|
Việt
Nam Văn Hiến
Năm
Thứ 4888
www.vietnamvanhien.org
www.vietnamvanhien.net
Việt Nam Sử Lược
Trần
Trọng Kim
Phần III : Tự Chủ Thời-Đại (Thời Kỳ Thống
Nhất)
Chương 1
NHÀ
NGÔ
(939-965)
1. Tiền
Ngô-Vương
2. Dương Tam Kha
3. Hậu Ngô-Vương
4. Thập-Nhị Sứ-Quân
1. TIỀN NGÔ VƯƠNG (939-965)
Năm kỹ-hợi (939) Ngô Quyền
xưng vương, đóng đô ở Cổ Loa (thuộc huyện Đông-anh,
tỉnh Phúc-yên). Ngô-vương đặt quan chức, chế
triều-nghi, định phục-sắc và chỉnh đốn việc chính-trị
trong nước, chí muốn dựng nghiệp lâu dài, nhưng chỉ
làm vua được có 6 năm, đến năm Giáp Thìn
(944) thì mất, thọ 47 tuổi.
2. DƯƠNG TAM KHA (945-950).
Ngô-vương trước lấy con
Dương diên Nghệ là Dương-thị lập làm vương-hậu; đến
lúc mất, vương uỷ- thác con là Ngô xương
Ngập cho Dương tam Kha là em Dương-hậu. Dương tam Kha bèn
cướp lấy quyền của cháu, tự xưng là Bình-vương.
Ngô xương Ngập thấy biến, chạy trốn sang Nam-sách (thuộc
Hải- dương) vào ẩn ở nhà Phạm Lịnh-công ở
Trà-hương (huyện Kim-thành). Tam Kha sai quân đi
đuổi bắt. Phạm Lịnh-công đem vào dấu trong núi.
Dương tam Kha bắt em Ngô xương Ngập là Ngô vương Văn
nuôi làm con nuôi.
Năm Canh-Tuất (905) có dân ở tại thôn
Thái-bình (thuộc Sơn-tây) làm loạn. Dương
tam Kha sai Ngô xương Văn cùng với tướng là Dương
cát Lợi và Đỗ cảnh Thạc đem quân đi đánh. Đi
đến Từ-liêm, Ngô xương Văn mưu với hai tướng đem quân
trở về bắt Dương tam Kha.
Ngô xương Văn nghĩ tình cậu cháu không nỡ
giết, chỉ giáng xuống làm Trương Dương-công.
3. HẬU NGÔ VƯƠNG (950-965)
Ngô vương Văn bỏ Dương tam Kha đi rồi, xưng là
Nam-tấn-vương và sai người đi đến làng Trà-hương
rước anh là Ngô xương Ngập về cùng coi việc nước.
Ngô xương Ngập về xưng là Thiên-sách-vương.
Cả hai anh em làm vua, sử gọi là Hậu Ngô-vương.
Làm vua được ít lâu, Thiên-sách vương
đã toan giữ lấy quyền một mình, nhưng đến năm
giáp-dần (965) thì mất.
Thế lực nhà Ngô lúc bấy giờ mỗi ngày một
kém, giặc-giã nổi lên khắp cả mọi nơi. Nam
tấn-vương phải thân chinh đi đánh dẹp. Khi đi đánh
giặc ở hai thôn Thái-bình, không may bị
tên bắn chết. Bấy giờ là năm Ất-Sửu (965), Nam-tấn-vương
làm vua được 15 năm.
4. THẬP NHỊ SỨ QUÂN (945-967)
Từ khi Dương tam Kha tiếm-vị rồi, những người thổ-hào ở
các nơi như bọn Trần Lãm, Kiểu công Hãn
v.v... đều xướng lên độc lập, xưng là Sứ-quân. Về
sau Nam-tấn-vương đã khôi phục được nghiệp cũ, nhưng
mà các sứ-quân vẫn không chịu về thần-phục.
