Năm
Thứ
4889
www.vietnamvanhien.net
MÙA PHẬT
ĐẢN ĐẪM MÁU
Chính
Đạo
Cuộc
tranh đấu của Phật Giáo
năm 1963 là đề tài c̣n gây nhiều xúc
động và tranh căi. Tuy nhiên, tới nay vẫn chưa
có nghiên cứu sử đích thực nào về đề
tài này.
Một trong những
lư do là thiếu sử liệu.
Tài liệu văn khố chưa hoàn toàn giải mật,
và số người được tiếp cận tư liệu văn khố Đệ
nhất Cộng
Ḥa không nhiều. Đa số tác giả đều đứng về phe
này hay phe kia, xếp đặt và diễn giải các dữ
kiện
vốn bị giới hạn, thiếu sót và tán quang theo sự
yêu ghét hay khuynh hướng chính trị, tôn
giáo của họ. Tác nhân lịch sử bị đặt lên
những chiếc giường của tên tướng cướp, thừa chặt
bớt, ngắn
kéo dài ra cho vừa khuôn thước thành kiến
tiên thiên của người kể chuyện cổ tích.
Không ít người
c̣n bịa đặt ra những
chi tiết không thực, xen kẽ vào những thông tin
trộm
cắp, nhai lại đó đây, để bẻ cong lịch sử hầu xây
dựng một “kỳ đài” vàng mă cho họ Ngô. Tất cả
đă khởi đi từ chính họ Ngô và guồng
máy tuyên truyền của các nhóm Cần Lao
Nhân Vị, Ngày 12/11/1963, chẳng hạn, Tướng Trần
Tử Oai
tiết lộ với một viên chức Mỹ là Ngô Đ́nh
Nhu đă trao cho Tổng Giám Đốc [TGĐ] Thông
tin Phan Văn Tạo, thuộc Bộ Công Dân Vụ, 12 triệu
để mở
chiến dịch tuyên truyền chống Phật Giáo–12 lần
lớn hơn
ngân khoản phát động chiến dịch chống Cộng vào
tháng 7/1955. (Memorandum ngày 13 Nov 1963;
LBJL, NS
File, Country File, Vietnam, Box 1)
Năm 1963, để
chuẩn bị đón phái đoàn
LHQ điều tra việc chế độ Diệm vi phạm điều 18
Tuyên Ngôn
Nhân Quyền [Universal Declaration of Human
Rights]–tức “Every one
has the right to freedom of thought, conscience
and religion; this
right includes freedom to manifest his religion
or belief in teaching,
practice, worship and observance;” Doc A-5489,
Add.1, cũng tương tự như
Điều 17 của Hiến Pháp VNCH ngày 26/10/1956–cơ
quan
Việt Tấn Xă [VTX] lưu hành một tài liệu bằng ba
thứ tiếng Việt, Anh, Pháp, gồm ba [3] tập, do
Tôn Thất
Thiện chủ biên, nhưng dấu kín những chi tiết như
chính quyền ngụy tạo ra để cáo buộc Việt Cộng
ném
lựu đạn hay ḿn từ lực; hoặc cách đối xử tàn tệ
với tăng, ni, sinh viên, học sinh Phật tử qua
các chương
tŕnh cải tạo rập khuôn Đảng CSVN tại Huế và
Sài G̣n do nhóm Nguyễn Mâu và Dương
Văn Hiếu tổ chức. Báo cáo của Liên Hiệp
Quốc–United
Nations, General Assembly, Agenda Item 77: “The
Violation of Human
Rights in South Vietnam;” Doc A-5489–có những
phụ bản
này, nhưng chúng tôi chỉ được văn khố LHQ cung
cấp
phóng ảnh tài liệu báo cáo. Phải tới khi du
khảo Việt Nam năm 2004-2005, chúng tôi mới được
đọc
các hồ sơ tự biện hộ trên của chế độ Diệm. (VNCH, Vấn đề Phật
giáo [The
Buddhist Questions]; TTLTQG II (TP/HCM), PTT/Đ1CH,
HS 8506, 8511).
Ngày
24/10/1963, khi phái đoàn
Liên Hiệp Quốc tới Việt Nam anh em Diệm-Nhu c̣n
bỏ ra một
ngân khoản lớn để đón tiếp và sai thủ hạ (Trần
Hữu
Duệ, một tay chơi nổi danh Sài G̣n) dùng tửu sắc
gài bẫy quay phim các đại diện “khả kính” trong
phái đoàn Liên Hiệp Quốc. Hành động
này không những tự nó là một h́nh tội
cản trở công lư, mà c̣n bộc lộ rơ
“đạo đức” của anh em Diệm-Nhu–hay “morality”
[Art 17]
và “humanistic civilization”
[Preamble]
ghi trong Hiến Pháp 26/10/1956. Nhật kư
Đỗ
Thọ đă nhắc đến màn gài bẫy này từ nhiều
thập niên trước. Tại hải ngoại, cựu Đại tá
Nguyễn Hữu
Duệ, Tham Mưu trưởng Lữ Đoàn Pḥng vệ phủ Tổng
thống,
cũng thú nhận trên báo Văn Nghệ Tiền Phong tiểu
xảo
trên. [Một cựu sĩ quan thông dịch cho phái
đoàn Liên Hiệp Quốc hồi đó, hiện ngụ tại
Houston,
Texas, đă tiết lộ với tác giả thủ đoạn này từ
lâu]. Vậy mà người muốn che đậy tội ác cho họ
Ngô vẫn cố vin vào “báo cáo” của phái
đoàn LHQ (danh số A/5360) để ngụy biện cho chính
sách kỳ thị tôn giáo của anh em Diệm hay vụ tấn
công rạng sáng ngày 21/8/1963.
Nực cười và mọi
rợ nhất là có chiến
dịch vu cáo tác giả là “Việt Cộng” v́
đă công bố những tài liệu về họ Ngô
cùng đảng viên Cần Lao-Nhân Vị. Nhưng giấy
khó gói được lửa.
Trong
cuốn Tôn Giáo &
Chính Trị: Phật Giáo, 1963-1967, do
nhà
Văn Hóa xuất bản năm 1994 tại Houston, Texas,
tôi
đă dành một chương khá dài cho cuộc tranh
đấu năm 1963 của Phật giáo miền Nam. Tôi cũng
cho
công bố một báo cáo đặc biệt của nhân
viên t́nh báo Mỹ về mặt trái của cuộc
đàn áp Phật Giáo tại Huế–gỡ xuống tấm mặt nạ đạo
đức của họ Ngô, trong nỗ lực che đậy dư luận thế
giới những tội
ác vi phạm nhân quyền. 10 năm sau, nhiều tài
liệu
văn khố Mỹ, Pháp, Việt Nam và Liên Hiệp Quốc
được
giải mật thêm, nên tác giả đă hiệu
đính chương này sau mỗi lần nghiên cứu ở các
văn khố, kết đúc thành bài “Mùa Phật
Đản Đẫm Máu” trong tập Cuộc Thánh
Chiến Chống Cộng (Houston: Văn Hoá,
2004). Năm
2004-2005, nhờ được du khảo tại Việt Nam trong
chương tŕnh
Fulbright của Bộ Ngoại Giao Mỹ, với cơ quan đối
tác là
Trường Khoa Học Nhân Văn (tại trụ sở Đại học Van
Khoa cũ
trước 1975, nơi tôi đă hoàn tất bằng Cử Nhân
Giáo Khoa Triết Đông năm 1974), làm việc
trên các tư liệu văn khố VNCH tại Trung tâm Lưu
trữ
Quốc Gia [TTLTQG] II Sài G̣n, nên lại hiệu
đính thêm bài này. Tuy nhiên,
trên đại thể, những nét chính không thay đổi.
Bài “Mùa
Phật Đản đẫm
máu” dưới đây được hoàn tất với sự khách
quan tối đa mà các tư liệu đă giải mật cho
phép. Khi in thành sách–trong bộ Lâu
Đài Trên Băi Cát–chúng
tôi sẽ cho in lại những tư liệu văn khố cơ bản
nhắc đến trong
bài này.
Báo cáo của
Phái đoàn điều tra LHQ tại Sài G̣n từ
24/10 tới thượng tuần tháng 9/1963. [United
Nations, General
Assembly, Official Records, Agenda Item 77, “The
violation of Human
rights in South Vietnam;” Doc. A/5630, 7/12/1963.
[Sẽ dẫn UNGA Doc.
A/5630]. Trong phần Phụ Bản có tài liệu 3 thứ
tiếng Việt,
Mỹ và Pháp do Việt Tấn Xă thực hiện, Tôn
Thất Thiện chủ biên, để nộp cho Ủy Ban Điều Tra
Liên
Hiệp Quốc. Chúng tôi chỉ được tham khảo tài liệu
này tại TTLTQG 2 (TP/HCM), PTT/Đ1CH, HS 8511.
[Chính phủ Kennedy
công khai áp lực Diệm phải đáp ứng những
nguyện vọng của Phật giáo, thành thực tôn trọng
bản
Tuyên cáo chung 16/6/1963, và từng đe dọa sẽ
tách biệt khỏi chính sách Phật giáo của chế
độ Diệm nếu có thêm một vụ tự thiêu. Diệm-Nhu
quyết
không nhân nhượng, t́m đủ cách phản ứng: Từ
bịa đặt ra việc Cộng Sản ném lựu đạn (sau sửa sai
thành
hai trái ḿn từ lực) trước Đài phát
thanh Huế, đàn áp, bắt giữ người biểu t́nh, tới vu
cáo cuộc tranh đấu của Phật giáo do Cộng Sản chi
phối,
nhằm lật đổ chính quyền. Cả Diệm lẫn Nhu đều lên
án
“đế quốc” [và Cộng Sản] nhúng tay vào cuộc tranh
đấu của Phật Giáo].
Xem thêm Thích
Trí Quang, “Cuộc vận động Phật giáo Việt
Nam:
Giai đoạn phát khởi;” Liên Hoa nguyệt san
(29/1/1964), tr. 22, 28; dẫn trong Vũ Văn Mẫu, Sáu
tháng
pháp nạn 1963 (Giao Điểm: 2003), tr. 91.
Nguyên Vũ, “Cái
chết của một hàng tướng: Dương Văn Minh,
1916-2001,” trong
Nguyên Vũ, Ngàn Năm Soi Mặt (Houston: Văn
Hóa, 2002), tr. 9-156; bản hiệu đính đăng trên Phụ
Bản tháng 9 &10/2006 của Hop Luu online;
Chính Đạo, “Mùa
Phật đản đẫm máu;” Cuộc thánh chiến chống
Cộng,
2004:243-304.
Vũ Ngự Chiêu,
“Vài cảm nghĩ về Thượng tọa Thích Quảng
Đức;” Hợp Lưu (Fountain Valley, CA), số 84
(8-9/2005), tr.
194-206;
Phật giáo Bắc Tông–đặc
biệt là phái Tào Động [ts’ao tung] và
Lâm Tế [Lin chi]–chỉ phát triển mạnh tại Đàng
Trong từ thế kỷ XVI-XVII, sau khi Nguyễn Hoàng
được cử
làm trấn thủ Thuận Hóa và tiếp tục “Nam tiến.”
Nguyễn Hoàng và đa số chúa Nguyễn đều chuộng đạo
Phật. Khi dời đô về Kim Long, Nguyễn Hoàng cho xây
chùa Thiên Mụ ở xă An Ninh, Hương Trà
vào đầu năm 1602 (tháng Chạp Tân Sửu
[24/12/1601-22/1/1602]; ĐNTL, TB, 1:42) Người kế
vị, Nguyễn Phước
Nguyên (1613-1635), c̣n có biệt danh “Săi
vương” hay Phật vương.
Thời gian này, Đàng
[Đường] Trong c̣n là một vùng biên
thùy mở rộng cho mọi tầng lớp di dân và sự du nhập
của các tôn giáo có tổ chức. Trong khi
các cộng đồng cư dân bản xứ–thoạt tiên là
Chàm, các bộ lạc thiểu số trên cao nguyên,
và rồi đến dân Khmer ở phía Nam–cố gắng duy
tŕ những hệ thống giá trị xă hội-văn hóa
cổ truyền trước chu tŕnh Việt hóa theo lối tằm ăn
dâu, những đợt sóng tị nạn chính trị và kinh
tế từ phương Bắc vào cuối triều Minh [Ming], đầu
đời Thanh
(Qing, 1644-1666) cũng mang vào Đàng Trong một số
du
tăng Hoa Nam. Trong số những người nổi danh nhất
có Tạ
Nguyên Thiều, gốc Triều Châu, đóng góp
vào việc phát triển phái Thiền Bắc tông
Lâm Tế vào cuối thế kỷ XVII, đầu thế kỷ XVIII.
Tạ Nguyên Thiều,
người
Triều Châu, theo thuyền buôn Quảng Đông tới miền
Nam khoảng năm 1665 [1677?] Dựng chùa ở phủ
Qui Ninh
(thôn Thuận Chánh, Tuy Viễn, B́nh Định). Sau
tới núi Phú Xuân, huyện Hương Trà, xây
chùa Quốc Ân. Được Ngăi Vương Nguyễn Phước Trăn
(1687-1691) sai qua Quảng Đông đón ḥa thượng
Thạch Liêm cùng mua các đồ cúng tế. Rồi ban
sắc chỉ trụ tŕ chùa Hà Trung (xă Hà
Trung, Phú Lộc, Thừa Thiên). Kế thừa có: các
sư mang hiệu chữ “Thành” ở chùa Quốc Ân (Huế)
và chữ “Minh,” chùa Thập Tháp (B́nh
Định). (Liệt Truyện, TB, VI:260; Nguyễn Tài Thư,
1991:342-45)
Giác Linh (Huyền Khê),
đời thứ 35, người Quảng Đông, giỏi vơ nghệ, tu
tại
Đông Phố. Sau ra Phú Xuân, lập chùa
Pháp Vân (tức Thiên Phước). (LT, TB, VI:264)
Đại lăo ḥa
thượng Viên Quang, đời thứ 36, tới Gia Định, xây
chùa Giác Lâm (B́nh Dương). (Liệt
Truyện, TB, VI:262-264)
Phái Tào Động
chủ trương không thể tách biệt Phật và
chúng sinh. Chỉ phát triển từ thời nhà Tống.
Đời Mạc Mậu Hợp [Lê Thế Tông (1575-1599)] do thiền
sư
Thủy Nguyệt, tức Thông Giáo, đời thứ 36, truyền bá
ở Đàng Ngoài [chùa Hồng Phúc hay
chùa Hoè Nhai, Ba Đ́nh, Hà Nội].
(Nguyễn Tài Thư, 1991, tr. 350-351) [351]
Phái thiền
Tào Động
có sứ giả là ḥa thượng Thạch
Liêm (tức Đại Sán), đến Huế năm 1695-1696 do lời
mời
của chúa Nguyễn.
Thạch Liêm, hiệu
là Đại Sán Thạch Ông thi, người Chiết
Tây. Cuối đời Minh, bỏ đi tu. Vân du khắp nơi. Đầu
năm
1695, tới Huế, và ở lại đây hơn một năm. Minh
Vương Nguyễn
Phước Chu (1691-1725) rất quí chuộng, cho ở chùa
Thiên Mụ, và dùng làm cố vấn. Năm 1696, về
Quảng Đông, không trở lại nữa. (LT, TB,
VI:262-264)
Theo Đại Sán, sư sang Huế
là do Ngăi Vương Nguyễn Phước Trăn (1687-1691) đă
nhiều lần mời, lại có thư của quốc sư Hưng Liên,
nên
ngày 27/2/1695 rời Hoàng Phố (Quảng Đông) xuống
Hội An. Tới Huế ngày 12/3/1695. Định cư ở chùa
Thiền
Lâm xă An Cựu. Sau đó tới chùa Thiên
Mụ. Mở giới đàn chấn chỉnh hàng ngũ tăng già, nếp
sống tu học và giới luật. Ngoài ra c̣n cố vấn cho
Phước Chu nhiều vấn đề, kể cả việc xin thông hiếu
với nhà
Thanh. Ngày 22/7/1696 [24/6 Bính Tí], rời Hội An
về Quảng Đông, không trở lại nữa. Tác giả Hải
ngoại kư sự. (LT, TB, VI:262-264; Hải ngoại kư sự;
Nguyễn
Tài Thư, 1991:351-353).
Sáu năm sau, tháng
Giêng Nhâm Ngọ [28/1-26/2/1702], Nguyễn Phước Chu
sai sai
bọn Hoàng Thần, Hưng Triệt (người Quảng Đông, theo
ḥa thượng Thạch Liêm đến yết kiến) đáp thuyền
Xiêm qua Quảng Đông mang theo thư và cống vật
xin vua Thanh phong vương, nhưng không thành công.
[Lễ vật: 5 cân 4 lạng kỳ nam; 1 cân 13 lạng 5 đồng
cân vàng sống; 2 ngà voi nặng 350 cân; 50
cây mây song hoa]. Vua Thanh không đồng ư
v́ đă phong cho vua Lê. (Thuyền Thanh thường
ghé Quảng Nam buôn bán, nên gọi là
nước Quảng Nam. (TB, 158-159)
Từ
Huế và Quảng
Nam, phái Tào Động được Liễu Quán
và hơn 50 đệ tử quảng bá ngược ra Đàng
Ngoài, làm sống lại phái Trúc Lâm
Yên tử ở Sơn Nam hạ (Nam Định).
Liễu Quán tục danh
là Lê Thiệt Diệu (1667-1742), người Bạch
Mă, huyện Đồng Xuân, phủ Phú Yên. Đi
tu từ 6 tuổi. 13 tuổi, ra Huế, tu tại chùa Báo
Quốc với
sư Giác Phong (người Hoa). Năm 1695, thụ giới với
Thạch
Liêm (Đại Sán, người Hoa). 1702 (Nhâm Ngọ) tới
Long Sơn tu tập với Tứ Dung (người Hoa). 1722, về
Huế. 1742, chết.
Chúa Nguyễn phong làm Chính Giác Viên
Ngộ. (Nguyễn Tài Thư, 1991:345-348)
Trong
thế kỷ XVIIIÔ,
một số tăng vân du từ B́nh Định vào vùng
châu thổ Cửu Long, xây chùa, lập thiền viện. Năm
1755, Đạt Bổn du phương tới Đông Phố, dựng chùa
Kim Chương, truyền y bát cho nhiều thế hệ. (LT,
TB, VI:263)
Huỳnh Lang dựng
chùa ở núi Bạch Tháp, phía Bắc
Vân Sơn, trấn Hà Tiên. (LT, TB, VI:264-265)
Khi anh em Nguyễn Nhạc nổi
lên ở B́nh Định, năm 1773, Long Kỳ đại
sư ở
Quảng Ngăi về kinh xin mật chỉ chiêu tập thủ hạ
trong địa
phương chống lại. (LT, TB, VI:266]
Trong khi đó, phái Nam
Tông hay Nguyên thủy, tuyệt đối trung thành với
mọi
và mỗi lời Phật giảng dạy c̣n được ghi chép.
Các tăng mặc áo vàng, chỉ ăn ngày một bữa
và khất thực, nên không nhất thiết phải ăn chay
như
phái Bắc tông. Tại miền Bắc, các thiền viện Nam
Tông dần dần bị giảm thiểu, rồi không để lại dấu
vết
nào của những nhà sư như Khang Tăng Hội, hay
trường
phái Giáo Tông, v.. v... Tại miền Nam, khoảng đầu
thế kỷ VII, phái Nam Tông phát triển khá
mạnh ở Lâm Ấp hay Chiêm Thành. Trong một cuộc
đánh cướp nước Chiêm năm 605, quan tướng Tùy
(589-618) mang về Trung Hoa 18 pho tượng vàng và
hơn
1,350 bộ kinh [sutras].
Trong khi đó người Việt gốc
Khmer ở vùng châu thổ Cửu Long cũng lập nên những
cộng đồng theo hệ phái Nam Tông, tiêu biểu bằng
những chùa chiền hùng vĩ với mái thiếp
vàng, cùng những pho tượng vàng trấn tự.
Các lục cả [tăng] giữ vai tṛ lănh đạo tinh thần
của các thôn xă [sóc hay láng]. Tại
nhiều nơi, việc giáo dục thanh thiếu niên được
hoàn
toàn giao cho hàng tăng lữ. (Mat The, Phat, p.
65).
9/2003-4/8/2010
Chính
Đạo
I.
TỪ CỜ ĐẾN
MÁU LỬA:
Ngày 6/5, Đổng lư Văn Pḥng
Phủ Tổng
Thống, Quách Ṭng Đức, gửi đi khắp nơi “chỉ thị”
[khẩu lệnh] của Tổng thống Ngô Đ́nh Diệm
(1955-1963):
Ra
chỉ thị cho các
cơ sở phụng sự bất câu tôn giáo nào,
trên các cơ sở phụng tự (nhà thờ, chùa
chiền, v.. v...) chỉ treo cờ quốc gia mà thôi.
Chính phủ đă hỏi các tôn giáo, đều
đồng ư là con dân trong một nước chỉ treo cờ
quốc
gia. Sự treo cờ, ảnh phía trong th́ tùy nghi. . . .
Lúc trước có khi
v́ muốn tránh treo cờ đỏ sao vàng Việt Minh
hay cờ
tam tài của Pháp, th́ có những tôn
giáo treo cờ hiệu ǵ khác.
Nước nhà đă độc lập,
nên chỉ treo cờ quốc gia. Các nhà tư cũng
vậy.(1)
Theo lời khai của viên chức
chính phủ với
phái đoàn Liên Hiệp Quốc [LHQ] vào hạ
tuần tháng 10/1963, Diệm biết rơ rằng lệnh cấm
treo cờ
trên sẽ ảnh hưởng đến ngày Phật Đản sắp
tới–ngày lễ quan trọng nhất của Phật Giáo–nhưng
bất chấp
hậu quả. (2)
Nhiều năm sau, c̣n có tin
Quách
Ṭng Đức không hề gửi đi công điện 9195, nhưng
những chi tiết trên tư liệu nguyên bản (như nhóm
giờ
và nơi gửi, nhận) khó giúp cho mức khả tín
của lời tự biện hộ trên. Ngoài ra, theo tư liệu
chính phủ, khẩu lệnh này được gửi đi sau khi Đức
đă tham khảo mật với Mai Thọ Truyền, Phó Hội chủ Tổng
Hội
Phật Giáo Việt Nam, mà trụ sở đặt tại chùa Xá
Lợi, Sài G̣n. Cách
nào đi nữa, thời điểm ban hành lệnh cấm treo cờ
tôn
giáo [hiểu như Phật Giáo] của Diệm là điều thiếu
khôn ngoan. Chỉ c̣n không đầy 48 tiếng đồng hồ nữa
là Lễ Phật Đản 2507 (15/4 Quí Măo, tức
8/5/1963), ngày lễ quan trọng nhất của Phật Giáo.
