
Năm Thứ 4888
www.vietnamvanhien.org
www.vietnamvanhien.net

Đất Đai Việt Nam
Bị Trung Hoa Nhân Dân Cộng Hoà Quốc Xâm Chiếm
Nguyên Vũ Vũ Ngự Chiêu
Chủ Nhật, Ngày 5
tháng 7-2009 |
|
|

LTG. Ðầu
năm Kỷ Sửu (26/1/2009), nhân dịp Khai
Bút đầu Xuân, tôi đã viết bài “Ðất Ðai
Việt Nam Mất Vào Tay Trung Hoa.” Bài này
đăng ở Hợp Lưu website... Sau đó, tu
chỉnh lại, đăng trên Hợp Lưu 105, tháng
5-6/2009. Gồm phần tổng luận, có phụ
chú, và Phụ Bản, đưa ra 6 trường hợp mất
đất tiêu biểu, cùng 1 phóng đồ Lạng
Sơn-Trấn Nam Quan (Porte de Chine) của
quân lực Pháp năm 1886-1887. Mục đích
chính của tôi chỉ nhằm giúp người Việt
thấy rõ sự thực lịch sử về cái
gọi là tình hữu nghị “môi hở răng lạnh”
theo kiểu Hán tộc.
Mới
đây, được nghe Ðại biểu Quốc Hội/sử gia
Dương Trung Quốc chính thức đòi hỏi
chính phủ Việt Nam điều trần về cuộc
tranh chấp Hoàng Sa-Trường Sa; hay Tòa
Ðại sứ Trung Hoa ở Hà Nội đòi chính phủ
Nguyễn Tấn Dũng cùng Ðảng CSVN có biện
pháp kỷ luật với những chuyên viên như
Phạm Chi Lan hay Nguyễn Minh Phong vì họ
can đảm tiết lộ với quần chúng những thủ
đoạn kinh tế bất lương của Trung Hoa để
biến Việt Nam thành một thuộc địa kinh
tế mới, cũng như sự xuống tay của chính
quyền Việt Nam với những luật gia, trí
thức chỉ có một tội là yêu nước, thương
nòi.
Vị thế địa lý chính trị Việt Nam
khiến người Việt luôn mong mỏi và tìm
cách duy trì chính sách ngoại giao hòa
bình, thân hữu với các liên bang Á Châu,
nhất là hai nước Trung Hoa và Ðài Loan.
Nhưng tình hữu nghị có giới hạn của nó.
Những lãnh đạo gốc Hán ở Trung Nam Hải
như Hồ Cẩm Ðào, Ôn Gia Bảo dường đang đi
vào vết xe đổ của thời phong kiến Trung
Hoa.
Houston,
8/7/2009.
Nguyên Vũ Vũ Ngự
Chiêu
Không
ai
có
thể
phủ
nhận
một
sự
thực:
quốc
gia tự nhận là Trung Hoa Nhân Dân Cộng Hòa
Quốc [Zhonghua Renmin Gongheguo] đã
kiên nhẫn xâm chiếm và cướp đoạt đất đai lân
bang hơn 2000 năm qua để lập nên đế quốc
hiện nay.
Năm
trong hàng chục cựu vương quốc bị đế quốc TH
cướp đoạt chủ quyền, "đặt vào bản
đồ," "mở quận huyện" còn để lại
chứng từ cụ thể là Miêu Cương (ca 300-1283)
phía Tây Bắc Guizhou [Quí Châu] hiện nay;
Nanzhao [Nam Chiếu] và Dale [Ðại Lý] ở vùng
Yunnan [Vân Nam] và nam Sichuan [Tứ Xuyên];
Ðại Lịch/Ðại Nam của Nùng Trí Cao; hay Nam
Hán của Lưu Nghiễm (Quảng Nam Ðông và Tây,
tức Quảng Ðông hiện nay). (1)
Gần
đây,
ngoài những phần lãnh thổ của dân Mongols,
Tibet và Manchus bị cưỡng ép sát nhập vào
lãnh thổ, THNDCHQ còn tự nhận chủ quyền trên
đảo Ðài Loan [Foremosa], và vùng biển Nam,
nơi có dầu hỏa và nhiều tài nguyên thiên
nhiên khác dưới thềm lục địa, mà họ mệnh
danh là "vùng chiến lược sinh tồn." ( 2)
Vua
Trung Hoa luôn tự xưng là Thiên tử,
làm chủ cả thiên hạ. Chủ quyền của
con Trời biến thái từ chủ quyền tối thượng [sovereignty]
tới bá chủ [suzerainty], tùy theo
sức mạnh của triều đại cai trị. Triết lý để
biện minh và yểm trợ cho chính sách thực dân
là "Thiên mệnh" và "lễ, nghĩa"
do Khổng Khâu cùng đệ tử rao giảng. Phương
tiện chính yếu là xâm lăng và tái xâm lăng
bằng vũ lực, chiếm đất, giết lãnh đạo và nô
dịch hóa dân chúng. Nếu cướp đoạt bằng võ
lực không thành công, linh động chuyển sang
áp lực kinh tế/ngoại giao–tức hệ thống triều
cống [tributory network] qui tâm về
kinh đô Hán–vì hoàng đế Hán tộc là "thánh
nhân" và uy đức được đo lường bằng số
chư hầu tìm đến tỏ lòng "trung hiếu"
giữa "con" với "cha," hoặc "em"
với "anh."
Việt
Nam là nạn nhân trường kỳ của tham vọng đế
quốc, thực dân Hán tộc [Hanism]. Ðồng
thời cũng là 1 trong 2 dân tộc–cho tới thế
kỷ XXI–thoát được chính sách đồng hóa.
Khó
thể
xác định những cuộc "chinh phạt" đầu tiên
của Hán tộc. Suốt hai ngàn năm qua, người ta
lập đi lập lại vài đoạn về liên hệ cổ Việt
với Trung Hoa mà giá trị sử học thật giới
hạn: Zhao Tuo [Triệu Ðà], một huyện lệnh nhà
Tần, xưng đế, lập ra Nan yue [Nam
Việt] quốc ở Phiên Ngung (Quảng Ðông ngày
nay), và mang quân đi đánh dẹp Bách Việt lân
cận. Trong số những người bị Zhao Tuo tiêu
diệt có An Dương Vương. Năm 111 TTL, ba đầu
mục Cổ Việt mang theo "100 trâu, 1000 chén
rượu và sổ hộ tịch" tới xin nội phụ Lộ Bác
Ðức, được giữ nguyên tước vị, ở ba quận
Chiao Chih (Giao Chỉ, 10 huyện), Chiu Chen
(Cửu Chân, 7 huyện), và Jih Nan (Nhật Nam, 5
huyện). (3) Năm sau, 110 TTL, Lưu Triệt (Hán
Hiếu vũ, 140-87 TTL) cử Thạch Ðái làm Thứ sử
[thái thú?] Giao Chỉ bộ.
Những
khai quật khảo cổ vào hạ bán thế kỷ XX xác
nhận Nan yue là một thực thể chính
trị, và họ Zhao (Triệu) là những tác nhân
lịch sử. Nhưng cuộc giao lưu văn hóa giữa
nhà Hán và cổ Việt vẫn còn dầy phủ bóng tối
nghi hoặc.
Cách
nào
đi
nữa,
sử
sách
Trung
Hoa
lập
đi
lập lại một cách ước lệ [rhetorics]:
Hán
Vũ
Ðế giết Lữ Gia, mở 9 quận, đặt thứ sử để
trấn áp, đưa dân Trung Quốc tới ở chung,
giúp mở mang việc học, biết tiếng Trung Hoa
một cách thô vụng, sứ đoàn đi lại, cho thổ
dân biết được lễ nghĩa, phong hóa ["Hán
Vũ đế tru Lữ Gia khai cửu quận,
thiết thứ sử dĩ trấn chi, tỉ Trung Quốc
nhân tạp cư kỳ gian, sảo sử học thư,
thô tri ngôn ngữ, sứ dịch vãng lai, quan
kiến Lễ hóa..."]. (4)
Năm
231, Thái thú Hiệp Phố và Giao Chỉ là Tiết
Tông (từng lánh nạn qua Giao Chỉ, phục vụ Sĩ
Nhiếp, sau theo Lữ Ðại qua đánh Giao Châu)
dâng sớ lên Ngô Tôn Quyền:
Hiếu
vũ [Lưu Triệt, 140-87 TTL] giết Lữ Gia, mở 9
quận, đặt thứ sử Giao Chỉ, dời những người
có tội ở Trung Hoa sang ở lẫn các nơi ấy,
cho học sách ít nhiều, hơi hiểu ngôn ngữ, sứ
và trạm quan lại, biết qua lễ hóa. Ðến khi
Tích Quang làm thái thú Giao Chỉ, Nhâm Diên
làm thái thú Cửu Chân, dạy dân cày bừa, đội
mũ, đi giày, đặt quan làm mối, [mới biết hôn
thú], dựng lên nhà học, dạy cho lễ nghĩa. .
. . Song đất rộng người nhiều, núi rừng hiểm
trở, dễ bề làm loạn. [Hiếu Vũ tru Lữ
Gia, khai cửu quận, thiết Giao Chỉ dĩ trấn
chi; sơn xuyên trường viễn,
tập tục bất tề, trưởng ấu vô biệt,
dân khuyết lễ nghĩa, trưởng lại chi
thiết, tuy hữu nhược vô. Tự tư
dĩ lai, phá tỉ Trung quốc tội nhân, tạp xử
kỳ gian, sảo sử học thơ, thô thông
lễ hóa. Cập Tich Quang vi Giao Chỉ, Nhâm
Diên thú Cửu Chân, nãi giáo dân lê canh,
sử chi quan lý, kiến lập học hiệu, đạo
dĩ lễ nghĩa, do thử nhi giảng, tứ bách dư
niên, phả tợ hữu hiệu, nhiên thổ quảng
nhân chúng, hiểm trở sơn lâm, dị dĩ
vi loạn, nan sử tùng trị, huyện quan cơ
mi, thị linh oai phục; . . .
.] (5)
May
mắn hơn những tiểu quốc lân bang ở phía Nam
bản đồ Trung Hoa, hiện đã bị xóa tên, dân
Việt thắng vượt thành một quốc gia độc lập,
qua hàng chục cuộc kháng Hán lớn nhỏ. Lưu
Nghiễm, hoàng đế nhà Nam Hán đương thời với
cha con Khúc Hạo, Dương Diên Nghệ, Ngô
Quyền, chưa hẳn là người cuối cùng phải thốt
lên rằng dân cổ Việt [Giao Chỉ] "ưa làm
loạn." Khó thể đếm xiết những quan chức Hán
bị dân đánh đuổi. Nhà Ðường có người chối
nhận chức ở An Nam Ðô hộ, thà chết cũng cam.
(6)
Tiết Tông ghi nhận:
Thần đã thấy Hoàng Cái ở
Nam Hải làm thái thú Nhật Nam, khi đến nơi,
vì thấy đồ cung đốn, trần thiết không đủ,
đánh chết người chủ bạ, rồi bị đánh đuổi;
thái thú Giao Chỉ là Ðạm Manh vì bố vợ là
Chu Kỉnh mà bày tiệc mời các quan to uống
rượu, khi rượu say, làm vui, công tào Phan
Hàm đứng dạy múa, nhắm vào Kỉnh, Kỉnh không
chịu đứng dạy. Hàm muốn cưỡng bách, Mành
giận giết Hàm, em của Hàm đến đánh Manh;
thái thú Giao Chỉ cũ là Sĩ Nhiếp mang binh
tới đánh không được. Lại thứ sử Ngu Phù cho
bọn cùng làng là Ngu Bao, Lưu Ngạn làm
trưởng lại, vơ vét của dân, một con cá vàng
lấy thuế một hộc gạo, dân oán ghét nổi lên
đánh đuổi.... (7)
Suốt nhiều thế kỷ kế sau
chiến công bảo quốc Bạch Ðằng Giang năm 938
của Ngô Quyền (897-944), vua quan Việt chưa
thoát được mối đe dọa phương Bắc, trong thế
giới "luật kẻ mạnh." Tháng 9-10/980, Triệu
Quang Nghĩa (Tống Thái Tông, em Khuông Dẫn)
sai Vương Vũ Xứng viết cho Lê Hoàn:
Trung
quốc đối với các nước mọi rợ như mình với tứ
chi, khi vận động co ruỗi là tùy tâm, cho nên
nói bậc đế vương là trái tim. Một người có chân
hay tay đau, mạch máu không thông, thì phải uống
thuốc để trị lành bệnh. Nếu uống thuốc không hết
thì dùng châm cứu vào chỗ đau. Không phải không
biết rằng thuốc uống thì đắng miệng, châm cứu
thì tổn hại ngoài da, nhưng sự thiệt hại chỉ ít
thôi mà sự ích lợi thì nhiều hơn. . .
