Năm Thứ 4889

www.vietnamvanhien.net



MÙA PHẬT ĐẢN ĐẪM MÁU

Chính Đạo

Cuộc tranh đấu của Phật Giáo năm 1963 là đề tài c̣n gây nhiều xúc động và tranh căi. Tuy nhiên, tới nay vẫn chưa có nghiên cứu sử đích thực nào về đề tài này.

   Một trong những lư do là thiếu sử liệu. Tài liệu văn khố chưa hoàn toàn giải mật, và số người được tiếp cận tư liệu văn khố Đệ nhất Cộng Ḥa không nhiều. Đa số tác giả đều đứng về phe này hay phe kia, xếp đặt và diễn giải các dữ kiện vốn bị giới hạn, thiếu sót và tán quang theo sự yêu ghét hay khuynh hướng chính trị, tôn giáo của họ. Tác nhân lịch sử bị đặt lên những chiếc giường của tên tướng cướp, thừa chặt bớt, ngắn kéo dài ra cho vừa khuôn thước thành kiến tiên thiên của người kể chuyện cổ tích.

   Không ít người c̣n bịa đặt ra những chi tiết không thực, xen kẽ vào những thông tin trộm cắp, nhai lại đó đây, để bẻ cong lịch sử hầu xây dựng một “kỳ đài” vàng mă cho họ Ngô. Tất cả đă khởi đi từ chính họ Ngô và guồng máy tuyên truyền của các nhóm Cần Lao Nhân Vị, Ngày 12/11/1963, chẳng hạn, Tướng Trần Tử Oai tiết lộ với một viên chức Mỹ là Ngô Đ́nh Nhu đă trao cho Tổng Giám Đốc [TGĐ] Thông tin Phan Văn Tạo, thuộc Bộ Công Dân Vụ, 12 triệu để mở chiến dịch tuyên truyền chống Phật Giáo–12 lần lớn hơn ngân khoản phát động chiến dịch chống Cộng vào tháng 7/1955. (Memorandum ngày 13 Nov 1963; LBJL, NS File, Country File, Vietnam, Box 1)

   Năm 1963, để chuẩn bị đón phái đoàn LHQ điều tra việc chế độ Diệm vi phạm điều 18 Tuyên Ngôn Nhân Quyền [Universal Declaration of Human Rights]–tức “Every one has the right to freedom of thought, conscience and religion; this right includes freedom to manifest his religion or belief in teaching, practice, worship and observance;” Doc A-5489, Add.1, cũng tương tự như Điều 17 của Hiến Pháp VNCH ngày 26/10/1956–cơ quan Việt Tấn Xă [VTX] lưu hành một tài liệu bằng ba thứ tiếng Việt, Anh, Pháp, gồm ba [3] tập, do Tôn Thất Thiện chủ biên, nhưng dấu kín những chi tiết như chính quyền ngụy tạo ra để cáo buộc Việt Cộng ném lựu đạn hay ḿn từ lực; hoặc cách đối xử tàn tệ với tăng, ni, sinh viên, học sinh Phật tử qua các chương tŕnh cải tạo rập khuôn Đảng CSVN tại Huế và Sài G̣n do nhóm Nguyễn Mâu và Dương Văn Hiếu tổ chức. Báo cáo của Liên Hiệp Quốc–United Nations, General Assembly, Agenda Item 77: “The Violation of Human Rights in South Vietnam;” Doc A-5489–có những phụ bản này, nhưng chúng tôi chỉ được văn khố LHQ cung cấp phóng ảnh tài liệu báo cáo. Phải tới khi du khảo Việt Nam năm 2004-2005, chúng tôi mới được đọc các hồ sơ tự biện hộ trên của chế độ Diệm. (VNCH, Vấn đề Phật giáo [The Buddhist Questions]; TTLTQG II (TP/HCM), PTT/Đ1CH, HS 8506, 8511). 

   Ngày 24/10/1963, khi phái đoàn Liên Hiệp Quốc tới Việt Nam anh em Diệm-Nhu c̣n bỏ ra một ngân khoản lớn để đón tiếp và sai thủ hạ (Trần Hữu Duệ, một tay chơi nổi danh Sài G̣n) dùng tửu sắc gài bẫy quay phim các đại diện “khả kính” trong phái đoàn Liên Hiệp Quốc. Hành động này không những tự nó là một h́nh tội cản trở công lư, mà c̣n bộc lộ rơ “đạo đức” của anh em Diệm-Nhu–hay “morality” [Art 17] và “humanistic civilization” [Preamble] ghi trong Hiến Pháp 26/10/1956. Nhật kư Đỗ Thọ đă nhắc đến màn gài bẫy này từ nhiều thập niên trước. Tại hải ngoại, cựu Đại tá Nguyễn Hữu Duệ, Tham Mưu trưởng Lữ Đoàn Pḥng vệ phủ Tổng thống, cũng thú nhận trên báo Văn Nghệ Tiền Phong tiểu xảo trên. [Một cựu sĩ quan thông dịch cho phái đoàn Liên Hiệp Quốc hồi đó, hiện ngụ tại Houston, Texas, đă tiết lộ với tác giả thủ đoạn này từ lâu]. Vậy mà người muốn che đậy tội ác cho họ Ngô vẫn cố vin vào “báo cáo” của phái đoàn LHQ (danh số A/5360) để ngụy biện cho chính sách kỳ thị tôn giáo của anh em Diệm hay vụ tấn công rạng sáng ngày 21/8/1963.

   Nực cười và mọi rợ nhất là có chiến dịch vu cáo tác giả là “Việt Cộng” v́ đă công bố những tài liệu về họ Ngô cùng đảng viên Cần Lao-Nhân Vị. Nhưng giấy khó gói được lửa.  

   Trong cuốn Tôn Giáo & Chính Trị: Phật Giáo, 1963-1967, do nhà Văn Hóa xuất bản năm 1994 tại Houston, Texas, tôi đă dành một chương khá dài cho cuộc tranh đấu năm 1963 của Phật giáo miền Nam. Tôi cũng cho công bố một báo cáo đặc biệt của nhân viên t́nh báo Mỹ về mặt trái của cuộc đàn áp Phật Giáo tại Huế–gỡ xuống tấm mặt nạ đạo đức của họ Ngô, trong nỗ lực che đậy dư luận thế giới những tội ác vi phạm nhân quyền. 10 năm sau, nhiều tài liệu văn khố Mỹ, Pháp, Việt Nam và Liên Hiệp Quốc được giải mật thêm, nên tác giả đă hiệu đính chương này sau mỗi lần nghiên cứu ở các văn khố, kết đúc thành bài “Mùa Phật Đản Đẫm Máu” trong tập Cuộc Thánh Chiến Chống Cộng (Houston: Văn Hoá, 2004). Năm 2004-2005, nhờ được du khảo tại Việt Nam trong chương tŕnh Fulbright của Bộ Ngoại Giao Mỹ, với cơ quan đối tác là Trường Khoa Học Nhân Văn (tại trụ sở Đại học Van Khoa cũ trước 1975, nơi tôi đă hoàn tất bằng Cử Nhân Giáo Khoa Triết Đông năm 1974), làm việc trên các tư liệu văn khố VNCH tại Trung tâm Lưu trữ Quốc Gia [TTLTQG] II Sài G̣n, nên lại hiệu đính thêm bài này. Tuy nhiên, trên đại thể, những nét chính không thay đổi.

   Bài  “Mùa Phật Đản đẫm máu” dưới đây được hoàn tất với sự khách quan tối đa mà các tư liệu đă giải mật cho phép. Khi in thành sách–trong bộ Lâu Đài Trên Băi Cát–chúng tôi sẽ cho in lại những tư liệu văn khố cơ bản nhắc đến trong bài này.

         Những tài liệu mới sử dụng:

       Báo cáo của Phái đoàn điều tra LHQ tại Sài G̣n từ 24/10 tới thượng tuần tháng 9/1963. [United Nations, General Assembly, Official Records, Agenda Item 77, “The violation of Human rights in South Vietnam;” Doc. A/5630, 7/12/1963. [Sẽ dẫn UNGA Doc. A/5630]. Trong phần Phụ Bản có tài liệu 3 thứ tiếng Việt, Mỹ và Pháp do Việt Tấn Xă thực hiện, Tôn Thất Thiện chủ biên, để nộp cho Ủy Ban Điều Tra Liên Hiệp Quốc. Chúng tôi chỉ được tham khảo tài liệu này tại TTLTQG 2 (TP/HCM), PTT/Đ1CH, HS 8511.

       [Chính phủ Kennedy công khai áp lực Diệm phải đáp ứng những nguyện vọng của Phật giáo, thành thực tôn trọng bản Tuyên cáo chung 16/6/1963, và từng đe dọa sẽ tách biệt khỏi chính sách Phật giáo của chế độ Diệm nếu có thêm một vụ tự thiêu. Diệm-Nhu quyết không nhân nhượng, t́m đủ cách phản ứng: Từ bịa đặt ra việc Cộng Sản ném lựu đạn (sau sửa sai thành hai trái ḿn từ lực) trước Đài phát thanh Huế, đàn áp, bắt giữ người biểu t́nh, tới vu cáo cuộc tranh đấu của Phật giáo do Cộng Sản chi phối, nhằm lật đổ chính quyền. Cả Diệm lẫn Nhu đều lên án “đế quốc” [và Cộng Sản] nhúng tay vào cuộc tranh đấu của Phật Giáo].

       Xem thêm Thích Trí Quang, “Cuộc vận động Phật giáo Việt Nam: Giai đoạn phát khởi;” Liên Hoa nguyệt san (29/1/1964), tr. 22, 28; dẫn trong Vũ Văn Mẫu, Sáu tháng pháp nạn 1963 (Giao Điểm: 2003), tr. 91.

       Nguyên Vũ,  “Cái chết của một hàng tướng: Dương Văn Minh, 1916-2001,” trong Nguyên Vũ, Ngàn Năm Soi Mặt (Houston: Văn Hóa, 2002), tr. 9-156; bản hiệu đính đăng trên Phụ Bản tháng 9 &10/2006 của Hop Luu online;

       Chính Đạo, “Mùa Phật đản đẫm máu;” Cuộc thánh chiến chống Cộng, 2004:243-304.

       Vũ  Ngự Chiêu, “Vài cảm nghĩ về Thượng tọa Thích Quảng Đức;” Hợp Lưu (Fountain Valley, CA), số 84 (8-9/2005), tr. 194-206; 

       Tào  Động [ts’ao tung] & Lâm Tế  [Lin chi]

       Phật giáo Bắc Tông–đặc biệt là phái Tào Động [ts’ao tung] và Lâm Tế [Lin chi]–chỉ phát triển mạnh tại Đàng Trong từ thế kỷ XVI-XVII, sau khi Nguyễn Hoàng được cử làm trấn thủ Thuận Hóa và tiếp tục “Nam tiến.” Nguyễn Hoàng và đa số chúa Nguyễn đều chuộng đạo Phật. Khi dời đô về Kim Long, Nguyễn Hoàng cho xây chùa Thiên Mụ ở xă An Ninh, Hương Trà vào đầu năm 1602 (tháng Chạp Tân Sửu [24/12/1601-22/1/1602]; ĐNTL, TB, 1:42) Người kế vị, Nguyễn Phước Nguyên (1613-1635), c̣n có biệt danh “Săi vương” hay Phật vương.

       Thời gian này, Đàng [Đường] Trong c̣n là một vùng biên thùy mở rộng cho mọi tầng lớp di dân và sự du nhập của các tôn giáo có tổ chức. Trong khi các cộng đồng cư dân bản xứ–thoạt tiên là Chàm, các bộ lạc thiểu số trên cao nguyên, và rồi đến dân Khmer ở phía Nam–cố gắng duy tŕ những hệ thống giá trị xă hội-văn hóa cổ truyền trước chu tŕnh Việt hóa theo lối tằm ăn dâu, những đợt sóng tị nạn chính trị và kinh tế từ phương Bắc vào cuối triều Minh [Ming], đầu đời Thanh (Qing, 1644-1666) cũng mang vào Đàng Trong một số du tăng Hoa Nam. Trong số những người nổi danh nhất có Tạ Nguyên Thiều, gốc Triều Châu, đóng góp vào việc phát triển phái Thiền Bắc tông Lâm Tế vào cuối thế kỷ XVII, đầu thế kỷ XVIII.

       Tạ  Nguyên Thiều, người Triều Châu, theo thuyền buôn Quảng Đông tới miền Nam khoảng năm 1665 [1677?] Dựng chùa ở phủ Qui Ninh (thôn Thuận Chánh, Tuy Viễn, B́nh Định). Sau tới núi Phú Xuân, huyện Hương Trà, xây chùa Quốc Ân. Được Ngăi Vương Nguyễn Phước Trăn (1687-1691) sai qua Quảng Đông đón ḥa thượng Thạch Liêm cùng mua các đồ cúng tế. Rồi ban sắc chỉ trụ tŕ chùa Hà Trung (xă Hà Trung, Phú Lộc, Thừa Thiên). Kế thừa có: các sư mang hiệu chữ “Thành” ở chùa Quốc Ân (Huế) và chữ “Minh,” chùa Thập Tháp (B́nh Định). (Liệt Truyện, TB, VI:260; Nguyễn Tài Thư, 1991:342-45)

       Giác Linh (Huyền Khê), đời thứ 35, người Quảng Đông, giỏi vơ nghệ, tu tại Đông Phố. Sau ra Phú Xuân, lập chùa Pháp Vân (tức Thiên Phước). (LT, TB, VI:264)

       Đại lăo ḥa thượng Viên Quang, đời thứ 36, tới Gia Định, xây chùa Giác Lâm (B́nh Dương). (Liệt Truyện, TB, VI:262-264) 

       Phái Tào Động chủ trương không thể tách biệt Phật và chúng sinh. Chỉ phát triển từ thời nhà Tống. Đời Mạc Mậu Hợp [Lê Thế Tông (1575-1599)] do thiền sư Thủy Nguyệt, tức Thông Giáo, đời thứ 36, truyền bá ở Đàng Ngoài [chùa Hồng Phúc hay chùa Hoè Nhai, Ba Đ́nh, Hà Nội]. (Nguyễn Tài Thư, 1991, tr. 350-351) [351]

       Phái thiền Tào Động có sứ giả là ḥa thượng Thạch Liêm (tức Đại Sán), đến Huế năm 1695-1696 do lời mời của chúa Nguyễn.

       Thạch Liêm, hiệu là Đại Sán Thạch Ông thi, người Chiết Tây. Cuối đời Minh, bỏ đi tu. Vân du khắp nơi. Đầu năm 1695, tới Huế, và ở lại đây hơn một năm. Minh Vương Nguyễn Phước Chu (1691-1725) rất quí chuộng, cho ở chùa Thiên Mụ, và dùng làm cố vấn. Năm 1696, về Quảng Đông, không trở lại nữa. (LT, TB, VI:262-264)

       Theo Đại Sán, sư sang Huế là do Ngăi Vương Nguyễn Phước Trăn (1687-1691) đă nhiều lần mời, lại có thư của quốc sư Hưng Liên, nên ngày 27/2/1695 rời Hoàng Phố (Quảng Đông) xuống Hội An. Tới Huế ngày 12/3/1695. Định cư ở chùa Thiền Lâm xă An Cựu. Sau đó tới chùa Thiên Mụ. Mở giới đàn chấn chỉnh hàng ngũ tăng già, nếp sống tu học và giới luật. Ngoài ra c̣n cố vấn cho Phước Chu nhiều vấn đề, kể cả việc xin thông hiếu với nhà Thanh. Ngày 22/7/1696 [24/6 Bính Tí], rời Hội An về Quảng Đông, không trở lại nữa. Tác giả Hải ngoại kư sự. (LT, TB, VI:262-264; Hải ngoại kư sự; Nguyễn Tài Thư, 1991:351-353).

       Sáu năm sau, tháng Giêng Nhâm Ngọ [28/1-26/2/1702], Nguyễn Phước Chu sai sai bọn Hoàng Thần, Hưng Triệt (người Quảng Đông, theo ḥa thượng Thạch Liêm đến yết kiến) đáp thuyền Xiêm qua Quảng Đông mang theo thư và cống vật xin vua Thanh phong vương, nhưng không thành công. [Lễ vật: 5 cân 4 lạng kỳ nam; 1 cân 13 lạng 5 đồng cân vàng sống; 2 ngà voi nặng 350 cân; 50 cây mây song hoa]. Vua Thanh không đồng ư v́ đă phong cho vua Lê. (Thuyền Thanh thường ghé Quảng Nam buôn bán, nên gọi là nước Quảng Nam. (TB, 158-159)

       Từ  Huế và Quảng Nam, phái Tào Động được Liễu Quán và hơn 50 đệ tử quảng bá ngược ra Đàng Ngoài, làm sống lại phái Trúc Lâm Yên tử ở Sơn Nam hạ (Nam Định).

       Liễu Quán tục danh là Lê Thiệt Diệu (1667-1742), người Bạch Mă, huyện Đồng Xuân, phủ Phú Yên. Đi tu từ 6 tuổi. 13 tuổi, ra Huế, tu tại chùa Báo Quốc với sư Giác Phong (người Hoa). Năm 1695, thụ giới với Thạch Liêm (Đại Sán, người Hoa). 1702 (Nhâm Ngọ) tới Long Sơn tu tập với Tứ Dung (người Hoa). 1722, về Huế. 1742, chết. Chúa Nguyễn phong làm Chính Giác Viên Ngộ. (Nguyễn Tài Thư, 1991:345-348)

       Trong thế kỷ XVIIIÔ, một số tăng vân du từ B́nh Định vào vùng châu thổ Cửu Long, xây chùa, lập thiền viện. Năm 1755, Đạt Bổn du phương tới Đông Phố, dựng chùa Kim Chương, truyền y bát cho nhiều thế hệ. (LT, TB, VI:263)

       Huỳnh Lang dựng chùa ở núi Bạch Tháp, phía Bắc Vân Sơn, trấn Hà Tiên. (LT, TB, VI:264-265)

       Khi anh em Nguyễn Nhạc nổi lên ở B́nh Định, năm 1773, Long Kỳ đại sư ở Quảng Ngăi về kinh xin mật chỉ chiêu tập thủ hạ trong địa phương chống lại. (LT, TB, VI:266]

       Trong khi đó, phái Nam Tông hay Nguyên thủy, tuyệt đối trung thành với mọi và mỗi lời Phật giảng dạy c̣n được ghi chép. Các tăng mặc áo vàng, chỉ ăn ngày một bữa và khất thực, nên không nhất thiết phải ăn chay như phái Bắc tông. Tại miền Bắc, các thiền viện Nam Tông dần dần bị giảm thiểu, rồi không để lại dấu vết nào của những nhà sư như Khang Tăng Hội, hay trường phái Giáo Tông, v.. v... Tại miền Nam, khoảng đầu thế kỷ VII, phái Nam Tông phát triển khá mạnh ở Lâm Ấp hay Chiêm Thành. Trong một cuộc đánh cướp nước Chiêm năm 605, quan tướng Tùy (589-618) mang về Trung Hoa 18 pho tượng vàng và hơn 1,350 bộ kinh [sutras].

       Trong khi đó người Việt gốc Khmer ở vùng châu thổ Cửu Long cũng lập nên những cộng đồng theo hệ phái Nam Tông, tiêu biểu bằng những chùa chiền hùng vĩ với mái thiếp vàng, cùng những pho tượng vàng trấn tự. Các lục cả [tăng] giữ vai tṛ lănh đạo tinh thần của các thôn xă [sóc hay láng]. Tại nhiều nơi, việc giáo dục thanh thiếu niên được hoàn toàn giao cho hàng tăng lữ. (Mat The, Phat, p. 65).

   9/2003-4/8/2010

   Chính Đạo

 I. TỪ CỜ ĐẾN MÁU LỬA: 

   Ngày 6/5, Đổng lư Văn Pḥng Phủ Tổng Thống, Quách Ṭng Đức, gửi đi khắp nơi “chỉ thị” [khẩu lệnh] của Tổng thống Ngô Đ́nh Diệm (1955-1963):

       Ra chỉ thị cho các cơ sở phụng sự bất câu tôn giáo nào, trên các cơ sở phụng tự (nhà thờ, chùa chiền, v.. v...) chỉ treo cờ quốc gia mà thôi. Chính phủ đă hỏi các tôn giáo, đều đồng ư là con dân trong một nước chỉ treo cờ quốc gia. Sự treo cờ, ảnh phía trong th́ tùy nghi. . . .

       Lúc trước có khi v́ muốn tránh treo cờ đỏ sao vàng Việt Minh hay cờ tam tài của Pháp, th́ có những tôn giáo treo cờ hiệu ǵ khác.

       Nước nhà đă độc lập, nên chỉ treo cờ quốc gia. Các nhà tư cũng vậy.(1) 

   Theo lời khai của viên chức chính phủ với phái đoàn Liên Hiệp Quốc [LHQ] vào hạ tuần tháng 10/1963, Diệm biết rơ rằng lệnh cấm treo cờ trên sẽ ảnh hưởng đến ngày Phật Đản sắp tới–ngày lễ quan trọng nhất của Phật Giáo–nhưng bất chấp hậu quả. (2)

   Nhiều năm sau, c̣n có tin Quách Ṭng Đức không hề gửi đi công điện 9195, nhưng những chi tiết trên tư liệu nguyên bản (như nhóm giờ và nơi gửi, nhận) khó giúp cho mức khả tín của lời tự biện hộ trên. Ngoài ra, theo tư liệu chính phủ, khẩu lệnh này được gửi đi sau khi Đức đă tham khảo mật với Mai Thọ Truyền, Phó Hội chủ Tổng Hội Phật Giáo Việt Nam, mà trụ sở đặt tại chùa Xá Lợi, Sài G̣n. Cách nào đi nữa, thời điểm ban hành lệnh cấm treo cờ tôn giáo [hiểu như Phật Giáo] của Diệm là điều thiếu khôn ngoan. Chỉ c̣n không đầy 48 tiếng đồng hồ nữa là Lễ Phật Đản 2507 (15/4 Quí Măo, tức 8/5/1963), ngày lễ quan trọng nhất của Phật Giáo. Trên toàn miền nam, các khuôn hội Phật Giáo và tư gia đă hoàn tất việc chuẩn bị đón mừng Phật Đản, như treo cờ, biểu ngữ và dựng cổng chào.

   Công điện cấm treo cờ gây một tia lửa điện xúc động tại Huế và miền Trung, được coi như kinh đô Phật Giáo từ hạ bán thế kỷ XVI. Đa số chúa Nguyễn đều mến mộ đạo Phật. Từ đời Minh Mạng (1820-1841), sau nửa thế kỷ chiến tranh hay “cách mạng thay đổi triều đại cầm quyền,” Khổng giáo chiếm lại vị thế trung tâm quyền lực, nhưng các vua Nguyễn vẫn duy tŕ truyền thống tam giáo đồng nguyên–và, cách nào đó, sử dụng Nho, Lăo, Phật như đồng minh chống lại sự phát triển của Ki-tô giáo, mũi tên công phá, xung kích của chế độ thực dân Âu Mỹ. Nhân dịp rằm tháng 7 Ất Mùi [7/9/1835], chẳng hạn, Minh Mạng lập một tuần chay ở chùa Thiên Mụ để siêu độ cho vong linh tử sĩ ở Bắc Kỳ. Sau cho đặt thêm bài vị tử sĩ ở thành Phiên An (Gia Định hay Sài G̣n) trong cuộc nổi loạn của “Lê Văn Khôi” và Ki-tô giáo. Minh Mạng đích thân tới dự, tuyên bố rằng đạo Phật dạy người bằng thuyết họa phúc, báo ứng, không nhất thiết là dị đoan. Việc khuyên bảo người làm việc thiện, dẫu thánh nhân [tức Khổng Khâu] sống lại, cũng không thể đổi bỏ đi được.

   Từ  thập niên 1830, Ki-tô giáo Vatican hay “Catholic” được bảo vệ và hỗ trợ bằng chiến hạm của các nước Âu Mỹ, đặc biệt là Pháp [France], qua những cuộc chiến tranh nha phiến ở Trung Hoa, mở đầu việc liệt cường xâu xé đế quốc Thanh; và rồi cuộc biểu dương lực lượng của Napoléon III tại Việt Nam. Dưới thời Pháp thuộc (1884-1945), “Catholic”–v́ là tôn giáo của dân Pháp và giai tầng trung gian bản xứ, trụ cột của nền bảo hộ–được khuyến khích, giúp đỡ bành trướng mạnh. Dù giáo dân chiếm chưa đầy 10% dân số, các cộng đồng Ki-tô bản xứ trở thành những quốc gia trong một quốc gia, tự ban danh hiệu “công giáo” [public religion] và cung cấp cho giai tầng trung gian bản xứ cũng như thị dân một nhân số quan trọng. Chính v́ thế Jean-Baptiste Ngô Đ́nh Diệm (1897-1963)–với thành tích hết hợp tác với Pháp tới Nhật, và bị đánh giá là “cuồng đạo” [a Catholic mystic, yogi-like mystic, hay religious fanatic]–vẫn được Pháp, Mỹ và Bảo Đại chọn làm Thủ tướng toàn quyền quân và dân sự từ mùa Xuân 1954. Thượng Nghị sĩ Mike Mansfield hay Ngoại trưởng Foster Dulles đều đánh giá Diệm như nhân vật duy nhất có thể cầm đầu cuộc chiến chống Cộng tại miền Nam. Ngắn và gọn, số chùa chiền, tu viện, khuôn hội Phật giáo gia tăng ở phía nam vĩ tuyến 17 từ 1954 tới 1963 không chỉ do ảnh hưởng quốc sách chống Cộng, mà c̣n phản ảnh sự chống đối vừa tiêu cực vừa tích cực của Phật giáo với chế độ giáo phiệt Ki-tô Diệm-Thục-Nhu hay Diemocracy.(3)

   Nạn nhân thường trực của Ki-tô giáo là Phật Giáo cùng những phong tục truyền thống–như thờ cúng tổ tiên và bái vật [animism]. Mặc dù từ thập niên 1910 viên chức Pháp quyết định đoạn tuyệt với chính sách đồng hóa [assimilation] và Ki-tô hóa [catholicization] của Hội truyền giáo, chuyển sang hợp tác [collaboration] hay Pháp-Việt đề huề [Franco-Vietnamese happy co-existence], măi tới thập niên 1920 Phật giáo và các tổ chức tôn giáo bản xứ khác mới bắt đầu được “duy tân” và khuyến khích đoàn ngũ hóa hầu chống Cộng. Sau năm 1945, các giới chức cầm quyền khuyến khích việc thống nhất Phật Giáo, dài theo ranh giới Quốc-Cộng. Tại vùng VNDCCH kiểm soát, có tổ chức Phật Giáo cứu quốc. Tại vùng Pháp và Bảo Đại kiểm soát, từ năm 1950 có nỗ lực thành lập các giáo hội địa phương cùng hai tổ chức toàn quốc là Tổng Hội Phật Giáo Viêt Nam [THPGVN] và Giáo Hội Tăng Già. Cũng năm 1950 này, Thượng tọa Tố Liên (1903-1977) đại diện Việt Nam tham dự Đại Hội Phật Giáo Thế Giới [World Fellowship of Buddhists, hay Hội Bằng Hữu Phật Giáo Thế Giới] tại Colombo (Sri Lanka, hay Tích Lan), từ ngày 26/5 tới 7/6/1950, và ủng hộ nghị quyết chọn cờ ngũ sắc làm giáo kỳ. Chùa Quán Sứ Hà Nội là nơi lá cờ Phật giáo được trương lên trước tiên trên đất nước Việt Nam. Trong thập niên 1950, lá cờ Phật Giáo ngày càng trở thành quen thuộc v́ sự phát triển của các hệ phái Phật Giáo phía nam vĩ tuyến 17. Sự phát triển đặc biệt này, cần nhấn mạnh, không do sự khuyến khích của tam đầu chế Ngô Đ́nh Thục-Ngô Đ́nh Diệm-Ngô Đ́nh Nhu. Việc giúp đỡ bất cứ tôn giáo không Ki-tô nào chỉ có tính cách tượng trưng, do các cấp viên chức địa phương (như không khắt khe áp dụng luật số 10 về các hiệp hội, hay cho mở sổ số để gây quĩ, v.. v...). Năm 1963, theo tài liệu chính phủ, tại Sài G̣n có tới 180 chùa: 69 chùa thuộc THPGVN, 22 chùa thuộc Cổ Sơn Môn, và 89 thuộc các môn phái khác cùng chùa tư. Nhưng từ 1954 tới 1963, tổng số tiền chính phủ trợ cấp 24 tổ chức Phật Giáo chỉ được 3,681,000 đồng, quá chênh lệch so với trợ giúp riêng cho Đại học tư Ki-tô ở Đà Lạt của Thục (gồm một phần tài sản tịch thu của Bảy Viễn, tiền vay dài hạn do chính phủ bảo đảm, độc quyền khai thác lâm sản, v.. v..), lên tới hàng chục triệu. (4)

   Nhận hiểu rằng Phật tử chiếm đa số dân chúng trong nước, trong những năm đầu, Thục-Diệm-Nhu làm ngơ trước sự phát triển của các khuôn hội, đoàn Phật tử, v.. v... Những người góp công lớn trong việc phát triển của Phật giáo là tăng ni di cư và Phật tử chống Cộng. Xây dựng chùa chiền, tổ chức các ban đại diện, phong trào Phật tử, phát huy và hoằng dương đạo pháp là một phương thức chống Cộng ḥa b́nh và hữu hiệu nhất: Lấy tôn giáo chống lại Cộng Sản vô thần (những người từng ví von tôn giáo như thuốc phiện). (5) Hoà Thượng tọa Thích Quảng Độ–đương kim Tăng thống Giáo Hội Phật Giáo Thống Nhất Việt Nam [GHPGTNVN] là một trường hợp điển h́nh. Thày của Quảng Độ từng bị Cộng Sản Việt Nam đưa ra xét xử trước ṭa án nhân dân và thảm sát bằng gậy gộc v́ tội “Việt Gian,” gián điệp cho Pháp.

   Ngoài ra, việc phát triển chùa chiền, khuôn hội phản ảnh một giai đoạn mới của cuộc chiến tranh lạnh giữa Phật Giáo và Ki-tô giáo, kéo dài đă hơn bốn thế kỷ. Trong giai đoạn Pháp xâm chiếm Việt Nam, rất nhiều danh tự đă biến thành nhà thờ ở Hà Nội, Sài G̣n, Nam Định hay Quảng Trị. Trường hợp nổi danh nhất là việc Kinh lược Nguyễn Hữu Độ bán rẻ chùa Báo Thiên và làng Thọ Xương–tức khu vực Nhà Chung gần trung tâm Hà Nội hiện nay–cho Giám mục Paul Puginier với số tiền tượng trưng 100 quan để mua chuộc sự yểm trợ của các giáo sĩ Ki-tô. Một số tăng miền Trung–như Thích Trí Quang và Thích Đôn Hậu–từng tham gia Phong Trào Phật Giáo Cứu Quốc, và có tên trong “sổ đen” của cơ quan t́nh báo Pháp. Tuy nhiên Ngô Đ́nh Cẩn (1911-1964), em áp út Diệm và từng được xưng tụng là Cố vấn chỉ đạo miền Trung, trước khi Thục ra nắm chức Tổng Giám Mục Huế–người nổi danh tiêu diệt gần trọn mạng lưới Cộng Sản nằm vùng miền Trung trong giai đoạn 1955-1960–vẫn không đụng chạm đến các tăng này. Trong dân gian, có lời truyền tụng là bài vị Ngô Đ́nh Dinh, cha Khả và ông nội Diệm, Cẩn, v.. v.. được bí mật thờ trong một chùa ở Huế.

