Chương 1
Thế Tổ (1802-1819)
Niên hiệu: Gia Long
26. Thế Tổ xưng đế hiệu
27. Việc triều chính
28. Binh chế
29. Việc tài
chánh
30. Công vụ
31. Pháp luật
32. Việc học hành
33. Việc giao thiệp với nước
Tàu
34. Việc giao thiệp với nước
Chân Lạp và nước Tiêm La
35. Việc giao thiệp với nước
Hồng Mao
36. Việc giao thiệp với nước
Pháp Lang Tây
37. Sự giết hại công
thần
38. Xét công
việc của vua Thái Tổ
1. Thế Tổ xưng
đế hiệu.
Thế tổ khởi binh chống nhau với Tây Sơn ở đất Gia Định từ năm mậu
tuất (1778), kể vừa 24 năm, mới dứt được nhà Tây Sơn, thu
phục được giang sơn cũ của chúa Nguyễn khi xưa và họp cả
nam bắc lại làm một mối. Khi việc đánh dẹp xong rồi,
ngài xưng đế hiệu, đặt quốc hiệu là Việt Nam, đóng
Kinh đô ở Phú Xuân, tức là thành Huế
bây giờ.
Khi vua Thế Tổ lấy được đất Bắc Hà rồi, ngài xuống chỉ
tha cho dân một vụ thuế, và thăng thưởng cho các
tướng sĩ. Ngài lại phong tước cho con 170 cháu nhà
Lê, nhà Trịnh, cấp cho ruộng đất và trừ phong dịch
cho dòng dõi hai họ ấy để giữ việc thờ phụng tổ
tiên.
Đoạn rồi, ngài đổi Bắc Hà là Bắc Thành, đặt
quan tổng trấn, triệu Nguyễn Văn Thành ở Quy Nhơn ra sung chức
ấy, để coi mọi việc. Lại đặt ra tam tào là tào Hộ,
tào Binh, tào Hình, sai Nguyễn Văn Khiêm,
Đặng Trần Thường, và Phạm Văn Đăng ra coi các tào
ấy, để giúp Nguyễn Văn Thành.
Đến tháng bảy năm nhâm tuất (1802), Thế Tổ về Kinh, đem
vua tôi nhà Tây Sơn về làm lễ hiến phù
ở đền Thái Miếu, rồi đem ra tận pháp trường xử trị. Lại
sai quật mả vua Thái Đức Nguyễn Nhạc và vua Thái
Tổ Nguyễn Huệ lên, đem vứt thây đi, còn đầu
thì đem bỏ giam ở trong ngục tối.
Những bọn văn thần nhà Tây Sơn như Ngô Thì
Nhiệm, Phan Huy Ích ra hàng, đem nọc ra đánh ở
trước văn miếu, rồi tha cho về. Lúc bấy giờ có Ngô
Thì Nhiệm vì trước có hiềm với Đặng Trần Thường,
cho nên đến khi đánh ở văn miếu, Đặng Trần Thường sai
người đánh chết.
Vua Thế Tổ định tội, thưởng công xong rồi, lo sửa sang mọi việc;
làm đền Cần Chính để lập thường triều, đền Thái
Hòa để lập đại triều; lại sai quân dân xây
thành Kinh Đô và Hoàng Thành
cùng các thành trì ở ngoài
các doanh trấn.
Tuy rằng ngài đã đặt niên hiệu, lên
ngôi từ năm nhâm tuất (1802), nhưng mà đến năm
giáp tí (1804), tức là Gia Long tam niên,
vua nhà Thanh mới sai sứ sang phong vương, và đến năm
bính dần (1806), ngài mới làm lễ xưng đế hiệu ở
đền Thái Hòa. Định triều nghi, cứ ngày rằm
và ngày mồng một thiết đại triều; ngày mồng 5,
mồng 10, 20 và 25 thì thiết tiểu triều.
Lúc ngài đánh xong Tây Sơn, thì
chính trị trong nước đổ nát, phong tục hủy hoại, việc
gì cũng cần sửa sang lại. Bởi vậy ở trong thì ngài
chỉnh đốn pháp luật, và mọi việc cai trị cùng
là sửa sang phong tục, cấm dân gian không cho lấy
việc thần phật mà bày ra rượu chè ăn uống,
nghiêm dụ quan lại không được sinh sự nhiễu dân. Ở
ngoài thì ngài lo sự giao hiếu với nước
Tàu, nước Tiêm, nước Chân Lạp, khiến cho nước Việt
Nam lúc bấy giờ trong ngoài đều được yên trị.
2. Việc Triều
Chính.
Ở trong cung, nhà vua không đặt ngôi hoàng
hậu, chỉ có ngôi hoàng phi và các
cung tần. Sau khi vua mất, thì tự quân lên
ngôi, mới tôn mẹ lên làm Hoàng
Thái Hậu.