Trên toàn miền nam, các khuôn hội Phật
Giáo và tư gia đă hoàn tất việc chuẩn bị
đón mừng Phật Đản, như treo cờ, biểu ngữ và dựng
cổng
chào.
Công
điện cấm treo cờ gây một tia lửa điện xúc động tại
Huế
và miền Trung, được coi như kinh đô Phật Giáo từ
hạ
bán thế kỷ XVI. Đa số chúa Nguyễn đều mến mộ đạo
Phật. Từ đời Minh Mạng (1820-1841), sau nửa thế kỷ
chiến tranh hay
“cách mạng thay đổi triều đại cầm quyền,” Khổng
giáo
chiếm lại vị thế trung tâm quyền lực, nhưng các
vua Nguyễn
vẫn duy tŕ truyền thống tam giáo đồng
nguyên–và, cách nào đó, sử dụng Nho,
Lăo, Phật như đồng minh chống lại sự phát triển
của
Ki-tô giáo, mũi tên công phá, xung
kích của chế độ thực dân Âu Mỹ. Nhân dịp rằm
tháng 7 Ất Mùi [7/9/1835], chẳng hạn, Minh Mạng
lập một
tuần chay ở chùa Thiên Mụ để siêu độ cho
vong linh tử sĩ ở Bắc Kỳ. Sau cho đặt thêm bài vị
tử sĩ ở
thành Phiên An (Gia Định hay Sài G̣n)
trong cuộc nổi loạn của “Lê Văn Khôi” và Ki-tô
giáo. Minh Mạng đích thân tới dự, tuyên bố
rằng đạo Phật dạy người bằng thuyết họa phúc, báo
ứng,
không nhất thiết là dị đoan. Việc khuyên bảo người
làm việc thiện, dẫu thánh nhân [tức Khổng
Khâu] sống lại, cũng không thể đổi bỏ đi được.
Từ thập niên 1830,
Ki-tô giáo
Vatican hay “Catholic” được bảo vệ và hỗ trợ bằng
chiến hạm của
các nước Âu Mỹ, đặc biệt là Pháp [France],
qua những cuộc chiến tranh nha phiến ở Trung Hoa,
mở đầu việc liệt
cường xâu xé đế quốc Thanh; và rồi cuộc biểu dương
lực lượng của Napoléon III tại Việt Nam. Dưới thời
Pháp
thuộc (1884-1945), “Catholic”–v́ là tôn giáo
của dân Pháp và giai tầng trung gian bản xứ, trụ
cột của nền bảo hộ–được khuyến khích, giúp đỡ bành
trướng mạnh. Dù giáo dân chiếm chưa đầy 10%
dân số, các cộng đồng Ki-tô bản xứ trở thành
những quốc gia trong một quốc gia, tự ban danh
hiệu “công
giáo” [public religion] và cung cấp cho giai
tầng
trung gian bản xứ cũng như thị dân một nhân số
quan trọng.
Chính v́ thế Jean-Baptiste Ngô Đ́nh Diệm
(1897-1963)–với thành tích hết hợp tác với
Pháp tới Nhật, và bị đánh giá là
“cuồng đạo” [a Catholic
mystic, yogi-like mystic, hay religious fanatic]–vẫn được Pháp,
Mỹ và
Bảo Đại chọn làm Thủ tướng toàn quyền quân
và dân sự từ mùa Xuân 1954. Thượng Nghị sĩ
Mike Mansfield hay Ngoại trưởng Foster Dulles đều
đánh
giá Diệm như nhân vật duy nhất có thể cầm đầu cuộc
chiến chống Cộng tại miền Nam. Ngắn và gọn, số
chùa
chiền, tu viện, khuôn hội Phật giáo gia tăng ở
phía
nam vĩ tuyến 17 từ 1954 tới 1963 không chỉ do ảnh
hưởng quốc
sách chống Cộng, mà c̣n phản ảnh sự chống đối vừa
tiêu cực vừa tích cực của Phật giáo với chế độ
giáo phiệt Ki-tô Diệm-Thục-Nhu hay Diemocracy.(3)
Nạn nhân thường trực của
Ki-tô giáo
là Phật Giáo cùng những phong tục truyền thống–như
thờ cúng tổ tiên và bái vật [animism].
Mặc dù từ thập niên 1910 viên chức Pháp quyết
định đoạn tuyệt với chính sách đồng hóa [assimilation]
và Ki-tô hóa [catholicization] của Hội
truyền giáo, chuyển sang hợp tác [collaboration]
hay Pháp-Việt đề huề [Franco-Vietnamese happy
co-existence],
măi tới thập niên 1920 Phật giáo và
các tổ chức tôn giáo bản xứ khác mới bắt đầu
được “duy tân” và khuyến khích đoàn ngũ
hóa hầu chống Cộng. Sau năm 1945, các giới chức
cầm quyền
khuyến khích việc thống nhất Phật Giáo, dài theo
ranh giới Quốc-Cộng. Tại vùng VNDCCH kiểm soát, có
tổ chức Phật Giáo cứu quốc. Tại vùng Pháp
và Bảo Đại kiểm soát, từ năm 1950 có nỗ lực
thành lập các giáo hội địa phương cùng hai
tổ chức toàn quốc là Tổng Hội Phật Giáo
Viêt Nam [THPGVN] và Giáo Hội Tăng
Già. Cũng năm 1950 này, Thượng tọa Tố Liên
(1903-1977) đại diện Việt Nam tham dự Đại Hội Phật
Giáo Thế
Giới [World Fellowship of Buddhists, hay Hội
Bằng Hữu Phật
Giáo Thế Giới] tại Colombo (Sri Lanka, hay
Tích Lan),
từ ngày 26/5 tới 7/6/1950, và ủng hộ nghị quyết
chọn cờ
ngũ sắc làm giáo kỳ. Chùa Quán Sứ
Hà Nội là nơi lá cờ Phật giáo được trương
lên trước tiên trên đất nước Việt Nam. Trong thập
niên 1950, lá cờ Phật Giáo ngày càng
trở thành quen thuộc v́ sự phát triển của
các hệ phái Phật Giáo phía nam vĩ tuyến 17.
Sự phát triển đặc biệt này, cần nhấn mạnh, không
do
sự khuyến khích của tam đầu chế Ngô Đ́nh
Thục-Ngô Đ́nh Diệm-Ngô Đ́nh Nhu. Việc
giúp đỡ bất cứ tôn giáo không Ki-tô
nào chỉ có tính cách tượng trưng, do
các cấp viên chức địa phương (như không khắt khe
áp dụng luật số 10 về các hiệp hội, hay cho mở sổ
số để
gây quĩ, v.. v...). Năm 1963, theo tài liệu chính
phủ, tại Sài G̣n có tới 180 chùa: 69
chùa thuộc THPGVN, 22 chùa thuộc Cổ Sơn Môn, và
89
thuộc các môn phái khác cùng
chùa tư. Nhưng từ 1954 tới 1963, tổng số tiền
chính phủ
trợ cấp 24 tổ chức Phật Giáo chỉ được 3,681,000
đồng, quá
chênh lệch so với trợ giúp riêng cho Đại học tư
Ki-tô ở Đà Lạt của Thục (gồm một phần tài sản
tịch thu của Bảy Viễn, tiền vay dài hạn do chính
phủ bảo
đảm, độc quyền khai thác lâm sản, v.. v..), lên
tới
hàng chục triệu. (4)
Nhận hiểu rằng Phật
tử chiếm đa số dân
chúng trong nước, trong những năm đầu,
Thục-Diệm-Nhu làm
ngơ trước sự phát triển của các khuôn hội,
đoàn Phật tử, v.. v... Những người góp công lớn
trong việc phát triển của Phật giáo là tăng ni di
cư và Phật tử chống Cộng. Xây dựng chùa chiền, tổ
chức các ban đại diện, phong trào Phật tử, phát
huy và hoằng dương đạo pháp là một phương thức
chống Cộng ḥa b́nh và hữu hiệu nhất: Lấy
tôn giáo chống lại Cộng Sản vô thần (những người
từng ví von tôn giáo như thuốc phiện). (5) Hoà Thượng tọa
Thích
Quảng Độ–đương kim Tăng thống Giáo Hội Phật Giáo
Thống Nhất Việt Nam [GHPGTNVN] là một trường hợp
điển
h́nh. Thày của Quảng Độ từng bị Cộng Sản Việt Nam
đưa
ra xét xử trước ṭa án nhân dân
và thảm sát bằng gậy gộc v́ tội “Việt Gian,”
gián điệp cho Pháp.
Ngoài ra, việc phát triển
chùa chiền,
khuôn hội phản ảnh một giai đoạn mới của cuộc
chiến tranh
lạnh giữa Phật Giáo và Ki-tô giáo,
kéo dài đă hơn bốn thế kỷ. Trong giai đoạn
Pháp xâm chiếm Việt Nam, rất nhiều danh tự đă biến
thành nhà thờ ở Hà Nội, Sài G̣n, Nam
Định hay Quảng Trị. Trường hợp nổi danh nhất là
việc Kinh
lược Nguyễn Hữu Độ bán rẻ chùa Báo
Thiên và làng Thọ Xương–tức khu vực Nhà
Chung gần trung tâm Hà Nội hiện nay–cho Giám mục
Paul Puginier với số tiền tượng trưng 100 quan để
mua chuộc sự yểm trợ
của các giáo sĩ Ki-tô. Một số tăng miền Trung–như
Thích Trí Quang và Thích Đôn
Hậu–từng tham gia Phong Trào Phật Giáo Cứu Quốc,
và có tên trong “sổ đen” của cơ quan t́nh
báo Pháp. Tuy nhiên Ngô Đ́nh Cẩn
(1911-1964), em áp út Diệm và từng được xưng tụng
là Cố vấn chỉ đạo miền Trung, trước khi Thục ra
nắm chức Tổng
Giám Mục Huế–người nổi danh tiêu diệt gần trọn
mạng lưới
Cộng Sản nằm vùng miền Trung trong giai đoạn
1955-1960–vẫn
không đụng chạm đến các tăng này. Trong dân
gian, có lời truyền tụng là bài vị Ngô
Đ́nh Dinh, cha Khả và ông nội Diệm, Cẩn, v..
v.. được bí mật thờ trong một chùa ở Huế.
Cho tới đầu thế kỷ
XXI, v́ hầu hết phần tử gia
đ́nh họ Ngô đă bị giết hay qua đời, khó thể
biết lư do Diệm sai Đổng lư văn pḥng gửi đi
công điện cấm hoặc hạn chế treo cờ ngày 6/5/1963.
Lập luận
của chính phủ là quốc kỳ (cờ vàng ba sọc đỏ) phải
được tôn trọng hơn cờ tôn giáo. Dân
chúng phải treo quốc kỳ, c̣n cờ tôn giáo chỉ
được phép treo trong các ngày lễ, tại các
nơi thờ tự hay tư gia, nếu được chính quyền địa
phương cho
phép. Đó là tinh thần Nghị định 189/BNV/NA/P5,
ngày 12/5/1958 của Bộ trưởng Bộ Nội Vụ Lâm Lễ
Trinh, được
tái xác nhận ngày 14/6/1962. Ngày
29/5/1963, giữa cao trào tranh đấu của Phật Giáo,
chính phủ Diệm ra thêm thông cáo: “Khi qui
định thể thức treo quốc kỳ và đạo kỳ, chánh phủ
chỉ muốn
nhắc nhở Quốc kỳ là tượng trưng cho chánh nghĩa,
là kết tinh ư thức đấu tranh toàn diện,
toàn dân, toàn quân.” (6)
Ngô Đ́nh Thục
(1897-1984), người bị
nghi đứng sau khẩu lệnh tai hại của Diệm, đổ thêm
dầu vào
lửa khi cho rằng Công điện ngày 6/5/1963 không
quan
trọng, và không đụng chạm đến tôn giáo. Trong
Chỉ thị cho giáo dân ít tháng sau, Thục
viết: “Trong đạo ta chỉ có một biểu hiệu là thánh
giá mà thôi. Anh em đừng nghĩ rằng cờ Ṭa
Thánh Vatican là cờ có tính cách
quốc tế nên được phép treo các nơi. Cái cờ
bấy lâu gọi là cờ Ṭa Thánh chỉ là cờ
nước Vatican, không phải là cờ của đạo ta. . . .
[H]ễ có lễ trong đạo th́ ngoài đường, trong
nhà anh em, trong khu ngoài nhà thờ chỉ treo cờ
quốc gia mà thôi, ai không tuân th́ xin
các cha bổn sở phải tịch thâu các thứ cờ
khác ngoài cờ quốc gia. Không phải ta là
công giáo mà ta vô tổ quốc. Ta hân hạnh
có đạo, bởi v́ ta hiểu biết đạo rơ ràng lại
v́ ta hành đạo triệt để, không phải một tấm vải
vài đồng bạc mà thay được tín ngưỡng đâu.”
(7)
Lập trường của giới cai trị
này khó thuyết phục
được các lănh đạo Phật giáo và Phật tử miền
Nam. Thục, theo Tướng Lê Văn Nghiêm, từng tuyên bố
với những người tín cẩn rằng “cần phải hạ Phật
giáo bằng
mọi phương tiện, nếu không Phật giáo sẽ mạnh hơn
Ki-tô,” và “ngay cả đời sống giáo dân sẽ bị
đe dọa.”( 8)
Mùa Xuân 1963 Thục c̣n
có thêm lư do để “ra tay” với Phật
Giáo. Nhân dịp kỷ niệm 25 năm thụ phong Giám mục,
Thục–theo lời một nhân chứng ngoại quốc, viết bằng
Mỹ ngữ
ngày 12/6/1963, và Linh mục Cao Văn Luận, Viện
truởng
Đại học Huế–đă xin với Vatican lên chức Hồng Y
v́ “80% dân chúng trong giáo phận Huế
là giáo dân Ki-tô.” (9)
Điều này dễ hiểu và rất có
thể
là sự thực, v́ từ năm 1961, Thục được coi như
người cầm
đầu Giáo Hội [miền nam] Việt Nam, không v́ đạo
hạnh, mà v́ được Diệm kính trọng và nghe
lời. Hơn nữa, việc phong giáo tước thường bị chính
trị
hóa. Năm 1950, chẳng hạn, Linh mục John Dooley,
một công
dân Mỹ gốc Ireland [Ái Nhĩ Lan?], được đặc cách
lên Tổng Giám Mục, Khâm mạng Vatican, để thực thi
cuộc thánh chiến chống Cộng. Trong khi đó, cơ quan
tuyên truyền cho rằng giáo hội miền bắc đă “im
lặng,” Đức Mẹ Fatima đă di cư vào nam; nên Thục
xứng đáng được chức Hồng Y đầu tiên. V́ vậy, theo
tài liệu đă dẫn, Vatican gửi một phái đoàn
điều tra tới miền Trung vào đầu tháng 5/1963. Mặc
dù cờ Ki-tô giáo nửa vàng, nửa trắng giăng
mắc khắp nơi trong thời gian phái đoàn ở Việt Nam,
đại
biểu Vatican cũng ghi nhận Phật tử đang chuẩn bị
cờ ngũ sắc, biểu ngữ
và cổng chào mừng đón Phật đản 2507. Bởi thế
phái đoàn Vatican kết luận sơ khởi rằng chỉ có 20%
dân miền Trung theo đạo Ki-tô mà không phải
80% như Thục báo cáo. Để che dấu sự thực, Thục
ngầm
cho lệnh viên chức địa phương cấm treo cờ hay tuần
hành
rước lễ Phật Đản.
Dù Thục có áp
lực Diệm ban
hành lệnh cầm treo cờ Phật giáo ngày
Phật Đản 2507 hay chăng, công điện nhắc nhở
lệnh cấm
ngày 6/5/1963 là sỉ nhục lớn với Phật tử. V́, cho
tới ngày 5/5, cờ Ki-tô giáo c̣n phấp phới
khắp miền Nam, trong khi tổng số giáo dân không
đầy
10% dân số. Ngày 5/5/1963 này, Diệm c̣n tổ
chức Lễ Tạ Ơn kỷ niệm 25 năm Thục được phong Giám
Mục tại
nhà thờ trên đường Kỳ Đồng, Sài G̣n.
Ngoài lễ nghi quân cách, cờ Ki-tô giáo
chi chít khắp nơi.( 10)
Ngay chiều ngày 6/5 (13/4
Quí Măo),
Tỉnh trưởng Thừa Thiên kiêm Thị trưởng Huế là
Nguyễn
Văn Đẳng sao gửi công điện của Quách Ṭng
Đức cho các tổ chức tôn giáo, đặc biệt
là Ban trị sự Giáo hội Tăng già và Hội
Phật Giáo Việt Nam tại Trung Phần và tỉnh
Thừa
Thiên, cùng Ban tổ chức Lễ Phật Đản tại Thừa
Thiên-Huế. Các lănh đạo Phật giáo phản ứng
một cách chừng mực. Sáng hôm sau, một phái
đoàn đại diện Tăng Già và ban tổ chức Phật
Đản–gồm Thượng tọa Thích Trí Quang, Thích Mật
Nguyện, Thích Thiện Minh và Thích Thiện
Siêu–đến gặp Thị trưởng Đẳng để “tŕnh bày
những thắc mắc và uất ức” của Phật tử về
lệnh cấm treo cờ.
Không thỏa măn với lời giải thích của Đẳng, đại
diện Phật Giáo yêu cầu được tiếp kiến Cố vấn chỉ
đạo miền
Trung về lệnh cấm treo cờ. Cẩn đồng ư, mời Trí
Quang tới
tư dinh, dự một cuộc họp với Bộ trưởng Nội vụ Bùi
Văn Lương
và Thị trưởng Đẳng vào lúc 11G45 ngày
7/5/1963 (14/4 âm lịch). Sau một hồi thảo luận,
Cẩn đồng ư
cho các chùa chiền và lễ đài tiếp tục treo
cờ, nhưng các tư gia th́ nên cho Cảnh Sát đi
thuyết phục họ hạ cờ. Bởi thế, lúc 12 giờ trưa
ngày
7/5/1963, Đẳng gọi Trưởng ty Cảnh sát Huế tới tư
dinh Cẩn,
cho lệnh sử dụng Mật vụ để áp lực dân chúng hạ cờ.
Có lẽ v́ thế một số nhân viên Cảnh
Sát, Công An đă sốt sắng tháo gỡ cờ Phật
giáo bất chấp sự phản đối của dân chúng. (11)
Khoảng 17G45 ngày 7/5, một
phái đoàn gồm các đại diện Giáo Hội
Tăng Già, ban tổ chức Phật đản 2507 và khoảng 200
Phật tử
lại kéo tới Toà Hành chánh tỉnh gặp
Đẳng. Theo lời Bộ trưởng Nội vụ Lương khai với
Phái
đoàn Liên Hiệp Quốc ngày 30/10/1963, đích
thân Lương cho tạm hoăn thi hành lệnh cấm treo cờ,
và lănh đạo Phật giáo rất măn nguyện. (12)
Tại Đà Nẵng, cách
Huế khoảng 100
cây số về phía Đông Nam, Cảnh
sát cũng tới các cơ sở thương mại, ra lệnh cấm
treo cờ
mừng Phật đản; bằng không sẽ bị rút giấy phép.
Chẳng hiểu việc làm này liên hệ ǵ đến Thị
trưởng Hà Thúc Luyện hay chăng. Cách nào đi
nữa, ngày 8/5, Thiếu tướng Nghiêm, Tư lệnh Quân
Đoàn I, vẫn cho phép quân nhân Phật tử tổ
chức lễ Phật Đản. (13)
Tại Đà Nẵng, quân
nhân Phật
tử dựng một khán đài tại góc đuờng Thống
Nhất và bờ sông Bạch Đằng (sông Hàn),
và tổ chức diễn hành xe hoa. Tại Huế, Phật tử cũng
dựng
khán đài và kết cờ Phật Giáo. Nhưng
không khí đấu tranh phảng phất trong không gian.
Trong cuộc rước lễ từ chùa Diệu Đế tới
chùa Từ
Đàm sáng ngày 8/5/1963, Phật tử đă
trương lên một số biểu ngữ đ̣i b́nh quyền tôn
giáo và thề bảo vệ giáo kỳ bằng mọi giá.
Người châm ng̣i nổ cho cuộc
tranh đấu là
Thượng tọa Trí Quang, Chủ tịch Hội Phật Giáo Trung
Phần.
Sau bài diễn văn nẩy lửa trong buổi lễ sáng 8/5
tại
chùa Từ Đàm–với sự tham dự của nhiều viên chức
cao cấp địa phương (ngoại trừ Đại biểu Trung
Nguyên Trung
Phần và Thị trưởng Đẳng)–Trí Quang lần lượt đọc
lại
từng biểu ngữ của Phật tử trương lên trong buổi
sáng
mà viên chức chính quyền không hài
ḷng. Đám đông hợp xướng lại bằng những tiếng
hoan hô hay đả đảo, biến buổi lễ Phật Đản thành
một
cuộc mít tinh rực lửa tranh đấu b́nh quyền tôn
giáo. Một lănh tụ đối lập chế độ giáo phiệt vừa
được khai sinh, dưới bộ cà-sa.
Tối đó, một biến cố
đẫm máu đột ngột xảy
ra. Giữa lúc hàng ngàn Phật tử tụ họp trước
Đài phát thanh Huế vào khoảng 8 giờ tối để
nghe chương tŕnh phát thanh đặc biệt Phật Đản,
một
nhóm thanh niên Ki-tô giật cờ Phật Giáo tại
một cổng chào, rồi xông tới đập phá lễ đài.