Bởi vậy nhà vua cứ phải đi đánh dẹp mãi, mà
không yên được. Đến khi Nam-tấn-vương bị giặc bắn chết,
thì con Thiên-sách-vương là Ngô xương
Xí lên nối nghiệp, nhưng thế nhà vua lúc ấy
suy-nhược lắm, không ai phục-tùng nữa. Ngô xương
Xí về đóng giữ đất Bình-kiều. Tướng nhà
Ngô là Đỗ cảnh-Thạc cũng giữ một chỗ xưng là
Sứ-quân.
Lúc bấy giờ trong nước có cả thảy 12 Sứ-quân,
gây ra cảnh nội loạn kéo dài đến hơn 20 năm. Mười
hai Sứ-quân là :
1. Ngô xương Xí
giữ Bình-kiều (nay là làng Bình-kiều, phủ
Khoái-châu, Hưng-yên).
2. Đỗ cảnh Thạc giữ Đỗ-động -giang (thuộc huyện Thanh-oai).
3. Trần Lãm, xưng là Trần Minh-công giữ Bố-hải-khẩu
(Kỳ-bố, tỉnh Thái-bình).
4. Kiểu công Hãn, xưng là Kiểu Tam-chế giữ
Phong-châu (huyện Bạch-hạc).
5. Nguyễn Khoan, xưng là Nguyễn Thái-bình giữ
Tam-đái (phủ Vĩnh Tường).
6. Ngô nhật Khánh, xưng là Ngô
Lãm-công giữ Đường-lâm (Phúc-thọ,
Sơn-tây).
7. Lý Khuê, xưng là Lý Lang-công giữ
Siêu-loại (Thuận-thành).
8. Nguyễn thủ Tiệp, xưng là Nguyễn Lịnh-công giữ
Tiên-du (Bắc-ninh).
9. Lữ Đường, xưng là Lữ Tá-công giữ Tế-giang
(Văn-giang, Bắc-ninh).
10. Nguyễn Siêu, xưng là Nguyễn Hữu-công giữ
Tây-phù-liệt (Thanh-trì, Hà-đông).
11. Kiểu Thuận, xưng là Kiểu Lịnh-công giữ Hồi-hồ
(Cẩm-khê, Sơn-tây).
12. Phạm bạch Hổ, xưng là Phạm Phòng át giữ
Đằng-châu (Hưng-yên).
Những Sứ-quân ấy cứ đánh lẫn nhau, làm cho
dân-gian khổ-sở. Sau nhờ có ông Đinh bộ Lĩnh ở
Hoa-lư đem quân đi đánh, mới dẹp xong cái loạn
sứ-quân, đem giang-sơn lại làm một mối,và lập
nên cơ nghiệp nhà Đinh vậy.
Chương
2
NHÀ ĐINH
(968-980)
1.
Đinh Tiên-hoàng
2. Đinh Phế-đế
1. ĐINH TIÊN-HOÀNG (968-979)
Đinh bộ Lĩnh (25) là người ở
Hoa-lư động (huyện Gia-viễn, tỉnh Ninh-bình), con ông Đinh
công Trứ làm thứ-sử ở Hoan-châu về đời Dương
diên Nghệ và đời Ngô-vương Quyền. Đinh công
Trứ mất sớm, Bộ Lĩnh theo mẹ về quê ở, thường đi chơi với trẽ
chăn trâu-bò, bắt chúng khoanh tay làm kiệu
để nghồi cho chúng rước, và lại lấy bông lau
làm cờ bày trận đánh nhau. Trẽ xứ ấy đứa
nào cũng sợ, tôn lên làm anh. Đến lúc
khôn-lớn lên, dân làng ở đấy theo phục rất
nhiều, nhưng sau vì không hòa với chú, cho
nên Bộ Lĩnh cùng với con là Liễn sang ở với
Sứ-quân Trần Minh-công ở Bố-hải khẩu (Phủ Kiến-xương,
Thái-bình).