Chức vi đế vương như ông thày
chữa bệnh, trông thấy mọi rợ nào có chứng đau,
thì tìm thuốc chữa.... Cho nên luyện đơn thuốc
nhơn nghĩa, sửa soạn cái kim và mũi đá đạo đức,
chữa bệnh nơi gần cho thật mạnh, rồi điều trị cả
chín châu, bốn biển, chẳng còn đau ốm gì. [Cư
đế vương chi vị, thị di địch
chi bệnh... Ư thị, luyện nhơn
nghĩa chi dược nhĩ, tu đạo đức
chi châm biêm, đại liêu vu cận, nhi dũ
cửu châu tứ hải, ký khương khả ninh]
[Xứ
Giao Châu so với Trung Hoa chỉ như ngón tay,
nhưng thánh nhân vẫn phải chữa]. "Vì thế cần mở
lòng ngu tối của ngươi để được thấm nhuần thánh
giáo."
Vì lòng nhân từ trùm muôn nước,
phải chữa trị cho [Giao Châu] khỏi đau, sớm bỏ
thói "cắt tóc ngắn," "uống nước bằng lỗ mũi,"
"nói líu lo như chim." Nếu theo thì tha tội,
nghịch lại thì ta đánh [hướng hóa ngã
kỳ xá, nghịch mạng ngã kỳ phạt]. (8)
Ðại Việt ít nhất phải
7 lần đại chiến chống lại ước muốn
"chữa bệnh" của Hán tộc.
1.
Năm 938, Ngô Quyền phá tan thủy quân Nam Hán
trên Bạch Ðằng Giang– còn gọi là sông Vân
Cừ. Giết chết Giao Châu vương Hoằng Tháo,
con Lưu Nghiễm (Cung). (9)
2.
Tháng
4-5/981, Lê Hoàn đánh tan 3 cánh quân Tống,
giết chết Hầu Nhân Bảo. Chiến công này khiến
Ðiền Tích có dịp dâng sớ xin bãi việc binh,
khuyên Triệu Quang Nghĩa nên lấy thánh đức
thuyết phục man di. Dù khó thể coi như thánh
nhân, Quang Nghĩa tán thành bãi binh. Không
nhắc gì đến âm mưu "đánh như
sét đánh không kịp bưng
tai," hầu khai thác tình trạng hỗn
loạn sau cái chết đột ngột của cha con Ðinh
Tiên Hoàng. Rồi, tự biện hộ chỉ muốn "bảo
hộ cho họ Ðinh đã nhiều đời
cống lễ"–một chiêu bài sẽ được các vua
Trung Hoa sử dụng nhiều lần. (10)
3.
Triều Lý (1009-1226) là chế độ đầu tiên đủ
chiều dài thời gian để xây dựng nền móng các
cơ cấu chính quyền, luật pháp, và nhất là sự
liên tục chính trị. (11) Việc dời đô từ "chiến khu" Hoa Lư
ra Thăng Long–trung tâm hành chính, văn hóa
và chính trị vương quốc(12)–tự nó phản ánh
sự ủng hộ rộng rãi cho chế độ.
Nhiệm
vụ vệ quốc, chống tham vọng thực dân Hán
tộc, dưới triều Lý nặng nề không kém thời
Tiền Lê. Tháng 12/1075, Lý Thường Kiệt mở
cuộc tấn công tự vệ đầu tiên để bẻ gãy kế
hoạch mưu chiếm Ðại Việt của Vương An Thạch,
Trầm Khởi, Lưu Di. (13). Sau 40 ngày vây hãm Yongzhu [Ung
Châu] tháng 2/1076, Tôn Ðản hạ được thành,
"giết 5 vạn, 8 ngàn người." Trương Thủ Tiết
mang quân cứu Ung Châu, bị Thường Kiệt phục
kích chết tại Côn Lôn quan (gần Nam Ninh).
Tổng số người bị giết lên tới 100,000, kể cả
số thương vong ở Qinzhou (Khâm châu),
Lianzhu (châu Liêm). Ngoài ra, bắt một số tù
binh mang về. (14)
Năm
sau, Thường Kiệt đả bại cuộc phản công của
bọn Triệu Tiết, Lý Hiến và Yên Ðạt, với sự
tiếp tay của Chiêm Thành và Chân Lạp. Tháng
4/1077, sau trận thủy chiến tại làng Như
Nguyệt (Bắc Ninh). Quách Quì rút giữ Quảng
Nguyên, Tô Mậu, Tư Long và huyện Quang Lang
(thuộc tỉnh Cao Bằng ngày nay). 8 vạn
[80,000] binh Tống ngày xuất quân chết đến 6
phần mười. (15)
Ðề
nghị
xin hòa của Lý Nhân Tông [dưới tên Lý Càn
Ðức], được thảo luận sôi nổi ở Biện Kinh.
Trong tờ sớ đề nghị bãi binh vào tháng
2-3/1077, Giám sát Ngự sử Thái Phụng Hy
viết:
Thánh
nhân
là
người
"không
trị
mà
là
trị"
ở
những
nơi man di. Từ ngày Giao Châu không phục,
binh lính chết nhiều, lương thực hao tốn,
chỉ được đất Quảng Nguyên. "Núi cùng, biển
độc, vực sâu rừng rậm mù sương, hơi độc xông
lên khiến diều quạ đang bay bị rơi xuống;
khí ẩm thấp, tràn lan làm cho người sinh
bệnh; cơ hồ một cảnh giới không người; dẫu
có lấy được cũng chẳng lợi ích gì cho thiên
hạ." (16)
Trước
đó,
khi bàn việc đánh Giao Chỉ, Vương An Thạch
cũng từng bị chống đối. Thạch nói có thể lấy
được [dĩ vi khả thủ], nhưng Ngô Sung
cho rằng có lấy cũng vô ích [đắc
chi vô ích]. Bởi thế, Triệu Húc đồng ý
bãi binh.
Tháng
10-11/1078,
Lý
Nhân
Tông
sai
Ðào
Nguyên
mang
5
voi
qua tặng, và đòi lại Quảng Nguyên, Tư Lăng,
Tô Châu, Mậu Châu (không biết ở đâu) và
Quang Lang (Ôn Châu ngày nay). Tháng 2/1079,
Lý trao trả 221 tù trong số 1000 nhà Tống
đòi hỏi. Phần nhà Tống đồng ý trả lại châu
Quảng Nguyên. Năm năm sau, 1084, Lê Văn
Thịnh mới đạt thỏa thuận về biên giới. Nhà
Tống trả lại 6 huyện, ba động. Dân Tống
không hài lòng, có thơ rằng: Nhân tham
Giao Chỉ tượng; khước thất
Quảng Nguyên kim [Tham voi Giao Chỉ,
mất vàng Quảng Nguyên]. (17)
Tuy
nhiên,
cuối cùng, nhà Lý cũng mất một phần đất đai.
Theo Thanh Nhất Thống Chí, châu Tư
Lăng hiện nay thuộc phủ Thái Bình, tỉnh
Quảng Tây. (18)
Phần nào nhờ những chiến
công của nhà Lý–khi nhà Tống ngày một suy
yếu–nền độc lập Ðại Việt liên lũy được củng
cố. Năm 1164, Triệu Tích (Hiếu Tông,
1163-1184) nhìn nhận Ðại Việt là An-Nam
quốc, và phong Lý Anh Tông [Lý Thiên Tộ] làm
An Nam Quốc Vương. Ðây là chiến thắng ngoại
giao lớn cho nhà Lý nói riêng, và dân tộc
Việt nói chung. Dù sự thừa nhận ngoại
giao này không có tính cách vĩnh viễn
trong thế giới luật kẻ mạnh, lãnh thổ vương
quốc đàn hồi, thay đổi
theo vũ lực, tiền lệ trên giúp vị thế vương
quốc và tước An Nam Quốc Vương
ngày một vững chắc hơn.
4. Vua quan Trần, với những
anh hùng dân tộc như Trần Hưng Ðạo, Trần
Quang Khải, Trần Quốc Toản, Trần Khánh Dư
cũng ba lần làm chồn vó ngựa Mông Cổ vào các
năm 1258, 1285 và 1288–tức giai đoạn hưng
thịnh nhất của Qblai Khan [Hốt Tất Liệt].
Trận thử lửa đầu tiên vào đầu năm 1258 phác
họa một diễn tiến chung cho các chiến dịch.
Quan binh Mông Cổ khởi đánh ào ạt, nhanh và
mạnh, Vua Việt phải bỏ kinh thành kháng
chiến, làm hao hụt chủ lực và nhuệ khí địch,
rồi đạt được chiến thắng cuối cùng với sự
phụ giúp của địa thế và thời tiết.
Dẫu vậy, sau mỗi chiến công
vệ quốc, các vua Trần phải chấp nhận "thông
hiếu" với phương Bắc. Thái Tông và Thánh
Tông tiếp tục cống lễ và nhận sắc phong An
Nam Quốc Vương cũng như nền tự trị của cả
hai chế độ Nam Tống và Nguyên. Ðồng thời
khẳng định lập trường không vào triều kiến
vua Trung Hoa.
5.
Nền độc lập của
Ðại Việt bị xâm phạm trầm trọng nhất vào đầu
thế kỷ XV, sau khi Hồ Quí Ly cướp ngôi nhà
Trần, đổi quốc hiệu thành Ðại Ngu
(1400-1407). Mặc dù Hồ Hán Thương được phong
làm An Nam Quốc Vương từ tháng 2-3/1403, cha
con Quí Ly đã xin cắt đất đổi hòa bình, Chu
Lệ (Minh Thành Tổ, 1403-1424) vẫn đưa quân
qua xâm lược.
Chu
Lệ đưa ra chiêu bài "phò Trần, diệt Hồ."
Nhân dịp Nguyễn Khang, một gia bộc của
Trần Nguyên Huy, mạo xưng con Trần Nghệ
Tông, tố cáo họ Hồ [Lê] soán ngôi, Chu Lệ
sai 5,000 quân Quảng Tây mang Khang–dưới tên
mới Trần Thiêm [Thiên] Bình–về nước. Nhưng
tháng 9-10/1406 phục binh Hồ vây đánh ở ải
Chi Lăng, bắt được "Thiêm Bình." (19) Chu Lệ
bèn sai Trương Phụ, Mộc Thạnh dẫn 2 cánh
quân Quảng Tây và Vân Nam vào khoảng 800,000
[?] tràn sang Ðại Việt, phù Trần diệt Hồ.
Ngày
20/1/1407,
quân
Minh
vượt
sông
tấn
công
đồn
Ða
Bang
bảo vệ phía Tây Ðông Ðô. Ngày 22/1, tiến về
Hà Nội. Ngày 24/1 quân Hồ đốt phá kho tàng,
rút lui. Tiền quân Minh đốt luôn tất cả nhà
cửa ngoài thành. Quan quân Minh tranh nhau
cướp đoạt con gái, của cải, lụa là, lương
thực. Con trai ít tuổi phần lớn bị thiến.