Quan lại trong Triều đại khái theo chế độ nhà Lê,
nhưng bỏ chức Tham Tụng và Bồi Tụng tức là chức tể tướng
đời xưa. Mọi việc đều do Lục Bộ chủ trương hết cả. Mỗi bộ có
quan Thượng Thư làm đầu, quan tả hữu tham tri, tả hữu thị lang,
cùng các thuộc viên như là lang trung,
viên ngoại lang, chủ sự và bát cửu phẩm thơ lại,
v.v.....
Bộ Lại: coi việc thuyên bổ quan văn, ban thưởng phẩm cấp, khảo
xét công trạng, phong tặng tước ấm, thảo những tờ chiếu
sắc cáo mệnh và làm những sổ các
hàng quan lại v.v....
Bộ Hộ: coi việc đinh điền thuế má, tiền bạc chuyển thông,
kho tàng chứa chất, hóa vật đắt rẻ v.v...
Bộ Lễ: coi việc triều hộ, khánh hạ, tế tự, tôn phong,
cùng là cách thức học hành thi cử, tinh
biểu cho người sống lâu, người có tiết nghĩa, phong thụy
cho các thần nhân v.v.....
Bộ Binh: coi việc thuyên bổ võ chức, giảng duyệt
quân lính, sai khiến quân đi thú hoặc đi
đánh dẹp, kén chọn binh đinh, xét người có
công người có lỗi về việc binh.
Bộ Hình: coi việc hình danh pháp luật, tra nghĩ
dâng tấu, duyệt lại những tội nặng án ngờ, xét kỹ
những tù giam ngục cấm.
Bộ Công: coi việc làm cung điện, dinh thự, xây
thành, đào hào, tu tạo tàu bè, đặt
làm kiểu mẫu, thuê thợ thuyền, mua vật liệu v.v....
Ngoài lục bộ lại có Đô Sát Viện để giữ việc
can gián vua, và đàn hạch các quan. Cấp sự
trung các khoa và giám sát ngự sử
các đạo, đều thống thuộc về viện ấy. Trong viện có tả hữu
đô ngự sử và tả hữu phó đô ngự sử đứng đầu.
Bấy giờ vua Thế Tổ lại đặt ra Tào Chính để coi việc vận
tải cùng là thuế má tàu bè.
Có quan Tào Chính Sứ và Tào
Phó Sứ làm đầu.
Các địa phương thì lúc bấy giờ từ nam chí
bắc chia ra làm 23 trấn và 4 doanh. Từ Thanh Hóa
ngoại (tức là Ninh bình bây giờ) trở ra, gọi
là Bắc Thành, thống cả 11 trấn, chia ra làm 5 nội
trấn: Sơn Nam Thượng, Sơn Nam Hạ, Sơn Tây, Kinh Bắc, và
Hải Dương; 6 ngoại trấn: Tuyên Quang, Hưng Hóa, Cao Bằng,
Lạng Sơn, Thái Nguyên, Quảng Yên. Từ Bình
Thuận trở vào gọi là Gia Định Thành, thống cả 5
trấn: Phiên An (địa hạt Gia Định), Biên Hòa, Vĩnh
Thanh (tức là Vĩnh Long và An Giang), Vĩnh Tường
và Hà Tiên. 171
Còn ở quãng giữa nước, thì đặt Thanh Hóa
Trấn (gồm cả Thanh Hóa nội, Thanh Hóa ngoại), Nghệ An
trấn, Quảng Nghĩa trấn, Bình Định trấn, Phú Yên
trấn, Bình Hòa trấn (tức là Khánh
hòa) và Bình Thuận trấn. Đất kinh kỳ thống bốn
doanh là: Trực Lệ Quảng Đức doanh (tức là Thừa
Thiên bây giờ), Quảng Trị doanh, Quảng bình doanh,
Quảng Nam doanh.
Ở Bắc Thành và Gia Định Thành đều đặt chức tổng
trấn, và phó tổng trấn, để coi mọi việc. Ở các
trấn thì đặt quan lưu trấn hay là quan trấn thủ, quan cai
bạ và quan ký lục để coi việc cai trị trong trấn.
Trấn lại chia ra phủ, huyện, châu, đặt chức tri phủ, tri huyện,
tri châu để coi việc cai trị.
Những trấn ở Nghệ An, Thanh Hóa và 5 nội trấn ở Bắc
Thành, thì dùng những quan cựu thần nhà
Lê làm quan cai trị. Còn 6 ngoại trấn ở Bắc
Thành, thì giao quyền cai trị cho những thổ hào sở
tại.