Trần Minh-công thấy người khôi-ngô có
chí-khí, đem lòng yêu mến, cho được giữ
binh-quyền. Đến khi Trần Minh-công mất, Đinh bộ Lĩnh đem
quân về giữ Hoa-lư, chiêu mộ những người hào-kiệt,
hùng cứ một phương. Năm tân-hợi (951) đời Hậu
Ngô-vương, Nam Tấn-vương và Thiên-sách- vương
đã đem quân vào đánh không được. Đến
khi nhà Ngô mất rồi, Đinh bộ Lĩnh hàng được
Sứ-quân Phạm Phòng-át, phá được Đỗ-dộng của
Đỗ cảnh Thạc. Từ đó đánh đâu được đấy, cho
nên chúng tôn là Vạn-thắng-vương. Chỉ trong
một năm mà vương binh được các Sứ-quân và
lập thành nghiệp đế.
Năm mậu-thìn (968) Vạn-thắng-vương lên ngôi
Hoàng-đế, tức là Tiên-hoàng-đế, đặt
quốc-hiệu là Đại-cồ-việt, đóng đô ở Hoa-lự
Tiên-hoàng xây cung-điện, chế triều-nghi, định
phẩm-hàm quan văn quan võ, phong cho Nguyễn Bặc
làm Định quốc công, Lê Hoàn làm
Thập-đạo tướng-quân, và phong cho con là Đinh Liễn
làm Nam-việt-vương.
Năm canh-ngọ (970) Tiên-hoàng đặt niên-hiệu
là Thái-bình nguyên-niên, và
đặt năm ngôi Hoàng-hậu.
Trong khi vua Đinh Tiên-hoàng dẹp loạn Sứ-quân ở
nước ta, thì ở bên Tàu ông Triệu khuông
Dẫn nối nghiệp nhà Hậu-Chu tức là vua Thái-tổ
nhà Tống. Đến năm canh-ngọ (970) vua Thái-tổ nhà
Tống sai tướng là Phan Mỹ sang đánh lấy Nam-Hán.
Vua Tiên-hoàng sợ quân nhà Tống sang
đánh, bèn sai sứ sang thông hiếu với Tống-triều.
Năm nhâm-thân (972) Tiên-hoàng lại sai
Nam-việt-vương là Liễn đem đồ phương vật sang cống nhà
Tống. Vua nhà Tống sai sứ sang phong cho Tiên-hoàng
làm Giao-chỉ quận vương và phong cho Nam-việt-vương Liễn
làm Tĩnh-hải-quân Tiết-độ-sứ, An-nam đô-hộ. Từ
đó nước ta cứ giữ lệ sang triều cống nước Tàu.
Việc chính trị trong nước thì lúc bấy giờ
còn có nhiều người quen thói lúc loạn,
không chịu tuân theo luật-lệ. Tiên-hoàng phải
dùng oai để trừng-trị những bọn gian-ác: đặt vạc dầu ở
trước điện, nuôi hổ báo ở trong vườn, rồi hạ lệnh rằng hễ
ai phạm tội thì bỏ vạc dầu hay là cho hổ báo ăn.
Hình-luật uy-nghiêm như thế, thì cũng quá
lắm, nhưng nhờ có những hình-luật ấy thì dân
trong nước mới dần dần được yên.
Việc binh-lính thì Tiên-hoàng phân ra
đạo, quân, lữ, tốt, ngũ. Mỗi một đạo có 10 quân; 1
quân 10 lữ; 1 lữ 10 tốt; 1 tốt 10 ngũ; 1 ngũ 10 người.
Vậy một đạo là 100.000 người, và cứ số ấy mà
tính thì nhà Đinh bấy giờ có 10 đạo,
là 1.000.000 người.
Thiết tưởng nước ta bấy giờ đất thì nhỏ, người thì
ít, lấy đâu làm một triệu quân được,
và lấy cơm gạo đâu mà nuôi được bấy
nhiêu người. Họa chăng Tiên-hoàng có được độ
10 vạn người đã là nhiều.