Ngày 16/6, Liễu Thăng bắt sống Quí Ly ở
ghềnh Chẩy Chẩy gần Kỳ La (cửa Lân, huyện Kỳ
Anh, Thanh Hoa [Hà Tĩnh đời Nguyễn]). Hôm
sau, 17/6, tới Hán Thương ở núi Cao Vọng.
(20)
Chu
Lệ hân hoan làm lễ đón nhận tù binh. Chiến
lợi phẩm khá hậu hĩ: 48 châu phủ, 168 huyện,
112 voi, 420 ngựa, 35,750 trâu, 8,865
thuyền, 3,129,500 hộ dân (có lẽ gồm cả dân
Hóa Châu mới chiếm năm 1402). (21)
Chiêu
bài
"phù Trần, diệt Hồ" là một vũ khí
chính trị hữu hiệu. Nhiều người Việt ngả
theo quân Minh, hay ít nữa giữ trung lập,
chỉ vì chống Hồ. Hồ Nguyên Trừng–người được
giao trọng trách phòng thủ–từ tháng
9-10/1405 đã phải thốt lên rằng "chỉ sợ lòng
người không theo." (22)
Hai
tôn
thất đứng ra nắm quyền chỉ huy phủ Diễn Châu
[Thanh Hoa] và Nghệ An. Ðặng Tất chống giữ
Hóa Châu khi Chiêm Thành đánh phá. Trần Quí
Khoáng, con Mẫn vương Ngạc, cháu Nghệ Tông,
cũng từng hai lần gửi sứ qua Kim Lăng. (23)
Nhưng
sau khi bắt được cha con Hồ Quí Ly, ngày
5/7/1407 Chu Lệ chấp thuận lời xin của Mạc
Thúy và "hơn 1100" kỳ lão là "Con cháu nhà
Trần đă chết hết không có người thừa kế...
An-Nam là đất cũ của Trung-Quốc xin đặt quan
cai trị," xuống chiếu cải tên Ðại Việt thành
"Giao Chỉ bố chính ti." Lập quan lại, phủ
huyện (17 phủ, 5 châu, 12 vệ). (24)
Chu
Lệ còn thi hành chính sách bóc lột kinh tế,
bắt dân Việt đồng hóa theo phong tục Hán,
tịch thu hết sách sử Việt. Bởi thế, dòng
giõi họ Trần và nhiều thổ hào thay đổi thái
độ. Sau khi phất cờ kháng chiến vào ngày
1/11/1407 [2/10 Ðinh Hợi] ở Mô Ðộ, châu
Trường Yên (nay là Yên Mô, Ninh Bình), bị
thua chạy vào Nghệ An, Trần Ngỗi hay "Ðế
Ngỗi" phải ra tay tàn sát Trần Thúc Ðao
[Diễn Châu] và Trần Nhật Chiêu [Nghệ An]
cùng hơn 600 tôn thất hợp tác với Minh–gần
gấp đôi số bị Hồ thủ tiêu sau vụ mưu sát hụt
trên đài tuyên thệ. (25)
Những
người
như Bùi Bá Kỳ, tì tướng của Trần Khát Chân,
đã theo Trương Phụ về nước; Nguyễn Ðại tiếp
tay bắt giữ cha con họ Hồ; hay Ðặng Tất ở
Hóa Châu, đều thay đổi lập trường. Tùy theo
hoàn cảnh mỗi người, sau một thời gian ngắn,
hoặc âm thầm tự tách biệt khỏi quân Minh
(như Bá Kỳ), hoặc tham gia phong trào kháng
Minh (Ðặng Tất), hay nuôi một tâm ý khác
(như Giao chỉ Ðô Chỉ huy sứ Nguyễn Ðại). (26) Ðó là
chưa kể hàng chục ngàn hào kiệt tham dự vào
hơn 60 cuộc nổi dạy trên khắp vương quốc.
Trần Quí Khoách (1409-1413), hay Lê Lợi
(1418-1427, 1428-1433) chỉ là hai nhân vật
được nhắc nhở nhiều nhất. Trương Phụ phải
trở lại Ðại Việt thêm hai lần vẫn không yên.
Liễu Thăng bị giết ở Chi Lăng, Mộc Thạnh hai
lần một người một ngựa chạy thoát thân. Cuối
cùng, Vương Thông phải xin định hòa ước.
Số
người bản xứ hợp tác với nhà Minh–kể cả 9000
"thổ quan" đã cùng Bố chính sứ Nguyễn Huân,
tham chính Lương Nhữ Hốt và Ðỗ Duy Trung
sang tận Kim Lăng thụ nhận sắc phong năm
1416, và được Chu Lệ khen ngợi là "trung
lương," tên tuổi sẽ ngàn đời ghi vào sử
xanh(27)–chỉ là thiểu số.
Hơn
bốn trăm năm độc lập từ triều Ngô Quyền đã
đóng góp không nhỏ vào phong trào "bình Ngô"
rộng lớn từ 1407 tới 1427.
7.
Hoàng
Lịch (Qainlong hay Càn Long, 1736-1796), dù
là người Mãn Châu, thêm một lần đi vào vết
xe đổ. Năm 1788, Hoàng Lịch mượn chiêu bài
"phò Lê," phô trương thanh thế của "nửa
triệu quân bốn tỉnh Hoa Nam," mong thôn tính
nửa giang sơn phía Bắc Ðại Việt. Ðiều Hoàng
Lịch tính toán sai lầm là suốt gần hai thế
kỷ thiết triều ở Thăng Long, "vua Lê" chỉ là
những vòng hoa vương giả cho họ Trịnh và
Nguyễn. Những nhà truyền giáo Espania thế kỷ
XIX cũng dường thiếu khôn ngoan khi dựng lên
"con cháu nhà Lê" như Tạ Văn Phụng, v.. v...
trong âm mưu tiếp tay liên quân Pháp-Espania
đánh chiếm Việt Nam, hoặc tách lập ra một
"nước Ðường Ngoài [Tonkin] Ki-tô tự trị"
trong thế kỷ XIX.
Một
hiện tượng quen thuộc ở Việt Nam là chiến
thắng quân sự không bao giờ là chiến thắng
cuối cùng. Vị trí địa lý-chính trị Việt Nam
(Ðại Việt) khiến không thể không duy trì
liên hệ ngoại giao với phương Bắc, trong
khuôn khổ "luật kẻ mạnh." Thứ trật tự ngoại
giao thông hiếu [tributory networks]
đặc thù Á Ðông, qui tâm về Bắc Kinh này, dĩ
nhiên, khó thể bình đẳng. Vua quan Hán ngang
ngược bắt tất cả vua chúa lân bang phải chấp
nhận thứ quan hệ "cha-con, giữ gìn nhau như
môi với răng" ["do tử dữ phụ mẫu chi tương
thân," "phụ tử chi quốc, thần xỉ chi
bang"], "thuận trời thì sống, nghịch
trời thì diệt" [thuận thiên giả xương,
nghịch thiên giả vong]. (28)
Sử
quan Phan Phu Tiên đã xuất sắc tóm gọn được
chính sách thực dân Hán tộc trong vỏn vẹn 4
chữ: "mềm nắn, rắn buông." Hễ thời
cơ thuận lợi là sử dụng ngay vũ lực để "mở
quận huyện, đặt nước Việt vào bản đồ thiên
quốc." Thất bại thì tìm đủ cách biện minh,
từ khí hậu độc hại khiến quân sĩ đau ốm, mỏi
mệt; tới việc vua Việt biết hối lỗi xin hòa
hiếu.
Bởi
vậy, Bình Ðịnh Vuơng Lê Lợi, các vua nhà Mạc
hay Lê Trung Hưng từ Thế Tông tới gần cuối
nhà Minh đều gặp nhiều khó khăn khi xin cầu
phong. (29)
Tuy
nhiên,
cần nhấn mạnh, mang quân xâm chiếm, chia ra
quận huyện để đặt dân Việt vào "vòng lễ
giáo" Hán tộc chỉ là một trong những biện
pháp thực thi chủ nghĩa bành trướng. Trung
Hoa không bỏ qua bất cứ cơ hội rối loạn
chính trị, hay tranh chấp quyền lực nào
trong nội địa Việt Nam để mở rộng bờ cõi. (30)
Chua
chát
là từ đời con cháu nhà Trần trở đi, triều
đại sắp bị diệt vong nào cũng cầu viện Trung
Hoa–từ Nguyễn Kim (Cam) và hình nhân giát
vàng "con Lê Chiêu Tông," tới con cháu Tây
Sơn. Và, chỉ những người mới đẻ ngày hôm
trước mới tin rằng có sự hiện hữu của thứ
"viện trợ không thòng lọng hay không móc
câu" hoặc "cống hiến vô tư" của
Thiên Triều! Những chế độ mới lên cầm quyền
ở Việt Nam thường phải "cắt đất đổi hòa
bình"–chẳng khác biệt bao lăm những cuộc
chiến nối ngôi ở Kampuchea hay Lào, và số
đất đai cắt xén cho Ðại Việt cùng Xiêm La
Hộc.
Cách
này
hay
cách
khác,
Trung
Hoa
đã
cướp
đoạt
của
Ðại Việt nhiều vùng quặng mỏ dài theo biên
giới. Mỏ vàng Quảng Nguyên (Cao Bằng), hay
những mỏ sắt, mỏ đồng (Tụ Long), mỏ bạc ở
Tây Bắc Bắc Việt đều từng có tranh chấp. Nếu
người Pháp không chiếm đóng Việt Nam–"đặt
lại quận huyện, mở cửa cho dân An-na-mít vào
thế giới văn minh" Ðại Pháp, chẳng hiểu tình
trạng biên giới Việt Nam biến hóa ra sao
dưới sự khuynh đảo của bọn thổ phỉ và hải
tặc Trung Hoa, cùng lính đánh thuê cho Pháp.
(31)
Khi
cuộc nội chiến Quốc-Cộng (1945-1975) còn
đang tiếp diễn, THNDCHQ lại bắt đầu một chu
trình tằm thực mới. Tấn công Hoàng Sa đầu
năm 1974, hay hai hòa ước về biên giới đất
liền và lãnh hải vịnh Bắc Bộ năm 1999 và
2000 mới chỉ là khởi đầu. Ðầu thiên kỷ 2000,
bắt chước Mao Trạch Ðông, lãnh đạo THNDCHQ
tới tắm bãi biển Ðà Nẵng, tuyên bố muốn thấy
thanh thiếu niên Hoa-Việt vui cười tung tăng
an bình sống bên nhau, nhưng thỉnh thoảng
lại sai chiến hạm tới bắn giết thanh niên
Việt chỉ để giành độc quyền những túi vàng
đen ở khu vực quần đảo Trường Sa mà THNDCHQ
đặt tên là Nansha!
Trong
khi đó, một viên chức Lai Châu tiết lộ (năm
2005) rằng thổ dân và thổ quan THNDCHQ ở
vùng biên giới tiếp tục xâm lấn lãnh thổ
Việt Nam. Họ tuyên bố "ở đâu có
chuối xanh là lãnh thổ Trung Quốc." Phương
cách tằm thực này nhiều khi không do chính
quyền trung ương chủ xướng, nhưng kết quả
cuối cùng vẫn là làng bênh làng, "Thiên
triều" bắt ép "bồi thần."
Những
vùng
đất bị Trung Hoa xâm lấn nhiều nhất nằm ở
phía Tây Bắc hơn phía Ðông Bắc (như Trấn Nam
Quan [ải Pha Lũy, nay là Hữu Nghị Quan] hay
Thác Bản Giốc mà dư luận hải ngoại khua
chiêng gõ trống). Vài địa danh lịch sử như
"ải Lê Hoa" trong trận chiến đánh đuổi quân
Minh của Lê Lợi, đã "vào bản đồ" Mông Tự,
Vân Nam, từ năm nào không rõ.
