo". Chuẩn định lại các thước vuông đo ruộng khi trước, chế tạo ra thước đồng, một mặt khắc 7 chữ "Gia Long Cửu Niên Thu Bát Nguyệt", một mặt khắc 12 chữ "ban hành đạc điền cựu kinh xích, công bộ đường khâm tạo".

Phép cân: Năm Gia Long thứ 12 (1813), chế tạo ra cân thiên bình, cấp cho các doanh các trấn, để cân đồng, sắt, chì, thiếc và các sản vật. Còn vàng và bạc thì dùng cân trung bình.

5. Công Vụ.
Vua Thế Tổ lại sửa sang những đường sá, xoi đào các sông ngòi, đắp các đê điều, để cho việc làm ăn của dân gian được tiện lợi.
Đường Quan Lộ: Đường sá trong nưóc là sự khẩn yếu cho việc chính trị, vậy nên vua Thế Tổ mới định lệ sai quan ở các doanh, các trấn phải sửa sang đường quan lộ: bắt dân sở tại phải đắp đường làm cầu, lệ cứ 15.000 trượng đường thì phát cho dân 10.000 phương gạo.
Lại từ cửa Nam quan (thuộc Lạng Sơn) vào đến Bình Thuận, cứ độ 4.000 trượng phải làm một cái nhà trạm ở cạnh đường quan lộ, để cho quan khách đi lại nghỉ ngơi. Cả thảy 98 trạm.
Còn từ Bình Thuận trở vào phía nam đến Hà Tiên thì đi đường thủy.
Sông ngòi và đê điều: Những sông ngòi và đê điều, đều là sự khẩn yếu cho việc canh nông, bởi vậy vua Thế Tổ truyền cho quan ở các trấn phải xoi đào sông ngòi và các cửa bể, và nhất là ở Bắc thành phải giữ gìn đê điều cho cẩn thận: chỗ nào không có thì đắp thêm, chỗ nào hư hỏng thì phải sửa 173 lại. Ở các trấn lại đặt ra kho chứa thóc gạo, để phòng khi mất mùa đói kém thì lấy mà phát cho dân.

6. Pháp Luật.
Nguyên khi trước vẫn theo luật nhà Lê, nhưng nay nhà Nguyễn đã nhất thống cả nam bắc, vua Thế Tổ bèn truyền cho đình thần lập ra pháp luật rõ ràng, để cho tiện sự cai trị. Năm tân mùi (1811) sai Nguyễn Văn Thành làm tổng tài, coi việc soạn ra sách luật; lấy luật cũ của đời Hồng Đức nhà Lê, mà tham chước với luật nhà Thanh làm thành một bộ, cả thảy 22 quyển, có 398 điều.
Đến năm ất hợi (1815), thì in sách luật ấy phát ra mọi nơi. Bộ luật ấy tuy nói theo luật Hồng Đức nhưng kỳ thực là chép luật của nhà Thanh và chỉ thay đổi ít nhiều mà thôi.
 
7. Việc Học Hành.
Thời bấy giờ nhờ có võ công mới dựng nên cơ nghiệp, cho nên lúc ấy các quan đầu triều là quan ngũ quân đô thống, và quan tổng trấn Nam Bắc hai thành đều là quan võ cả. Nhưng vua Thế Tổ cũng biết rằng sự trị nước cần phải có võ có văn, bởi vậy đêm ngày ngày lưu ý về việc học hành thi cử trong nước.

Ngài lập nhà Văn Miếu ở các doanh các trấn, thờ đức Khổng tử, để tỏ lòng trọng Nho học. Đặt Quốc Tử Giám ở Kinh đô, để dạy con các quan và các sĩ tử. Mở khoa thi Hương để kén lấy những người có học hành ra là quan.
Đặt thêm chức đốc học ở các trấn, và dùng những người có khoa mục ở đời nhà Lê, để coi việc dạy dỗ.
Vua Thế Tổ lo cả đến địa dư và quốc sử, bởi vậy ngày sai quan Binh Bộ Thượng Thư là Lê Quang Định kê cứu ở trong các trấn các doanh, tự Lạng Sơn đến Hà Tiên, xem sơn xuyên hiểm trở, đưòng sá xa gần, sông bể, cầu quán, chợ búa, phong tục, thổ sản, có những gì làm thành sách "Nhất Thống Địa Dư Chí" để dâng lên. Đến năm bính dần (1806), bộ sách ấy làm xong cả thảy được 10 quyển.
Năm tân mùi (1811), ngài sai quan tìm những sách dã sử nói chuyện nhà Lê và nhà Nguyễn Tây Sơn để sửa lại quốc sử.

Thời bấy giờ văn quốc âm cũng thịnh lắm. Một đôi khi nhà vua cũng dùng chữ nôm mà làm văn tế. Bài văn tế tướng sĩ khi quan Tiền quân Nguyễn Văn Thành, tổng trấn Bắc Thành ra chủ tế không rõ ai làm, nhưng thật là một bài văn chương đại bút. Lại có những chuyện như "Hoa Tiên" của ông Nguyễn Huy Tự, "Truyện Thúy Kiều" của quan Hữu Tham tri bộ Lễ là ông Nguyễn Du 140 , cũng phát hiện ra thời bấy giờ.
"Truyện Thúy Kiều" là một tập văn chương rất hay, diễn được đủ cả nhân tình thế cố, tả được cả mọi cảnh trong đời, mà chỗ nào văn chương cũng tao nhã, lời lẽ cũng lý thú. Nói theo tiếng đời nay thì "Truyện Thúy Kiều" thật là một tập văn chương đại trước tác của nước ta vậy.

8. Việc Giao Thiệp Với Nước Tàu.
Khi vua Thế Tổ dứt được nhà Nguyễn Tây Sơn và lấy được đất Bắc Hà rồi, sai quan thượng thư Binh Bộ là Lê Quang Định làm chánh sứ sang Tàu cầu phong và xin đổi quốc hiệu là Nam Việt, lấy lẽ rằng Nam là An Nam và Việt là Việt Thường. Nhưng vì đất Nam Việt đời nhà Triệu ngày trước gồm cả đất Lưỡng Quảng, cho nên Thanh Triều mới đổi chữ Việt lên trên, gọi là Việt Nam để cho khỏi lầm với tên cũ.
Đến năm giáp tí (1804) Thanh Triều sai quan án sát sứ tỉnh Quảng Tây là Tề Bố Sâm sang tuyên phong. Đoạn rồi, vua sai Lê Bá Phẩm làm chánh sứ đem đồ cống sang tạ và từ đó cứ chiếu lệ ba năm một lần sang cống.
Đồ cống phẩm là:
Vàng
200 lượng
Bạc
1000 lượng
Lụa và cấp mỗi thứ 100 cây
Sừng tê giác
2 bộ
Ngà voi và quế mỗi thứ 100 cân

9. Việc giao thiệp với nước Chân Lạp và nước Tiêm La.
Nguyên lúc còn Lê Triều thì chúa Nguyễn vẫn giữ quyền bảo hộ nước Chân Lạp. Sau vua nước ấy là Nặc Ông Tôn 141
bị anh em hiếp chế, phải chia quyền ra làm ba, để cho Nặc Ông Vinh làm vua đầu, mình làm vua thứ hai, em là Nặc Ông Thâm làm vua thứ ba. Được ít lâu Nặc Ông Vinh giết cả Nặc Ông Tôn và Nặc Ông Thâm giữ lấy quyền làm vua một mình.
Lúc bấy giờ Nguyễn Vương còn ở Gia Định mới sai Đỗ Thanh Nhân sang đánh Nặc Ông Vinh và lập con Nặc Ông Tôn là Nặc Ông Ấn lên làm vua. Nặc Ông Ấn bấy giờ mới có 8 tuổi. Nguyễn Vương sai Hồ Văn Lân ở lại
140
Ông Nguyễn Du người làng Tiên Điền, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh 141
Xem ở chương VI 174 bảo hộ. Nhưng đến khi đất Gia Định thất thủ quyền bảo hộ nước Chân Lạp thuộc về nước Tiêm La.
Năm bính thìn (1796), Nặc Ông Ấn mất, truyền nôi lại cho con là Nặc Ông Chân. Vua Tiêm La sai sứ sang phong, như thế là vua Chân Lạp phải thần phục vua Tiêm La.
Đến năm đinh mão (1807) Nặc Ông Chân lại bỏ Tiêm La mà xin về thần phục vua Việt Nam ta, theo lệ cống tiến, cứ ba năm một lần.
Đồ cống vật là:
Voi đực cao 5 thước 2 con
Sừng tê giác
2 chiếc
Ngà voi
2 cái
Hột sa nhân
50 cân
Đậu khấu 50 cân
Hoàng lạp 50 cân
Cánh kiến 50 cân
Sơn đen 20 lọ

Nặc Ông Chân có ba người em tên là Nặc Ông Nguyên, Nặc Ông Lem, Nặc Ông Đôn, muốn tranh quyền của anh, mới sang cầu cứu nước Tiêm La. Tiêm La bắt Nặc Ông Chân phải chia đất cho các em. Nặc Ông Chân không chịu, quân Tiêm La bèn sang đánh thành La Bích. Nặc Ông Chân chạy sang Tân Châu, rồi dâng biểu cầu cứu. Quan tổng trấn Gia Định thành bấy giờ là Nguyễn Văn Nhân mới đem việc ấy tâu về Triều đình.
Năm tân mùi (1811), vua Thế Tổ cho sứ đưa thư sang trách nước Tiêm La sinh sự. Năm sau, vua Tiêm La sai sứ sang phúc thư lại rằng: việc ấy là muốn giảng hòa cho anh em Nặc Ông Chân, chứ không có ý gì cả. Vậy xin để Việt Nam xử trí thế nào, Tiêm La 142
cũng xin thuận.
Qua năm quý dậu (1813) vua Thế Tổ sai quan tổng trấn Gia Định Thành là Lê Văn Duyệt đem hơn 10.000 quân, hội đồng với sứ nước Tiêm La, đưa Nặc Ông Chân về nước.
Nước Tiêm La tuy không dám kháng cự, nhưng vẫn lưu quân ở lại giữ tỉnh Bắc tầm bon (Battambang), nói rằng để đất ấy phong cho các em Nặc Ông Chân. Lê Văn Duyệt mới viết thư sang trách nước Tiêm La về điều ấy, quân Tiêm mới rút về.
142
Tức là Thái Lan ngày nay
Lê Văn Duyệt dâng sớ xin xây thành Nam Vang (Phnompenh) và thành La-lêm. Khi những thành ấy xây xong, thì vua Thế Tổ sai Nguyễn Văn Thụy đem 1.000 quân ở lại bảo hộ nước Chân Lạp. Từ đó quyền bảo hộ Chân Lạp lại về nước ta.

10. Việc giao thiệp với nước Hồng Mao.
Năm quý hợi (1803), nước Hồng Mao (tức là Anh Cát Lợi) sai sứ là ông Robert đem đồ phương vật sang dân và xin cho vào mở cửa hàng buôn bán ở Trà Sơn, thuộc Quảng Nam. Vua Thế Tổ không nhận đồ, và cũng không cho mở cửa hàng. Sau người Hồng Mao còn đưa thư sang hai ba lần nữa, nhưng ngày vẫn một niềm từ chối không chịu.

11. Việc giao thiệp với nước Pháp Lan Tây.
Đối với nước Pháp thì vua Thế Tổ có biệt nhỡn hơn, là vì khi ngài còn gian truân, ngài có nhờ ông Bá Đa Lộc có đem mấy người sang giúp ngày. Đến khi xong việc đánh dẹp rồi, còn có Chaigneau, Vannier và Despiau làm quan tại triều, mà vua Thế Tổ cũng có lòng trọng đãi, cho mỗi người 50 lính hầu, và đến buổi chầu thì không bắt lạy.

Vả trong khi vua Thế Tổ làm vua ở nước Việt Nam, thì Nã Phá Luân đệ nhất (Napoleon I) làm vua bên nước Pháp, đang còn phải đánh nhau với các nước, cho nên tàu Pháp cũng không hay đi lại ở phía Viễn Đông này. Đến khi Nã Phá Luân thất thế, dòng dõi nhà vua cũ lại trung hưng lên, bấy giờ sự chiến tranh đã yên, thì mới có tàu sang buôn bán ở phương Á đông. Năm đinh sửu (1817), có chiếc tàu "La Paix" của hiệu Balguerie, Sarget et Cie chở đồ hàng sang bán, nhưng mà những đồ hàng ấy, người Việt Nam ta không dùng được, lại phải chở về. Vua Thế Tổ tha không đánh thuế. Qua tháng sáu năm ấy, chiếc tàu binh tên là Cybèle của nước Pháp vào cử Đà Nẵng. Quan thuyền trưởng là De Kergarion bá tước nói rằng Pháp Hoàng Louis XVIII sai sang xin thi hành những điều ước do Bá Đa Lộc ký năm 1787 về việc nhường cửa Đà Nẵng và đảo Côn Lôn. Vua Thế Tổ sai quan ra trả lời rằng những điều ước ấy nước Pháp trước đã không thi hành thì nay bỏ, không nói đến nữa.
Năm kỷ mão (1819), có chiếc tàu buôn ba cột tên là "Rose" và "Le Henri" vào cửa Đà Nẵng. Lần này hàng hóa đem sang bán được, lại chở chè và lụa về. Năm ấy Chaigneau xin nghỉ ba năm, đem vợ con xuống tàu "Le Henri" về Pháp.
175

12. Sự giết hại công thần.
Những người công thần như Nguyễn Văn Thành và Đặng Trần Thường đều bị giết hại trong khi vua Thế Tổ còn đang trị vì.
Nguyễn Văn Thành, nguyên là người ở Thừa Thiên, nhưng vào ở Gia Định đã hai ba đời. Theo vua Thế Tổ từ khi ngài mới khởi binh đánh Tây Sơn, chịu hết mọi đường khổ sở. Sau ra đánh Tây Sơn ở Quy Nhơn, lập được công lớn, đứng đầu hàng công thần.
Khi vua Thế Tổ ra lấy bắc hà, triệu ông ra làm tổng trấn, giao cho xếp đặt mọi việc, chỉ có mấy năm mà đất Bắc Hà được yên trị. Sau về Kinh làm chức trung quân.
Ông có học thức, cho nên triều đình cử làm tổng tài việc làm sách luật và quốc sử.
Nguyễn Văn Thành có người con tên là Nguyễn Văn Thuyên thi đậu cử nhân, thường hay làm thơ để giao du với những kẻ văn sĩ. Bấy giờ nghe người ở Thanh Hóa là Nguyễn Văn Khuê và Nguyễn Đức Nhuận có tiếng hay chữ, Văn Thuyên làm bài thơ sai tên Nguyễn Trương Hiệu cầm đi mời vào chơi.
 