Bạo động bùng nổ. Giám đốc đài Huế, Ngô
Ganh, sau khi nhận chỉ thị phải từ chối phát thanh
lại cuốn băng
buổi lễ Phật Đản tại chùa Từ Đàm, khóa
trái cửa “để bảo vệ máy móc” trước sự đe dọa của
một số Phật tử hung hăn. Khoảng 22 giờ, Thị trưởng
Đẳng được
mời tới Đài phát thanh bàn thảo với Thượng Tọa
Trí Quang về nội dung chương tŕnh phát thanh Phật
Đản mà hàng ngàn người đang chờ đợi, Thiếu
tá Đặng Sỹ, Phó Tỉnh trưởng Nội An, dẫn Cảnh
Sát, và lực lượng an ninh (Biệt đội Ngô
Đ́nh Khôi) gồm 8 tuần thám xa [blinder] của
Địa Phương Quân, 1 đại đội ĐPQ, 1 đại đội trừ Bộ
Binh,
đến tái lập trật tự. Sau khi đám đông không
chịu giải tán, Sỹ cho lệnh dùng lựu đạn cay, ṿi
rồng phun nước, và rồi nổ súng. Đa số binh sĩ
không tuân lệnh, chỉ có đơn vị riêng của Sỹ
thẳng tay đàn áp. Xe tuần thám chạy ngang dọc giữa
đám đông. Dân chúng hoảng hốt tranh nhau bỏ
chạy tứ phía. Kết quả, 9 người chết (kể cả 2 trẻ
em bị tuần
thám xa cán), và 14 bị thương.( 14)
Đây là một hành động có thể
bị
truy tố về tội ác chiến tranh [war crime] và tội
ác chống lại nhân quyền [crime against Human
rights] của
Sỹ; và các cấp chỉ huy, kể cả Ngô Đ́nh
Diệm, phải liên đới trách nhiệm.( 15)
Để che đậy sự thực, thoạt
tiên chính phủ
loan tin một quả lựu đạn của quân khủng bố (Cộng
Sản) từ
đám đông ném ra, v́ quân đội chỉ bắn
lên trời hoặc dùng đạn mă tử. Lời giải thích
này dựa theo mật điện số 100/MM, từ văn pḥng Đại
biểu Trung nguyên Trung Phần (Hồ Đắc Khương) gửi
về Phủ Tổng
thống ngày 9/5/1963. Theo Mật điện trên, trong lúc
Đặng Sỹ đàn áp đám đông, “một quả lựu
đạn MK-2 đă từ trong đoàn người phóng ra
làm cho 7 thường dân chết, 1 thường dân và 5
binh sĩ bị thương. Cơ quan an ninh đă phải
xử dụng lựu
đạn cay mắt để giải tán đoàn người và t́nh
h́nh đă trở lại tương đối yên tịnh vào
lúc 24G00.” VP/ĐBCP/TNTP cũng qui tội
cho Việt
Cộng, và xin được tổ chức biểu t́nh ngày 9/5/1963.
(16)
Sau khi đám đông bị giải
tán, viên
chức chính phủ mang 9 xác chết tới bệnh viện Trung
ương
Huế. Theo một nguồn tin an ninh Mỹ, dù được lệnh
phải ghi
vào giấy chứng tử là các nạn nhân “chết
v́ lựu đạn do khủng bố Việt Cộng ném,” Y sĩ Lê
Khắc
Quyến, Giám đốc Bệnh viện kiêm Giám đốc Y tế miền
Trung, không đồng ư: Các y sĩ thực hiện giảo
nghiệm
(lư khám) kết luận rằng đa số nạn nhân đều chết
v́ những vết thương trên đầu, và di thể không
hề có mảnh “lựu đạn MK-2” nào. (17)
Bởi vậy, viên chức chính
phủ, dù vẫn
nhất tề trút mọi trách nhiệm cho Việt Cộng,
nhưng
bắt đầu sửa sai từ “lựu đạn” sang “ḿn từ lực”
[plastic] cho
có vẻ hợp lư hơn.( 18) Phó
TT Nguyễn Ngọc Thơ, trong thư gửi Thượng tọa Thiện
Minh ngày
11/7/1963, biện minh rằng các nạn nhân đêm 8/5
là do “plastic” của Việt Cộng; chính Y sĩ Quyến,
Giám đốc Bệnh viện Trung Ương Huế, đă xác nhận
viêc này trong buổi tiếp xúc ngày 8/7/1963
với Đại biểu TNTP và các y sĩ lư khám. (19) Tháng 10/1963,
Trần Tử Oai khai
với phái đoàn LHQ t́m sự thực về sự vi phạm
nhân quyền tại Nam Việt Nam rằng Cộng Sản đă cho
nổ hai
trái ḿn từ lực mà quân đội VNCH cũng như Mỹ
không có
[That night another more violent meeting took
place at the Huê
radio station. Communist elements took
advantage of it to explode
two plastic charges which caused the death of
eight persons, including
several children and a Catholic girl]. Ở một đoạn khác,
Oai lập lại
lời cáo buộc này [With regard to the charge
that the Government had ordered
the killing of the demonstrators by tanks,
cannons, rifles and
grenades, this was an absolute slander. According
to the findings
of the medical experts, all the wounds on the
victims’ bodies were
caused by the explosion of plastic charges,
which are not used by the
Army or the security forces of Vietnam, but only
by Communists.”( 20) Bộ trưởng Nội vụ cùng một
luận
điệu. (21)
Rơ ràng có những
nỗ lực
của viên chức chính phủ–do tự ư hay nhận
lệnh thượng cấp–nhằm cản trở công lư
[obstruction of
justice], và bản thân phạm tội dối trá
khi
đă tuyên thệ [perjury].
Những ngày kế tiếp,
t́nh h́nh
Huế cực kỳ sôi động. Suốt đêm mồng
8 rạng
9/5, thanh thiếu niên kéo nhau đi quanh đường phố,
hô to khẩu hiệu đả đảo Diệm. Khoảng 11G00 sáng,
chừng 800
Phật tử tụ họp biểu t́nh. Đẳng yêu cầu họ giải
tán để tránh bị “phản loạn” lợi dụng. Đẳng cũng ra
lệnh giới nghiêm từ 9 giờ tối.
Ngày 9/5, Diệm sai
Bộ trưởng Nội vụ trở lại Huế
giải quyết. Lương áp lực Trí Quang đi theo xe
phóng thanh kêu gọi mọi người ra về. Trí Quang chỉ
ḥa thuận bề ngoài, chưa chịu lùi bước. Theo
Lương, Trí Quang đă âm mưu chống chính quyền
từ năm 1960, với sự xúi dục của Cộng Sản. Đặng
Ngọc Lựu,
thân cận của Trí Quang, cung cấp tin này. (22) (Nhưng tư liệu CS
bác bỏ cáo buộc này: Trước
năm 1963, cán bộ CS không thuyết
phục
được Phật Giáo ngả theo CS chống Diệm).
Chiều 9/5, Phong trào
Cách Mạng Quốc Gia
ở Huế–cánh tay chính trị của chính quyền và Đảng
Cần Lao Nhân Vị Cách Mạng từ năm
1954–tổ chức mít-tinh, lên án Cộng Sản phá
hoại, khủng bố trong đêm 8/5. Rất ít người tham
dự,
và không ai lên diễn đàn. Một số tiểu
đoàn Dù gốc Nùng được điều tới Huế để “bảo vệ trật
tự.” Mật vụ bắt đầu lùng bắt các lănh tụ Phật tử,
và lực lượng an ninh cô lập hàng ngàn người
biểu t́nh trong ṿng rào kẽm gai.( 23)
Ngày 10/5, trong cuộc biểu
t́nh qui
tụ khoảng 5,000-6,000 Phật tử, tăng ni tại
chùa Từ
Đàm, Trí Quang đọc diễn văn, kêu gọi bất bạo
động và Phật tử tiếp tục treo cờ. Sau đó, đại diện
Ủy ban
tranh đấu trao cho Đẳng một Tuyên Ngôn [Manifesto],
đ̣i
hỏi năm [5] điều tương đối ôn hoà: tự do treo
cờ; Phật giáo được hưởng quyền dành cho Ki-tô
giáo qui định trong Dụ số 10 [ngày 6/8/1950];
ngưng bắt
giữ và khủng bố Phật tử; tự do tín ngưỡng; bồi
thường cho
nạn nhân ngày 8/5 và trừng trị những người
có trách nhiệm. Năm người kư tên là
các tăng trụ tŕ các chùa danh tiếng đất
Huế: Ḥa Thượng Tường Vân [tên chùa
Ḥa thượng Tịnh Khiết trụ tŕ], Thượng tọa Mật
Nguyện
[Trần Lộc, 56 tuổi, tu tại chùa Linh Quang],
Mật Hiển
[Nguyễn Duy Quang, 56 tuổi, tu tại chùa Trúc
Lâm],
Trí Quang [Phạm Trí Quang hay Bông, 41 tuổi],
và Thiện Siêu [Vũ Trọng Tường, 43 tuổi, tu tại
chùa Từ Đàm].( 24).
Với đại đa số Phật
tử, “Dụ số 10” nêu trong
Thông Bạch ngày 10/5/1963 có vẻ xa lạ. Dụ
này do Bảo Đại ban hành ngày 6/8/1950,
liên quan đến qui chế các hiệp hội, đảng phái, gồm
5 chương, 45 điều. Điều thứ 44 ghi nhận:
“Chế độ đặc biệt
cho
các hội truyền giáo Thiên chúa và Gia
tô, và các Hoa kiều lư sự hội sẽ ấn định
sau.”( 25)
Điều này có nghĩa các
tổ chức
tôn giáo không Ki-tô như Phật giáo,
Hoà Hảo, Cao Đài, Islam v.. v... đều chỉ được
phép hoạt động nếu có sự đồng ư của chính
phủ.
Thị trưởng Đẳng, “con
nuôi tinh thần” của
Ḥa thượng Tịnh Khiết, Hội chủ Tổng hội Phật
Giáo,
lên diễn đàn xin lỗi về tai nạn đă xảy ra,
và hứa bồi thường cho gia đ́nh nạn nhân. Cẩn cũng
áp lực Trí Quang phải ngưng tranh đấu, t́m
cách giải quyết. Hôm sau, 11/5, Trí Quang triệu
tập
một buổi họp với các giáo sư và sinh viên,
học sinh để giải thích 5 nguyện vọng của Phật
giáo.(26)
Đồng thời, các lănh tụ Phật
Giáo bắt
đầu khai thác cái chết của các nạn nhân tối
Phật Đản, ca ngợi họ như “thánh tử đạo.”
Ngày
12/5, Trí Quang yêu cầu Đẳng cho làm lễ cầu
siêu cho các nạn nhân vào ngày 14/5.
Đẳng không dám tự quyền, đề nghị Phật Giáo thảo
luận với Tư lệnh Quân Đoàn I và Đại biểu
Chính phủ tại TNTP vào hôm sau. Phật Giáo
đồng ư lùi ngày cầu siêu lại một tuần, tức
21/5/1963. Riêng ngày 14/5, chỉ được làm lễ cầu
siêu trong chùa Từ Đàm.
Trong ngày 13/5,
Trí Quang cũng
gặp Đại biểu chính phủ để thảo luận về 5 đ̣i
hỏi
của Phật Giáo. Mặc dù cho rằng những yêu
sách của Phật Giáo “vô căn” [groundless],
viên chức này tuyên bố chính phủ sẽ cứu
xét. Đại biểu chính phủ thêm rằng đ̣i
hỏi của Phật Giáo mang tích cách “tối hậu thư,”
và đây là một sai lầm. (27)
Tại
Sài G̣n, mặc dù Quách Ṭng
Đức đă bí mật hội ư với Mai Thọ Truyền trước
ngày ban hành lệnh cấm treo cờ, Phật tử biểu t́nh
liên tiếp trong hai ngày 7 và 8/5 để chống lệnh
cấm
và đ̣i b́nh quyền tôn giáo.
Ngày 9/5, Thượng tọa Tâm Châu, Phó Hội chủ Tổng
Hội
Phật Giáo Việt Nam, thành lập Ủy Ban
Liên Phái Bảo Vệ Phật Giáo–quyết “Tử V́
Đạo.” Ủy ban Liên Phái qui tụ 11 Hội đoàn, gồm Giáo
Hội
Tăng Già Nam Việt, Giáo Hội Tăng Già Trung
Việt, Giáo Hội Tăng Già Bắc Việt tại miền Nam,
Hội Phật
Học Nam Việt, Hội Phật Giáo Trung Việt, Hội Phật
Giáo Bắc
Việt tại miền Nam [thuộc Tổng hội Phật
giáo Việt Nam;
1960-1965: Hội chủ: Ḥa thượng Tịnh Khiết; Phó Hội
chủ:
Thượng tọa Tâm Châu, Mai Thọ Truyền], Giáo Hội
Thiền Định Đạo Tràng (chùa Phật Bửu, đường
Cao
Thắng; Đạo chủ là Ḥa thượng Minh Trực, có
16 chùa), Giáo Hội Tăng Già Kampuchia [người
Việt gốc Khmer], Hội Phật Giáo Kampuchia [người
Việt gốc Khmer], (chùa Chantareansey, đường
Trương Minh Giảng,
Phú Nhuận; Lục cả Lâm Em), Giáo Hội Tăng
Già Nguyên Thủy [Therevada] (chùa Kỳ
Viên, đường Phan Đ́nh Phùng [người Việt],
Đại Đức Bửu Chơn, Tăng thống), Hội Phật Giáo
Nguyên Thủy [người Việt] (Hội trưởng:
Nguyễn Văn Hiếu;
ngoài chùa Kỳ Viên c̣n có 6
chùa khác: chùa B́nh Đông,
Phú Lâm, G̣ Dưa, B́nh Ḥa
(chùa Phổ Minh) và Đà Nẵng (Tam Bảo)).
Tâm Châu, một tăng di cư, từng vận động chống
việc chiếu phim về Phật Thích Ca, được cử làm Chủ
tịch;
với Mai Thọ Truyền, Tổng thư kư. Văn pḥng đặt tại
chùa Xá Lợi trên đường Bà Huyện
Thanh Quan. (28)
Thượng tọa Tâm Châu cũng
gửi tâm thư cho
các tăng ni mọi cấp, kêu gọi mọi người quyết tâm
bảo
vệ giáo kỳ với tinh thần “tử v́ đạo.” (29) Riêng Thượng tọa
Thiện
Ḥa (1907-1978), Trị sự trưởng Giáo Hội Tăng
Ǵa Toàn Quốc, kêu gọi tinh thần bất bạo
động,
ḥa giải. (30)
Cuộc đàn áp ở Huế
không chỉ tạo
nên tia lửa điện tranh đấu trong hàng ngũ Phật tử
Việt Nam
mà cũng khiến Bộ Ngoại Giao Mỹ đặc biệt quan tâm.
Dù tuyên bố trung lập, Bạch Cung có thiện cảm với
Phật Giáo. Từ Oat-shinh-tân, chiều 9/5 [04G24 sáng
10/5 VN], Ngoại trưởng Dean Rusk chỉ thị Đại sứ
Frederick Nolting
yêu cầu Diệm: (1) Không nên đàn áp Phật
tử, (2) bày tỏ cảm t́nh với gia đ́nh nạn
nhân và giúp tiền an táng, (3) sử dụng những
biện pháp thích nghi để văn hồi trật tự, và
(4) tạo tinh thần thân ái giữa các nhóm
giáo dân.(31)
Trong khi đó, Trung ương
T́nh báo Mỹ
[CIA] ghi nhận Cao Đài và Hoà Hảo đang thảo
luận phối hợp hành động với Phật giáo. Lại cũng có
tin tuyệt thực đă bắt đầu tại Huế từ ngày 12/5.
Theo
Trung tá Trần Văn Thưởng–Giám đốc Cảnh Sát
Công An Trung nguyên Trung Phần, người đă điều tra
về việc đàn áp Phật Giáo ở miền Trung năm
trước–Phật tử dự định biểu t́nh khắp đồng bằng
miền Trung
ngày 21/5. Tại Sài G̣n cũng có tin sẽ biểu
t́nh ngày 21/5.(32)
Do Nolting dàn xếp, ngày
15/5, Tổng thống Diệm
tiếp đại diện Phật giáo tại Sài G̣n. Phái
đoàn này gồm Thượng tọa Thiện Ḥa (Trị sự trưởng Giáo
Hội
Tăng Già Toàn quốc); Thiện Hoa (Trị sự
trưởng Giáo
Hội Nam Việt); Thiện Thái (Trị sự trưởng Giáo
Hội
Bắc Việt), Lâm Em (Trị sự trưởng Chùa
Chantereansey),
Dũng Chí (Phật Giáo Nguyên Thủy),
cùng hai cư sĩ Mai Thọ Truyền (Hội trưởng Hội
Phật học Nam
Việt), và Vũ Bảo Vinh (Hội trưởng Hội
Phật học Bắc Việt).
Phe chính phủ có Bui Văn Lương (Nội vụ) và Paul
Ngô Trọng Hiếu (Công dân vụ).(33)
Theo Việt Tấn Xă ngày
17/5,
về đ̣i hỏi số 1 (rút lại lệnh cấm treo cờ
Phật
giáo), Diệm cho rằng cả Ki-tô lẫn Phật giáo
đă có lỗi về việc treo cờ; chỉ được treo giáo kỳ
trong các thánh đường hay chùa. Về đ̣i hỏi
thứ hai (Dụ số 10), Diệm nói sẽ cứu xét lại. Điểm
3,
về việc bắt giữ Phật tử và tăng ni, Paul Hiếu nói
không hề có “khủng bố.” Lương cũng khẳng định
“không
hề có việc quân đội ném lựu đạn, xe thiết
giáp bắn trọng pháo hay cán vào đám
đông. . . . Sự thật chỉ có hai
trái ḿn từ lực [plastic] do Việt Cộng thừa
lúc lộn xộn mà giựt, v́ Quân đội không
có plastic và căn cứ vào vết tích
c̣n lại.” Diệm nói những người bị bắt có
hành động bất an cho dân chúng và
chính quyền, nếu tha ra, phần tử xấu sẽ lợi dụng.
Điểm 4, về
tự do tín ngưỡng, Diệm xác nhận đó là quyền
hiến định. Điểm 5, về bồi thường, Diệm chỉ hứa sẽ
nghiên cứu
việc trợ cấp. Đại diện Phật giáo đưa thêm hai đề
nghị:
ra Huế thăm viếng những người bị bắt giữ và tổ
chức cầu
siêu cho nạn nhân. Diệm nói sẽ cứu xét
đ̣i hỏi thứ nhất, và đồng ư đ̣i hỏi thứ
hai, với điều kiện chỉ tổ chức trong khuôn viên
các
chùa. Nhưng đại diện Phật giáo, qua buổi họp này,
kết luận rằng Diệm chưa có quyết định nào rơ rệt.
(34) Họ kiên nhẫn chờ
đợi thiện chí của chính
phủ. Có lẽ v́ vậy, Trí Quang đồng ư tu
chính lại 5 nguyện vọng, và ngày 15/5, nhờ
Đẳng chuyển thư cho Cẩn, hứa không tranh đấu nữa.
(35)
Đáng ghi nhận là từ ngày
15/5
này, Bộ trưởng Nội vụ Lương bắt đầu thay “lựu đạn”
bằng hai
trái ḿn từ lực của Cộng Sản mà quân đội
không được cấp phát. Đây là nỗ lực “sửa
sai” đầu tiên của chế độ để chối bỏ tội lỗi (trong
khi măi
tới ngày 25/5, Diệm mới thú nhận là cấp dưới
đă báo cáo sai lạc về một hay nhiều trái
lựu đạn).(36)
V́ sắp qua Greece [Hy
Lạp] nghỉ thường
niên, Nolting khuyên Diệm nên ra tuyên
cáo chính thức về vấn đề Phật Giáo. Nolting cũng
tiếp xúc Khâm sứ Vatican là Salvatore d’Asta
và Linh mục Cao Văn Luận để thuyết phục Diệm.
Theo Bộ trưởng Phủ
Tổng thống Nguyễn Đ́nh
Thuần, thương thuyết với Phật giáo tiến triển tốt
đẹp, nhưng chủ
chốt là chính phủ muốn tránh trách nhiệm.( 37)
Ngày 18/5, khi cùng XLTV
Đại sứ William C.
Trueheart qua chào tạm biệt Diệm, Nolting cố
thuyết phục Diệm
đáp ứng nguyện vọng của Phật giáo. Nolting muốn
Diệm
tuyên bố chịu trách nhiệm về biến cố ở Huế, bồi
thường nạn
nhân, và tái khẳng định chính sách
b́nh quyền tôn giáo và không kỳ thị. (38) Diệm không hứa
điều ǵ.
Diệm vẫn tin, hoặc muốn diễn giải rằng biến cố ở
Huế là do
các lănh tụ Phật giáo khích động; những
người ở Huế chết v́ một hay nhiều trái lựu đạn, do
Cộng
sản hay phe chống chế độ ném, không phải viên chức
chính phủ; và một số lănh đạo Phật giáo lợi
dụng biến cố ở Huế để củng cố thế lực trong nội bộ
Giáo hội.
Dưới mắt Diệm, vấn đề Phật giáo không quá
nghiêm trọng như Mỹ tưởng nghĩ.(39) Dù được xem
những khúc phim về cuộc
đàn áp Diệm không thay đổi lập trường.(40)
Diệm chỉ cách chức
Đẳng, đưa Nguyễn Văn
Hà ra Huế. Đồng thời, bổ nhiệm Nguyễn Xuân Khương,
đương kim Tổng Giám Đốc Điền Địa, làm Đại
biểu Trung Nguyên Trung Phần, hiệu lực từ ngày
1/6/1963.
Cho rằng chính
phủ kỳ thị Phật
Giáo, tăng ni quyết tranh đấu đến cùng. Ngày 19/5,
Ḥa thượng Tịnh Khiết thông báo cho Đại biểu
TNTP và Tư lệnh QĐ I rằng đă cho hai Thượng tọa
Mật
Nguyện và Trí Quang tuyệt thực để cầu cho nguyện
vọng của
Phật Giáo.(
41) Ngày 23/5, năm
lănh tụ Phật giáo, gồm
cả Tịnh Khiết, ra tuyên ngôn khẳng định lập trường
bất bạo
động và phi chính trị, nhưng cương quyết đ̣i
chính phủ phải thỏa măn đ̣i hỏi của Phật
Giáo “trong một thời [gian] càng sớm càng tốt,”
đồng thời ngưng ngay những cuộc “khủng bố, bắt
giữ.” ( 42)
Tại Sài G̣n, sáng ngày
21/5, 600
tu sĩ làm lễ cầu siêu cho nạn nhân ở Huế, rồi
diễn hành từ chùa Ấn Quang đến Xá Lợi.
Bốn ngày sau, Ủy Ban Liên Phái ra tuyên
cáo ủng hộ 5 nguyện vọng của Phật Giáo, và hứa
đoàn kết tranh đấu cho bằng được các nguyện vọng
trên. (43)
Phần chính phủ vẫn im
lặng khó hiểu.