   Cho tới đầu thế kỷ XXI, v́ hầu hết phần tử gia đ́nh họ Ngô đă bị giết hay qua đời, khó thể biết lư do Diệm sai Đổng lư văn pḥng gửi đi công điện cấm hoặc hạn chế treo cờ ngày 6/5/1963. Lập luận của chính phủ là quốc kỳ (cờ vàng ba sọc đỏ) phải được tôn trọng hơn cờ tôn giáo. Dân chúng phải treo quốc kỳ, c̣n cờ tôn giáo chỉ được phép treo trong các ngày lễ, tại các nơi thờ tự hay tư gia, nếu được chính quyền địa phương cho phép. Đó là tinh thần Nghị định 189/BNV/NA/P5, ngày 12/5/1958 của Bộ trưởng Bộ Nội Vụ Lâm Lễ Trinh, được tái xác nhận ngày 14/6/1962. Ngày 29/5/1963, giữa cao trào tranh đấu của Phật Giáo, chính phủ Diệm ra thêm thông cáo: “Khi qui định thể thức treo quốc kỳ và đạo kỳ, chánh phủ chỉ muốn nhắc nhở Quốc kỳ là tượng trưng cho chánh nghĩa, là kết tinh ư thức đấu tranh toàn diện, toàn dân, toàn quân.” (6)

   Ngô  Đ́nh Thục (1897-1984), người bị nghi đứng sau khẩu lệnh tai hại của Diệm, đổ thêm dầu vào lửa khi cho rằng Công điện ngày 6/5/1963 không quan trọng, và không đụng chạm đến tôn giáo. Trong Chỉ thị cho giáo dân ít tháng sau, Thục viết: “Trong đạo ta chỉ có một biểu hiệu là thánh giá mà thôi. Anh em đừng nghĩ rằng cờ Ṭa Thánh Vatican là cờ có tính cách quốc tế nên được phép treo các nơi. Cái cờ bấy lâu gọi là cờ Ṭa Thánh chỉ là cờ nước Vatican, không phải là cờ của đạo ta. . . . [H]ễ có lễ trong đạo th́ ngoài đường, trong nhà anh em, trong khu ngoài nhà thờ chỉ treo cờ quốc gia mà thôi, ai không tuân th́ xin các cha bổn sở phải tịch thâu các thứ cờ khác ngoài cờ quốc gia. Không phải ta là công giáo mà ta vô tổ quốc. Ta hân hạnh có đạo, bởi v́ ta hiểu biết đạo rơ ràng lại v́ ta hành đạo triệt để, không phải một tấm vải vài đồng bạc mà thay được tín ngưỡng đâu.” (7)

   Lập trường của giới cai trị này khó thuyết phục được các lănh đạo Phật giáo và Phật tử miền Nam. Thục, theo Tướng Lê Văn Nghiêm, từng tuyên bố với những người tín cẩn rằng “cần phải hạ Phật giáo bằng mọi phương tiện, nếu không Phật giáo sẽ mạnh hơn Ki-tô,” và “ngay cả đời sống giáo dân sẽ bị đe dọa.”( 8)

   Mùa Xuân 1963 Thục c̣n có thêm lư do để “ra tay” với Phật Giáo. Nhân dịp kỷ niệm 25 năm thụ phong Giám mục, Thục–theo lời một nhân chứng ngoại quốc, viết bằng Mỹ ngữ ngày 12/6/1963, và Linh mục Cao Văn Luận, Viện truởng Đại học Huế–đă xin với Vatican lên chức Hồng Y v́ “80% dân chúng trong giáo phận Huế là giáo dân Ki-tô.” (9)

   Điều này dễ hiểu và rất có thể là sự thực, v́ từ năm 1961, Thục được coi như người cầm đầu Giáo Hội [miền nam] Việt Nam, không v́ đạo hạnh, mà v́ được Diệm kính trọng và nghe lời. Hơn nữa, việc phong giáo tước thường bị chính trị hóa. Năm 1950, chẳng hạn, Linh mục John Dooley, một công dân Mỹ gốc Ireland [Ái Nhĩ Lan?], được đặc cách lên Tổng Giám Mục, Khâm mạng Vatican, để thực thi cuộc thánh chiến chống Cộng. Trong khi đó, cơ quan tuyên truyền cho rằng giáo hội miền bắc đă “im lặng,” Đức Mẹ Fatima đă di cư vào nam; nên Thục xứng đáng được chức Hồng Y đầu tiên. V́ vậy, theo tài liệu đă dẫn, Vatican gửi một phái đoàn điều tra tới miền Trung vào đầu tháng 5/1963. Mặc dù cờ Ki-tô giáo nửa vàng, nửa trắng giăng mắc khắp nơi trong thời gian phái đoàn ở Việt Nam, đại biểu Vatican cũng ghi nhận Phật tử đang chuẩn bị cờ ngũ sắc, biểu ngữ và cổng chào mừng đón Phật đản 2507. Bởi thế phái đoàn Vatican kết luận sơ khởi rằng chỉ có 20% dân miền Trung theo đạo Ki-tô mà không phải 80% như Thục báo cáo. Để che dấu sự thực, Thục ngầm cho lệnh viên chức địa phương cấm treo cờ hay tuần hành rước lễ Phật Đản.

   Dù  Thục có áp lực Diệm ban hành lệnh cầm treo cờ  Phật giáo ngày Phật Đản 2507 hay chăng, công điện nhắc nhở lệnh cấm ngày 6/5/1963 là sỉ nhục lớn với Phật tử. V́, cho tới ngày 5/5, cờ Ki-tô giáo c̣n phấp phới khắp miền Nam, trong khi tổng số giáo dân không đầy 10% dân số. Ngày 5/5/1963 này, Diệm c̣n tổ chức Lễ Tạ Ơn kỷ niệm 25 năm Thục được phong Giám Mục tại nhà thờ trên đường Kỳ Đồng, Sài G̣n. Ngoài lễ nghi quân cách, cờ Ki-tô giáo chi chít khắp nơi.( 10)

   Ngay chiều ngày 6/5 (13/4 Quí Măo), Tỉnh trưởng Thừa Thiên kiêm Thị trưởng Huế là Nguyễn Văn Đẳng sao gửi công điện của Quách Ṭng Đức cho các tổ chức tôn giáo, đặc biệt là Ban trị sự Giáo hội Tăng giàHội Phật Giáo Việt Nam tại Trung Phần và tỉnh Thừa Thiên, cùng Ban tổ chức Lễ Phật Đản tại Thừa Thiên-Huế. Các lănh đạo Phật giáo phản ứng một cách chừng mực. Sáng hôm sau, một phái đoàn đại diện Tăng Già và ban tổ chức Phật Đản–gồm Thượng tọa Thích Trí Quang, Thích Mật Nguyện, Thích Thiện Minh và Thích Thiện Siêu–đến gặp Thị trưởng Đẳng để “tŕnh bày những thắc mắc và uất ức” của Phật tử về lệnh cấm treo cờ. Không thỏa măn với lời giải thích của Đẳng, đại diện Phật Giáo yêu cầu được tiếp kiến Cố vấn chỉ đạo miền Trung về lệnh cấm treo cờ. Cẩn đồng ư, mời Trí Quang tới tư dinh, dự một cuộc họp với Bộ trưởng Nội vụ Bùi Văn Lương và Thị trưởng Đẳng vào lúc 11G45 ngày 7/5/1963 (14/4 âm lịch). Sau một hồi thảo luận, Cẩn đồng ư cho các chùa chiền và lễ đài tiếp tục treo cờ, nhưng các tư gia th́ nên cho Cảnh Sát đi thuyết phục họ hạ cờ. Bởi thế, lúc 12 giờ trưa ngày 7/5/1963, Đẳng gọi Trưởng ty Cảnh sát Huế tới tư dinh Cẩn, cho lệnh sử dụng Mật vụ để áp lực dân chúng hạ cờ. Có lẽ v́ thế một số nhân viên Cảnh Sát, Công An đă sốt sắng tháo gỡ cờ Phật giáo bất chấp sự phản đối của dân chúng. (11) 

   Khoảng 17G45 ngày 7/5, một phái đoàn gồm các đại diện Giáo Hội Tăng Già, ban tổ chức Phật đản 2507 và khoảng 200 Phật tử lại kéo tới Toà Hành chánh tỉnh gặp Đẳng. Theo lời Bộ trưởng Nội vụ Lương khai với Phái đoàn Liên Hiệp Quốc ngày 30/10/1963, đích thân Lương cho tạm hoăn thi hành lệnh cấm treo cờ, và lănh đạo Phật giáo rất măn nguyện. (12)

   Tại  Đà Nẵng, cách Huế khoảng 100 cây số về  phía Đông Nam, Cảnh sát cũng tới các cơ sở thương mại, ra lệnh cấm treo cờ mừng Phật đản; bằng không sẽ bị rút giấy phép. Chẳng hiểu việc làm này liên hệ ǵ đến Thị trưởng Hà Thúc Luyện hay chăng. Cách nào đi nữa, ngày 8/5, Thiếu tướng Nghiêm, Tư lệnh Quân Đoàn I, vẫn cho phép quân nhân Phật tử tổ chức lễ Phật Đản. (13)

   Tại  Đà Nẵng, quân nhân Phật tử dựng một khán đài tại góc đuờng Thống Nhất và bờ sông Bạch Đằng (sông Hàn), và tổ chức diễn hành xe hoa. Tại Huế, Phật tử cũng dựng khán đài và kết cờ Phật Giáo. Nhưng không khí đấu tranh phảng phất trong không gian. Trong cuộc rước lễ từ chùa Diệu Đế tới chùa Từ Đàm sáng ngày 8/5/1963, Phật tử đă trương lên một số biểu ngữ đ̣i b́nh quyền tôn giáo và thề bảo vệ giáo kỳ bằng mọi giá.

   Người châm ng̣i nổ cho cuộc tranh đấu là Thượng tọa Trí Quang, Chủ tịch Hội Phật Giáo Trung Phần. Sau bài diễn văn nẩy lửa trong buổi lễ sáng 8/5 tại chùa Từ Đàm–với sự tham dự của nhiều viên chức cao cấp địa phương (ngoại trừ Đại biểu Trung Nguyên Trung Phần và Thị trưởng Đẳng)–Trí Quang lần lượt đọc lại từng biểu ngữ của Phật tử trương lên trong buổi sáng mà viên chức chính quyền không hài ḷng. Đám đông hợp xướng lại bằng những tiếng hoan hô hay đả đảo, biến buổi lễ Phật Đản thành một cuộc mít tinh rực lửa tranh đấu b́nh quyền tôn giáo. Một lănh tụ đối lập chế độ giáo phiệt vừa được khai sinh, dưới bộ cà-sa.

   Tối  đó, một biến cố đẫm máu đột ngột xảy ra. Giữa lúc hàng ngàn Phật tử tụ họp trước Đài phát thanh Huế vào khoảng 8 giờ tối để nghe chương tŕnh phát thanh đặc biệt Phật Đản, một nhóm thanh niên Ki-tô giật cờ Phật Giáo tại một cổng chào, rồi xông tới đập phá lễ đài. Bạo động bùng nổ. Giám đốc đài Huế, Ngô Ganh, sau khi nhận chỉ thị phải từ chối phát thanh lại cuốn băng buổi lễ Phật Đản tại chùa Từ Đàm, khóa trái cửa “để bảo vệ máy móc” trước sự đe dọa của một số Phật tử hung hăn. Khoảng 22 giờ, Thị trưởng Đẳng được mời tới Đài phát thanh bàn thảo với Thượng Tọa Trí Quang về nội dung chương tŕnh phát thanh Phật Đản mà hàng ngàn người đang chờ đợi, Thiếu tá Đặng Sỹ, Phó Tỉnh trưởng Nội An, dẫn Cảnh Sát, và lực lượng an ninh (Biệt đội Ngô Đ́nh Khôi) gồm 8 tuần thám xa [blinder] của Địa Phương Quân, 1 đại đội ĐPQ, 1 đại đội trừ Bộ Binh, đến tái lập trật tự. Sau khi đám đông không chịu giải tán, Sỹ cho lệnh dùng lựu đạn cay, ṿi rồng phun nước, và rồi nổ súng. Đa số binh sĩ không tuân lệnh, chỉ có đơn vị riêng của Sỹ thẳng tay đàn áp. Xe tuần thám chạy ngang dọc giữa đám đông. Dân chúng hoảng hốt tranh nhau bỏ chạy tứ phía. Kết quả, 9 người chết (kể cả 2 trẻ em bị tuần thám xa cán), và 14 bị thương.( 14) 

   Đây là một hành động có thể bị truy tố về tội ác chiến tranh [war crime] và tội ác chống lại nhân quyền [crime against Human rights] của Sỹ; và các cấp chỉ huy, kể cả Ngô Đ́nh Diệm, phải liên đới trách nhiệm.( 15)

   Để che đậy sự thực, thoạt tiên chính phủ loan tin một quả lựu đạn của quân khủng bố (Cộng Sản) từ đám đông ném ra, v́ quân đội chỉ bắn lên trời hoặc dùng đạn mă tử. Lời giải thích này dựa theo mật điện số 100/MM, từ văn pḥng Đại biểu Trung nguyên Trung Phần (Hồ Đắc Khương) gửi về Phủ Tổng thống ngày 9/5/1963. Theo Mật điện trên, trong lúc Đặng Sỹ đàn áp đám đông, “một quả lựu đạn MK-2 đă từ trong đoàn người phóng ra làm cho 7 thường dân chết, 1 thường dân và 5 binh sĩ bị thương. Cơ quan an ninh đă phải xử dụng lựu đạn cay mắt để giải tán đoàn người và t́nh h́nh đă trở lại tương đối yên tịnh vào lúc 24G00.” VP/ĐBCP/TNTP cũng qui tội cho Việt Cộng, và xin được tổ chức biểu t́nh ngày 9/5/1963. (16)

   Sau khi đám đông bị giải tán, viên chức chính phủ mang 9 xác chết tới bệnh viện Trung ương Huế. Theo một nguồn tin an ninh Mỹ, dù được lệnh phải ghi vào giấy chứng tử là các nạn nhân “chết v́ lựu đạn do khủng bố Việt Cộng ném,” Y sĩ Lê Khắc Quyến, Giám đốc Bệnh viện kiêm Giám đốc Y tế miền Trung, không đồng ư: Các y sĩ thực hiện giảo nghiệm (lư khám) kết luận rằng đa số nạn nhân đều chết v́ những vết thương trên đầu, và di thể không hề có mảnh “lựu đạn MK-2” nào. (17)

   Bởi vậy, viên chức chính phủ, dù vẫn nhất tề trút mọi trách nhiệm cho Việt Cộng, nhưng bắt đầu sửa sai từ “lựu đạn” sang “ḿn từ lực” [plastic] cho có vẻ hợp lư hơn.( 18) Phó TT Nguyễn Ngọc Thơ, trong thư gửi Thượng tọa Thiện Minh ngày 11/7/1963, biện minh rằng các nạn nhân đêm 8/5 là do “plastic” của Việt Cộng; chính Y sĩ Quyến, Giám đốc Bệnh viện Trung Ương Huế, đă xác nhận viêc này trong buổi tiếp xúc ngày 8/7/1963 với Đại biểu TNTP và các y sĩ lư khám. (19) Tháng 10/1963, Trần Tử Oai khai với phái đoàn LHQ t́m sự thực về sự vi phạm nhân quyền tại Nam Việt Nam rằng Cộng Sản đă cho nổ hai trái ḿn từ lực mà quân đội VNCH cũng như Mỹ không có [That night another more violent meeting took place at the Huê radio station. Communist elements took advantage of it to explode two plastic charges which caused the death of eight persons, including several children and a Catholic girl]. Ở một đoạn khác, Oai lập lại lời cáo buộc này [With regard to the charge that the Government had ordered the killing of the demonstrators by tanks, cannons, rifles and grenades, this was an absolute slander. According to the findings of the medical experts, all the wounds on the victims’ bodies were caused by the explosion of plastic charges, which are not used by the Army or the security forces of Vietnam, but only by Communists.”( 20) Bộ trưởng Nội vụ cùng một luận điệu. (21)

   Rơ  ràng có những nỗ lực của viên chức chính phủ–do tự ư hay nhận lệnh thượng cấp–nhằm cản trở công lư [obstruction of justice], và bản thân phạm tội dối trá khi đă tuyên thệ [perjury].

   Những ngày kế tiếp, t́nh h́nh Huế cực kỳ sôi  động. Suốt đêm mồng 8 rạng 9/5, thanh thiếu niên kéo nhau đi quanh đường phố, hô to khẩu hiệu đả đảo Diệm. Khoảng 11G00 sáng, chừng 800 Phật tử tụ họp biểu t́nh. Đẳng yêu cầu họ giải tán để tránh bị “phản loạn” lợi dụng. Đẳng cũng ra lệnh giới nghiêm từ 9 giờ tối.

   Ngày 9/5, Diệm sai Bộ trưởng Nội vụ trở lại Huế giải quyết. Lương áp lực Trí Quang đi theo xe phóng thanh kêu gọi mọi người ra về. Trí Quang chỉ ḥa thuận bề ngoài, chưa chịu lùi bước. Theo Lương, Trí Quang đă âm mưu chống chính quyền từ năm 1960, với sự xúi dục của Cộng Sản. Đặng Ngọc Lựu, thân cận của Trí Quang, cung cấp tin này. (22) (Nhưng tư liệu CS bác bỏ cáo buộc này: Trước năm 1963, cán bộ CS không thuyết phục được Phật Giáo ngả theo CS chống Diệm).

   Chiều 9/5, Phong trào Cách Mạng Quốc Gia ở Huế–cánh tay chính trị của chính quyền và Đảng Cần Lao Nhân Vị Cách Mạng từ năm 1954–tổ chức mít-tinh, lên án Cộng Sản phá hoại, khủng bố trong đêm 8/5. Rất ít người tham dự, và không ai lên diễn đàn. Một số tiểu đoàn Dù gốc Nùng được điều tới Huế để “bảo vệ trật tự.” Mật vụ bắt đầu lùng bắt các lănh tụ Phật tử, và lực lượng an ninh cô lập hàng ngàn người biểu t́nh trong ṿng rào kẽm gai.( 23)

   Ngày 10/5, trong cuộc biểu t́nh qui tụ khoảng 5,000-6,000 Phật tử, tăng ni tại chùa Từ Đàm, Trí Quang đọc diễn văn, kêu gọi bất bạo động và Phật tử tiếp tục treo cờ. Sau đó, đại diện Ủy ban tranh đấu trao cho Đẳng một Tuyên Ngôn [Manifesto], đ̣i hỏi năm [5] điều tương đối ôn hoà: tự do treo cờ; Phật giáo được hưởng quyền dành cho Ki-tô giáo qui định trong Dụ số 10 [ngày 6/8/1950]; ngưng bắt giữ và khủng bố Phật tử; tự do tín ngưỡng; bồi thường cho nạn nhân ngày 8/5 và trừng trị những người có trách nhiệm. Năm người kư tên là các tăng trụ tŕ các chùa danh tiếng đất Huế: Ḥa Thượng Tường Vân [tên chùa Ḥa thượng Tịnh Khiết trụ tŕ], Thượng tọa Mật Nguyện [Trần Lộc, 56 tuổi, tu tại chùa Linh Quang], Mật Hiển [Nguyễn Duy Quang, 56 tuổi, tu tại chùa Trúc Lâm], Trí Quang [Phạm Trí Quang hay Bông, 41 tuổi], và Thiện Siêu [Vũ Trọng Tường, 43 tuổi, tu tại chùa Từ Đàm].( 24).

   Với  đại đa số Phật tử, “Dụ số 10” nêu trong Thông Bạch ngày 10/5/1963 có vẻ xa lạ. Dụ này do Bảo Đại ban hành ngày 6/8/1950, liên quan đến qui chế các hiệp hội, đảng phái, gồm 5 chương, 45 điều. Điều thứ 44 ghi nhận:

       “Chế  độ đặc biệt cho các hội truyền giáo Thiên chúa và Gia tô, và các Hoa kiều lư sự hội sẽ ấn định sau.”( 25) 

   Điều này có nghĩa các tổ chức tôn giáo không Ki-tô như Phật giáo, Hoà Hảo, Cao Đài, Islam v.. v... đều chỉ được phép hoạt động nếu có sự đồng ư của chính phủ.

   Thị  trưởng Đẳng, “con nuôi tinh thần” của Ḥa thượng Tịnh Khiết, Hội chủ Tổng hội Phật Giáo, lên diễn đàn xin lỗi về tai nạn đă xảy ra, và hứa bồi thường cho gia đ́nh nạn nhân. Cẩn cũng áp lực Trí Quang phải ngưng tranh đấu, t́m cách giải quyết. Hôm sau, 11/5, Trí Quang triệu tập một buổi họp với các giáo sư và sinh viên, học sinh để giải thích 5 nguyện vọng của Phật giáo.(26)

   Đồng thời, các lănh tụ Phật Giáo bắt đầu khai thác cái chết của các nạn nhân tối Phật Đản, ca ngợi họ như “thánh tử đạo.” Ngày 12/5, Trí Quang yêu cầu Đẳng cho làm lễ cầu siêu cho các nạn nhân vào ngày 14/5. Đẳng không dám tự quyền, đề nghị Phật Giáo thảo luận với Tư lệnh Quân Đoàn I và Đại biểu Chính phủ tại TNTP vào hôm sau. Phật Giáo đồng ư lùi ngày cầu siêu lại một tuần, tức 21/5/1963. Riêng ngày 14/5, chỉ được làm lễ cầu siêu trong chùa Từ Đàm.

   Trong ngày 13/5, Trí Quang cũng gặp Đại biểu chính phủ để thảo luận về 5 đ̣i hỏi của Phật Giáo. Mặc dù cho rằng những yêu sách của Phật Giáo “vô căn” [groundless], viên chức này tuyên bố chính phủ sẽ cứu xét. Đại biểu chính phủ thêm rằng đ̣i hỏi của Phật Giáo mang tích cách “tối hậu thư,” và đây là một sai lầm. (27)

Tại Sài G̣n, mặc dù Quách Ṭng Đức đă bí mật hội ư với Mai Thọ Truyền trước ngày ban hành lệnh cấm treo cờ, Phật tử biểu t́nh liên tiếp trong hai ngày 7 và 8/5 để chống lệnh cấm và đ̣i b́nh quyền tôn giáo. Ngày 9/5, Thượng tọa Tâm Châu, Phó Hội chủ Tổng Hội Phật Giáo Việt Nam, thành lập Ủy Ban Liên Phái Bảo Vệ Phật Giáo–quyết “Tử V́ Đạo.” Ủy ban Liên Phái qui tụ 11 Hội đoàn, gồm Giáo Hội Tăng Già Nam Việt, Giáo Hội Tăng Già Trung Việt, Giáo Hội Tăng Già Bắc Việt tại miền Nam, Hội Phật Học Nam Việt, Hội Phật Giáo Trung Việt, Hội Phật Giáo Bắc Việt tại miền Nam [thuộc Tổng hội Phật giáo Việt Nam; 1960-1965: Hội chủ: Ḥa thượng Tịnh Khiết; Phó Hội chủ: Thượng tọa Tâm Châu, Mai Thọ Truyền], Giáo Hội Thiền Định Đạo Tràng (chùa Phật Bửu, đường Cao Thắng; Đạo chủ là Ḥa thượng Minh Trực, có 16 chùa), Giáo Hội Tăng Già Kampuchia [người Việt gốc Khmer], Hội Phật Giáo Kampuchia [người Việt gốc Khmer], (chùa Chantareansey, đường Trương Minh Giảng, Phú Nhuận; Lục cả Lâm Em), Giáo Hội Tăng Già Nguyên Thủy [Therevada] (chùa Kỳ Viên, đường Phan Đ́nh Phùng [người Việt], Đại Đức Bửu Chơn, Tăng thống), Hội Phật Giáo Nguyên Thủy [người Việt] (Hội trưởng: Nguyễn Văn Hiếu; ngoài chùa Kỳ Viên c̣n có 6 chùa khác: chùa B́nh Đông, Phú Lâm, G̣ Dưa, B́nh Ḥa (chùa Phổ Minh) và Đà Nẵng (Tam Bảo)). Tâm Châu, một tăng di cư, từng vận động chống việc chiếu phim về Phật Thích Ca, được cử làm Chủ tịch; với Mai Thọ Truyền, Tổng thư kư. Văn pḥng đặt tại chùa Xá Lợi trên đường Bà Huyện Thanh Quan. (28)

   Thượng tọa Tâm Châu cũng gửi tâm thư cho các tăng ni mọi cấp, kêu gọi mọi người quyết tâm bảo vệ giáo kỳ với tinh thần “tử v́ đạo.” (29) Riêng Thượng tọa Thiện Ḥa (1907-1978), Trị sự trưởng Giáo Hội Tăng Ǵa Toàn Quốc, kêu gọi tinh thần bất bạo động, ḥa giải. (30)

   Cuộc  đàn áp ở Huế không chỉ tạo nên tia lửa điện tranh đấu trong hàng ngũ Phật tử Việt Nam mà cũng khiến Bộ Ngoại Giao Mỹ đặc biệt quan tâm. Dù tuyên bố trung lập, Bạch Cung có thiện cảm với Phật Giáo. Từ Oat-shinh-tân, chiều 9/5 [04G24 sáng 10/5 VN], Ngoại trưởng Dean Rusk chỉ thị Đại sứ Frederick Nolting yêu cầu Diệm: (1) Không nên đàn áp Phật tử, (2) bày tỏ cảm t́nh với gia đ́nh nạn nhân và giúp tiền an táng, (3) sử dụng những biện pháp thích nghi để văn hồi trật tự, và (4) tạo tinh thần thân ái giữa các nhóm giáo dân.(31)

   Trong khi đó, Trung ương T́nh báo Mỹ [CIA] ghi nhận Cao Đài và Hoà Hảo đang thảo luận phối hợp hành động với Phật giáo. Lại cũng có tin tuyệt thực đă bắt đầu tại Huế từ ngày 12/5. Theo Trung tá Trần Văn Thưởng–Giám đốc Cảnh Sát Công An Trung nguyên Trung Phần, người đă điều tra về việc đàn áp Phật Giáo ở miền Trung năm trước–Phật tử dự định biểu t́nh khắp đồng bằng miền Trung ngày 21/5. Tại Sài G̣n cũng có tin sẽ biểu t́nh ngày 21/5.(32)

   Do Nolting dàn xếp, ngày 15/5, Tổng thống Diệm tiếp đại diện Phật giáo tại Sài G̣n. Phái đoàn này gồm Thượng tọa Thiện Ḥa (Trị sự trưởng Giáo Hội Tăng Già Toàn quốc); Thiện Hoa (Trị sự trưởng Giáo Hội Nam Việt); Thiện Thái (Trị sự trưởng Giáo Hội Bắc Việt), Lâm Em (Trị sự trưởng Chùa Chantereansey), Dũng Chí (Phật Giáo Nguyên Thủy), cùng hai cư sĩ Mai Thọ Truyền (Hội trưởng Hội Phật học Nam Việt), và Vũ Bảo Vinh (Hội trưởng Hội Phật học Bắc Việt). Phe chính phủ có Bui Văn Lương (Nội vụ) và Paul Ngô Trọng Hiếu (Công dân vụ).(33)

   Theo Việt Tấn Xă ngày 17/5, về đ̣i hỏi số 1 (rút lại lệnh cấm treo cờ Phật giáo), Diệm cho rằng cả Ki-tô lẫn Phật giáo đă có lỗi về việc treo cờ; chỉ được treo giáo kỳ trong các thánh đường hay chùa. Về đ̣i hỏi thứ hai (Dụ số 10), Diệm nói sẽ cứu xét lại. Điểm 3, về việc bắt giữ Phật tử và tăng ni, Paul Hiếu nói không hề có “khủng bố.” Lương cũng khẳng định “không hề có việc quân đội ném lựu đạn, xe thiết giáp bắn trọng pháo hay cán vào đám đông. . . . Sự thật chỉ có hai trái ḿn từ lực [plastic] do Việt Cộng thừa lúc lộn xộn mà giựt, v́ Quân đội không có plastic và căn cứ vào vết tích c̣n lại.” Diệm nói những người bị bắt có hành động bất an cho dân chúng và chính quyền, nếu tha ra, phần tử xấu sẽ lợi dụng. Điểm 4, về tự do tín ngưỡng, Diệm xác nhận đó là quyền hiến định. Điểm 5, về bồi thường, Diệm chỉ hứa sẽ nghiên cứu việc trợ cấp. Đại diện Phật giáo đưa thêm hai đề nghị: ra Huế thăm viếng những người bị bắt giữ và tổ chức cầu siêu cho nạn nhân. Diệm nói sẽ cứu xét đ̣i hỏi thứ nhất, và đồng ư đ̣i hỏi thứ hai, với điều kiện chỉ tổ chức trong khuôn viên các chùa. Nhưng đại diện Phật giáo, qua buổi họp này, kết luận rằng Diệm chưa có quyết định nào rơ rệt. (34) Họ kiên nhẫn chờ đợi thiện chí của chính phủ. Có lẽ v́ vậy, Trí Quang đồng ư tu chính lại 5 nguyện vọng, và ngày 15/5, nhờ Đẳng chuyển thư cho Cẩn, hứa không tranh đấu nữa. (35)

   Đáng ghi nhận là từ ngày 15/5 này, Bộ trưởng Nội vụ Lương bắt đầu thay “lựu đạn” bằng hai trái ḿn từ lực của Cộng Sản mà quân đội không được cấp phát. Đây là nỗ lực “sửa sai” đầu tiên của chế độ để chối bỏ tội lỗi (trong khi măi tới ngày 25/5, Diệm mới thú nhận là cấp dưới đă báo cáo sai lạc về một hay nhiều trái lựu đạn).(36)

   V́  sắp qua Greece [Hy Lạp] nghỉ thường niên, Nolting khuyên Diệm nên ra tuyên cáo chính thức về vấn đề Phật Giáo. Nolting cũng tiếp xúc Khâm sứ Vatican là Salvatore d’Asta và Linh mục Cao Văn Luận để thuyết phục Diệm.