Bài thơ rằng:
Văn đạo Ái châu đa tuấn kiệt
Hư hoài trắc tịch dục cầu ty
Vô tâm cửu bảo Kinh sơn phác
Thiện tường phương tri Ký bắc kỳ
U cốc hữu hương thiên lý viễn
Cao cương minh phượng cửu thiên tri
Thư hồi nhược đắc sơn trung tể
Tá ngã kinh luân chuyển hóa ky
 
Dịch nôm là:
Ái châu nghe nói lắm người hay
Ao ước cầu hiền đã bấy nay
Ngọc phác Kinh sơn tài sẵn đó
Ngựa kỳ Ký bắc biết lâu thay
Mùi hương hang tối xa nghìn dặm,
Tiếng phượng gò cao suốt chín mây
Sơn tể phen này dù gặp gỡ
Giúp nhau xoay đổi hội cơ này

Tưởng bài thơ này chẳng qua là lời lẽ của người thiếu niên nói ngông mà thôi, không ngờ tên Hiệu đưa cho Nguyễn Hữu Nghi xem, Hữu Nghi xui tên Hiệu đi cáo với Lê Văn Duyệt. Lê Văn Duyệt vốn ghét Nguyễn Văn Thành, nay thấy bài thơ này, nắm lấy đem vào tâu vua, vua sai bắt Nguyễn Văn Thuyên đem bỏ ngục. Bấy giờ triều thần có nhiều người bẻ tội ông Thành. Một hôm bãi triều rồi, ông Thành chạy theo nắm lấy áo vua mà kêu khóc rằng: "Thần theo Bệ Hạ từ thủa nhỏ đến bây giờ, nay không có tội gì mà bị người ta cấu xé, Bệ Hạ nỡ lòng nào ngồi nhìn để người ta giết thần mà không cứu?". Vua Thế Tổ giật áo ra đi vào cung, rồi từ đó cấm không co ông Thành vào chầu nữa, và sai Lê Văn Duyệt đem con Nguyễn Văn Thành ra tra hỏi, bắt phải nhận tội. Nguyễn Văn Thành sợ tội, uống thuốc độc mà chết, còn Nguyễn Thuyên thì phải chém.
Đặng Trần Thường người ở Chương Đức (tức là huyện Chương Mỹ, tỉnh Hà Đông bây giờ) có tài văn học, trốn Tây Sơn vào Gia Định theo giúp vua Thế Tổ làm đến Binh Bộ Thượng Thư. Sau vì làm gian sắc phong thần cho Hoàng Ngũ Phúc là tướng nhà Trịnh vào bậc phúc thần, triều đình làm án phải tội chém. Nhưng rồi lại được tha. Đặng Trần Thường vốn có hiềm với Lê Chất, cho nên Lê Chất mới bới những việc như là khi ra coi tào binh ở Bắc Thành, có chiếm giữ đầm ao và ẩn lậu đinh điền, v.v.... Lại bị bắt bỏ ngục và xử phải tội giảo.

Tương truyền rằng Đặng Trần Thường ở trong ngục có làm bài "Hàn Vương Tôn Phú" bằng quốc âm để ví mình như Hàn Tín đời Hán.
 
13. Xét công việc của vua Thế Tổ.
Vua Thể tổ là ông vua có tài trí, rất khôn ngoan, trong 25 năm trời, chống nhau với Tây Sơn, trải bao nhiêu lần hoạn nạn, thế mà không bao giờ ngã lòng, cứ một niềm lo sợ khôi phục. Ngài lại có cái đức tính rất tốt của những kẻ lập nghiệp lớn, là cái đức tính biết chọn người mà dùng, khiến cho những kẻ hào kiệt ai cũng nức lòng mà theo giúp. Bởi vậy cho nên không những là ngài khôi phục được nghiệp cũ, mà lại thống nhất được sơn hà, và sửa sang được mọi việc, làm cho nước ta lúc bấy giờ thành một nước cường đại, từ xưa đến nay, chưa bao giờ từng thấy.
Công nghiệp của ngài thì to thật, tài trí của ngài thì cao thật, nhưng chỉ hiềm có một điều là khi công việc xong rồi, ngài không bảo toàn cho những công thần, mà lại lấy những chuyện nhỏ nhặt đem giết hại những người có công với ngài, khiến cho hậu thế ai xem đến những chuyện ấy, cũng nhớ đến vua Hán Cao, và lại thở dài mà thương tiếc cho những người ham mê hai chữ công danh về đời áp chế ngày xưa.

Vua Thế Tổ mất năm kỷ mão (1819), trị vì được 18 năm, thọ 59 tuổi, miếu hiệu là Thế Tổ Cao Hoàng Đế. 176


Chương 2

Thánh Tổ (1820-1840)
Niên hiệu: Minh Mệnh

1. Đức độ vua Thánh Tổ
2. Việc chính trị trong nước
3. Nội các
4. Cơ mật viện
5. Tôn nhân phủ
6. Quan chế
7. Đặt tổng đốc, tuần phủ ở các tỉnh
8. Lương bổng của các quan
9. Tiền dưỡng liêm
10. Sự học hành thi cử
11. Sách vở
12. Việc sửa sang phong tục
13. Nhà dưỡng tế
14. Việc dinh điền và thuế má
15. Việc võ bị


1. Đức Độ Vua Thánh Tổ.
Tháng giêng năm canh thìn (1820), Hoàng Thái Tử húy là Đảm lên ngôi, đặt niên hiệu là Minh Mệnh.
Vua Thánh Tổ là một ông vua có tư chất minh mẫn, có tính hiếu học và lại hay làm; phàm có việc gì, ngài cũng xem xét đến, và có châu phê rồi mới được thi hành.
Ngài tinh thâm Nho học, sùng đạo Khổng Mạnh, cho nên không ưa đạo mới, cho là một tả đạo lấy trời thánh ra mà làm mê hoặc lòng dân. Bởi vậy, ngài mới nghiêm cấm và trừng trị những người theo đạo Gia Tô.
Về sau có nhiều nhà làm sử, vì ý riêng mà cho ngài là bạo quân, thì thiết tưởng điều ấy không hợp với lẽ công bằng.
177
Phải biết rằng nước ta từ xưa đến nay, điều gì cũng theo Nho Giáo, lấy tam cương ngũ thường làm căn bản cho sự ăn ở. Vua tôi, cha con, vợ chồng, ấy là cái khóa luân lý củ xã hội mình. Ai tháo cái khóa ấy ra thì cho là không phải loài người nữa. Vậy con phải theo cha, tôi phải theo vua, ai trái với cái đạo ấy ra phải tội nặng, đáng chém giết.
Lúc trong nước mình từ vua quan cho chí dân sự, ai ai cũng lấy cái lý tưởng ấy làm phải, làm hay hơn cả, mà lại thấy có người bỏ đi theo đạo khác, nói những chuyện mà lúc bấy giờ lại không mấy người hiểu rõ ra thế nào thì tất cho là theo tả đạo làm hư hỏng cái phong tục hay của mình. Bởi vậy cho nên nhà vua mới cấm, không cho người trong nước đi theo đạo mới.
Một ông vua nghiêm khắc như Thánh Tổ mà cấm không được, thì tất là phải giết. Trong khi cấm và giết như vậy, là vẫn tưởng mình làm bổn phận làm vua của mình, chớ có biết đâu là mình làm sự thiệt hại cho dân cho nước.
Vả, bao giờ cũng vậy, hễ người ta đã sùng tín một tông giáo nào, thì tất cho cái tông giáo của mình là hay hơn, và cho người theo tông giáo khác là thù nghịch với mình, rồi hễ có quyền thế là làm thế nào cũng dùng cách ấy mà hà hiếp người khác đạo với mình. Cũng vì lẽ ấy, cho nên ngày trước Vua Phillippe II nước I Pha Nho, vua Louis XIV nước Pháp Lan Tây giết hại bao nhiêu người trong nước. Mà chắc rằng lúc bấy giờ các ông ấy cũng tưởng là mình làm điều phải, chớ có biết đâu là mình làm điều trái lẽ.
Vẫn biết rằng sự giết đạo là sự không lành, nhưng phải hiểu cái trí não người Việt Nam ta lúc bấy giờ, không rõ cái tông chỉ đạo Thiên Chúa ra thế nào, cho nên dẫu không phải là vua Thánh Tổ nữa, thì ông vua khác cũng không chắc đã tránh khỏi cái lỗi giết đạo ấy.
Nhà làm sử lại đổ cho vua Thánh Tổ giết Nguyễn Văn Thành, song xét trong các truyện như sách Thực Lục Chính Biên và sách Đại Nam Chính Biên Liệt Truyện thì chỉ thấy chép rằng Nguyễn Văn Thành bị tội phải uống thuốc độc mà tự tử năm Gia Long thứ 15 mà thôi. Còn như vụ án Lê Văn Duyệt và Lê Chất thì có hẹp hòi thật, nhưng khi các ông ấy đã mất rồi, và lại vì có tên Khôi khởi loạn cho nên mới truy tội hai ông ấy mà làm án, chứ lúc hai ông ấy còn sống, thì vua Thánh Tổ, tuy có bụng nghi ngờ, nhưng vẫn không bạc đãi.
Việc ngài giết chị dâu là bà vợ Hoàng Tử Cảnh và các cháu, thì không thấy sách nào chép cả, chỉ thấy một đôi người truyền ngôn như thế mà thôi. Vậy việc ấy thực hư thế nào không rõ.
Còn việc không biết giao thiệp với các nước ngoại dương, thì không phải là cái lỗi riêng một mình ngài. Lúc bấy giờ người mình ai cũng chỉ biết có nước Tàu là văn minh hơn, còn thì cho là man di cả. Phỏng sử có ai là người biết mà nói ở thiên hạ còn có nhiều nước văn minh hơn nữa cũng không ai tin. Bởi thế, hễ thấy người ngoại quốc vào nước mình, thì không những là sợ có sự phản trắc và sợ đem đạo mới vào nước mà thôi, lại còn sợ lây phải cái phong tục dã man nữa, cho nên không muốn giao thông với ngoại quốc làm gì. Như thế thì có nên riêng trách một mình ai không ?
Cái nghĩa vụ làm sử, tưởng nên kê cứu cho tường tận, rồi cứ sự thực mà nói, chứ không nên lấy lòng yêu ghét của mình mà xét đoán. Dẫu người mình ghét mà có làm điều phải, mình cũng phải khen; người mình yêu mà có làm điều trái, mình cũng phải chê. Vua Thánh Tổ là một ông vua chuyên chế, tất thế nào cũng có nhiều điều sai lầm và có nhiều điều tàn ác, nhưng xét cho kỹ, thì thật ngài cũng có lòng vì nước lắm. Trong, lo sửa sang mọi việc, làm thành ra nền nếp chỉnh tề, ngoài, đánh Tiêm dẹp Lào, làm cho nước không đến nỗi kém hèn.
Vậy cứ bình tình mà xét, thì dẫu ngài không được là ông anh quân nữa, thì cũng không phải là ông vua tầm thường; cứ xem công việc của ngài làm thì hiểu rõ.

2. Việc Chính Trị Trong Nước.
Vua Thánh Tổ đã 30 tuổi mới lên ngôi vua, cho nên việc triều chính ngài đã am hiểu lắm. Việc gì ngài cũng muốn biết. Có khi xong buổi chầu rồi, ngài đòi một vài quan đại thần lên bàn mọi việc kinh lý và hỏi những sự tích đời xưa, những nhân vật và phong tục ở các nước xa lạ. Ngài chăm xem xét mọi việc, có khi đêm thắp đèn xem chương, sớ, đến trống hai, trống ba mới thôi. Thường thường ngài nói với các quan rằng: Lòng người ai cũng muốn ở yên, mà không muốn sinh sự ra để thay đổi luôn, nhưng lúc trẻ mạnh mà không sửa sang mọi việc, thì rồi đến lúc già yếu, mỏi mệt còn làm gì được. Bởi vậy cho nên trẫm không dám lười biếng lúc nào 143 .
Ở trong triều, thì ngài đặt thêm ra các tự và các viện. Bấy giờ có Nội Các và Cơ Mật Viện là quan trọng hơn cả.

3. Nội Các.
Đời vua Thế Tổ đã đặt Thị Thư Viện làm chốn cơ yếu trong điện, để có điều gì thì vua hỏi han và làm các việc như biểu, sách, chế, cáo,
143
Minh Mệnh Chính Yếu, quyển Cần Chính. 178 chương, tấu, sắc, mệnh, v.v.... Đại khái cũng tự hồ phòng bí thư của vua vậy.
Năm canh thìn (1820) là năm Minh Mệnh nguyên niên, vua Thánh Tổ cải làm Văn Thư Phòng; đến năm Minh Mệnh thứ mười (1829), đổi làm Nội Các, lấy quan tam tứ phẩm ở các bộ, viện, vào quản lĩnh mọi việc.

4. Cơ Mật Viện.
Năm giáp ngọ (1834) là năm Minh Mệnh thứ 15, nhân vì việc quân quốc cơ yếu là việc rất quan trọng, vua Thánh Tổ mới theo như Khu Mật Viện nhà Tống và Quân Cơ xứ nhà Thanh mà châm chước đặt ra Cơ Mật Viện, cho có trách nhiệm riêng. Các quan đại thần sung chức trong viện ấy thì dùng 4 viên, văn võ từ tam phẩm trở lên, phụng chỉ kén dùng. Thuộc viên thì có viên ngoại lang, chủ sự, tư vụ, biên tu, đều kén ở trong các bộ viện ra sung bổ. Các quan đại thần ở Cơ Mật Viện có đặc chỉ cho đem kim bài để phân biệt với các quan khác. Kim bài khởi đầu có từ đấy.

5. Tôn Nhân Phủ.
Năm bính thân (1836) là năm Minh Mệnh thứ 17, vua Thánh Tổ đặt ra Tôn Nhân Phủ và đặt quan chức để coi mọi việc ở trong họ nhà vua.

Nhà vua thờ tiên tổ có 7 miếu: những miếu phía tả gọi là chiêu, những miếu phía hữu gọi là mục. Con cháu các dòng chiêu hay là mục phải phân biệt chi nào ra chi ấy.
Đặt tôn nhân lệnh một người, tả hữu tôn chính hai người, tả hữu tôn nhân hai người, để coi việc hoàng tộc và việc phân biệt tự hàng chiêu hàng mục, ghi chép hàng lượt người thân người sơ, việc nuôi nấng và cấp tước lộc cho mọi người trong hoàng tộc; lại đặt ra hữu tôn khanh hai người, tả hữu tá lý hai người, để coi thứ trật mọi người tôn thất và việc cấp dưỡng cho kẻ cô ấu, giúp đỡ những việc tang hôn v.v....

6. Quan Chế.
Vua Thánh Tổ lại đặt các phẩm cấp quan chế, từ nhất phẩm đến cửu phẩm, mổi phẩm chia ra làm chánh và tòng hai bậc.