Mặc dù từ ngày 24/5 các chuyên viên y
khoa khẳng định rằng thương tích nạn nhân ở Huế
đêm
8/5 không do mảnh lựu đạn gây nên Diệm vẫn chẳng
tỏ
một thái độ ḥa giải nào. (44)
Các lănh đạo Phật Giáo bèn
quyết
định mở rộng cuộc tranh đấu: Ngày 28/5, Tâm Châu
thông báo với Diệm là sẽ tổ chức tuyệt thực trong
ṿng 48 giờ, kể từ 14 giờ ngày 30/5/1963.(45)
Hôm sau, 29/5, báo
chí mới đăng
thông cáo của Diệm, khẳng định quyền tự do và
b́nh đẳng tín ngưỡng được qui định trong điều 17
của Hiến
Pháp; nhưng vẫn bảo vệ lệnh treo cờ, v́ quốc kỳ
phải
có địa vị tối thượng, và khẳng định chính phủ
“không hề có ư nghĩ phân biệt đối xử với bất
cứ tôn giáo nào.”( 46)
Thời gian này, báo
chí Mỹ cũng
ra sức ủng hộ Phật Giáo. Gây chấn động
nhất
là bài trên tuần báo Newsweek số đề
ngày 27/5/1963, vạch trần sự lộng hành của tập
đoàn cai trị Ki-tô của Thục cùng các “quan”
ở Huế.( 47) Ngày 29/5, tại Mỹ,
báo New
York Times [New York Thời Báo] cũng khai
thác ngay
bản tin của Ủy Ban Liên Phái, tường thuật rằng
Phật tử rất
bất măn về cách đối xử của Diệm, và đang chuẩn bị
đấu tranh tuyệt thực, đồng thời tổ chức cầu siêu
trong
ṿng 4 tuần lễ. David Halberstam–một kư giả lập
nên
sự nghiệp nhờ chiến tranh Việt Nam và chủ trương
nhà
Ngô phải ra đi–thuật lại rằng trong buổi họp ngày
15/5,
Diệm đă lên án các tăng sĩ là “bọn
khùng” [damn fools] khi đ̣i hỏi b́nh đẳng
tôn giáo, v́ quyền này đă được
Điều 17 của Hiến pháp (một bộ tiểu thuyết luật
pháp
và nhân quyền) bảo đảm.
Bộ Ngoại Giao
Mỹ vội thông báo cho
Trueheart về nội dung bài báo trên, đồng thời
chỉ thị Trueheart phải đích thân gặp Diệm, thuyết
phục
Diệm thỏa măn nguyện vọng của Phật giáo. (48) Hôm sau, Bộ Ngoại
Giao đồng
ư cho Trueheart gặp Khâm sứ Vatican, nhờ khuyên
bảo
Diệm về vấn đề Phật Giáo. (49)
Trueheart chưa kịp gặp
Diệm, Phật Giáo đă
hành động. Ḥa thượng Tịnh Khiết–đúng hơn
nhóm lănh đạo tranh đấu–chỉ thị cho các tăng sĩ
tuyệt thực 48 tiếng đồng hồ kể từ 2 giờ chiều ngày
30/5.
Ngày này, tại Sài G̣n, 350 tăng ni biểu
t́nh trước Quốc Hội, rồi tuyệt thực. (50) Tại Huế, dù chùa Từ
Đàm bị cô lập, các cấp lănh đạo Phật
giáo vẫn tuyệt thực. Khoảng 3,000 Phật tử bị vây
hăm trong ṿng rào kẽm gai. Tại Quảng Trị, Phật tử
biểu t́nh trong trật tự.
Ngày Thứ Bảy, 1/6,
đúng ngày Tỉnh
trưởng Đẳng, Phó Nội an Sỹ và Đại biểu Trung phần
bị thay thế, nhiều đoàn Phật tử Huế tụ họp tại một
số địa điểm
trong thành phố, kể cả Dinh tỉnh trưởng và Ṭa
Đại biểu chính phủ miền Trung. Khoảng 10,000 người
tụ họp
trước chùa Từ Đàm. Sau đó giải
tán do yêu cầu của các tăng sĩ. Đỗ Cao
Trí điều Nhảy Dù và M-113 từ Quảng Trị vào
Huế đề pḥng bất trắc.( 51)
Tại Đà Nẵng, Phật
tử cũng tổ chức
tuần hành không bạo động vào ngày 1/6,
do các tăng ni dẫn đầu. Tối hôm trước, 31/5, Đại
tá Lâm Văn Phát, Tư lệnh Sư đoàn 2 BB–một
giáo dân Ki-tô tân ṭng, thường tự
chứng tỏ là rất trung thành với chế độ–cho lệnh
các đơn vị dưới quyền chuẩn bị chống biểu t́nh.
Chiều
1/6, một xe vận tải hai tấn rưỡi (GMC) của quân
đội chở đầy đạn
bỗng dưng bị hư máy ở một ngă tư cách Toà
Thị chính một khu phố về phía Bắc. Cấp chỉ huy bèn
phái một xe GMC khác tới tháo rỡ đạn, dưới sự bảo
vệ an ninh của một đơn vị tác chiến. Quân Cảnh,
Cảnh
Sát và Công An cũng chặn đường từ phía Nam
lên Toà Thị chính.
Kế hoạch của Phát
không đủ ngăn cản Phật
tử biểu t́nh trong trật tự. Các tăng ni dẫn đầu
một
đoàn phụ nữ và thiếu niên diễn hành qua
đường phố, với khẩu hiệu đ̣i tự do tín ngưỡng và
b́nh quyền tôn giáo. Tới trước cửa Toà Thị
chính, 7 nhà sư rời đám đông, biểu
t́nh ngồi; trong khi Phật tử tiếp tục cuộc diễn
hành, rồi
giải tán.
Giữa lúc Phật tử đang
biểu t́nh,
Phát vào gặp Thị trưởng Hà Thúc Luyện, cho
lệnh phải dời 7 nhà sư đang ngồi trước Toà Thị
chính, và giải tán cuộc diễn hành, cho dẫu
“đích thân Thị trưởng phải ném lựu đạn vào
đám đông.” Luyện, dù là một cán bộ
Cần Lao cao cấp thân tín của Cẩn, từ chối. Trong
đêm
2/6, Phát điều thêm một số đơn vị khác vào
thành phố. Một đại đội tăng cường cho Ty Công An
Đà Nẵng (đối diện khách sạn). Phần quân
nhân Phật tử bị cấm trại. Trong đêm, 7 nhà sư bị
bắt
đi mất tích. Hôm sau, 3/6, Luyện bị cất chức Thị
trưởng;
vào Sài G̣n tŕnh diện. Trung tá
Trần Ngọc Châu, Tỉnh trưởng Kiến Hoà, một Phật tử
gốc miền
Trung, ra thay. (52)
Trong khi Đà Nẵng đang sôi
động, ngày
2/6, Phật tử Quảng Trị lại biểu t́nh. Chính quyền
đàn áp bằng lựu đạn cay. Giao thông với Huế bị cắt
đứt. (53)
Chiều hôm sau, 3/6, tại
Huế, khoảng 500 thanh
niên tụ họp trước Ṭa Đại Biểu Trung Phần. Quân
đội “dàn chào” bằng lưỡi lê và lựu đạn cay.
Các nẻo đường dẫn đến chùa bị phong tỏa bằng kẽm
gai.
Phật tử biểu t́nh ngồi. Binh sĩ dùng lựu đạn cay
giải
tán. Trong khi đó, Trí Quang đă tuyệt thực
nhiều ngày, sức khoẻ suy giảm. Đại tá Trí ra
lệnh giới nghiêm. Khoảng 18G30, quân đội lại tấn
công
mạnh Phật tử biểu t́nh tại chợ Bến Ngự. Dùng cả
chất
hóa học (blister gas), khiến 67 nạn nhân bị nôn
mửa,
lưu lại vết bỏng trên da.( 54)
Được báo cáo, ngày 3/6
[sáng
4/6 Việt Nam] Bộ Ngoại Giao Mỹ hai lần chỉ thị
Trueheart phải yêu
cầu Diệm hoà giải với Phật giáo và báo
cáo rơ hơn về khói hóa học sử dụng để
đàn áp Phật tử.( 55) Trueheart vội đến gặp Thuần vào
khoảng 11G45 ngày 4/6. Khác
với Nolting, Trueheart trở lại thái độ công khai
áp
lực mà cựu Đại sứ Elbridge Durbrow đă áp dụng.
Trueheart cảnh cáo rằng Mỹ có thể ngưng yểm trợ
nếu
c̣n đàn áp Phật Giáo. Thuần tiết lộ Hội
đồng chính phủ đă đề nghị thành lập một Ủy Ban
Liên Bộ [UBLB] để cứu xét các đ̣i hỏi của
Phật Giáo như Trueheart yêu cầu từ ngày 1/6,
và Diệm đă chấp thuận. Nhu cũng hứa sẽ tiếp xúc
với lănh tụ Phật Giáo. Ngay chiều đó, Thuần
c̣n mời Trueheart tới tư dinh, nói đă thành
lập một ủy ban điều tra về hơi độc ở Huế, do Đại
tá Nguyễn
Văn An, và Trung tá Y sĩ Liêm cầm đầu. Diệm cũng
sẽ
tuyên bố thành lập UBLB, gồm Phó Tổng Thống Thơ,
Lương, và Thuần.( 56)
Nhưng khoảng 17G00, Bộ Tư
lệnh Quân viện Mỹ tại Việt
Nam [MAC-V] lại xin ư kiến Trueheart về việc Bộ
Tổng Tham Mưu
yêu cầu MAC-V không vận 300 Cảnh sát từ Vũng
Tàu ra Huế. Trueheart không chấp thuận.( 57)
III. TUYÊN CÁO CHUNG
16/6/1963:
Do áp lực Mỹ, từ giữa
tháng 5/1963,
Diệm đă gặp lănh tụ Phật Giáo để thảo luận về
5 đ̣i hỏi ngày 10/5. Tuy nhiên, chế độ chỉ muốn
kéo dài thời gian để vô hiệu hóa dần cuộc
tranh đấu. Họ Ngô không muốn nhận trách nhiệm
v́ cho đó là nhược điểm. Diệm cũng không
muốn thỏa măn các nguyện vọng ngày 10/5 v́
sợ Phật Giáo sẽ tiếp tục đ̣i hỏi nhiều hơn. Áp lực
khuyên Diệm ḥa hoăn của Mỹ th́ được giải
thích theo một ư nghĩa khác–thực ra, chế độ Diệm
đang rơi vào một cuộc khủng hoảng niềm tin với Mỹ,
và Nhu
đang bí mật ve văn Cộng Sản với sự tiếp tay của
Pháp và India. (58)
Trong khi đó, lănh tụ Phật
Giáo
khéo léo phối hợp giữa biểu t́nh và ngoại
giao, nhất là việc sử dụng các cơ quan truyền
thông
quốc tế. Một số giáo chức Tây Germany [Đức] và
kư giả ngoại quốc cũng tích cực tiếp tay. (59)
Biến cố gây
xúc động nhất là
cuộc tự thiêu của Thượng tọa Quảng Đức ở Sài
G̣n ngày 11/6/1963. Có thể nói lần đầu
tiên mới có một cuộc đấu tranh tinh xảo đến thế.
Bởi vậy,
Mỹ không ngừng áp lực Diệm phải giải quyết cuộc
khủng
hoảng.
Ngày 16/6, Diệm
và Tịnh Khiết ra một
Thông cáo chung. Nhưng Diệm không thực tâm thi
hành những điều đă kư kết. Thục và vợ chồng
Nhu-Lệ Xuân cũng t́m mọi cách ngăn chặn việc thực
thi tuyên cáo ngày 16/6. Phật giáo
không lùi bước.
A. THƯƠNG THUYẾT:
Chiều ngày 5/6/1963, Ủy Ban
Liên Bộ [UBLB]
cùng các Thượng Tọa Thiện Minh và Thiện Hoa ngồi
vào bàn thương thuyết. Ngay sau buổi họp đầu, cả
đôi bên đều thất vọng về sự thiếu thành khẩn của
nhau. Dẫu vậy, Thuần cùng Thiện Minh, phụ tá của
Trí Quang, bí mật đạt được thỏa thuận sơ khởi trên
5 đ̣i hỏi của Phật giáo, với điều kiện phải được
Diệm
phê chuẩn. (
60) Hôm sau, 6/6, hai
bên đồng ư chính
phủ sẽ rút quân đội và an ninh khỏi vùng
lân cận các chùa, Đỗ Cao Trí ngừng biểu
dương vơ lực. Ngược lại, Phật giáo ngừng tuyên
truyền chống chính phủ.
Thiện Minh lập tức
lên đường ra Huế tường
tŕnh về những điều thỏa thuận với UBLB, mang theo
một cư sĩ
quen biết Thuần để bảo đảm rằng những phần tử “quá
khích”
[extremist elements] không phá hoại thương
thuyết.
Theo dự trù, Tịnh Khiết, đang tuyệt thực ngoài
Huế, cũng
sẽ vào Sài G̣n kư tuyên cáo
chung.( 61)
Ngày 6/6 này, Diệm đọc
một diễn văn truyền
thanh ngắn, kêu gọi mọi người hăy b́nh tĩnh
v́ chính phủ cần thời gian để giải quyết cuộc
khủng
hoảng.( 62)
Nhưng tại Huế, t́nh h́nh
thêm căng thẳng.
Trong ngày 5/6, bạo động lại diễn ra khiến 4 Phật
tử chết, hơn
100 bị thương và hơn 1,000 người bị bắt. Hai sinh
viên bị
mất tích. 3 y sĩ Germany [Đức] và 2 y sĩ Mỹ đang
phục
vụ tại Huế đă tích cực giúp đỡ Phật tử. Diệm
bèn cho lệnh hai y sĩ Germany, Erich Wulff và Hans
Holterscheidt, phải lập tức rời cố đô. Sau đó,
trục xuất
họ khỏi Sài G̣n với lư do “không được ưa
chuộng” [Persona Non Grata].( 63)
Chính quyền Huế c̣n
ngưng tiếp tế cho
những người biểu t́nh bị cô lập. Lănh sự John J.
Helble báo cáo rằng t́nh trạng thực phẩm và
nước uống tại chùa Từ Đàm đă ở mức
báo động đỏ. Phi cơ chính phủ th́ rải truyền đơn
đả kích Trí Quang và đ̣i bắt giữ cả Tịnh
Khiết.( 64)
Tại Sài G̣n, thái độ
họ Ngô
cũng đột ngột cứng rắn. Vợ chồng Nhu-Lệ Xuân công
khai
trách mắng Thuần đă nhân nhượng quá nhiều.
Ngày 7/6, Phong Trào Phụ Nữ Liên Đới
[PTPNLĐ] của Lệ Xuân ra “quyết nghị” lên án
những cuộc biểu t́nh chống chính phủ là chống lại
chính nghĩa quốc gia (anti-nationalist), bị “Cộng
sản khai
thác và lợi dụng, dẫn đến hỗn loạn và trung lập.”
Và yêu cầu chính phủ không thể tiếp tục im
lặng trước những mưu toan chính trị, lập tức trục
xuất những
ngoại nhân chuyên phá hoại, dù mặc áo
thày tu hay không, đặc biệt là những kẻ mưu toan
biến Việt Nam thành chư hầu ngoại bang.( 65) Quyết nghị
này được trao cho báo chí ngày hôm
sau, 8/6/1963.
Ngày này, Trueheart gặp
Thuần về quyết
nghị của PTPNLĐ trên nhưng Thuần thú
nhận
ḿnh không giải quyết được ǵ. Chiều đó,
Truehart vào Dinh Gia Long, đích thân phản đối lời
tuyên bố của vợ Nhu, và dọa sẽ công khai không
ủng hộ chính sách Phật giáo của Diệm. Diệm
nói không thể bác bỏ quyết nghị của PTPNLĐ,
v́ đây là một hội đoàn tư nhân, nhưng
sẽ cho lệnh Bộ trưởng Nội vụ phải để những người
biểu t́nh tại
chùa Từ Đàm được tiếp tế lương thực và
nước uống. Diệm cũng nói không biết ǵ về việc phi
cơ chính phủ thả truyền đơn sỉ nhục lănh tụ Phật
giáo. Sau đó, Diệm khẳng định lập trường: Sẽ
thương
thuyết trong thế mạnh; Phật giáo vi phạm lời cam
đoan tạm ngưng
chiến dịch tuyên truyền, tiếp tục phát tài liệu
cho
báo chí ngoại quốc (như Thiện Minh đă tiết lộ về
những điều khoản thỏa thuận); Phật giáo thiếu
thành
tín (bad faith). Lần đầu tiên, Diệm thú
nhận
với Trueheart rằng chính quyền địa phương bất lực
trong việc đối
xử với Phật giáo; v́ măi đến ngày 24/5–tức
hơn hai tuần lễ sau cuộc thảm sát ở Huế–chuyên
viên
y khoa mới báo cáo là thương tích
không do mảnh lựu đạn gây nên. Nhưng Diệm nhấn
mạnh
sẽ sử dụng mọi biện pháp cần thiết để duy tŕ trật
tự nếu
hỗn loạn tiếp tục.( 66)
Hôm sau, 9/6, báo Times
of Vietnam [Việt
Nam Thời Báo] đăng nghị quyết ngày 7/6 của
PTPNLĐ. Báo này nhấn mạnh vai tṛ các
tăng sĩ Nam tông (Therevada) trong những
cuộc rối loạn
hiện nay. Hàm ư là phe Nam tông có
liên hệ với chính sách trung lập hoá miền
Nam của Charles de Gaulle và Norodom Sihanouk. Các
báo Việt ngữ không đăng. Diệm cũng cho lệnh đài
phát thanh không nhắc đến lời Lệ Xuân đả kích
Phật Giáo. Tuy nhiên, lệnh này ban hành sau
khi đài Sài G̣n đă phát thanh
vài ba lần.
Tại Huế, số Phật
tử bị phong
tỏa đă 3 ngày không có nước uống, thực
phẩm và thuốc men. Một số tư nhân mang tặng thực
phẩm,
nước uống. Chính phủ cho chụp h́nh, loan báo
đó là do chính phủ cung cấp. Trong khi đó,
điện thoại với Sài G̣n bỗng dưng bị “hư.” Lănh sự
Helble không thể liên lạc được với Trueheart.
Thuần cũng
lâm vào cảnh tương tự. Phi cơ chính phủ tiếp tục
rải truyền đơn, tố cáo Trí Quang là Cộng Sản.
Đây là bước chuẩn bị cho việc bắt giữ các
lănh tụ tranh đấu–v́ chỉ cần “liên hệ với phiến
Cộng” đă là trọng tội, có thể bị kết án từ
khổ sai tới tử h́nh. Không ít người đă bị
tra tấn đến chết hay thủ tiêu. (67)
Tại Oat-shinh-tân, trưa
ngày 8/6 [đêm 8
rạng 9/6 tại Việt Nam], Ngoại trưởng Rusk chỉ thị
Trueheart yêu
cầu Diệm bác bỏ nghị quyết của PTPNLĐ, rút lại Sắc
luật số 10, và cần xác định chính phủ duyệt trước
hay chăng lời tuyên bố của Lệ Xuân. Lời tuyên bố
của
Lệ Xuân, Rusk nhấn mạnh, làm suy giảm vị thế của
VNCH,
và tổn hại uy tín của Mỹ, có thể gây
khó khăn cho việc tiếp tục yểm trợ VNCH tại Quốc
Hội cũng như dư
luận Mỹ. (68) Ngày 9/6, Trueheart gặp Thuần,
cho biết chỉ thị của BNG Mỹ. Rồi đả kích việc
chính phủ
đang chuẩn bị phản biểu t́nh vào ngày 10 hay 11/6.
Kế hoạch phản biểu t́nh của Paul Hiếu này gồm có
những thủ thuật sử dụng “sư giả” từ các tỉnh,
Thanh Niên
Cộng Hoà và bọn tệ đoan xă hội Chợ Lớn giả
làm sư. Trueheart cảnh cáo rằng nếu quả thực như
vậy, cần
phải ngừng ngay. Trueheart cũng nêu lên vấn đề
giáo
dân Đà Nẵng đang chuẩn bị ra nghị quyết cách
chức Thiếu tá Thiệt, Tỉnh trưởng Quảng Nam, nhân
dịp
làm lễ cầu hồn cho Giáo hoàng John XXIII
(1958-1963) vào ngày 10/6. Nếu đúng sự thực, cần
chấm dứt ngay. Trueheart c̣n nêu lên vấn đề 4
kư giả (Michaud của AFP, Sheehan của UPI, Browne
của AP
và Parry của báo NY Times) đă bị bắt giữ 1
giờ đồng hồ tại Quận 3. Hành động này, Trueheart
bảo
thẳng Thuần, là “khùng” và bất lợi. ( 69)
Măi tới 9 giờ sáng
ngày
Thứ Hai, 10/6, Thuần mới gặp Trueheart để
phúc đáp.
Thuần nói đă tŕnh bày với Diệm và
Nhu về những đề nghị của Mỹ. Về Sắc luật số 10,
Diệm không
có quyền rút lại. Quyết nghị của PTPNLĐ không
phải là “tuyên bố của bà Nhu,” mà là
của “một tổ chức đại chúng” (cả Thuần lẫn
Trueheart đều mỉm
cười). Diệm đă điện thoại cho Paul Hiếu
trước mặt Thuần về
vấn đề tổ chức phản biểu t́nh. Hiếu chối không có
kế hoạch đó. Cũng không có kế hoạch đ̣i
cách chức Tỉnh trưởng Quảng Nam. Đang dàn xếp cho
những người trong chùa Từ Đàm ở Huế ra về
không gặp trở ngại, ngoại trừ các công chức.
Chính phủ không đứng ra tổ chức lễ cầu hồn cho
John XXIII.
Diệm vẫn muốn thương thuyết, nhưng cần cô lập
những thành
phần quá khích. UBLB sẽ họp lúc 10G00 để
nghiên cứu lá thư mới nhất của UB Tranh đấu Phật
giáo.( 70)
B. NGỌN LỬA CÚNG
DƯỜNG ĐẠO
PHÁP:
Biến cố khiến cuộc
tranh đấu của Phật giáo được
dư luận thế giới chú ư nhất là cuộc tự thiêu
của Thượng tọa Quảng Đức tại ngă tư Phan Đ́nh
Phùng-Lê Văn Duyệt Sài G̣n (ngay trước
Ṭa Đại sứ Kampuchea).
Thượng
Tọa Thích Quảng Đức (1897-1963)
(ảnh cuả quangduc.com)
Quảng Đức, tục danh Lâm Văn
Tức (1897-1963), đang
tu tại chùa Quán Thế Âm trên đường
Nguyễn Huệ, Gia Định. Lúc 9G30 sáng ngày
11/6–giữa lúc Diệm và hầu hết nhân viên cao
cấp trong chính phủ đang tham dự buổi quốc lễ cầu
hồn cho
Giáo Hoàng John XXIII– chiếc xe Austin của một
Phật tử,
dưới sự dẫn đường của một đoàn 400-500 tăng sĩ,
đưa Quảng
Đức tới chỗ hóa thân. Địa điểm này được
các tăng ni làm hàng rào cản không
cho Cảnh sát can thiệp. Số khán giả ṭ ṃ
lên tới khoảng 500 người, ngày càng đông. Một
số kư giả như Sheehan của hăng UPI cũng được báo
trước. Từ xe bước xuống giữa ngă tư, Quảng Đức
ngồi xuống
theo thế thiền định, nhờ một Đại đức đổ xăng lên
thân
thể ḿnh, rồi tự tay châm lửa bằng diêm (quẹt).