   Theo Bộ trưởng Phủ Tổng thống Nguyễn Đ́nh Thuần, thương thuyết với Phật giáo tiến triển tốt đẹp, nhưng chủ chốt là chính phủ muốn tránh trách nhiệm.( 37)

   Ngày 18/5, khi cùng XLTV Đại sứ William C. Trueheart qua chào tạm biệt Diệm, Nolting cố thuyết phục Diệm đáp ứng nguyện vọng của Phật giáo. Nolting muốn Diệm tuyên bố chịu trách nhiệm về biến cố ở Huế, bồi thường nạn nhân, và tái khẳng định chính sách b́nh quyền tôn giáo và không kỳ thị. (38) Diệm không hứa điều ǵ. Diệm vẫn tin, hoặc muốn diễn giải rằng biến cố ở Huế là do các lănh tụ Phật giáo khích động; những người ở Huế chết v́ một hay nhiều trái lựu đạn, do Cộng sản hay phe chống chế độ ném, không phải viên chức chính phủ; và một số lănh đạo Phật giáo lợi dụng biến cố ở Huế để củng cố thế lực trong nội bộ Giáo hội. Dưới mắt Diệm, vấn đề Phật giáo không quá nghiêm trọng như Mỹ tưởng nghĩ.(39) Dù được xem những khúc phim về cuộc đàn áp Diệm không thay đổi lập trường.(40)

   Diệm chỉ cách chức Đẳng, đưa Nguyễn Văn Hà ra Huế. Đồng thời, bổ nhiệm Nguyễn Xuân Khương, đương kim Tổng Giám Đốc Điền Địa, làm Đại biểu Trung Nguyên Trung Phần, hiệu lực từ ngày 1/6/1963.

   Cho rằng chính phủ kỳ thị Phật Giáo, tăng ni quyết tranh đấu đến cùng. Ngày 19/5, Ḥa thượng Tịnh Khiết thông báo cho Đại biểu TNTP và Tư lệnh QĐ I rằng đă cho hai Thượng tọa Mật Nguyện và Trí Quang tuyệt thực để cầu cho nguyện vọng của Phật Giáo.( 41) Ngày 23/5, năm lănh tụ Phật giáo, gồm cả Tịnh Khiết, ra tuyên ngôn khẳng định lập trường bất bạo động và phi chính trị, nhưng cương quyết đ̣i chính phủ phải thỏa măn đ̣i hỏi của Phật Giáo “trong một thời [gian] càng sớm càng tốt,” đồng thời ngưng ngay những cuộc “khủng bố, bắt giữ.” ( 42)

   Tại Sài G̣n, sáng ngày 21/5, 600 tu sĩ làm lễ cầu siêu cho nạn nhân ở Huế, rồi diễn hành từ chùa Ấn Quang đến Xá Lợi. Bốn ngày sau, Ủy Ban Liên Phái ra tuyên cáo ủng hộ 5 nguyện vọng của Phật Giáo, và hứa đoàn kết tranh đấu cho bằng được các nguyện vọng trên. (43)

   Phần chính phủ vẫn im lặng khó hiểu. Mặc dù từ ngày 24/5 các chuyên viên y khoa khẳng định rằng thương tích nạn nhân ở Huế đêm 8/5 không do mảnh lựu đạn gây nên Diệm vẫn chẳng tỏ một thái độ ḥa giải nào. (44)

   Các lănh đạo Phật Giáo bèn quyết định mở rộng cuộc tranh đấu: Ngày 28/5, Tâm Châu thông báo với Diệm là sẽ tổ chức tuyệt thực trong ṿng 48 giờ, kể từ 14 giờ ngày 30/5/1963.(45)

   Hôm sau, 29/5, báo chí mới đăng thông cáo của Diệm, khẳng định quyền tự do và b́nh đẳng tín ngưỡng được qui định trong điều 17 của Hiến Pháp; nhưng vẫn bảo vệ lệnh treo cờ, v́ quốc kỳ phải có địa vị tối thượng, và khẳng định chính phủ “không hề có ư nghĩ phân biệt đối xử với bất cứ tôn giáo nào.”( 46)

   Thời gian này, báo chí Mỹ cũng ra sức ủng hộ  Phật Giáo. Gây chấn động nhất là bài trên tuần báo Newsweek số đề ngày 27/5/1963, vạch trần sự lộng hành của tập đoàn cai trị Ki-tô của Thục cùng các “quan” ở Huế.( 47) Ngày 29/5, tại Mỹ, báo New York Times [New York Thời Báo] cũng khai thác ngay bản tin của Ủy Ban Liên Phái, tường thuật rằng Phật tử rất bất măn về cách đối xử của Diệm, và đang chuẩn bị đấu tranh tuyệt thực, đồng thời tổ chức cầu siêu trong ṿng 4 tuần lễ. David Halberstam–một kư giả lập nên sự nghiệp nhờ chiến tranh Việt Nam và chủ trương nhà Ngô phải ra đi–thuật lại rằng trong buổi họp ngày 15/5, Diệm đă lên án các tăng sĩ là “bọn khùng” [damn fools] khi đ̣i hỏi b́nh đẳng tôn giáo, v́ quyền này đă được Điều 17 của Hiến pháp (một bộ tiểu thuyết luật pháp và nhân quyền) bảo đảm.

   Bộ  Ngoại Giao Mỹ vội thông báo cho Trueheart về nội dung bài báo trên, đồng thời chỉ thị Trueheart phải đích thân gặp Diệm, thuyết phục Diệm thỏa măn nguyện vọng của Phật giáo. (48) Hôm sau, Bộ Ngoại Giao đồng ư cho Trueheart gặp Khâm sứ Vatican, nhờ khuyên bảo Diệm về vấn đề Phật Giáo. (49)

   Trueheart chưa kịp gặp Diệm, Phật Giáo đă hành động. Ḥa thượng Tịnh Khiết–đúng hơn nhóm lănh đạo tranh đấu–chỉ thị cho các tăng sĩ tuyệt thực 48 tiếng đồng hồ kể từ 2 giờ chiều ngày 30/5. Ngày này, tại Sài G̣n, 350 tăng ni biểu t́nh trước Quốc Hội, rồi tuyệt thực. (50) Tại Huế, dù chùa Từ Đàm bị cô lập, các cấp lănh đạo Phật giáo vẫn tuyệt thực. Khoảng 3,000 Phật tử bị vây hăm trong ṿng rào kẽm gai. Tại Quảng Trị, Phật tử biểu t́nh trong trật tự.

   Ngày Thứ Bảy, 1/6, đúng ngày Tỉnh trưởng Đẳng, Phó Nội an Sỹ và Đại biểu Trung phần bị thay thế, nhiều đoàn Phật tử Huế tụ họp tại một số địa điểm trong thành phố, kể cả Dinh tỉnh trưởng và Ṭa Đại biểu chính phủ miền Trung. Khoảng 10,000 người tụ họp trước chùa Từ Đàm. Sau đó giải tán do yêu cầu của các tăng sĩ. Đỗ Cao Trí điều Nhảy Dù và M-113 từ Quảng Trị vào Huế đề pḥng bất trắc.( 51)

   Tại  Đà Nẵng, Phật tử cũng tổ chức tuần hành không bạo động vào ngày 1/6, do các tăng ni dẫn đầu. Tối hôm trước, 31/5, Đại tá Lâm Văn Phát, Tư lệnh Sư đoàn 2 BB–một giáo dân Ki-tô tân ṭng, thường tự chứng tỏ là rất trung thành với chế độ–cho lệnh các đơn vị dưới quyền chuẩn bị chống biểu t́nh. Chiều 1/6, một xe vận tải hai tấn rưỡi (GMC) của quân đội chở đầy đạn bỗng dưng bị hư máy ở một ngă tư cách Toà Thị chính một khu phố về phía Bắc. Cấp chỉ huy bèn phái một xe GMC khác tới tháo rỡ đạn, dưới sự bảo vệ an ninh của một đơn vị tác chiến. Quân Cảnh, Cảnh Sát và Công An cũng chặn đường từ phía Nam lên Toà Thị chính.

   Kế  hoạch của Phát không đủ ngăn cản Phật tử biểu t́nh trong trật tự. Các tăng ni dẫn đầu một đoàn phụ nữ và thiếu niên diễn hành qua đường phố, với khẩu hiệu đ̣i tự do tín ngưỡng và b́nh quyền tôn giáo. Tới trước cửa Toà Thị chính, 7 nhà sư rời đám đông, biểu t́nh ngồi; trong khi Phật tử tiếp tục cuộc diễn hành, rồi giải tán.

   Giữa lúc Phật tử đang biểu t́nh, Phát vào gặp Thị trưởng Hà Thúc Luyện, cho lệnh phải dời 7 nhà sư đang ngồi trước Toà Thị chính, và giải tán cuộc diễn hành, cho dẫu “đích thân Thị trưởng phải ném lựu đạn vào đám đông.” Luyện, dù là một cán bộ Cần Lao cao cấp thân tín của Cẩn, từ chối. Trong đêm 2/6, Phát điều thêm một số đơn vị khác vào thành phố. Một đại đội tăng cường cho Ty Công An Đà Nẵng (đối diện khách sạn). Phần quân nhân Phật tử bị cấm trại. Trong đêm, 7 nhà sư bị bắt đi mất tích. Hôm sau, 3/6, Luyện bị cất chức Thị trưởng; vào Sài G̣n tŕnh diện. Trung tá Trần Ngọc Châu, Tỉnh trưởng Kiến Hoà, một Phật tử gốc miền Trung, ra thay. (52)

   Trong khi Đà Nẵng đang sôi động, ngày 2/6, Phật tử Quảng Trị lại biểu t́nh. Chính quyền đàn áp bằng lựu đạn cay. Giao thông với Huế bị cắt đứt. (53)

   Chiều hôm sau, 3/6, tại Huế, khoảng 500 thanh niên tụ họp trước Ṭa Đại Biểu Trung Phần. Quân đội “dàn chào” bằng lưỡi lê và lựu đạn cay. Các nẻo đường dẫn đến chùa bị phong tỏa bằng kẽm gai. Phật tử biểu t́nh ngồi. Binh sĩ dùng lựu đạn cay giải tán. Trong khi đó, Trí Quang đă tuyệt thực nhiều ngày, sức khoẻ suy giảm. Đại tá Trí ra lệnh giới nghiêm. Khoảng 18G30, quân đội lại tấn công mạnh Phật tử biểu t́nh tại chợ Bến Ngự. Dùng cả chất hóa học (blister gas), khiến 67 nạn nhân bị nôn mửa, lưu lại vết bỏng trên da.( 54)

   Được báo cáo, ngày 3/6 [sáng 4/6 Việt Nam] Bộ Ngoại Giao Mỹ hai lần chỉ thị Trueheart phải yêu cầu Diệm hoà giải với Phật giáo và báo cáo rơ hơn về khói hóa học sử dụng để đàn áp Phật tử.( 55) Trueheart vội đến gặp Thuần vào khoảng 11G45 ngày 4/6. Khác với Nolting, Trueheart trở lại thái độ công khai áp lực mà cựu Đại sứ Elbridge Durbrow đă áp dụng. Trueheart cảnh cáo rằng Mỹ có thể ngưng yểm trợ nếu c̣n đàn áp Phật Giáo. Thuần tiết lộ Hội đồng chính phủ đă đề nghị thành lập một Ủy Ban Liên Bộ [UBLB] để cứu xét các đ̣i hỏi của Phật Giáo như Trueheart yêu cầu từ ngày 1/6, và Diệm đă chấp thuận. Nhu cũng hứa sẽ tiếp xúc với lănh tụ Phật Giáo. Ngay chiều đó, Thuần c̣n mời Trueheart tới tư dinh, nói đă thành lập một ủy ban điều tra về hơi độc ở Huế, do Đại tá Nguyễn Văn An, và Trung tá Y sĩ Liêm cầm đầu. Diệm cũng sẽ tuyên bố thành lập UBLB, gồm Phó Tổng Thống Thơ, Lương, và Thuần.( 56)

   Nhưng khoảng 17G00, Bộ Tư lệnh Quân viện Mỹ tại Việt Nam [MAC-V] lại xin ư kiến Trueheart về việc Bộ Tổng Tham Mưu yêu cầu MAC-V không vận 300 Cảnh sát từ Vũng Tàu ra Huế. Trueheart không chấp thuận.( 57)

 III. TUYÊN CÁO CHUNG 16/6/1963: 

   Do áp lực Mỹ, từ giữa tháng 5/1963, Diệm đă gặp lănh tụ Phật Giáo để thảo luận về 5 đ̣i hỏi ngày 10/5. Tuy nhiên, chế độ chỉ muốn kéo dài thời gian để vô hiệu hóa dần cuộc tranh đấu. Họ Ngô không muốn nhận trách nhiệm v́ cho đó là nhược điểm. Diệm cũng không muốn thỏa măn các nguyện vọng ngày 10/5 v́ sợ Phật Giáo sẽ tiếp tục đ̣i hỏi nhiều hơn. Áp lực khuyên Diệm ḥa hoăn của Mỹ th́ được giải thích theo một ư nghĩa khác–thực ra, chế độ Diệm đang rơi vào một cuộc khủng hoảng niềm tin với Mỹ, và Nhu đang bí mật ve văn Cộng Sản với sự tiếp tay của Pháp và India. (58)

   Trong khi đó, lănh tụ Phật Giáo khéo léo phối hợp giữa biểu t́nh và ngoại giao, nhất là việc sử dụng các cơ quan truyền thông quốc tế. Một số giáo chức Tây Germany [Đức] và kư giả ngoại quốc cũng tích cực tiếp tay. (59)

   Biến cố gây xúc động nhất là cuộc tự thiêu của Thượng tọa Quảng Đức ở Sài G̣n ngày 11/6/1963. Có thể nói lần đầu tiên mới có một cuộc đấu tranh tinh xảo đến thế. Bởi vậy, Mỹ không ngừng áp lực Diệm phải giải quyết cuộc khủng hoảng.

   Ngày 16/6, Diệm và Tịnh Khiết ra một Thông cáo chung. Nhưng Diệm không thực tâm thi hành những điều đă kư kết. Thục và vợ chồng Nhu-Lệ Xuân cũng t́m mọi cách ngăn chặn việc thực thi tuyên cáo ngày 16/6. Phật giáo không lùi bước. 

   A. THƯƠNG THUYẾT:

   Chiều ngày 5/6/1963, Ủy Ban Liên Bộ [UBLB] cùng các Thượng Tọa Thiện Minh và Thiện Hoa ngồi vào bàn thương thuyết. Ngay sau buổi họp đầu, cả đôi bên đều thất vọng về sự thiếu thành khẩn của nhau. Dẫu vậy, Thuần cùng Thiện Minh, phụ tá của Trí Quang, bí mật đạt được thỏa thuận sơ khởi trên 5 đ̣i hỏi của Phật giáo, với điều kiện phải được Diệm phê chuẩn. ( 60) Hôm sau, 6/6, hai bên đồng ư chính phủ sẽ rút quân đội và an ninh khỏi vùng lân cận các chùa, Đỗ Cao Trí ngừng biểu dương vơ lực. Ngược lại, Phật giáo ngừng tuyên truyền chống chính phủ.

   Thiện Minh lập tức lên đường ra Huế tường tŕnh về những điều thỏa thuận với UBLB, mang theo một cư sĩ quen biết Thuần để bảo đảm rằng những phần tử “quá khích” [extremist elements] không phá hoại thương thuyết. Theo dự trù, Tịnh Khiết, đang tuyệt thực ngoài Huế, cũng sẽ vào Sài G̣n kư tuyên cáo chung.( 61)

   Ngày 6/6 này, Diệm đọc một diễn văn truyền thanh ngắn, kêu gọi mọi người hăy b́nh tĩnh v́ chính phủ cần thời gian để giải quyết cuộc khủng hoảng.( 62)

   Nhưng tại Huế, t́nh h́nh thêm căng thẳng. Trong ngày 5/6, bạo động lại diễn ra khiến 4 Phật tử chết, hơn 100 bị thương và hơn 1,000 người bị bắt. Hai sinh viên bị mất tích. 3 y sĩ Germany [Đức] và 2 y sĩ Mỹ đang phục vụ tại Huế đă tích cực giúp đỡ Phật tử. Diệm bèn cho lệnh hai y sĩ Germany, Erich Wulff và Hans Holterscheidt, phải lập tức rời cố đô. Sau đó, trục xuất họ khỏi Sài G̣n với lư do “không được ưa chuộng” [Persona Non Grata].( 63)

   Chính quyền Huế c̣n ngưng tiếp tế cho những người biểu t́nh bị cô lập. Lănh sự John J. Helble báo cáo rằng t́nh trạng thực phẩm và nước uống tại chùa Từ Đàm đă ở mức báo động đỏ. Phi cơ chính phủ th́ rải truyền đơn đả kích Trí Quang và đ̣i bắt giữ cả Tịnh Khiết.( 64)

   Tại Sài G̣n, thái độ họ Ngô cũng đột ngột cứng rắn. Vợ chồng Nhu-Lệ Xuân công khai trách mắng Thuần đă nhân nhượng quá nhiều. Ngày 7/6, Phong Trào Phụ Nữ Liên Đới [PTPNLĐ] của Lệ Xuân ra “quyết nghị” lên án những cuộc biểu t́nh chống chính phủ là chống lại chính nghĩa quốc gia (anti-nationalist), bị “Cộng sản khai thác và lợi dụng, dẫn đến hỗn loạn và trung lập.” Và yêu cầu chính phủ không thể tiếp tục im lặng trước những mưu toan chính trị, lập tức trục xuất những ngoại nhân chuyên phá hoại, dù mặc áo thày tu hay không, đặc biệt là những kẻ mưu toan biến Việt Nam thành chư hầu ngoại bang.( 65) Quyết nghị này được trao cho báo chí ngày hôm sau, 8/6/1963.

   Ngày này, Trueheart gặp Thuần về quyết nghị của PTPNLĐ  trên nhưng Thuần thú nhận ḿnh không giải quyết được ǵ. Chiều đó, Truehart vào Dinh Gia Long, đích thân phản đối lời tuyên bố của vợ Nhu, và dọa sẽ công khai không ủng hộ chính sách Phật giáo của Diệm. Diệm nói không thể bác bỏ quyết nghị của PTPNLĐ, v́ đây là một hội đoàn tư nhân, nhưng sẽ cho lệnh Bộ trưởng Nội vụ phải để những người biểu t́nh tại chùa Từ Đàm được tiếp tế lương thực và nước uống. Diệm cũng nói không biết ǵ về việc phi cơ chính phủ thả truyền đơn sỉ nhục lănh tụ Phật giáo. Sau đó, Diệm khẳng định lập trường: Sẽ thương thuyết trong thế mạnh; Phật giáo vi phạm lời cam đoan tạm ngưng chiến dịch tuyên truyền, tiếp tục phát tài liệu cho báo chí ngoại quốc (như Thiện Minh đă tiết lộ về những điều khoản thỏa thuận); Phật giáo thiếu thành tín (bad faith). Lần đầu tiên, Diệm thú nhận với Trueheart rằng chính quyền địa phương bất lực trong việc đối xử với Phật giáo; v́ măi đến ngày 24/5–tức hơn hai tuần lễ sau cuộc thảm sát ở Huế–chuyên viên y khoa mới báo cáo là thương tích không do mảnh lựu đạn gây nên. Nhưng Diệm nhấn mạnh sẽ sử dụng mọi biện pháp cần thiết để duy tŕ trật tự nếu hỗn loạn tiếp tục.( 66)

   Hôm sau, 9/6, báo Times of Vietnam [Việt Nam Thời Báo] đăng nghị quyết ngày 7/6 của PTPNLĐ. Báo này nhấn mạnh vai tṛ các tăng sĩ Nam tông (Therevada) trong những cuộc rối loạn hiện nay. Hàm ư là phe Nam tông có liên hệ với chính sách trung lập hoá miền Nam của Charles de Gaulle và Norodom Sihanouk. Các báo Việt ngữ không đăng. Diệm cũng cho lệnh đài phát thanh không nhắc đến lời Lệ Xuân đả kích Phật Giáo. Tuy nhiên, lệnh này ban hành sau khi đài Sài G̣n đă phát thanh vài ba lần.

   Tại Huế, số Phật tử bị phong tỏa đă 3 ngày không có nước uống, thực phẩm và thuốc men. Một số tư nhân mang tặng thực phẩm, nước uống. Chính phủ cho chụp h́nh, loan báo đó là do chính phủ cung cấp. Trong khi đó, điện thoại với Sài G̣n bỗng dưng bị “hư.” Lănh sự Helble không thể liên lạc được với Trueheart. Thuần cũng lâm vào cảnh tương tự. Phi cơ chính phủ tiếp tục rải truyền đơn, tố cáo Trí Quang là Cộng Sản. Đây là bước chuẩn bị cho việc bắt giữ các lănh tụ tranh đấu–v́ chỉ cần “liên hệ với phiến Cộng” đă là trọng tội, có thể bị kết án từ khổ sai tới tử h́nh. Không ít người đă bị tra tấn đến chết hay thủ tiêu. (67)

   Tại Oat-shinh-tân, trưa ngày 8/6 [đêm 8 rạng 9/6 tại Việt Nam], Ngoại trưởng Rusk chỉ thị Trueheart yêu cầu Diệm bác bỏ nghị quyết của PTPNLĐ, rút lại Sắc luật số 10, và cần xác định chính phủ duyệt trước hay chăng lời tuyên bố của Lệ Xuân. Lời tuyên bố của Lệ Xuân, Rusk nhấn mạnh, làm suy giảm vị thế của VNCH, và tổn hại uy tín của Mỹ, có thể gây khó khăn cho việc tiếp tục yểm trợ VNCH tại Quốc Hội cũng như dư luận Mỹ. (68) Ngày 9/6, Trueheart gặp Thuần, cho biết chỉ thị của BNG Mỹ. Rồi đả kích việc chính phủ đang chuẩn bị phản biểu t́nh vào ngày 10 hay 11/6. Kế hoạch phản biểu t́nh của Paul Hiếu này gồm có những thủ thuật sử dụng “sư giả” từ các tỉnh, Thanh Niên Cộng Hoà và bọn tệ đoan xă hội Chợ Lớn giả làm sư. Trueheart cảnh cáo rằng nếu quả thực như vậy, cần phải ngừng ngay. Trueheart cũng nêu lên vấn đề giáo dân Đà Nẵng đang chuẩn bị ra nghị quyết cách chức Thiếu tá Thiệt, Tỉnh trưởng Quảng Nam, nhân dịp làm lễ cầu hồn cho Giáo hoàng John XXIII (1958-1963) vào ngày 10/6. Nếu đúng sự thực, cần chấm dứt ngay. Trueheart c̣n nêu lên vấn đề 4 kư giả (Michaud của AFP, Sheehan của UPI, Browne của AP và Parry của báo NY Times) đă bị bắt giữ 1 giờ đồng hồ tại Quận 3. Hành động này, Trueheart bảo thẳng Thuần, là “khùng” và bất lợi. ( 69)

   Măi tới 9 giờ sáng ngày Thứ Hai, 10/6, Thuần mới gặp Trueheart để phúc đáp. Thuần nói đă tŕnh bày với Diệm và Nhu về những đề nghị của Mỹ. Về Sắc luật số 10, Diệm không có quyền rút lại. Quyết nghị của PTPNLĐ không phải là “tuyên bố của bà Nhu,” mà là của “một tổ chức đại chúng” (cả Thuần lẫn Trueheart đều mỉm cười). Diệm đă điện thoại cho Paul Hiếu trước mặt Thuần về vấn đề tổ chức phản biểu t́nh. Hiếu chối không có kế hoạch đó. Cũng không có kế hoạch đ̣i cách chức Tỉnh trưởng Quảng Nam. Đang dàn xếp cho những người trong chùa Từ Đàm ở Huế ra về không gặp trở ngại, ngoại trừ các công chức. Chính phủ không đứng ra tổ chức lễ cầu hồn cho John XXIII. Diệm vẫn muốn thương thuyết, nhưng cần cô lập những thành phần quá khích. UBLB sẽ họp lúc 10G00 để nghiên cứu lá thư mới nhất của UB Tranh đấu Phật giáo.( 70) 

   B. NGỌN LỬA CÚNG DƯỜNG ĐẠO PHÁP:

   Biến cố khiến cuộc tranh đấu của Phật giáo được dư luận thế giới chú ư nhất là cuộc tự thiêu của Thượng tọa Quảng Đức tại ngă tư Phan Đ́nh Phùng-Lê Văn Duyệt Sài G̣n (ngay trước Ṭa Đại sứ Kampuchea).

Thượng Tọa Thích Quảng Đức (1897-1963)
(ảnh cuả quangduc.com)

   Quảng Đức, tục danh Lâm Văn Tức (1897-1963), đang tu tại chùa Quán Thế Âm trên đường Nguyễn Huệ, Gia Định. Lúc 9G30 sáng ngày 11/6–giữa lúc Diệm và hầu hết nhân viên cao cấp trong chính phủ đang tham dự buổi quốc lễ cầu hồn cho Giáo Hoàng John XXIII– chiếc xe Austin của một Phật tử, dưới sự dẫn đường của một đoàn 400-500 tăng sĩ, đưa Quảng Đức tới chỗ hóa thân. Địa điểm này được các tăng ni làm hàng rào cản không cho Cảnh sát can thiệp. Số khán giả ṭ ṃ lên tới khoảng 500 người, ngày càng đông. Một số kư giả như Sheehan của hăng UPI cũng được báo trước. Từ xe bước xuống giữa ngă tư, Quảng Đức ngồi xuống theo thế thiền định, nhờ một Đại đức đổ xăng lên thân thể ḿnh, rồi tự tay châm lửa bằng diêm (quẹt). Malcolm Browne, nhân viên hăng AP, thu được tấm h́nh này–bức h́nh rồi sẽ gây chấn động dư luận thế giới. (71) Trưa đó, khoảng 400 tăng sĩ đưa thi hài Quảng Đức tới chùa Xá Lợi. 2,000 Phật tử cũng lũ lượt kéo nhau tới chùa. Khoảng 1,000 Cảnh sát tới “bảo vệ an ninh,” nhưng các tăng ni được di chuyển tự do. (72)

   Khoảng 12G30, quân đội được lệnh cấm quân. Bảy tiểu đoàn Dù nhận lệnh ứng chiến. Đại tá Lê Quang Tung tăng cường 2 Đại đội Lực Lượng Đặc Biệt [LLĐB] cho Sài G̣n, trí quân trong phi trường Tân Sơn Nhất. Nhân viên Mỹ được nghỉ sớm, và khuyến cáo không nên đến gần các đám biểu t́nh. (73)

   Phần Trueheart tới gặp Thuần tại tư dinh, bảo thẳng Thuần rằng Diệm phải có thái độ ngay chiều đó, bằng không Mỹ sẽ tuyên bố không liên hệ đến chính sách tôn giáo của Diệm. Khi Thuần hỏi có thể dẫn lời Trueheart cho Diệm và Nhu nghe được không, Trueheart đồng ư. Trueheart cũng lưu ư Thuần về kháng thư của PTPNLĐ đăng trên Times of Vietnam sáng đó để phản đối hăng UPI khi gửi đi bản tin của Sheehan; và cảnh cáo rằng nếu đây là bước đầu để trục xuất Sheehan th́ là một điều “ngu xuẩn” (stupid). (74)

   Phó  Tổng thống Thơ và Ngoại trưởng Vũ Văn Mẫu cũng vào yêu cầu Diệm phải có hành động tức khắc, đồng thời chỉ thị UBLB xúc tiến nhanh việc thương thuyết với Ủy Ban Liên Phái Phật Giáo Tranh Đấu. (75)

   Ngay tối 11/6 đó, Diệm đọc diễn văn, cam kết là “phía sau Phật Giáo trong nước c̣n có Hiến Pháp, tức là có tôi.” (76) Diệm hy vọng diễn văn truyền thanh của ḿnh sẽ trấn an dư luận cho tới hôm sau, khi UBLB gặp mặt Ủy Ban Liên Phái.

   Tại Oat-shinh-tân, gần nửa đêm 11/6 [gần trưa 12/6 tại Việt Nam], Rusk chỉ thị cho Trueheart: “Nếu Diệm không có những bước cấp tốc và hiệu lực để giải quyết cuộc khủng hoảng để gây lại niềm tin của Phật tử, chúng ta sẽ phải tái duyệt xét việc ủng hộ chế độ Diệm.” (77)

   Tối ngày 12/6, Trueheart mới gặp được Diệm. Không những thông báo cho Diệm biết cuộc tự thiêu của Quảng Đức đang gây sôi nổi dư luận thế giới, Trueheart c̣n trao cho Diệm một văn bản cảnh giác–theo đúng chỉ thị của Rusk–là Mỹ có thể sẽ công khai tuyên bố không ủng hộ chính sách Phật giáo của Diệm. Trước khi kiếu từ, Trueheart nêu lên 3 điểm:

       1. Báo cáo ngày 11/6 cho biết chính quyền Huế và Đà Nẵng tiếp tục bắt giữ người biểu t́nh.

       2. Chính phủ không thể truy tố những người “giúp” Quảng Đức tự thiêu. (Diệm nói có người giúp Quảng Đức đổ xăng lên ḿnh, và châm lửa. Trueheart nhấn mạnh rằng hai nhân chứng đích mắt thấy Quảng Đức tự ḿnh tưới xăng và châm lửa).

       3. Có tin chính phủ đang cấm các tăng ni từ các tỉnh vào Sài G̣n. (Cả Diệm lẫn Thuần trả lời là v́ lư do an ninh. Diệm thêm rằng Quốc Hội đang thành lập tiểu ban nghiên cứu việc sửa đổi Sắc Luật số 10). (78)

 C. THÔNG CÁO CHUNG:

   Từ  sáng 12/6, Hoà thượng Tịnh Khiết cùng Trí Quang và Thiện Minh rời Huế vào Sài G̣n để thương thuyết với UBLB. Ba lănh tụ Phật giáo tới phi trường Tân Sơn Nhất lúc 13G15, và tạm trú tại chùa Xá Lợi. (79) Phó TT Thơ viết thư yêu cầu hai bên họp ngay lúc 18G00 hôm đó để giải quyết mau chóng các đ̣i hỏi của Phật giáo. Phật giáo muốn tŕ hoăn ít ngày để bàn bạc với các đại diện miền Nam, nên nêu lư do Tịnh Khiết c̣n yếu sau 5 ngày tuyệt thực, cần tĩnh dưỡng ít lâu. Thơ lại đề nghị gặp nhau hôm sau, giờ và địa điểm do Phật giáo chọn. Cuối cùng, Phật giáo đề nghị họp ngày 14/6, với điều kiện chính phủ nhân nhượng toàn bộ 5 đ̣i hỏi ngày 10/5/1963. ( 80)

   Ngày 14/6, phái đoàn Phật Giáo do Thiện Minh làm Trưởng đoàn–gồm Thiện Hoa, Tâm Châu, Huyền Quang (Thư kư), và Đức Nghiệp (Phó Thư kư)–bắt đầu họp với UBLB. Do áp lực của Trueheart, ngay sáng hôm đó, chính phủ nhượng bộ đ̣i hỏi thứ nhất: đồng ư cho Phật tử treo cờ. Trong phiên họp chiều, đồng ư sửa lại Sắc luật số 10. Để tỏ thiện chí, Tịnh Khiết kêu gọi Phật tử tạm ngưng biểu t́nh. ( 81)

   Hôm sau, khoảng 18G30, thương thuyết hoàn tất. Ngày Chủ Nhật, 16/6, hai bên ra thông cáo chung với những điều khoản sau: Ngưng áp dụng Dụ số 10; cứu xét lại những khiếu nại của Phật Giáo; xác nhận tự do tôn giáo; sẽ “trợ cấp” (không “bồi thường”) cho gia đ́nh nạn nhân ở Huế. Tịnh Khiết và Diệm cùng kư vào Tuyên Cáo–nhưng Diệm không kư ngang chỗ “Khán” của Tịnh Khiết mà ghi vào góc trên của bản Thông cáo chung như sau: “Những đều được ghi trong thông cáo nầy th́ đă được tôi chấp nhận nguyên tắc ngay từ đầu; Ngô Đ́nh Diệm.” (82)

   Trong khi thương thuyết đang diễn ra, Phật tử và một số lănh tụ Phật giáo thiên về bạo động hơn. Ngày 13/6, Phật tử khắp nơi treo cờ Phật Giáo, chống lệnh cấm của Diệm (thực ra Diệm đă bí mật đồng ư). Buổi lễ cầu siêu cho Quảng Đức ngày 16/6 tại chùa Xá Lợi qui tụ hàng chục vạn người. Hơn 500,000 thanh niên, hoc sinh và Phật tử xuống đường biểu t́nh. Xô xát Cảnh Sát kéo dài 45 phút trước chùa. (83) Buổi tối, Thiết Giáp phải tăng cường cho Cảnh Sát. Một thiếu niên 15 tuổi bị tử thương v́ trúng đạn ở đầu. 3 tăng và 2 Phật tử bị thương. Hàng ngàn người bị bắt giữ. (84)

   Ba ngày sau, 19/6, nhờ Cảnh Sát, Công An nỗ lực ngăn chặn Phật tử tham dự, lễ hỏa táng Quảng Đức bớt hỗn loạn hơn. 