Văn Võ Chánh Nhất Phẩm Cần chính điện đại học sĩ, Văn Minh điện đại học sĩ, Võ hiển điện đại học sĩ, Đông các đại học sĩ. Ngũ quân Đô Thống phủ đô thống chưởng phủ sự. Tòng Nhất Phẩm Hiệp biện đại học sĩ. Ngũ quân Đô Thống phủ đô thống. Chánh Nhị Phẩm Thượng thư, tổng đốc, tả hữu đô ngự sử. Thống chế, đề đốc. Tòng Nhị Phẩm Tham tri, tuần phủ, tả hữu phó đô ngự sử. Chưởng vệ, khinh xa đô úy,đô chỉ huy sứ,phó đề đốc. Chánh Tam Phẩm Chưởng viện học sĩ, thị lang, đại lý tự khanh, thái thường tự khanh, bố chính sứ, trực học sứ, thông chính sứ, thiêm sự, phủ doãn. Nhất đẳng thị vệ, chỉ huy sứ, thân cấm binh vệ úy, lãnh binh. Tòng Tam Phẩm Quang Lộc tự khanh, thái bộc tự khanh, thông chính phó sứ. Binh mã sứ, tinh binh vệ úy, thâm cấm binh phó vệ úy, phó lãnh binh, kiêu kỵ đô úy, phò mã đô úy. Chánh Tứ Phẩm Hồng lô tự khanh, đại lý tự thiếu khanh, thái thường tự thiếu khanh, tế tửu, lang trung, thị độc học sĩ, thiếu thiêm sự, thái y viện sứ, tào chính sử, phủ thừa, án sát sứ. Quản cơ, nhị đẳng thị vệ, binh mã phó sứ, tinh binh phó vệ úy, thành thủ úy. Tòng Tứ Phẩm Quang Lộc tự thiếu khanh, thái bộc tự thiếu khanh chưởng ấn, cấp sự trung, thị giảng học sĩ, kinh kỳ đạo ngự sử, tư nghiệp, từ tế sứ, quản đạo. Phó quản cơ, tuyên úy sứ, kị đô úy. Chánh Ngũ Phẩm Hồng lô tự thiếu khanh, giám sát ngự sử, hàn lâm viện thị độc, viên ngoại lang, trưởng sử, từ tế phó sứ,ngự y, giám chánh, tào chánh phó sứ,đốc học,phó quản đạo. Tam đẳng thị vệ, thân cấm binh chánh đội trưởng, phòng thủ úy. Tòng Ngũ Phẩm Hàn lâm viện thị giảng, hàn lâm viện thừa chỉ, miếu lang, giám phó, phó trưởng sử, phó ngự y, tri phủ. Tinh binh chánh đội, tứ đẳng thị vệ, thân cấm binh chánh đội trưởng suất đội, tuyên phó sứ, phi kị úy. Chánh Lục Phẩm Hàn lâm việc trước tác, chủ sự, đồng tri phủ, kinh huyện, tri huyện, y tả viện phán, ngũ quan chánh. Ngũ đẳng, thị vệ, cẩm y hiệu úy, tinh binh chánh đội trưởng suất đội, thổ binh chánh đội, trợ quốc lang. Tòng Lục Phẩm Hàn Lâm Viện tu soạn, tri huyện, tri châu, miếu thừa, Thân cấm binh chánh đội trưởng, ân kị úy, thổ binh 179 học chánh, thông phán, thổ tri phủ, y hữu viện phán. chánh đội trưởng suất đội. Chánh Thất Phẩm Hàn lâm viện biên tu, tư vụ, lục sự, giám thừa, giám linh đài lang, giáo thụ, kinh lịch. Thân cấm binh chánh đội trưởng, ân kị úy, thổ binh chánh đội trưởng suất đội. Tòng Thất Phẩm Hàn lâm viện kiểm thảo, y chánh, tinh linh đài lang, thổ tri huyện, tri châu. Tinh binh đội trưởng, phụng ân úy, dịch thừa, tòng thất phẩm thiên hộ, nội tạo phó tư tượng. Chánh Bát Phẩm Hàn lâm viện điển tịch, huấn đạo, chánh bát phẩm thơ lại. Chánh bát phẩm đội trưởng, chánh bát phẩm bá hộ, dịch mục, chánh bát phẩm chánh tư tượng. Tòng Bát Phẩm Hàn lâm viện điển bạ, y phó, tòng bát phẩm thơ lại. Tòng bát phẩm đội trưởng, tòng bát phẩm bá hộ, thừa ân úy, tòng bát phẩm phó tư tượng. Chánh Cửu Phẩm Hàn lâm viện cung phụng, chánh cửu phẩm thơ lại, thái y y chánh, tự thừa, phủ lại mục. Chánh cửu phẩm đội trưởng, phủ lệ mục, chánh cửu phẩm bá hộ, chánh cửu phẩm tượng mục. Tòng Cửu Phẩm Hàn lâm viện đãi chiếu, tòng cửu phẩm thơ lại, tỉnh y sinh, huyện lại mục, chánh tổng. Tòng cửu phẩm đội trưởng, tòng cửu phẩm bá hộ, huyện lệ mục, tòng cửu phẩm tượng mục. 7. Đặt Tổng Đốc, Tuần Phủ ở các tỉnh.
Nguyên trước nước Nam ta chia ra làm từng trấn, có quan Trấn Thủ, hay là quan Lưu Trấn để coi việc trong trấn. Từ đời Gia Long trở đi, ở Bắc Thành và Gia Định Thành đặt quan Tổng Trấn và quan Hiệp Trấn, để coi việc quân và việc dân trong cả toàn xứ.

 7- Đến năm tân mão (1831) là năm Minh Mệnh thứ 12, vua Thánh Tổ mới theo lối nhà Thanh, đổi trấn làm tỉnh và đặt chức tổng đốc, tuần phủ, bố chính sứ, án sát sứ và lĩnh binh.
Tổng đốc thì coi việc quân, việc dân, khảo hạch quan lại, sửa sang bờ cõi ở trong hạt; tuần phủ thì coi việc chính trị, giáo dục và giữ gìn phong tục; bố chính sứ thì coi việc thuế má, đinh điền, lính tráng và triều đình có ân trạch hay là cấm lệnh điều gì, thì phải tuyên cho mọi nơi biết; án sát sứ thì coi việc hình luật và kiêm cả việc trạm dịch bưu chính; lĩnh binh thì chuyên coi binh lính.

Từ tuần phủ trở xuống đều phải theo lệnh quan tổng đốc. Thường thì tỉnh nào lớn, có lắm việc quan trọng mới đặt tổng đốc để quản trị cả hai ba tỉnh. Còn những tỉnh nhỏ thì chỉ đặt tuần phủ là quan đầu tỉnh 144 .

8. Lương bổng của các quan viên.
Năm kỷ hợi (1839) là năm Minh Mệnh thứ 20, vua Thánh Tổ định lương bổng đồng niên và tiền xuân phục của các quan viên.
Chánh nhất phẩm:tiền 400 quan, gạo 300 phương, tiền xuân phục 70 quan. Tòng nhất phẩm: tiền 300 quan, gạo 250 phương, tiền xuân phục 60 quan. Chánh nhị phẩm:tiền 250 quan, gạo 200 phương, tiền xuân phục 50 quan. Tòng nhị phẩm: tiền 180 quan, gạo 150 phương, tiền xuân phục 30 quan. Chánh tam phẩm:tiền 150 quan, gạo 120 phương, tiền xuân phục 20 quan. Tòng tam phẩm: tiền 120 quan, gạo 90 phương, tiền xuân phục 16 quan. Chánh tứ phẩm:tiền 80 quan, gạo 60 phương, tiền xuân phục 14 quan. Tòng tứ phẩm: tiền 60 quan, gạo 50 phương, tiền xuân phục 10 quan. Chánh ngũ phẩm:tiền 40 quan, gạo 43 phương, tiền xuân phục 9 quan. Tòng ngũ phẩm: tiền 35 quan, gạo 30 phương, tiền xuân phục 8 quan. Chánh lục phẩm:tiền 30 quan, gạo 25 phương, tiền xuân phục 7 quan. Tòng lục phẩm: tiền 300 quan, gạo 22 phương, tiền xuân phục 6 quan. Chánh thất phẩm:tiền 25 quan, gạo 20 phương, tiền xuân phục 5 quan. Tòng thất phẩm: tiền 22 quan, gạo 20 phương, tiền xuân phục 5 quan. Chánh bát phẩm:tiền 20 quan, gạo 18 phương, tiền xuân phục 5 quan. Tòng bát phẩm: tiền 20 quan, gạo 18 phương, tiền xuân phục 4 quan. Chánh cửu phẩm:tiền 18 quan, gạo 16 phương, tiền xuân phục 4 quan. Tòng cửu phẩm: tiền 18 quan, gạo 16 phương, tiền xuân phục 4 quan.
Lại dịch binh tượng: mỗi tháng tiền một quan, gạo một phương. Hậu bổ: mỗi tháng tiền 2 quan, gạo 2 phương.
Từ nhất phẩm đến tam phẩm, mỗi năm hai kỳ trình giấy lĩnh bỗng; tự tứ phẩm đến thất phẩm, mỗi năm 4 lần, đến tháng cuối mùa xuân, hạ, thu, đông, trình giấy lĩnh bỗng; tự bát cửu phẩm trở xuống, thì cứ mỗi tháng đến lĩnh một kỳ.

Tiền lương bổng của các quan viên lúc bấy giờ mà so sánh với bây giờ, thì thật là ít ỏi quá. Nhưng mà chắc là sự ăn tiêu thủa trước rẻ rúng không hết bao nhiêu. Nhà vua lại sợ những phủ huyện thiếu thốn mà nhũng lạm của dân, cho nên mỗi năm lại phát thêm tiền dưỡng liêm.
144
Đời vua Thế Tổ nước Nam ta có 27 trấn, đến đời vua Thánh Tổ đặt thêm 4 tỉnh nữa là Hưng Yên, Ninh Bình, Hà tĩnh và An Giang, cả thảy thành ra 31 tỉnh. 180

9. Tiền Dưỡng Liêm.
Tri phủ: tối yếu khuyết cho 50 quan, yếu khuyết 40 quan, khuyết 30 quan, giản khuyết 25 quan.
Đồng tri phủ: tối yếu khuyết cho 50 quan, yếu khuyết 40 quan, khuyết 30 quan, giản khuyết 25 quan.
Tri huyện, tri châu: tối yếu khuyết cho 40 quan, yếu khuyết 30 quan, trung khuyết 25 quan, giản khuyết 20 quan.

10. Sự Học Hành Thi Cử.
Việc trị nước cần phải có văn học, cho nên từ đời vua Thế Tổ cũng đã lưu ý về việc mở mang sự học hành. Đến đời vua Thánh Tổ thì ngài lại trọng sự văn học lắm, ngài thường nói với các quan rằng: Đạo trị nước thì trước hết cần phải gây lấy nhân tài. Bởi vậy ngài có lòng yêu dùng những người có văn học, cho các hương cống vào làm hành tẩu ở trong lục bộ, để học tập việc chính trị. Mở Quốc Tử Giám cho các giám sinh được lương bổng ở ăn học.
Đời vua Thế Tổ thì chỉ có thi Hương mà thôi, đến năm nhâm ngọ (1822) là năm Minh Mệnh thứ 3, mới mở khoa thi Hội, thi Đình để lấy tiến sĩ, đến năm Minh Mệnh thứ 10 (1829) nhà vua lại cho những người trúng cách, nhưng không cập phân, được đỗ phó bảng. Phó bảng khởi đầu có từ đấy.
Nguyên trước cứ 6 năm một khoa thi, nay đổi lại làm 3 năm một khoa, cứ năm tí, ngọ, mão, dậu, thi Hương; năm thìn, tuất, sửu, mùi, thi Hội, thi Đình.
Phép thi thì vẫn theo như đời Gia Long, nghĩa là kỳ đệ nhất: kinh nghĩa; kỳ đệ nhị: tứ lục; kỳ đệ tam: thi phú; kỳ đệ tứ: văn sách. Trước ai đỗ tam trường, gọi là sinh đồi, ai đỗ tứ trường gọi là hương cống, nay đổi sinh đồ là tú tài, hương cống là cử nhân.
Vua Thánh Tổ là ông vua thông minh, ngài vẫn biết sự học của nước ta sai lầm, những sĩ phu trong nước chỉ học theo lối cử nghiệp, nghĩa là cốt học lấy thi đỗ, chứ không mấy người có thực học. Thường ngài nói chuyện với các quan rằng: "Lâu nay khoa cử làm cho người ta sai lầm. Trẫm nghĩ văn chương vốn không có qui củ nhất định, mà nay những văn cử nghiệp chỉ câu nệ cái hủ sáo, khoe khoang lẫn với nhau, biệt lập mỗi nhà một lối, nhân phẩm cao hay thấp do tự đó, khoa tráng lấy hay bỏ cũng do tự đó. Học như thế thì trách nào mà nhân tài chẳng mỗi ngày một kém đi. Song tập tục đã quen rồi, khó đổi ngay được, về sau nên dần dần đổi lại". Vua Thánh Tổ thật là biết rõ cái tật của những người đi học ở trong nước ta, nhưng chỉ vì thói quen lâu ngày khó bỏ. Vả lại dẫu có muốn đổi, thì dễ thường cũng không biết đổi ra thế nào cho hay hơn được, cho nên sự học của mình vẫn nguyên như cũ.

11. Sách Vở.
Vua Thánh Tổ mới lên ngôi, đã lo việc làm sách vỡ; ngài đặt Quốc Sử Quán để góp nhặt những chuyện làm quốc sử. Ngài lại lưu ý về việc tưởng lệ cho những người làm ra sách vở. Bởi vậy, ngài xuống chiếu: hễ ai tìm được sách cũ, hay làm ra sách mới, thì được ban thưởng. Tự đó ông Trịnh Hoài Đức dâng sách: Gia Định Thành Thông Chí và sách Minh Bột Di Hoán Văn Thảo; ông Hoàng Công Tài dâng một bản Bản Triều Ngọc Phả, 2 bản Kỷ Sự; ông Cung Văn Hi, người ở Quảng Đức dâng 7 quyển Khai Quốc Công Nghiệp Diễn Chí; ông Nguyễn Đình Chính người Thanh Hóa dâng 34 quyển Minh Lương Khải Cáo Lục; ông Vũ Văn Tiêu, người Quảng Nghĩa, dâng một quyển Cố Sự Biên Lục.
Vua Thánh Tổ lại sai quan soạn xong bộ Liệt Thánh Thực Lục Tiền Biên, bộ Khâm Định Tiễu Binh Lưỡng Kỳ Phỉ Khấu Phương Lược, còn sách của ngài soạn ra có hai bộ là Ngự Chế Tiễu Bình Nam Kỳ Tặc Khấu Thi Tập và Ngự Chế Thi Tập.