Tiên-hoàng bỏ trưởng lập âú, cho đứa con
út là Hạng Lang làm Thái-tử. Con trưởng
là Nam-việt-vương Liễn đã theo Tiên-hoàng đi
trận-mạc từ thủa hàn-vi, nay không được ngôi
Thái-tử, lấy sự ấy làm tức-giận bèn khiến người
giết Hạng Lang đi. Ấy là gây nên mối loạn ở trong
nhà.
Năm kỹ-mão (979) vua Tiên-hoàng và
Nam-việt-vương Liễn bị tên Đỗ Thích giết chết. Sử
chép rằng tên Đỗ Thích trước làm lại,
đêm nằm thấy sao rơi vào mồm, tưởng là triệu
mình được làm vua, bèn định bụng làm sự
thí- đoạt. Một hôm Đỗ Thích thấy
Tiên-hoàng say rượu nằm trong cung, bèn lẻn
vào giết Tiên-hoàng đi, rồi giết cả Nam-việt-vương
Liễn.
Đình-thần tìm bắt được Đỗ Thích đem làm
tội, và tôn Vệ-vương Đinh Tuệ lên làm vua.
Tiên-hoàng làm vua được 12 năm, thọ được 56 tuổi.
2. PHẾ ĐẾ (979-980).
Vệ-vương mới có 6 tuổi
lên làm vua, quyền- chính ở cả Thập-đạo
tướng-quân là Lê Hoàn. Lê Hoàn
lại cùng với Dương Thái-hậu tư thông.
Các quan đại-thần bấy giờ là bọn Đinh Điền, Nguyễn Bặc
thấy Lê Hoàn nhiếp chính lộng quyền quá, mới
cử binh-mã đến đánh, nhưng bị Lê Hoàn giết
cả.
Lúc bấy giờ nhà Tống nghe tin Tiên-hoàng
đã mất, tự-quân còn dại, muốn thừa thế sang lấy
nước ta, mới hội đại binh ở gần biên-giới.
Bên ta được tin quân Tàu sắp sang, Lê
Hoàn sai Phạm cự Lượng làm đại-tướng đem binh đi chống
giữ. Trước khi khởi hành, Phạm cự Lượng họp cả quân-sĩ lại
ở trong điện, rồi nói rằng: "Bây giờ quân nghịch sắp
vào cõi, mà vua thì còn bé,
lấy ai mà thưởng phạt cho chúng mình. Dẫu
chúng mình có hết sức lập được chút
công nào, thì rồi ai biết cho? Chi bằng nay ta
tôn Thập-đạo tướng-quân lên làm vua rồi ra
đánh thì hơn"26.
Quân-sĩ nghe nói đều hô vạn-tuế. Thái-hậu
thấy quân-sĩ thuận cả, mới sai lấy áo long-cổn mặc
vào cho Lê Hoàn.
Lê Hoàn lên làm vua , giáng Đinh Tuệ
xuống làm Vệ-vương, sử gọi là Phế-đế.
Nhà Đinh làm vua được 2 đời, cả thảy là 14 năm.