3. Binh Chế.
Khi vua Thế Tổ đánh được Tây Sơn rồi, ngài ban
thưởng cho các tướng sĩ, tặng phong và làm đền thờ
những người tử trận. Còn những quân lính già
nua thì cho về quê quán. Đặt ra phép giản
binh: lệ định các trấn, tự Quảng Bình vào đến
Bình Thuận thì cứ ba tên đinh kén lấy một
tên lính; tự Biên Hòa trở vào
thì cứ 5 tên đinh kén lấy một tên
lính; tự Hà Tịnh trở ra đến 5 nội trấn ở Bắc Thành
thì cứ 7 tên đinh kén lấy một tên
lính. Còn 6 ngoại trấn là Tuyên Quang, Hưng
Hóa, Cao Bằng, Lạng Sơn, Thái Nguyên, Quảng
Yên thì cứ 10 tên đinh kén lấy một tên
lính.
Ở chỗ Kinh thành thì đặt ra thân binh, cấm binh,
tinh binh. Lính thân binh mỗi vệ có 500 người
và có 50 người tập quân nhạc. Ở các trấn
thì đặt ra lính cơ, lính mộ. Lại đặt biền binh ban
lệ, nghĩa là các binh lính chia ra làm 3
phiên, 2 phiên về quán, còn một phiên ở
tại ban luân lưu thay đổi cho nhau.
Những binh khí thì dùng gươm giáo,
mã tấu, và lại có súng lớn bằng đồng gọi
là súng đại bác, súng nhỏ gọi là
súng thạch cơ điểu thương, nghĩa là bắn thì mổ
bằng máy đá lửa. Ở chỗ kinh thành lập ra ba sở xạ
trường để quân lính tập bắn.
Ở các cửa bể đều làm đồn đặt súng để phòng
giữ và để xem xét những tàu bè ngoại quốc
đi lại.
Nước Việt Nam ta có nhiều bể cần phải giữ gìn, bởi vậy
vua Thế Tổ lưu tâm về việc chỉnh đốn binh thuyền: lấy người ở gần
bể về doanh Quảng Đức và doanh Quảng Nam làm 6 vệ thủy
quân đóng tại Kinh Thành. Còn ở các
hải khẩu, mỗi nơi có một cơ lính thủy coi giữ. Nhà
vua lại làm một thứ thuyền lớn ngoài bọc đồng, để đi lại
tuần phòng ở miền bể.
4. Việc
Tài Chính.
Thuế đinh, thuế điền đều định lại cả. Thuế điền thì chia ra
làm 3 hạng: nhất đẳng điền mỗi mẫu đồng niên nộp
thóc 20 thăng; nhị đẳng điền 15 thăng; tam đẳng điền 10 thăng.
Còn thứ ruộng mùa đồng niên phải nộp 10 thăng.
Thuế đinh thì lệ định: từ Nghệ An ra đến nội ngoại Thanh
Hóa, mỗi suất đồng niên phải chịu:
Thuế thân 1 quan 2 tiền
Mân tiền 1 tiền
Cước mễ 2 bát
5 nội trấn Bắc Thành và phủ Phụng Thiên 139 , mỗi
suất đinh đồng niên phải chịu:
Thuế thân 1 quan 2 tiền
Mân tiền 1 tiền
Điệu tiền (tạp dịch) 6 tiền
Cước mễ 2 bát
6 ngoại trấn Bắc Thành, mỗi suất đinh đồng niên phải chịu:
Thuế thân 6 tiền
Mân tiền 1 tiền
Điệu tiền 3 tiền
Cước mễ 1 bát
Lệ giảm thuế: Thuế lệ tuy định như vậy, nhưng năm nào ở
đâu mất mùa, như là bị hoàng trùng,
đại hạn hay là nước lụt, v.v... thì nhà nước chiếu
theo sự thiệt hại nhiều ít mà giảm thuế cho dân.
Lúa 10 phần thiệt hại tới 4 phần thì khoan giảm cho hai
phần thuết; thiệt hại 5 phần thì giảm cho 3; thiệt hại 6 phần
thì giảm cho 4; thiệt hại 7 phần thì giảm cho 5; thiệt
hại 8 phần thì giảm cho 6; thiệt hại 9 phần thì giảm cho
7; thiệt hại hết cả thì giảm cả. Hoặc nhà nước có
lấy dân đinh đi làm đường, đào sông,
xây thành v.v... thì cũng được giảm thuế.
139
Tức là phủ Hoài Đức bây giờ. 172
Vụ thuế: Nhà vua lại tùy từng địa phương mà định
vụ thuế. Từ Quảng Bình đến Bình Thuận cứ mỗi năm một vụ
thu thuế, khởi đầu từ tháng 4 đến tháng 7 thì hết.
Từ Nghệ An ra đến Thanh Hóa ngoại, cùng các trấn ở
Bắc thành mỗI năm thu thuế 2 vụ: mùa hạ thì khởi
tự tháng 4 đến tháng 6 thì hết; mùa
đông thì khởi sự tự tháng 10 đến tháng 11
thì hết.