12. Việc Sửa Sang Phong Tục.
Mấy năm về cuối đời vua Thánh Tổ trong nước lắm giặc giã, phong tục thành ra kiêu bạc, dân sự lắm người cờ bạc rượu chè và hay mê hoặc những tà giáo. Nhà vua lấy sự ấy làm lo, bèn soạn ra 10 điều huấn dụ, ban ra mọi nơi, để dạy bảo ngu dân. 1. Đô Nhân Luân: trọng tam cương ngũ thường. 2. Chính Tâm Thuật: làm việc gì cũng cốt phải giữ bụng dạ cho chính đính trong sạch. 3. Vụ Bản Nghiệp: giữ bổn phận chăm nghề nghiệp của mình. 4. Thượng Tiết Kiệm: chuộng đường tiết kiệm. 5. Hậu Phong Tục: giữ phong tục cho thuần hậu. 6. Huấn Tử Đệ: phải dạy bảo con em. 7. Sùng Chính Học: chuộng học đạo chính. 8. Giới Dâm Thắc: răn giữ những điều gian tà dâm dục. 9. Thận Pháp Thủ: cẩn thận mà giữ pháp luật. 10. Quảng Thiện Hạnh: rộng sự làm lành.
Năm bính thân (1836) là năm Minh Mệnh thứ 17, có quan giám sát ngự sử là Bùi Mậu Tiên dâng sớ tâu rằng: "Các làng ở ngoài Bắc Thành nhiều kẻ hào cường trái phép, mà dân thì biếng nhác chỉ cờ bạc rượu chè; việc tế lễ quỷ thần thì hay dùng cách xa xỉ, việc táng tế thì chuộng đường xa hoa, 181 thậm chí có kẻ bán sạch cửa nhà cơ nghiệp để đền nợ miệng, thực là trái với nghĩa tương bảo tương lân".
Vua Thánh Tổ bèn xuống chiếu trách cứ các quan địa phương phải đem những điều huấn dụ đã ban ra trước mà khuyên bảo dân sự, và phải chuyển sức cho tổng lý: hễ thấy ai biếng nhác rong chơi cờ bạc rượu chè, thì phải cấm chỉ đi. Những kẻ hào cường trong làng mà ỷ thế hống hách điêu toa kiện tụng, chống cưỡng với quan trên, dậm dọa kẻ bình dân, thì phải theo phép mà trừng trị. Còn những lệ thờ thần và lễ tang tế thì Lễ Bộ đã định ra phép tắc, hễ ai không tuân theo thì phải tội.

13. Nhà Dưỡng Tế.
Không những là vua Thánh Tổ chỉ lo việc dạy dân mà thôi, ngài lại thương đến những kẻ nghèo khổ, vậy nên ngài truyền cho các quan ở các trấn ngoài Bắc Thành được quyền lấy tiền kho mà lập một sở dưỡng tế: hễ những kẻ quan quả, cô độc, và kẻ tàn tật không có nơi nương nhờ, phải đến ở đó, thì mỗi ngày cấp cho mỗi tên 20 đồng tiền và nửa bát quan đồng gạo.

14. Việc Đinh Điền và Thuế Má.
Thuế đinh và thuế điền thì đại khái cũng theo như đời vua Thế Tổ đã định. Chỉ có năm bính thân (1836) là năm Minh Mệnh thứ 17, đất Nam kỳ đạc điền xong, tính ra được hơn 630.075 mẫu và định lại các thứ thuế điền thổ ở miền ấy. Còn như số dân đinh và điền thổ trong nước, thì cứ theo sổ bộ tổng cộng lại được 970.516 suất đinh và 4.063.892 mẫu ruộng và đất.
Những dân Tàu sang thành lập hương ấp ở nước Nam ta gọi là Minh Hương, thì có lệnh mỗi người đồng niên phải nộp hai lạng bạc và được trừ giao dịch. Những người lão hạng và tàn tật thì phải chịu một nửa.

Còn những người nhà Thanh sang buôn bán ở nước Nam, phàm người nào mà có vật lực thì đồng niên phải đóng 6 quan năm tiền; ai không có vật lực thì phải nộp một nửa, hạn cho 3 năm, thì chiếu lệ thu cả thuế.
Nhà vua lại đặt lệ đánh thuế muối. Cứ mỗi ruộng muối đồng niên phải nộp bằng muối từ 6 phương cho đến 10 phương.
Mỗi phương nộp bằng tiền thì phải từ 3 tiền cho đến 4 tiền 30 đồng.
Còn các thứ thuế mỏ, thuế sản vật, v.v... thì đại khái cũng theo lệ đời vua Thế Tổ đã định, chứ không thay đổi mấy đi.

15. Việc Võ Bị.
Khi vua Thánh Tổ lên nối nghiệp làm vua, thì trong nước đã được yên trị, nhưng ngài vẫn biết việc trị nước cần phải có võ bị, cho nên thường thường ngài vẫn có dụ truyền bảo các quan phải luyện tập binh mã để phòng khi hữu sự.

Ở những nơi hiểm yếu thì lập đồn ải, ở các cửa bể và các đảo thì lập pháo đài. Và lại làm tàu đồng, tập thủy quân để phòng giữ mặt bể.
Binh chế thì có bộ binh, thủy binh, tượng binh, kị binh và pháo thủ binh.

Bộ binh thì có kinh binh và cơ binh. Kinh binh chia ra làm doanh, vệ, đội, hoặc để đóng giữ ở Kinh thành, hoặc sai đi đóng giữ các tỉnh. Mỗi doanh có 5 vệ, mỗi vệ có 10 đội, mỗi đội có 50 người, có suất đội và đội trưởng cai quản.
Những binh khí của mỗi vệ, thì có hai khẩu súng thần công, 200 khẩu điểu thương và 21 ngọn cờ.
Cơ binh là lính riêng của từng tỉnh, cũng chia ra làm cơ, làm đội. Cơ thì có quản cơ, mà đội thì có suất đội cai quản.
Tượng quân chia ra thành đội, mỗi đội là 40 con voi. Số voi ở Kinh thành 150 con, ở Bắc thành 110 con, ở Gia Định thành 75 con, ở Quảng Nam 35 con, ở Bình Định 30 con, ở Nghệ An 21 con, ở Quảng Bình, Quảng Nghĩa, Thanh Hóa mỗi nơi 15 con, Quảng Trị, Phú Yên, Bình Thuận, Ninh Bình mỗi nơi 7 con.
Thủy quân có 15 vệ, chia ra làm 3 doanh, mỗi doanh có quan chưởng vệ quản lĩnh, và có quan đô thống coi cả 3 doanh.
Vua Thánh Tổ vẫn biết rằng nước ở dọc bờ bể, thủy binh là việc rất yếu trọng cho sự phòng bị. Thường ngài bắt quan đem binh thuyền ra để luyện tập.

Đại khái việc binh cơ, ngài không bỏ trễ chút nào. Ngài lập toán giáo dưỡng binh, để cho con các quan võ, từ suất đội trở lên ai muốn tình nguyện vào học, thì cho lương bổng, và cử quan đại thần ra dạy võ nghệ.
Còn như khi nào có quân lính đi đâu, thì nhà vua đặt lệ sai mấy người y sinh đi theo để điều hộ.
182
Tuy nhà vua muốn lưu ý về việc binh lính, nhưng người mình lúc bấy giờ ai cũng trọng văn khinh võ, bình nhật không có ai lo gì đến việc quân lính khí giới. Hễ có lâm sự thì mới rối lên. Dẫu rằng nhà vua nay có chỉ dụ ra tập binh, mai có chỉ dụ ra tập trận mặc lòng, các quan chỉ làm cho xong việc, rồi lại bỏ mặc bọn quản đội làm thế nào thì làm. Thành ra quân số ở trong sổ sách thì nhiều, mà thế lực thì vẫn không đủ: ấy là đời vua Thánh Tổ mà còn thế, huống chi đến những đời sau, lại còn suy nhược hơn nữa.


Chương 3

Thánh Tổ (1820-1840) (tiếp)
Niên hiệu: Minh Mệnh

1. Sự giặc giã
2. Giặc ở Bắc kỳ
3. Phan Bá Vành
4. Lê Duy Lương
5. Nông Văn Vân
6. Giặc ở Nam Kỳ
7. Án Lê Văn Duyệt và Lê Chất
8. Giặc Tiêm La
9. Việc Ai Lao
10. Việc Chân Lạp
11. Việc giao thiệp với những nước ngoại dương
12. Sự cấm đạo
13. Vua Thánh Tổ mất

1. Sự Giặc Giã.
Vua Thánh Tổ thật là hết lòng lo việc chính trị, điều gì ngài cũng xem xét đến, việc gì ngài cũng sửa sang lại, có ý muốn cho nước thịnh dân giàu, nhưng phải mấy năm về sau, trong nước có lắm giặc giã, quan quân phải chinh nam phạt bắc, phải đánh Tiêm, dẹp Lào, thành ra dân sự không được yên nghiệp mà làm
Xét sự giặc giã về đời vua Thánh Tổ là do ở ba lẽ cốt yếu:
Một là khi nhà Nguyễn thất thế ở Nam, quân họ Trịnh thua ở Bắc, nhà Nguyễn Tây Sơn còn phải lo việc trong nước, lúc bấy giờ nước Tiêm La nhân lấy dịp ấy mà giữ quyền bảo hộ nước Chân Lạp và hiếp thế các nước ở đất Lào. Đến khi vua Thế Tổ nhất thống nam bắc, thanh thế lừng lẫy, nước Chân Lạp lại xin về thần phục nước Nam, và các nước Ai Lao, Vạn Tượng, đều sang triều cống nhà Nguyễn. Từ đó nước Tiêm La đối với nước Nam, bề ngoài tuy không ra mặt cừu địch, nhưng bề trong chỉ tìm cách mà sinh sự để cướp lại cái quyền bảo hộ ở Chân Lạp và ở các nước Lào. Bởi vậy cho nên 183 về phía tây và phía nam bao giờ cũng có giặc Tiêm và giặc Lào quấy nhiễu mãi.
Hai là ở Bắc Kỳ tuy đã là thống thuộc về nhà Nguyễn rồi, nhưng còn có người mong nhớ nhà Lê, thỉnh thoảng lại có nơi nổi lên, hoặc muốn khôi phục cho nhà Lê, hoặc để chống cự với quan nhà Nguyễn, bởi thế cho nên ở đất Bắc cứ phải loạn lạc luôn.
Ba là quan lại cứ hay nhũng nhiễu, làm cho lòng người không được thỏa thuận, và trong đám quan trường thường hay có thói bới móc nhau để tâng công tâng cán. Nhà vua lại có tính hẹp hòi, không bao dong cho những kẻ công thần, hay tìm chuyện làm uất ức mọi người, mà ở với thần dân thì nghiêm khắc quá, cho nên mới thành ra nhiều sự rối loạn.
Bởi những lẽ ấy, cho nên ở ngoài thì có giặc Tiêm đánh phá, ở trong thì có ngụy Khôi dấy loạn ở phía nam. Lê Duy Lương và Nông văn Vân dấy binh ở phía bắc. Lúc bấy giờ cũng nhờ có tôi hiền tướng giỏi như Trương Minh Giảng, Tạ Quang Cự, Lê Văn Đức, Nguyễn Công Trứ v.v.... đều ra công đánh dẹp, cho nên không những là giặc trong nước dẹp yên, mà lại thêm được bờ cõi rộng rãi hơn cả những đời trước.

2. Giặc ở Bắc Kỳ.
Sự giặc giã ở đất Bắc thì từ năm Minh Mệnh thứ hai (1822) trở đi, thỉnh thoảng ở các trấn vẫn có những giặc cỏ quấy nhiễu ở các châu huyện. Còn những giặc có thanh thế to mà quan quân phải đánh dẹp khó nhọc, thì có Phan Bá Vành khởi ở Nam Định, Lê Duy Lương khởi ở Ninh Bình và Nông Văn Vân khởi ở Tuyên Quang.

3. Phan Bá Vành.
Năm Minh Mệnh thứ 7 (1826), ở Nam Định có Võ Đức Cát cùng với Phan Bá Vành và Nguyễn Hạnh khởi binh đánh phủ Trà Lý và Lân Hải, giết quan thủ ngự là Đặng Đình Miễn và Nguyễn Trung Diễn. Quan trấn thủ ở Nam Định là Lê Mậu Cúc đem quân xuống đánh, cũng bị giặc giết mất. Quan quân ở các trấn phải về tiễu trừ, bắt được tên Võ Đức Cát. Còn tên Vành và dư đảng thì chạy tan cả. Nhưng đến tháng chạp năm ấy, Phan Bá Vành và Nguyễn Hạnh lại thông với đảng giặc Khánh đi cướp ở ngoài bể, rồi lại đem quân về đánh phá ở huyện Tiên Minh và huyện Nghi Dương ở Hải Dương.

Nhà vua thấy thế giặc to lắm, bèn sai quan Tham biện Thanh Hóa là Nguyễn Công Trứ, quan Tham biện Nghệ An là Nguyễn Đức Nhuận đem binh thuyền ở Thanh, Nghệ ra cùng với quan Hiệp trấn Bắc thành là Nguyễn Hữu Thận đi đánh giặc.
Tháng giêng năm đinh hợi (1827) là năm Minh Mệnh thứ 8, Vành lại về đánh lấy phủ Thiên Trường và phủ Kiến Xương, sau lại về vây quan quân ở chợ Quán. Phạm Văn Lý và Nguyễn Công Trứ đem quân đến đánh giải vây, Vành thua chạy về giữ Trà Lũ. Quan quân vây đánh, bắt được Vành và cả đảng hơn 765 người.

4. Lê Duy Lương.
Khi dẹp xong giặc Vành thì trong xứ yên được một độ, nhưng còn có dòng dõi nhà Lê muốn khôi phục nghiệp cũ, bởi vậy đến tháng ba năm quý tị (1833) là năm Minh Mệnh thứ 14, ở Ninh Bình có Lê Duy Lương, là con cháu nhà Lê nổi lên, xưng là Đại Lê Hoàng Tôn, cùng với bọn thổ ti là Quách Tất Công, Quách tất Tế, Đinh Thế Đức, Đinh Công Trịnh, đem binh đi đánh phá các phủ huyện và chiếm giữ được 3 châu huyện là Lạc Thổ, Phụng Hóa và Yên Hóa. Lê Duy Lương lại sai quân đến vây đánh thành Hưng Hóa nguy cấp lắm.
Vua Thánh Tổ sai quan tổng đốc Nghệ Tĩnh là Tạ Quang Cự đem quân ra Ninh Bình cùng với Tổng đốc Thanh hóa là Nguyễn Văn Trọng đi đánh Lê Duy Lương.
Lê Duy Lương ở Ninh Bình thế cô lắm, chống không nổi mấy đạo quan quân, chỉ đương được vài ba tháng thì bị bắt, đóng cũi giải về Kinh trị tội. Còn bọn Quách Tất Công, Quách Tất Tế thì chẳng được bao lâu mà tan.
Vì có chuyện Lê Duy Lương dấy binh, cho nên nhà vua truyền bắt dòng dõi nhà Lê đem đày vào ở Quảng Nam, Quảng Nghĩa, Bình Định, cứ chia cho 15 người ở một huyện và phát cho 10 quan tiền và 2 mẫu ruộng để làm ăn.