Malcolm Browne, nhân viên hăng AP, thu được tấm
h́nh này–bức h́nh rồi sẽ gây chấn động dư
luận thế giới. (71) Trưa đó, khoảng 400 tăng sĩ đưa
thi hài Quảng Đức tới chùa Xá Lợi. 2,000 Phật
tử cũng lũ lượt kéo nhau tới chùa. Khoảng 1,000
Cảnh
sát tới “bảo vệ an ninh,” nhưng các tăng ni được
di
chuyển tự do. (72)
Khoảng 12G30, quân đội
được lệnh cấm quân.
Bảy tiểu đoàn Dù nhận lệnh ứng chiến. Đại tá
Lê Quang Tung tăng cường 2 Đại đội Lực Lượng Đặc
Biệt
[LLĐB] cho Sài G̣n, trí quân trong phi
trường Tân Sơn Nhất. Nhân viên Mỹ được nghỉ sớm,
và khuyến cáo không nên đến gần các
đám biểu t́nh. (73)
Phần Trueheart tới gặp
Thuần tại tư dinh, bảo thẳng Thuần
rằng Diệm phải có thái độ ngay chiều đó, bằng
không Mỹ sẽ tuyên bố không liên hệ đến
chính sách tôn giáo của Diệm. Khi Thuần hỏi
có thể dẫn lời Trueheart cho Diệm và Nhu nghe được
không, Trueheart đồng ư. Trueheart cũng lưu ư
Thuần
về kháng thư của PTPNLĐ đăng trên Times of
Vietnam
sáng đó để phản đối hăng UPI khi gửi đi bản tin
của Sheehan; và cảnh cáo rằng nếu đây là
bước đầu để trục xuất Sheehan th́ là một điều “ngu
xuẩn”
(stupid). (74)
Phó Tổng thống Thơ và
Ngoại trưởng Vũ Văn
Mẫu cũng vào yêu cầu Diệm phải có hành động
tức khắc, đồng thời chỉ thị UBLB xúc tiến nhanh
việc thương
thuyết với Ủy Ban Liên Phái Phật Giáo Tranh
Đấu. (75)
Ngay tối 11/6 đó, Diệm đọc
diễn văn, cam kết là
“phía sau Phật Giáo trong nước c̣n có Hiến
Pháp, tức là có tôi.” (76) Diệm hy vọng diễn văn
truyền thanh của
ḿnh sẽ trấn an dư luận cho tới hôm sau, khi UBLB
gặp mặt
Ủy Ban Liên Phái.
Tại Oat-shinh-tân, gần
nửa đêm 11/6 [gần
trưa 12/6 tại Việt Nam], Rusk chỉ thị cho
Trueheart: “Nếu Diệm
không có những bước cấp tốc và hiệu lực để giải
quyết cuộc khủng hoảng để gây lại niềm tin của
Phật tử,
chúng ta sẽ phải tái duyệt xét việc ủng hộ chế độ
Diệm.” (77)
Tối ngày 12/6, Trueheart
mới gặp được Diệm.
Không những thông báo cho Diệm biết cuộc tự
thiêu của Quảng Đức đang gây sôi nổi dư luận thế
giới, Trueheart c̣n trao cho Diệm một văn bản cảnh
giác–theo đúng chỉ thị của Rusk–là Mỹ có
thể sẽ công khai tuyên bố không ủng hộ chính
sách Phật giáo của Diệm. Trước khi kiếu từ,
Trueheart
nêu lên 3 điểm:
2. Chính phủ không
thể truy tố những người “giúp” Quảng
Đức tự
thiêu. (Diệm nói có người giúp Quảng Đức
đổ xăng lên ḿnh, và châm lửa. Trueheart nhấn
mạnh rằng hai nhân chứng đích mắt thấy Quảng Đức
tự
ḿnh tưới xăng và châm lửa).
3. Có tin chính
phủ đang cấm các tăng ni từ các tỉnh vào
Sài G̣n. (Cả Diệm lẫn Thuần trả lời là v́
lư do an ninh. Diệm thêm rằng Quốc Hội đang
thành
lập tiểu ban nghiên cứu việc sửa đổi Sắc Luật số
10). (78)
C. THÔNG
CÁO CHUNG:
Từ sáng 12/6,
Hoà thượng Tịnh Khiết
cùng Trí Quang và Thiện Minh rời Huế vào
Sài G̣n để thương thuyết với UBLB. Ba lănh tụ Phật
giáo tới phi trường Tân Sơn Nhất lúc 13G15,
và tạm trú tại chùa Xá Lợi. (79) Phó TT Thơ viết
thư yêu
cầu hai bên họp ngay lúc 18G00 hôm đó để giải
quyết mau chóng các đ̣i hỏi của Phật giáo.
Phật giáo muốn tŕ hoăn ít ngày để
bàn bạc với các đại diện miền Nam, nên nêu
lư do Tịnh Khiết c̣n yếu sau 5 ngày tuyệt thực,
cần tĩnh dưỡng ít lâu. Thơ lại đề nghị gặp nhau
hôm
sau, giờ và địa điểm do Phật giáo chọn. Cuối cùng,
Phật giáo đề nghị họp ngày 14/6, với điều kiện
chính phủ nhân nhượng toàn bộ 5 đ̣i hỏi
ngày 10/5/1963. ( 80)
Ngày 14/6, phái đoàn
Phật
Giáo do Thiện Minh làm Trưởng đoàn–gồm Thiện Hoa,
Tâm Châu, Huyền Quang (Thư kư), và Đức
Nghiệp (Phó Thư kư)–bắt đầu họp với UBLB. Do áp
lực của Trueheart, ngay sáng hôm đó, chính
phủ nhượng bộ đ̣i hỏi thứ nhất: đồng ư cho Phật tử
treo
cờ. Trong phiên họp chiều, đồng ư sửa lại Sắc luật
số 10.
Để tỏ thiện chí, Tịnh Khiết kêu gọi Phật tử tạm
ngưng
biểu t́nh. (
81)
Hôm sau, khoảng 18G30,
thương thuyết hoàn tất.
Ngày Chủ Nhật, 16/6, hai bên ra thông cáo
chung với những điều khoản sau: Ngưng áp dụng Dụ
số 10; cứu
xét lại những khiếu nại của Phật Giáo; xác nhận tự
do tôn giáo; sẽ “trợ cấp” (không “bồi thường”) cho
gia đ́nh nạn nhân ở Huế. Tịnh Khiết và Diệm
cùng kư vào Tuyên Cáo–nhưng Diệm
không kư ngang chỗ “Khán” của Tịnh Khiết mà
ghi vào góc trên của bản Thông cáo
chung như sau: “Những đều được ghi trong thông
cáo nầy
th́ đă được tôi chấp nhận nguyên tắc ngay từ
đầu; Ngô Đ́nh Diệm.” (82)
Trong khi thương thuyết
đang diễn ra, Phật tử và một
số lănh tụ Phật giáo thiên về bạo động hơn.
Ngày 13/6, Phật tử khắp nơi treo cờ Phật Giáo,
chống lệnh
cấm của Diệm (thực ra Diệm đă bí mật đồng ư). Buổi
lễ cầu siêu cho Quảng Đức ngày 16/6 tại chùa Xá
Lợi qui tụ hàng chục vạn người. Hơn 500,000
thanh
niên, hoc sinh và Phật tử xuống đường biểu t́nh.
Xô xát Cảnh Sát kéo dài 45
phút trước chùa. (83) Buổi tối, Thiết Giáp phải
tăng cường cho Cảnh
Sát. Một thiếu niên 15 tuổi bị tử thương v́
trúng đạn ở đầu. 3 tăng và 2 Phật tử bị thương.
Hàng ngàn người bị bắt giữ. (84)
Ba ngày sau, 19/6,
nhờ Cảnh Sát,
Công An nỗ lực ngăn chặn Phật tử tham dự, lễ
hỏa táng
Quảng Đức bớt hỗn loạn hơn.
IV.
GIAI
ĐOẠN “HƯU CHIẾN,” 19/6-20/8/1963:
Thông cáo chung ngày
16/6/1963
là cơ hội tốt nhất cho chính phủ Diệm giải
quyết
cuộc khủng hoảng Phật Giáo. Nhưng v́ những nguyên
do thầm kín, họ Ngô quyết định không tôn trọng
những điều đă cam kết. Phật Giáo chẳng phải không
đề pḥng. Lănh đạo Phật Giáo chỉ tạm thời “ngưng
chiến” trong ṿng 2 tuần lễ, chờ đợi thành tâm của
chính phủ.
A. NỖ LỰC
PHÁ HOẠI
THÔNG CÁO CHUNG 16/6/1963:
Có dấu hiệu cho thấy
vợ chồng
Nhu-Lệ Xuân muốn phá hoại việc thực hiện
thông cáo chung với Phật giáo.
Một mặt, Nhu vận động các
hội Phật giáo độc lập
chống lại cuộc tranh đấu. Ngày 20/6, Phật Giáo
Cổ Sơn
Môn –mới thành lập tại chùa Giác
Lâm, Chợ Lớn; do Huệ Tâm, Hoà thượng trụ
tŕ chùa Trung Nghĩa, Sa Đéc, thủ lĩnh Lục
Ḥa Tăng làm Tăng thống–tuyên bố
ủng hộ chính sách tôn giáo của chính
phủ, và đứng ngoài chính trị.( 85) Nhu c̣n cho
lệnh cắt bỏ đoạn phim thời sự về cuộc thương
thuyết giữa chính
phủ và Phật giáo.
Mặt khác, Nhu sai các tỉnh
tổ chức
mít-tinh lên án phong trào tranh đấu
của Phật giáo và phong tỏa các chùa chiền.
Đoàn viên Thanh Niên Cộng Hoà [TNCH]
mặc đồng phục xanh dương đậm đi lấy chữ kư để ra
thỉnh nguyện
thư phản đối bản thông cáo chung 16/6/1963, và
chuẩn bị biểu t́nh đ̣i xét lại thông
cáo chung này. Bản thông cáo số 3 của TNCH
đệ tŕnh lên “Tổng thủ lănh” Nhu đề ngày
25/6/1963 gồm nhiều lời đả kích Phật giáo nặng nề
như “dị
đoan cuồng tín,” “phản loạn, tay sai của kẻ thù
chung,”
v.. v... Đồng thời, lên án Tuyên cáo
chung 16/6/1963 là “không phù hợp với lư
tưởng của TNCH, co đặt những đặc quyền và độc
quyền cho một
nhóm, có những chủ trương trái với luật lệ
hành chánh.” (
86) Trước sự phản
kháng của Phật giáo, ngày
1/7/1963, TNCH lại ra Tuyên cáo số 4, ám chỉ
lănh tụ Phật giáo tranh đấu liên hệ với bọn phản
loạn và phản quốc, trong khi đích thân Tổng thủ
lănh “cảnh giác để không cho phép bọn đầu cơ
chính trị và Cộng Sản lợi dụng Thông cáo
chung [16/6] đó hầu làm sai lệch nó ra
ngoài phạm vi tôn giáo.”( 87)
Lệ Xuân th́ cho
PTPNLĐ họp
tại trụ sở trung ương ngày 16/6, dùng
loa
phóng thanh công bố Quyết nghị ngày 7/6. Rồi ra
một Bạch thư [Sách trắng], do vợ chồng
Gene và
Ann Gregory, chủ nhiệm báo Times of Vietnam
soạn thảo,
đăng trên chính tờ Times of Vietnam số ra
ngày 17/6, miệt thị cuộc tranh đấu của Phật giáo,
tố
cáo cuộc tranh đấu không v́ lư do tôn
giáo mà chỉ v́ lư do chính trị. ( 88)
Rồi đến kế hoạch ăn
mừng lớn suốt ba ngày, từ 25
tới 27 tháng 6/1963, để kỷ niệm 25 năm Thục được
phong chức
Giám mục (Lễ Ngân Khánh = Tea Deum).( 89)
Có lẽ anh em
họ Ngô muốn
sử dụng ngày lễ này để vận động sự
ủng hộ
của khối giáo dân Ki-tô chống Phật Giáo. Bởi
thế, ngày 16/6, Tổng Giám Mục Paul [Nguyễn Văn]
B́nh chỉ thị các họ đạo phải giữ tôn giáo
biệt lập với chính quyền. “Một giáo dân Ki-tô
tốt, và đạo hạnh, là công dân thượng hạng,
ràng buộc với tổ quốc, trung thành với chế độ cầm
quyền,
bất kể sự chính thống của chính quyền ấy.” Đó
là lời giải thích của Pie XI, trong Sắc Dụ ngày
31/12/1929.” (90)
Hệ thống tuyên truyền
của chế độ cũng
t́m đủ cách hạ giá trị các lănh tụ
và mục tiêu tranh đấu của Phật tử. Cán bộ
chính phủ loan tin Cộng Sản đă nhúng tay
vào máu khi ném lựu đạn vào đám
đông đêm 8/5/1963. Khi những cuộc giải phẫu tử thi
không t́m thấy mảnh lựu đạn, câu chuyện biến
thành ḿn từ lực Cộng Sản. Ít năm sau, lại mọc ra
chi tiết một Đại úy Mỹ đă chết từng tự nhận đặt
chất
nổ.
Thượng tọa Trí Quang, linh
hồn của cuộc tranh đấu miền
Trung, bị cáo buộc là cán bộ Cộng Sản cao cấp,
từng bị Pháp bắt giữ, âm mưu lật đổ chính quyền từ
năm 1960. Ḥa thượng Tịnh Khiết, theo những lời
tuyên
truyền này, không biết quốc ngữ, chỉ kư vào
những ǵ các sư trẻ, quá khích bắt buộc
phải kư. Cuộc tự thiêu của Quảng Đức không tự
nguyện, mà là một h́nh tội sát nhân.
Quảng Đức, theo lập luận này, đă bị chích
thuốc trước khi “sát nhân” đổ dầu và châm lửa
đốt cháy. Diệm và Nhu c̣n đe sẽ truy tố những
người đă trợ giúp thượng tọa hóa thân ra
ṭa.
Lệ Xuân
th́ khẳng định rằng cuộc tự
thiêu của Quảng Đức chỉ là một màn “nướng thịt
sư” [barbecue of a bonze] với xăng nhập
cảng. Bác sĩ
riêng của Diệm mật báo với Nolting rằng Quảng Đức
bị
một số sư trẻ thuyết phục nên tự thiêu; v́ ít
năm trước, Quảng Đức từng hứa với một người bạn là
sẽ “đồng
tử,” và nay người bạn đó đă chết, Quảng Đức
cần giữ lời thề. Nói cách khác, Quảng Đức
không thích chính trị, và không tự
thiêu để chống chính phủ. ( 91)
Trong khi đó, tại vài địa
phương, viên
chức thông tin loan tin chống Phật Giáo, chùa
chiền
bị phong tỏa, sinh viên, học sinh và thanh niên
Phật
tử liên tục bị gây khó khăn, và bắt giữ.
Điều khiến các lănh tụ tranh đấu bất măn nhất
là tổ chức Cổ Sơn Môn công khai tố
cáo phe tranh đấu có ư đồ làm chính
trị. Ngày 26/6, Tịnh Khiết phải than với Diệm rằng
“t́nh
thế không những không thay đổi mà c̣n trầm
trọng hơn.”(
92)
Ngày 1/7, Hoàng Văn Giàu,
Trưởng
đoàn Thanh Niên Phật Tử, gay gắt lên án
thái độ của chính phủ và kêu gọi Phật tử
quyết tâm tranh đấu. (93)
B. NỖ LỰC H̉A
GIẢI CỦA MỸ:
Kennedy và các
cố vấn cực kỳ bối
rối. Trong một phiên họp Hội Đồng An Ninh
Quốc Gia
[ANQG], Kennedy đặt câu hỏi phải chăng Quảng Đức
đă bị
“thuốc” [drugged], nhưng các cố vấn khẳng
định đức tin
đă quá đủ cho những hy sinh tương tự. Dù là
giáo dân Ki-tô, ủng hộ Diệm từ thập niên 1950,
Kennedy chỉ thị Đại sứ Sài G̣n áp lực bắt Diệm
phải đáp ứng ngay đ̣i hỏi của Phật giáo.
Ngày 14/6 [11 giờ sáng 15/6/1963 VN], Rusk chỉ thị
Trueheart cứu xét việc đưa Phó Tổng thống Thơ lên
thay Diệm trong trường hợp bất trắc, và Trueheart
phải tiếp
xúc Thơ cùng những người không ủng hộ Diệm. (94) Nhưng hai ngày
sau, Trueheart trả lời là
không tiện bàn với Thơ, v́ t́nh h́nh
đă sáng sủa hơn–Phật giáo và UBLB đạt được
thông cáo chung. Trueheart chỉ hứa sẽ thuyết phục
Diệm
hoà hoăn, và nếu Diệm không chịu thực thi
thông cáo chung, sẽ xúc tiến t́m “một giải
pháp khác Diệm.” (95)
Ngày 18/6, Trueheart bảo
Thơ rằng chỉ nên coi
những thỏa thuận như bước khởi đầu mà chưa phải
hồi kết của cuộc
khủng hoảng. Diệm cần thực hiện những điều đă thỏa
thuận.
Sáng đó, khi gặp Thuần, Trueheart cũng nói tương
tự, với lời lẽ cứng rắn hơn. Trueheart đặc biệt
nhắc Thuần về luận điệu
của tờ Times of Vietnam ngày 17/6 về tuyên
cáo chung, và hành vi khiêu khích của
PTPNLĐ. ( 96)
Tối 19/6 [8G28 ngày
20/6/1963 tại VN], Roger Hilsman
chỉ thị cho Trueheart nên lưu ư các
viên chức Việt là đừng nên đồng hoá một
cá nhân với chế độ. Thí dụ như lời tuyên bố
“Phật giáo có thể tin cậy nơi Hiến pháp, nghĩa
là tôi” của Diệm tạo nên những cảm tưởng xấu
ở
Mỹ. Viên chức Việt cũng cần tiếp xúc thường xuyên
với lănh tụ Phật giáo và đối xử đồng đẳng với họ.
Đặc biệt, thỏa ước 16/6/1963 phải được tôn trọng
và
nhanh chóng thực hiện để giảm thiểu sự nghi ngờ
của Phật tử. ( 97)
Dư luận thế giới cũng đă
chú ư hơn đến
cuộc tranh đấu của Phật giáo. Ngày 14/6, Norodom
Sihanouk
viết thư cho Kennedy, phản đối việc đàn áp Phật
giáo tại Nam VN. Sihanouk cũng gửi cho TTK/LHQ U
Thant, Thủ
tướng Bri-tên McMillan, TT Pháp de Gaulle và TT
India, Radhakrishnan, thông điệp tương tự.
Sihanouk c̣n
trao cho Đại biện VNCH tại Phnom Penh một công hàm
về
vụ tàn sát Phật tử ở Huế. ( 98)
Hôm sau, 15/6, lần đầu
tiên tin Phật
Giáo Việt Nam được lên trang nhất báo The New
York Times [Nữu Ước Thời Báo], tờ báo uy
tín
của giới trung lưu Mỹ. Max Frankel, tác giả, cho
rằng nhân
viên ngoại giao Mỹ đă nói thẳng với Diệm bằng
giọng
điệu gay gắt rằng VN phải thỏa măn các đ̣i hỏi của
Phật Giáo, bằng không Mỹ sẽ tuyên bố không yểm
trợ chính sách Phật Giáo của Diệm. ( 99) Thông báo cho Trueheart
tin này, BNG chỉ thị Trueheart nói với Diệm rằng
chính phủ Mỹ vẫn yểm trợ Diệm; tạm thời không đề
cập đến
bài báo trên NYT. Hầu hết báo lớn và
các lănh tụ Mỹ đều chỉ trích chế độ Diệm.
Ngày 18/6, Thủ tướng
Ceylon là
Bandaranaike cũng gửi thư cho Kennedy, yêu cầu ḥa
giải để
Phật tử, vốn chiếm đa số tại Việt Nam, được quyền
tự do tín
ngưỡng. Mười ngày sau, 28/6, đại biểu Cambodia,
Ceylon và
Nepal tại LHQ gặp đại biểu Mỹ để bày tỏ quan tâm
về
t́nh h́nh Phật giáo Việt Nam.( 100)
Đáng lưu ư là trong hai
tháng
đầu đấu tranh của Phật Giáo–mặc dù chính phủ Diệm
không ngớt vu cáo cuộc tranh đấu do Cộng Sản xúi
dục, và sau này Nguyễn Hữu Thọ đánh gía
nó như “món quà từ trên trời rơi xuống”–cả
Hà Nội lẫn MT/GPMN đều chưa bày tỏ một thái độ
rơ ràng nào ngoài những phản kháng
chung chung của Vơ Nguyên Giáp hay Hà Văn
Lâu gửi Ủy Ban Quốc Tế Kiểm soát Đ́nh chiến,
hay Tuyên cáo của MTGPMN về việc vi phạm Hiệp định
“Giơ
neo vơ.” (101)
Măi tới ngày 15/7 mới
có tin
t́nh báo là MTDT/GPMN kêu gọi binh sĩ
và cảnh sát ủng hộ cuộc tranh đấu của Phật Giáo. (102) Cũng từ ngày này,
cán bộ nằm vùng CS xâm nhập vào các
cuộc tranh đấu, lôi kéo thanh thiếu niên nam nữ. (103)
Các
cơ quan tuyên truyền của Đảng Lao Động Việt Nam mở
nhiều
chiến dịch khai thác cuộc tranh đấu:
-
Mít tinh, tuyên cáo đả kích Mỹ-Diệm
và ủng hộ cuộc tranh đấu của Phật Giáo trước dư
luận quốc
nội cũng như quốc tế.
-
Xâm nhập cán bộ vào các đô
thị và phong trào tranh đấu
- Gia
tăng hoạt động quân sự, đánh phá các đồn
bót và Ấp chiến lược.
-
Khoét sâu sự khác biệt giữa chính quyền
miền Nam và Phật Giáo.
V́
vậy, có lúc an ninh Mỹ phải đặt câu
hỏi thực chăng CS đă bỏ vùng thôn quê, dồn
vào mặt trận tỉnh thị.