-----------------------------
{25 Có sách chép rằng Đinh
Tiên Hoàng tên là Hoàn, chứ
không phải là Bộ Lĩnh. Bộ Lĩnh là một tước quan của
Trần Lãm phong cho Đinh Hoàn. Nhưng xét trong
"Khâm Định Việt Sử" và cách sách khác
thì thấy chép Đinh Bộ Lĩnh chớ không thấy Đinh
Hoàn. Vậy nay cứ theo sách Khâm Định mà
chép. }
{26 Xem sử Tàu, nhà Tống lấy ngôi nhà
Hậu-Chu cũng giống như bên ta nhà Tiền-Lê lấy
ngôi nhà Đinh. Nhà làm sử có
chép lẫn nhau không? }
Chương
3
NHÀ TIỀN LÊ
(980-1009)
1. Lê
Đại-Hành
2. Phá quân nhà Tống
3. Đánh Chiêm-thành
4. Việc đánh-dẹp và sửa sang trong nước
5. Lê Trung-Tông
6. Lê long Đĩnh
1. Lê Đại Hành (980-1005)
Lê Hoàn là người
làng Bảo-thái, huyện Thanh-liêm, tỉnh Hà-nam
bây giờ, làm quan Thập-đạo tướng-quân nhà
Đinh. Nhân khi vua nhà Đinh còn trẻ tuổi, và
lại có quân nhà Tống sang xâm, quân-sĩ
tôn Lê Hoàn lên làm vua, tức là
Đại-hành Hoàng-đế, niên-hiệu là
Thiên-phúc, Hưng-thống (989-993), và
Ứng-thiên (994-1005).
Vua Đại-hành lên làm vua rồi sai sứ đưa thư sang
nhà Tống nói dối là thư của Đinh Tuệ (Phế-đế) xin
phong, có ý để nhà Tống hoãn binh lại.
Nhưng vua nhà Tống không nghe, sai sứ sang trách
Đại-hành rằng sao được xưng đế, và lại nói rằng :
"Nhà Đinh truyền tập đã ba đời rồi, vậy cho Đinh Tuệ
làm Thống-soái, Lê Hoàn làm
phó. Nhược bằng Đinh Tuệ còn trẽ tuổi không
làm được, thì Lê Hoàn phải bắt mẹ con Đinh
Tuệ sang chầu Bắc-triều, rồi sẽ phong quan-tước cho Lê
Hoàn". Vua Đại-hành biết mưu nhà Tống bèn
không chịu và sửa-sang sự phòng-bị .
2. Phá Quân Nhà Tống.
Nhà Tống thấy vua
Đại-hành không chịu nghe lời, bèn sai tướng đem
quân sang đánh. Tháng 3 năm tân-tị (981)
thì bọn Hầu nhơn Bảo và Tôn toàn Hưng tiến
quân sang mặt Lạng-sơn, bọn Lưu-trừng đem thủy-quân sang
mặt Bạch-đằng-giang.
Vua Đại-hành đem binh-thuyền ra chống-giữ ở Bạch-đằng.
Quân nhà Tống tiến lên thế mạnh lắm, quan quân
đánh không lại phải lùi. Bấy giờ lục- quân
của bọn Hầu nhân Bảo tiến sang đến Chi-lăng (thuộc
Ôn-châu, Lạng- sơn), vua Đại-hành sai người sang
trá hàng để dụ Hầu nhơn Bảo đến chổ hiễm bắt chém
đi, rồi đuổi đánh quân nhà Tống chém giết
được quá nửa, và bắt được hai người bộ-tướng.
Bọn Lưu Trừng thấy lục-quân đã tan vỡ, vội-vàng đem
thủy-quân rút về.
Quân ta tuy thắng trận, nhưng vua Đại-hành sợ thế-lực
không chống với Tàu được lâu, bèn sai sứ đem
hai viên tướng bắt được sang trả nhà Tống và xin
theo lệ triều cống. Lúc ấy ở phiá bắc nước Tàu
có quân Khiết-đan (Hung-nô) đang đánh
phá, cho nên vua nhà Tống cũng thuận lời,
thôi việc chiến-tranh với nước ta, và phong cho vua
Đại-hành làm chức Tiết-độ-sứ.
Năm quí-tị (993) nhà Tống sách phong cho vua
Đại-hành làm Giao-chỉ quận-vương, rồi đến năm đinh-dậu
(997) lại gia phong là Nam-bình-vương.
Bấy giờ sứ nhà Tống thường hay đi lại, có khi vua
Đại-hành phụng chiếu mà không lạy, nói dối
rằng đi dánh giặc ngã ngựa đau chân. Nhà
Tống biết là nói dối, nhưng cũng làm ngơ đi.