5. Nông Văn Vân.
Ở Bắc còn đang dẹp loạn Lê Duy Lương chưa xong, thì ở Nam Lê Văn Khôi làm phản, chiếm giữ thành Gia Định. Nguyên tên Khôi là người Bắc, có họ hàng bà con mạn Tuyên Quang, Cao Bằng, bởi vậy nhà vua sai quan tìm bắt anh em của tên Khôi đem về Kinh làm tội. Bấy giờ ở Tuyên Quang có người anh vợ tên Khôi là Nông Văn Vân bị quan bắt bớ, bèn nổi lên đánh phá trong hạt Tuyên Quang, Thái Nguyên, Cao Bằng và Lạng Sơn. Giặc Nông khởi từ tháng 7 năm quý tị (1833) cho đến tháng 3 năm ất mùi (1835) dai dẳng trong non hai năm trời, làm cho quan quân thật là vất vả.
Nông Văn Vân làm Tri châu châu Bảo Lạc. Nhân thấy quan quân tìm bắt họ hàng Lê Văn Khôi, bèn nổi lên tự xưng là Tiết Chế Thượng Tướng 184 Quân, và bắt viên tỉnh phái thích chữ vào mặt rằng: "Quan tỉnh hay ăn tiền của dân", rồi đuổi về.
Nông Văn Vân chia quân ra đánh phá các tỉnh, quan sở tại chống không nổi, phải xin quân cứu viện. Vua Thánh Tổ được tin ấy, bèn sai Sơn Hưng Tuyên Tổng Đốc là Lê Văn Đức làm Tam Tuyên Tổng Đốc Quân Vụ, và sai Hải An thự tổng đốc là Nguyễn Công Trứ làm tham tán, đem quân hội với Ninh Thái Tổng Đốc là Nguyễn Đình Phổ đi tiễu trừ giặc Nông.
Quân giặc vây đánh Cao Bằng và Lạng Sơn ngặt quá, nhà vua lại sai An Tĩnh tổng đốc là Tạ Quang Cự làm tổng thống đại thần, lên đánh ở mạn Cao Bằng và Lạng Sơn.
Nông Văn Vân nhận được chỗ mường mán lắm núi nhiều rừng, bèn chia quân đi tản ra mọi nơi, tìm chỗ hiểm yếu mà ẩn nấp, hễ có quan quân đến, đánh được thì tiến, không đánh được thì lui, cứ ra vào bất trắc, lui tới không nhất định. Quan quân đi đánh thật là khó nhọc và lại hao binh tổn tướng rất nhiều.
Tháng chạp năm quý tị (1833) đạo quân của Tạ Quang Cự giải được vây tỉnh Lạng Sơn và lấy lại được thành Cao bằng. Đạo quân của Lê Văn Đức và Nguyễn Công Trứ vào đến Vân Trung (tức là Bảo Lạc) là chỗ sào huyệt của giặc. Nông Văn Vân phải chạy trốn sang Tàu.
Nhưng mà khi quan quân rút về, thì Nông Văn Vân lại về rủ đảng đánh phá như cũ. Nhà vua lại sai các đạo quân tiến lên phòng giữ các tỉnh mạn ngược.
Đến tháng 9 năm giáp ngọ (1834) Lê Văn Đức và Phạm Văn Điển đi từ Sơn Tây lên Tuyên Quang; Tạ Quang Cự, Nguyễn Tiến Lâm, và Hồ Hữu đi từ Cao bằng; Nguyễn Đình Phổ và Nguyễn Công Trứ đi từ Thái Nguyên, ba mặt quân cùng tiến lên hội tiễu. Quan quân đi đường sá khó khăn, lương thực vận tải không tiện, nhưng mà quân sĩ đều cố hết sức, đi đến đâu quân giặc tan đến đấy. Tháng chạp năm ấy, cả ba đạo cùng đến hội ở Vân Trung, rồi sai người đưa thư sang nói với quan nhà Thanh phòng giữ, đừng cho quân giặc chạy sang bên ấy. Quả nhiên Nông Văn Vân lại chạy sang Tàu, bị quân Tàu đuổi bắt, lại phải trở về Tuyên Quang.
Tháng 3 năm ất mùi (1835), Phạm Văn Điển được tin biết chỗ tên Văn Vân ở, liền đem quân đi đuổi. Văn Vân chạy ẩn vào trong rừng, Phạm Văn Điển bèn vây 4 mặt, rồi phóng hỏa đốt rừng. Văn Vân bị chết cháy. Quan quân chém lấy đầu đem về Kinh báo tiệp.

6. Giặc ở Nam Kỳ.
Đất Nam Kỳ là đất của nhà Nguyễn khai sáng ra, và cũng bởi đấy mà vua Thế Tổ lập nên cơ nghiệp bản triều bây giờ, thế mà lại có sự phản nghịch là tại làm sao? Có phần là tại vua Thánh Tổ không dong thứ cho những kẻ cựu thần, có phần là tại những người gian nịnh muốn chiều ý vua để lấy công, làm ức hiếp người ta, cho nên mới thành ra sự loạn lớn ấy.
Nguyên mấy năm trước, Lê Văn Duyệt làm tổng trấn ở Gia định thành, có uy quyền lắm, mà lòng người ai cũng kính phục. Chỉ vì ông ấy là quan võ, tính khí nóng nảy, lắm khi ở chỗ triều đường tấu đối không được hợp thể, vua Thánh Tổ lấy làm không bằng lòng, nhưng ông ấy là bậc khai quốc công thần, cho nên ngài cũng làm ngơ đi. Đến khi ông ấy mất, thì vua Thánh Tổ bãi chức Tổng Trấn thành Gia Định và đặt chức tổng đốc, tuần phủ, bố chính, án sát, lĩnh binh, như các tỉnh ở ngoài Bắc.
Tỉnh Phiên An (tức là tỉnh Gia Định) có Nguyễn Văn Quế làm tổng đốc, Bạch Xuân Nguyên làm bố chính, Nguyễn Chương Đạt làm án sát. Nhưng Bạch Xuân Nguyên vốn là người tham lam tàn ác; khi đến làm bố chính ở Phiên an, nói rằng phục mật chỉ truy xét việc riêng của Lê Văn Duyệt, rồi đòi hỏi chứng cớ, trị tội bọn tôi tớ của ông Duyệt ngày trước.
Trong bọn ấy có Lê Văn Khôi. Nguyên trước tên ấy gọi là Nguyễn Hữu Khôi, người ở Cao Bằng, nhân cớ khởi binh làm loạn, bị quan quân đuổi đánh, mới chạy vào Thanh Hóa, gặp Lê Văn Duyệt làm kinh lược ở đấy, nó xin ra thú. Ông Duyệt tin dùng cho làm con nuôi, đổi tên họ là Lê Văn Khôi, rồi đem về Gia Định cất nhắc cho làm đến chức Phó Vệ Úy.
Bấy giờ Lê Văn Khôi bị bắt giam, phần thì tức giận, phần thì sợ tội, bèn mưu với mấy người đảng của nó để dấy loạn; ở Gia Định lại có những người có tội ở Bắc Kỳ đem đày vào, hoặc cho làm ăn với dân sự, hoặc bắt làm lính gọi là hồi lương; những lính ấy đều theo tên Khôi cả.
Đến đêm ngày 18 tháng năm, năm quý tị (1833) là năm Minh Mệnh thứ 14, Khôi cùng với 27 người lính hồi lương vào dinh quan Bố, giết cả nhà Bạch Xuân Nguyên, rồi ra gặp quan tổng đốc là Nguyễn Văn Quế đem người đến cứu, chúng cũng giết nốt. Còn quan Án và quan Lãnh thì chạy thoát được.
Bấy giờ những quân kinh đóng ở Phiên An phần nhiều theo về Lê Văn Khôi. Lê Văn Khôi bèn tự xưng làm Đại Nguyên Súy, phong cho đảng mình là bọn Thái Công Triều và Lê Đắc Lực quản trung quân, Nguyễn Văn 185 Đà và Nguyễn Văn Tông quản tiền quân, Võ Vĩnh Tiền và Võ Vĩnh Tài quản hữu quân, Võ Vĩnh Lộc và Nguyễn Văn Bột quản hậu quân, Lưu Tín và Trần Văn Tha quản thủy quân, Nguyễn Văn Tâm và Nguyễn Văn Chân quản tượng quân, v.v.... Lại đặt các quan chức như một triều đình riêng vậy. Đoạn rồi Lê Văn Khôi sai bọn Thái Công Triều đem quân đi lấy các tỉnh thành, chỉ trong một tháng mà 6 tỉnh Gia Định thuộc về giặc cả.
Triều đình được tin ấy, liền sai Tống Phúc Lương làm Thảo Nghịch tả tướng quân và Nguyễn Xuân làm tham tán, sai Phan Văn Thúy làm Thảo nghịch hữu tướng quân, Trương Minh Giảng làm tham tán, cùng với Bình Khấu tướng quân là Trần Văn Năng đem thủy bộ binh tượng vào đánh Lê Văn Khôi.
Khi quan quân vào đến Gia Định không biết tại cớ gì, mà trung quân của ngụy là Thái Công Triều xin về đái tội lập công. Nguyên Thái Công Triều là người ở Thừa Thiên, trước làm quan vệ úy, coi vệ biền binh đóng ở Gia Định, sau theo tên Khôi làm phản. Nay lại trở về với triều đình, đem quân đi đánh Lê Văn Khôi lấy lại các tỉnh.
Lê Văn Khôi biết thế không chống nổi, vào thành Phiên An đóng cửa lại, rồi chia quân ra chống giữ, và lại sai người đi sang Tiêm La cầu cứu. Quân Tiêm nhân dịp ấy, chia làm mấy đạo sang đánh nước Nam. Việc ấy sẽ nói ở mục sau.
Quan quân một mặt thì đánh đuổi quân Tiêm, một mặt thì vây đánh thành Phiên An, Lê Văn Khôi hết sức chống giữ, nhưng đến tháng chạp năm ấy thì phải bệnh chết. Tuy vậy, quân ngụy ở trong thành cứ chống giữ mãi, non ba năm trời quan quân mới hạ được thành.
Thành Phiên An là thành của ông Lê Văn Duyệt xây xong năm Minh Mệnh thứ 11 (1830). Xây toàn bằng đá ong, thành cao và rộng, hào sâu, ở trong thành lại có đủ cả lương thực khí giới, cho nên quan quân đánh thành lần nào cũng bị chết hại nhiều người, mà không lấy được. Mãi đến tháng 7 năm ất tị (1835), quân ngụy ở trong thành đã mỏi mệt lắm rồi, tướng quân là Nguyễn Xuân, và Nguyễn Văn Trọng mới hạ được thành và vào bắt giết quân giặc cả thảy đến 1.831 người, đem chôn vào một chỗ, nay gọi là "mả ngụy". Còn những người thủ phạm thì đóng cũi đem về Kinh trị tội.
Ông J. Silvestre chép truyện Lê Văn Khôi khởi loạn ở Gia Định 145
nói rằng trong 6 người thủ phạm phải đóng cũi giải về Huế, có một ông linh mục
145
Xem tập tạp chí "Revue Indochinoise" số 7-8 năm 1915 và quyển An Nam Sử Lược "Abrégé de l histoire d Annam" của ông A. Schreiner. người nước Pháp tên là Marchand (bấy giờ gọi là cố Du), một người khách tên là Mạch Tấn Gia, và một đứa con của Khôi, mới lên 7 tuổi.
Việc ông cố Marchand thì đã nhiều người bàn đi bàn lại: người thì bảo ông ấy có ý muốn làm như ông Bá Đa Lộc, để giúp Lê Văn Khôi lập nên một nước theo đạo Thiên Chúa ở Gia Định, người thì bảo ông ấy bị Lê Văn Khôi bắt vào trong thành. Việc ấy vẫn phân vân không rõ hẳn ra thế nào.

Đến khi về đến Huế thì ông Marchand và 5 người kia đều phải tội lăng trì. Thiết tưởng dẫu thế nào mặc lòng, đem một đứa con vô tội và 2 người ngoại quốc ra làm cái tội thảm hình ấy, thì thật gớm ghê quá. Tục Á Đông ta trước hay dùng những nhục hình như là tội lăng trì, tội ngựa xé, tội voi dày v.v... thì thật là dã man vô cùng, ngày nay ai nghĩ đến cũng phải ghê mình.

7. Án Lê Văn Duyệt và Lê Chất: - Lê Văn Duyệt.
Quan quân bình xong giặc Lê Văn Khôi rồi vua Thánh Tổ sai phá thành Phiên An đi, xây lại chỗ khác và ngài xuống chiếu định truy tội Lê Văn Duyệt và tội Lê Chất.
Cứ bình tỉnh mà xét, thì chẳng qua là vua Thánh Tổ vốn có ý không ưa hai ông ấy, rồi đình thần lại nhân đó mà bới việc ra để chiều ý ngài, cho nên thành ra hai cái án thật là không đáng.
Nay cứ theo trong sách "Đại Nam Chính Biên Liệt Truyện" mà chép ra, để mọi người đều được lấy lẽ công bằng mà phán đoán.
Từ khi tên Khôi khởi loạn, vua Thánh Tổ thường ban trách Lê Văn Duyệt che chở quân phỉ đảng, để gây nên hoạn loạn.