C. THAY ĐỔI ĐẠI
SỨ MỸ:
Giữa thời gian này,
Oat-shinh-tân gửi công
hàm hỏi ư kiến Diệm về việc thay Đại sứ ở Sài
G̣n. Ngày 20/6/1963, BNG Mỹ chỉ thị cho Trueheart
xin gặp
Diệm để xin ư kiến về việc cử Henry Cabot Lodge
thay Nolting. (104)
Sau khi tiếp Trueheart
khoảng 1 tiếng đồng hồ chiều
ngày 22/6, ba ngày sau, 25/6, Diệm sai Thuần cho
Truheart
biết Diệm rất bất măn. Diệm cho rằng Mỹ đang thay
đổi
chính sách và nỗ lực bắt Diệm phải làm theo
Mỹ hay sẽ bị loại bỏ [Diem
thought a new American policy was involved and an
effort to force him
to do our bidding or to unseat him]. Diệm cũng nhắn đến
tai Lodge rằng “họ
có thể gửi 10 Lodge tới đây, nhưng tôi không
để cá nhân tôi hay đất nước này bị hạ nhục,
kể cả việc họ huấn luyện pháo binh bắn vào dinh
thự
này [they
can send
ten Lodges, but I will not permit myself or my
country to be
humiliated, not if they train their artillery on
this Palace].( 105) Theo Thuần, Diệm
sẽ trở nên cứng
đầu hơn. Truheart bảo thẳng Thuần rằng cách tốt
nhất để
tránh đương đầu với Mỹ là chính phủ Diệm nên
bắt đầu thay đổi cách làm việc.( 106)
Ngày 26/6, Thứ trưởng Ngoại
giao George W. Ball chỉ
thị cho Trueheart gặp Diệm, giải thích rằng chính
sách của Mỹ không thay đổi; đó là yểm trợ
chính phủ chống Cộng miền Nam. Riêng việc bổ nhiệm
Lodge
đă được quyết định từ tháng 4/1963, trước khi xảy
ra cuộc
khủng hoảng Phật giáo, v́ Nolting đă ở Việt Nam
hai năm. Mục đích của Mỹ là cảnh giác Diệm về
những hiểm họa có thể tránh, không để làm
suy yếu Diệm. Nhưng quyết định và hành động là
trách nhiệm của riêng Diệm.(107) Hôm sau, Diệm tiếp
Trueheart khoảng 2 tiếng rưỡi đồng
hồ, tuyên bố sẽ thực hiện việc dân chủ hóa từ
nông thôn lên, nhưng không muốn vợ chồng Nhu bị
tách xa cá nhân ḿnh.( 108) Thuần cũng
thông báo với Trueheart là Chính phủ Việt
Nam sẽ ra chỉ thị cho các tỉnh thi hành nghiêm
chỉnh bản tuyên cáo chung 16/6/1963. Cá nhân
Diệm có thể sẽ ra Huế để nghiên cứu và giải quyết
mọi sự; Diệm cũng sẽ đọc diễn văn về việc thực thi
tuyên
cáo chung.
Nhưng ngày 27/6, Bộ trưởng
Nội Vụ Lương lại
tuyên bố với một nhân viên CIA rằng Cộng sản
đă xâm nhập phong trào tranh đấu của Phật
giáo, và trong vài ngày tới, sẽ ra
thông cáo về việc những người bị bắt giữ. (109) Lời cáo buộc của
Lương
báo hiệu chính sách mới của họ Ngô với Phật
giáo. Rất có thể chính sách này được
thảo luận kỹ càng hơn trong dịp anh em họ Ngô về
Huế dự lễ
kỷ niệm 25 năm ngày thụ phong Giám mục của Thục,
trong
các cuộc họp mật vào cuối tháng 6/1963.( 110)
Tại Mỹ, Kennedy và các
cố vấn theo
dơi những biến chuyển ở Sài G̣n với mắt
nh́n bi quan. Phản ứng tại nội địa Mỹ
cũng chẳng
có ǵ đáng lạc quan. Ngày 27/6, báo New
York Times đăng bài cậy đăng nguyên một
trang của 12
lănh tụ Tin lành Mỹ, kể cả Reinhold Niebuhr và
James Pike, yêu cầu Mỹ triệt thoái khỏi Việt Nam.
Bài cậy đăng trên có cả h́nh Quảng Đức
tự thiêu của Browne. Chỉ c̣n vài kư giả ủng
hộ Diệm trên những tờ báo mà Giáo Hội
Ki-tô Mỹ có ảnh hưởng.
Quyết định bổ nhiệm
Lodge cũng tạo nên những tia
lửa điện trong chính giới và hàng ngũ Tướng
tá Việt Nam. Lodge, một lănh tụ đảng Cộng Hoà từng
đứng phó trong liên danh Richard M. Nixon năm
1960, nổi
danh la ợ“vua đảo chính” (đặc biệt là việc đảo
chính Lư Thừa Văn ở Nam Hàn). Bởi thế,
các mưu toan đảo chính Diệm bắt đầu rộn rịp tại
Sài G̣n. Tin đồn đảo chính loan truyền rộng
răi. Cuối tháng 6/1963, cơ quan CIA đă thiết lập
được danh sách các nhóm có ư
làm đảo chính. Đáng kể nhất có
nhóm “Bác sĩ” Trần Kim Tuyến. Tuyến mới mất chức
Giám đốc Mật Vụ, và đang chờ đi ngoại quốc. Quanh
Tuyến
có một số nhân viên Bộ Công Dân Vụ của
Paul Hiếu, Tổng Nha Thông Tin, Mật Vụ, và một số
sĩ quan
trẻ. Nhóm khác do Huỳnh Văn Lang và Trung
tá [Albert] Phạm Ngọc Thảo, Thanh tra Ấp Chiến
Lược, chủ trương.
Nhóm này gồm hầu hết cựu đảng viên của hệ Cần Lao
“Liên kỳ Nam-Bắc Việt” do Lang thiết lập tại miền
Nam, kể cả
Thiếu tướng Trần Thiện Khiêm, Tham Mưu trưởng Liên
quân.
Từ ngày 30/5, đă có
tin đồn Tuyến
và Albert Thảo mưu làm đảo chính. (Tuyến bị thất
sủng; sau đó bị gửi qua Morocco [Ma Rốc] và Cộng
Ḥa Arab, nhưng hai xứ này không nhận). Hai
nhóm Tuyến và Thảo, phần đông là Ki-tô
giáo, không muốn thấy “thiên mệnh Mỹ” rơi vào
tay Phật giáo. (Theo t́nh báo Mỹ, Tuyến được sự
yểm trợ của Tổng Giám Mục Nguyễn Văn B́nh, Hoà
thượng Thích Tâm Châu, Thích Thiện Minh,
Trung Tướng Dương Văn “Big” Minh và Thiếu tướng
Tôn Thất
Đính. Lănh tụ của nhóm Tuyến có lẽ
là Nguyễn Ngọc Thơ). Nhưng mạnh nhất, và được Mỹ
tin cậy
nhất, là nhóm do Trung Tướng [André] Trần Văn
Đôn, Quyền Tổng Tham Mưu Trưởng, đại diện. Từ
tháng
6/1963, André Đôn và em rể là Lê
Văn Kim đă xin Nolting cho làm đảo chính, nhưng bị
Nolting nghiêm khắc trách mắng:
Đừng cho tôi mấy thứ
làm loạn và yểm trợ nổi loạn. Tại sao mấy ông
không lo làm trọn nhiệm vụ của các quân
nhân? Nước Mỹ không dính líu vào vấn
đề đảo chính.( 111)
Ngày 8/7, André Đôn
nói
với một nhân viên CIA là nhóm
ḿnh được đa số cấp chỉ huy ủng hộ, ngoại trừ
Thiếu tướng Huỳnh
Văn Cao, Tư lệnh QĐ IV, và Tôn Thất Đính,
Tư lệnh QĐ III.( 112)
Nhưng khuôn mặt mà chế độ
gờm sợ nhất vẫn
là Trung Tướng Dương Văn Minh (1916-2001). “Big”
Minh, một thời
được ca tụng như “Anh hùng Rừng Sác,” đang là một
Tướng không có quân, vô quyền lực với chức vụ
Cố Vấn Quân Sự Phủ Tổng Thống từ ngày 8/12/1962.
Không ai rơ tại sao Tướng Minh bỗng dưng bị thất
sủng.
Người nêu lư do Minh đă dấu đi một phuy vàng
tịch thu được trong chiến dịch truy lùng B́nh
Xuyên. Người suy diễn rằng Diệm không tin Minh,
một Tướng
ngoại đạo, do Pháp đào tạo, lại có em trai theo
Việt Minh. Thêm vào đó, một số quan Tướng Mỹ, kể
cả
Lansdale, không ưa “Big” Minh. Ngày 27/12/1961,
chẳng hạn,
Lansdale phản đối việc cử “Big” Minh nắm giữ quân
đội v́,
theo Lansdale, Minh từng công khai nói về ư định
đảo chính Diệm.( 113) Theo Phó Tổng thống Nguyễn Ngọc Thơ,
cá
nhân ông ta và Big Minh bị Ngô Đ́nh
Nhu dèm xiểm với Tổng thống Diệm là thành phần
“chủ bại,” nên bị nghi ngờ và thất sủng từ năm
1959.
Cách nào đi nữa, “Big”
Minh từng mưu định
ám sát Nhu, nhưng phải bỏ dở. Trong số đồng minh
“tự
nhiên” của “Big” Minh có Mai Hữu Xuân, Lê Văn
Kim, các sĩ quan gốc miền Nam và một số đảng viên
Đại Việt thời cơ như Đặng Văn Sung và Bùi Diễm.
D. ĐỢT
TRANH ĐẤU THỨ HAI CỦA PHẬT GIÁO:
Phần Phật giáo vẫn chuẩn bị
tiếp tục tranh đấu, nếu
cần. Ngày 26/6, Thiện Minh viết thư phản đối với
UBLB về việc
thành lập Phật Giáo Cổ Sơn Môn. Không
hài ḷng với thư trả lời ngày 28/6 của UBLB,
nhóm tranh đấu quyết định xuống đường. Ngày 30/6,
hàng ngàn tăng ni Sài G̣n bắt đầu tuyệt
thực. Qua đầu tháng 7/1963, sinh viên, học sinh
Sài
G̣n biểu t́nh trước Quốc hội để yểm trợ cuộc tuyệt
thực
của các tăng ni.
Ngày 1/7, tờ Times
of Vietnam cho đăng
trên trang nhất bản tin tựa đề: “Băng keo Scotch
bí ẩn
và Đoạn kết chứng hoang tưởng đă ló dạng” [Mysterious
Scotch
Tape and End to Schizophrenia In Sight]. Bài
này
hàm ư có sự chia rẽ giữa Nhu và
Thơ-Thuần, cáo buộc Quảng Đức đă bị “thuốc” trước
khi
tự thiêu, và đưa ra nhận định thời gian hưu chiến
hai tuần
đă qua, nhưng Sài G̣n vẫn yên tĩnh; ngoại
trừ có một biến cố đặc biệt nào, thí dụ như một
cuộc tự thiêu khác, có thể kết luận rằng những
đ̣i hỏi của Phật giáo đă được thỏa măn.”( 114) Hai
ngày sau, 3/7, Phó TT Thơ tuyên bố vào
là, theo sự điều tra của chính phủ, chính “Việt
Cộng” đă gây nên cuộc thảm sát đẫm máu
ở Huế. (V́ việc này, ngày 10/12/1963, Thơ
đă bị chất vấn gay gắt trong một buổi họp báo ở
Sài G̣n sau ngày đảo chính Diệm)
Tại Mỹ, từ ngày
Thứ Hai, 1/7, Michael
Forrestal đă yêu cầu cho Nolting trở lại Việt Nam
v́ Phật giáo có thể biểu t́nh trở lại sau
thời gian “hưu chiến.” Tối 1/7 đó, Ball chuyển chỉ
thị của
Hilsman và Nolting cho Trueheart là phải gặp Diệm
ngay,
bảo thẳng Diệm rằng dư luận Mỹ nghĩ rằng người
thân của Diệm đang
cố t́nh phá hoại sự thỏa thuận với Phật giáo.
Đúng hay sai, dư luận Mỹ cũng cho rằng đang có
bách hại tôn giáo ở miền Nam. Khi gặp Thuần,
Trueheart yêu cầu Thuần đọc bài viết trên Times
of
Vietnam, và đề nghị Mỹ muốn Lệ Xuân đừng nên
tuyên bố ǵ hết; bài báo trên Times
of Vietnam hàm ư thách thức Phật giáo
tiếp tục tự thiêu. Rồi thêm chẳng lẽ Diệm không
hiểu
rằng chỉ cần một vụ tự thiêu nữa là chính phủ Mỹ
sẽ
tuyên bố không dính líu ǵ đến
chính sách tôn giáo của Diệm? Thuần trả lời
rằng Diệm không biết điều đó, và đề nghị Trueheart
nên nói thẳng với Diệm.( 115)
Trueheart xin
chỉ thị của Bộ Ngoại Giao
và Ball cho gặp Diệm, nói thẳng với Diệm;
và nếu cần, gặp cả Nhu. (116)
Buổi Diệm gặp Trueheart
chiều ngày 3/7 khiến
liên hệ giữa hai bên thêm căng thẳng. Khi
Trueheart đề nghị Diệm đích thân gặp các
lănh tụ tôn giáo để giải quyết, Diệm nói sẽ
nghiên cứu lại. Khi Trueheart đề cập đến bài trên
Times
of Vietnam, Diệm cũng chỉ nói sẽ nghiên
cứu.( 117)
Hôm sau, Thuần cho
Trueheart biết rằng
có lẽ Diệm không hành động ǵ về
những đề nghị của Trueheart và yêu cầu Nolting trở
lại
Sài-G̣n càng sớm càng tốt.(118) Cũng trong ngày 4/7 này Lệ
Xuân viết
bài “Who Is Spokeman of Whom?” [Ai là phát
ngôn viên của ai?] trên Times of Vietnam,
phủ
nhận tờ Times of Vietnam là cơ quan ngôn
luận của
ḿnh. Nếu những bài trên Times of Vietnam
có trùng hợp ư kiến của Lệ Xuân, đó
cũng không phải là quan điểm của chính phủ. Lệ
Xuân cũng khẳng định không đại diện cho chính phủ
VNCH, và những kẻ xuyên tạc có thể bị lợi dụng bởi
Cộng Sản và tay sai [lackeys] của chúng. Bài
này đă được phát cho báo chí
ngày hôm trước.( 119)
Trong phiên họp HĐ/ANQG
từ 11G00-11G45
ngày 4/7 (khoảng nửa đêm ngày 4/7 tại
Sài G̣n), ư kiến chung của các viên
chức Mỹ là Diệm không chịu xa Nhu. Hilsman, Phụ tá
Ngoại trưởng Mỹ, thông báo cho Kennedy biết sẽ có
đảo chính trong ṿng 4 tháng.( 120)
Hôm sau, 5/7,
từ Greece về tới
Oat-shinh-tân, Nolting được mời tham dự phiên họp
của
HĐ/ANQG, rồi nhận lệnh trở lại Sài G̣n càng
sớm, càng tốt, với hy vọng cho Diệm cơ hội chót.
Giữa
lúc Nolting đang trên đường về nhiệm sở, ngày Chủ
Nhật, 7/7, tại đường Trương Minh Giảng, Công an
hành hung
một nhóm kư giả ngoại quốc nổi danh chỉ trích chế
độ như Browne, Trưởng văn pḥng hăng AP, Peter
Arnett,
gốc New Zealand, Sheehan, Halberstam, v.. v...,
khi họ đang quan
sát và thu h́nh cuộc biểu t́nh của
các tăng ni chùa “Miên.”( 121)
Ngày 10/7, bản ước
lượng t́nh báo
đặc biệt [SNIE 53-2-63] của Hội đồng ANQG Mỹ dự
đoán rằng nếu
Diệm không thi hành nghiêm chỉnh tuyên
cáo chung 16/6, sẽ có đảo chính trong tương lai
gần, với hơn 50% cơ hội thành công.( 122)
E. NỖ LỰC
VÔ VỌNG CỦA
NOLTING:
Nolting vừa về tới Sài
G̣n ngày
11/7 đă được Diệm mời vào Dinh Gia Long, tŕnh
bày t́nh h́nh. Để trả lời câu
tuyên bố của Nolting với giới truyền thông khi vừa
bước
xuống phi trường–là mong muốn hai bên tiếp tục nói
chuyện để đạt thỏa thuận–Diệm nói kết quả thương
thuyết
tùy thuộc vào phe tranh đấu.( 123)
V́ nghi ngờ rằng
Phật giáo
bị Cộng Sản giật giây, Nolting nỗ lực
nối lại mối giao
hảo giữa Toà Đại sứ và Diệm.
Ngày 15/7, Nolting khuyên Diệm nên công bố một
số nhân nhượng cần thiết với Phật giáo. Diệm đồng
ư, nhưng chưa có hành động nào. Theo
Nolting, chính Diệm cũng đang muốn tử v́ đạo (124)
Nhưng cuộc diễn hành tới
trước tư thất Đại sứ
Nolting ngày 16/7, do Tâm Châu dẫn đầu, để phản
đối
việc chính phủ tiếp tục đàn áp, bắt giữ tăng ni,
Phật tử, và khẳng định Phật giáo không phải
là Cộng sản hay bị Cộng sản lợi dụng, khiến Diệm
cứng rắn hơn.( 125) Hôm
sau, 17/7, Trần Văn Tư, Giám đốc Nha Cảnh sát
Đô thành, sai Cảnh sát đàn áp dữ
dội cuộc biểu t́nh bất bạo động ở Sài G̣n
và chùa Giác Minh tại Chợ Lớn. Hàng
chục xe chở người bị bắt đến các trại tập trung
vào An
Dưỡng Địa Phú Lâm để sưu tra lư lịch.
Các chùa đều bị phong tỏa.
Sau khi Kennedy tuyên
bố trong buổi họp báo
ngày 17/7 tại Oat-shinh-tân là hy vọng cuộc tranh
chấp tôn giáo sẽ được giải quyết sớm, ít giờ sau
[ngày 18/7 tại Việt Nam], Diệm tuyên bố trên
đài thanh không hề đàn áp Phật giáo,
yêu cầu mọi người đoàn kết sau lưng chính phủ, rồi
kết luận bằng câu “Xin ơn trên ban phép
lành cho chúng ta.”
Hôm sau nữa, 19/7, Diệm cho
phát lại bài
diễn văn truyền thanh vỏn vẹn 2 phút kể trên. Ngày
này, Ủy Ban Liên Phái Tranh Đấu Bảo Vệ Phật
Giáo tán thành lời kêu gọi của Diệm;
và yêu cầu có những biện pháp cụ thể để thực
hiện Tuyên cáo chung 16/6/1963, như phóng
thích những người bị bắt giữ từ ngày 8/5, trừng
phạt
những người gây nên tội ác trong ngày 8/5,
và bồi thường thiệt hại cho các nạn nhân và
gia đ́nh. Hôm sau, 20/7, đích thân Paul Hiếu
và Trần Văn Tư tới Phú Lâm yêu cầu các
tăng ni bị bắt giữ được trở lại chùa Xá Lợi.( 126)
Ngày 22/7, Ủy Ban tranh đấu
gửi điện văn thông
báo khắp nơi là cuộc đấu tranh đ̣i hỏi thực thi
Thông cáo chung chưa chấm dứt: Luân phiên cầu
nguyện và tuyệt thực.( 127) Các lănh tụ tranh đấu
cũng tổ chức họp
báo tại chùa Xá Lợi, lên án
chính phủ không giữ lời hứa.( 128)
Điều đó, có lẽ Nolting rơ
hơn ai
hết. Chiều ngày 16/7/1963, khi Nolting vào Dinh
Gia Long
gặp Nhu, Nhu đă tuyên bố Phật giáo không
có sự đe dọa nào đáng kể.
Nhưng các cố vấn của
Kennedy nh́n sự việc một
cách khác. Ngày 23/7, Hilsman chỉ thị cho Nolting
là Bộ Ngoại Giao dự trù sẽ c̣n nhiều cuộc biểu
t́nh của Phật giáo; những cuộc biểu t́nh
này khích động thị dân, và có thể sẽ
có đảo chính trong vài tháng, nếu
không phải vài tuần; và những cuộc đảo chính
ấy hy vọng thành công. Bởi thế, Nolting có thể ra
tuyên cáo tự cách biệt với chính sách
của Diệm; khuyến khích việc kế vị hợp hiến (Thơ
lên thay);
thuyết phục những người muốn đảo chính bỏ ư định;
hoặc,
tiếp tục chờ đợi, hy vọng Diệm cải cách. Hiện tại,
nên
theo đuổi chính sách chờ đợi.( 129)
Nolting vẫn ra công bảo
vệ Diệm. Theo Nolting,
Diệm là cơ hội tốt nhất của miền Nam.( 130) Ngày
28/7, Nolting c̣n tuyên bố với hăng UPI là
không hề có việc đàn áp Phật Giáo ở
VNCH, v́ Bộ trưởng Nội Vụ Lương đă cho Nolting
biết sẽ
không dùng biện pháp mạnh để đàn áp;
và dân chúng đă chán ngán cảnh
hỗn loạn. Diệm c̣n trực tiếp chỉ thị cho Đại tá
Nguyễn Văn Y, Giám đốc Mật vụ, và Trần Văn Tư,
Giám đốc Cảnh Sát Đô thành, không
được dùng vơ lực. Phó Tổng thống Thơ cũng
nói đại diện Phật giáo đồng ư gặp Thơ trên
căn bản bán chính thức từ ngày 31/7/1963.
Nhu và Lệ Xuân
tiếp tục sử dụng
cán bộ Cần Lao cùng các tổ chức ngoại
vi như Thanh Niên Cộng Hoà, Thanh Nữ Cộng Hoà
chống
Phật Giáo. V́ quá hăng say phục vụ lănh tụ
và để chuộc tội thua trận Tua Hai (Tây Ninh) hơn
ba năm
trước, ngày Chủ Nhật 23/7, Trung Tá Trần Thanh
Chiêu, Giám đốc Nha Thanh Tra Dân Vệ, tụ tập
khoảng
100 dân vệ, gia đ́nh tử sĩ và thương phế binh
trước
chùa Xá Lợi, yêu cầu “các thày trở
lại việc tu hành, ngưng tiếp tục gây rối loạn chỉ
làm lợi cho Cộng Sản.”( 131)
Lỗ măng nhất
là Lệ Xuân.