Đinh bạ: Lệ định 5 năm một lần làm sổ đinh, trong làng từ
chức sắc cho đến quân dân, đều phải vào sổ. Kể từ 18
tuổi trở lên, 59 tuổi trở xuống, đều phải khai vào sổ.
Điền bạ: Các làng, hoặc ruộng mùa, hoặc ruộng
chiêm, hoặc ruộng hai mùa, hoặc có đất hạng
nào, bao nhiêu mẫu, sào, thước, tấc, tọa lạc tại
đâu, đông tây tứ chí phải chua cho rõ
ràng. Mỗi làng phải làm 3 quyển sổ, cứ 5 năm
làm một lần đệ vào bộ đóng dấu kiềm, rồi một bản
lưu lại bộ, để phòng khi xét đến; còn hai bản giao
về tỉnh, tỉnh để một bản lưu chiểu, còn một bản gia trả
dân xã lưu thủ.
Cấm bán ruộng công điền: Từ khi nhà Lê mất
ngôi, dân xã có nơi thì đem công
điền đổi ra tư điền, có nơi thì đem cố bán đi, bởi
vậy năm Gia Long thứ hai (1803) nhà vua lập lệ cấm dân
xã không được mua bán công điền công
thổ, chỉ trừ lúc nào xã thôn có
công dụng điều gì, thì mới được phép cho
điển cố, hạn hết 3 năm lại phải trả lại. Ai giữ quán hạn ấy
thì phải tội.
Thuế các sản vật: Năm Gia Long thứ hai (1803), định lệ
các quế hộ ở Nghệ An, đồng niên phải nộp các hạng
quế 120 cân. Ở Thanh Hóa phải nộp 70 cân, và
đều được miễn trừ thuế thân cả. Những người tìm được
cây quế, phải trình quan để cấp cho văn bằng mới được đẵn.
Đẵn xong rồi một nửa nộp quan, một nửa cho người tìm được.
Năm Gia long thứ tư (1805), định lệ những người đi lấy yến sào ở
các đảo về hạt Quảng Nam, mỗi người đồng niên phải nộp
thuế yến 8 lạng, và được tha việc binh lính.
Còn những thuế hương, thuế sâm, thuế chiếu, thuế gỗ, đều
có lệ riêng, định cho nộp bằng tiền hay là bằng sản
vật.
Vua Thế Tổ lại định lệ đánh thuế những thuyền các nước
vào buôn bán, cứ do thuyền lớn nhỏ mà định
số thuế phải nộp.
Những mỏ đồng, mỏ thiếc, mỏ kẽm, cũng cho người Tàu khai để
đánh thuế.
Đúc tiền: Năm Gia Long thứ hai (1803), mở sở đúc tiền ở
Bắc Thành, để đúc tiền đồng và tiền kẽm; lại
đúc ra nén vàng, nén bạc, lượng
vàng, lượng bạc, để cho tiện sự giao thông buôn
bán trong nước.
Mỗi đồng tiền kẽm nặng 7 phân, một mặt in chữ "Gia Long
Thông Bảo", một mặt in chữ "thất phân", mỗi quan tiền nặng
2 cân 10 lạng.
Giá vàng ở Bắc Thành thì định cứ một lượng
vàng đổi lấy 10 lượng bạc.
Về sau mở thêm lò đúc tiền ở Gia Định Thành
và ở các trấn.
Thước đo: Vua Thế Tổ chế tạo ra kiểu thước đồng đo ruộng, một mặt khắc
7 chữ "Gia Long cửu niên thu bát nguyệt", một mặt
khác 10 chữ "ban hành đạc điền xích, công bộ
đường kính tạo". Chuẩn định lại các thước vuông đo
ruộng khi trước, chế tạo ra thước đồng, một mặt khắc 7 chữ "Gia Long
Cửu Niên Thu Bát Nguyệt", một mặt khắc 12 chữ "ban
hành đạc điền cựu kinh xích, công bộ đường
khâm tạo".
Phép cân: Năm Gia Long thứ 12 (1813), chế tạo ra cân
thiên bình, cấp cho các doanh các trấn, để
cân đồng, sắt, chì, thiếc và các sản vật.
Còn vàng và bạc thì dùng cân
trung bình.
5. Công
Vụ.
Vua Thế Tổ lại sửa sang những đường sá, xoi đào
các sông ngòi, đắp các đê điều, để cho
việc làm ăn của dân gian được tiện lợi.
Đường Quan Lộ: Đường sá trong nưóc là sự khẩn yếu
cho việc chính trị, vậy nên vua Thế Tổ mới định lệ sai
quan ở các doanh, các trấn phải sửa sang đường quan lộ:
bắt dân sở tại phải đắp đường làm cầu, lệ cứ 15.000 trượng
đường thì phát cho dân 10.000 phương gạo.