 IV. GIAI ĐOẠN “HƯU CHIẾN,” 19/6-20/8/1963: 

   Thông cáo chung ngày 16/6/1963 là cơ hội tốt nhất cho chính phủ Diệm giải quyết cuộc khủng hoảng Phật Giáo. Nhưng v́ những nguyên do thầm kín, họ Ngô quyết định không tôn trọng những điều đă cam kết. Phật Giáo chẳng phải không đề pḥng. Lănh đạo Phật Giáo chỉ tạm thời “ngưng chiến” trong ṿng 2 tuần lễ, chờ đợi thành tâm của chính phủ. 

   A. NỖ LỰC PHÁ HOẠI THÔNG CÁO CHUNG 16/6/1963:

   Có  dấu hiệu cho thấy vợ chồng Nhu-Lệ Xuân muốn phá hoại việc thực hiện thông cáo chung với Phật giáo.

   Một mặt, Nhu vận động các hội Phật giáo độc lập chống lại cuộc tranh đấu. Ngày 20/6, Phật Giáo Cổ Sơn Môn –mới thành lập tại chùa Giác Lâm, Chợ Lớn; do Huệ Tâm, Hoà thượng trụ tŕ chùa Trung Nghĩa, Sa Đéc, thủ lĩnh Lục Ḥa Tăng làm Tăng thống–tuyên bố ủng hộ chính sách tôn giáo của chính phủ, và đứng ngoài chính trị.( 85) Nhu c̣n cho lệnh cắt bỏ đoạn phim thời sự về cuộc thương thuyết giữa chính phủ và Phật giáo.

   Mặt khác, Nhu sai các tỉnh tổ chức mít-tinh lên án phong trào tranh đấu của Phật giáo và phong tỏa các chùa chiền. Đoàn viên Thanh Niên Cộng Hoà [TNCH] mặc đồng phục xanh dương đậm đi lấy chữ kư để ra thỉnh nguyện thư phản đối bản thông cáo chung 16/6/1963, và chuẩn bị biểu t́nh đ̣i xét lại thông cáo chung này. Bản thông cáo số 3 của TNCH đệ tŕnh lên “Tổng thủ lănh” Nhu đề ngày 25/6/1963 gồm nhiều lời đả kích Phật giáo nặng nề như “dị đoan cuồng tín,” “phản loạn, tay sai của kẻ thù chung,” v.. v... Đồng thời, lên án Tuyên cáo chung 16/6/1963 là “không phù hợp với lư tưởng của TNCH, co đặt những đặc quyền và độc quyền cho một nhóm, có những chủ trương trái với luật lệ hành chánh.” ( 86) Trước sự phản kháng của Phật giáo, ngày 1/7/1963, TNCH lại ra Tuyên cáo số 4, ám chỉ lănh tụ Phật giáo tranh đấu liên hệ với bọn phản loạn và phản quốc, trong khi đích thân Tổng thủ lănh “cảnh giác để không cho phép bọn đầu cơ chính trị và Cộng Sản lợi dụng Thông cáo chung [16/6] đó hầu làm sai lệch nó ra ngoài phạm vi tôn giáo.”( 87)

   Lệ  Xuân th́ cho PTPNLĐ họp tại trụ sở trung ương ngày 16/6, dùng loa phóng thanh công bố Quyết nghị ngày 7/6. Rồi ra một Bạch thư [Sách trắng], do vợ chồng Gene và Ann Gregory, chủ nhiệm báo Times of Vietnam soạn thảo, đăng trên chính tờ Times of Vietnam số ra ngày 17/6, miệt thị cuộc tranh đấu của Phật giáo, tố cáo cuộc tranh đấu không v́ lư do tôn giáo mà chỉ v́ lư do chính trị. ( 88)

   Rồi  đến kế hoạch ăn mừng lớn suốt ba ngày, từ 25 tới 27 tháng 6/1963, để kỷ niệm 25 năm Thục được phong chức Giám mục (Lễ Ngân Khánh = Tea Deum).( 89)

   Có  lẽ anh em họ Ngô muốn sử dụng ngày lễ  này để vận động sự ủng hộ của khối giáo dân Ki-tô chống Phật Giáo. Bởi thế, ngày 16/6, Tổng Giám Mục Paul [Nguyễn Văn] B́nh chỉ thị các họ đạo phải giữ tôn giáo biệt lập với chính quyền. “Một giáo dân Ki-tô tốt, và đạo hạnh, là công dân thượng hạng, ràng buộc với tổ quốc, trung thành với chế độ cầm quyền, bất kể sự chính thống của chính quyền ấy.” Đó là lời giải thích của Pie XI, trong Sắc Dụ ngày 31/12/1929.” (90)

   Hệ  thống tuyên truyền của chế độ cũng t́m đủ cách hạ giá trị các lănh tụ và mục tiêu tranh đấu của Phật tử. Cán bộ chính phủ loan tin Cộng Sản đă nhúng tay vào máu khi ném lựu đạn vào đám đông đêm 8/5/1963. Khi những cuộc giải phẫu tử thi không t́m thấy mảnh lựu đạn, câu chuyện biến thành ḿn từ lực Cộng Sản. Ít năm sau, lại mọc ra chi tiết một Đại úy Mỹ đă chết từng tự nhận đặt chất nổ.

   Thượng tọa Trí Quang, linh hồn của cuộc tranh đấu miền Trung, bị cáo buộc là cán bộ Cộng Sản cao cấp, từng bị Pháp bắt giữ, âm mưu lật đổ chính quyền từ năm 1960. Ḥa thượng Tịnh Khiết, theo những lời tuyên truyền này, không biết quốc ngữ, chỉ kư vào những ǵ các sư trẻ, quá khích bắt buộc phải kư. Cuộc tự thiêu của Quảng Đức không tự nguyện, mà là một h́nh tội sát nhân. Quảng Đức, theo lập luận này, đă bị chích thuốc trước khi “sát nhân” đổ dầu và châm lửa đốt cháy. Diệm và Nhu c̣n đe sẽ truy tố những người đă trợ giúp thượng tọa hóa thân ra ṭa.

   Lệ  Xuân th́ khẳng định rằng cuộc tự thiêu của Quảng Đức chỉ là một màn “nướng thịt sư” [barbecue of a bonze] với xăng nhập cảng. Bác sĩ riêng của Diệm mật báo với Nolting rằng Quảng Đức bị một số sư trẻ thuyết phục nên tự thiêu; v́ ít năm trước, Quảng Đức từng hứa với một người bạn là sẽ “đồng tử,” và nay người bạn đó đă chết, Quảng Đức cần giữ lời thề. Nói cách khác, Quảng Đức không thích chính trị, và không tự thiêu để chống chính phủ. ( 91)

   Trong khi đó, tại vài địa phương, viên chức thông tin loan tin chống Phật Giáo, chùa chiền bị phong tỏa, sinh viên, học sinh và thanh niên Phật tử liên tục bị gây khó khăn, và bắt giữ. Điều khiến các lănh tụ tranh đấu bất măn nhất là tổ chức Cổ Sơn Môn công khai tố cáo phe tranh đấu có ư đồ làm chính trị. Ngày 26/6, Tịnh Khiết phải than với Diệm rằng “t́nh thế không những không thay đổi mà c̣n trầm trọng hơn.”( 92)

   Ngày 1/7, Hoàng Văn Giàu, Trưởng đoàn Thanh Niên Phật Tử, gay gắt lên án thái độ của chính phủ và kêu gọi Phật tử quyết tâm tranh đấu. (93) 

   B. NỖ LỰC H̉A GIẢI CỦA MỸ:

   Kennedy và các cố vấn cực kỳ bối rối. Trong một phiên họp Hội Đồng An Ninh Quốc Gia [ANQG], Kennedy đặt câu hỏi phải chăng Quảng Đức đă bị “thuốc” [drugged], nhưng các cố vấn khẳng định đức tin đă quá đủ cho những hy sinh tương tự. Dù là giáo dân Ki-tô, ủng hộ Diệm từ thập niên 1950, Kennedy chỉ thị Đại sứ Sài G̣n áp lực bắt Diệm phải đáp ứng ngay đ̣i hỏi của Phật giáo. Ngày 14/6 [11 giờ sáng 15/6/1963 VN], Rusk chỉ thị Trueheart cứu xét việc đưa Phó Tổng thống Thơ lên thay Diệm trong trường hợp bất trắc, và Trueheart phải tiếp xúc Thơ cùng những người không ủng hộ Diệm. (94) Nhưng hai ngày sau, Trueheart trả lời là không tiện bàn với Thơ, v́ t́nh h́nh đă sáng sủa hơn–Phật giáo và UBLB đạt được thông cáo chung. Trueheart chỉ hứa sẽ thuyết phục Diệm hoà hoăn, và nếu Diệm không chịu thực thi thông cáo chung, sẽ xúc tiến t́m “một giải pháp khác Diệm.” (95)

   Ngày 18/6, Trueheart bảo Thơ rằng chỉ nên coi những thỏa thuận như bước khởi đầu mà chưa phải hồi kết của cuộc khủng hoảng. Diệm cần thực hiện những điều đă thỏa thuận. Sáng đó, khi gặp Thuần, Trueheart cũng nói tương tự, với lời lẽ cứng rắn hơn. Trueheart đặc biệt nhắc Thuần về luận điệu của tờ Times of Vietnam ngày 17/6 về tuyên cáo chung, và hành vi khiêu khích của PTPNLĐ. ( 96)

   Tối 19/6 [8G28 ngày 20/6/1963 tại VN], Roger Hilsman chỉ thị  cho Trueheart nên lưu ư các viên chức Việt là đừng nên đồng hoá một cá nhân với chế độ. Thí dụ như lời tuyên bố “Phật giáo có thể tin cậy nơi Hiến pháp, nghĩa là tôi” của Diệm tạo nên những cảm tưởng xấu ở Mỹ. Viên chức Việt cũng cần tiếp xúc thường xuyên với lănh tụ Phật giáo và đối xử đồng đẳng với họ. Đặc biệt, thỏa ước 16/6/1963 phải được tôn trọng và nhanh chóng thực hiện để giảm thiểu sự nghi ngờ của Phật tử. ( 97)

   Dư luận thế giới cũng đă chú ư hơn đến cuộc tranh đấu của Phật giáo. Ngày 14/6, Norodom Sihanouk viết thư cho Kennedy, phản đối việc đàn áp Phật giáo tại Nam VN. Sihanouk cũng gửi cho TTK/LHQ U Thant, Thủ tướng Bri-tên McMillan, TT Pháp de Gaulle và TT India, Radhakrishnan, thông điệp tương tự. Sihanouk c̣n trao cho Đại biện VNCH tại Phnom Penh một công hàm về vụ tàn sát Phật tử ở Huế. ( 98)

   Hôm sau, 15/6, lần đầu tiên tin Phật Giáo Việt Nam được lên trang nhất báo The New York Times [Nữu Ước Thời Báo], tờ báo uy tín của giới trung lưu Mỹ. Max Frankel, tác giả, cho rằng nhân viên ngoại giao Mỹ đă nói thẳng với Diệm bằng giọng điệu gay gắt rằng VN phải thỏa măn các đ̣i hỏi của Phật Giáo, bằng không Mỹ sẽ tuyên bố không yểm trợ chính sách Phật Giáo của Diệm. ( 99) Thông báo cho Trueheart tin này, BNG chỉ thị Trueheart nói với Diệm rằng chính phủ Mỹ vẫn yểm trợ Diệm; tạm thời không đề cập đến bài báo trên NYT. Hầu hết báo lớn và các lănh tụ Mỹ đều chỉ trích chế độ Diệm.

   Ngày 18/6, Thủ tướng Ceylon là Bandaranaike cũng gửi thư cho Kennedy, yêu cầu ḥa giải để Phật tử, vốn chiếm đa số tại Việt Nam, được quyền tự do tín ngưỡng. Mười ngày sau, 28/6, đại biểu Cambodia, Ceylon và Nepal tại LHQ gặp đại biểu Mỹ để bày tỏ quan tâm về t́nh h́nh Phật giáo Việt Nam.( 100)

   Đáng lưu ư là trong hai tháng đầu đấu tranh của Phật Giáo–mặc dù chính phủ Diệm không ngớt vu cáo cuộc tranh đấu do Cộng Sản xúi dục, và sau này Nguyễn Hữu Thọ đánh gía nó như “món quà từ trên trời rơi xuống”–cả Hà Nội lẫn MT/GPMN đều chưa bày tỏ một thái độ rơ ràng nào ngoài những phản kháng chung chung của Vơ Nguyên Giáp hay Hà Văn Lâu gửi Ủy Ban Quốc Tế Kiểm soát Đ́nh chiến, hay Tuyên cáo của MTGPMN về việc vi phạm Hiệp định “Giơ neo vơ.” (101)

   Măi tới ngày 15/7 mới có tin t́nh báo là MTDT/GPMN kêu gọi binh sĩ và cảnh sát ủng hộ cuộc tranh đấu của Phật Giáo. (102) Cũng từ ngày này, cán bộ nằm vùng CS xâm nhập vào các cuộc tranh đấu, lôi kéo thanh thiếu niên nam nữ. (103)

   Các cơ quan tuyên truyền của Đảng Lao Động Việt Nam mở nhiều chiến dịch khai thác cuộc tranh đấu:

   - Mít tinh, tuyên cáo đả kích Mỹ-Diệm và ủng hộ cuộc tranh đấu của Phật Giáo trước dư luận quốc nội cũng như quốc tế.

   - Xâm nhập cán bộ vào các đô thị và phong trào tranh đấu

   - Gia tăng hoạt động quân sự, đánh phá các đồn bót và Ấp chiến lược.

   - Khoét sâu sự khác biệt giữa chính quyền miền Nam và  Phật Giáo.

   V́  vậy, có lúc an ninh Mỹ phải đặt câu hỏi thực chăng CS đă bỏ vùng thôn quê, dồn vào mặt trận tỉnh thị. 

   C. THAY ĐỔI ĐẠI SỨ MỸ:

   Giữa thời gian này, Oat-shinh-tân gửi công hàm hỏi ư kiến Diệm về việc thay Đại sứ ở Sài G̣n. Ngày 20/6/1963, BNG Mỹ chỉ thị cho Trueheart xin gặp Diệm để xin ư kiến về việc cử Henry Cabot Lodge thay Nolting. (104)

   Sau khi tiếp Trueheart khoảng 1 tiếng đồng hồ chiều ngày 22/6, ba ngày sau, 25/6, Diệm sai Thuần cho Truheart biết Diệm rất bất măn. Diệm cho rằng Mỹ đang thay đổi chính sách và nỗ lực bắt Diệm phải làm theo Mỹ hay sẽ bị loại bỏ [Diem thought a new American policy was involved and an effort to force him to do our bidding or to unseat him]. Diệm cũng nhắn đến tai Lodge rằng “họ có thể gửi 10 Lodge tới đây, nhưng tôi không để cá nhân tôi hay đất nước này bị hạ nhục, kể cả việc họ huấn luyện pháo binh bắn vào dinh thự này [they can send ten Lodges, but I will not permit myself or my country to be humiliated, not if they train their artillery on this Palace].( 105) Theo Thuần, Diệm sẽ trở nên cứng đầu hơn. Truheart bảo thẳng Thuần rằng cách tốt nhất để tránh đương đầu với Mỹ là chính phủ Diệm nên bắt đầu thay đổi cách làm việc.( 106)

   Ngày 26/6, Thứ trưởng Ngoại giao George W. Ball chỉ thị cho Trueheart gặp Diệm, giải thích rằng chính sách của Mỹ không thay đổi; đó là yểm trợ chính phủ chống Cộng miền Nam. Riêng việc bổ nhiệm Lodge đă được quyết định từ tháng 4/1963, trước khi xảy ra cuộc khủng hoảng Phật giáo, v́ Nolting đă ở Việt Nam hai năm. Mục đích của Mỹ là cảnh giác Diệm về những hiểm họa có thể tránh, không để làm suy yếu Diệm. Nhưng quyết định và hành động là trách nhiệm của riêng Diệm.(107) Hôm sau, Diệm tiếp Trueheart khoảng 2 tiếng rưỡi đồng hồ, tuyên bố sẽ thực hiện việc dân chủ hóa từ nông thôn lên, nhưng không muốn vợ chồng Nhu bị tách xa cá nhân ḿnh.( 108) Thuần cũng thông báo với Trueheart là Chính phủ Việt Nam sẽ ra chỉ thị cho các tỉnh thi hành nghiêm chỉnh bản tuyên cáo chung 16/6/1963. Cá nhân Diệm có thể sẽ ra Huế để nghiên cứu và giải quyết mọi sự; Diệm cũng sẽ đọc diễn văn về việc thực thi tuyên cáo chung.

   Nhưng ngày 27/6, Bộ trưởng Nội Vụ Lương lại tuyên bố với một nhân viên CIA rằng Cộng sản đă xâm nhập phong trào tranh đấu của Phật giáo, và trong vài ngày tới, sẽ ra thông cáo về việc những người bị bắt giữ. (109) Lời cáo buộc của Lương báo hiệu chính sách mới của họ Ngô với Phật giáo. Rất có thể chính sách này được thảo luận kỹ càng hơn trong dịp anh em họ Ngô về Huế dự lễ kỷ niệm 25 năm ngày thụ phong Giám mục của Thục, trong các cuộc họp mật vào cuối tháng 6/1963.( 110) 

   Tại Mỹ, Kennedy và các cố vấn theo dơi những biến chuyển ở Sài G̣n với mắt nh́n bi quan. Phản  ứng tại nội địa Mỹ cũng chẳng có ǵ đáng lạc quan. Ngày 27/6, báo New York Times đăng bài cậy đăng nguyên một trang của 12 lănh tụ Tin lành Mỹ, kể cả Reinhold Niebuhr và James Pike, yêu cầu Mỹ triệt thoái khỏi Việt Nam. Bài cậy đăng trên có cả h́nh Quảng Đức tự thiêu của Browne. Chỉ c̣n vài kư giả ủng hộ Diệm trên những tờ báo mà Giáo Hội Ki-tô Mỹ có ảnh hưởng.

   Quyết  định bổ nhiệm Lodge cũng tạo nên những tia lửa điện trong chính giới và hàng ngũ Tướng tá Việt Nam. Lodge, một lănh tụ đảng Cộng Hoà từng đứng phó trong liên danh Richard M. Nixon năm 1960, nổi danh la ợ“vua đảo chính” (đặc biệt là việc đảo chính Lư Thừa Văn ở Nam Hàn). Bởi thế, các mưu toan đảo chính Diệm bắt đầu rộn rịp tại Sài G̣n. Tin đồn đảo chính loan truyền rộng răi. Cuối tháng 6/1963, cơ quan CIA đă thiết lập được danh sách các nhóm có ư làm đảo chính. Đáng kể nhất có nhóm “Bác sĩ” Trần Kim Tuyến. Tuyến mới mất chức Giám đốc Mật Vụ, và đang chờ đi ngoại quốc. Quanh Tuyến có một số nhân viên Bộ Công Dân Vụ của Paul Hiếu, Tổng Nha Thông Tin, Mật Vụ, và một số sĩ quan trẻ. Nhóm khác do Huỳnh Văn Lang và Trung tá [Albert] Phạm Ngọc Thảo, Thanh tra Ấp Chiến Lược, chủ trương. Nhóm này gồm hầu hết cựu đảng viên của hệ Cần Lao “Liên kỳ Nam-Bắc Việt” do Lang thiết lập tại miền Nam, kể cả Thiếu tướng Trần Thiện Khiêm, Tham Mưu trưởng Liên quân.

   Từ  ngày 30/5, đă có tin đồn Tuyến và Albert Thảo mưu làm đảo chính. (Tuyến bị thất sủng; sau đó bị gửi qua Morocco [Ma Rốc] và Cộng Ḥa Arab, nhưng hai xứ này không nhận). Hai nhóm Tuyến và Thảo, phần đông là Ki-tô giáo, không muốn thấy “thiên mệnh Mỹ” rơi vào tay Phật giáo. (Theo t́nh báo Mỹ, Tuyến được sự yểm trợ của Tổng Giám Mục Nguyễn Văn B́nh, Hoà thượng Thích Tâm Châu, Thích Thiện Minh, Trung Tướng Dương Văn “Big” Minh và Thiếu tướng Tôn Thất Đính. Lănh tụ của nhóm Tuyến có lẽ là Nguyễn Ngọc Thơ). Nhưng mạnh nhất, và được Mỹ tin cậy nhất, là nhóm do Trung Tướng [André] Trần Văn Đôn, Quyền Tổng Tham Mưu Trưởng, đại diện. Từ tháng 6/1963, André Đôn và em rể là Lê Văn Kim đă xin Nolting cho làm đảo chính, nhưng bị Nolting nghiêm khắc trách mắng:

       Đừng cho tôi mấy thứ làm loạn và yểm trợ nổi loạn. Tại sao mấy ông không lo làm trọn nhiệm vụ của các quân nhân? Nước Mỹ không dính líu vào vấn đề đảo chính.( 111) 

   Ngày 8/7, André Đôn nói với một nhân viên CIA là nhóm ḿnh được đa số cấp chỉ huy ủng hộ, ngoại trừ Thiếu tướng Huỳnh Văn Cao, Tư lệnh QĐ IV, và Tôn Thất Đính, Tư lệnh QĐ III.( 112)

   Nhưng khuôn mặt mà chế độ gờm sợ nhất vẫn là Trung Tướng Dương Văn Minh (1916-2001). “Big” Minh, một thời được ca tụng như “Anh hùng Rừng Sác,” đang là một Tướng không có quân, vô quyền lực với chức vụ Cố Vấn Quân Sự Phủ Tổng Thống từ ngày 8/12/1962. Không ai rơ tại sao Tướng Minh bỗng dưng bị thất sủng. Người nêu lư do Minh đă dấu đi một phuy vàng tịch thu được trong chiến dịch truy lùng B́nh Xuyên. Người suy diễn rằng Diệm không tin Minh, một Tướng ngoại đạo, do Pháp đào tạo, lại có em trai theo Việt Minh. Thêm vào đó, một số quan Tướng Mỹ, kể cả Lansdale, không ưa “Big” Minh. Ngày 27/12/1961, chẳng hạn, Lansdale phản đối việc cử “Big” Minh nắm giữ quân đội v́, theo Lansdale, Minh từng công khai nói về ư định đảo chính Diệm.( 113) Theo Phó Tổng thống Nguyễn Ngọc Thơ, cá nhân ông ta và Big Minh bị Ngô Đ́nh Nhu dèm xiểm với Tổng thống Diệm là thành phần “chủ bại,” nên bị nghi ngờ và thất sủng từ năm 1959.

   Cách nào đi nữa, “Big” Minh từng mưu định ám sát Nhu, nhưng phải bỏ dở. Trong số đồng minh “tự nhiên” của “Big” Minh có Mai Hữu Xuân, Lê Văn Kim, các sĩ quan gốc miền Nam và một số đảng viên Đại Việt thời cơ như Đặng Văn Sung và Bùi Diễm.

 D. ĐỢT TRANH ĐẤU THỨ HAI CỦA PHẬT GIÁO:

   Phần Phật giáo vẫn chuẩn bị tiếp tục tranh đấu, nếu cần. Ngày 26/6, Thiện Minh viết thư phản đối với UBLB về việc thành lập Phật Giáo Cổ Sơn Môn. Không hài ḷng với thư trả lời ngày 28/6 của UBLB, nhóm tranh đấu quyết định xuống đường. Ngày 30/6, hàng ngàn tăng ni Sài G̣n bắt đầu tuyệt thực. Qua đầu tháng 7/1963, sinh viên, học sinh Sài G̣n biểu t́nh trước Quốc hội để yểm trợ cuộc tuyệt thực của các tăng ni.

   Ngày 1/7, tờ Times of Vietnam cho đăng trên trang nhất bản tin tựa đề: “Băng keo Scotch bí ẩn và Đoạn kết chứng hoang tưởng đă ló dạng” [Mysterious Scotch Tape and End to Schizophrenia In Sight]. Bài này hàm ư có sự chia rẽ giữa Nhu và Thơ-Thuần, cáo buộc Quảng Đức đă bị “thuốc” trước khi tự thiêu, và đưa ra nhận định thời gian hưu chiến hai tuần đă qua, nhưng Sài G̣n vẫn yên tĩnh; ngoại trừ có một biến cố đặc biệt nào, thí dụ như một cuộc tự thiêu khác, có thể kết luận rằng những đ̣i hỏi của Phật giáo đă được thỏa măn.”( 114) Hai ngày sau, 3/7, Phó TT Thơ tuyên bố vào là, theo sự điều tra của chính phủ, chính “Việt Cộng” đă gây nên cuộc thảm sát đẫm máu ở Huế. (V́ việc này, ngày 10/12/1963, Thơ đă bị chất vấn gay gắt trong một buổi họp báo ở Sài G̣n sau ngày đảo chính Diệm)

   Tại Mỹ, từ ngày Thứ Hai, 1/7, Michael Forrestal đă yêu cầu cho Nolting trở lại Việt Nam v́ Phật giáo có thể biểu t́nh trở lại sau thời gian “hưu chiến.” Tối 1/7 đó, Ball chuyển chỉ thị của Hilsman và Nolting cho Trueheart là phải gặp Diệm ngay, bảo thẳng Diệm rằng dư luận Mỹ nghĩ rằng người thân của Diệm đang cố t́nh phá hoại sự thỏa thuận với Phật giáo. Đúng hay sai, dư luận Mỹ cũng cho rằng đang có bách hại tôn giáo ở miền Nam. Khi gặp Thuần, Trueheart yêu cầu Thuần đọc bài viết trên Times of Vietnam, và đề nghị Mỹ muốn Lệ Xuân đừng nên tuyên bố ǵ hết; bài báo trên Times of Vietnam hàm ư thách thức Phật giáo tiếp tục tự thiêu. Rồi thêm chẳng lẽ Diệm không hiểu rằng chỉ cần một vụ tự thiêu nữa là chính phủ Mỹ sẽ tuyên bố không dính líu ǵ đến chính sách tôn giáo của Diệm? Thuần trả lời rằng Diệm không biết điều đó, và đề nghị Trueheart nên nói thẳng với Diệm.( 115)

   Trueheart xin chỉ thị của Bộ Ngoại Giao và Ball cho gặp Diệm, nói thẳng với Diệm; và nếu cần, gặp cả Nhu. (116)

   Buổi Diệm gặp Trueheart chiều ngày 3/7 khiến liên hệ giữa hai bên thêm căng thẳng. Khi Trueheart đề nghị Diệm đích thân gặp các lănh tụ tôn giáo để giải quyết, Diệm nói sẽ nghiên cứu lại. Khi Trueheart đề cập đến bài trên Times of Vietnam, Diệm cũng chỉ nói sẽ nghiên cứu.( 117)

   Hôm sau, Thuần cho Trueheart biết rằng có lẽ Diệm không hành động ǵ về những đề nghị của Trueheart và yêu cầu Nolting trở lại Sài-G̣n càng sớm càng tốt.(118) Cũng trong ngày 4/7 này Lệ Xuân viết bài “Who Is Spokeman of Whom?” [Ai là phát ngôn viên của ai?] trên Times of Vietnam, phủ nhận tờ Times of Vietnam là cơ quan ngôn luận của ḿnh. Nếu những bài trên Times of Vietnam có trùng hợp ư kiến của Lệ Xuân, đó cũng không phải là quan điểm của chính phủ. Lệ Xuân cũng khẳng định không đại diện cho chính phủ VNCH, và những kẻ xuyên tạc có thể bị lợi dụng bởi Cộng Sản và tay sai [lackeys] của chúng. Bài này đă được phát cho báo chí ngày hôm trước.( 119)

   Trong phiên họp HĐ/ANQG từ 11G00-11G45 ngày 4/7 (khoảng nửa đêm ngày 4/7 tại Sài G̣n), ư kiến chung của các viên chức Mỹ là Diệm không chịu xa Nhu. Hilsman, Phụ tá Ngoại trưởng Mỹ, thông báo cho Kennedy biết sẽ có đảo chính trong ṿng 4 tháng.( 120)

   Hôm sau, 5/7, từ Greece về tới Oat-shinh-tân, Nolting được mời tham dự phiên họp của HĐ/ANQG, rồi nhận lệnh trở lại Sài G̣n càng sớm, càng tốt, với hy vọng cho Diệm cơ hội chót. Giữa lúc Nolting đang trên đường về nhiệm sở, ngày Chủ Nhật, 7/7, tại đường Trương Minh Giảng, Công an hành hung một nhóm kư giả ngoại quốc nổi danh chỉ trích chế độ như Browne, Trưởng văn pḥng hăng AP, Peter Arnett, gốc New Zealand, Sheehan, Halberstam, v.. v..., khi họ đang quan sát và thu h́nh cuộc biểu t́nh của các tăng ni chùa “Miên.”( 121)

   Ngày 10/7, bản ước lượng t́nh báo đặc biệt [SNIE 53-2-63] của Hội đồng ANQG Mỹ dự đoán rằng nếu Diệm không thi hành nghiêm chỉnh tuyên cáo chung 16/6, sẽ có đảo chính trong tương lai gần, với hơn 50% cơ hội thành công.( 122) 

   E. NỖ LỰC VÔ VỌNG CỦA NOLTING:

   Nolting vừa về tới Sài G̣n ngày 11/7 đă được Diệm mời vào Dinh Gia Long, tŕnh bày t́nh h́nh. Để trả lời câu tuyên bố của Nolting với giới truyền thông khi vừa bước xuống phi trường–là mong muốn hai bên tiếp tục nói chuyện để đạt thỏa thuận–Diệm nói kết quả thương thuyết tùy thuộc vào phe tranh đấu.( 123)

   V́  nghi ngờ rằng Phật giáo bị Cộng Sản giật giây, Nolting nỗ lực nối lại mối giao hảo giữa Toà  Đại sứ và Diệm. Ngày 15/7, Nolting khuyên Diệm nên công bố một số nhân nhượng cần thiết với Phật giáo. Diệm đồng ư, nhưng chưa có hành động nào. Theo Nolting, chính Diệm cũng đang muốn tử v́ đạo (124)

   Nhưng cuộc diễn hành tới trước tư thất Đại sứ Nolting ngày 16/7, do Tâm Châu dẫn đầu, để phản đối việc chính phủ tiếp tục đàn áp, bắt giữ tăng ni, Phật tử, và khẳng định Phật giáo không phải là Cộng sản hay bị Cộng sản lợi dụng, khiến Diệm cứng rắn hơn.( 125) Hôm sau, 17/7, Trần Văn Tư, Giám đốc Nha Cảnh sát Đô thành, sai Cảnh sát đàn áp dữ dội cuộc biểu t́nh bất bạo động ở Sài G̣n và chùa Giác Minh tại Chợ Lớn. Hàng chục xe chở người bị bắt đến các trại tập trung vào An Dưỡng Địa Phú Lâm để sưu tra lư lịch. Các chùa đều bị phong tỏa.