Không những chỉ thị cho tờ Times
of Viet Nam
đả kích Phật giáo, mà c̣n hàm
ư thách thức các tăng ni tiếp tục tự thiêu.( 132) Để trả lời Lệ Xuân,
ngày 23/7, Sư bà Diệu Huệ, mẹ Giáo sư Bửu Hội, họp
báo tuyên bố sẵn sàng tự thiêu cúng
dường tam bảo. Tuy nhiên, cuối cùng Bửu Hội thuyết
phục
được mẹ ḿnh ngưng tự thiêu.( 133)
Ngày 1/8, Lệ Xuân
tuyên bố với
phóng viên đài truyền h́nh Mỹ CBS rằng
các lănh tụ Phật giáo đang âm mưu lật đổ
chính phủ; và tất cả những ǵ Phật tử đă
làm chỉ có mỗi việc “nướng thịt một sư” [barbecue
a
bonze] với “săng nhập cảng” [imported gas].
Hai ngày
sau, 3/8, Lệ Xuân tuyên bố trước khoá sinh
khoá III Phụ Nữ Bán Quân Sự rằng những vụ tranh
đấu
chỉ có bề ngoài tôn giáo, nhưng mục
đích là chính trị, với thủ thuật Cộng Sản, cần
phải bẻ găy. Đại sứ Trần Văn Chương, cha ruột Lệ
Xuân,
phải công khai trách Lệ Xuân là “thiếu tư
cách và hỗn láo” [impertinent and disrespectful]
trên đài Tiếng Nói Hoa Kỳ [VOA] vào
ngày 6/8. Ngày 8/8, để trả lời Đại sứ Chương, Lệ
Xuân tuyên bố dù có “thiếu lễ độ” cũng phải
nói “sự thực.” Lệ Xuân cũng biện hộ cho những lời
tuyên bố trên đài CBS ngày 1/8; khẳng định
các lănh tụ Phật giáo không đại diện cho
Phật giáo hay dân tộc Việt Nam.
Hôm sau nữa, 9/8, trong bài
phỏng vấn của tuần
báo Mỹ Newsweek, Lệ Xuân c̣n hung
hăng
hơn.( 134)
Ngoài ra, c̣n có tin
em trai
Lệ Xuân, Trần Văn Khiêm, lên thay Trần Kim
Tuyến
làm Giám đốc Mật vụ, và Khiêm đă lập
sẵn danh sách những người chống đối để quăng lưới.
Khiêm
mang danh sách trên ra khoe với cả một kư giả
Australia.( 135)
Nhu cũng tiếp tay
vợ trong chiến dịch đả kích Mỹ
và Phật giáo. Trả lời câu hỏi của Reuters
ngày 3/8, Nhu tuyên bố chùa Xá Lợi đang trở
thành một trung tâm mưu lật đổ chính phủ, và
nếu không giải quyết được vấn đề Phật giáo, sẽ có
một cuộc đảo chính chống Mỹ và Phật giáo.( 136) Ngày
7/8, Nhu nói với Nolting là hoàn toàn ủng
hộ chính sách của Diệm qua bản tuyên cáo
ngày 18/7, nhưng Lệ Xuân có quyền phát biểu
ư kiến riêng của một công dân.
Ngày 8/8, nhật báo New
York Times
đăng hai bài trên trang nhất về Việt Nam. Bài thứ
nhất của Halberstam, từ Sài G̣n, với tựa “Bà Nhu
Tố Cáo Mỹ Bắt Chẹt ở Việt Nam” [Mrs. Nhu Denounces
U.S. for “Blackmail” in Vietnam]. Lệ Xuân, theo
Halberstam,
tuyên bố rằng Diệm không có quần chúng ủng
hộ, phải dựa vào vợ chồng Nhu. Bài thứ hai của Tad
Szulc
ở Oat-shinh-tân, tiết lộ mối quan tâm ngày một gia
tăng của chính phủ Kennedy về việc chính phủ Diệm
khó sống c̣n nếu không ḥa hoăn với
Phật giáo. Tính sổ chung với những tuyên bố
đ̣i rút số cố vấn Mỹ trong tháng 5/1963, kế hoạch
âm thầm ve văn Cộng Sản Bắc Việt và sử dụng
Pháp để giải tỏa áp lực Mỹ, vợ chồng Nhu mới đích
thực trở thành Persona Non Grata với
Oat-shinh-tân.
Đặt ḿnh trước nhiều hơn
một lằn đạn–và
nhất là đă bị thuyết phục rằng cuộc tranh đấu của
Phật
giáo chẳng những không thuần túy tôn
giáo mà chỉ là một âm mưu chính trị,
nhằm lật đổ chính phủ, do Cộng Sản xúi dục–mọi nỗ
lực của
Nolting ở Việt Nam hầu như uổng phí. Ngày 30/7,
Phật tử
tổ chức linh đ́nh giỗ thất tuần (49 ngày) Quảng
Đức.
Hôm sau, 31/7, Ủy Ban Tranh Đấu Bảo Vệ Phật Giáo
ra
tuyên cáo phản đối lời tuyên bố ngày 28/7 của
Nolting; và hôm sau nữa, 1/8, Tâm Châu gửi thư
trách cứ Nolting, khẳng định “những vụ đàn áp
là cực độ của cả một chuỗi lạm quyền, áp bức giết
chóc mà Phật tử phải gánh chịu trong nhiều năm,
dưới nhiều h́nh thức, do cấp thừa hành bên dưới
của
một nền hành chánh cố t́nh dung túng
gây ra.”( 137)
Ngày 1/8, Tịnh Khiết cũng
gửi công điện cho
Kennedy, phản đối lời tuyên bố của Nolting rằng
không
có việc đàn áp Phật Giáo ở VNCH.( 138) Một
Nhóm Người Yêu Nước th́ ra tuyên ngôn
phản đối Nolting là không hiểu biết ǵ về
t́nh cảnh Phật giáo tại Việt Nam.
Ba ngày sau, 4/8, Đại Đức
Nguyên Hương
(Huỳnh Văn Lễ) tự thiêu trước Dinh Tỉnh trưởng
Phan Thiết,
và Phật tử xuống đường biểu t́nh đ̣i lại
xác đă bị Cảnh Sát lấy đi. Ngày 12/8, một
nữ sinh chặt một bàn tay phản đối chính quyền và
luận điệu hỗn hào của Lệ Xuân đối với các tăng ni.
Rồi, ngày 13/8, Đại Đức Thanh Tuệ cúng dường tam
bảo ở chùa Phước Duyên, Hương Trà, Thừa
Thiên. Hai ngày sau, ni cô Diệu Quang tự thiêu
ở Ninh Ḥa. Hôm sau nữa, 16/8/1963, Thượng tọa
Tiêu
Diêu tự thiêu tại chùa Từ Đàm, Huế.( 139)
Bẽ bàng hơn nữa là
anh em họ Ngô
cũng bắt đầu coi thường Nolting. Khi Nolting cho
Diệm xem bức
công điện khẳng định chính phủ Mỹ không thay đổi
chính sách về Việt Nam, Diệm nói: “Tôi tin
ông, nhưng không tin nội dung bức điện ông nhận
được.”( 140) Khi Nolting đề
nghị Diệm có biện pháp với Lệ
Xuân–người mà theo Nolting đă vượt ngoài sự
kiểm soát của cha mẹ và anh chồng–Diệm chỉ hứa “sẽ
cứu
xét.”( 141)
Ngày 12/8, khi tiếp kiến
Nolting, Diệm cho rằng
các tăng ni không thành thực, và thế giới
không biết đến việc các sư giả muốn lật đổ chế độ.
Sau dạ
tiệc đưa tiễn Nolting của Diệm, ngày 13/8, Thơ họp
báo,
tuyên bố sẽ truy tố một số người tham dự biểu t́nh
ngày 8/5, và những người bị bắt sau ngày 16/6
có thể không được khoan hồng. Trong phần hỏi đáp,
Thơ so sánh trường hợp Lệ Xuân với những lời chỉ
trích chính phủ VNCH của Thượng Nghị Sĩ Mansfield.
Buổi
họp báo của Thơ khiến Ngoại trưởng Rusk phải gửi
điện tín
cho Nolting, hỏi liệu Diệm có muốn đi nghỉ mát
chung với
vợ chồng Nhu chăng? (142)
Sau nhiều lần xin
ở lại Sài G̣n nhưng bị
từ chối, ngày 14/8, Nolting vào chào từ biệt Diệm.
Gần lúc chia tay Diệm mới hứa sẽ phủ nhận những
lời lỗ
măng của Lệ Xuân. Những lời hứa cho có. Ngày
15/8, tờ Times of Viet Nam ca ngợi Nolting
như “người đầu
tiên xứng đáng với tước hiệu đại sứ.”( 143)
Do sự dàn xếp của
Nolting, báo New
York Herald Tribune [Diễn Đàn Tiền Phong New
York] đăng
bài phỏng vấn Diệm của Marguerite Higgins. Higgins
trích
lời Diệm là chính phủ vẫn theo đuổi chính
sách ôn hoà với Phật giáo. Diệm và
gia đ́nh cũng rất vui ḷng về việc bổ nhiệm tân
Đại sứ Lodge.( 144)
Thực ra, đây chỉ là món quà
tiễn
chân Nolting, và để trấn an dư luận Mỹ, v́
Diệm-Nhu
đang có kế hoạch xuống tay mạnh với Phật giáo.( 145)
Tại miền Trung, việc bắt
giữ, hành hung, ám
sát Phật tử vẫn diễn ra hàng ngày. Tại Huế,
sau phiên họp giữa Thị trưởng Nguyễn Văn Hà và
lănh đạo Phật Giáo ngày 9/8, thái độ
chính quyền ngày một cứng rắn. Ngày 10/8, Thị
trưởng Huế yêu cầu Thượng tọa Thiện Minh tháo gỡ
các biểu ngữ chống chính phủ theo tinh thần buổi
gặp mặt
ngày 9/8/1963. (146) Phó Tỉnh trưởng Hồ Ứng Dần
cũng
yêu cầu Tỉnh hội Phật Giáo Thừa Thiên chấm dứt
việc
phổ biến các tin tức và tài liệu bất hợp
pháp. Đồng thời ra thông cáo cấm dân
chúng tập trung đông đảo tại chùa Từ
Đàm và Diệu Đế vào những giờ
phát thanh của Phật Giáo. (147)
Mờ sáng Thứ Ba,
13/8/1963, Đại đức
Thanh Tuệ tự thiêu tại chùa Phước Duyên. (148)
Cuộc
tự thiêu này châm ng̣i cho một đợt tranh đấu
mới.
Ngày14/8, Hoà thượng
Tịnh Khiết gưỉ văn
thư than phiền về việc di chuyển linh cữu Thanh
Tuệ. (149) Thượng tọa
Mật Hiển với cũng xin gặp Đại biểu TNTP tường
tŕnh về
trường hợp Thanh Tuệ. Trong khi đó, một thợ mộc
Phật tử phụ
trách việc treo biểu ngữ và cờ bị bắn chết. (150)
Hôm sau, 15/8, khoảng 100 học sinh và sinh viên
Huế
biểu t́nh từ chùa Từ Đàm về Ṭa
Hành Chánh tỉnh. Cảnh sát trưởng quận Hữu ngạn
chặn đoàn biểu t́nh trước trường Đồng Khánh,
bị xô đẩy, mang thương tích cùng một cảnh binh.
Sau
đó đoàn biểu t́nh kéo tới ngồi tại hoa
viên trước ṭa hành chính. (151)
Cảnh sát đặt nút chặn
phong tỏa
chùa Từ Đàm. Buổi trưa, khoảng 300 Phật tử
tụ
họp trên đường Trần Hưng Đạo. Chính quyền thả
chó đàn áp. Xô xát dữ dội. Một số bị
bắt. Đám đông bị giải tán trong ṿng nửa
giờ. 50% nhà hàng, cửa tiệm đóng cửa. 70% sạp vải
Đông Ba ngưng hoạt động. (152) Ngày này, Ni
cô Diệu Quang–tục danh Ngô Thị Thu (1936-1963),
sinh tại
Phù Cát, Thừa Thiên, tu tại ni viện Vạn Thạnh, Nha
Trang–tự thiêu tại chùa Ninh Hoà.(153) Hôm
sau nữa, 16/8, Đại đức Tiêu Diêu–tục danh
Đoàn Văn Mễ (1893-1963), cha của Đoàn Văn An,
giảng sư Đại học Huế; năm 1930 mới đi tu, học tṛ
Tịnh
Khiết–tự thiêu ở chùa Từ Đàm.
Chính quyền ban hành lệnh thiết quân luật từ 6 giờ
sáng, xe tăng án ngữ ở một số ngă tư, kẽm gai
kéo ra ngăn chặn. (154) Hội Phật Giáo tung tin
quân
đội đă cướp thi hài Tiêu Diêu dấu đi. Anh
ruột Tiêu Diêu là Bùi Câu minh
xác đă đến tận nơi xin lănh thi hài về
quê mai táng. (155)
Ngày Thứ Bảy, 17/8,
Thị trưởng Huế Nguyễn
Văn Hà lại ra thông cáo:
Yêu
cầu đồng bào tuyệt đối tránh mọi lợi dụng
tôn
giáo để đả kích chính phủ, vi phạm luật
pháp quốc gia và làm trở ngại công cuộc bảo
vệ an ninh trật tự công cộng.
Không
hề chủ trương bắt bờ Phật giáo đồ nếu
các đồng
bào đó không hành động ǵ phạm đến kỷ
luật quốc gia; trong trường hợp có sự bắt bớ
trái
phép yêu cầu cấp tốc can thiệp với ṭa [tỉnh] để
giải quyết gấp;
Sẽ
thiết lập một Ủy Ban đặc biệt có nhiệm vụ
tiếp xúc
với đồng bào Phật Giáo để giải quyết nhanh chóng
những việc liên quan đến vấn đề thực thi thông
cáo
chung. (156)
Tuy nhiên thông cáo trên
không
đủ ngăn chặn tăng ni, Phật tử tấp nập tới chùa Từ
Đàm bái viếng thi hài Thích
Tiêu Diêu. Buổi chiều, Tiểu khu Thừa Thiên mở cuộc
họp báo tŕnh bày vụ Tiêu Diêu.
Trong khi đó, Chủ Nhật,
18/8, Thích Minh Nhật,
Tổng thư kư THPG tại Sài G̣n, diễn thuyết tại
chùa Diệu Đế. Đề tài: “Phật tử trong giai
đoạn hiện tại.” Khoảng 2000 người tham dự. Tại Sài
G̣n,
Phật tử cũng tụ họp đông đảo ở chùa Xá Lợi
v́ có tin chính phủ sẽ ra tay tấn công.
Trong khi đó, mười Tướng lănh và Tư lệnh đơn vị
họp mật. Đồng ư yêu cầu Diệm thiết quân luật, để
bắt buộc các tu sĩ trở lại chùa.
Thời gian này, sinh viên
Huế cũng
bắt đầu xao động. Ngày 15/8, đại diện sinh
viên Phật
tử gặp Viện trưởng Đại học Huế là Cao Văn Luận,
xin can
thiệp trả tự do cho những người bị bắt giữ. Mới
xuất ngoại trở về, ghi
nhận được những đổi thay của chính giới Mỹ, Luận
có phần
thiện cảm với phe tranh đấu, nên hứa sẽ can
thiệp.( 57) Nhưng ngay
chính Linh mục đang bị thất sủng.
Ngày 16/8, trong khi chính quyền địa phương ban
hành lệnh thiết quân luật từ 6 giờ sáng, bố
trí xe tăng án ngữ ở một số ngă tư, kẽm gai
kéo ra ngăn chặn dự định tự thiêu của Đại đức
Tiêu Diêu ở chùa Từ Đàm, Bộ
trưởng Giáo Dục Nguyễn Quang Tŕnh cùng Trần Hữu
Thế, tân Viện trưởng Đại học Huế, tới cố đô để
làm lễ bàn giao với Linh mục Luận vào ngày
hôm sau.( 158)
Nhân cơ hội này, sinh viên
tranh đấu khai
thác việc thay thế Viện trưởng Luận. Ngày 17/8, lễ
bàn giao chức Viện trưởng được đánh dấu bằng vụ từ
chức
tập thể của các Giáo sư Đại học Huế: Lê Khắc
Quyến, Khoa trưởng Y khoa; Bùi Trần Huân, Luật
khoa;
Tôn Thất Hanh, Khoa học; Nguyễn Văn Trường, ban
Khoa học Sư phạm;
Lê Tuyên. Thế phải bỏ vào Sài-g̣n
báo cáo. Trong khi Luận lên đường vào
Đà Nẵng, các giáo sư lại kư kiến nghị
phản đối việc cách chức Luận (159)
Buổi chiều 17/8, Tiểu khu
Thừa Thiên mở cuộc họp
báo tŕnh bày vụ Tiêu Diêu. Lúc
16G00, kư giả ngoại quốc kéo nhau rời pḥng họp
v́ có tin khoảng 200 sinh viên Huế bắt đầu biểu
t́nh tới Ṭa Đại biểu TNTP đưa kiến nghị yêu
cầu lưu giữ Viện trưởng Luận. Nguyễn Xuân Khương
và Bộ
trưởng Tŕnh ra nhận kiến nghị trước cổng Ṭa Đại
biểu. (160)
Chủ Nhật, 18/8, một
số Khoa trưởng, Giáo sư
và khoảng 500 sinh viên hội thảo tại Đại học Huế.
Vận
động băi khóa, bỏ thi cử, phản đối việc cách chức
Cao Văn Luận, và thành lập một Ban chấp hành Sinh
viên mới, hầu mở rộng liên lạc với Tổng hội Sinh
viên
Sài G̣n và Đà Lạt. Họ đưa kiến nghị
lên Tổng thống. (161)
Hôm sau, 19/8, sinh viên
Huế hủy bỏ một
cuộc biểu t́nh v́ sợ bị chụp
mũ Cộng
Sản (ngày kỷ niệm Cách Mạng tháng 8/1945).
Nhưng các giáo chức đệ đơn từ chức trong khi sinh
viên yêu cầu tân Viện trưởng Thế–đương kim Đại sứ
Philippines, mới được Ngô Đ́nh Thục đề cử thay
Linh
mục Luận mà không hề thông báo cho Bộ Ngoại
Giao–chuyển thỉnh nguyện mời Cao Văn Luận trở lại.
(162) Thứ Ba, 20/8,
Viện trưởng Thế cho lệnh những buổi hội họp trong
khuôn
viên trường phải xin phép trước. (163)
Giọt nước làm tràn ly, và
cũng chiếc
đinh đầu tiên đóng lên nắp quan tài VNCH,
là cuộc tấn công hầu hết các chùa chiền
trên toàn quốc vào nửa đêm ngày 20,
rạng ngày 21/8/1963. Đây là một tội ác
vi phạm nhân quyền khác, nặng nề gấp trăm lần cách
dùng đèn cầy [nến] đốt hậu môn tù nhân
mà có nhân chứng tiết lộ rằng Tri huyện Ngô
Đ́nh Diệm sính dùng để khảo cung nghi can
ngày c̣n làm quan cho Pháp hơn 30 năm
trước. Cuộc tấn công này và những thủ thuật bưng
bít, xuyên tạc của anh em ông Diệm-Nhu trong những
ngày kế tiếp–như ông Diệm cả quyết rằng chỉ lục
soát vài chục ngôi chùa lớn trong số 4,700
chùa khắp miền Nam–gỡ xuống chiếc mặt nạ “tiết
trực tâm
hư” của ông Diệm, và gột sạch bất cứ thiện cảm nào
c̣n sót lại với ông ta trong đám đông
thầm lặng cũng như viên chức Mỹ.
Cho đến nay, vẫn c̣n người
cố t́nh xuyên
tạc về biến cố tấn công các chùa chiền đêm 20
rạng 21/8. Bởi thế tưởng nên thuật lại tóm lược
biến cố
trên.
IV. GIỌT NƯỚC LÀM TRÀN LY:
Sau khi Nolting rời Việt
Nam, anh em Diệm-Nhu quyết
chào đón tân Đại sứ Lodge bằng vài
món quà ngoạn mục. Hai món quà lớn nhất
là cuộc tổng tấn công các chùa trên
toàn quốc và công khai tiếp xúc với sứ giả
Hà Nội.
Nguyên cớ gần
có lẽ là bức điện văn mật ngày
16/8/1963 của Đại sứ Trần Văn Chương: Theo Chương,
dư luận thế giới
và đặc biệt là tại Mỹ tin rằng Diệm không thể mang
lại chiến thắng Cộng Sản. Cuộc khủng hoảng Phật
Giáo vốn dĩ
không phải là nguyên nhân, mà chỉ
là hậu quả, một giọt nước làm tràn ly. Bởi thế,
Diệm phải ngưng tin dùng các cố vấn Nhu và Cẩn.( 164)
Đúng ngày 16/8 này, báo Life
đăng lại lời Lệ Xuân tuyên bố là sẽ
phá tan Phật giáo. Trong khi đó, Ḥa thượng
Tịnh Khiết viết thư cho Diệm, cực lực phản kháng
“sự ác
độc của một chế độ xem dân như cỏ rác,” và “mong
được chết an hơn sống khổ.”( 165)
Ngày 17/8, Phật
tử tụ họp đông
đảo ở chùa Xá Lợi. Hôm sau, hơn 10,000
Phật
tử đến chùa Xá Lợi làm lễ cầu siêu.
A. CUỘC TỔNG CÀN
QUÉT
CHÙA CHIỀN:
Ư định tấn công các chùa
chiền
và ban hành thiết quân luật từ nửa đêm
ngày 20/8 không được giữ bí mật hoàn
toàn như người ta thường nghĩ. Bộ trưởng Nguyễn
Đ́nh
Thuần đă cho nhân viên Ṭa Đại sứ Mỹ biết
về Thiết quân luật trước nhiều giờ.( FRUS,
1961-1963, III:595n2) Một
kư giả Mỹ cũng tự nhận được “mật báo” từ một viên
chức nào đó tại Dinh Gia Long, nên đă tới
chùa Xá Lợi trước khi xảy ra cuộc tấn công. Và, thực ra, từ
hơn nửa
tháng trước, đích thân ông Nhu đă răn
đe trong cuộc phỏng vấn của hăng thông tấn Reuters
là sẽ phá tan chùa Xá Lợi, nhưng
khi bị Nolting chất vấn đă qui trách cho kư giả Mỹ
dẫn không đúng lời ḿnh. Từ ngày 7/8/1963,
Ḥa thượng Tịnh Khiết cũng đă báo động với Tổng
thống Diệm về ”Kế hoạch Nước Lũ,” nhằm cô lập và
phân hoá các chùa, đồng thời đàn
áp cuộc đấu tranh của Phật Giáo. (165bis)
Ngày Chủ Nhật 18/8,
mười Tướng và Tư lệnh
đơn vị–kể cả Huỳnh Văn Cao và Tôn Thất Đính–họp
mật, rồi đồng ư yêu cầu Diệm thiết quân luật, để
bắt
buộc các tu sĩ trở lại chùa.( 166) Hai ngày sau, 20/8, các
Tướng tŕnh dự thảo Thiết quân luật lên Nhu
và Diệm. Diệm chấp thuận, cho lệnh André Đôn,
mới được cử làm Quyền Tổng Tham Mưu Trưởng thay
Đại tướng
Lê Văn Tỵ, kư tên và công bố ngay nửa
đêm đó. Đính được cử làm Tổng trấn. Tuy
nhiên, Diệm không hề hé môi về kế hoạch
trên trong buổi họp chính phủ suốt chiều ngày
20/8.( 167)
Khoảng nửa giờ sau khi
Thiết Quân luật có hiệu
lực, Nhu cho lệnh tấn công các chùa trên
toàn quốc. Tại chùa Xá Lợi Sài
G̣n, nơi đặt bản doanh Ủy ban Tranh đấu Liên Phái,
hai đại đội thuộc Liên đoàn 31 Lực Lượng Đặc Biệt
[LLĐB], Đại đội 16 Bảo An, và Cảnh Sát mặc giả
quân phục đánh chiếm mục tiêu. Ḥa thượng
Tịnh Khiết, Thượng tọa Tâm Châu, cùng nhiều tăng
sĩ
bị bắt giam sau một giờ chống cự. Khoảng 30 tăng
sĩ bị thương,
và 2 người bị mất tích. Đích thân
Đại tá Lê Quang Tung, Chỉ huy trưởng LLĐB,
và Giám đốc Cảnh sát CA Đô thành,
Trần Văn Tư [tài liệu Pháp ghi là C̣
Túc?], chỉ huy, dưới sự điều động của Đính.