Năm ất mùi (1835), ở Đô Sát Viện có Phan Bá Đạt dâng sớ nói rằng: Lê Văn Duyệt trước ở Gia Định, lấy bọn nghịch Khôi, nghịch Nhã, làm trảo nha, lấy binh Bắc Thuận, Hồi Lương 146
làm tâm phúc. Bọn ấy vốn là quân hung ác, không phải là người lương thiện, cho nên Duyệt mất chưa bao lâu mà bọn nghịch Khôi, nghịch Nhã, đã đem quân Hồi Lương, Bắc thuận cùng với bọn thủ hạ giữ thành làm phản; lại làm phiến hoặc nhân tâm, để vạ lây đến các tỉnh Nam Kỳ, mà khó nhọc đến đại đội quan quân phải tiến tiễu. Năm tỉnh nay dẫu thu phục rồi, song thành Phiên An tặc đảng vẫn còn thiết cứ, quan quân tiến tiễu, lắm người thương vong, cái vạ ấy nói sao cho xiết. Nay Duyệt mất rồi, sự trạng dẫu không có thể tường cứu được, nhưng cứ xem con nuôi là Lê Văn Hán trước đây vào ra trong thành, nhập đảng với
146
Bắc Thuận, Hồi Lương là những người ở Bắc Kỳ bị tội phải đày vào làm lính ở Nam Kỳ. 186 nghịch Khôi, và đem Bạch Xuân Nguyên làm đuốc để tế từ đường, thì tâm tích của Duyệt tưởng không phải xét cũng đã rõ. Nếu không bắt tội e không làm gương được cho đời sau. Vậy xin truy đoạt quan chức của Duyệt, còn vợ con thì giao về Hình Bộ tra minh nghiêm nghị, để tỏ phép nước".
Vua dụ Nội Các rằng: "Lê Văn Duyệt xuất tha6n từ kẻ yêm hoạn, vốn là một đứa đầy tớ trong nhà. Xảy gặp hồi trung hưng, rồng mây gặp gỡ, đánh dẹp Tây Sơn, cũng dự có phần công lao. Đức hoàng khảo ta nghĩ tới nó thủa nhỏ sai khiến ở trong cung, mới đem lòng tin cậy, nhiều lần cho nó cầm quyền đại tướng. Không ngờ bọn ấy phần nhiều là quân bất lương, mỗi ngày sinh ra kiêu căng, manh tâm phản nghịch, sinh chí làm càn, ăn nói hỗn xược. Vì nó còn e Hoàng Khảo ta thánh minh, cho nên dẫu có lòng gian mà chưa dám lộ. Mà hoàng khảo ta đến vãn niên cũng đã biết rõ. Nhưng lại nghĩ hắn dẫu có lòng gian, song thiên hạ đã yên rồi, thần dân ai còn theo kẻ thị hoạn đó, thì chắc hắn cũng chẳng làm gì được. Đến khi trẫm lên ngôi, cựu thần không còn mấy, vả lại nghĩ nó tuổi đã già, cho nên cũng tạm khoan dung, hoặc là hắn biết nghĩ mà chừa đi, để cho toàn vẹn công danh, thì cũng là việc hay. Không ngờ kẻ kia lòng như rắn rết, tính tựa sài lang, càng ngày càng sinh kiêu ngạo, dám nói xấu triều đình trước mặt chúng nhân, mà khoe cái tài riêng của mình. Năm trước các quân tù phạm xứ Thanh, Nghệ cùng là những kẻ hung ác, hắn đều chiêu dụ ra thú, tâu xin ghép vào trướng hạ để làm nanh vuốt. Lê Văn Khôi là quân vô lại, thì tiến cử đến chức vệ úy, theo dưới cờ hắn, để làm phúc tâm. Thổ hào như bọn Dương Văn Nhã, Đặng Vĩnh Ưng thì hắn ngấm ngầm vời dùng; nhân thích như bọn Võ Vĩnh Tiền, Võ Vĩnh Lộc thì hắn âm thầm lập đảng. Những kẻ tù phạm Bắc Kỳ phát phối vào đó, hắn cho ở trong thành, rồi tha cho làm lính; lại kén lấy những voi khỏe đem ra nơi đồn trú; vét lấy những thuyền bè khí giới trong 6 tỉnh Nam Kỳ chứa vào thành Phiên An; rồi lại nghe tên Trần Nhật Vĩnh mà hút hết cao huyết của dân Nam Kỳ. Đắp thành Phiên An, tiếm bằng Kinh thành, hào thì đào sâu hơn. Nếu bảo thành cao hào sâu để phòng giặc Tiêm, thì đường bể phải phòng ở Hà Tiên, đường bộ phải phòng ở Chân Lạp, có lẽ nào bỏ bốn tỉnh An, Hà, Long, Tường không giữ, mà lại giữ ở Phiên An hay sao? Thế là rõ rằng phòng Triều đình, chứ không phải phòng ngoại hoạn. Cứ suy điều đó, thì ruột gan hắn, dẫu người đi đường cũng biết, ai không căm tức, chỉ giận vì ai không chịu nói rõ cho Triều đình biết sớm mà thôi. Đến nỗi ngày nay như nuôi cái nhọt bọc để nên đau, mỗi ngày mầm vạ một lớn, cho nên kẻ quyền yêm dẫu chịu tội minh tru, mà bọn nhỏ nhặt còn dám giữ thành làm phản. Ví dù quan cai trị không hèn đốn như Nguyễn Văn Quế, tham tàn như Bạch Xuân Nguyên, thì chúng nó có ngày làm phản chứ không sao khỏI được. Vì bọn tiêu hạ hắn toàn là quân hung đồ, quen làm những việc bất thiện. Chúng nó đã quen thấy hắn dối chúa, lấn trên, đều bắt chước hắn. Thậm chí hắn nói với người tra rằng hắn vào trấn Gia Định, vốn là phong vương để giữ lấy đất, chứ không phải như các tổng trấn tầm thường khác. Mả của cha hắn, em hắn, cũng tiếm gọi là lăng; hoặc dám đối với người ta, tự xưng là Cô, để cho bộ hạ tập quen thành thói, chỉ biết có Lê Văn Duyệt mà không biết đến triều đình. Thầy Hữu tử nói rằng: "Không ưa phạm người trên mà ưa làm loạn, chứ có lẽ ấy bao giờ". Vậy thì ưa phạm người trên và không ưa làm loạn, cũng chưa có lẽ thế bao giờ. Mối vạ gây nên đã lâu, lẽ nào mà muốn cho bọn tiêu hạ không làm phản được? Vậy nên hắn chết chưa bao lâu, mà bọn Lê Văn Khôi đã khởi loạn, cháu hắn cũng đồng tình tạo phản, để cho cả bọn bộ khúc của hắn đều theo giặc cả, không một tên nào trốn đi, rồi nó kết tử đảng, cậy có thành cao, hào sâu, lương thực như núi, khí giới tinh nhuệ, đồ đảng lại nhiều, kháng cự lại vương sư, chầy đến 3 năm trời, nhiều lần mở đường sống cho nó, mà chúng nó không biết hối tội đầu thành, đến nỗi binh dân gan óc lầy đường, nói ra đau xót đến gốc nguồn thì tội hắn kể từng cái tóc cũng không xuể. Nay hãY đem những công việc của hắn làm, rõ ràng ở tai mắt người ta, để gây nên hoạn loạn, hiểu thị cho ai nấy đều biết. Còn như Lê Văn Duyệt và con cháu hắn nên xử tội thế nào, thì giao cho đình thần nghị xử".
Vài hôm sau, nội các là Hà Quyền, Nguyễn Tri Phương, Hoàng Quýnh tâu rằng: Duyệt che chở cho quân phỉ loạn, gây nên sự biến, cái tai vạ tích lại đã lâu. Nay xét những giấy má của y ngày trước, rõ ra hình tích bội nghịch, có 6 điều: 1) Năm Minh Mệnh thứ 4, y tự tiện sai người riêng là bọn Phan Đạt giả danh đi thám, đi thuyền sang nước Diến Điện. Trong thư ấy chắc có giao thông. Cứ lấy nghĩa "làm tôi không có phép được giao thông với nước ngoài", thì tâm sự của y đã rõ, ấy là một tội. 2) Đến khi sứ thần nước Diến điện đến thành, mới tâu vào Triều Đình. Đã có chỉ dụ nói việc đó quan hệ đến đại nghĩa, không nên khinh thường, nghe lời ngoài mà bỏ tình hòa hiếu, gây việc cừu thù. Vậy mà y cố xin dung nạp. May mà triều đình trả đồ cống vật cho sứ Diến Điện về nước, thì danh nghĩa nước lớn ta mới tỏ giải ra thiên hạ. Thế là y chẳng những mưu việc nước không ra gì, mà lại cố giữ lấy ý riêng để che điều lỗi, ấy là hai tội. 3) Năm Minh Mệnh thứ 7, tàu bạt phong nước Anh Cát Lợi đậu vào cửa Bình Thuận, đã có chỉ sai sở tại hộ tống, mà y cố xin đưa vào Gia Định, và nói rằng: "Quan trấn kiềm thúc, không bằng thần có quyền, khiến cho kẻ kia sợ tướng lệnh và biết binh oai". Hai chữ "có quyền" từ xưa vẫn lấy làm răn, mà y dám ngất ngưởng tự nhận, kiêu tứ dường nào, ấy là ba tội. 4) Năm Minh Mệnh thứ 4, thị vệ là Trần Văn Tình nhân việc công sai ở Gia Định về, có tâu việc Trần Nhật Vĩnh làm riêng phố ngói, 187 mua trộm các món. Y nghe chuyện làm vậy, năm sau vào chầu, cố xin bắt Trần Văn Tình giao cho y để y chém, nếu không giao thì y xin trả chức Tổng Trấn; rồi y xin từ chức thực. Có ý trêu quân như vậy, tội gì còn to bằng tội ấy. Vả y xin giết một Trần Văn Tình, thế là bắt người ta phải khóa lưỡi, không ai dám nói nữa, rất là dụng tâm nham hiểm, ấy là bốn tội. 5) Trần Nhật Vĩnh đã có chỉ bổ thụ ký lục Vĩnh Thanh, mà y cố xin lưu ở lại trong thành. Lê Đại Cương có chỉ tuyên triệu, mà y cố xin lưu lại làm việc phủ Lạc Hóa, đều là có ý vi chiếu. Trong tập tâu của y lại nói rằng: "Chuẩn cho thần cầu xin việc ấy, thì hầu có ích cho việc ngoài biên cương"; lại ở trong tập tâu xin chi bổng cho bọn thơ lại, cơ, đội, các vệ, có câu rằng: "Lão thần xa ở ngoài biên khổn, chỉ e triều đình tin dùng không được vững bền". Trong lời lẽ ấy đều là không kính, ấy là 5 tội. 6) Năm Minh Mệnh thứ 6, y tâu xin tăng thọ cho Lê Chất, có nói rằng: "Ấy là vị thánh dược khởi tử hồi sinh, tiếc gì mà không làm". Y là chức biên khổn dám kết đảng tư tình như thế, rất trái với đạo làm tôi, ấy là 6 tội. Vả lại nghe y bình nhật thường khoe chuyện với người ta rằng: y xin được quẻ thẻ có 4 câu thơ:
Tá Hán tranh tiên chư Hán tướng Phù Chu ninh hậu thập Chu thần Tha niên tái ngộ Trần kiều sự Nhất đán hoàng báo bức thử thân