Lại từ cửa Nam quan (thuộc Lạng Sơn) vào đến Bình Thuận,
cứ độ 4.000 trượng phải làm một cái nhà trạm ở
cạnh đường quan lộ, để cho quan khách đi lại nghỉ ngơi. Cả thảy
98 trạm.
Còn từ Bình Thuận trở vào phía nam đến
Hà Tiên thì đi đường thủy.
Sông ngòi và đê điều: Những sông
ngòi và đê điều, đều là sự khẩn yếu cho việc
canh nông, bởi vậy vua Thế Tổ truyền cho quan ở các trấn
phải xoi đào sông ngòi và các cửa bể,
và nhất là ở Bắc thành phải giữ gìn
đê điều cho cẩn thận: chỗ nào không có
thì đắp thêm, chỗ nào hư hỏng thì phải sửa
173 lại. Ở các trấn lại đặt ra kho chứa thóc gạo, để
phòng khi mất mùa đói kém thì lấy
mà phát cho dân.
6. Pháp
Luật.
Nguyên khi trước vẫn theo luật nhà Lê, nhưng nay
nhà Nguyễn đã nhất thống cả nam bắc, vua Thế Tổ
bèn truyền cho đình thần lập ra pháp luật
rõ ràng, để cho tiện sự cai trị. Năm tân mùi
(1811) sai Nguyễn Văn Thành làm tổng tài, coi việc
soạn ra sách luật; lấy luật cũ của đời Hồng Đức nhà
Lê, mà tham chước với luật nhà Thanh làm
thành một bộ, cả thảy 22 quyển, có 398 điều.
Đến năm ất hợi (1815), thì in sách luật ấy phát ra
mọi nơi. Bộ luật ấy tuy nói theo luật Hồng Đức nhưng kỳ thực
là chép luật của nhà Thanh và chỉ thay đổi
ít nhiều mà thôi.
7. Việc Học Hành.
Thời bấy giờ nhờ có võ công mới dựng nên cơ
nghiệp, cho nên lúc ấy các quan đầu triều là
quan ngũ quân đô thống, và quan tổng trấn Nam Bắc
hai thành đều là quan võ cả. Nhưng vua Thế Tổ cũng
biết rằng sự trị nước cần phải có võ có văn, bởi
vậy đêm ngày ngày lưu ý về việc học
hành thi cử trong nước.
Ngài lập nhà Văn Miếu ở các doanh các trấn,
thờ đức Khổng tử, để tỏ lòng trọng Nho học. Đặt Quốc Tử
Giám ở Kinh đô, để dạy con các quan và
các sĩ tử. Mở khoa thi Hương để kén lấy những người
có học hành ra là quan.
Đặt thêm chức đốc học ở các trấn, và dùng
những người có khoa mục ở đời nhà Lê, để coi việc
dạy dỗ.
Vua Thế Tổ lo cả đến địa dư và quốc sử, bởi vậy ngày sai
quan Binh Bộ Thượng Thư là Lê Quang Định kê cứu ở
trong các trấn các doanh, tự Lạng Sơn đến Hà
Tiên, xem sơn xuyên hiểm trở, đưòng sá xa
gần, sông bể, cầu quán, chợ búa, phong tục, thổ
sản, có những gì làm thành sách
"Nhất Thống Địa Dư Chí" để dâng lên. Đến năm
bính dần (1806), bộ sách ấy làm xong cả thảy được
10 quyển.
Năm tân mùi (1811), ngài sai quan tìm những
sách dã sử nói chuyện nhà Lê
và nhà Nguyễn Tây Sơn để sửa lại quốc sử.
Thời bấy giờ văn quốc âm cũng thịnh lắm. Một đôi khi
nhà vua cũng dùng chữ nôm mà làm văn
tế. Bài văn tế tướng sĩ khi quan Tiền quân Nguyễn Văn
Thành, tổng trấn Bắc Thành ra chủ tế không
rõ ai làm, nhưng thật là một bài văn chương
đại bút. Lại có những chuyện như "Hoa Tiên" của
ông Nguyễn Huy Tự, "Truyện Thúy Kiều" của quan Hữu Tham
tri bộ Lễ là ông Nguyễn Du 140 , cũng phát hiện ra
thời bấy giờ.
"Truyện Thúy Kiều" là một tập văn chương rất hay, diễn
được đủ cả nhân tình thế cố, tả được cả mọi cảnh trong
đời, mà chỗ nào văn chương cũng tao nhã, lời lẽ
cũng lý thú. Nói theo tiếng đời nay thì
"Truyện Thúy Kiều" thật là một tập văn chương đại trước
tác của nước ta vậy.
8. Việc Giao
Thiệp Với Nước Tàu.