3. Đánh Chiêm Thành.
Vua Đại-hành phá được quân
nhà Tống rồi, định sang đánh Chiêm-thành,
vì lúc vua Đại-hành lên ngôi,
có sai sứ sang Chiêm-thành, bị vua nước ấy bắt giam
sứ lại. Đến khi việc phía bắc đã yên, vua
Đại-hành đem binh sang đánh báo thù.
Quân vua Đại-hành sang chiếm giữ dược kinh-thành
nước Chiêm và bắt được người, lấy được của rất nhiều. Từ
đấy nước Chiêm-thành phải sang triều-cống nước ta.
4. Việc Đánh Dẹp Và Sửa Sang
Trong Nước.
Việc trong nước thì có các quan đại
thần là bọn Từ Mục, Phạm cự Lượng, Ngô tử An giúp
rập. Đặt luật-lệ, luyện quân lính và sửa-sang mọi
việc.
Bấy giờ thường hay có các động Mường và những
người các châu quận làm phản, vua Đại-hành
phải thân chinh đi đánh-dẹp, bình được 49 động
Hà-man (thuộc huyện Thạch-thành, tỉnh Thanh-hoá)
và dẹp yên những người phản-nghịch ở các nơi. Bởi
vậy thanh-thế vua Đại-hành lúc bấy giờ rất là
lừng-lẫy.
Năm ất-tị (1005) là năm Ứng-thiên thứ 12, vua
Đại-hành mất, thọ 65 tuổi, làm vua được 24 năm.
5. LÊ TRUNG TÔNG (1005).
Vua Đại-hành đã định cho người con thứ ba
là Long Việt làm thái-tử, nhưng đến lúc vua
Đại-hành mất, các hoàng-tử tranh ngôi
đánh nhau trong bảy tháng. Đến khi Long Việt vừa mới
lên ngôi được ba ngày thì bị em là
Long Đĩnh sai người vào cung giết đi, thọ 23 tuổi. Sử gọi
là Lê Trung-tông.
6. LÊ LONG ĐĨNH (1005-1009).
Long Đĩnh là người bạo-ngược,
tính hay chém giết, ác bằng Kiệt, Trụ ngày
xưa. Khi đã giết anh rồi, lên làm vua thường cứ lấy
sự giết người làm trò chơi: có khi những tù
phạm phải hình, thì bắt lấy rơm tẩm dầu quấn vào
người rồi đốt sống; có khi bắt tù trèo lên
cây rồi ở dưới sai người chặt gốc cho cây đổ ; có
khi bỏ người vào sọt rồi đem thả xuống sông. Làm
những điều ác như thế thì lấy làm thích
chí. Một hôm lấy mía để lên đầu nhà sư
mà róc vỏ, rồi thỉnh-thoảng giã tảng nhỡ tay bổ
dao vào đầu sư chảy máu ra, trông thấy thế
làm vui cười. Còn khi ra buổi chầu, có ai tấu sớ
điều gì thì cho những thằng hề nói khôi-
hài hay là nhại tiếng làm trò.
Long Đĩnh làm vua được 2 năm đổi niên-hiệu là
Cảnh-thụy (1008-1009). Sang năm sau là năm kỹ-dậu (1009)
thì mất, làm vua được 4 năm, thọ 24 tuổi.
Vì lúc sống dâm-dục quá độ, mắc bệnh
không ngồi được, đến buổi chầu thì cứ nằm mà thị
triều, cho nên tục gọi là Ngọa-triều.
Long Đĩnh mất rồi, con thì bé, đình-thần
nhân dịp tôn Lý công Uẩn lên làm
vua, khai sáng nên cơ-nghiệp nhà Lý.
Nhà Tiền-Lê làm vua được 3 đời, cả thảy được 29
năm.
Nguồn: www.vnthuquan.net
Trở Lại
Trang Mặt
|