   Sau khi Kennedy tuyên bố trong buổi họp báo ngày 17/7 tại Oat-shinh-tân là hy vọng cuộc tranh chấp tôn giáo sẽ được giải quyết sớm, ít giờ sau [ngày 18/7 tại Việt Nam], Diệm tuyên bố trên đài thanh không hề đàn áp Phật giáo, yêu cầu mọi người đoàn kết sau lưng chính phủ, rồi kết luận bằng câu “Xin ơn trên ban phép lành cho chúng ta.”

   Hôm sau nữa, 19/7, Diệm cho phát lại bài diễn văn truyền thanh vỏn vẹn 2 phút kể trên. Ngày này, Ủy Ban Liên Phái Tranh Đấu Bảo Vệ Phật Giáo tán thành lời kêu gọi của Diệm; và yêu cầu có những biện pháp cụ thể để thực hiện Tuyên cáo chung 16/6/1963, như phóng thích những người bị bắt giữ từ ngày 8/5, trừng phạt những người gây nên tội ác trong ngày 8/5, và bồi thường thiệt hại cho các nạn nhân và gia đ́nh. Hôm sau, 20/7, đích thân Paul Hiếu và Trần Văn Tư tới Phú Lâm yêu cầu các tăng ni bị bắt giữ được trở lại chùa Xá Lợi.( 126)

   Ngày 22/7, Ủy Ban tranh đấu gửi điện văn thông báo khắp nơi là cuộc đấu tranh đ̣i hỏi thực thi Thông cáo chung chưa chấm dứt: Luân phiên cầu nguyện và tuyệt thực.( 127) Các lănh tụ tranh đấu cũng tổ chức họp báo tại chùa Xá Lợi, lên án chính phủ không giữ lời hứa.( 128)

   Điều đó, có lẽ Nolting rơ hơn ai hết. Chiều ngày 16/7/1963, khi Nolting vào Dinh Gia Long gặp Nhu, Nhu đă tuyên bố Phật giáo không có sự đe dọa nào đáng kể.

   Nhưng các cố vấn của Kennedy nh́n sự việc một cách khác. Ngày 23/7, Hilsman chỉ thị cho Nolting là Bộ Ngoại Giao dự trù sẽ c̣n nhiều cuộc biểu t́nh của Phật giáo; những cuộc biểu t́nh này khích động thị dân, và có thể sẽ có đảo chính trong vài tháng, nếu không phải vài tuần; và những cuộc đảo chính ấy hy vọng thành công. Bởi thế, Nolting có thể ra tuyên cáo tự cách biệt với chính sách của Diệm; khuyến khích việc kế vị hợp hiến (Thơ lên thay); thuyết phục những người muốn đảo chính bỏ ư định; hoặc, tiếp tục chờ đợi, hy vọng Diệm cải cách. Hiện tại, nên theo đuổi chính sách chờ đợi.( 129)

   Nolting vẫn ra công bảo vệ Diệm. Theo Nolting, Diệm là cơ hội tốt nhất của miền Nam.( 130) Ngày 28/7, Nolting c̣n tuyên bố với hăng UPI là không hề có việc đàn áp Phật Giáo ở VNCH, v́ Bộ trưởng Nội Vụ Lương đă cho Nolting biết sẽ không dùng biện pháp mạnh để đàn áp; và dân chúng đă chán ngán cảnh hỗn loạn. Diệm c̣n trực tiếp chỉ thị cho Đại tá Nguyễn Văn Y, Giám đốc Mật vụ, và Trần Văn Tư, Giám đốc Cảnh Sát Đô thành, không được dùng vơ lực. Phó Tổng thống Thơ cũng nói đại diện Phật giáo đồng ư gặp Thơ trên căn bản bán chính thức từ ngày 31/7/1963.

   Nhu và Lệ Xuân tiếp tục sử dụng cán bộ  Cần Lao cùng các tổ chức ngoại vi như Thanh Niên Cộng Hoà, Thanh Nữ Cộng Hoà chống Phật Giáo. V́ quá hăng say phục vụ lănh tụ và để chuộc tội thua trận Tua Hai (Tây Ninh) hơn ba năm trước, ngày Chủ Nhật 23/7, Trung Tá Trần Thanh Chiêu, Giám đốc Nha Thanh Tra Dân Vệ, tụ tập khoảng 100 dân vệ, gia đ́nh tử sĩ và thương phế binh trước chùa Xá Lợi, yêu cầu “các thày trở lại việc tu hành, ngưng tiếp tục gây rối loạn chỉ làm lợi cho Cộng Sản.”( 131)

   Lỗ  măng nhất là Lệ Xuân. Không những chỉ thị  cho tờ Times of Viet Nam đả kích Phật giáo, mà c̣n hàm ư thách thức các tăng ni tiếp tục tự thiêu.( 132) Để trả lời Lệ Xuân, ngày 23/7, Sư bà Diệu Huệ, mẹ Giáo sư Bửu Hội, họp báo tuyên bố sẵn sàng tự thiêu cúng dường tam bảo. Tuy nhiên, cuối cùng Bửu Hội thuyết phục được mẹ ḿnh ngưng tự thiêu.( 133)

   Ngày 1/8, Lệ Xuân tuyên bố với phóng viên đài truyền h́nh Mỹ CBS rằng các lănh tụ Phật giáo đang âm mưu lật đổ chính phủ; và tất cả những ǵ Phật tử đă làm chỉ có mỗi việc “nướng thịt một sư” [barbecue a bonze] với “săng nhập cảng” [imported gas]. Hai ngày sau, 3/8, Lệ Xuân tuyên bố trước khoá sinh khoá III Phụ Nữ Bán Quân Sự rằng những vụ tranh đấu chỉ có bề ngoài tôn giáo, nhưng mục đích là chính trị, với thủ thuật Cộng Sản, cần phải bẻ găy. Đại sứ Trần Văn Chương, cha ruột Lệ Xuân, phải công khai trách Lệ Xuân là “thiếu tư cách và hỗn láo” [impertinent and disrespectful] trên đài Tiếng Nói Hoa Kỳ [VOA] vào ngày 6/8. Ngày 8/8, để trả lời Đại sứ Chương, Lệ Xuân tuyên bố dù có “thiếu lễ độ” cũng phải nói “sự thực.” Lệ Xuân cũng biện hộ cho những lời tuyên bố trên đài CBS ngày 1/8; khẳng định các lănh tụ Phật giáo không đại diện cho Phật giáo hay dân tộc Việt Nam.

   Hôm sau nữa, 9/8, trong bài phỏng vấn của tuần báo Mỹ  Newsweek, Lệ Xuân c̣n hung hăng hơn.( 134)

   Ngoài ra, c̣n có tin em trai Lệ Xuân, Trần Văn Khiêm, lên thay Trần Kim Tuyến làm Giám đốc Mật vụ, và Khiêm đă lập sẵn danh sách những người chống đối để quăng lưới. Khiêm mang danh sách trên ra khoe với cả một kư giả Australia.( 135)

   Nhu cũng tiếp tay vợ trong chiến dịch đả kích Mỹ và Phật giáo. Trả lời câu hỏi của Reuters ngày 3/8, Nhu tuyên bố chùa Xá Lợi đang trở thành một trung tâm mưu lật đổ chính phủ, và nếu không giải quyết được vấn đề Phật giáo, sẽ có một cuộc đảo chính chống Mỹ và Phật giáo.( 136) Ngày 7/8, Nhu nói với Nolting là hoàn toàn ủng hộ chính sách của Diệm qua bản tuyên cáo ngày 18/7, nhưng Lệ Xuân có quyền phát biểu ư kiến riêng của một công dân.

   Ngày 8/8, nhật báo New York Times đăng hai bài trên trang nhất về Việt Nam. Bài thứ nhất của Halberstam, từ Sài G̣n, với tựa “Bà Nhu Tố Cáo Mỹ Bắt Chẹt ở Việt Nam” [Mrs. Nhu Denounces U.S. for “Blackmail” in Vietnam]. Lệ Xuân, theo Halberstam, tuyên bố rằng Diệm không có quần chúng ủng hộ, phải dựa vào vợ chồng Nhu. Bài thứ hai của Tad Szulc ở Oat-shinh-tân, tiết lộ mối quan tâm ngày một gia tăng của chính phủ Kennedy về việc chính phủ Diệm khó sống c̣n nếu không ḥa hoăn với Phật giáo. Tính sổ chung với những tuyên bố đ̣i rút số cố vấn Mỹ trong tháng 5/1963, kế hoạch âm thầm ve văn Cộng Sản Bắc Việt và sử dụng Pháp để giải tỏa áp lực Mỹ, vợ chồng Nhu mới đích thực trở thành Persona Non Grata với Oat-shinh-tân.

   Đặt ḿnh trước nhiều hơn một lằn đạn–và nhất là đă bị thuyết phục rằng cuộc tranh đấu của Phật giáo chẳng những không thuần túy tôn giáo mà chỉ là một âm mưu chính trị, nhằm lật đổ chính phủ, do Cộng Sản xúi dục–mọi nỗ lực của Nolting ở Việt Nam hầu như uổng phí. Ngày 30/7, Phật tử tổ chức linh đ́nh giỗ thất tuần (49 ngày) Quảng Đức. Hôm sau, 31/7, Ủy Ban Tranh Đấu Bảo Vệ Phật Giáo ra tuyên cáo phản đối lời tuyên bố ngày 28/7 của Nolting; và hôm sau nữa, 1/8, Tâm Châu gửi thư trách cứ Nolting, khẳng định “những vụ đàn áp là cực độ của cả một chuỗi lạm quyền, áp bức giết chóc mà Phật tử phải gánh chịu trong nhiều năm, dưới nhiều h́nh thức, do cấp thừa hành bên dưới của một nền hành chánh cố t́nh dung túng gây ra.”( 137)

   Ngày 1/8, Tịnh Khiết cũng gửi công điện cho Kennedy, phản đối lời tuyên bố của Nolting rằng không có việc đàn áp Phật Giáo ở VNCH.( 138) Một Nhóm Người Yêu Nước th́ ra tuyên ngôn phản đối Nolting là không hiểu biết ǵ về t́nh cảnh Phật giáo tại Việt Nam.

   Ba ngày sau, 4/8, Đại Đức Nguyên Hương (Huỳnh Văn Lễ) tự thiêu trước Dinh Tỉnh trưởng Phan Thiết, và Phật tử xuống đường biểu t́nh đ̣i lại xác đă bị Cảnh Sát lấy đi. Ngày 12/8, một nữ sinh chặt một bàn tay phản đối chính quyền và luận điệu hỗn hào của Lệ Xuân đối với các tăng ni. Rồi, ngày 13/8, Đại Đức Thanh Tuệ cúng dường tam bảo ở chùa Phước Duyên, Hương Trà, Thừa Thiên. Hai ngày sau, ni cô Diệu Quang tự thiêu ở Ninh Ḥa. Hôm sau nữa, 16/8/1963, Thượng tọa Tiêu Diêu tự thiêu tại chùa Từ Đàm, Huế.( 139)

   Bẽ  bàng hơn nữa là anh em họ Ngô cũng bắt đầu coi thường Nolting. Khi Nolting cho Diệm xem bức công điện khẳng định chính phủ Mỹ không thay đổi chính sách về Việt Nam, Diệm nói: “Tôi tin ông, nhưng không tin nội dung bức điện ông nhận được.”( 140) Khi Nolting đề nghị Diệm có biện pháp với Lệ Xuân–người mà theo Nolting đă vượt ngoài sự kiểm soát của cha mẹ và anh chồng–Diệm chỉ hứa “sẽ cứu xét.”( 141)

   Ngày 12/8, khi tiếp kiến Nolting, Diệm cho rằng các tăng ni không thành thực, và thế giới không biết đến việc các sư giả muốn lật đổ chế độ. Sau dạ tiệc đưa tiễn Nolting của Diệm, ngày 13/8, Thơ họp báo, tuyên bố sẽ truy tố một số người tham dự biểu t́nh ngày 8/5, và những người bị bắt sau ngày 16/6 có thể không được khoan hồng. Trong phần hỏi đáp, Thơ so sánh trường hợp Lệ Xuân với những lời chỉ trích chính phủ VNCH của Thượng Nghị Sĩ Mansfield. Buổi họp báo của Thơ khiến Ngoại trưởng Rusk phải gửi điện tín cho Nolting, hỏi liệu Diệm có muốn đi nghỉ mát chung với vợ chồng Nhu chăng? (142)

   Sau nhiều lần xin ở lại Sài G̣n nhưng bị từ chối, ngày 14/8, Nolting vào chào từ biệt Diệm. Gần lúc chia tay Diệm mới hứa sẽ phủ nhận những lời lỗ măng của Lệ Xuân. Những lời hứa cho có. Ngày 15/8, tờ Times of Viet Nam ca ngợi Nolting như “người đầu tiên xứng đáng với tước hiệu đại sứ.”( 143)

   Do sự dàn xếp của Nolting, báo New York Herald Tribune [Diễn Đàn Tiền Phong New York] đăng bài phỏng vấn Diệm của Marguerite Higgins. Higgins trích lời Diệm là chính phủ vẫn theo đuổi chính sách ôn hoà với Phật giáo. Diệm và gia đ́nh cũng rất vui ḷng về việc bổ nhiệm tân Đại sứ Lodge.( 144)

   Thực ra, đây chỉ là món quà tiễn chân Nolting, và để trấn an dư luận Mỹ, v́ Diệm-Nhu đang có kế hoạch xuống tay mạnh với Phật giáo.( 145)

   Tại miền Trung, việc bắt giữ, hành hung, ám sát Phật tử  vẫn diễn ra hàng ngày. Tại Huế, sau phiên họp giữa Thị trưởng Nguyễn Văn Hà và lănh đạo Phật Giáo ngày 9/8, thái độ chính quyền ngày một cứng rắn. Ngày 10/8, Thị trưởng Huế yêu cầu Thượng tọa Thiện Minh tháo gỡ các biểu ngữ chống chính phủ theo tinh thần buổi gặp mặt ngày 9/8/1963. (146) Phó Tỉnh trưởng Hồ Ứng Dần cũng yêu cầu Tỉnh hội Phật Giáo Thừa Thiên chấm dứt việc phổ biến các tin tức và tài liệu bất hợp pháp. Đồng thời ra thông cáo cấm dân chúng tập trung đông đảo tại chùa Từ ĐàmDiệu Đế vào những giờ phát thanh của Phật Giáo. (147) 
 

   Mờ  sáng Thứ Ba, 13/8/1963, Đại đức Thanh Tuệ tự thiêu tại chùa Phước Duyên. (148) Cuộc tự thiêu này châm ng̣i cho một đợt tranh đấu mới.

   Ngày14/8, Hoà thượng Tịnh Khiết gưỉ văn thư than phiền về việc di chuyển linh cữu Thanh Tuệ. (149) Thượng tọa Mật Hiển với cũng xin gặp Đại biểu TNTP tường tŕnh về trường hợp Thanh Tuệ. Trong khi đó, một thợ mộc Phật tử phụ trách việc treo biểu ngữ và cờ bị bắn chết. (150) Hôm sau, 15/8, khoảng 100 học sinh và sinh viên Huế biểu t́nh từ chùa Từ Đàm về Ṭa Hành Chánh tỉnh. Cảnh sát trưởng quận Hữu ngạn chặn đoàn biểu t́nh trước trường Đồng Khánh, bị xô đẩy, mang thương tích cùng một cảnh binh. Sau đó đoàn biểu t́nh kéo tới ngồi tại hoa viên trước ṭa hành chính. (151)

   Cảnh sát đặt nút chặn phong tỏa chùa Từ Đàm. Buổi trưa, khoảng 300 Phật tử tụ họp trên đường Trần Hưng Đạo. Chính quyền thả chó đàn áp. Xô xát dữ dội. Một số bị bắt. Đám đông bị giải tán trong ṿng nửa giờ. 50% nhà hàng, cửa tiệm đóng cửa. 70% sạp vải Đông Ba ngưng hoạt động. (152) Ngày này, Ni cô Diệu Quang–tục danh Ngô Thị Thu (1936-1963), sinh tại Phù Cát, Thừa Thiên, tu tại ni viện Vạn Thạnh, Nha Trang–tự thiêu tại chùa Ninh Hoà.(153) Hôm sau nữa, 16/8, Đại đức Tiêu Diêu–tục danh Đoàn Văn Mễ (1893-1963), cha của Đoàn Văn An, giảng sư Đại học Huế; năm 1930 mới đi tu, học tṛ Tịnh Khiết–tự thiêu ở chùa Từ Đàm. Chính quyền ban hành lệnh thiết quân luật từ 6 giờ sáng, xe tăng án ngữ ở một số ngă tư, kẽm gai kéo ra ngăn chặn. (154) Hội Phật Giáo tung tin quân đội đă cướp thi hài Tiêu Diêu dấu đi. Anh ruột Tiêu Diêu là Bùi Câu minh xác đă đến tận nơi xin lănh thi hài về quê mai táng. (155)

   Ngày Thứ Bảy, 17/8, Thị trưởng Huế Nguyễn Văn Hà lại ra thông cáo:

    Yêu cầu  đồng bào tuyệt đối tránh mọi lợi dụng tôn giáo để đả kích chính phủ, vi phạm luật pháp quốc gia và làm trở ngại công cuộc bảo vệ an ninh trật tự công cộng.

    Đưa ra 4 điểm sẽ thi hành:

    Triệt  để thi hành thông cáo chung;

    Phật tử được hoàn toàn tự do đi chùa dự lễ tôn giáo;

    Không hề chủ trương bắt bờ Phật giáo đồ nếu các đồng bào đó không hành động ǵ phạm đến kỷ luật quốc gia; trong trường hợp có sự bắt bớ trái phép yêu cầu cấp tốc can thiệp với ṭa [tỉnh] để giải quyết gấp;

    Sẽ  thiết lập một Ủy Ban đặc biệt có nhiệm vụ tiếp xúc với đồng bào Phật Giáo để giải quyết nhanh chóng những việc liên quan đến vấn đề thực thi thông cáo chung. (156) 

   Tuy nhiên thông cáo trên không đủ ngăn chặn tăng ni, Phật tử tấp nập tới chùa Từ Đàm bái viếng thi hài Thích Tiêu Diêu. Buổi chiều, Tiểu khu Thừa Thiên mở cuộc họp báo tŕnh bày vụ Tiêu Diêu.

   Trong khi đó, Chủ Nhật, 18/8, Thích Minh Nhật, Tổng thư kư THPG tại Sài G̣n, diễn thuyết tại chùa Diệu Đế. Đề tài: “Phật tử trong giai đoạn hiện tại.” Khoảng 2000 người tham dự. Tại Sài G̣n, Phật tử cũng tụ họp đông đảo ở chùa Xá Lợi v́ có tin chính phủ sẽ ra tay tấn công. Trong khi đó, mười Tướng lănh và Tư lệnh đơn vị họp mật. Đồng ư yêu cầu Diệm thiết quân luật, để bắt buộc các tu sĩ trở lại chùa.

   Thời gian này, sinh viên Huế cũng bắt đầu xao động. Ngày 15/8, đại diện sinh viên Phật tử gặp Viện trưởng Đại học Huế là Cao Văn Luận, xin can thiệp trả tự do cho những người bị bắt giữ. Mới xuất ngoại trở về, ghi nhận được những đổi thay của chính giới Mỹ, Luận có phần thiện cảm với phe tranh đấu, nên hứa sẽ can thiệp.( 57) Nhưng ngay chính Linh mục đang bị thất sủng. Ngày 16/8, trong khi chính quyền địa phương ban hành lệnh thiết quân luật từ 6 giờ sáng, bố trí xe tăng án ngữ ở một số ngă tư, kẽm gai kéo ra ngăn chặn dự định tự thiêu của Đại đức Tiêu Diêu ở chùa Từ Đàm, Bộ trưởng Giáo Dục Nguyễn Quang Tŕnh cùng Trần Hữu Thế, tân Viện trưởng Đại học Huế, tới cố đô để làm lễ bàn giao với Linh mục Luận vào ngày hôm sau.( 158)

   Nhân cơ hội này, sinh viên tranh đấu khai thác việc thay thế Viện trưởng Luận. Ngày 17/8, lễ bàn giao chức Viện trưởng được đánh dấu bằng vụ từ chức tập thể của các Giáo sư Đại học Huế: Lê Khắc Quyến, Khoa trưởng Y khoa; Bùi Trần Huân, Luật khoa; Tôn Thất Hanh, Khoa học; Nguyễn Văn Trường, ban Khoa học Sư phạm; Lê Tuyên. Thế phải bỏ vào Sài-g̣n báo cáo. Trong khi Luận lên đường vào Đà Nẵng, các giáo sư lại kư kiến nghị phản đối việc cách chức Luận (159)

   Buổi chiều 17/8, Tiểu khu Thừa Thiên mở cuộc họp báo tŕnh bày vụ Tiêu Diêu. Lúc 16G00, kư giả ngoại quốc kéo nhau rời pḥng họp v́ có tin khoảng 200 sinh viên Huế bắt đầu biểu t́nh tới Ṭa Đại biểu TNTP đưa kiến nghị yêu cầu lưu giữ Viện trưởng Luận. Nguyễn Xuân Khương và Bộ trưởng Tŕnh ra nhận kiến nghị trước cổng Ṭa Đại biểu. (160)

   Chủ  Nhật, 18/8, một số Khoa trưởng, Giáo sư và khoảng 500 sinh viên hội thảo tại Đại học Huế. Vận động băi khóa, bỏ thi cử, phản đối việc cách chức Cao Văn Luận, và thành lập một Ban chấp hành Sinh viên mới, hầu mở rộng liên lạc với Tổng hội Sinh viên Sài G̣n và Đà Lạt. Họ đưa kiến nghị lên Tổng thống. (161)

   Hôm sau, 19/8, sinh viên Huế hủy bỏ một cuộc biểu t́nh v́ sợ bị chụp mũ Cộng Sản (ngày kỷ niệm Cách Mạng tháng 8/1945). Nhưng các giáo chức đệ đơn từ chức trong khi sinh viên yêu cầu tân Viện trưởng Thế–đương kim Đại sứ Philippines, mới được Ngô Đ́nh Thục đề cử thay Linh mục Luận mà không hề thông báo cho Bộ Ngoại Giao–chuyển thỉnh nguyện mời Cao Văn Luận trở lại. (162) Thứ Ba, 20/8, Viện trưởng Thế cho lệnh những buổi hội họp trong khuôn viên trường phải xin phép trước. (163)

   Giọt nước làm tràn ly, và cũng chiếc đinh đầu tiên đóng lên nắp quan tài VNCH, là cuộc tấn công hầu hết các chùa chiền trên toàn quốc vào nửa đêm ngày 20, rạng ngày 21/8/1963. Đây là một tội ác vi phạm nhân quyền khác, nặng nề gấp trăm lần cách dùng đèn cầy [nến] đốt hậu môn tù nhân mà có nhân chứng tiết lộ rằng Tri huyện Ngô Đ́nh Diệm sính dùng để khảo cung nghi can ngày c̣n làm quan cho Pháp hơn 30 năm trước. Cuộc tấn công này và những thủ thuật bưng bít, xuyên tạc của anh em ông Diệm-Nhu trong những ngày kế tiếp–như ông Diệm cả quyết rằng chỉ lục soát vài chục ngôi chùa lớn trong số 4,700 chùa khắp miền Nam–gỡ xuống chiếc mặt nạ “tiết trực tâm hư” của ông Diệm, và gột sạch bất cứ thiện cảm nào c̣n sót lại với ông ta trong đám đông thầm lặng cũng như viên chức Mỹ.

   Cho đến nay, vẫn c̣n người cố t́nh xuyên tạc về biến cố tấn công các chùa chiền đêm 20 rạng 21/8. Bởi thế tưởng nên thuật lại tóm lược biến cố trên.

 IV. GIỌT NƯỚC LÀM TRÀN LY: 

   Sau khi Nolting rời Việt Nam, anh em Diệm-Nhu quyết chào đón tân Đại sứ Lodge bằng vài món quà ngoạn mục. Hai món quà lớn nhất là cuộc tổng tấn công các chùa trên toàn quốc và công khai tiếp xúc với sứ giả Hà Nội.

   Nguyên cớ gần có lẽ là bức điện văn mật ngày 16/8/1963 của Đại sứ Trần Văn Chương: Theo Chương, dư luận thế giới và đặc biệt là tại Mỹ tin rằng Diệm không thể mang lại chiến thắng Cộng Sản. Cuộc khủng hoảng Phật Giáo vốn dĩ không phải là nguyên nhân, mà chỉ là hậu quả, một giọt nước làm tràn ly. Bởi thế, Diệm phải ngưng tin dùng các cố vấn Nhu và Cẩn.( 164)

   Đúng ngày 16/8 này, báo Life đăng lại lời Lệ Xuân tuyên bố là sẽ phá tan Phật giáo. Trong khi đó, Ḥa thượng Tịnh Khiết viết thư cho Diệm, cực lực phản kháng “sự ác độc của một chế độ xem dân như cỏ rác,” và “mong được chết an hơn sống khổ.”( 165)

   Ngày 17/8, Phật tử tụ họp đông đảo ở chùa Xá Lợi. Hôm sau, hơn 10,000 Phật tử đến chùa Xá Lợi làm lễ cầu siêu. 

   A. CUỘC TỔNG CÀN QUÉT CHÙA CHIỀN:

   Ư định tấn công các chùa chiền và ban hành thiết quân luật từ nửa đêm ngày 20/8 không được giữ bí mật hoàn toàn như người ta thường nghĩ. Bộ trưởng Nguyễn Đ́nh Thuần đă cho nhân viên Ṭa Đại sứ Mỹ biết về Thiết quân luật trước nhiều giờ.( FRUS, 1961-1963, III:595n2) Một kư giả Mỹ cũng tự nhận được “mật báo” từ một viên chức nào đó tại Dinh Gia Long, nên đă tới chùa Xá Lợi trước khi xảy ra cuộc tấn công. Và, thực ra, từ hơn nửa tháng trước, đích thân ông Nhu đă răn đe trong cuộc phỏng vấn của hăng thông tấn Reuters là sẽ phá tan chùa Xá Lợi, nhưng khi bị Nolting chất vấn đă qui trách cho kư giả Mỹ dẫn không đúng lời ḿnh. Từ ngày 7/8/1963, Ḥa thượng Tịnh Khiết cũng đă báo động với Tổng thống Diệm về ”Kế hoạch Nước Lũ,” nhằm cô lập và phân hoá các chùa, đồng thời đàn áp cuộc đấu tranh của Phật Giáo. (165bis)

   Ngày Chủ Nhật 18/8, mười Tướng và Tư lệnh đơn vị–kể cả Huỳnh Văn Cao và Tôn Thất Đính–họp mật, rồi đồng ư yêu cầu Diệm thiết quân luật, để bắt buộc các tu sĩ trở lại chùa.( 166) Hai ngày sau, 20/8, các Tướng tŕnh dự thảo Thiết quân luật lên Nhu và Diệm. Diệm chấp thuận, cho lệnh André Đôn, mới được cử làm Quyền Tổng Tham Mưu Trưởng thay Đại tướng Lê Văn Tỵ, kư tên và công bố ngay nửa đêm đó. Đính được cử làm Tổng trấn. Tuy nhiên, Diệm không hề hé môi về kế hoạch trên trong buổi họp chính phủ suốt chiều ngày 20/8.( 167)

   Khoảng nửa giờ sau khi Thiết Quân luật có hiệu lực, Nhu cho lệnh tấn công các chùa trên toàn quốc. Tại chùa Xá Lợi Sài G̣n, nơi đặt bản doanh Ủy ban Tranh đấu Liên Phái, hai đại đội thuộc Liên đoàn 31 Lực Lượng Đặc Biệt [LLĐB], Đại đội 16 Bảo An, và Cảnh Sát mặc giả quân phục đánh chiếm mục tiêu. Ḥa thượng Tịnh Khiết, Thượng tọa Tâm Châu, cùng nhiều tăng sĩ bị bắt giam sau một giờ chống cự. Khoảng 30 tăng sĩ bị thương, và 2 người bị mất tích. Đích thân Đại tá Lê Quang Tung, Chỉ huy trưởng LLĐB, và Giám đốc Cảnh sát CA Đô thành, Trần Văn Tư [tài liệu Pháp ghi là C̣ Túc?], chỉ huy, dưới sự điều động của Đính.

   Do mật báo từ Dinh Độc Lập, kư giả ngoại quốc biết trước tin này và có mặt tại chùa Xá Lợi để chứng kiến cuộc “vét chùa”, và quyết tâm bảo vệ đạo pháp của các tăng ni. Các chùa Ấn Quang, Chantareansay (Sài G̣n) đều bị chiếm. Các tăng trụ tŕ, Thiện Hoa và Lâm Em, bị bắt .( 168) Đồng thời, hai chùa Linh MụTừ Đàm (Huế), cùng các chùa ở Đà Nẵng, Nha Trang v.. v... đều bị ch́m trong “nước lũ” bạo lực. Tại Huế, khoảng 3 giờ đêm tiếng mơ, tiếng chuông, tiếng kêu cầu cứu vang lên khắp nơi. Đồng bào quanh chùa đánh mơ, gơ thùng thiếc báo nguy. Đợt tấn công đầu, Cảnh sát bị đẩy lui. Sau đó, Đỗ Cao Trí cho lệnh nổ súng. Những giáo sư, sinh viên và học sinh tranh đấu cũng bị bắt giữ.( 169) Tổng cộng khoảng 1,400 tăng sĩ, bị bắt trên toàn quốc. Chỉ có hai sư từ chùa Xá Lợi thoát được tới Phái Bộ Kinh Tế [USOM] gần đó xin tị nạn. Qua ngày 23/8, Trí Quang cũng trốn được vào Toà Đại sứ Mỹ.( 170)

   Tại Sài G̣n, Diệm triệu tập Hội đồng chính phủ vào lúc 5G30 sáng. Diệm chỉ giải thích rằng phải thiết quân luật theo điều 44 Hiến pháp v́ Cộng Sản đă xâm nhập một số tỉnh lÿ, quận lÿ gần thủ đô; nhưng tuyệt nhiên không đả động đến vụ tấn công chùa Xá Lợi. V́ đă được một nhân viên báo tin cuộc tấn công chùa Xá Lợi, Ngoại trưởng Mẫu phản đối. Phó Tổng thống Thơ cũng ngả theo Mẫu.( 171)

   Nửa giờ sau, đài phát thanh bắt đầu loan đọc Tuyên cáo ban hành lệnh giới nghiêm trên toàn lănh thổ, hiệu lực từ ngày 21/8:

    Chiếu  điều 44 Hiến Pháp, kể từ ngày 21/8/1963, tôi tuyên bố ban hành lệnh giới nghiêm trên toàn thể lănh thổ Quốc Gia. Ủy nhiệm cho QĐVNCH tận dụng mọi phương tiện và thi hành mọi biện pháp cần thiết bảo vệ Quốc Gia chiến thắng Cộng Sản, xây dựng tự do, dân chủ.