Dịch Nôm Giúp Hán há thua cùng tướng Hán Phò Chu nào kém bọn tôi Chu Trần kiều nếu gặp cơn binh biến Mảnh áo hoàng bào để ép nhau!
Giá y không phải là người sẵn có bụng bất trung, thì không khi nào dám khoe bài ấy với người ta. Bởi vậy bọn tiêu hạ tập quen thành thói, cho nên thây y chưa lạnh mà đã có việc này. Vậy xin giao cả lời tâu này cho đình thần kết án để chính tội. Vua ưng cho.
Đến khi nghị án xong, trích ra các lời nói, việc làm, bội nghịch, có 7 tội nên trảm: 1. Sai người đi riêng sang Diến Điện, âm kết ngoại giao. 2. Xin giao tàu Anh Cát Lợi đến thành, để tỏ có quyền. 3. Xin giết thị vệ là Trần Văn Tình, để khóa miệng người ta. 4. Kháng sớ xin lưu quan viên bổ đi chỗ khác. 5. Lập đảng mà xin tăng thọ cho Lê Chất. 6. Giấu chứa giấy ngự bảo. 7. Mộ cha, tiếm gọi là lăng, đối với người ta, tự xưng là Cô.
Có 2 tội nên giảo: 1. Cố xin dung nạp Diến Điện để che chở cái lỗi của mình. 2. Nói chuyện với người ta xin được quẻ thẻ có câu thơ hoàng báo.
Một tội nên phát quân: 1. Tự tiện sai biền binh tu tạo tàu thuyền.
Sự biến Phiên An, y thực là đầu vạ nên chiếu theo luật mưu phản, khép vào tội lăng tri; song y đã chịu minh tru, vậy xin truy đoạt cáo sắc, bỏ quan quách giết thây, để tỏ gương răn cho người khác. Còn như tằng tổ, tổ phụ của y được phong tặng cáo sắc, thì xin truy đoạt cả; tiên phần có tiếm dụng trái phép nào thì tước hủy đi; con, cháu, vợ cả, vợ lẽ, đều phân biệt nghị tội; tài sản thì tịch biên hết.
Án ấy đệ lên. Những tội nguyên nghị trảm quyết đổi làm giam hậu, con cháu từ 15 tuổi trở xuống, tạm hãy nghiêm cấm; trẻ thơ ấu chưa biết gì thì tha không bắt; ba họ phải phát nô cũng đều tha; nguyên nghĩ lục thì cũng thôi.
Lại sai Hình bộ sao bản văn án phát cho tổng đốc, tuần phủ các tỉnh, cho cứ ý kiến riêng mà tâu về. Hộ phủ Lạng Bình là Trần Huy Phác xin điều phép tội trảm quyết. Hộ phủ Quảng Yên là Lê Dục Đức xin người nào từ 16 tuổi trở lên đều chém, còn thì đều y như đình nghị. Tổng đốc Bình Phú là Võ Xuân Cẩn, Tổng đốc Ninh Thái là Hoàng Văn Trạm cũng đều xin y đình nghị. Lại nói kèm một cầu rằng: hoặc nên lấy công bù tội châm chước ít nhiều thì tự Thiên Ân.
Dụ rằng: "Xem vậy thì đủ biết lẽ Trời không sai, mà công đạo ở lòng người không ai giấu được. Kẻ quyền gian kia gây vạ, thiên hạ ai cũng căm tức luôn, muôn miệng cùng lời, đủ tỏ cái án sắt nghìn xưa. Tội Lê Văn Duyệt nhổ từng cái tóc mà kể cũng không hết, nói ra đau lòng, dù có bổ quan quách mà giết thây, cũng là đáng tội. Song nghĩ hắn chết đã lâu, và đã truy đoạt quan tước, xương khô trong mã, không bõ gia hình. Vậy cho tổng đốc Gia Định đến chỗ mả hắn, san làm đất phẳng và khắc đá dựng bia ở trên viết to những chữ "Chỗ này là nơi quyền yêm Lê Văn Duyệt phục pháp", để chính tội danh cho kẻ đã chết, mà tỏ phép nước về đời sau, làm gương cho kẻ quyền gian muôn đời.
188 Không những Lê Văn Duyệt là họa thủ tội khôi, mà tên cháu y là Lê Văn Hán cũng giao thông với giặc, thì thân thuộc phải tội, trong luật đã có điều nói rõ rồi. Song nghĩ nó chẳng qua cuồng dại một lúc, qua lại với giặc mà thôi, sánh với kẻ trước sau theo giặc kháng cự quan quân, hơi có khác nhau. Và đã xử cực hình, cũng đủ tỏ phép nước rồi. Những kẻ thân thuộc khác, khép tội trảm giam hậu, cũng đủ cho nó phục tội. Lời dụ này chuẩn lục tống phát cho mỗi tỉnh một đạo, để cho ai nấy đều biết Triều Đình xử rất công, rõ ràng cái cân ba thước mà nghiêm như rìu búa nghìn thu".
Án Lê Chất: Án Lê Văn Duyệt phát ra năm trước thì năm sau có quan Lại bộ tả thị lang là Lê Bá Tú truy tham những tội bất thần của Lê Chất, có 6 tội nên chết: 1. Chất cùng Duyệt toan mưu làm việc Y, Hoắc (phế lập), bị hai đứa ở nói hở ra ngoài, bèn giết chúng nó để buộc miệng, là một tội. 2. Mấy lần cố xin thưởng cho hoàng tử để làm con nuôi, muốn bắt chước lối cũ của Dương Kiên, là hai tội. 3. Muốn cho con gái chính vị trong cung, không được thỏa chi, nói ra những lời oán vọng, là ba tội. 4. Thường nói chuyện với Lê Văn Duyệt rằng: "Người ta thường nói trời, vua và cha mẹ, người làm con, làm tôi dù có điều bất bình, cũng không dám giận, mà một mình tôi dám giận" là bốn tội. 5. Lại nói rằng: "Vua cậy có Trịnh Hoài Đức, Nguyễn Hữu Thuận phúc tâm, chỉ đem độ vài trăm người vào chầu, quát to một tiếng, bọn ấy cũng phải phục xuống đất, rồi ta muốn làm gì ta làm" là năm tội. 6. Lại nói rằng quốc tính đổi làm tôn thất, đều là bọn Hoài Đức a dua xui giục, nên đem chém ở trước cửa miếu để chính tội, là sáu tội.
Lại có 10 tội tiếm loạn: 1. Khi y ở Bắc thành, đầu năm điểm binh, dám lên lầu Ngũ môn ngồi chính giữa. 2. Đệ niên thuyền tải ngoài bể, y lấy của riêng mà tải vào thuyền công. 3. Cùng với Lê Văn Duyệt dâng biểu từ chức để bắt bí nhà vua. 4. Việc sinh sát dữ đoạt, hay tự tiện. 5. Trái phép, ăn lễ, giàu đến nghìn vạn. 6. Tấu sớ không hợp phép, có chỉ không cho, mà cứ nhất định nộp lại, có Lê Văn Duyệt ngăn đi mới thôi. 7. Nuôi những cung nữ tiên triều, không biết kiêng nể gì. 8. Nơi công sảnh tiếm làm gác chuông, gác trống. 9. Tội án Lê Duy Thanh đã thành, lại còn cùng với Lê Văn Duyệt cố xin nghị lại. 10. Điều bổ cơ binh, phủ binh, xin lấy chức quan văn mà thi hành.
Vậy xin giao cho đình nghị, để chính tội danh làm gương cho kẻ gian trăm đời.
Vua dụ rằng: "Chất, tính vốn sài lang, nết như ma quỷ, làm tôi thì bất trung, bất chính, xử việc thì đại ác đại gian, việc nào cũng càn rỡ, ai là chẳng tức giận, chẳng những là 16 tội mà thôi đâu. Trước kia trẫm nghĩ hắn cùng với Lê Văn Duyệt, dẫu mang lòng bất thần, nhưng người ta không chịu theo, thì chắc không dám gây sự. Vả hắn là nhất phẩm đại thần; dù có mưu gian mà thần dân chưa cáo tố, thì không nỡ bắt tội. Kể đến hắn lại chịu tội minh tru rồi thì lưới trời tưởng cũng không thoát, cho nên cũng chẳng kể làm gì nữa. Nay đã có người tham hạch, vậy thì phải trái công, đã có triều đình pháp luật. Chuẩn cho đình thần đem 16 điều tội của hắn mà định rõ tội danh, vợ con cũng án luật mà nghị xử, duy con gái nào đã xuất giá, cùng là cháu trai còn nhỏ thì tha".
Đình thần nghị rằng: Chất, bất pháp bất trung, đại gian đại ác, có 6 tội nên lăng trì, 8 tội nên trảm, 2 tội nên giảo. Những tội phạm phận, âm mưu điều bất quỷ, thì khép vào tội bạn nghịch mà xử lăng trì. Song y đã chịu tội minh tru, vậy xin truy đoạt cáo sắc, bổ áo quan, lục thây, khiêu thủ để thị giới. Còn cáo sắc phong cho cha mẹ y, cũng xin truy đoạt; vợ là Lê Thị Sai từng đồng mưu bạn với chồng, nghĩ trảm lập quyết. Lại phát cho các tổng đốc, tuần phủ, mỗi nơi một đạo văn án, để cho đem ý riêng bày tỏ tâu về, cho công lòng chúng. Các địa phương tâu về, đều xin y đình nghị.
Ngài dụ rằng: "Như vậy đủ rõ lẽ trời ở tại lòng người, công luận không bao giờ mất. Kẻ gian thần chứa vạ, muôn miệng cùng một lời, đủ làm án sắt thiên cổ. Vả Lê Chất cùng với Lê Văn Duyệt, dựa nhau làm gian, tội ác đầy chứa, nhổ từng cái tóc mà tính cũng không hết, giá thử bổ áo quan giết thây, cũng không là quá. Song lại nghĩ Chất tội cũng như Duyệt, trước kia Duyệt đã không bổ áo quan giết thây, thì nắm xương khô của Chất nay cũng chẳng màng bắt tội. Vậy cho tổng đốc Bình Phú Võ Xuân Cẩn san phẳng mộ của hắn, khắc bia dựng lên trên đề to mấy chữ: "Chỗ nầy là nơi Lê Chất phục pháp" để làm gương cho kẻ gian tặc muôn đời. Còn vợ hắn là Lê Thị Sai cùng ở một nhà, dự biết mưu bạn nghịch, xử vào cực hình, cũng là phải, song kẻ đàn bà chẳng cần vội vàng chính pháp. Vậy Lê Thị Sai cùng con là Lê Cẩn, Lê Trương, Lê Thường, Lê Kỵ, đều cải làm trảm giam hậu. Lại tịch biên gia sản, được hơn 12.000 quan tiền, giao tỉnh chứa cả vào kho 147 .
147
Đến năm Tự đức nguyên niên (1847) quan đông các đại học sĩ là Võ Xuân Cẩn làm sớ tâu xin gia ân cho con cháu Nguyễn Văn Thành. Trong bài sớ có lắm câu thảm thiết. Có chỗ nói rằng: "Nguyễn Văn Thành, Lê Văn Duyệt và Lê Chất đều có lòng theo mây đợi gió, xông pha chỗ mũi tên hòn đạn, thân làm đại tướng, tước đến quận công, sau hoặc vì con dại, hoặc vì cậy công mà làm thành tội ..... Dù bọn Nguyễn Văn Thành có tội, thì tội đã trị rồi, mà công thì không hỏi đến, 189

8. Giặc Tiêm La.
Nước Tiêm La tự khi mất quyền bảo hộ ở Chân Lạp, vẫn có ý muốn sinh sự với nước Nam, nhưng còn sợ thế lực Nguyễn Triều chưa dám làm gì, chỉ thỉnh thoảng sang sinh sự với những nước ở Lào. Hễ khi nào Tiêm và Lào đánh nhau, thì nhà vua sai quan quân phòng giữ những chỗ biên thùy, và sang cứu viện những nước bị người Tiêm bắt nạt. Như năm đinh hợi (1827) là năm Minh Mệnh thứ 8, nước Tiêm đánh lấy nước Vạn Tượng (Vientiane), quốc trưởng nước ấy là A Nỗ chạy sang cầu cứu, vua Thánh Tổ sai quan thống chế là Phan Văn Thúy làm kinh lược biên vụ đại thần đem binh tượng sang cứu A Nỗ.

Tháng chín năm ấy, bọn Lê Đức Lộc, Nguyễn Công Tiến đem binh ở Nghệ An chia làm hai đạo đi đường Quy Hợp và đường Lạc Phàm qua Trấn Ninh sang cứu A Nỗ. Đi đến đâu vẽ những sông núi hình thế hiểm trở rồi gửi về Kinh.
A Nỗ mất nước không lấy lại được, phải theo quân An Nam về Nghệ An, đợi thu xếp quân sĩ để về đánh báo thù. Đến năm mậu tí (1828), A Nỗ nói rằng quân Lào tụ hợp được đủ rồi, xin cho quan quân đưa về nước. Vua Thánh Tổ sai Phan Văn Thúy làm kinh lược đại thần, Nguyễn Văn Xuân làm phó, Nguyễn Khoa Hào làm tham tán, đem 3.000 quân và 24 con voi, đưa A Nỗ về Trấn Ninh.

Đến Trấn Ninh, A Nỗ xin đem quân Lào về Vạn Tượng (Vientiane). Phan Văn Thúy cho hai đội quân Thần Sách đi hộ tống. Về đến Vạn Tượng, A Nỗ đem quân đi đánh quân Tiêm, quân sĩ chết hại rất nhiều, rồi lại sai người sang Nghệ An xin viện binh.
Vua Thánh Tổ thấy A Nỗ hay sinh sự đánh nhau mà không được việc gì, bèn không cho quân sang cứu, chỉ xuống lệnh truyền cho các hạt ở Lào phải phòng giữ những chỗ biên thùy. A Nỗ không có quân cứu viện, bị quân Tiêm đến đánh, lại phải bỏ thành mà chạy sang Trấn Ninh. Được ít lâu, Chiêu Nội là thủ lĩnh Trấn Ninh bắt A Nỗ đem nộp cho Tiêm La.
Quân Tiêm La phá được Vạn Tượng rồi, lại xâm vào đến các châu phụ thuộc về nước Nam, ở mạn gần Quảng Trị. Vua Thánh Tổ sai thống chế Phạm Văn Điển, kinh lý mọi việc ở Cam Lộ, sai Lê Đăng Doanh làm tham tán quân vụ, cùng với quân các đạo ở Lào đi tiễu trừ.
chẳng hóa ra đem cái công lao bách chiến mà để đến nỗi cái tàn hồn phải bơ vơ như ma trơi ngoài đồng, khác nào quỷ Mạc Ngao không ai thờ cúng không?" Vua Dực Tông xem bài sớ ấy lấy làm cảm động bèn truy phong cho bọn Nguyễn Văn Thành, và cấp phẩm hàm cho các con cháu.
Phạm Văn Điển, một mặt thì cho người đem thư sang trách nước Tiêm La sinh sự, một mặt thì chia quân, làm ba đạo tiến lên đánh.
Tướng Tiêm la viết thư trả lời một cách khiêm nhường lắm, rồi rút quân về. Từ đó nước Tiêm bề ngoài vẫn thông sứ đi lại để giữ sự hòa hiếu, nhưng ngấm ngầm cứ tìm cách quấy nhiễu nước Nam. Ở phía tây nam, người Tiêm vẫn dung túng những người phản nghịch nước Chân Lạp, mà ở phía tây bắc thì vẫn cứ hà hiếp Vạn Tượng và các nước nhỏ khác. Dù thế mặc lòng, vua Thánh Tổ không muốn gây việc binh đao, cứ dùng lời nói ngọt mà trang trải mọi việc.
Đến cuối năm quý tị (1833) nhân có ngụy Khôi khởi loạn ở đất Gia Định và tên Khôi lại cho người sang cầu cứu vua Tiêm La bèn sai quân thủy bộ chia ra làm 5 đạo sang đánh Việt Nam.
Đạo thứ nhất thủy quân đem hơn 100 chiếc thuyền vào đánh lấy Hà Tiên; đạo thứ nhì bộ quân sang đánh Nam Vang (Phnon-penh), rồi tiến lên đánh lấy Châu Đốc và An Giang; đạo thứ ba đánh lấy mặt Cam Lộ; đạo thứ tư đánh Cam Cát, Cam Môn, đạo thứ năm đánh Trấn Ninh.
Tuy rằng quân nghịch năm đạo cùng tiến, nhưng chủ đích của Tiêm La là cốt đánh Chân Lạp và Nam Kỳ, còn các đạo khác là để phân quân lực của nước Nam mà thôi.
Vua Thánh Tổ được tin báo cấp, liền xuống chiếu sai quan quân phòng ngự các nơi. Phía tây nam thì sai quân thứ ở Gia Định, chia quân cho Trương Minh Giảng và Nguyễn Xuân đi tiến tiễu ở mặt An Giang. Phía tây bắc thì sai Lê Văn Thụy giữ mặt Cam Lộ, thuộc Quảng Trị, Phạm Văn Điển giữ mặt Nghệ An. Lại sai Nguyễn Văn Xuân 148
làm kinh lược đại sứ đi tiễu trừ quân Tiêm và quân Lào ở Trấn Ninh.
Trương Minh Giảng và Nguyễn Xuân đại phá quân Tiêm La ở sông Cổ cắng. Quân Tiêm La ở Chân Lạp cũng bị người bản xứ đánh phá. Chỗ nào quân nghịch cũng thua to chết hại rất nhiều; chỉ trong một tháng mà quan quân lấy lại Hà Tiên và Châu Đốc, đuổi quân Tiêm ra khỏi bờ cõi, rồi tiến lên đánh lấy thành Nam Vang và đưa vua Chân Lạp là Nặc Ông Chân về nước.

148
Nguyễn Xuân thì làm tham tán đại thần theo Trương Minh Giảng, Nguyễn Văn Xuân thì làm hữu quân lĩnh An tĩnh tổng đốc đi đánh mặt Trấn Ninh. 190
Trương Minh Giảng và Nguyễn Xuân từ Nam Vang tiến lên đánh quân Tiêm, liền phá mấy trận, chém tướng bắt binh lấy được súng ống khí giới không biết ngần nào mà kể. Tướng Tiêm La là Phi Nhã Chất Tri đem bại binh chạy về nước, quan quân đuổi đánh lấy thành Phú Túc (Pursat) rồi cho người Chân Lạp ở lại giữ các nơi: chỗ nào hiểm yếu thì làm đồn đắp lũy, để phòng ngự quân giặc.
Những đạo quân Tiêm và quân Lào sang đánh ở mặt Quảng Trị, Nghệ An và Trấn Ninh, đều bị tướng quân là Nguyễn Văn Xuân, Phạm Văn Điển và Lê Văn Thụy đánh đuổi, chỗ nào quan quân cũng được toàn thắng, giữ được bờ cõi nguyên như chỗ cũ cả.
Quân Tiêm sang đánh từ tháng giêng năm giáp ngọ (1834), đến tháng năm năm ấy, thì quan quân đã bình xong cả mọi nơi. Vua Thánh Tổ mừng rỡ, ban thưởng cho các tướng sĩ và bố cáo ra cho mọi nơi đều biết.