Khi vua Thế Tổ dứt được nhà Nguyễn Tây Sơn và lấy
được đất Bắc Hà rồi, sai quan thượng thư Binh Bộ là
Lê Quang Định làm chánh sứ sang Tàu cầu
phong và xin đổi quốc hiệu là Nam Việt, lấy lẽ rằng Nam
là An Nam và Việt là Việt Thường. Nhưng vì
đất Nam Việt đời nhà Triệu ngày trước gồm cả đất Lưỡng
Quảng, cho nên Thanh Triều mới đổi chữ Việt lên trên,
gọi là Việt Nam để cho khỏi lầm với tên cũ.
Đến năm giáp tí (1804) Thanh Triều sai quan án
sát sứ tỉnh Quảng Tây là Tề Bố Sâm sang
tuyên phong. Đoạn rồi, vua sai Lê Bá Phẩm làm
chánh sứ đem đồ cống sang tạ và từ đó cứ chiếu lệ
ba năm một lần sang cống.
Đồ cống phẩm là:
Vàng
200 lượng
Bạc
1000 lượng
Lụa và cấp mỗi thứ 100 cây
Sừng tê giác
2 bộ
Ngà voi và quế mỗi thứ 100 cân
9. Việc giao
thiệp với nước Chân Lạp và nước Tiêm La.
Nguyên lúc còn Lê Triều thì
chúa Nguyễn vẫn giữ quyền bảo hộ nước Chân Lạp. Sau vua
nước ấy là Nặc Ông Tôn 141
bị anh em hiếp chế, phải chia quyền ra làm ba, để cho Nặc
Ông Vinh làm vua đầu, mình làm vua thứ hai,
em là Nặc Ông Thâm làm vua thứ ba. Được
ít lâu Nặc Ông Vinh giết cả Nặc Ông Tôn
và Nặc Ông Thâm giữ lấy quyền làm vua một
mình.
Lúc bấy giờ Nguyễn Vương còn ở Gia Định mới sai Đỗ Thanh
Nhân sang đánh Nặc Ông Vinh và lập con Nặc
Ông Tôn là Nặc Ông Ấn lên làm
vua. Nặc Ông Ấn bấy giờ mới có 8 tuổi. Nguyễn Vương sai Hồ
Văn Lân ở lại
140
Ông Nguyễn Du người làng Tiên Điền, huyện Nghi
Xuân, tỉnh Hà Tĩnh 141
Xem ở chương VI 174 bảo hộ. Nhưng đến khi đất Gia Định thất thủ quyền
bảo hộ nước Chân Lạp thuộc về nước Tiêm La.
Năm bính thìn (1796), Nặc Ông Ấn mất, truyền
nôi lại cho con là Nặc Ông Chân. Vua
Tiêm La sai sứ sang phong, như thế là vua Chân Lạp
phải thần phục vua Tiêm La.
Đến năm đinh mão (1807) Nặc Ông Chân lại bỏ
Tiêm La mà xin về thần phục vua Việt Nam ta, theo lệ cống
tiến, cứ ba năm một lần.
Đồ cống vật là:
Voi đực cao 5 thước 2 con
Sừng tê giác
2 chiếc
Ngà voi
2 cái
Hột sa nhân
50 cân
Đậu khấu 50 cân
Hoàng lạp 50 cân
Cánh kiến 50 cân
Sơn đen 20 lọ
Nặc Ông Chân có ba người em tên là Nặc
Ông Nguyên, Nặc Ông Lem, Nặc Ông Đôn,
muốn tranh quyền của anh, mới sang cầu cứu nước Tiêm La.
Tiêm La bắt Nặc Ông Chân phải chia đất cho các
em. Nặc Ông Chân không chịu, quân Tiêm La
bèn sang đánh thành La Bích. Nặc Ông
Chân chạy sang Tân Châu, rồi dâng biểu cầu cứu.
Quan tổng trấn Gia Định thành bấy giờ là Nguyễn Văn
Nhân mới đem việc ấy tâu về Triều đình.
Năm tân mùi (1811), vua Thế Tổ cho sứ đưa thư sang
trách nước Tiêm La sinh sự. Năm sau, vua Tiêm La sai
sứ sang phúc thư lại rằng: việc ấy là muốn giảng
hòa cho anh em Nặc Ông Chân, chứ không
có ý gì cả. Vậy xin để Việt Nam xử trí thế
nào, Tiêm La 142
cũng xin thuận.
Qua năm quý dậu (1813) vua Thế Tổ sai quan tổng trấn Gia Định
Thành là Lê Văn Duyệt đem hơn 10.000 quân,
hội đồng với sứ nước Tiêm La, đưa Nặc Ông Chân về
nước.
Nước Tiêm La tuy không dám kháng cự, nhưng
vẫn lưu quân ở lại giữ tỉnh Bắc tầm bon (Battambang), nói
rằng để đất ấy phong cho các em Nặc Ông Chân.
Lê Văn Duyệt mới viết thư sang trách nước Tiêm La về
điều ấy, quân Tiêm mới rút về.