Nhiều
"chuyên
viên" trong nước–vì lý do nào đó–vẫn nuôi ảo
tưởng về lòng thành thực của Mao Trạch Ðông
và tinh thần "quốc tế vô sản," trút mọi
trách nhiệm cho Ðặng Tiểu Bình. Không nhận
hiểu dã tâm của Mao khi sử dụng xương máu
người Việt để củng cố trận tuyến chiến lược
Ðông Nam, trong cuộc đương đầu sắt máu với
Liên Bang Mỹ. Hồi ký cựu Bộ trưởng Tư pháp
Vũ Ðình Hoè, đoạn nói về Mao tiếp phái đoàn
VNDCCH ở Di Niên Ðường năm 1951, nhắc đến
cảnh Mao thỉnh thoảng ném kẹo táo, trái cây
cho Tôn Ðức Thắng, Vũ Ðình Hoè và các đại
diện nhân dân Việt (kể cả nữ anh hùng dân
công Triệu Thị Soi), ân cần nói: Ăn đi,
ăn nhiều đi, rồi đánh
giặc cho khoẻ! (32) Những bài viết
của Trường Chinh về tư tưởng "Mao Trạch Ðông
vĩ đại," v.. v... trên tờ Tạp Chí Cộng
Sản, trước khi chết không nhắm mắt vào
năm 1988, đi thẳng vào vấn đề hơn.
Việc cắt
đất, cắt lãnh hải cho
Trung Cộng của nhóm Lê Công Phụng, do
lệnh từ Bộ Chính Trị Ðảng CSVN, là một
sự thực lịch sử. Giống
như lá thư Phạm Văn Ðồng gửi Chu Ân Lai năm
1958 mà chúng tôi đã công bố cách đây hơn 20
năm. (33) Dù chi tiết hành động "cắt đất đổi
hòa bình" chưa bạch hóa, không thể không
nghĩ đến số phận quặng uranium ở mỏ
Tĩnh Túc, Pia Ouac (Cao Bằng), mà chuyên
viên Nhật tìm ra trong khoảng 1946-1947.
Ðiều
khiến
những chuyên viên về công pháp quốc tế thắc
mắc nhất là tại sao Bộ Ngoại Giao Việt Nam
không ngớt tuyên bố là việc định lại biên
giới phù hợp với công pháp quốc tế, và họ
rất thỏa mãn. Những lời khẳng định trên,
cùng với lá thư gửi Chu Ân Lai của Phạm Văn
Ðồng năm 1958, dập tắt mọi hy vọng
khôi phục đất đai.
Nếu việc tranh chấp đưa ra trước
một tòa án quốc tế, Việt Nam ở hẳn vào thế
yếu–tất cả những bản án tiền lệ về
tranh chấp biên giới đều
dựa trên yếu tố "tư
nguyện" của hai phe. Chính phủ
CHXHCNVN đã tình nguyện nhìn nhận biên giới
Trung Hoa NDCHQ vẽ ra, kể cả tấm bản đồ với
những vùng lãnh hải gồm nhiều dấu chấm.
Không rõ đây là hiệu quả sự thiếu hiểu biết
về công pháp quốc tế, hay do một ẩn ý nào
khác. Cách nào đi nữa, bản minh định lập
trường mà chính phủ CHXHCNVN nhờ một văn
phòng luật New York soạn thảo chẳng đưa ra
được một lợi thế nào cho Việt Nam. (Giống
như vụ kiện về chất độc da
cam mà toà án Mỹ từ chối căn bản tố
tụng).
PHỤ CHÚ:
1.
Xem thêm John E. Herman, Amid the Clouds
and Mist: China’s Colonization of Guizhou,
1200-1700 (Cambridge, Mass: Harvard
Univ. Press, 2007); C. Paterson Giersch, Asian
Borderlands: The Transformation of Qing
China’s Yunnan Frontier (Cambridge,
Mass: Harvard Univ. Press, 2006). Nasu Yi
Mu’egu là vùng trái độn giữa Bắc Kinh và
Yunnan.
2.
Vũ Ngự Chiêu, "From Embargo to
Normalization: The Human Rights Aspects Of
The United States-Vietnam Relations,
1975-1995;" unpublished J. D. Human Rights
Seminar (Spring 1999) under the supervision
of Professor Jordan J. Paust, University of
Houston Law School, Houston, TX; Dibyesh
Anand, "Strategic Hypocrisy: The British
Imperial Scripting of Tibet’s Geopolitical
Identity;" Journal of Asian Studies, vol.
68, No. 1 (Feb 2009), pp. 227-252.
3.
Sima Qian [Ssu-Ma Ch’ien, ca. 145-86 TTL], Shih
chi (bản dịch Burton Watson (1961),
II, chapter 113:239-242; Khâm Ðịnh Việt
Sử Thông Giám Cương Mục [CM], Tiền
Biên [TB], bản dịch Trương Bửu Lâm et
al. (Sài Gòn, 1965-1970), I:32-34, II:1-2,
23-27; II: 98-15, 134-141, 142-147; bản dịch
Viện Sử học Hà Nội (Huế: 1998), I:106; Ðại
Việt Sử Ký Tiền Biên [ÐVSKTB], 1997:55-57;
Lê Tắc, An Nam Chí Lược [ANCL], bản
dịch Trần Kính Hòa (Huế: 1961), q. 4,
1961:92 [Giao châu ký viết: Lộ Bác Ðức
nhơn bài tam giả vi tam quận tú,
Lạc vương Lạc tướng trị dân
như cố]
4.
CM, Tiền Biên (Sài Gòn: 1970),
III:6A.
5.
ANCL, q. 5, 1961:112-114; Ðại
Việt Sử Ký Toàn Thư [ÐVSKTT], bản
dịch Cao Huy Giu et al. (Hà Nội: 1967),
I:104-105; CM, TB III:5-8; (Sài Gòn
1970), III:22-35; (Huế: 1998), I:139-141.
6.
ANCL, Bk 9, 1961:161.
7. ANCL, q. 5,
1961:112-114.
8.
Thư Vương Vũ Xương gửi
Lê Hoàn [980]; ANCL, Bk. 5,
1961:115-116 [trích Tống Sử]; ÐVSKTT, 1967,
I:162-164; Người đưa thư là Lư Ða
Tốn; CM, CB I:16, (Huế), 1998, I:250-251.
9. ÐVSK,TB, 1997:139; CM, TB, V:18- 20;
(Huế),1998, I:221-22. [Ngô Thì Sĩ chép là
bắt sống Tháo, rồi giết đi].
10.
ANCL, q. 5, 1961:117-118; CM, CB
I:17, (Huế), 1998, I:251-252.
11.
Nhà
Lý cai trị từ 1009 tới 1226 vì Lý Chiêu
Hoàng nhường ngôi cho Trần Nhật Cảnh
(1218-1277), tức Trần Thái Tông (1226-1258)
ngày 20/1/1226 [25/12 Ất
Dậu] ; ÐVSKTT, Bản kỷ, IV,
1967, I:310; Ibid., II:5; CM, V:42-43, 1998,
I:440-441. [Ngày 22/11/1925 [21/10 Ất Dậu],
Trần Thủ Ðộ ép Lý Chiêu Hoàng, 7 tuổi, lấy
Trần Nhật Cảnh, 7 tuổi, làm chồng ;
ÐVSKTT, Bản kỷ, IV, 1967, I:309-310].
12.
Hành
lục của Tống Cảo [ca 991]; ANCL, q
4, 1961:83; CM, CB I:24-25, (Huế),
1998, I:258-259.
13.
CM, III:2-3, 13-14, 16-19; (Huế:
1998), II:320-321, 330-331, 333, 335-336.
14.
CM, III:35-37; 1998, I:350-352; ÐVSK,
TB, 1997:244; "La vérité sur les
relations sino-vietnmiennes;" La Chine
et le Monde ["Sự thật về quan hệ Trung
Hoa-Việt Nam," trong Trung Hoa và Thế
Giới] (Beijing: Beijing Information,
1982), tr. 105 [102-141] [Trong vòng 246
năm, từ năm 995 đời Taizong tới 1241 đời
Lizong, Việt Nam đã tấn công TH tới 10 lần].
Một
cuộc tấn công tự vệ khác xảy ra vào năm
1311, khi Trần Anh Tông mang 30000 quân tấn
công Quảng Tây để trả thù việc thổ quan Tri
châu Trấn An là Triệu Giác bắt giữ một người
đi buôn châu Tư Lăng của Ðại Việt cướp đoạt
1 lọ vàng, lấn hơn 1000 khoảnh ruộng; ANCL,
q. 5, 1961:106; ÐVSKTT, Bản kỷ, VI, 1967
(Giu), II:272-273; ÐVSKTB, 1997:415-416;
Nguyên sử, q. 209; ÐVSKTT, VI, 1967,
2:272-273. Năm Bính Thìn
[25/1/1316-13/1/1317], Anh Tông đồng ý bãi
binh.
15.
ANCL, q. 2, 1961:65-66, q. 4, 98-99;
ÐVSKTT, Bản kỷ, III, 1967 (Giu),
I:238; 19. ÐVSK, TB, 1997:247; CM III:35-37,
38-40; 1998, I: 350-352, 353-355) [CM ghi là
tháng 12 Bính Thìn].
16.
ANCL, q. 4, 1961:98-99; q. 5,
1961:118-119.
17.
CM 3:40, 41-42; 1998, I:355, 356-357;
ÐVSKTT, Bản kỷ, III, 1967 (Giu),
I:240; ÐVSK, TB, 1997:247.
18.
CM 2:41; 1998, I:314.
19.
ÐVSKTB, 1997:515, 517, 518, 520-521;
CM, XII:2-3, 6, 10-12; (1998), I:
716-717, 720, 724-725. Sau đó Quí Ly gửi 2
sứ giả qua nhà Minh, nhưng bị Chu Lệ giữ sứ
lại, không cho về; CM, XII:10-12; (1998),
I:) (ÐVSKTB, 1997:521.
20.
ÐVSKTB, 1997:523, 526; CM, XII:17-19,
21; 1998, I:731-732, 734-735; ÐVSKTT, VIII,
3:285 [trích Việt kiệu thư của Lý Văn
Phượng]).
21.
ÐVSKTB, 1997:527-528; ÐVSKTT, IX,
2:230. Minh sử, "Trương Phụ truyện"
(q. 154:230) ghi là "312 vạn hộ."
22.
ÐVSKTT, VIII, 1967, 3:222; CM, XII:9-10;
1998, I:722-723; ÐVSKTB, 1997:520.
23.
Nguyễn Nhật Ti và Lê Ngân bị giết; Hồ Nghiện
Thần và Bùi Nột Ngôn trúng kế phản gián của
Chu Lệ, chết trong tay Quí Khoáng; ÐVSKTT,
IX, 1967, 3: 233-234, 242; CM,
XII:33-34; 1998, I:747.
24.
ÐVSKTT, VIII, 1967, 286-287n10;
CM, XII:20-23; 1998, I:733-737;
ÐVSKTB, 1997:525; Minh Thái Tông
Thực Lục, q. 68, tr. 943. Tháng1/1413
[Tháng Chạp Nhâm Thìn, 3-31/1/1413], Tham
chính Mạc Thúy bị Nông Văn Lịch nổi dạy.
giết ở Lạng Sơn; ÐVSK, Bản kỷ, IX,
1967:244-245.
25.
ÐVSKTT, VIII, 1967, 3:233-234;
CM, XII:22-24, 25-26; 1998,
I:736-737, 739; ÐVSKTB, 1997:529.
26.
ÐVSKTT,
IX, 1967, 3:232; CM, XII:24,
1998, I:737-738 [Bùi Bá Kỳ], CM, XII:22,
1998, I:736 ; ÐVSKTB, 1997:529
[Trần Ðại]; ÐVSKTT, IX, 1967,
3:231-232, 233-234, 236-237 [Ðặng Tất];
CM 19-20, 26-27;1998, I:732-733
(1407), 740 [Ðặng Tất]; ÐVSKTB, 1997:527
[Ðặng Tất] 529; CM, XII:22; (1998),
I:736).