    “Số người đầu cơ chính trị, lợi dụng tôn giáo, lợi dụng thái độ ḥa giải tột bực của chính phủ liên tiếp hành động bất hợp pháp để tạo nên một t́nh trạng rối loạn phá hoại chính sách ấy và cản trở chủ trương dân chủ pháp trị, rất tổn thương cho uy tín Phật Giáo, chỉ lợi cho Cộng Sản.” (HS 8501 & 8506)

    Quân  đội VNCH từ nay “chịu trách nhiệm hoàn toàn về an ninh công cộng, có quyền xét các tư gia bất cứ giờ nào, bắt giữ những người xét ra có hại cho an ninh công cộng; cấm mọi cuộc hội họp, tụ tập có thể phương hại cho an ninh trật tự công cộng; hạn chế tự do báo chí, kiểm soát hệ thống phát thanh, kiểm soát phim ảnh kịch trường; cấm tàng trữ, lưu hành những ấn loát phẩm, tài liệu, truyền đơn xét có hại cho an ninh công cộng (điều 3); tất cả mọi vi phạm đến trật tự công cộng đều thuộc thẩm quyền của Ṭa án quân sự (điều 4). (Sắc lệnh này gồm 5 điều, công bố theo t́nh trạng khẩn cấp. (172) 

   Nhu cũng đọc diễn văn, yêu cầu Thanh Niên Cộng Ḥa yểm trợ chính phủ. (173)

   Trong phiên họp hàng tuần về ACL ngày Thứ Sáu, 23/8, Ngô Đ́nh Nhu dành nhiều th́ giờ giải thích về cuộc đấu tranh của Phật Giáo. Theo Nhu, t́nh trạng trầm trọng trong nước từ hơn 3 tháng qua là “do một số Sư Săi đă tiếm đoạt địa vị của Phật Giáo và có những hành vi, ngôn ngữ và thái độ hoàn toàn trái ngược với Pháp Chánh của Đạo Phật và luật pháp của Quốc Gia, đồng thời bất chấp đến ư chí ḥa giải tột bực của Tổng thống và chính phủ. . . . Thiện chí ôn ḥa của chính phủ đă bị số sư săi trên coi là biểu hiệu của một sự nhu nhược, nên họ càng làm tới. Họ đă biến các chùa chiền nhất là chùa Xá Lợi thành những trung tâm khuấy rối, khủng bố các vị chân tu, hàng ngày mạt sát và đả kích chính phủ, rồi cứ thế được đà, họ đă tiến tới những âm mưu vận động phá hoại quốc gia, và tổ chức đảo chánh cố kềt với Cộng Sản và Ngoại quốc.” Họ dùng phương pháp “b́nh nghị” để cưỡng ép các vị chân tu phải lần lượt tự thiêu để họ liên tục khai thác bên cạnh những xác chết đó hầu thực hiện những âm mưu chính trị của họ. Ban Trị sự Giáo Hội Tăng Già Nam Việt phải bỏ chùa Ấn Quang về miền Tây.

   “Thiêu đốt Thượng tọa Thích Quảng Đức.” [tr. 7] Có người bật quẹt đốt Quảng Đức v́ hộp quẹt trong người Thượng tọa bị ướt, không cháy. Vị sư đưa hộp quẹt đốt Quảng Đức hối hận bỏ trốn, bị lùng bắt để thủ tiêu.

   Với chính phủ th́ bọn người lợi dụng tôn giáo này đă đi từ khiêu khích này tới khiêu khích khác liên tục. . . Chính phủ tự ḿnh đặt vào một thế bất động trong lúc bọn người lợi dụng tôn giáo cứ tiến tới vừa khiêu khích vừa ru ngủ ḿnh [Tâm Châu và Thiện Minh xin gặp Nhu nhưng không đến, không viết thành văn lời yêu cầu; không tham gia Ủy Ban Hỗn Hợp]

   Ai ưng tu hành th́ quyết tâm tu cho đắc đạo, và ai ưng làm chính trị th́ phải từ bỏ áo tu, ra hẳn ngoài đời để làm chính trị, chứ không thể kéo dài t́nh trạng mập mờ, nửa đạo nửa đời như từ hơn ba tháng nay được. (174) 

   Ngày này, các cấp TNCH gửi kiến nghị ủng hộ Diệm. (175)

   Tại Huế, ngày 24/8, Tỉnh trưởng Nguyễn Mâu sử dụng TNCH xét giấy người khả nghi. Hôm sau, 25/8, tổ chức “50,000 người” biểu t́nh trước bến Phú Văn Lâu chống và “lên án bọn lưu manh phản động đội lốt tôn giáo âm mưu phá rối an ninh công cộng,” và lên án bọn phản loạn đội lốt tôn giáo. (176) Mâu c̣n cho lệnh bắt giữ Thích Trí Hữu, Tổng Thư Kư Phật Giáo Trung Phần, cùng hai người tháp tùng. (177)

   Chiến dịch Nước Lũ nhằm đánh chiếm chùa và bắt giữ tăng ni là một thứ chiến thắng cay đắng cho chế độ Diệm-Nhu. Mặc dù hầu hết các lănh đạo phong trào tranh đấu đều bị bắt giữ–ngoại trừ Thượng tọa Thích Trí Quang và hai tăng trốn vào được Ṭa đại sứ Mỹ tại Sài G̣n–biến cố này gây nên một chuỗi phản ứng giây chuyền mà kết quả chung cuộc là cái chết bi thảm của ba anh em họ Ngô.

   Trên b́nh diện quốc nội, sinh viên, học sinh Huế–có sự tiếp tay của cán bộ Cộng Sản hay chăng–xuống đường biểu t́nh dữ dội. Đường phố Đà Nẵng cũng rung chuyển khí thế đấu tranh và quyết tâm đánh dẹp biểu t́nh của nha trảo chế độ. Thục, rồi Nhu yêu cầu Linh mục Luận, lúc đó đang tạm trú ở Đà Nẵng, trở lại Huế giải quyết. Luận từ chối, dù là một cán bộ Cần Lao cao cấp–chuyến tham quan Mỹ trong mùa Hè 1963 cho Luận nhận hiểu ngày tàn của chế độ đă điểm.( 178)

   Một biến cố chấn động dư luận là chiều ngày 22/8, Ngoại trưởng Vũ Văn Mẫu đột ngột từ chức xuống tóc, đệ đơn xin từ chức. Sau đó, tiếp kiến các phái đoàn Ngoại giao (Trung Hoa Quốc Gia, Thái Lan, Đại Hàn, Nhật Bản, Lănh sự India, Chủ tịch UHQTKSĐC), và chào từ biệt Nguyễn Ngọc Thơ tại Hội trường Diên Hồng. Sáng ngày Thứ Bảy, 24/8, Mẫu tới Đại học Luật khoa nói chuyện với khoảng 3000 sinh viên các phân khoa sinh viên. Hô hào sinh viên tranh đấu bất bạo động. Có Vũ Quốc Thúc và Nguyễn Văn Bông xuất hiện. Hẹn sẽ gặp lại vào ngày hôm sau. Nhưng từ ngày này, bị giam lỏng tại gia. (179) Ngày 23/8, Diệm đă không chấp thuận cho Mẫu từ chức, mà chỉ cho nghỉ dài hạn ba tháng, qua Nepal hành hương. Ngày 26/8, trên đường ra phi trường qua India, Mẫu bị Tổng trấn Tôn Thất Đính cản lại tịch thu thông hành. Măi tới ngày 29/8, Mẫu mới được rời nước.

   Biến cố thứ hai là sự nhập cuộc của giới sinh viên, học sinh Sài G̣n. Ngày 22/8, 1253 sinh viên trường Kỹ thuật Phú Thọ (trên tổng số 1291 người) băi khoá. Chỉ có 15/80 sinh viên ban Cao đẳng hỗn hợp, 7/302 sinh viên Công chánh và 16/189 sinh viên ban Điện đi học. (180) Hôm sau, 23/8, sinh viên Y-Dược Sài G̣n xuống đường ủng hộ cuộc tranh đấu của Phật tử và sinh viên, giáo chức tại miền Trung. Cảnh sát đàn áp mạnh, bắt giữ nhiều người. Việc sinh viên Y-Dược, được coi là cốt cán của chế độ và những thành phần bảo thủ nhất trong xă hội, nghiêng về phe Phật Giáo cho thấy uy tín chế độ đă suy tàn. Anh em Diệm-Nhu t́m cách vuốt ve, nhưng không thành công. Nhiều người trong số 19 thành viên ủy ban đại diện bị bắt. (181)

   Sáng Chủ Nhật 25/8, hàng chục ngàn sinh viên học sinh biểu t́nh tại Chợ Bến Thành và nhiều địa điểm khác trong thủ đô. Hai anh em Diệm-Nhu thẳng tay đàn áp. Nhiều người chết, bị thương, hay bị bắt giữ. V́ dám chống đối chế độ, sinh viên, học sinh được chụp ngay cho cái mũ “Cộng Sản.”

   Trong khi đó, Trần Văn Chương–cha vợ Nhu, đương kim Đại sứ tại Mỹ –cũng từ chức phản đối, hoặc bị Diệm cách chức, từ ngày 22/8/1863. Mẹ Lệ Xuân, Thân Thị Nam Trân, từ chức Quan sát viên tại Liên Hiệp Quốc. Từ ngày 17/8, Chương đă gửi mật điện cho Diệm, báo cáo rằng dư luận thế giới và đặc biệt tại Mỹ tin rằng Diệm không thể mang lại chiến thắng Cộng Sản. Cuộc khủng hoảng Phật Giáo vốn dĩ không phải là nguyên nhân, mà chỉ là hậu quả, một giọt nước làm tràn ly. Phải ngưng tin dùng các cố vấn Nhu và Cẩn. Nội các cho rằng điện văn đó không thể chấp nhận được, “khiêu khích và huênh hoang,” nên ngày 21/8/1963 bị Diệm cách chức trước khi xin từ chức. Diệm tuyên bố phải loại trừ bọn phá hoại, không đàn áp Phật Giáo, và tin tưởng ở quân đội. (182)

   Tối 27/8, hai vợ chồng Chương c̣n thúc dục Tướng Lansdale là Mỹ phải lật đổ ngay Diệm-Nhu, bằng không dân chúng sẽ trở thành chống Mỹ. Đích thân Nam Trân yêu cầu Lansdale qua ngay Sài G̣n, khuyên anh em Diệm rời nước. Nam Trân nhấn mạnh:

       Dân chúng đă ghét họ, và họ không nên ở lại để chờ bị dân chúng giết. Họ chắc chắn sẽ bị giết nếu c̣n ở lại, và chẳng có ai trong Dinh [Gia Long] bảo thẳng với họ về cảm tưởng của dân chúng. Họ đă bị cách biệt hẳn với thực tế. Sau chín năm cầm quyền, tại sao họ c̣n muốn tiếp tục nếu toàn gia bị chết. Nước Mỹ đă bảo Syngman Rhee [Lư Thừa Văn của Nam Hàn] rời nước [năm 1961]. Tại sao không làm như thế với Diệm và Nhu?( 183) 

   Ngày 24/8, Vũ Văn Thái–cựu Giám đốc Ngân sách và Ngoại viện, hiện đang làm việc cho cơ quan LHQ tại Lome, Togo– cũng viết thư cho Harriman, đề nghị Diệm và gia đ́nh phải ra đi. Nội dung thư Thái tương tự như thư riêng của Vũ Văn Mẫu gửi Chester Bowles từ New Dehli.( 184)

   Trong khi đó, cuộc tấn công chùa chiền ngày 21/8 gây nên những phản ứng sâu đậm khắp thế giới. Từ ngày 11/6, bức h́nh tự thiêu của Thượng tọa Quảng Đức đă trở thành biểu tượng của cuộc tranh đấu của Phật giáo và chính sách giáo phiệt Ki-tô của anh em Diệm. Vào thượng tuần tháng 8/1963, một số nước Phật giáo chính thức yêu cầu triệu tập Đại Hội Đồng Liên Hiệp Quốc thảo luận. Ngày 22/8, từ Nam Vang, chính phủ Cao Miên ra tuyên cáo:

       “Chính phủ Hoàng gia Căm-bốt kinh hoàng đón nhận tin chính phủ Sài-g̣n đàn áp man rợ các tăng ni và Phật tử Nam Việt Nam vào rạng sáng ngày 21/8/1963. Việc tấn công các chùa bằng lực lượng tinh nhuệ của chính phủ, việc tàn sát tăng ni, việc bắt giữ, việc phong tỏa các nơi thờ tự đang diễn ra tại thủ đô Việt Nam là một thách thức thế giới văn minh. Trong lịch sử hiện đại chỉ có chế độ Hitler mới dám vi phạm những tội ác chống lại quyền tối thượng của con người như thế.” 

   Tiếp  đó, chính phủ Sihanouk kêu gọi các quốc gia tố cáo và ngăn chặn tội ác đàn áp Phật giáo của chính phủ Diệm. Nam Vang c̣n kêu gọi Vatican cho lệnh chính quyền Diệm và tín đồ Ki-tô phải theo đúng nguyên tắc cao cả của Ki-tô giáo. (185)

   Ngay đến Vatican, điểm tựa vững chắc nhất của chế độ Diệm, cũng bất b́nh. Khâm sứ Vatican d’Asta từng bảo thẳng Diệm rằng việc tấn công chùa chiền và đàn áp Phật Giáo làm hại cho uy tín Vatican và đi ngược lại quyền lợi của quốc gia Việt Nam.

   Tại Mỹ, hầu hết các cơ quan ngôn luận đều yêu cầu chính phủ Mỹ có thái độ tức khắc. Tờ New York Times kịch liệt lên án chính phủ Diệm, mà sự mất ḷng dân, độc tài và tàn bạo biểu lộ qua cuộc đàn áp Phật giáo. Báo này cũng chỉ trích chính phủ Kennedy đă không sử dụng áp lực thích đáng với Diệm và chậm trễ trong việc minh định thái độ. (186)

   Những báo khác gọi chế độ Diệm là độc tài, cảnh sát trị, làm mất giá trị sự tham chiến của lính Mỹ trong cuộc chiến chống Cộng. (187)

   Chỉ  riêng tờ New York Herald Tribune muốn chính phủ Kennedy tiếp tục yểm trợ chính phủ Diệm trước hiểm họa Cộng Sản. Marguerite Higgins, trong loạt bài viết về chế độ Diệm, lập lại hầu như nguyên văn lời tuyên truyền của chế độ Diệm: không có kỳ thị tôn giáo mà những biến động thuần có tính cách chính trị, do Cộng Sản giật dây, với sự hỗ trợ của báo chí ngoại quốc, đặc biệt là Mỹ.

   Bối rối và giận dữ nhất là các viên chức Mỹ. Tại Sài G̣n, để bảo mật, ngay sau nửa đêm 20/8, Nhu cho lệnh cắt đứt dây điện thoại tới Ṭa Đại sứ Mỹ và tư gia các viên chức Mỹ. Bởi thế, ngày 21/8, từ Trueheart tới Chánh sở CIA John H. Richardson đều không biết rơ chính Diệm đă cho lệnh, hay các Tướng lănh đă làm đảo chính, đánh chiếm chùa chiền. Ngộ nhận các Tướng làm đảo chính, đài VOA và Bộ Ngoại Giao Mỹ nghiêm khắc qui trách cho quân đội.( 188)

   Măi tới 6G00 sáng ngày 21/8–sau khi Diệm đă cho công bố lư do hành quân cảnh sát lục soát một số chùa, và giới nghiêm v́ Cộng Sản xuất hiện gần Sài G̣n–Tướng André Đôn mới điện thoại cho Paul Harkins thông báo về lư do ban hành thiết quân luật. Theo Đôn, Diệm cho lệnh Thiết quân luật để chống lại Phật giáo. Lệnh này chắc không kéo dài quá ngày bầu cử [Quốc Hội dự trù vào ngày 31/8/1963]. Đôn cũng tiết lộ mới chỉ sử dụng 1 tiểu đoàn Dù, 1 tiểu đoàn TQLC, và quân cảnh ở Sài G̣n. Tuy nhiên, các đơn vị ven đô đều đặt trong t́nh trạng báo động. Thiết giáp cũng xuất hiện tại thủ đô và Chợ Lớn.

   Đại sứ Nolting–đang dự hội nghị Honolulu với tân Đại sứ Lodge, Hilsman, Đề Đốc Harry D. Felt, và Paul Kattenburg, tân Chủ tịch Ủy Ban Đặc Nhiệm Việt Nam tại Bộ Ngoại Giao Mỹ–gửi cho Diệm một công điện phản đối, trách móc Diệm: “Đây là lần đầu tiên ông không giữ lời hứa với tôi.” (189)

   Hôm sau, 22/8, Tổng thống Kennedy chỉ thị Lodge nhận nhiệm sở càng sớm càng tốt, v́ Lodge dự định ghé thăm Hong kong ít ngày, rồi tŕnh ủy nhiệm thư vào ngày 26/8. Oat-shinh-tân vội gửi một phi cơ quân sự đặc biệt cho Lodge tới ngay Sài G̣n. Khoảng 21G30 ngày 22/8, Lodge mới có mặt tại thủ đô miền Nam. Tới trước Lodge vài tiếng đồng hồ là mật điện của Hilsman, chỉ thị phải t́m cách giảm quyền lực Nhu. (190)

   Lodge là một lănh tụ quan trọng của Đảng Cộng Ḥa Mỹ. Năm 1960, Lodge từng đứng chung liên danh với Richard M. Nixon, nhưng bị liên danh Kennedy-Johnson của Đảng Dân Chủ đả bại khít khao. Từ tháng 6/1963, khi Oat-shinh-tân hỏi ư kiến về việc đề cử Lodge, Diệm không phản đối, nhưng không dấu sự bất măn và lo ngại. Nhu mỉa mai gọi Lodge là Toàn quyền [Gouverneur General], trong khi Diệm tuyên bố dù có gửi ịá10 LodgeáỂ qua Việt Nam, Mỹ vẫn phải huấn luyện người bắn pháo binh vào Dinh Gia Long.

   Trong buổi tiếp kiến Kennedy vào trưa ngày 15/8, Lodge có cảm tưởng rằng Kennedy đặc biệt lo ngại về t́nh h́nh Việt Nam, và hàm ư rằng chế độ Diệm đang đi vào đoạn kết. Cuộc tấn công chùa ngày 21/8 đặt Lodge trước một việc đă rồi. Một cái tát xiếc, như một kư giả Mỹ nhận định, nếu xét kỹ những áp lực và đ̣i hỏi “ḥa hoăn với Phật giáo” của Oat-shinh-tân.

   Ngay trong ngày 23/8, Lodge cho nhân viên đi tiếp xúc hầu hết các nhân vật cao cấp Việt để có được một h́nh ảnh rơ ràng về t́nh h́nh. Lodge c̣n mời các kư giả Mỹ tới tham khảo hầu cải thiện liên hệ giữa Ṭa Đại sứ với các kư giả. Không kém quan trọng, Lodge cho người đi tháo gỡ dây kẽm gai mà Cảnh sát giăng kín trụ sở USOM, đích thân tiếp xúc hai nhà sư xin tị nạn, và gặp đại diện nhóm Caravelle. Lodge c̣n tiếp xúc với Đại sứ Italia Giovanni d’Orlandi và Khâm sứ Vatican Salvatore d’Asta. Chỉ trong ṿng 24 giờ, Lodge đă nắm vững được t́nh h́nh. Trước hết, quân đội không dính líu ǵ đến cuộc tấn công chùa chiền, và nhiều nhóm muốn làm đảo chính.

   Nhân viên CIA Lucien “Lu” Conein và Rufus Phillips được Nguyễn Đ́nh Thuần, Vơ Văn Hải, Chánh văn pḥng của Diệm, André Đôn, và Lê Văn Kim, khẳng định rằng chính Nhu cầm đầu cuộc tấn công chùa chiền.( 191) Buổi nói chuyện giữa Đôn và Conein tại Bộ Tổng Tham Mưu khiến Lodge chú ư nhất. Đôn yêu cầu đài VOA cải chính là không phải quân đội đă tham gia cuộc đàn áp, tấn công các chùa chiền, mà chính Cảnh sát đặc biệt của Nhu. Theo Đôn, khoảng 1,420 tăng ni bị bắt giữ khắp miền Nam trong ngày 21/8. Nhu là “khối óc” [thinker] của Diệm; nhưng Diệm có quyền quyết định. Lệ Xuân hành xử như “vợ” [platonic wife] Diệm. Diệm chưa bao giờ lấy vợ và không quen có đàn bà bao quanh. Chín năm qua, Lệ Xuân chăm sóc Diệm sau mỗi ngày làm việc mệt nhọc. Lệ Xuân nói chuyện, giúp Diệm giải tỏa áp lực, và giống như bất cứ người vợ nào, thống trị gia đ́nh. Giữa Diệm và Lệ Xuân không có liên hệ t́nh dục, v́ Diệm chưa hề trải qua mùi vị nam nữ. Diệm và Lệ Xuân, theo Đôn, giống như Hitler và Eva Braun. Đôn cũng tiết lộ Diệm rất thích những thanh niên đẹp trai. Một Trung sĩ làm vườn đă được cất nhắc lên Trung tá, trông coi dinh điền quân đội, nhờ đẹp trai. Theo Đôn, không thể tách rời Diệm với vợ chồng Nhu. Nếu phải chọn giữa Diệm và Nhu, Đôn muốn Nhu ra đi.( 192)

   Tướng Lê Văn Kim, phụ tá báo chí của Đôn, tâm sự với Phillips, Giám đốc Pḥng Cải Cách Điền Địa của cơ quan USOM, đặc trách Ấp Chiến Lược, là quân đội đă trở thành “tay sai” của Nhu. Chính Nhu đă bầy mưu để các Tướng yêu cầu ban hành thiết quân luật. Và, 1426 tăng ni, Phật tử đă bị bắt giữ. Sáng ngày 23/8, sinh viên Y khoa và Dược đă bắt đầu biểu t́nh. Nhu đă cho lệnh Cao Xuân Vỹ tổ chức phản biểu t́nh vào ngày 25/8.

   Trong bữa điểm tâm tại tư dinh Nguyễn Đ́nh Thuần ngày 24/8, Thuần cũng nói với Phillips rằng vợ chồng Nhu phải ra đi. Theo Thuần, ngày hôm trước (23/8), Diệm đă viết thư cho Lệ Xuân, yêu cầu từ nay đừng tuyên bố ǵ nữa. Diệm cũng đă chuyển cho Bénoit Trần Tử Oai và Tổng Giám Đốc Thông Tin [Phan Văn Tạo?] biết lệnh này. Theo Thuần, Mỹ đừng lo ngại việc mở cửa cho Cộng Sản với cái giá phải yểm trợ một chính phủ có Nhu. Nếu Mỹ cả quyết, các Tướng sẽ hành động.( 193)

   Vị  đắng của cảm giác bị anh em Diệm-Nhu “phản bội” và ư niệm vai tṛ Diệm đă mất đi sự tối thiết hoặc hữu dụng trong chiến lược của Mỹ khiến Lodge giữ thái độ xa cách với Dinh Gia Long. Sách lược của Lodge là giai đoạn mềm mỏng dưới thời Nolting đă qua. Diệm phải t́m đến Lodge–như ngày nào Diệm đă phải t́m đến tu viện Maryknoll ở New Jersey và Oat-shinh-tân cầu viện trợ. V́, thực ra Diệm cần Mỹ hơn Mỹ cần Diệm.

   Chỉ  có Tướng Harkins vẫn ủng hộ Diệm. Trong báo cáo ngày 22/8 về Oat-shinh-tân, Harkins tán thành việc tấn công các chùa, v́ muốn ổn định t́nh h́nh. Harkins cũng không đồng ư việc đặt Đôn lên chức Tổng Tham Mưu trưởng, hay Đính nắm Quân đoàn III và Biệt Khu Thủ Đô, v́ việc bổ nhậm này tạo cho phe đảo chính cơ hội nắm quyền dễ dàng.( 194)

   Tuy nhiên, phe Cố vấn ANQG Bundy cùng Harriman và Hilsman tại Bộ Ngoại Giao cảm thấy đă quá đủ với họ Ngô. Ngày cuối tuần 24/8, XLTV Ngoại trưởng George Ball bật đèn xanh cho Lodge t́m một giải pháp khác Diệm. 

   KẾT TỪ:

   Mùa Phật Đản 2507 (1963) đă đi vào lịch sử Phật giáo Việt Nam như một trong những trang bi hùng nhất. Bảy ngọn lửa cúng dường cho đạo pháp của tăng ni làm rúng động lương tâm nhân loại, ngoại trừ anh chị em nhà họ Ngô và nha trảo, trong “cơn điên cuồng tập thể của một gia đ́nh cai trị chưa từng thấy từ thời các Nga hoàng.”( 195)

   Đây là lần đầu tiên Phật Giáo đă vượt ra ngoài thế thụ động, “xuất thế” quen thuộc, đứng lên tranh đấu cho quyền tự do và b́nh đẳng tín ngưỡng của ḿnh. So với đồng đạo ở phía Bắc vĩ tuyến 17, lănh đạo Phật Giáo miền Nam đă chứng tỏ một ḷng v́ đạo cao sâu hơn nhiều bậc. Họ đă giành đoạt được quyền tự do và b́nh đẳng tôn giáo bằng máu, nước mắt và mồ hôi, mà không chờ đợi, van vái ân sủng của nhà cầm quyền.

   Cuộc tranh đấu của Phật Giáo miền Nam trong năm 1963, qua những tài liệu văn khố hiện đă giải mật, nặng tính chất tôn giáo hơn chính trị. Mặc dù chế độ Diệm-Nhu-Thục cố t́nh diễn giải cuộc tranh đấu của Phật Giáo dưới góc cạnh xấu xí nhất–như nặng mang tính chất chính trị hơn tôn giáo, có bàn tay Cộng Sản giật giây, có bàn tay ngoại cường (hiểu như người Mỹ), v.. v...– mùa Phật đản đẫm máu 1963 là cao điểm của phong trào duy tân Phật Giáo Việt Nam từ thập niên 1920. Tính cách phi-chính-trị của cuộc tranh đấu khiến người Mỹ, đặc biệt là Cố vấn ANQG Bundy và Đại sứ Lodge ra sức tiếp trợ. Nói cách khác, cuộc tranh đấu của Phật Giáo đă khơi động niềm cảm phục của các viên chức Mỹ cũng như dư luận thế giới, nơi giáo hội và chính phủ đă hoàn toàn biệt phân, và tự do tín ngưỡng được coi như nhu cầu tối thiết, một quyền người cơ bản. Ngay đến đại diện Vatican ở Sài G̣n cũng phải cảnh cáo Diệm rằng việc đàn áp Phật Giáo là một tội ác, làm giảm uy tín giáo hội Ki-tô.

   Các tăng ni lănh đạo phong trào tranh đấu không chỉ chứng tỏ tinh thần Bồ tát đại dũng trước bạo lực, sẵn sàng dùng nhục thân bảo vệ Phật pháp, mà c̣n chứng tỏ một chiến thuật vận động đấu tranh tỉ mỉ, xuất sắc. Họ đă phối hợp giữa vận động quần chúng và các cơ quan truyền thông quốc tế để tạo nên những biến động thu hút dư luận và cảm t́nh của ngay những người chưa đủ khả năng t́m kiếm ra vị trí Việt Nam trên bản đồ thế giới.

   Cuộc tranh đấu của Phật Giáo hẳn có thể đă không xảy ra, hoặc giảm bớt cường độ và rút ngắn về thời gian, nếu nhà cầm quyền khéo léo kiểm soát và giảm thiểu những hậu quả tại hại. Nhưng chế độ Diệm-Thục-Nhu, giống như bất cứ một chế độ giáo phiệt tương tự nào, đă đánh giá thấp biên độ và khả năng phát triển của phong trào tranh đấu. Họ đă sử dụng nguyên vẹn những thủ thuật đă áp dụng đối với Cao Đài, Ḥa Hảo, B́nh Xuyên của tám chín năm trước, khi người Mỹ can đảm hy sinh cả giao t́nh với nước Pháp để giữ Diệm ở lại chiếc ghế Thủ tướng. Nhưng hơn tám năm đă qua, hơn hai tỉ Mỹ kim đă đổ vào Việt Nam. Viễn ảnh thua trận bắt đầu ám ảnh những chuyên viên về Việt Nam, mà Fishel, Mendendall hay Mansfield chỉ là ít nhân vật tiêu biểu. Dù rằng vẫn chưa có một con ngựa nào khá hơn Diệm xuất hiện, các viên chức Mỹ đă mất đi ảo tưởng về khả năng duy tŕ một miền Nam chống Cộng của họ Ngô. Đó là chưa nói đến mối bận tâm canh cánh bên ḷng về âm mưu ve văn Cộng Sản của anh em Diệm-Nhu trong mùa Xuân-Hè 1963, hoặc mối đại họa là bỗng một ngày nào đó Diệm-Nhu công khai đ̣i Mỹ triệt thoái khỏi Nam Việt Nam.

   Cuộc tranh đấu của Phật Giáo cũng bùng nổ trong một t́nh thế an ninh-quân sự đặc biệt. Từ năm 1962-1963, Bắc Kinh đă sốt sắng hơn trong việc sử dụng thanh nam, thanh nữ và tài nguyên Việt Nam, Lào, Kampuchea–cùng cái gọi là học thuyết Mao về “chiến tranh giải phóng”–để gạt ảnh hưởng Mỹ khỏi ngưỡng cửa chiến lược Đông Nam. Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam đă có cả lực lượng vũ trang lên tới cấp trung đoàn, và một hệ thống hành chính nông thôn, cùng t́nh báo tại các thành thị. Mặc dù không chính thức ủng hộ cuộc tranh đấu của Phật Giáo, Trung Ương Cục Miền Nam–mới được cải tổ vào cuối Hè 1961–đă lợi dụng cơ hội gửi cán bộ t́nh báo chiến lược xâm nhập vào thành thị, khoét dần những lỗ hổng làm cơ sở tiềm sinh trong giới sinh viên, học sinh, tôn giáo. Cho đến một lúc, các lănh đạo Phật Giáo mới khám phá ra rằng chiến thắng của Phật Giáo năm 1963 mới chỉ là chiến thắng phiến diện. Giai đoạn 1966-1968, khi Cố vấn QNQG Bundy đă rời chính quyền và Lodge cùng Ellsworth Bunker đă mất hết thiện cảm, các lănh tụ Phật Giáo sẽ tri nghiệm được rằng đừng nên trộn lẫn giữa tôn giáo và chính trị.