142
Tức là Thái Lan ngày nay
Lê Văn Duyệt dâng sớ xin xây thành Nam Vang
(Phnompenh) và thành La-lêm. Khi những thành
ấy xây xong, thì vua Thế Tổ sai Nguyễn Văn Thụy đem 1.000
quân ở lại bảo hộ nước Chân Lạp. Từ đó quyền bảo hộ
Chân Lạp lại về nước ta.
10. Việc giao
thiệp với nước Hồng Mao.
Năm quý hợi (1803), nước Hồng Mao (tức là Anh Cát
Lợi) sai sứ là ông Robert đem đồ phương vật sang dân
và xin cho vào mở cửa hàng buôn bán ở
Trà Sơn, thuộc Quảng Nam. Vua Thế Tổ không nhận đồ,
và cũng không cho mở cửa hàng. Sau người Hồng Mao
còn đưa thư sang hai ba lần nữa, nhưng ngày vẫn một niềm
từ chối không chịu.
11. Việc giao
thiệp với nước Pháp Lan Tây.
Đối với nước Pháp thì vua Thế Tổ có biệt nhỡn hơn,
là vì khi ngài còn gian truân,
ngài có nhờ ông Bá Đa Lộc có đem mấy
người sang giúp ngày. Đến khi xong việc đánh dẹp
rồi, còn có Chaigneau, Vannier và Despiau
làm quan tại triều, mà vua Thế Tổ cũng có
lòng trọng đãi, cho mỗi người 50 lính hầu,
và đến buổi chầu thì không bắt lạy.
Vả trong khi vua Thế Tổ làm vua ở nước Việt Nam, thì
Nã Phá Luân đệ nhất (Napoleon I) làm vua
bên nước Pháp, đang còn phải đánh nhau với
các nước, cho nên tàu Pháp cũng không
hay đi lại ở phía Viễn Đông này. Đến khi Nã
Phá Luân thất thế, dòng dõi nhà vua
cũ lại trung hưng lên, bấy giờ sự chiến tranh đã
yên, thì mới có tàu sang buôn
bán ở phương Á đông. Năm đinh sửu (1817), có
chiếc tàu "La Paix" của hiệu Balguerie, Sarget et Cie chở đồ
hàng sang bán, nhưng mà những đồ hàng ấy,
người Việt Nam ta không dùng được, lại phải chở về. Vua
Thế Tổ tha không đánh thuế. Qua tháng sáu
năm ấy, chiếc tàu binh tên là Cybèle của
nước Pháp vào cử Đà Nẵng. Quan thuyền trưởng
là De Kergarion bá tước nói rằng Pháp
Hoàng Louis XVIII sai sang xin thi hành những điều ước do
Bá Đa Lộc ký năm 1787 về việc nhường cửa Đà Nẵng
và đảo Côn Lôn. Vua Thế Tổ sai quan ra trả lời rằng
những điều ước ấy nước Pháp trước đã không thi
hành thì nay bỏ, không nói đến nữa.
Năm kỷ mão (1819), có chiếc tàu buôn ba cột
tên là "Rose" và "Le Henri" vào cửa
Đà Nẵng. Lần này hàng hóa đem sang
bán được, lại chở chè và lụa về. Năm ấy Chaigneau
xin nghỉ ba năm, đem vợ con xuống tàu "Le Henri" về Pháp.
175
12. Sự giết hại
công thần.
Những người công thần như Nguyễn Văn Thành và Đặng
Trần Thường đều bị giết hại trong khi vua Thế Tổ còn đang trị
vì.
Nguyễn Văn Thành, nguyên là người ở Thừa
Thiên, nhưng vào ở Gia Định đã hai ba đời. Theo vua
Thế Tổ từ khi ngài mới khởi binh đánh Tây Sơn, chịu
hết mọi đường khổ sở. Sau ra đánh Tây Sơn ở Quy Nhơn, lập
được công lớn, đứng đầu hàng công thần.
Khi vua Thế Tổ ra lấy bắc hà, triệu ông ra làm tổng
trấn, giao cho xếp đặt mọi việc, chỉ có mấy năm mà đất
Bắc Hà được yên trị. Sau về Kinh làm chức trung
quân.
Ông có học thức, cho nên triều đình cử
làm tổng tài việc làm sách luật và
quốc sử.
Nguyễn Văn Thành có người con tên là Nguyễn
Văn Thuyên thi đậu cử nhân, thường hay làm thơ để
giao du với những kẻ văn sĩ. Bấy giờ nghe người ở Thanh Hóa
là Nguyễn Văn Khuê và Nguyễn Đức Nhuận có
tiếng hay chữ, Văn Thuyên làm bài thơ sai tên
Nguyễn Trương Hiệu cầm đi mời vào chơi.