27.
ÐVSK,
Bản kỷ, IX, 1967, 3:244-245, 251-252;
CM, XII:44- 45; 1998, I:757.
28.
Thư Trương Lập Ðạo gửi Trần Nhân Tông năm
1291; ANCL, q. 5, 1961:102-103.
29.
Ít
nhất có 4 trường hợp ngoại lệ. (1) Tây Hạ tự
xưng là Ðại Hạ quốc, năm 1044, bắt Bắc Tống
phải nạp quà mới chịu thần phục. (2) Từ năm
1003, Vua Khiết Ðan gọi vua Tống là "anh,"
vua Bắc Tống gọi Khiết Ðan là "em." (3) Tại
Việt Nam, năm 1744, Võ Vương Nguyễn Phước
Khoát–sau nhiều nỗ lực xin cầu phong nhà
Thanh của ông cha từ đầu thế kỷ XVIII–tự
phong làm An Nam Quốc Vương. (4) Sau khi tái
chiếm Sài Gòn, Nguyễn Chủng cũng tự xưng An
Nam Quốc Vương trong các văn thư, kể ca thư
ủy thác Giám Mục Pierre Pigneau de Béhaine
đi cầu viện Ðại Pháp, hay kết ước với Phật
vương [Rama] Xiêm chống lại Tây Sơn, và An
Nam Quốc Vương Quang Trung (1789-1792) của
nhà Thanh.
30.
Thông sử, 1978:208 [truyện Trịnh
Khả]; ANCL, q. 5, 1961:106
[105-107]; ÐVSKTB, 1997:415-416; CM
9:8-9; 1998, I:582-584.
31.
Xem Vũ Ngự Chiêu, Các vua cuối nhà
Nguyễn, tập III.
32.
Vũ Ðình Hoè, Hồi ký, 2004:938.
33.
Xem Chính Ðạo, 55 Ngày & 55 Ðêm,
in lần thứ 5 (Houston: Văn Hóa, 1987, 1999),
tr. 20; & Việt Nam Niên Biểu, I-C:
1955-1963 (Houston: Văn Hóa, 2000),
tr. 120.
Phụ
Bản:
Xin
ghi
lại những trường
hợp mất đất tiêu
biểu nhất trước
thời Pháp thuộc:
I. GIA ÐÌNH HỒ QUÍ LY
(1400-1407):
Vì
nhà
Hồ (1400-1407)–giống như nhà Mạc (1527-1593)
và Tây Sơn (1778-1802), chỉ phụ chép trong
"quốc sử" như "Ngụy" và "nghịch thần truyện"
(Ðại Việt Sử Ký Toàn Thư [ÐVSKTT],
q. IX; Khâm Ðịnh Việt Sử Thông Giám Cương
Mục [CM], XI:36-43, XII:1-21; (1998),
I:707-735); Lê Quí Ðôn, Thông sử, 1978,
III:253-397–xin ghi lại những chi tiết sau
theo "quốc sử":
A.
Tháng
3/1405, Hồ Hán Thương sai Hoàng Hối Khanh
cắt đất Lộc Châu (59 xã thôn) của Lạng Sơn
cho nhà Minh. (CM,
XII:7; (1998), I:720-721; ÐVSKTB, 1997:518)
Hoàng
Quảng
Thành,
thổ
quan
Tư
Minh,
tâu
lên
rằng
nhà
Trần đã cướp đất Cổ Lâu [Lộc Châu] (Lạng
Sơn). Chu Lệ (Thành Tổ 1403-1424); ÐVSKTB,
1997:515)] cho lệnh Quí Ly trả lại đất trên.
Nay sứ nhà Minh lại qua. Hán Thương sai Hối
Khanh làm "cát địa sứ."
Không
hài
lòng
việc
Hối
Khanh
cắt
nhượng
quá
nhiều
đất, Quí Ly ngầm cho lệnh đầu độc các thổ
quan do nhà Minh bổ nhiệm. Tuy nhiên, châu
Tây Long và huyện Tây Lâm này ngày nay nằm
trong lãnh thổ đạo Ðiền Nam, tỉnh Quảng Tây,
của THNDCHQ. (CM
XII:7, 1998, I:721)
B.
Năm 1407, Chu Lệ xâm lược, bắt Quí Ly và gia
quyến về Kim Lăng. Tháng 7/1407, cải tên Ðại
Việt thành "Giao Chỉ bố chính ti," lập phủ
huyện (17 phủ, 5 châu, 12 vệ), đặt quan lại,
Cuối năm 1427, Lê Lợi mới khôi phục được đất
nước. [Xem supra]
II. GIA ÐÌNH MẠC ÐĂNG
DUNG:
A.
Ngày
30/11/1540, Mạc Ðăng Dung cùng Minh Văn và
hơn 40 thuộc hạ qua Trấn Nam Quan tạ tội với
quan tướng Minh.
Nguyên
bọn
Tướng
nhà
Minh
là
Cừu
Loan
và
Mao
Bá Ôn đã tới Quảng Tây, tập trung quân lính
chuẩn bị đánh Ðại Việt. Quân Minh, kể cả
chính binh và kỳ binh (quân lưu động), dự
trù lên tới 220,000, chia làm ba cánh xâm
phạm Ðại Việt theo ngả Bằng Tường, Long Châu
và Tư Minh. Vân Nam cũng được lệnh mang ba
đội tiễu binh, mỗi đội 21,000, từ ghềnh Liên
Hoa (Mông Tự, phủ Khai Hóa nhà Thanh [nguyên
là đất của Việt, mất vào dịp nào không rõ])
tràn vào Ðại Việt.
Lại
truyền hịch hạch tội Ðăng Dung diệt nhà Lê,
ai bắt được một tội nhân sẽ thưởng 2 nén
vàng và ban quan tước. (CM,CB, 27:31-32; 1998, II:114-115) Mặt khác, dụ bảo cha con Ðăng Dung
tự trói mình đợi tội, dâng nạp sổ sách đất
đai, dân đinh, sẽ được tha tội chết. Ðăng
Dung bèn sai sứ sang gặp bọn Bá Ôn dàn xếp.
Bá Ôn đồng ý ngày 30/11/1540, Ðăng Dung phải
làm lễ đầu hàng tại Trấn Nam Quan. Ngày này,
Ðăng Dung cùng cháu là Văn Minh và hơn 40
tùy tùng
"[M]ỗi
người
đều cầm thước, buộc dây vào cổ, đi chân
không đến bò rạp ở mạc phủ nước Minh, giập
đầu quì dâng tờ biểu xin hàng, biên hết đất
đai quân dân quan chức trong nước để xin xử
phân, nộp các động Tê Phù, Kim Lặc, Cổ Sâm,
Liễu Cát, La Phù, An Lương của châu Vĩnh
Yên, trấn Yên Quảng xin cho nội thuộc lệ vào
Khâm Châu." Rồi sai cháu vào Yên Kinh dâng
biểu đầu hàng. (ÐVSK, BKTB, XVI:131-132).
Theo
sử quan nhà Nguyễn, Khâm châu chí
của nhà Thanh chép là "năm Gia Tĩnh nhà
Minh" (Chu HậuTổng [hay Thế Tông], 1522-
1566), Ðăng Dung nạp trả 5
động Tê Phù, Kim Lặc, Cổ Sâm, Liễu Cát, La
Phù, không có An Lương.
Quảng
Yên
sách thì chép động An Lương nay là
phố An Lương thuộc châu Vạn Ninh, phủ Hải
Ninh, tỉnh Quảng Yên.
KÐVSTGCM
cho rằng không cắt động An Lương. (CM,CB,
27:34; 1998, II:116)
Nam
Quan
ở về phía Tây Nam châu Bằng Tường, phủ
Thái Bình, tỉnh Quảng Tây. (CM,CB, 27:34-35;
1998, II:116-117)
Minh
sử thông sự (q.32) chép tới năm 1538
Ðăng Dung mới cử sứ qua nhà Minh vì đường ra
biên ải bị bọn Trần Cung ngăn chặn.
Bọn
Bá
Ôn cho Ðăng Dung về nước đợi lệnh. Văn Minh
và Nguyễn Văn Thái lên Kim Lăng yết kiến vua
Minh. Ngày 7/11/1541, bọn Bá Ôn và Văn Minh
tới Kim Lăng. Bá Ôn đề nghị Hậu Tổng nhìn
nhận Ðăng Dung, vì Ðăng Dung thành khẩn qui
phục, lại nộp đất. Phần bọn Trịnh Duy Liêu,
sứ giả của Nguyễn Kim gửi tới–dưới danh
nghĩa một dòng giõi nhà Lê giả là Lê
Ninh–chẳng nên cứu xét thêm. (ÐVSKTT, XVII, 3:132-133)
Hậu
Tổng đồng ý, đặt An Nam đô thống
sứ ti, cho Ðăng Dung chức quan tòng
nhị phẩm (đô thống sứ), được quyền thế tập.
Tuy nhiên, ngày 11/9/1541, Ðăng Dung đã
chết. (Thông sử, 1978:272-273, 280;
CM :36-37; 1998, II:118-120).
B.
Ðời Hậu Lê Trung Hưng (1593-1789), tức
Lê-Trịnh, con cháu nhà Mạc được nhà Minh,
nhà Thanh can thiệp cho giữ 4 châu đông bắc
trấn Thái Nguyên (Cao Bằng ngày nay) tới
1677.
1.
Việc cắt nhượng này được thỏa thuận vào năm
1599, sau khi Phùng Khắc Khoan đi sứ về. Mạc
Kính Cung được giữ 4 châu Thạch Lâm (22 xã),
Quảng Uyên (38 xã), Thượng Lang (32 xã), Hạ
Lang (22 xã). [Xem infra]
2.
Sau khi lật đổ nhà Minh, tháng 2-3/1669,
Huyền Hoa (Khang Hi, 1662-1722) sai bọn Lý
Tiên Căn và Dương Doãn Kiệt mang chỉ dụ bắt
Trịnh Tạc nhường bốn châu Thái Nguyên cho
Kính Vũ. Hai bên thảo luận sôi nổi, nhưng
nhà Thanh không lùi bước. Cuối cùng, Trịnh
Tạc đành "thờ nước lớn." (ÐVSK, BKTB, q. 19; 1967:314-315; CM, 33:25-26;
1998, II:320-321)
3.
Tháng
8-9/1677, Ðinh Văn Tả đánh Cao Bình. Kính Vũ
chạy qua Long Châu. Trước đây Kính Vũ ủng hộ
Ngô Tam Quế, nên nhà Thanh che chở. Nay Quế
làm phản, Thanh quay lưng.
Tuy
nhiên,
sau 85 năm dưới sự cai quản của họ Mạc, địa
giới các châu, bản thay đổi rất nhiều. Không
rõ bao nhiêu đất đai bị đặt vào bản đồ châu
Tư Minh và Quảng Tây. Sử quan nhà Nguyễn,
chẳng hạn, không thể khảo cứu được "Ðương
Châu" phủ Bắc Bình dưới đời Lê Thánh Tông. (ÐNNTC, 1997, IV:419)
III. ẢI LÊ HOA (MÔNG TỰ
NGÀY NAY):
Tháng
10/1427,
giữa
khí
thế
đang
lên
của
Lê
Lợi,
viện quân của Liễu Thăng và Mộc Thạnh kéo
vào lãnh thổ Ðại Việt, hy vọng cứu nguy Ðông
Ðô. Trần Nguyên Hãn, Lê Sát và Lê Nhân Chú
giữ ải Chi Lăng [ngăn chặn Liễu Thăng]; Phạm
Văn Xảo và Lê Khả giữ ải Lê Hoa ở Mông Tự
[ngăn chặn Mộc Thạnh]. (Thông sử, 1978:64-65,
191-192 [truyện Phạm Văn Xảo], 209 [truyện
Trịnh Khả])
Ngày
8/10/1427
[18/9
Ðinh
Mùi],
Liễu
Thăng
kéo
quân
qua
ải
Pha Lũy. Trần Lựu lui quân về Ải Lựu, rồi ải
Chi Lăng. Hai ngày sau, 10/10, Trần Nguyên
Hãn và Lê Sát phục binh giết chết Liễu Thăng
tại núi Mã Yên (Chi Lăng). (Thông sử,
1978:66)
Ngày
15/10,
viện
binh
Lê
đến
Chi
Lăng.