   9/2003-9/5/2010

   Chính Đạo

© 2004, 2010, by Chieu N. Vu. All Rights Reserved 
 

   Phụ  chú:

   1. CĐ số 9195, ngày 6/5/1963, Quách Ṭng Đức gửi  Đô trưởng Sài G̣n, Tỉnh trưởng, Thị trưởng, các Đại biểu CP; Trung Tâm Lưu Trữ Quốc Gia [TTLTQG] II (Thành phố Hồ Chí Minh), Phủ Tổng thống Đệ Nhất Việt Nam Cộng Ḥa [PTT/Đ1CH], Hồ sơ [HS] 8501; 8352. Một học giả Việt Nam cũng từng tham khảo tư liệu này; Lê Cung, Phong trào Phật Giáo miền Nam Việt Nam năm 1963 (Huế: Thuận Hóa, 2003), tr. 131-32.

   2. Lời khai của Bénoit Trần Tử Oai, [Bộ trưởng Thông tin], Bùi Văn Lương, Ngô Đ́nh Diệm, Ibid., tr. 16; Ngô Đ́nh Nhu: Ibid., tr. 16-20; Nguyễn Ngọc Thơ: Ibid., tr. 20-1; Nguyễn Đ́nh Thuần: Ibid., tr. 25-7; trong UN/GA Official Records, Agenda Item 77: “The violation of Human rights in South Vietnam;” Doc. A/5630, 7/12/1963, tr. 22, 23, 16 [Diệm], 16-20 [Nhu], 20-1 [Thơ], 25-7 [Thuần 12-6] [ [Sẽ dẫn UNGA Doc. A/5630].

   3. Xem, thư ngày 20/2/1962, Thích Tịnh Khiết gửi Ngô Đ́nh Diệm, về việc đàn áp Phật Giáo tại Phú Yên, B́nh Định, Quảng Ngăi, Quảng Nam; TTLTQG II (TP/HCM), PTT/Đ1CH, HS 7941; thư ngày 17/2/1962, Wesley Fishel gửi John A. Hannah, Viện trưởng Đại học Tiểu bang Michigan (MSU); Foreign Relations of the United States [FRUS], 1961-1963, II:148-52; báo cáo của Đại sứ Roger Lalouette ngày 10/3/1962; Chính Đạo, Việt Nam Niên Biểu, 1939-1975 [VNNB], I-C: 1955-1963, tr. 248-50. Xem thêm chú [32] infra.

   4. TTLTQG 2 (TP/HCM), PTT/Đ1CH, HS 8540. Xem thêm Thích Trí Quang, “Cuộc vận động Phật giáo Việt Nam: Giai đoạn phát khởi;” Liên Hoa nguyệt san (29/1/1964), tr. 22, 28; dẫn trong Vũ Văn Mẫu, Sáu tháng pháp nạn 1963 (Giao Điểm: 2003), tr. 91.

   5. Thư ngày 11/3/1955, gửi Thủ tướng, của Đoàn Trung Côn [C̣n], Hội trưởng sáng lập Tịnh Độ Tông Việt Nam, TTK Ủy ban vận động Phong trào Phật Giáo Xă hội; TTLTQG II (TP/HCM), Phủ Thủ tướng [PThT], HS 29229: (Phật Giáo, 1954-1955). Xem bảng tổng kết số chùa tại miền Nam vào tháng 9-10/1963 trong Ibid., PTT/Đ1CH, HS 8506, & 8512.

   6. VNCH, Vấn đề Phật Giáo: Lập trường của chính phủ VNCH: Văn kiện căn bản, Tập I (từ 6/5/1963 tới 21/8/1963), tr. 1; TTLTQG II (TP/HCM), PTT/Đ1CH, HS 8511. Người chủ biên tập tài liệu ba thứ tiếng Việt, Anh, Pháp, gồm 3 tập này là Tôn Thất Thiện, của Việt Tấn Xă. Xem thêm chi tiết trong Ibid., HS 8368 và 8507.

   7. TTLTQG 2 (TP/HCM), PTT/Đ1CH, HS 8507.

   8. Archives du Ministère des Affaires Etrangères [AMAE] (Paris), Cambodge-Laos-Vietnam [CLV], Sud Vietnam [SV], 17:70-3.

   9. Xem Phụ Bản I, Chính Đạo, Tôn Giáo & Chính Trị: Phật Giáo, 1963-1967 (Houston: Văn Hóa, 1994). Đa số chi tiết dưới đây rút từ tài liệu Mỹ ngữ trên. Chúng tôi chỉ ghi tài liệu khác nếu cần thiết. Xem thêm Cao Văn Luận, Bên Gịng Lịch Sử (Sài G̣n: 1972), tr. 328. Ngày 16/9/1963, Lănh sự Pháp ở Tourane báo cáo rằng theo Tướng Nghiêm chính sách bài Phật giáo chỉ là của Thục. Ngày 8/5, khi Nghiêm vào Sài G̣n gặp Diệm, Diệm cho lệnh phải thẳng tay với Phật giáo, và nhận lệnh từ Cẩn. Đại tá Đỗ Cao Trí, Tư lệnh Sư đoàn 1, được lệnh “duy tŕ trật tự ở Huế.” Sau đó Trí được thăng cấp Tướng, thay Nghiêm nắm Vùng I. AMAE (Paris), CLV, SV, 17:70-3. Về những việc làm của Trí, xem TTLTQG II (TP/HCM), PTT/Đ1CH, HS 8527.

   10. Xem TTLTQG II (TP/HCM), PTT/Đ1CH, HS 8425.

   11. Nguyễn Văn Đẳng, “Phúc tŕnh của Ṭa Hành chánh tỉnh Thừa Thiên về lễ Phật Đản tại Huế (20/5/1963),” tr. 2; TTLTQG II (TP/HCM), PTT/Đ1CH, HS 8529; Báo cáo số 249-VP/M, ngày 10/5/1963; [Ibid., TNTP.167; Lê Cung, 2003:136.Theo một nguồn tin, Cẩn c̣n sai Hồ Đắc Khương, Đại biểu Chính phủ tại Trung nguyên Trung Phần, gửi điện tín xin hoăn thi hành lệnh trên. Cẩn cũng bảo Đẳng đừng can thiệp v́ có giao t́nh với Tổng Hội Phật Giáo Việt Nam và, theo lời đồn, bài vị Ngô Đ́nh Dinh, cha Ngô Đ́nh Khả, c̣n đặt tại chùa Diệu Đế. Dinh theo đạo thờ cúng tổ tiên. Khả (1856-1914), cha Diệm, là người đầu tiên theo đạo Ki-tô, và hành nghề thông ngôn trong thời gian Pháp đánh chiếm Bắc và Trung Việt. Chức vụ cuối cùng của Khả là Đề đốc kinh thành vào cuối đời Thành Thái, và được hàm Thượng thư khi về hưu. Nhờ tước hàm Thượng thư này của Khả, năm 1917 Diệm được tập ấm chức cửu phẩm, làm việc tại Tân Thư viện Huế, tức Musée Khải Định. Xem Chính Đạo, “Jean Baptiste Ngô Đ́nh Diệm (1897-1963);” Cuộc thánh chiến chống Cộng (Houston: Văn Hoá, 2004). Cũng có tin bài vị Dinh đặt tại chùa Từ Hiếu. Tuy nhiên, vào tháng 12/2004, chưa thể khẳng định có chăng bài vị nói trên (tiếp xúc với một tăng của chùa này).

   12. UN Doc. A/5630, 7/12/1963:22, col2; Báo cáo số 2262-TT/VP/BTM, ngày 9/5/1963, Thừa Thiên gửi BNV; TTLTQG II (TP/HCM), PTT/Đ1CH, HS 8529. Xem thêm Thích Trí Quang, “Cuộc vận động Phật giáo Việt Nam: Giai đoạn phát khởi;” Liên Hoa nguyệt san (29/1/1964), tr. 22, 28; dẫn trong Vũ Văn Mẫu, Sáu tháng pháp nạn 1963 (Giao Điểm: 2003), tr. 91.

   13. Xem thêm Nguyễn Ngu Í, “Đại học Huế tranh đấu chống chế độ cũ qua hai giờ nói chuyện với Giáo sư Lê Tuyên;” Bách Khoa, số 171 (15/2/1964), tr. 37-47, và số 172 (1/3/1964), tr. 27-42. Sẽ dẫn: Nguyễn Ngu Í, 1964a, và Nguyễn Ngu Í, 1964b.

   14. CĐ số 5, 10/5/1963, Huế gửi BNG; FRUS, 1961-1963, III:284; Airgram A-20, 3/6/1963, Helble gửi Sài G̣n; Ibid., III:277,n2; Chính Đạo, VNNB, I-C:1955-1963, tr. 279-80; US-Vietnam Relations, 1945-1967, Bk 3, p. 5.

   15. Xem danh sách các nạn nhân trong Phụ lục đính kèm của báo cáo của Nguyễn Văn Đẳng ngày 20/5/1963; TTLTQG II (TP/HCM), PTT/Đ1CH, HS 8529. Sỹ sau này bị kết án chung thân khổ sai, nhưng được Nguyễn Văn Thiệu ân xá vào năm 1966 sau cuộc nổi dạy của miền Trung.

   16. CĐ số 100/MM, ngày 9/5/1963, TNTP gửi Đổng lư  VPTT; TTLTQG II (TP/HCM), PTT/Đ1CH, HS 8523.

   17. TTLTQG II (TP/HCM), PTT/Đ1CH, HS 8529 [?].

   18. Xem, chẳng hạn, báo cáo của Thị trưởng Huế và các cấp chỉ huy cảnh sát, quân đội trong TTLTQG II (TP/HCM), PTT, Đ1CH, HS 8529.

19. Ibid., HS 8506.

   20. UN/GA Doc. A/5630, 1963, tr. 12, col.2.

   21. “I had concluded, according to the specialists in artillery and artificiers, whom we had consulted in Hue and Sai Gon, that it was probably bombs of plastic . . . that we had many bullets because the United States had given us many free, but we had no plastic; plastic is the arm of the Viet Cong guerilla.” A/5630, 1963:24, col 1.

   22. UN/GA Doc. A/5630, 1963:22-3.

   23. FRUS, 1961-1963, III:284-85.

   24. Tâm thư 10/5/1963, công điện cùng ngày của Thích Tịnh Khiết, và tài liệu giải thích ngày 16/5/1963, 23/5/1963 (Tịnh Khiết, Mật Nguyện, Mật Hiền, Trí Quang, Thiện Siêu kư) có thể t́m thấy trong TTLTQG II (TP/HCM), PTT/Đ1CH, HS 8541 và 8531. Bản dịch Mỹ ngữ trong FRUS, 1961-1963, III:287-88. Chùa Tường Vân ở xă Thủy Xuân, Hương Thủy. Ngảy 9/9, thị trưởng Huế là Nguyễn Mâu tổ chức một buổi học tập cho các Ni cô tại chùa Diệu Đức, xă Thủy Trường, Hương Thủy. 62 người tham gia. Theo Mâu, có tin Việt Cộng rất lo sợ về những lớp “cải huấn” của Mâu. Bởi thế Mâu cho lệnh câu lưu điều tra hai sư Lưu Phương (Trương Văn Sung) ở chùa Trúc Lâm và Tâm Thành (Nguyễn Đ́nh Hiệp) ở chùa Tường Vân xă Thủy Xuân, Hương Thủy, v́ hai sư này đi vận động dân chúng để được miễn học tập. (CĐ số 5010-TT/NA/CT-M, ngày 9/9/1963, Nguyễn Mâu gửi BNV; TTLTQG 2 (TP/HCM), PTT/ĐICH, HS 8529)

   25. Công báo Việt Nam [CBVN], III:3 [19/8/1950]:434-437. Người soạn thảo luật này là Nguyễn Khắc Vệ, Tổng trưởng Tư Pháp của chính phủ Trần Văn Hữu. Bản dịch Anh ngữ Dụ số 10 ngày 6/8/1950 cùng hai tu chính ngày 19/12/1952 và 3/4/1954 trích in trong phần phụ bản XV của UNGA, Doc. A/5630, 7/12/1963:86-9.

   26. Nguyễn Ngu Í 1964a:40-1. [Xem chú 13 supra]

   27. CĐ ngày 13/5/1963, Thừa Thiên gửi BNV; TTLTQG II (TP/HCM), PTT/Đ1CH, HS 8529; FRUS, 1961-1963, III:288, n3. Đại biểu chính phủ cũng yêu cầu hoăn ngày cầu siêu cho nạn nhân Huế từ 14/5 tới 21/5;

   28. Tâm Châu, Bạch Thư về vấn đề chia rẽ của Ấn Quang với Việt Nam Quốc Tự (Montréal: Tổ đ́nh Từ Quang, 1994), tr:17. Một nhân chứng khai UBLP/BVPG gồm 14 hội đoàn. Xem thêm Việt Nam Cộng Ḥa, Phủ Tổng thống, Phủ Đặc Ủy Trung Ương T́nh Báo, “Bản nghiên cứu đặc biệt: Phật Giáo Việt Nam” [n.d.]; PTT/ Đ1CH, HS 8573.

   29. Tục danh Đoàn Văn Hanh, sinh khoảng năm 1922 tại Ninh B́nh, Bắc Việt. Tu tại chùa Xuân Dương, huyện Đa Phúc, Phúc Yên (Phái Vĩnh Nghiêm). 1951: Cùng Tố Liên vào Huế tổ chức Đại hội thống nhất Phật giáo. 1952: Phó Trị sự Giáo Hội Tăng Già Toàn Quốc Việt Nam. 1955: Tham gia Giáo Hội Tăng Già Bắc Việt tại miền Nam. 1959: Thành lập Hội Phật Giáo Quán Âm Phổ Tế. Trụ sở tại 584/1 đường Phan Thanh Giản Sài G̣n. 1/1963: Lập Ủy Ban Liên Phái chống phim Sakya. 9/5/1963: Thành lập Ủy Ban Liên Phái Bảo Vệ Phật Giáo, qui tụ 11 hội đoàn. Trụ sở đặt tại chùa Xá Lợi. 25/5/1963: Phát động phong trào tranh đấu tích cực ở miền Nam. 30/5/1963: Tuyệt thực 48 giờ cùng hàng trăm tăng ni. Thứ Sáu, 14/6/1963: Tham gia phái đoàn Phật Giáo nói chuyện với Ủy Ban Liên Bộ của chính phủ Diệm. 16/7/1963: Dẫn đầu một đoàn biểu t́nh trước tư dinh Đại sứ Nolting. 21/8/1963, mờ sáng: Bị bắt tại chùa Xá Lợi cho tới ngày 1/11/1963. 31/12/1963: Tham dự Đại Hội Thống Nhất Phật Giáo ở Chùa Xá Lợi [cho tới ngày 4/1/1964]. Được bầu làm Chủ tịch Viện Hoá Đạo với nhiệm kỳ 2 năm. 13/1/1964: Nhận chức Viện trưởng Hoá Đạo. 20/1/1965: Cùng Trí Quang, Pháp Tri, Thiện Hoa và Hộ Giác tuyệt thực chống chính phủ Trần Văn Hương. 27/1/1965: Hội Đồng Quân Lực ra tuyên cáo nắm lại chính quyền. Viện Hoá Đạo ra lệnh ngừng tranh đấu. Các sư ngưng tuyệt thực. 24/8/1964: Khánh yêu cầu Trí Quang, Tâm Châu và Thiện Minh kêu gọi sinh viên, học sinh và Phật tử ngưng biểu t́nh. Các lănh tụ Phật giáo ra điều kiện: hủy bỏ hiến chương Vũng Tàu, thành lập chính phủ dân sự, bảo đảm tự do tôn giáo, và tổ chức bầu cử ngày 1/11/1965. /1975: Tị nạn ở Pháp, rồi Canada. Hiện tu tại Tổ đ́nh Từ Quang, Montréal, Québec. 9/1/1995: Cùng 126 tăng sĩ kư tên vào kháng thư phản đối việc bắt giữ Huyền Quang và Trí Độ. 2/5/1995: Tham dự biểu t́nh ở Oat-shinh-tân.

   30. Thiện Hoà, tục danh Hứa Khắc Lợi, sinh tại Chợ Lớn, đi tu từ năm 1935. 1935: Theo học Phật học đường Lưỡng Xuyên. 1936-1938: Theo học An Nam Phật học đường tại chùa Tây Thiên, Huế. 1938-1939: Theo học Phật học đường Long Khánh, B́nh Định. 1939: Theo học Phật học đường Báo Quốc, Huế. 1945-1950: Ở Bắc. 5/1950: Về Sài G̣n. Dạy tại Phật học đường Sùng Đức. 1951: Giám đốc Phật học đường Nam Việt tại chùa Ấn Quang. 1953: Trị sự trưởng GHTGNV. 1959: Trị sự trưởng GHTGTQ. 15/5/1963: Gặp Ngô Đ́nh Diệm về 5 nguyện vọng của Phật Giáo. 26/8/1963: Chủ tịch Ủy Ban Liên Hiệp Bảo Vệ Phật Giáo Thuần Túy, ủng hộ Ngô Đ́nh Diệm. 1967: Tổng Vụ trưởng TV Tài chính & Kiến thiết của GHPGVNTN tại Ấn Quang. 1973: Phó Tăng Thống. 7/2/1978: Chết tại chùa Ấn Quang.

   31. CĐ 1066, ngày 9/5/1963, BNG gửi Sài G̣n, FRUS, 1961-1963, III:283. Xem thêm báo cáo ngày 18/6/1962 của Bùi Văn Lương; TTLTQG II KLTQG II (TP/HCM), PTT/Đ1CH, HS 7941.

   32. FRUS, 1961-1963, III:310.

   33. Bộ Công Dân vụ [Civic Action] bao gồm Tổng Nha Thông tin dưới quyền Phan Văn Tạo.

   34. FRUS, 1961-1963, III:309-310; Mẫu 2003:246-255.

   35. Tâm Châu, Bạch Thư về vấn đề chia rẽ của Ấn Quang với Việt Nam Quốc Tự (Montréal: Tổ đ́nh Từ Quang, 1994), tr. 18.

   36. Không rơ Lương hay VTX của Tôn Thất Thiện và Đặng Đức Khôi đă phát minh ra lối giải thích mới này.

   37. FRUS, 1961-1963, III:311.

   38. Đề nghị này Nolting đă tŕnh về BNG ngày 18/5 và được Rusk chấp thuận ba ngày sau, 21/5; FRUS, 1961-1963, III:312,n3.

   39. FRUS, 1961-1963, III:314. Sau này, Nhu c̣n phát minh ra lối giải thích “pain of growth” [sự đau đớn khi phát triển] của Phật giáo Việt Nam, một hiện tượng quen thuộc của các nước chậm tiến.

   40. Gravel, II:226. Theo Trueheart, Diệm có vẻ “giận dữ” [quite agitated], và không muốn nghe theo lời khuyên của Mỹ; FRUS, 1961-1963, III:338.

   41. CĐ ngày 19/5/1963, Thừa Thiên gửi BNV; TTLTQG II KLTQG II, PTT/Đ1CH, HS 8529.

   42. Ibid., HS 8541.

   43. Ibid.

   44. CĐ 1136, 9/6/1963, Trueheart gửi BNG; FRUS, 1961-1963, III:368.

   45. TTLTQG II KLTQG II, PTT/Đ1CH, HS 8541.

   46. VNCH, Vấn đề Phật Giáo: Lập trường của chính phủ VNCH: Văn kiện căn bản, Tập I (từ 6/5/1963 tới 21/8/1963), tr. 1; Ibid., HS 8511. Người chủ biên tập tài liệu này là Tôn Thất Thiện, Giám đốc Việt Tấn Xă.

   47. Nguyên văn: The Buddhists (estimated at some ten million) have long been resentful of the mandarins of Hue and their ruling Catholic oligarchy; the Buddhists particularly resent a host of restrictions imposed on their religious freedom by President Diem. Most of Ngo Dinh Diem’s high Government officials, chiefs of provinces and military officers are Catholics, and most young army officers are convinced that they must be at least nominal Catholics if they wish to rise above the rank of captain. Diem apparently believes (and with some reason) that Catholics are more loyal to him personally and also more genuinely dedicated in their anti-Communism. Catholicism, therefore, seems to have become a kind of status symbol, as well as a prerequisite for advancement . . .

   The Buddhists say that most Government supplies pass through Catholic hands and are distributed chiefly to Catholics. One American adviser has reported that Catholic battalion commanders in South Vietnam’s army get better equipment and heavier weapons than the non-Catholics. In the countryside, there are a number of villages where Christian priests are in control and maintain their own private armies. In the northern coastal region around Hue, small units of these troops, known as the ‘Bishop’s Boys’, are directly responsible to the Archbishop, and their primary mission is to protect churches and priests. They are armed with United Sattes weapons and trained at least in part by United States advisers.

   Vast supplies of United States food relief (wheat, flour, rice, cooking oils) are distributed in South Vietnam through Catholic Relief Services to Catholic priests in the provinces. Some Viet-Namese are convinced that many of these supplies never reach the intended beneficiaries but find their way into the black market instead.” A/5630:90.

   48. NYT, 29/5/1963; FRUS, 1961-1963, III:335-336.

   49. CĐ 1162, 30/5/1963, BNG gửi Sài G̣n; FRUS, 1961-1963, III:337n3.

   50. Thư ngày 28/5/1963, Tâm Châu gửi TT; Báo cáo ngày 30/5/1963 của Q. Đô trưởng Vũ Tiến Huân; TTLTQG II KLTQG II, PTT/Đ1CH, HS 8501.

   51. FRUS, 1961-1963, IV:340-341.

   52. Xem Trần Ngọc Châu, “Phúc tŕnh về cuộc tranh chấp của Tỉnh hội Phật giáo tại Đà Nẵng” (19/9/1963); TTLTQG II (Sài G̣n), HS 8520.

   53. TTLTQG II KLTQG II, PTT/Đ1CH, HS 8520.

   54. FRUS, 1961-1963, III:343-347; A/5630.

   55. FRUS, 1961-1963, III:348-349. Tướng Đôn báo cáo rằng đây là loại lựu đạn cay Pháp sử dụng trong Thế chiến thứ nhất (1914-1918).

   56. Ngày 26/2/1964, Thích Trí Quang yêu cầu Thủ tướng Nguyễn Khánh điều tra và trừng trị thủ phạm; đồng thời bồi thường xứng đáng cho các nạn nhân. Ngày 7/3/1964, đích thân Trí Quang gặp Thiếu tướng Tôn Thất Xứng, Tư lệnh QĐ I, Vùng I Chiến thuật, yêu cầu giải quyết. Ngày 17/3/1964, Thiếu tướng Xứng xác nhận một đơn vị quân đội đă nhận lệnh xua chó berger và ném lựu đạn cường toan vào đám đông Phật tử đang tiến đến chùa Từ Đàm. Ngày 5/3/1964, Nha CS Trung nguyên Trung phần đă xác nhận việc này. “Hiện c̣n khoảng 40 nạn nhân bị xuất huyết, mắt càng ngày càng mờ, cơn điên cuồng ngày càng tăng.” [41 người bị thương trong các ngày 3, 4, 5, và 6/6/1963 điều trị tại Huế. 20 người xin về nhà. 47 người trong số trên là Phật tử. Danh sách do Nha CSBTNTP: 45 người. Phật tử trở lại điều trị ở Huế, 10 người]; (PThT, HS 29369) Ngày 21/3/1964, do sự can thiệp của Đại tá Nguyễn Chánh Thi, 12 nạn nhân được phi cơ quân sự đưa từ Huế vào Sài G̣n. 5 người điều trị tại Grall, 7 người khác ở Tổng Y Viện Cộng Ḥa. (Tờ tŕnh số 330/BYT/VP/M, ngày 13/4/1964, Đại tá Vương Quang Trường gửi Phó Thủ tướng đặc trách Văn Hóa-Xă hội; (PThT, HS 29369)

   57. FRUS, 1961-1963, III:349-52.

   58. Xem Chính Đạo, “Phiến Cộng trong Dinh Gia Long;” Đi Tới (Montréal, Canada), số 73 & 74, 9-10/2003, tr. 46-77; Idem., Cuộc thánh chiến chống Cộng (Houston, TX: Văn Hoá, 2004). Bản cập nhật đăng trên Hợp Lưu online [hopluu.net] va vietnamvanhien.net..

   59. Xem báo cáo của Nha Cảnh Sát Bắc Trung nguyên Trung Phần về những hành động và âm mưu của người Mỹ có liên hệ đến cuộc đấu tranh của Phật Giáo, 12-16/9/1963 [Thiếu tá Đào Quang Hiếu, 16/9/1963]; HS 8502.

   60. FRUS, 1961-1963, III:356-358; TTLTQG II, PTT/Đ1CH, HS 8509.

   61. FRUS, 1961-1963, III:359-360, 360-361. Sau này, mới xác nhận “phần tử quá khích” là nhóm “Phật giáo nhập thế,” hay “tân tăng,” mà người dưới phố gọi là “sư hổ mang”–và đa số đi tu để trốn lính. Họ gọi phái Lục Ḥa Tăng là “thày cúng.”

   62. FRUS, 1961-1963, III:360; Vấn đề Phật Giáo, I:1; TTLTQG II, PTT/Đ1CH, HS 8511.

   63. CĐ ngày 4/6/1963, Nguyễn Quang Tŕnh gửi Viện trưởng Huế; Ibid., HS 8501. Giáo sư Wulff, một chứng nhân của cuộc thảm sát 8/5 tại Huế, đă viết hồi kư về biến cố trên, và bạn ông chụp được nhiều h́nh ảnh tại nhà xác Huế. Các tài liệu này được nạp cho Liên Hiệp Quốc, khiến LHQ quyết định mở cuộc điều tra. Trong dịp viếng thăm Bệnh viện Huế ngày 18/4/1964, Đại tá Nguyễn Chánh Thi đă yêu cầu di tản những bệnh nhân bị phỏng v́ chất cường toan trong ngày 4/6/1963 tại Huế vào Sài G̣n điều trị. Xem tờ tŕnh ngày 13/4/1964, Bộ trưởng Y tế gửi Phó Thủ tướng đặc trách Văn hoá-Xă hội; TTLTQG II, Phủ Thủ tướng, HS 29369.

   64. FRUS, 1961-1963, III:367-68.

   65. “Quyết nghị của Phong Trào Phụ Nữ Liên  Đới Việt Nam” (Sài G̣n, 7/6/1963), TTLTQG II, (TP/HCM), PTT/Đ1CH, HS 8515; FRUS, 1961-1963, III:362n2.

   66. The Pentagon Papers (Gravel), II:208; FRUS, 1961-1963, III:366-69. . Ngày 12/11/1963, Tướng Trần Tử Oai tiết lộ với một viên chức Mỹ là Nhu đă trao 12 triệu cho TGĐ Thông tin Phan Văn Tạo để mở chiến dịch chống Phật Giáo; Memorandum ngày 13 Nov 1963; LBJL, NS File, Country File, Vietnam, Box 1.

   67. Năm 1956-1957, Hồ Vinh, một giáo sư Pháp văn trường Phan Châu Trinh Đà Nẵng từng bị tra tấn đến chết trong nhà lao Thừa Phủ (Huế). Nguyễn Đăng Ngọc, hiệu trưởng, một cán bộ Cần Lao, đích thân đến các lớp đọc bức công điện mật, loan tin “tên Cộng Sản Vinh” đă “tự tử” trong ngục. Xem thêm lời khai của Phan Quang Đông, và bản án Ngô Đ́nh Cẩn ngày 22/4/1964 về những cuộc thủ tiêu những người bị vu cáo là Cộng Sản hay gián điệp Pháp, như Nguyễn Văn Yến, v.. v...

   68. CĐ 1194, 8/6/1963 & 1196, 8/6/1963, BNG gửi Đại sứ Việt Nam; FRUS, 1961-1963, III:363-364, 364-66. Trong số các đề nghị, BNG yêu cầu VNCH “ít nữa cũng tạm thời ít nhắc đến thuyết Nhân Vị trước công chúng và tuyên truyền của chính phủ v́ đám đông đồng hóa Nhân Vị với Ki-tô giáo; bổ nhiệm các tuyên úy Phật giáo; thành lập một Hội Đồng Tôn Giáo Quốc Gia, vài tăng hay lănh tụ Phật tử ứng cử trong cuộc tranh cử vào Quốc Hội tháng 8/1963, và cho họ đắc cử [at least temporarily playdown Personalism in public pronouncements and GVN propaganda because of popular identification Personalism with Catholicism; appoint Buddhist chaplains; create National Religious Council, permit several monks or lay Buddhist leaders run for and win seats in August National Assembly elections [NVN: two monk representatives]; Ibid., III:364-65. Trong báo cáo về Oat-shinh-tân, Trueheart nói không có ư định gặp Diệm, v́ Thuần đă đạt được một số tiến bộ. BNG Mỹ đồng ư.

   69. FRUS, 1961-1963, III:369-71. Giao t́nh giữa chính phủ Diệm và báo chí Tây phương đầy sóng gió từ năm 1957, sau khi Diệm được tâng bốc như “Winston Churchill của Đông Nam Á.”

   70. FRUS, 1961-1963, III:371-73. Về lễ cầu hồn cho John XIII, Paul Hiếu không nói đúng sự thực. Xem văn thư về lễ trên trong TTLTQG II, PTT/Đ1CH, HS 8428.

   71. FRUS, 1961-1963, III:374. Hiện nay, tại góc đường Cách Mạng Tháng Tám và Nguyễn Đ́nh ChiểƯu (trụ sở UyỰ Ban Nhân Dân Quận 3, Thành phố Hồ Chí Minh, tức Ṭa Đại sứ Cao Miên cũ), c̣n một miếu nhỏ thờ Thượng tọa Quảng Đức)

   72. FRUS, 1961-1963, III:375-76.

   73. FRUS, 1961-1963, III:376-78.

   74. FRUS, 1961-1963, III:376-78.

   75. Mẫu, 2003:277.

   76. “Thông điệp của Tổng thống gởi đồng bào thủ đô ngày 11/6/1963;” TTLTQG II, PTT/Đ1CH, HS 8506, 8501; NYT, 12/6/1963. Sau này, có lẽ do áp lực Mỹ, bản dịch tiếng Anh được viết nhẹ hơn: “Buddhism in Vietnam finds its fundamendal safeguard in the Constitution of which I personally am the guardian.”

   77. Nguyên văn: “If Diem does not take prompt and effective steps to reestablish Buddhist confidence in him we will have to reexamine our entire relationship with his regime;” CĐ 1207, 11/6/1963, BNG gửi Đại sứ Việt Nam; FRUS, 1961-1963, III:383.

   78. FRUS, 1961-1963, III:385-87. Theo tài liệu Bạch Cung ngày 14/6/1963, Kennedy không biết ǵ về đe dọa giải kết [disassociation] này, và nhấn mạnh rằng đây là lần chót; từ nay bất cứ lời đe dọa chính thức nào cần được sự phê chuẩn của Kennedy. Ibid., III:386-87.