9. Việc Ai Lao.
Nước Nam ta về đời vua Thánh Tổ thì to rộng hơn cả, là vì quân Tiêm La cứ hay sang quấy nhiễu cho nên các xứ ở Lào đều xin về nội thuộc nước ta.
Năm đinh hợi (1827), người Nam chưởng (Luan Prabang) thông với Tiêm La, rồi cứ đem quân xuống quấy nhiễu đất Trấn Ninh. Tù trưởng là Chiêu Nội xin đem đất Trấn Ninh về nội thuộc Việt Nam. Vua Thánh Tổ phong cho Chiêu Nội làm Trấn Ninh phòng ngự sứ cai quản cả 7 huyện, lại phong cho những thổ mục làm thổ tri huyện và thổ huyện thừa. Chiêu Nội dâng sổ dân đinh và điền thổ, cả thảy được 3.000 suất đinh và 28 sở ruộng.
Lại có đất Tam động và Lạc Phàn ( trước thuộcvề Vạn Tượng) cũng xin nội thuộc. Triều đình chia những đất ấy ra làm hai phủ là Trấn Tĩnh phủ và Lạc biên phủ. Năm ấy lại có xứ Xa hổ (?), Sầm Tộ (Sam teu), Mường soạn (?), Mang Lan (Mường Lam), Trình Cố (Xiêng-khô), Sầm nứa (Sam- neua), Mương Duy (?) và ở Ngọc Ma có Cám cát (Kham-keut), Cam Môn và Cam Linh (?) đều xin về nội thuộc. Vua Thánh Tổ chia những đất ấy ra làm ba phủ là Trấn Biên, Trấn Định và Trấn Man.

Phủ Trấn biên có bốn huyện là Xa hổ, Sầm tộ, Mang soạn, Mang lan; phủ Trấn định 149
có 3 huyện là Cam cát, Cam môn, và Cam linh. Hai phủ ấy đều thuộc về Nghệ An. Còn phủ Trấn Nam có 3 huyện là Trình Cố, Sầm nứa, Man Duy thì thuộc về Thanh Hóa.

149
Ở gần địa hạt Hà tĩnh bây giờ.
Ở miền Cam Lộ thuộc Quảng Trị lại có những mường Mang vang (?), Ná bi (?), Thượng kế (?), Tả bang (?), Xương thịnh (?), Tầm bồn (?), Ba lan (?), Mang bổng (?), Lang thời (?), xin về nội thuộc, chia ra làm 9 châu, cho chiếu lệ triều cống.
Đại khái là đất Sầm nứa, đất Trấn Ninh, đất Cam môn và đất Savannakhet bây giờ, thủa ấy thuộc về Việt Nam ta cả.
10. Việc Chân Lạp.
Ở nước Chân Lạp thì từ khi quan quân phá được giặc Tiêm rồi, Tướng quân là Trương minh Giảng và tham tán là Lê Đại Cương lập đồn An Nam ở gần Nam vang để bảo hộ Chân Lạp.
Cuối năm giáp ngọ (1834), vua nước Chân Lạp là Nặc Ông Chân mất, không có con trai, quyền cai trị trong nước về cả mấy người phiên liêu là bọn Trà Long và La Kiên. Những người này đều là người Chân Lạp mà lại nhận quan chức Việt Nam. Đến năm ất mùi (1835), Trương Minh Giảng xin lập người con gái của Nặc Ông Chân tên là Angmey lên làm quận chúa, gọi là Ngọc Vân công chúa, rồi đổi nước Chân Lạp ra làm Trấn tây thành, chia ra làm 32 phủ và 2 huyện. Đặt một tướng quân, một tham tán đại thần, một đề đốc, một hiệp tán, và 4 chánh phó lĩnh binh, để coi mọi việc quân dân. Ở các chỗ yếu hại, lại đặt chức tuyên phủ, an phủ để phòng ngự.
Năm canh tí (1840), nhà vua sai Lê Văn Đức làm khâm sai đại thần, Doãn Uẩn làm phó và cùng với Trương Minh Giảng để kinh lý mọi việc ở Trấn Tây Thành, khám xét việc buôn bán, đo ruộng đất, định thuế đinh, thuế thuyền bè buôn bán dưới sông.
Nhưng vì quan lại Việt Nam ta sang làm nhiều điều trái lẽ, nhũng nhiễu dân sự, lại bắt Ngọc Vân công chúa đem về để ở Gia Định, bắt bọn Trà Long và Lê Kiên đày ra Bắc Kỳ, dân Chân Lạp ai cũng oán giận, chỗ nào cũng có giặc giã nổi lên đánh phá. Lại có em Nặc Ông Chân là Nặc Ông Đôn khởi nghĩa, có người Tiêm La giúp đỡ, thành ra quan quân đánh mãi không được. Về sau khi vua Thánh Tổ mất rồi, quan quân phải bỏ thành Trấn Tây mà rút về An Giang.

Ấy cũng là vì người mình không biết bênh vực kẻ hèn yếu, chỉ đem lòng tham tàn mà ức hiếp người ta, cho nên thành ra hao tổn binh lương, nhọc mệt tướng sĩ, mà lại phải sự bại hoại, thật là thiệt hại cho nước mình
 
11. Việc giao thiệp với những nước ngoại dương.
Việc giao thiệp của nước Nam ta với các nước ngoại dương mà ngăn trở là bởi có 191 hai lẽ: một là vì sự cấm giảng đạo thiên chúa; hai là vì người nước mình lúc bấy giờ không hiểu thời thế, cứ tự đắc mình là văn minh hơn người, không chịu học tập như người ta mà theo đường tiến bộ.
Nước ta từ đời thập thất thế kỷ, về nhà Hậu Lê đã có người Âu-la-ba ra vào buôn bán, hoặc ở Phố Hiến (Hưng Yên), hoặc ở cửa Hội An (Faifo), đều không có việc gì ngăn trở cả. Chỉ có sự giảng đạo Thiên chúa ở trong nước là hay bị sự ngăn cấm. Ngày trước chúa Trịnh và chúa Nguyễn đã có dụ nghiêm cấm. Đến đời Nguyễn Tây Sơn thì trong nước rối loạn, còn phải lo việc chiến tranh, cho nên không nói đến việc cấm đạo. Về sau, khi vua Thế Tổ nhất thống cả nam bắc, thì ngài nhớ ơn bên đạo có công giúp rập trong lúc gian truân, vẫn để các giáo sĩ được phép đi giảng đạo mọi nơi. Mãi đến đời vua Thánh Tổ thì việc nước đã yên, nhà vua lưu ý về sự giáo hóa, lấy Nho đạo làm chính đạo và cho các tôn giáo khác làm tả đạo, bắt dân gian phải bỏ tà theo chính. Sự cấm đạo lại khởi đầu phát ra nữa.
Mà cũng vì sự cấm đạo, cho nên sự buôn bán của những người ngoại dương ở nước ta, thành ra ngăn trở. Bởi vì Triều đình thấy thỉnh thoảng có chiếc tàu buôn lại, thì có một vài người giáo sĩ vào giảng đạo, ngăn cấm thế nào cũng không được, tưởng là có ý do thám gì chăng, cho nên lại càng nghi ngờ lắm.
Vả lại về đời nhà Nguyễn lúc bấy giờ, ở trong nước cũng không có người ngoại quốc ra vào buôn bán, chỉ có người Pháp Lan Tây trước đã theo giúp vua Thế Tổ, rồi ở lại làm quan tại triều là Chaigneau và Vannier. Khi vua Thế Tổ hãy còn, thì Chaigneau có xin về nước Pháp nghỉ ba năm, đến năm đinh mùi (1821), ông ấy trở sang thì lại nhận chức lãnh sự và chức khâm sai của vua Louis XVIII, đem đồ phẩm vật và tờ quốc thư sang điều đình việc thông thương với nước Nam. Chaigneau sang đến nơi, thì vua Thế Tổ mất rồi, vua Thánh Tổ tiếp đãi Chaigneau cũng tử tế, và ngày sai quan trả lời cho Pháp Hoàng rằng nước Nam và nước Pháp không việc gì mà phải làm điều ước về việc thương mại. Việc vào buôn bán ở nước Nam, thì cứ theo luật nước Nam, không điều gì ngăn trở cả.
Năm nhâm ngọ (1822) có chiếc tàu chiến của Pháp tên là Cléopâtre vào cửa Đà nẵng, người quản tàu tên là Courson de La Ville Héllio nhờ Chaigneau xin phép cho vào yết kiến vua Thánh Tổ; ngài không cho. Tháng 7 năm ấy, có tàu Anh Cát Lợi vào Đà nẵng xin thông thương, nhà vua cũng không cho.
Chaigneau thấy nhà vua càng ngày càng nhạt nhẽo với mình, và cũng không làm được công việc gì có ích, bèn cùng với Vannier xin từ chức, rồi đến cuối năm giáp thân (1824), hai người xuống tàu đi qua Gia Định về Pháp.
Tháng giêng năm ất dậu (1825), lại có thủy quân đại tá nước Pháp là ông Bougainville đem hai chiếc tàu chiến là Thétis và Espérance vào cửa Đà Nẵng, đem đồ phẩm vật và quốc thư, xin vào yết kiến vua Thánh Tổ. Ngài nói rằng nước Pháp và nước Anh là hai nước cừu địch, mà nước ta trước đã không tiếp sứ Anh Cát Lợi, lẽ nào nay lại tiếp sứ nước Pháp. Vả lúc bấy giờ Chaigneau và Vannier đã về cả rồi, ngài bèn sai quan đem đồ vật ra ban thưởng cho sứ nước Pháp và nói rằng ở trong triều không có ai biết tiếng Pháp, cho nên không thể tiếp được.
Qua năm sau (1826) chính phủ Pháp lại sai cháu ông Chaigneau sang làm lĩnh sự thay cho chú, nhưng sang đến nơi, Triều đình nước ta không nhận, đến năm kỷ sửu (1829) lại phải trở về.
Từ đó cho đến 10 năm về sau nước Pháp tuyệt giao với nước Nam ta. Mà lúc bấy giờ chỉ trừ mấy người giáo sĩ đi giảng đạo ở chỗ thôn dã ra, thì trong nước cũng không có người ngoại dương nào ở nữa.

12. Sự Cấm Đạo.
Từ khi vua Thánh Tổ lên ngôi, ngài đã có ý không cho người ngoại quốc vào giảng đạo ở trong nước. Đến năm ất dậu (1825), khi chiếc tàu Thétis vào cửa Đà Nẵng, có một người giáo sĩ tên là Rogerot ở lại đi giảng đạo các nơi, vua Thánh Tổ nhân dịp ấy mới có dụ cấm đạo, và truyền cho các quan phải khám xét các tàu bè của ngoại quốc ra vào cửa bể. Trong dụ nói rằng: "Đạo phương Tây là tả đạo, làm mê hoặc lòng người và hủy hoại phong tục, cho nên phải nghiêm cấm để khiến người ta phải theo chính đạo".

Ngài lại sai tìm bao nhiêu những giáo sĩ ở trong nước đem cả về Huế để dịch những sách Tây ra chữ Việt Nam, chủ ý là không phải vì việc dịch sách, nhưng là để cho khỏi đi giảng đạo ở chốn hương thôn.
Lúc bấy giờ không phải là một mình vua Thánh Tổ ghét đạo mà thôi, phần nhiều những quan lại cũng đều một ý cả, cho nên sự cấm đạo lại càng nghiệt thêm. Nhưng mà dẫu cấm thế nào mặc lòng, trong nước vẫn có người đi giảng đạo, nhà vua lấy điều đó làm trái phép, lại có dụ ra lần nữa truyền cho dân bên giáo phải bỏ đạo, và ai bắt được giáo sĩ đem nộp thì được thưởng. Năm ấy ở Huế có một người giáo sĩ phải xử giảo, và ở các nơi cũng rối loạn vì sự bắt đạo và giết đạo.
192
Từ đó trở đi, trong Nam ngoài Bắc, chỗ nào cũng có giặc giã nổi lên, nhà vua ngờ cho dân bên đạo theo giúp quân giặc, lại càng cấm nghiệt: từ năm giáp ngọ (1834) cho đến năm mậu tuất (1838), có nhiều giáo sĩ và đạo đồ bị giết, nhất là từ khi bắt được cố Du (P. Marchand) ở Gia Định rồi, sự giết đạo lại dữ hơn trước nữa.
Nhà vua một mặt thì cấm đạo, một mặt thì ban những huấn điều ra đê/ khuyên dân giữ lấy đạo chính. Nhưng nhà vua mà dùng uy quyền để giết hại bao nhiêu, thì dân sự lại khổ sở bấy nhiêu, chứ lòng tin tưởng của người ta không sao ngăn cấm được. Vả lại đạo Thiên chúa cũng là một đạo tôn nghiêm, dạy người ta lấy lòng nhân ái, việc gì mà làm khổ dân sự như thế? Các giáo sĩ bấy giờ cứ một niềm liều sống chết đi truyền giáo cho được, có người phải đào hầm mà ở dưới đất hàng mấy tháng để dạy đạo. Những người có chí bền chặt như vậy, thì hình phạt cũng vô ích mà thôi. Năm mậu tuất (1838), vua Thánh Tổ thấy cấm thế nào cũng không được những người đi giảng đạo trong nước, ngài bèn sai sứ sang nước Pháp để điều đình với chính phủ Pháp về việc ấy. Song khi sứ thần Việt Nam sang đến nơi, thì hội Ngoại Quốc Truyền Đạo xin Pháp Hoàng là vua Louis Philippe đừng tiếp 150 . Sứ thần ta phải trở về không; khi về đến Huế thì vua Thánh Tổ đã mất rồi.
Về sau việc cấm đạo cứ dai dẳng mãi đến khi nước Pháp sang bảo hộ mới thôi.
 
13. Vua Thánh Tổ Mất.
Vua Thánh Tổ mất năm canh tí (1840), thọ được 50 tuổi, và trị vì được 21 năm, miếu hiệu là Thánh Tổ Nhân Hoàng Đế.
Trong đời vua Thánh Tổ làm vua, pháp luật, chế độ, điều gì cũng sửa sang lại cả, làm thành một nước có cương kỷ. Nhưng chỉ vì ngài nghiêm khắc quá, cứ một mực theo cổ, chứ không tùy thời mà biến hóa phong tục; lại không biết khoan dung cho sự sùng tín, đem giết hại những người theo đạo, và lại tuyệt giao với ngoại quốc làm thành ra nước Nam ta ở lẻ loi một mình.
Đã hay rằng những điều lầm lỗi ấy là trách nhiệm chung cả triều đình và cả bọn sĩ phu nước ta lúc bấy giờ, chứ không riêng chi một mình ngài, nhưng ngài là ông vua chuyên chế một nước, việc trong nước hay dỡ thế nào, ngài cũng có một phần trách nhiệm rất to, không sao chối từ được. Vậy cứ bình tình mà xét, thì chính trị của ngài tuy có nhiều điều hay, nhưng cũng có nhiều điều dở; ngài biết cương mà không biết nhu, ngài có uy quyền
150
Sách Histore de la Cochinchine Francaise của ông Cultru. mà ít độ lượng, ngài biết có dân có nước mà không biết thời thế tiến hóa. Bởi vậy cho nên nói rằng ngài là một ông anh quân thì khí quá, mà nói rằng ngài là ông bạo quân thì không công bằng. Dẫu thế nào mặc lòng, ngài là một ông vua thông minh, có quả cảm, hết lòng lo việc nước, tưởng về bản triều nhà Nguyễn chưa có ông vua nào làm được nhiều
công việc hơn ngài vậy.



Nguồn: http://www.vnthuquan.net