Giết
thêm
Lương Minh. Ngày 18/10, từ Chi Lăng, Thôi Tụ
và Hoàng Phúc tiếp tục tiến binh. Nhưng Thái
úy Trần Nguyên Hãn, Tư mã Lê Sát, Thiếu úy
Lê Lý chiếm được thành Xương Giang. Tri phủ
nhà Minh Lưu Tử Phu tử trận cùng Kim Dận, Lý
Nhậm. Vòng vây quanh Ðông đô xiết chặt hơn.
Rồi ngày 3/11, Lê Vấn và Lê Khôi phá tan
quân Minh ở Xương Giang. Bắt sống Thôi Tụ
cùng Hoàng Phúc và hơn 3,000 quân. Giết chết
50,000 quân Minh.
Quân
Mộc
Thạnh được tin tan rã. Trịnh Khả chém chết
hơn 10,000, bắt hơn 1000 tù binh "giặc Ngô,"
hơn 1000 ngựa ở Lãnh Câu, Ðan Xá. Mộc Thạnh
một mình thoát thân. (Thông
Sử, 1978:67, 209 [truyện Trịnh Khả];
CM XIV, 1998, I:820)
[Theo
Ngô
Thì Sĩ, Lê Lợi mật chỉ cho các Tướng là Tổng
binh Vân Nam Mộc Thạnh đã già, chỉ có ý cầm
cự với quân Phạm Văn Xảo, chờ tin Liễu
Thăng. Khi quân Lê đưa tù nhân và cờ
xí tới nơi, quân Thạnh chưa đánh đã tan. Mộc
Thạnh một mình thoát thân. Quân Lê bắt được
vũ khí, xe cộ nhiều gấp 2 lần thành Xương
Giang; ÐVSKTB, 1997:562)]
Từ
Ðông
Quan, ngày 10/12/1427, Lê Lợi và Vương Thông
định hòa ước. Ngày 29/12, quân Minh rút lui.
(Thông sử,
1978:69; ÐVSKTB, 1997:563)
Tại
Kim Lăng, tháng 12/1427, sau khi nghe tin
Liễu Thăng tử trận và Vương Thông bị vây
khốn, Chu Chiêm Cơ đồng ý bãi binh. [Trương
Phụ không đồng ý; quan nội các Kiến Nghĩa và
Hạ Nguyên Cát cũng vậy. Dương Vĩnh Kỳ và
Dương Vinh muốn hòa. Theo họ, 20 năm chiến
tranh đã quá dài. Chiêm Cơ đồng ý, sai La
Nhữ Kính mang chiếu phong Trần Cảo làm An
Nam Quốc Vương. (Thông
sử, 1978:70; ÐVSKTB, 1997:563)
Ngày
29/12,
Vương
Thông
dẫn
quân
về
nước.
Mười
phần
khi đến chỉ còn lại hai. La Nhữ Kính tới
Long Châu đã gặp Vương Thông. Thông sau bị
tống giam, tước đoạt tài sản. (ÐVSKTB, 1997:564)
Tuy
nhiên,
sau đó ải Lê Hoa bị mất vào Trung Hoa. Trong
lời chú, sử quan KÐVSTGCM cho rằng có tin
quân Mộc Thạnh kéo tới châu Thủy Vĩ [ranh
giới Tuyên Quang].
IV. LÊ-TRỊNH: "HƯNG
HÓA"
A.
Năm 1728 [đời Huỳnh Hoa, Thanh Thành Tông
(1662-1735), niên hiệu Ung Chính thứ 6, quan
Việt và Thanh đặt bia đá giới mốc "châu Vị
Xuyên, Tuyên Quang" trên bờ sông Ðỗ Chú,
huyện Vĩnh Tuy. Năm 1831, Minh Mạng cho lệnh
làm lại bia, khắc thêm văn bia nhà Thanh như
sau: "Ngày 11/10/1728 Ngô Sĩ Côn, Tri phủ
Khai Hoá và Vương Võ Ðảng, Du kích trung
dinh trấn Khai Hóa, bàn định biên giới với
đại diện "Giao Chỉ" là Nguyễn Huy Nhuận [tả
thị lang bộ Binh, và tế tửu Nguyễn Công
Thái], đồng ý dựng bia biên giới ngày
22/10/1728, lấy sông Ðỗ Chú làm căn cứ."
(ÐNNTC, 1997, 4:353-354].
Tháng
2/1769,
Tướng
Trịnh
là
Ðoàn
Nguyễn
Thục
chiếm
được
động
Mãnh Thiên (huyện Thanh Châu) của "giặc khâu
mắt" Hoàng Công Chất (1751-1769). Chất đã
chết. Con là Công Toản chạy thoát qua Vân
Nam. 7 châu dưới quyền Công Toản [Tung Lãng
(Mường La), Lễ Tuyên, Hoàng Nham, Tuy Phụ,
Hợp Phì, Lai Châu, Khiêm Châu] đều xin qui
phụ nhà Thanh [nay là 6 trại thuộc huyện
Kiến Thủy, phủ Lâm An, Vân Nam]. (LTHCLC, q.IV, "Hưng Hóa," Dư Ðịa
Chí, 1992, I:142-143; CM 43:21-23, 28-29;
1998, II:684-686, 691-692 [đánh Lê Duy Mật].
[Theo
Phạm Thận Duật, năm 1775, Nguyễn Thục qua
đòi nhà Thanh 7 châu, không thành, nên nhà
Lê cắt đặt lại làm 16 châu như cũ để dấu
việc mất đất; Idem., "Hưng Hóa Kỷ Lược"
[1856], bản dịch Ngô Thế Long; trong Nguyễn
Văn Huyền, Phạm Thận Duật, cuộc đời
và tác phẩm (Hà Nội: KHXH, 1989), tr.
114-115, 120-121. KÐVSTGCM không
ghi việc này]
B.
Năm 1780, nhà Thanh xâm lấn thêm 4 châu
Hoàng Nham, Tuy Phụ, Hợp Phì, và Lễ Tuyên
thuộc phủ An Tây (Hưng Hóa, nay thuộc Lai
Châu), sát nhập vào phủ Khai Hóa, Vân Nam.
Cuối năm đó, Trịnh Sâm viết thư cho quan
Thanh ở Vân Quí, họ chỉ im lặng. Sau Sâm
bệnh, phải bỏ qua.
Quảng
Lăng,
Khiêm Châu thành lãnh thổ huyện Kiến Thủy,
phủ Khai Hóa. (CM
45:23; 1998, II:754-755)
C.
Tháng
6-7/1806, dân Thanh lấn chiếm một số động ở
biên giới Hưng Hóa. Ðây là cuộc tranh chấp
lãnh thổ và dân cư từ đời Lê-Trịnh. Không
những từ chối trả lại 6 châu thuộc phủ An
Tây, quan địa phương Vân Nam còn lấn chiếm
dân hai châu Chiêu Tấn và Lai Chính vào trại
Mãnh. Tổng trấn Nguyễn Văn Thành làm sớ xin
Gia Long cho người bàn luận việc biên giới
với Tổng đốc Vân Quí. Gia Long tuyên bố mới
dựng nước, chưa tiện. Bởi thế 6 châu mất vào
nhà Thanh. (ÐNTLCB,
I, 3:286; ÐNNTC, 1997, IV:288-289. Châu
Quảng Lăng hay Tung Lăng (Mương La) có mỏ
vàng. Quan Thanh đưa dân Hồ Quảng tới, mở 3
phố.)
D.
Năm 1831, nhà Thanh lại định xâm lấn một
phần lãnh thổ Hưng Hóa. Mục luyện phủ Lâm An
đưa 600 lính tới đòi chiếm đồn Phong Thu.
Nói Phong Thu là lãnh thổ Thanh. Minh Mạng
sai Hộ tào Ðặng Văn Thiêm và thống quản
Nguyễn Ðình Phổ đem 1000 quân và 10 thớt voi
lên đóng giữ trấn Hưng Hóa. Tới Hưng Hóa,
trích giao trấn thủ Vũ Văn Tín 300 biền
binh, trấn binh và thổ binh cùng 5 thớt voi
tới Chiêu Tấn phòng ngự. Rồi viết thư cho
chỉ huy người Thanh, khẳng định Phong Thu là
đấtViệt.
Tháng
7/1831,
trấn
thủ
Hưng
Hóa
Vũ
Văn
Tín
và
tham hiệp Ngô Huy Tuấn đi kinh lược Chiêu
Tấn. Mục luyện Thanh tấn công Phong Thu. Thủ
đồn Chử Ðình Thông rút về động Bình Lư. Minh
Mạng cho Ðặng Văn Thiêm thêm 200 biền binh
và 2 thớt voi để theo Vũ Văn Tín tới Phong
Thu. Ðến nơi, quân Thanh đã triệt thoái vì
bệnh tật, bỏ lại súng, cờ. Giao cho Chánh
xuất đội Bùi Văn Lương giữ đồn với 100 lính.
Sau đó viết thư cho nhà Thanh. Nhà Thanh
muốn giảng hòa, hẹn ngày bàn thảo. (ÐNTLCB, II, 10:284-285)
Tháng
9/1831,
sau
khi
bắt
được
Ðiêu
Doãn
An–một
thổ
tù
đã xúi bẩy quan Thanh chiếm Phong Thu–Vũ Văn
Tín rút về Hưng Hóa. Dọc đường, Tín ốm chết.
Ngô Huy Tuấn bị bệnh. Hơn 300 biền binh cũng
bị bệnh, ốm chết dọc đường. Dẫn bọn Ðiêu
Doãn An, Ðiêu Doãn Kiên và Ðiêu Doãn Võ về
kinh. Dùng Ðiêu Quốc Long, con Quốc Thuyên,
quản trị 2 động Phong Thu và Bình Lự. Nhưng
muốn giữ tình hữu nghị với nhà Thanh, bỏ qua
việc 6 châu mất từ đời Lê-Trịnh. (ÐNTL, CB, II, 10:325-327. Theo Y
sĩ Nguyễn Xuân Chữ, họ "Ðiêu" chính xác hơn
"Ðèo.")
Tháng
11/1831,
Minh
Mạng
bỏ
tổ
chức
Bắc
thành
và
11 trấn. Ðặt tỉnh hạt từ Quảng Trị trở ra.
Hiệu lực từ ngày 2/2/1832. (ÐNTL, CB, II, 10:355-73, 394) Tỉnh Hưng
Hóa mới gồm 3 phủ [Qui Hóa, Gia Hưng,
An Tây], 5 huyện, 16 châu. [Phủ Gia Hưng
là huyện Tam Nông, phủ Sơn Tây cũ]
Tháng
6-7/1841,
Thiệu
Trị
lập
phủ
Ðiện
Biên,
kiêm
lý
châu
Ninh Biên, lấy Lai Châu và Tuần Giáo làm
thống hạt. (ÐNTL, CB,
III, 23:263-265) Tháng
7-8/1852, Tự Ðức cắt thêm châu Quỳnh Nhai và
châu Luân vào phủ Ðiện Biên. Phủ An Tây chỉ
còn 1 châu Chiêu Tấn [Mường So hay Mường
Thu]. (Ðại Nam Nhất
Thống Chí của
Quốc Sử Quán Triều Nguyễn (q. 24; bản dịch
Phạm Trọng Ðiềm và Ðào Duy Anh, Viện Sử Học,
5 tập, (NXB Thuận Hóa, 1997), tr. 285-291
[265-332])
Tháng
7-8/1852,
ranh
giới
Tuyên
Quang
cũng
định
lại.