   79. Tâm Châu 1994:19; FRUS, 1961-1963, III:384.

   80. FRUS, 1961-1963, III:387-89. Theo Thuần, Phật giáo đă sửa đổi đôi chút các đ̣i hỏi, nhưng Trueheart nhấn mạnh nên bỏ các tiểu tiết để đạt ngay thỏa ước.

   81. FRUS, 1961-1963, III:391.

   82. TTLTQG II, PTT/Đ1CH, HS 8509. [Xem Phụ Bản] Xem thêm Tâm Châu, 1994:41-4; The Pentagon Papers (Gravel), II:226-27; FRUS, 1961-1963, III:Tài liệu 177, 178, 179.

   83. NYT, 16/6/1963; FRUS, 1961-1963, III:396-97.

   84. NYT, 17/6/1963; FRUS, 1961-1963, III:396-97. Theo bản tin AP ngày 17/6, đây là cuộc biểu t́nh chống chính phủ bạo động nhất từ nhiều năm qua; Ibid., III:397n3.

   85. Lănh đạo hệ phái này cho rằng họ là hệ phái lâu đời nhất tại Việt Nam, với hai triệu Phật tử. Măi tới năm 1964, Cổ Sơn Môn mới gia nhập Giáo Hội Phật Giáo Thống Nhất.

   86. TTLTQG II, PTT/Đ1CH, HS 8501; Mẫu, 2003:302-4.

   87. TTLTQG II, PTT/Đ1CH, HS 8501; Mẫu, 2003:307-13. Theo Nhu, TNCH lên tới 1.5 triệu đoàn viên; Ibid., tr.300, 304, 310.

   88. FRUS, 1961-1963, III:401. Gene Gregory từng biết Diệm từ thập niên 1950.

   89. FRUS, 1961-1963, III, tr. 409-10.

   90. Nguyên văn bản dịch tiếng Pháp: “Un bon catholique, en vertu même de la doctrine catholique, est le meilleur des citoyens, attaché à sa patrie, loyalement soumis à l'autorité civile établie, sous n'importe quelle légitime de gouvernement.” Ainsi s'explique Pie XI dans l’encyclique illius Magistri du 31 décembre 1929.”

   91. Nolting, From Trust to Tragedy: The Political Memoirs of Frederick Nolting [Từ tin cậy tới thảm kịch: Hồi kư chính trị của Frederick Nolting] (New York: Preager, 1988), tr. 115-116. Lập luận của Nolting giống hệt tuyên cáo của chính phủ Diệm ngày 21/8/1963–“lợi dụng tín ngưỡng cho mục đích chính trị.”

   92. Thư ngày 26/6/1963, Tịnh Khiết gửi TT; TTLTQG II, PTT/Đ1CH, HS 8541.

   93. Ibid., HS 8541.

   94. CĐ 1219, 14/6/1963, BNG gửi Đại sứ SG; FRUS, 1961-1963, III:394-395. Charles Ben Wood, người phụ trách Pḥng Đông Dương, soạn thảo Kế hoạch này từ tháng 5/1963, chuyển về Oat-shinh-tân ngày 23/5/1963, và được Bạch Cung chấp thuận ngày 6/6/1963; FRUS, 1961-1963, III:Tài liệu 133. Ngày 16/6, Sài-g̣n mới nhận được lệnh trên.

   95. Chính Đạo, VNNB, I-C:1955-1963, tr. 296, 298.

   96. FRUS, 1961-1963, III:400-401.

   97. FRUS, 1961-1963, III:402-4.

   98. FRUS, 1961-1963, III:392.

   99. Max Frankel, “US Warns South Viet-Nam on Demands of Buddhists”  [Mỹ cảnh giác Nam Việt-Nam về những đ̣i hỏi của Phật tử]; NYT, 15/6/1963. Tài liệu BNG ghi là ngày 14/6/1963; FRUS, 1961-1963, III:393.

   100. FRUS, 1961-1963, III:392.

   101. Báo cáo của Đại tá Nguyễn Văn An ngày 22/5/1963 & 15/6/1963; TTLTQG II, PTT/Đ1CH, HS 8508.

   102. Ngày 18/7, Cảnh sát Quận 5 bắt giữ ba người bị t́nh nghi hoạt động nội tuyến cho CS trong hàng ngũ Phật Giáo; Ibid., HS 8501.

   103. Hội nghị Khu Ủy Khu V mở rộng [từ 15/7 tới ngày 31/7/1963] ra nghị quyết: “trước mắt ra sức nuôi dưỡng mở rộng cuộc đấu tranh của đồng bào Phật Giáo và nhân dân các tầng lớp chống địch đàn áp Phật Giáo, chia rẽ các tôn giáo.” [tr. 942] (Huế: thuộc Liên tỉnh 1 của Khu V) Tuy nhiên, đường lối tổng quát không thay đổi: Cần phải và có khả năng kiềm chế địch trong loại chiến tranh thứ ba và thắng địch trong loại chiến tranh ấy [tr. 907]; trường kỳ kháng chiến, đánh địch trường kỳ, giành thắng lợi từng phần [tr. 908]; ở miền núi, đấu tranh vơ trang là chính [tr. 910]; ở đồng bằng, đấu tranh chính trị, vũ trang song song.[ tr.910]; ở đô thị đấu tranh chính trị là chủ yếu, có kết hợp đấu tranh vũ trang trong một mức độ nhất định.[ tr. 911] [VKĐTT, 24:895-954]

   Nghị  quyết tháng 10/1963 của Khu VI mới ghi nhận “cần chú ư tranh thủ xây dựng cơ sở trong tín đồ Phật Giáo và từng mặt liên minh hành động tiến tới nắm một số sư săi tiến bộ, có uy tín trong giới Phật Giáo, cũng như phải tích cực tranh thủ xây dựng những phấn tử lớp trên . . . có xu hướng tiến bộ để tiến tới h́nh thành Mặt Trận lâm thời của thành phố.” (VKĐTT, 24:989)

   104. CĐ số 1250 gửi Sài G̣n, DOS, Central Files, PER-Lodge, Henry Cabot. (Ngày 22/6, Trueheart báo cáo là Diệm đồng ư tiếp Trueheart vào chiều ngày 22/6; CĐ số 1230 từ Sài G̣n; Ibid)

   105. FRUS, 1961-1963, III:414. Diệm khẳng định với Trueheart là sẽ tôn trọng những điều thỏa thuận với Phật giáo; phủ nhận không có việc Nhu sử dụng Thanh Niên Cộng Hoà để chống lại Phật giáo; nhưng không đề cập ǵ đến Bạch thư của Lệ Xuân. Về Cổ Sơn Môn, Diệm nói họ có quyền tự do họp Đại Hội và bày tỏ ư kiến. Việc phóng thích những người tham dự biểu t́nh, Diệm nói cần thanh lọc; nếu họ không Cộng sản sẽ được phóng thích. Tóm lại, chính Diệm tách dần khỏi những lời cố vấn của Mỹ; Ibid., III:411-13.

   106. Ibid.

   107. CĐ 1271, 26/6/1963, Ball gửi Đại sứ VN; Ibid., III:415-16.

   108. FRUS, 1961-1963, III:427-28.

   109. FRUS, 1961-1963, III:426n3.

   110. FRUS, 1961-1963, III:429-31; Chính Đạo, VNNB, I-C:1955-1963, tr. 304-5.

   111. Nolting, 1988:126.

   112. The Pentagon Papers (Gravel), II:236; FRUS, 1961-1963, III:474; Chính Đạo, VNNB, I-C:1955-1963, tr. 307.

   113. US-Vietnam Relations, 1945-1967, Bk 11, tr. 427.

   114. FRUS, 1961-1963, III:433n2.

   115. FRUS, 1961-1963, III:441-43.

   116. FRUS, 1961-1963, III:443-44.

   117. FRUS, 1962-1963, III:445-47.

   118. FRUS, 1962-1963, III:449-50.

   119. Thời thực dân Pháp, cái mũ “Cộng Sản” đồng nghĩa với “phản loạn.” Nhưng hiện tượng chụp mũ “Cộng Sản” cho người khác ư kiến hoặc ḿnh không ưa c̣n phát triển rộng răi hơn, v́ quốc sách miền Nam là “chống Cộng.” Tàn tích của thói quen “Tố Cộng” này được bảo quản tốt đẹp ở hải ngoại.

   120. FRUS, 1962-1963, III:451-53.

   121. Hôm sau, Browne và Arnett bị truy tố về  tội hành hung hai Phó Thẩm sát viên công nhựt Nguyễn Văn Lăng và Lâm Văn Lư. Xem báo cáo của Phạm Công Kỉnh, Quận trưởng Cảnh Sát Q. 3, trong TTLTQG II, PTT, Đ1CH, HS 8536. Theo Trần Thiện Khiêm, các kư giả này dùng đá và máy ảnh để đánh trả Cảnh sát. Một viên chức nào đó, phê bằng mực đỏ: “Có thực không?” Ibid., HS 8527. BNG Mỹ chỉ thị Trueheart can thiệp để miễn tố. Thoạt tiên, Diệm không đồng ư. Măi tới ngày 17/7 mới thuận. FRUS, 1962-1963, III:470-72.

   122. The Pentagon Papers (Gravel), II:729-33; US-Vietnam Relations, Bk 12:534;

   123. FRUS, 1962-1963, III:483-85.

   124. Nguyên văn: [He is hurt by what he considers misrepresentations and calumnies (both in Vietnam and outside), torn by conflicting advise, resentful of US pressure, and not completely in control of his government’s actions (Nhus). He is, in brief, in a martyr’s mood himself.]; CĐ 85, ngày 15/7/1963, Nolting gửi BNG; FRUS, 1961-1963, III:487; Nolting 1988:113.

   125. Khán giả và công an, mật vụ khoảng 500 người. Khoảng 11G45, đoàn biểu t́nh kéo về chùa Xá Lợi, tuyên bố sẽ tuyệt thực 48 giờ. FRUS, 1961-1963, Tài liệu 221; Tâm Châu, 1994:19. Ngày 9/7/1963, Tâm Châu đă viết thư cho Đại sứ Mỹ, yêu cầu Mỹ cho quân bảo vệ chùa Xá Lợi v́ đang có dấu hiệu Diệm-Nhu sẽ đánh chùa. Ibid., III:478-79.

   126. Mẫu, 2003:353.

   127. Báo cáo ngày 23/7/1963 của Đại biểu CP tại Cao nguyên trung phần; TTLTQG II, PTT, Đ1CH, HS 8501.

   128. Mẫu, 2003:354-360.

   129. FRUS, 1961-1963, III, Tài liệu 234. Tưởng nên ghi nhận Hilsman từng là Giám đốc cơ quan sưu tầm và t́nh báo, từng ghé thăm Sài G̣n vào tháng 1/1963 và gặp gỡ nhiều nhân vật quan trọng, kể cả Ngô Đ́nh Diệm. Xem FRUS, 1961-1963, vol III: Jan-August 1963 (Washington, DC: GPO, 1991), tr. 1-16.

   130. FRUS, 1961-1963, III, Tài liệu 237.

   131. Ngày 24/7, Thuần cho Nolting biết Chiêu đă bị phạt kỷ luật. Báo chí loan tin Chiêu bị 40 ngày trọng cấm. Ngày 26/7, Tịnh Khiết viết thư xin Diệm nhẹ tay hơn với Chiêu. Ngày 30/7, Nhu định truy tố Chiêu ra ṭa để có dịp nói rơ “nguyên do thúc đẩy Chiêu biểu t́nh ... cho báo chí ghi chép.” CĐ ngày 31/7/1963, Đổng lư văn pḥng Phủ TT gửi Bộ trưởng Phụ tá Quốc Pḥng. Sau đó, Chiêu được ân thưởng “Trung dũng bội tinh.” TTLTQG II, PTT/Đ1CH, HS 8501. Theo Vũ Văn Mẫu, các thương phế binh đều là giả; Mẫu, 2003:313-14.

   132. FRUS, 1961-1963, III:Tài liệu 198, 200.

   133. TTLTQG II, PTT/Đ1CH, HS 8501. Hội c̣n đại diện chế độ qua New York tŕnh bày với Tổng thư Kư LHQ về cuộc tranh đấu của Phật Giáo vào tháng 10/1963. Tưởng cũng nên ghi nhận, Hội chỉ bênh vực Nhu, và đồng ư bắt Thục cũng như Lệ Xuân phải rời nước để trấn an dư luận.

   134. Newsweek, 9/8/1963; Chính Đạo, VNNB, I-C:1955-1963, tr. 314.

   135. Ngày 11/8, Thuần báo cáo với Nolting là Lệ Xuân giao cho Khiêm tổ chức một lực lượng Mật vụ riêng; nhưng Nhu phủ nhận. Ngày Thứ Bảy, 31/8, khi được kư giả người Úc, Denis Warner, phỏng vấn, Khiêm cho Warner coi một danh sách các viên chức mà Khiêm định ám sát. Theo CIA, Chương, cha Khiêm và Lệ Xuân, coi Khiêm như “bất lực, tham nhũng và hèn nhát;” FRUS, 1961-1963, IV:Tài liệu 68.

   136. Ngày 5/8, báo NYT đăng lại tin này; Chính Đạo, VNNB, I-C:1955-1963, tr. 312. Tại Việt Nam, Tịnh Khiết cũng viết thư cho Diệm, báo động về Kế hoạch Nước Lũ, gồm hai giai đoạn đảo chính và phản đảo chính giả; Thư ngày 5 & 7//8/1963, Tịnh Khiết gửi TT; TTLTQG II, PTT/Đ1CH, HS 8541.

   137. Ibid., HS 8541; Mẫu, 2003:344-46.

   138. TTLTQG II, PTT/Đ1CH, HS 8541; Mẫu, 2003:343-44.

   139. Chính Đạo, Tôn Giáo & Chính trị, 1994:334-335. Xem thêm TTLTQG II, PTT/Đ1CH, HS 8541 (Thanh Tuệ), 8532 (Diệu Quang), 8534 (đô thành)

   140. Nolting 1988:117.

   141. Trong báo cáo ngày 10/8, Nolting cho biết Thơ, Thuần, Nhu, Mẫu, Bửu Hội v.. v... đưa ra giải pháp sau: Lệ Xuân đi “nghỉ dài hạn,” Thục sẽ được thăng cấp [về Roma]. Thuần c̣n mật báo rằng các Bộ trưởng đều đồng ư đă đến giờ thứ 11 của Diệm. Lệ Xuân cùng em ruột là Trần Văn Khiêm tổ chức một toán cảnh sát đặc biệt để bắt cóc đối thủ. Chắc chắn Nhu cũng biết việc này.

   142. FRUS, 1961-1963, III:Tài liệu 252; Chính Đạo, VNNB, I-C:1955-1963, tr. 315.

   143. Nolting, 1988:119.

   144. NYHT, 15/8/1963; Nolting 1988:118; TTLTQG II PTT, Đ1CH, HS 8506.

   145. Ngày 9/8/1963, trong phiếu tŕnh lên Kennedy về vợ  chồng Nhu, Michael Forrestal tiết lộ Miên, Ceylon [Sri Lanka], và Nepal đă đưa vấn đề Phật giáo ra trước văn pḥng Tổng Thư Kư Liên Hiệp Quốc. Có thể sẽ họp Đại Hội Đồng LHQ.

   146. Văn thư số 4406/NA/CT ngày 10/8/1963; HS 8529)

   147. CĐ số 4435-TT/NA/CT/M ngày 12/8/1963, Thừa Thiên gửi BNV; HS 8529)

   148. Tục danh Bùi Huy Chương (1945-1963), 17 tuổi, tu tại chùa Phước Duyên, Hưng Long, Thừa Thiên; HS 8541; Nguyễn Ngu Í 1964a:42.

   149. HS 8541.

   150. Nguyễn Ngu Í 1964a:42.

   151. CĐ số 4470-TT/NA/CT/M ngày 15/8/1963, Thừa Thiên gửi BNV; HS 8529; Nguyễn Ngu Í, 1964a:42-43. [Xem chú 13 supra]

   152. CĐ số 4470-TT/NA/CT/M ngày 15/8/1963, Thừa Thiên gửi BNV; HS 8529; Nguyễn Ngu Í 1964a:43)

   153. (HS 8532)

   154. HS 8527; Nguyễn Ngu Í 1964a:43.

   155. CĐ số 4545-TT/NA/CT/M ngày 17/8/1963, Thừa Thiên gửi BNV; HS 8529)

156. CĐ  số 4545-TT/NA/CT/M ngày 17/8/1963, Thừa Thiên gửi BNV; HS 8529)

   157. Nguyễn Ngu Í 1964a:43)

   158. Nguyễn Ngu Í 1964a:43-44. [Xem chú 13 supra]

   159. Nguyễn Ngu Í 1964b:28)

   160. CĐ số 4545-TT/NA/CT/M ngày 17/8/1963, Thừa Thiên gửi BNV; HS 8529; Nguyễn Ngu Í 1964a:46.

   161. CĐ số 4529-TT/NA/CT/M ngày 18/8/1963, Thừa Thiên gửi BNV; HS 8529.

   162. Nguyễn Ngu Í 1964a:33.

   163. Nguyễn Ngu Í 1964b:35-6. Theo Vũ Văn Mẫu, Thế đă lẻn về Sài G̣n, xin cho trở lại nhiệm sở cũ. Ngày 19/8,ờ Mẫu kư giấy cho Thế ra đi; Mẫu, 2003:218-221, 387.

   164. Phạm Trọng Nhân, “Cuốn sổ tay của một nhân viên ngoại giao nhân vụ tấn công chùa Xá Lợi,”  Bách Khoa, số 169 (15/1/1964), tr. 34. [Sẽ dẫn: Nhân 1964a]

   165. Mẫu, 2003:377-379.

   165 bis. KLTQG II, PTT/Đ1CH, HS 8541.

   166. Phiếu tŕnh ngày 17/8/1963 của Bộ TTM v/v Cộng Sản  đang lợi dụng Phật Giáo; TTLTQG II, PTT/Đ1CH, HS 8501.

   167. Thông cáo của TT/VNCH ngày 20/8/1963; Ibid., HS 8501.

   168. Theo tờ tŕnh của Tôn Thất Đính ngày 22/8/1963, phía Tăng ni không có ai bị thương; phía công lực, 20 người bị thương. Tại Sài G̣n, 389 sư ni, 106 Phật tử và 133 học sinh bị bắt giữ. Phiếu Đệ Tŕnh số 0289/QĐIII/VPTL, ngày 22/8/1963, Tôn Thất Đính kính đệ Tổng thống; TTLTQG II, PTT/Đ1CH, HS 8527 [số cũ: TM-HS.209]; Lê Cung, 2003:312-316. Xem thêm The Pentagon Papers (Gravel), II:232; Tâm Châu 1994:19. Nguyễn Ngu Í 1964b:37-44. [Xem chú 13 supra]

   169. Nguyễn Mâu, “Bản tổng kết thành tích kế hoạch thanh toán vụ tranh chấp bạo động của Phật Giáo tại Thừa Thiên-Huế, từ 21/8 tới 20/9/1963 (3/10/1963);” TTLTQG II, PTT/Đ1CH, HS 8501. Theo Mâu, 964 người, kể cả 100 tăng ni, 42 giáo chức, 40 công chức bị bắt, nhưng 638 người, trong đó có 96 tăng ni, được phóng thích; Ibid.

   170. Nhân, “Cuốn sổ tay;” Bách Khoa, số 169 (15/1/1964), tr. 31-43, và số 170 (1/2/1964), tr. 21-31); Mẫu, 2003:390-398. Riêng tại Sài-g̣n, số tăng ni Phật tử bị bắt lên tới 2,000 người.

   171. Nhân 1964a:35-36; Mẫu, 2003:399-418.

   172. Sắc Lệnh số 84-TTP, ngày 20/8/1963; KLTTƯ II, PTT/1CH, HS 8501 & 8506 [SC.04-HS.8466; Cung, 2003:311]. Lệnh này hết hiệu lực từ 12G00 ngày 16/9/1963; SL số 104-TTP, ngày 14/9/1963. Tuy nhiên, t́nh trạng khẩn cấp ban hành ngày 15/10/1961, qua SL 209-TTP, được duy tŕ cho đến khi có lệnh mới.; Ibid. [8561?] [SC.04-HS.8466]; Lê Cung, 2003:311. “Sắc lệnh tuyên bố t́nh trạng giới nghiêm” trên toàn quốc.

   173. Ngày 6/9, Nhu biện bạch với một viên chức CIA Mỹ  rằng không liên quan ǵ đến việc ban hành thiết quân luật hay tấn công chùa chiền. Tối ngày 18/8, các Tướng đă yêu cầu Diệm ban hành thiết quân luật. Ngày 19 hay 20/8, Đỗ Cao Trí cũng vào gặp Nhu tŕnh bày một kế hoạch tấn công các chùa và danh sách những người cần bắt mà Trí đă chuẩn bị từ một tháng trước. Nhu chỉ là con dê tế thần trong cuộc khủng hoảng này. Từ sau ngày 21/8, Nhu vẫn theo đuổi chính sách ḥa hoăn. Nhân viên CIA có cảm tưởng Nhu dấu diếm sự thực [deception]; FRUS, 1961-1963, IV, Tài liệu 69.

   174. VNCH, UBLBĐTACL, Biên bản số 62: Phiên họp của UBLBĐTACL tại Dinh Gia Long ngày 23/8/1963, tr. 6-12; PTT/1CH, HS 8278.

   175. PTT/1CH, HS 8511.

   176. HS 8530; CĐ ngày 29/8/1963, Thừa Thiên gửi BNV; HS 8530) Tài liệu Việt Tấn Xă tăng lên 80,000 người “lên án bọn người lợi dụng tôn giáo để đầu cơ chính trị;” HS 8511.

   177. CĐ ngày 29/8/1963, Thừa Thiên gửi BNV; HS 8530.

   178. Cao Văn Luận 1972:352-86.

   179. Phủ Đặc Ủy Trung Ương T́nh Báo, Bản tin đặc biệt ngày 24/8/1963; HS 8513; Nhân 1964a:37, 39.

   180. PTT ICH, HS 8501.

   181. PTT ICH, HS 8513.

   182. HS 8511; Herald Tribune, 24/8/1963; Nhân 1964a:34.

   183. Nguyên văn: “You must go to Saigon fast and tell Diem and the Nhu’s to leave the country now. The people hate them and they shouldn’t stay for the people to kill them. They will surely be killed if they stay, and nobody at the Palace now is telling them how the people really feel. They are cut off from reality. Why do they need power, after nine years of it, if the family is killed? The US told Synman Rhee to leave. Why not Diem and Nhu?” JFK Library, NSF Country File, Vietnam; FRUS, 1961-1963, III:666; William C. Gibbons, The U.S. Government and the Vietnam War, 3 vols (Princeton, NJ: Princeton Univ Press, 1993), II:155.

   184. FRUS, 1961-1963, IV:114-5. Ngày 5/9/1963, Harriman mới chuyển thư này cho Bundy, Cố vấn ANQG của Kennedy.

   185. CĐ số 896, ngày 23/8/1963, Phnom Penh gửi Paris; CLV, SV, d. 17)

   186. Bộ Ngoại Giao Pháp, CĐ số 4879/83, Đại sứ  ở Mỹ gửi BNG; CLV, SV, 17:29.

   187. CLV, SV, 17:33.

   188. Từ ngày 11/7/1963, cơ quan an ninh Mỹ đă ghi nhận có dấu hiệu là các sĩ quan cao cấp và ngay chính Nhu đang âm mưu đảo chính. Trong hai buổi tiếp xúc với “khoảng 14 Tướng,” kể cả tân Thiếu tướng Đỗ Cao Trí, Tư lệnh QĐ I, Nhu tuyên bố có thể có một cuộc đảo chính nếu Diệm trở thành “nô bộc” của Mỹ [if he believed the government, meaning Diem, was becoming servile to the United States, he himself would lead a coup d’Etat]. Ngày 25/6, chính Nhu cũng nói với một quan sát viên Mỹ như trên. FRUS, 1961-1963, III:490-491. Ngày 13/7, cơ quan CIA báo cáo Đôn tự nhận nằm trong một nhóm âm mưu đảo chính; Ibid., III:491. Ngày 15/7, một cá nhân thuộc nhóm Trần Kim Tuyến tuyên bố sắp có đảo chính, nhưng không trước ngày 20/7. Ngày 16/7, Big Minh nghĩ cần phải có sự thay đổi chính phủ; Ibid., III:491n8.

   189. Nolting, 1988:121.

   190. FRUS, 1961-1963, III:605.

   191. The Pentagon Papers (Gravel), II:234.

   192. FRUS, 1961-1963, III, tài liệu 275; Chính Đạo, VNNB, IC: 1961-1963, tr. 208, 322-23. Trong hồi kư của McNamara, đoạn nói về Lệ Xuân, tương tự như nhận định này. McNamara c̣n gọi Lệ Xuân là “một mụ phù thủy.” Theo cựu Đại tá Phạm Văn Liễu, năm 1954, đài phát thanh Quân Đội Quốc Gia đă phát thanh hầu như mỗi ngày một câu đồng dao: “Nực cười cho họ Ngô Đ́nh, Trai không có vợ, mượn t́nh em dâu.” Trai không có vợ ám chỉ Ngô Đ́nh Diệm, và “em dâu” là Lệ Xuân; Trả Ta Sông Núi (Houston: Văn Hóa, 2001), tập I, tr. 310.

   193. FRUS, 1961-1963, III, Tài liệu 174, 273.

   194. FRUS, 1961-1963, III:607-610.

   195. FRUS, 1961-1964, IV:175.



Giới Thiệu Sử Gia Vũ Ngự Chiêu


Tiến Sĩ Vũ Ngự Chiêu
(ảnh của PBase.com)


Chính Đạolà một trong hai  bút danh của  Vũ Ngự Chiêu. Bút danh kia là Nguyên Vũ, rất nổi tiếng ở Miền Nam trước năm 1975.  Trước 1975, Vũ Ngự Chiêu phục vụ trong binh chủng Pháo Binh Dù, QLVNCH, và đă có hơn 20 tác phẩm xuất bản. Sau khi ra hải ngoại, ông vừa tiếp tục cầm bút vừa đeo đuổi việc học. Tốt nghiệp Tiến Sĩ Sử tại Đại Học Wisconsin-Madison năm 1984, sau khi cùng gia đ́nh di chuyển về Houston, ông là Giám Đốc nhà xuất bản Văn Hóa và tốt nghiệp Tiến Sĩ Luật tại Đại Học Houston năm 1999.  

    Những tác phẩm của Vũ Ngự Chiêu xuất hiện trước năm 1975 dưới bút danh Nguyên Vũ gồm có  Đời Pháo Thủ (bút kư), Những Cái Chết Vô Danh (tập truyện), Trở Về Từ Cơi Chết (truyện), Ṿng Tay Lửa (trường thiên), Thềm Địa Ngục (truyện), Đêm Hưu Chiến (truyện), Sau Bảy Năm Ở Lính (bút kư), Đêm Da Vàng (trường thiên), v.v.  Tại hải ngoại, Vũ Ngự Chiêu đă in thêm các tập Xuân buồn thảm: Cuộc Sụp Đổ của Nam Việt Nam (bút kư), Trận Chiến Chưa Tàn (truyện), Giặc Cờ Đỏ (trường thiên), cùng hai tâm bút Paris: Xuân 1996, và Ngàn Năm Soi Mặt.  

    Về nghiên cứu sử học, ông đă in ba tác phẩm bằng tiếng Anh dưới tên thực, và 10 biên khảo bằng Việt ngữ với bút danh Chính Đạo. Biên khảo duy nhất bằng Việt ngữ kư tên thực của ông là bộ Các Vua Cuối Nhà Nguyễn, 1883-1945, gồm ba tập. Những tác phẩm kư tên Chính Đạo thường được viết cho độc giả không chuyên môn, dễ đọc hơn, không quá khô khan như các biên khảo đúng yêu sách bác học.  

   Ông vừa xuất bản tác phẩm mới nhất với tựa đề Cuộc Thánh Chiến Chống Cộng, 1945-1975, tập I, gồm 5 phần: Sơ lược tiểu sử Tổng thống Jean Baptiste Ngô Đ́nh Diệm (1897-1963); Từ Điện Biên Phủ tới Geneva; Cuộc truất phế Bảo Đại; Mùa Phật Đản đẫm máu (1963); và “Phiến Cộng” trong Dinh Gia Long.  

Sau năm 1975 ở hải ngoại, có những ḍng thác ngụy tạo ngụy biện nhằm vặn méo sử kiện để chạy tội và biện minh cho sự vô minh của ḿnh, Vũ Ngự Chiêu đă dần dần xuất hiện như  một nhà sử học khai sáng và can trường. Giá trị tinh thần của người trí thức không chỉ là tôn trọng sự thật mà c̣n nói lên sự thật và chấp nhận hậu quả của quyết định can trường đó. Đó là một sự đổi đời tâm linh có ư nghĩa đă h́nh thành nơi Vũ Ngự Chiêu. Huyền thoại và huyễn mị lịch sử đă làm cho người Việt xa nhau, chỉ có sự thật mới làm cho người Việt gần lại với nhau, trong t́nh dân tộc, nghĩa đồng bào. Những tác phẩm mới của Vũ Ngự Chiêu là một đóng góp sáng giá và có ư nghĩa trong chiều hướng đó.   


Trích Từ : http://www.chuyenluan.net


    Những biên khảo cuả Tiến Sĩ Vũ Ngự Chiêu đă và đang được phổ biến trên trang mạng Việt Nam Văn Hiến như sau:

1- Trụ Đồng Mă Viện: Sự Đàn Hồi của Biên Giới Trung Hoa
2-
Nh́n Lại Mùa Xuân Khói Lửa 1789
3-
Đất Đai Việt Nam Bị Cộng Hoà Nhân Dân Trung Hoa Xâm Chiếm
4- Liên hệ Việt Nam và Pháp
5- Vấn Đề Tài Liệu Nghiên Cứu Lịch Sử
6- Góp Phần Nghiên Cứu Về Trương Vĩnh Kư
7- Cuộc truất phế Bảo Đại
8- Hồ Chí Minh Nhà Ngoại Giao
9-
Phỏng Vần Sử Gia Về Hồ Chí Minh
10- Bài học Mậu Thân 1968
11- Mẫu Phỏng Vấn Bà Trần Thị Lệ Xuân
12- Ngô Đ́nh Diệm Là Ai ?
13- Chuyến Đi Cầu Viện Bí Mật của Hồ
14- Sự H́nh Thành Phong Trào Quốc Gia Mới
15- Mùa Phật Đản Đẫm Máu
16- Huỳnh Thúc Kháng  và  Báo Tiếng Dân
17- Khái Hưng Trần Khánh Giư
18- Phiến Cộng Trong Dinh Gia Long


Trân trọng giơí thiệu cùng bạn đọc


Trang mạng Việt Nam Văn Hiến
Trang Mùa Phật Đản Đẫm Máu
www.vietnamvanhien.net
Email: thuky@vietnamvanhien.net

Trang mạng Việt Nam Văn Hiến là nơi lưu trữ và phổ biến
di sản văn hóa của Việt Tộc



Trở Lại Trang Mặt