Bài thơ rằng:
Văn đạo Ái châu đa tuấn kiệt
Hư hoài trắc tịch dục cầu ty
Vô tâm cửu bảo Kinh sơn phác
Thiện tường phương tri Ký bắc kỳ
U cốc hữu hương thiên lý viễn
Cao cương minh phượng cửu thiên tri
Thư hồi nhược đắc sơn trung tể
Tá ngã kinh luân chuyển hóa ky
Dịch nôm là:
Ái châu nghe nói lắm người hay
Ao ước cầu hiền đã bấy nay
Ngọc phác Kinh sơn tài sẵn đó
Ngựa kỳ Ký bắc biết lâu thay
Mùi hương hang tối xa nghìn dặm,
Tiếng phượng gò cao suốt chín mây
Sơn tể phen này dù gặp gỡ
Giúp nhau xoay đổi hội cơ này
Tưởng bài thơ này chẳng qua là lời lẽ của người
thiếu niên nói ngông mà thôi,
không ngờ tên Hiệu đưa cho Nguyễn Hữu Nghi xem, Hữu Nghi
xui tên Hiệu đi cáo với Lê Văn Duyệt. Lê Văn
Duyệt vốn ghét Nguyễn Văn Thành, nay thấy bài thơ
này, nắm lấy đem vào tâu vua, vua sai bắt Nguyễn
Văn Thuyên đem bỏ ngục. Bấy giờ triều thần có nhiều người
bẻ tội ông Thành. Một hôm bãi triều rồi,
ông Thành chạy theo nắm lấy áo vua mà
kêu khóc rằng: "Thần theo Bệ Hạ từ thủa nhỏ đến bây
giờ, nay không có tội gì mà bị người ta cấu
xé, Bệ Hạ nỡ lòng nào ngồi nhìn để người ta
giết thần mà không cứu?". Vua Thế Tổ giật áo ra đi
vào cung, rồi từ đó cấm không co ông
Thành vào chầu nữa, và sai Lê Văn Duyệt đem
con Nguyễn Văn Thành ra tra hỏi, bắt phải nhận tội. Nguyễn Văn
Thành sợ tội, uống thuốc độc mà chết, còn Nguyễn
Thuyên thì phải chém.
Đặng Trần Thường người ở Chương Đức (tức là huyện Chương Mỹ,
tỉnh Hà Đông bây giờ) có tài văn học,
trốn Tây Sơn vào Gia Định theo giúp vua Thế Tổ
làm đến Binh Bộ Thượng Thư. Sau vì làm gian sắc
phong thần cho Hoàng Ngũ Phúc là tướng nhà
Trịnh vào bậc phúc thần, triều đình làm
án phải tội chém. Nhưng rồi lại được tha. Đặng Trần
Thường vốn có hiềm với Lê Chất, cho nên Lê
Chất mới bới những việc như là khi ra coi tào binh ở Bắc
Thành, có chiếm giữ đầm ao và ẩn lậu đinh điền,
v.v.... Lại bị bắt bỏ ngục và xử phải tội giảo.
Tương truyền rằng Đặng Trần Thường ở trong ngục có làm
bài "Hàn Vương Tôn Phú" bằng quốc âm
để ví mình như Hàn Tín đời Hán.
13. Xét công việc của vua Thế Tổ.
Vua Thể tổ là ông vua có tài trí, rất
khôn ngoan, trong 25 năm trời, chống nhau với Tây Sơn, trải
bao nhiêu lần hoạn nạn, thế mà không bao giờ
ngã lòng, cứ một niềm lo sợ khôi phục. Ngài
lại có cái đức tính rất tốt của những kẻ lập
nghiệp lớn, là cái đức tính biết chọn người
mà dùng, khiến cho những kẻ hào kiệt ai cũng nức
lòng mà theo giúp. Bởi vậy cho nên
không những là ngài khôi phục được nghiệp cũ,
mà lại thống nhất được sơn hà, và sửa sang được
mọi việc, làm cho nước ta lúc bấy giờ thành một
nước cường đại, từ xưa đến nay, chưa bao giờ từng thấy.
Công nghiệp của ngài thì to thật, tài
trí của ngài thì cao thật, nhưng chỉ hiềm
có một điều là khi công việc xong rồi, ngài
không bảo toàn cho những công thần, mà lại
lấy những chuyện nhỏ nhặt đem giết hại những người có công
với ngài, khiến cho hậu thế ai xem đến những chuyện ấy, cũng nhớ
đến vua Hán Cao, và lại thở dài mà thương
tiếc cho những người ham mê hai chữ công danh về đời
áp chế ngày xưa.
Vua Thế Tổ mất năm kỷ mão (1819), trị vì được 18 năm, thọ
59 tuổi, miếu hiệu là Thế Tổ Cao Hoàng Đế. 176
Nguồn: http://www.vnthuquan.net