Ðịa
phận xã Bình Di/làng Ðông An (Khai Hoá).
Tuần phủ Khai Hóa bí mật sai người tràn sang
lập nhà cửa, đuổi dân cư chạy đi. Phó Kinh
lược sứ Ngụy Khắc Tuần mang quân tới người
Thanh mới rút. (ÐNTL,
CB, IV, 27:349-350)
Tuyên Quang: 1 phủ [Yên Bình], 1
huyện [Hàm Yên], 5 châu [Vị Xuyên, Thu
Châu, Ðại Man, Lục Yên, Bảo Lạc].
Từ
năm 1848, thổ phỉ và hải tặc Thanh bắt đầu
lộng hành ở miền thượng du. Tình hình nghiêm
trọng đến độ sau này Tự Ðức sẽ phải mời quân
Thanh vào tiếp tay diệt phỉ. Ðồng thời "nuôi
vỗ" những nhóm thổ phỉ mạnh, "dĩ phỉ trị
phỉ." Giặc Cờ Ðen, Cờ Vàng, chẳng hạn, được
giao quyền cai trị và thu thuế ở các tỉnh
Hưng Hóa, Tuyên Quang.
V.
TỰ ÐỨC XIN NỘI PHỤ NHÀ THANH (1882-1883)
Ðáng
ghi
nhận
là
"Hán
Văn
Ðế"
ở
Thuận
Hóa,
vào
lúc cuối đời còn xin phụ thuộc vào nhà
Thanh! (ÐNTLCB, IV, 35:89-91; Sogny, 1943:124-125)
Ngày
11/2/1882,
Ðường
Ðình
Canh
tới
Huế,
cùng
Mã
Phục
Bôn
[Bân]. Tự Ðức không tiếp, sợ Pháp nghi kị.
Cho Nguyễn Văn Tường và Trần Thúc Nhẫn tiếp.
Canh mật báo với Tường kế hoạch đánh Bắc Kỳ
của Pháp, dưới chiêu bài đuổi Lưu Vĩnh Phúc,
mà Tăng Kỷ Trạch đã trình về Yên Kinh.
Tự
Ðức sai Tường yêu cầu nhà Thanh can thiệp.
Ðề nghị làm thuộc quốc của nhà Thanh, đặt
đại diện ở Yên Kinh và Quảng Ðông. Xin nhờ
tàu Thanh đưa người Việt đi các nước Anh,
Nga, Phổ, Pháp, Mỹ, Áo, Nhật Bản xem xét và
học.
[Theo
tài
liệu Trung Hoa: (1) Cho Ðại Nam cử một đại
sứ
đặc mệnh toàn quyền ở Yên Kinh, và
gửi một số quan chức qua tập sự ở Tổng lý
nha môn; (2) cho Ðại Nam cử nhân viên qua
Bri-tên và Pháp, làm việc tại sứ quán
Trung Hoa, để khẳng định
quan hệ truyền thống giữa hai nước;
(3) Cho Lưu Vĩnh Phúc tới Quảng
Châu để tiếp tế súng đạn,
quân nhu. Tháng 3/1882, Ðình Canh viết báo
cáo gửi Lý Hồng Chương, nhưng
Tổng
lí nha môn không trả lời; Thọ,
1995:268)].
Tự
Ðức cũng viết thư cho Lý Hồng Chương, Trương
Thụ Thanh. (ÐNTLCB,
IV, 35:89-91) Vua
Thanh trả lời: "Khả, sỉ bắc phong tái
biên" [Nous
prendrons des mesures dès l’arrivée du vent
du nord."] Ngày
24/11/1882, Rheinart đã có được bản sao thư
trả lời của vua Thanh. (Sogny, 1943:124-125)
VI. VỀ LẠNG SƠN-NAM
QUAN:
Lạng
Sơn là tỉnh biên giới Ðông Bắc Việt Nam và
Trung Hoa. Theo Ðại Nam Nhất Thống Chí,
phía Bắc giáp Trấn Nam Quan, thuộc châu Bằng
Tường, phủ Thái Bình, tỉnh Quảng Tây; phía
Ðông Bắc giáp tỉnh Quảng Yên và địa giới
Trung Hoa.
Phủ
lị thành Lạng Sơn cách châu lị Tư Minh (nay
là Ninh Minh) 10 dặm về phía Tây Nam. (Quốc Sử Quán Triều Nguyễn, Ðại
Nam Nhất Thống Chí (q. 24); bản dịch
Phạm Trọng Ðiềm và Ðào Duy Anh, Viện Sử Học,
5 tập, (NXB Thuận Hóa, 1997), IV:365-400).
Ðịa
danh
Trấn Nam Quan–mà nhiều người dưới
thời Pháp thuộc gọi là "Ải Nam Quan"–xuất
hiện lần đầu tiên trong đoạn sử nói về việc
họ Mạc cắt đất cho nhà Minh dẫn trên. (ÐNNTC, 1997, IV:384-386) Trước đó, thời nhà Trần
(1226-1400), chỉ ghi việc Trần Thái Tông đưa
quân qua Bằng Tường để khai thông liên lạc
với nhà Nam Tống. Ðầu đời nhà Hồ, hai lần
nhắc đến "Ải Pha Lũy" (1406 và 1427). Ðây là
cửa ải chính thức cho các sứ đoàn, chỉ có
một cánh cổng bằng gỗ, có khóa. Tường bằng
gạch, dài 119 trượng, xây dựa theo triền
núi. Khoảng gần chính giữa, có cửa quan với
biển "Trấn Nam Quan," dựng từ năm
1728 (Ung Chính thứ 6). Bên trên cửa, có một
trùng đài, biển đề 4 chữ "Trung Ngoại
Nhất Gia," dựng từ năm 1781 đời Càn
Long (1736-1796). Phía Bắc có Chiêu Ðức
Ðài. Ðằng sau đài này có Ðình tham
đường (nhà dừng ngựa của nước Thanh). Phía
Nam, trên lãnh thổ Việt chỉ có "Ngưỡng
Ðức Ðài." Hai bên tả hữu
đài này có hành lang, mỗi khi sứ bộ tới nơi,
dùng làm chỗ tạm nghỉ.
Những
dịch vụ khác–như giao giải tù nhân–dùng "Ải
Du Thôn," cách tỉnh Lạng Sơn 30 dặm về phía
Bắc, nằm về phía hữu của Trấn Nam Quan. Ði
đường núi mất khoảng 2 canh giờ rưỡi [5
tiếng đồng hồ tới Trấn Nam Quan].
Bản
đồ quân sự Pháp năm 1887 (tỉ lệ 1/100000),
ghi từ Lạng Sơn đến Ðồng Ðăng đường bộ là 13
cây số. Từ Ðồng Ðăng tới Trấn Nam Quan, tức
Porte de Chine (trong lãnh thổ Bằng
Tường, Quảng Tây), là 2,8 cây số. (In lại trong Nguyên Vũ, Ngàn Năm
Soi Mặt (Houston, TX: Văn Hóa, 2002),
tr. 308).
"Porte
de Chine" bị phá hủy trong Thế chiến thứ
hai, khi quân Nhật tấn công Ðồng Ðăng. Ngày
nay, gọi là Mục Nam Quan hay Hữu Nghị Quan.
Năm 2005, không còn Ngưỡng Ðức
Ðài của Việt Nam nữa. Tại cây số "0
km"chỉ có một gờ sắt nổi trên mặt đường. Hai
bên lằn ranh này đều có trạm kiểm soát người
qua lại.
Sách
sử
Việt
còn
ít
nhất
4
chứng
từ
về
Trấn Nam Quan.
1.
Ðoạn
nói về Mạc Ðăng Dung đầu hàng nhà Minh, và
cắt 5 động trấn Lạng Sơn để "đổi hòa bình."
(supra)
Vì
không
tìm được dấu vết ngày xây dựng Trấn Nam Quan
trong cả tài liệu Hoa và Việt, sử quan nhà
Lê và Nguyễn chú thích rằng "Cửa quan Nam
Giao" hay Trấn Nam Quan chỉ được ghi vào sử
từ đời Mạc Ðăng Dung [1540]. (ÐNNTC, 1997, IV:384-386)
[Một thông tin ghi lập nên trong
niên hiệu Gia Tĩnh (1522-1566) của Hậu
Tổng; ÐNNTC, 1997, 4:387. Tuy nhiên, chỉ
là phỏng đoán].
2.
Những đoạn nói về việc Trịnh Tùng xin cầu
phong cho Lê Thế Tông từ 1595 tới 1599; và
quyết định của nhà Minh bắt Trịnh Tùng phải
nhường cho con cháu họ Mạc giữ 4 châu Ðông
Bắc Thái Nguyên–sau này đổi tên làm Cao Bình
(1677), và rồi Cao Bằng (từ đời Tây Sơn,
1789).
1595:
Tuần
phủ Ðái Diệu của nhà Minh tới biên giới
Long Châu, gọi bọn Kính Dụng tới tra hỏi.
Cho Kính Dụng, Trang vương Kính Chương,
Kính Cung ở Hải Ðông để lo việc tế
tự họ Mạc.
a.
Ngày
26/2/1596, sứ Trịnh là Ðỗ Uông và Nguyễn Văn
Giai tới Trấn Nam Quan gặp Trần Ðôn Lâm.
Trịnh Tùng còn sai tộc mục [tôn thất] Lê
Nganh và Lê Hưu (anh Thế Tông) cùng Công bộ
tả thị lang Phùng Khắc Khoan mang 2 tờ kiểu
ấn đóng mực của ấn An Nam Ðô Thống Sứ Ti
và ấn An Nam Quốc Vương,
cùng 100 cân vàng, 1000 lạng bạc, vài mươi
kỳ lão, tới Trấn Nam Quan. Ít năm qua, con
cháu nhà Mạc khiếu nại là họ Trịnh mạo xưng
dòng giõi họ Lê. (ÐVSK,BKTB, 1967:209)
Ngày
28/2/1596,
Trần
Ðôn
Lâm
gửi
điệp
thư
yêu
cầu
Lê
Thế Tông (1573-1599) tới Trấn Nam Quan hội
khám. Ngày 3/3 Thế Tông tới Trấn Nam Quan.
Nhưng đại diện Minh không đến, đòi các vật
sự tích về người vàng, ấn vàng. Tháng
4/1596, Thế Tông phải trở lại Hà Nội. (ÐVSK,BKTB,
1967:210)
b.
Ngày
13/5/1597, Lê Thế Tông tới Trấn Nam Quan.
Ngày 26/5, Thế Tông cùng Trần Ðôn Lâm vượt
qua Trấn Nam Quan, để họp với quan tướng nhà
Minh trên đất Bằng Tường, Quảng Tây, hội
khám. Bàn định xong việc giao hảo. (Thông sử, 1978:372; ÐVSK,BKTB,
1967:214-215; CM, 30:19; 1998,
II:214-215)
Tổng
đốc Trần Ðại Khoa tâu nên chuẩn y. "Nghĩ
chúng là dòng giõi cống thần, thì nên gia ơn
bảo toàn cho nó. Nên cắt một nơi ở phủ trị
Cao Bằng [?]cấp cho Mạc Kính Dung để an trí
y ở đó." (Thông
sử, 1978:372-373). Tuần phủ Ðái Diệu cũng tâu tương
tự. Vì cấp dưới đã nhận hối lộ của con cháu
họ Mạc, Lý Trinh, thị lang bộ Binh hoặc bộ
Công, trình thuận. Dực Quân (Thần Tông,
1573-1619) đồng ý. Ngày
4/6/1597 Thế Tông về đến Hà Nội.
Ngày
9/6/1597,
công
bộ
thượng
thư
Phùng
Khắc
Khoan
và
Nguyễn
Nhân Thiêm mang cống vật qua Yên Kinh. Ngày
2/1/1599, Khắc Khoan rời Yên Kinh về nước,
mang theo sắc phong của Chu Dực Quân, cho Lê
Thế Tông chức An Nam Ðô thống sứ ti Ðô
thống sứ. (Thông
sử, 1978:375; ÐVSK,BKTB, 1967:214-215,
224, 225; CM, 30:19, 26; 1998, II:214-215,
221)
Thổ
quan Quảng Tây nhận hối lộ, xin cho Mạc Kính
Cung giữ 4 châu thuộc trấn Thái Nguyên.
Phùng Khắc Khoan khuyên Chúa Trịnh "phải thờ
nước lớn." (ÐVSK,BKTB,
1967:225; CM, 30:27, 1998, II:221- 222;
Thông sử, 1978:375; ÐNNTC, 1997,
4:402)]
3.
Khi đi sứ Trung Hoa năm 1760, Bảng nhãn Lê
Quí Ðôn chép được hai bản văn bia của Trung
Hoa về vấn đề quan ải.
a.
Bia thứ nhất do Tuần phủ Quảng Tây Lý Công
Phất dựng khoảng năm 1725, sau khi tu bổ lại
Trấn Nam Quan từ tháng 3/1925 [Tháng Hai
15/3-12/4/1725] tới cuối năm mới xong.
(Lý
Công
Phất, "Trùng tu Trấn Nam Quan ký;" (1725),
Lê Quí Ðôn, Vân Ðài Luận Ngữ, bản
dịch Phạm Vũ, Lê Hiền (Sài Gòn: 1972), tr.
160-162. ÐNNTC ghi là Cam Nhữ Lai (1997,
4:384-385)
b.
Bia thứ hai, "Tuần duyệt An Nam biên ải ký"
của Án sát Quảng Tây Hoàng Nhạc Mục. Theo
Nhạc Mục, ngày 13/3/1746 Mục đến Ðiền Châu,
cách Bách Sắc chừng 100 dặm. Ngày 22/3/1746
[1/3 Bính Dần nhà Thanh], đi từ phủ Thái
Bình tới quận Bằng Tường. Từ Bằng Tường tới
Trấn Nam Quan mất 4 ngày. Khu vực Lạng
Sơn-Cao Bằng này vừa cũ, vừa mới có 116 cửa
quan dài theo biên giới, quân biên phòng
1935 tên, quân thổ dân 1170 người. (VÐLN, 1972:165) Ở Thủy Khẩu quan, có một con sông
nước trong, rộng hơn 10 trượng từ Cao Bằng
chảy tới. (VÐLN,
1972:164)
Ngày
3/5/1746
[14/4
Bính
Dần],
về
lại
Liễu
Châu.
Ngày
19/5,
về tới tỉnh Quảng Tây. Ngày 27/6 [9/5 nhuận
Bính Dần], trở lại Liễu Châu vẽ bản đồ và
khắc bia đá. (VÐLN,
1972:165) [Lịch Thanh ghi tháng 3 nhuận.
Lịch Lê-Trịnh ghi tháng 12 Ất Sửu nhuận].
4.
Hai đoạn sử nói về cuộc xâm lược của Tôn Sĩ
Nghị:
a.
Tháng
10-11/1788, Tôn Sĩ Nghị đưa quân thuộc bốn
tỉnh Hoa Nam, chia làm 2 cánh tiến vào đất
Bắc xâm phạm Ðại Việt.. Cánh quân phía Ðông,
chia làm 3 mũi: Mũi chủ lực do Tôn Sĩ Nghị
và Hứa Thế Hanh ra cửa Trấn Nam Quan, tiến
vào Lạng Sơn, xuống Kinh Bắc, rồi Thăng
Long; Mũi thứ hai do Sầm Nghi Ðống, tri chi
phủ Ðiền Châu tiến vào Cao Bằng, đến Thái
Nguyên; Mũi thứ ba, tiến từ Khâm Châu vào
Quảng Ninh, Hải Dương. Cánh quân phía Tây,
dưới quyền Ðề đốc Ô Ðại Kình, từ Mông Tự
tiến vào Tuyên Quang, Việt Trì trên bờ sông
Thao. (ÐNTLCB, I, 2:80; CM CB 47:33-35;
1998, II:838-840)
b.
Tháng
1-2/1789, Lê Duy Kỳ theo Tôn Sĩ Nghị chạy
tới Trấn Nam Quan. Duy Kỳ muốn ở lại kháng
chiến, nhưng Sĩ Nghị thuyết phục vua qua
thành Quế Lâm, sẽ có quân tăng viện. Duy Kỳ
chạy qua TH cùng 25 người khác. (CM, CB 47:43; 1998, II:848)
Càn
Long
sai Phúc Khang An làm Tổng đốc Lưỡng Quảng;
định đưa quân qua phục thù. Huệ sai sứ cầu
hòa. Tháng 2-3/1789, Ngô Thì Nhiệm bí mật
qua gặp Khang An. Khang An đồng ý xin ngưng
việc binh. Tháng 4-5/1789, Khang An tới Quế
Lâm. Tuyên bố trời nóng nực phải tạm ngưng
việc binh. Yêu cầu Duy Kỳ gióc tóc theo nhà
Thanh để chuẩn bị về đánh Tây Sơn. Sau đó,
Khang An mật tâu Duy Kỳ đã xin nhập nhà
Thanh, tiếp sứ Tây Sơn.
(CM, CB 47:43-44; 1998, II:849-850)
Houston, 18/2-14/4//2009
Nguyên
Vũ Vũ Ngự Chiêu
2009, Copyright by Chieu N. Vu,
All Rights Reserved
Nguồn:
http://www.hopluu.net
Giới Thiệu Sử Gia Chính Đạo

Lưỡng Khoa
Tiến Sĩ Vũ Ngự Chiêu
(ảnh của PBase.com)
Chính Đạo
là một trong hai bút danh
của Vũ
Ngự Chiêu. Bút danh kia là Nguyên Vũ,
rất nổi tiếng ở Miền Nam trước năm
1975. Trước 1975, Vũ Ngự Chiêu
phục vụ trong binh chủng Pháo Binh Dù,
QLVNCH, và đã có hơn 20 tác phẩm xuất
bản. Sau khi ra hải ngoại, ông vừa
tiếp tục cầm bút vừa đeo đuổi việc
học. Tốt nghiệp Tiến Sĩ Sử tại Đại Học
Wisconsin-Madison năm 1984, sau khi
cùng gia đình di chuyển về Houston,
ông là Giám Đốc nhà xuất bản Văn Hóa
và tốt nghiệp Tiến Sĩ Luật tại Đại Học
Houston năm 1999.
Những
tác
phẩm
của
Vũ
Ngự
Chiêu
xuất
hiện
trước
năm
1975
dưới
bút
danh
Nguyên
Vũ
gồm
có
Đời Pháo Thủ (bút ký), Những Cái Chết
Vô Danh (tập truyện), Trở Về Từ Cõi
Chết (truyện), Vòng Tay Lửa (trường
thiên), Thềm Địa Ngục (truyện), Đêm
Hưu Chiến (truyện), Sau Bảy Năm Ở Lính
(bút ký), Đêm Da Vàng (trường thiên),
v.v. Tại hải ngoại, Vũ Ngự Chiêu
đã in thêm các tập Xuân buồn thảm:
Cuộc Sụp Đổ của Nam Việt Nam (bút ký),
Trận Chiến Chưa Tàn (truyện), Giặc Cờ
Đỏ (trường thiên), cùng hai tâm bút
Paris: Xuân 1996, và Ngàn Năm Soi Mặt.
Về
nghiên
cứu
sử
học,
ông
đã
in
ba
tác
phẩm
bằng
tiếng
Anh
dưới
tên
thực,
và
10
biên khảo bằng Việt ngữ với bút danh
Chính Đạo. Biên khảo duy nhất bằng
Việt ngữ ký tên thực của ông là bộ Các
Vua Cuối Nhà Nguyễn, 1883-1945, gồm ba
tập. Những tác phẩm ký tên Chính Đạo
thường được viết cho độc giả không
chuyên môn, dễ đọc hơn, không quá khô
khan như các biên khảo đúng yêu sách
bác học.
Ông
vừa xuất bản tác phẩm mới nhất với tựa
đề Cuộc Thánh Chiến Chống Cộng,
1945-1975, tập I, gồm 5 phần: Sơ lược
tiểu sử Tổng thống Jean Baptiste Ngô
Đình Diệm (1897-1963); Từ Điện Biên
Phủ tới Geneva; Cuộc truất phế Bảo
Đại; Mùa Phật Đản đẫm máu (1963); và
“Phiến Cộng” trong Dinh Gia Long.
Sau
năm
1975
ở
hải
ngoại,
có
những
dòng
thác
ngụy
tạo
ngụy
biện
nhằm
vặn
méo
sử
kiện
để chạy tội và biện minh cho sự vô
minh của mình, Vũ Ngự Chiêu đã dần dần
xuất hiện như một nhà sử học
khai sáng và can trường. Giá trị tinh
thần của người trí thức không chỉ là
tôn trọng sự thật mà còn nói lên sự
thật và chấp nhận hậu quả của quyết
định can trường đó. Đó là một sự đổi
đời tâm linh có ý nghĩa đã hình thành
nơi Vũ Ngự Chiêu. Huyền thoại và huyễn
mị lịch sử đã làm cho người Việt xa
nhau, chỉ có sự thật mới làm cho người
Việt gần lại với nhau, trong tình dân
tộc, nghĩa đồng bào. Những tác phẩm
mới của Vũ Ngự Chiêu là một đóng góp
sáng giá và có ý nghĩa trong chiều
hướng đó.
Trích Từ : http://www.chuyenluan.net

Những biên
khảo cuả Tiến Sĩ Vũ Ngự Chiêu đã được
phổ biến trên trang mạng Việt Nam Văn
Hiến như sau:
1- Trụ Đồng Mã
Viện: Sự Đàn Hồi của Biên Giới Trung Hoa
2- Nhìn
Lại Mùa Xuân Khói Lửa 1789
3- Đất
Đai
Việt
Nam
Bị
Cộng
Hoà Nhân Dân Trung Hoa Xâm Chiếm
4- Liên
hệ Việt Nam và Pháp
5- Vấn
Đề
Tài
Liệu Nghiên Cứu Lịch Sử
6- Góp
Phần
Nghiên
Cứu
Về
Trương
Vĩnh Ký
8- Cuộc
truất phế Bảo Đại
9- Hồ
Chí Minh Nhà Ngoại Giao
10- Phỏng
Vần Sử Gia Về Hồ Chí Minh
11- Bài
học Mậu Thân 1968
12- Mẫu
Phỏng Vấn Bà Trần Thị Lệ Xuân
13- Ngô Đình
Diệm Là Ai ?
14- Chuyến
Đi Cầu Viện Bí Mật của Hồ
15- Sự
Hình Thành Phong Trào Quốc Gia Mới
16- Mùa Phật
Đản Đẫm Máu
17- Huỳnh
Thúc Kháng và Báo Tiếng
Dân
18- Khái Hưng
Trần Khánh Giư
19- Phiến
Cộng Trong Dinh Gia Long
20- Võ
Nguyên Giáp - Nhìn Lại Bản Lý Lịch Tự
Khai
Trân
trọng
giơí thiệu cùng bạn đọc
|

Trang
mạng
Việt Nam Văn Hiến là nơi lưu trữ và phổ biến
di sản văn hóa của Việt tộc. Thắp
sáng niềm tin Diên Hồng
và nếp sống văn hiến, hầu phục hồi
nền an lạc và tự chủ.
Trở lên đầu trang
|
|