Do mật báo từ Dinh Độc
Lập,
kư giả ngoại quốc biết trước tin này và
có mặt tại chùa Xá Lợi để chứng kiến cuộc
“vét chùa”, và quyết tâm bảo vệ đạo
pháp của các tăng ni. Các chùa Ấn
Quang, Chantareansay (Sài G̣n) đều bị chiếm.
Các tăng trụ tŕ, Thiện Hoa và Lâm Em, bị
bắt .( 168) Đồng thời, hai
chùa Linh Mụ và Từ
Đàm (Huế), cùng các chùa ở
Đà Nẵng, Nha Trang v.. v... đều bị ch́m trong
“nước
lũ” bạo lực. Tại Huế, khoảng 3 giờ đêm tiếng mơ,
tiếng
chuông, tiếng kêu cầu cứu vang lên khắp nơi. Đồng
bào quanh chùa đánh mơ, gơ
thùng thiếc báo nguy. Đợt tấn công đầu, Cảnh
sát bị đẩy lui. Sau đó, Đỗ Cao Trí cho lệnh nổ
súng. Những giáo sư, sinh viên và học sinh
tranh đấu cũng bị bắt giữ.( 169) Tổng cộng khoảng 1,400
tăng sĩ, bị bắt trên
toàn quốc. Chỉ có hai sư từ chùa Xá Lợi thoát
được tới Phái Bộ Kinh Tế [USOM] gần
đó xin tị nạn. Qua ngày 23/8, Trí Quang cũng trốn
được vào Toà Đại sứ Mỹ.( 170)
Tại Sài G̣n, Diệm triệu tập
Hội đồng
chính phủ vào lúc 5G30 sáng. Diệm chỉ giải
thích rằng phải thiết quân luật theo điều 44 Hiến
pháp v́ Cộng Sản đă xâm nhập một số tỉnh
lÿ, quận lÿ gần thủ đô; nhưng tuyệt nhiên
không đả động đến vụ tấn công chùa Xá Lợi.
V́ đă được một nhân viên báo tin cuộc
tấn công chùa Xá Lợi, Ngoại trưởng Mẫu
phản
đối. Phó Tổng thống Thơ cũng ngả theo Mẫu.( 171)
Nửa giờ sau, đài phát
thanh bắt đầu loan
đọc Tuyên cáo ban hành lệnh giới nghiêm
trên toàn lănh thổ, hiệu lực từ ngày 21/8:
Chiếu
điều 44 Hiến Pháp, kể từ ngày 21/8/1963, tôi
tuyên bố ban hành lệnh giới nghiêm trên
toàn thể lănh thổ Quốc Gia. Ủy nhiệm cho QĐVNCH
tận
dụng mọi phương tiện và thi hành mọi biện pháp
cần
thiết bảo vệ Quốc Gia chiến thắng Cộng Sản, xây
dựng tự do,
dân chủ.
“Số
người đầu cơ chính trị, lợi dụng tôn giáo, lợi
dụng
thái độ ḥa giải tột bực của chính phủ liên
tiếp hành động bất hợp pháp để tạo nên một
t́nh trạng rối loạn phá hoại chính sách ấy
và cản trở chủ trương dân chủ pháp trị, rất tổn
thương cho uy tín Phật Giáo, chỉ lợi cho Cộng
Sản.” (HS
8501 & 8506)
Quân
đội VNCH từ nay “chịu trách nhiệm hoàn toàn về
an
ninh công cộng, có quyền xét các tư gia bất
cứ giờ nào, bắt giữ những người xét ra có hại
cho
an ninh công cộng; cấm mọi cuộc hội họp, tụ tập
có thể
phương hại cho an ninh trật tự công cộng; hạn
chế tự do
báo chí, kiểm soát hệ thống phát thanh,
kiểm soát phim ảnh kịch trường; cấm tàng trữ,
lưu
hành những ấn loát phẩm, tài liệu, truyền đơn
xét có hại cho an ninh công cộng (điều 3); tất
cả
mọi vi phạm đến trật tự công cộng đều thuộc thẩm
quyền của
Ṭa án quân sự (điều 4). (Sắc lệnh này gồm 5
điều, công bố theo t́nh trạng khẩn cấp. (172)
Nhu cũng đọc diễn văn, yêu
cầu Thanh Niên Cộng
Ḥa yểm trợ chính phủ. (173)
Trong phiên họp hàng tuần
về ACL
ngày Thứ Sáu, 23/8, Ngô Đ́nh
Nhu dành nhiều th́ giờ giải thích về cuộc đấu
tranh của Phật Giáo. Theo Nhu, t́nh trạng trầm
trọng
trong nước từ hơn 3 tháng qua là “do một số Sư Săi
đă tiếm đoạt địa vị của Phật Giáo và có
những hành vi, ngôn ngữ và thái độ
hoàn toàn trái ngược với Pháp Chánh
của Đạo Phật và luật pháp của Quốc Gia, đồng thời
bất
chấp đến ư chí ḥa giải tột bực của Tổng thống
và chính phủ. . . . Thiện chí ôn ḥa của
chính phủ
đă bị số sư săi trên coi là biểu hiệu của
một sự nhu nhược, nên họ càng làm tới. Họ đă
biến các chùa chiền nhất là chùa Xá
Lợi thành những trung tâm khuấy rối, khủng bố các
vị chân tu, hàng ngày mạt sát và đả
kích chính phủ, rồi cứ thế được đà, họ đă
tiến tới những âm mưu vận động phá hoại quốc gia,
và tổ chức đảo chánh cố kềt với Cộng Sản và Ngoại
quốc.” Họ dùng phương pháp “b́nh nghị” để cưỡng
ép các vị chân tu phải lần lượt tự thiêu để
họ liên tục khai thác bên cạnh những xác chết
đó hầu thực hiện những âm mưu chính trị của họ.
Ban
Trị sự Giáo Hội Tăng Già Nam Việt phải bỏ chùa Ấn
Quang về miền Tây.
“Thiêu đốt Thượng tọa Thích
Quảng Đức.” [tr.
7] Có người bật quẹt đốt Quảng Đức v́ hộp quẹt
trong
người Thượng tọa bị ướt, không cháy. Vị sư đưa hộp
quẹt
đốt Quảng Đức hối hận bỏ trốn, bị lùng bắt để thủ
tiêu.
Với chính
phủ th́ bọn người lợi dụng
tôn giáo này đă đi từ khiêu
khích này tới khiêu khích khác
liên tục. . . Chính phủ
tự ḿnh đặt vào một thế bất động trong lúc bọn
người lợi dụng tôn giáo cứ tiến tới vừa khiêu
khích vừa ru ngủ ḿnh [Tâm Châu và
Thiện Minh xin gặp Nhu nhưng không đến, không viết
thành văn lời yêu cầu; không tham gia Ủy Ban Hỗn
Hợp]
Ai ưng tu hành th́ quyết
tâm tu cho đắc
đạo, và ai ưng làm chính trị th́ phải từ bỏ
áo tu, ra hẳn ngoài đời để làm chính trị,
chứ không thể kéo dài t́nh trạng mập mờ, nửa
đạo nửa đời như từ hơn ba tháng nay được. (174)
Ngày này, các cấp TNCH gửi
kiến
nghị ủng hộ Diệm. (175)
Tại Huế, ngày 24/8, Tỉnh
trưởng Nguyễn Mâu sử
dụng TNCH xét giấy người khả nghi. Hôm sau, 25/8,
tổ chức
“50,000 người” biểu t́nh trước bến Phú Văn Lâu
chống và “lên án bọn lưu manh phản động đội lốt
tôn giáo âm mưu phá rối an ninh công
cộng,” và lên án bọn phản loạn đội lốt tôn
giáo. (176) Mâu c̣n cho lệnh bắt giữ Thích
Trí Hữu, Tổng Thư Kư Phật Giáo Trung Phần,
cùng hai người tháp tùng. (177)
Chiến dịch Nước Lũ nhằm
đánh chiếm chùa
và bắt giữ tăng ni là một thứ chiến thắng cay đắng
cho
chế độ Diệm-Nhu. Mặc dù hầu hết các lănh đạo phong
trào tranh đấu đều bị bắt giữ–ngoại trừ Thượng tọa
Thích
Trí Quang và hai tăng trốn vào được Ṭa đại
sứ Mỹ tại Sài G̣n–biến cố này gây nên
một chuỗi phản ứng giây chuyền mà kết quả chung
cuộc
là cái chết bi thảm của ba anh em họ Ngô.
Trên b́nh diện quốc nội,
sinh viên, học
sinh Huế–có sự tiếp tay của cán bộ Cộng Sản hay
chăng–xuống đường biểu t́nh dữ dội. Đường phố Đà
Nẵng cũng rung chuyển khí thế đấu tranh và quyết
tâm đánh dẹp biểu t́nh của nha trảo chế độ. Thục,
rồi Nhu yêu cầu Linh mục Luận, lúc đó đang tạm
trú ở Đà Nẵng, trở lại Huế giải quyết. Luận từ
chối,
dù là một cán bộ Cần Lao cao cấp–chuyến tham quan
Mỹ trong mùa Hè 1963 cho Luận nhận hiểu ngày
tàn của chế độ đă điểm.( 178)
Một biến
cố chấn động dư luận là chiều
ngày 22/8, Ngoại trưởng Vũ Văn Mẫu đột ngột từ
chức xuống
tóc, đệ đơn xin từ chức. Sau đó, tiếp kiến các
phái đoàn Ngoại giao (Trung Hoa Quốc Gia, Thái
Lan, Đại Hàn, Nhật Bản, Lănh sự India, Chủ tịch
UHQTKSĐC), và chào từ biệt Nguyễn Ngọc Thơ tại Hội
trường Diên Hồng. Sáng ngày Thứ Bảy, 24/8, Mẫu tới
Đại học Luật khoa nói chuyện với khoảng 3000 sinh
viên
các phân khoa sinh viên. Hô hào sinh
viên tranh đấu bất bạo động. Có Vũ Quốc Thúc
và Nguyễn Văn Bông xuất hiện. Hẹn sẽ gặp lại vào
ngày hôm sau. Nhưng từ ngày này, bị giam
lỏng tại gia. (179) Ngày 23/8, Diệm đă không chấp
thuận cho Mẫu từ chức, mà chỉ cho nghỉ dài hạn ba
tháng, qua Nepal hành hương. Ngày 26/8, trên
đường ra phi trường qua India, Mẫu bị Tổng trấn
Tôn Thất
Đính cản lại tịch thu thông hành. Măi
tới ngày 29/8, Mẫu mới được rời nước.
Biến cố thứ hai
là sự nhập cuộc
của giới sinh viên, học sinh Sài G̣n. Ngày
22/8, 1253 sinh viên trường Kỹ thuật Phú Thọ (trên
tổng số 1291 người) băi khoá. Chỉ có 15/80 sinh
viên ban Cao đẳng hỗn hợp, 7/302 sinh viên Công
chánh và 16/189 sinh viên ban Điện đi học.
(180) Hôm sau, 23/8, sinh viên Y-Dược Sài G̣n
xuống đường ủng hộ cuộc tranh đấu của Phật tử và
sinh
viên, giáo chức tại miền Trung. Cảnh sát đàn
áp mạnh, bắt giữ nhiều người. Việc sinh viên
Y-Dược, được
coi là cốt cán của chế độ và những thành
phần bảo thủ nhất trong xă hội, nghiêng về phe
Phật
Giáo cho thấy uy tín chế độ đă suy tàn. Anh
em Diệm-Nhu t́m cách vuốt ve, nhưng không
thành công. Nhiều người trong số 19 thành
viên ủy ban đại diện bị bắt. (181)
Sáng Chủ Nhật 25/8,
hàng chục ngàn
sinh viên học sinh biểu t́nh tại Chợ Bến
Thành
và nhiều địa điểm khác trong thủ đô. Hai
anh em Diệm-Nhu thẳng tay đàn áp. Nhiều người
chết, bị
thương, hay bị bắt giữ. V́ dám chống đối chế độ,
sinh
viên, học sinh được chụp ngay cho cái mũ “Cộng
Sản.”
Trong khi đó, Trần Văn
Chương–cha vợ Nhu, đương kim
Đại sứ tại Mỹ –cũng từ chức phản đối, hoặc bị Diệm
cách
chức, từ ngày 22/8/1863. Mẹ Lệ Xuân, Thân Thị Nam
Trân, từ chức Quan sát viên tại Liên Hiệp
Quốc. Từ ngày 17/8, Chương đă gửi mật điện cho
Diệm,
báo cáo rằng dư luận thế giới và đặc biệt tại Mỹ
tin rằng Diệm không thể mang lại chiến thắng Cộng
Sản. Cuộc khủng
hoảng Phật Giáo vốn dĩ không phải là nguyên
nhân, mà chỉ là hậu quả, một giọt nước làm
tràn ly. Phải ngưng tin dùng các cố vấn Nhu
và Cẩn. Nội các cho rằng điện văn đó không
thể chấp nhận được, “khiêu khích và huênh
hoang,” nên ngày 21/8/1963 bị Diệm cách chức trước
khi xin từ chức. Diệm tuyên bố phải loại trừ bọn
phá hoại,
không đàn áp Phật Giáo, và tin tưởng
ở quân đội. (182)
Tối 27/8, hai vợ chồng
Chương c̣n thúc dục
Tướng Lansdale là Mỹ phải lật đổ ngay Diệm-Nhu,
bằng không
dân chúng sẽ trở thành chống Mỹ. Đích
thân Nam Trân yêu cầu Lansdale qua ngay Sài
G̣n, khuyên anh em Diệm rời nước. Nam Trân nhấn
mạnh:
Dân chúng đă
ghét họ, và họ không nên ở lại để chờ bị
dân chúng giết. Họ chắc chắn sẽ bị giết nếu c̣n
ở
lại, và chẳng có ai trong Dinh [Gia Long] bảo
thẳng với
họ về cảm tưởng của dân chúng. Họ đă bị cách
biệt hẳn với thực tế. Sau chín năm cầm quyền,
tại sao họ
c̣n muốn tiếp tục nếu toàn gia bị chết. Nước Mỹ
đă
bảo Syngman Rhee [Lư Thừa Văn của Nam Hàn] rời
nước [năm 1961]. Tại sao không làm như thế với
Diệm
và Nhu?( 183)
Ngày 24/8, Vũ Văn
Thái–cựu Giám đốc
Ngân sách và Ngoại viện, hiện đang làm việc
cho cơ quan LHQ tại Lome, Togo– cũng viết thư cho
Harriman, đề nghị
Diệm và gia đ́nh phải ra đi. Nội dung thư Thái
tương tự như thư riêng của Vũ Văn Mẫu gửi Chester
Bowles từ New
Dehli.( 184)
Trong khi đó, cuộc tấn công
chùa chiền
ngày 21/8 gây nên những phản ứng sâu đậm khắp
thế giới. Từ ngày 11/6, bức h́nh tự thiêu của
Thượng tọa Quảng Đức đă trở thành biểu tượng của
cuộc
tranh đấu của Phật giáo và chính sách
giáo phiệt Ki-tô của anh em Diệm. Vào thượng tuần
tháng 8/1963, một số nước Phật giáo chính thức
yêu cầu triệu tập Đại Hội Đồng Liên Hiệp Quốc thảo
luận. Ngày 22/8, từ Nam Vang, chính phủ Cao Miên
ra
tuyên cáo:
“Chính phủ Hoàng gia
Căm-bốt kinh hoàng đón nhận tin chính phủ
Sài-g̣n đàn áp man rợ các tăng ni
và Phật tử Nam Việt Nam vào rạng sáng ngày
21/8/1963. Việc tấn công các chùa bằng lực lượng
tinh nhuệ của chính phủ, việc tàn sát tăng ni,
việc bắt giữ, việc phong tỏa các nơi thờ tự đang
diễn ra tại thủ
đô Việt Nam là một thách thức thế giới văn minh.
Trong lịch sử hiện đại chỉ có chế độ Hitler mới
dám vi
phạm những tội ác chống lại quyền tối thượng của
con người như
thế.”
Tiếp đó, chính phủ
Sihanouk kêu gọi
các quốc gia tố cáo và ngăn chặn tội ác
đàn áp Phật giáo của chính phủ Diệm. Nam
Vang c̣n kêu gọi Vatican cho lệnh chính quyền Diệm
và tín đồ Ki-tô phải theo đúng nguyên
tắc cao cả của Ki-tô giáo. (185)
Ngay đến Vatican, điểm tựa
vững chắc nhất của chế độ Diệm,
cũng bất b́nh. Khâm sứ Vatican d’Asta từng bảo
thẳng Diệm
rằng việc tấn công chùa chiền và đàn
áp Phật Giáo làm hại cho uy tín Vatican
và đi ngược lại quyền lợi của quốc gia Việt Nam.
Tại Mỹ, hầu hết các cơ quan
ngôn luận đều
yêu cầu chính phủ Mỹ có thái độ tức khắc. Tờ New
York Times kịch liệt lên án chính
phủ Diệm, mà sự mất ḷng dân, độc tài
và tàn bạo biểu lộ qua cuộc đàn áp Phật
giáo. Báo này cũng chỉ trích chính
phủ Kennedy đă không sử dụng áp lực thích
đáng với Diệm và chậm trễ trong việc minh định
thái độ. (186)
Những báo khác gọi
chế độ Diệm là
độc tài, cảnh sát trị, làm mất giá trị sự
tham chiến của lính Mỹ trong cuộc chiến chống
Cộng. (187)
Chỉ riêng tờ New
York Herald Tribune
muốn chính phủ Kennedy tiếp tục yểm trợ chính phủ
Diệm
trước hiểm họa Cộng Sản. Marguerite Higgins, trong
loạt bài viết
về chế độ Diệm, lập lại hầu như nguyên văn lời
tuyên truyền
của chế độ Diệm: không có kỳ thị tôn giáo
mà những biến động thuần có tính cách
chính trị, do Cộng Sản giật dây, với sự hỗ trợ của
báo chí ngoại quốc, đặc biệt là Mỹ.
Bối rối và giận
dữ nhất
là các viên chức Mỹ. Tại Sài
G̣n, để bảo mật, ngay sau nửa đêm 20/8, Nhu cho
lệnh cắt
đứt dây điện thoại tới Ṭa Đại sứ Mỹ và tư gia
các viên chức Mỹ. Bởi thế, ngày 21/8, từ Trueheart
tới Chánh sở CIA John H. Richardson đều không biết
rơ chính Diệm đă cho lệnh, hay các Tướng
lănh đă làm đảo chính, đánh chiếm
chùa chiền. Ngộ nhận các Tướng làm đảo
chính, đài VOA và Bộ Ngoại Giao Mỹ nghiêm
khắc qui trách cho quân đội.( 188)
Măi tới 6G00 sáng ngày
21/8–sau khi
Diệm đă cho công bố lư do hành
quân cảnh sát lục soát một số chùa,
và giới nghiêm v́ Cộng Sản xuất hiện gần Sài
G̣n–Tướng André Đôn mới điện thoại cho Paul
Harkins thông báo về lư do ban hành thiết
quân luật. Theo Đôn, Diệm cho lệnh Thiết quân
luật để chống lại Phật giáo. Lệnh này chắc không
kéo dài quá ngày bầu cử [Quốc Hội dự
trù vào ngày 31/8/1963]. Đôn cũng tiết
lộ mới chỉ sử dụng 1 tiểu đoàn Dù, 1 tiểu đoàn
TQLC, và quân cảnh ở Sài G̣n. Tuy
nhiên, các đơn vị ven đô đều đặt trong t́nh
trạng báo động. Thiết giáp cũng xuất hiện tại thủ
đô và Chợ Lớn.
Đại sứ Nolting–đang dự hội
nghị Honolulu với tân
Đại sứ Lodge, Hilsman, Đề Đốc Harry D. Felt, và
Paul
Kattenburg, tân Chủ tịch Ủy Ban Đặc Nhiệm Việt Nam
tại Bộ
Ngoại Giao Mỹ–gửi cho Diệm một công điện phản đối,
trách
móc Diệm: “Đây là lần đầu tiên ông
không giữ lời hứa với tôi.” (189)
Hôm sau, 22/8, Tổng thống
Kennedy chỉ thị Lodge nhận
nhiệm sở càng sớm càng tốt, v́ Lodge dự định
ghé thăm Hong kong ít ngày, rồi tŕnh ủy
nhiệm thư vào ngày 26/8. Oat-shinh-tân vội gửi một
phi cơ quân sự đặc biệt cho Lodge tới ngay Sài
G̣n.
Khoảng 21G30 ngày 22/8, Lodge mới có mặt tại thủ
đô
miền Nam. Tới trước Lodge vài tiếng đồng hồ là mật
điện
của Hilsman, chỉ thị phải t́m cách giảm quyền lực
Nhu. (190)
Lodge là một lănh
tụ quan trọng
của Đảng Cộng Ḥa Mỹ. Năm 1960, Lodge từng
đứng chung
liên danh với Richard M. Nixon, nhưng bị liên danh
Kennedy-Johnson của Đảng Dân Chủ đả bại khít khao.
Từ
tháng 6/1963, khi Oat-shinh-tân hỏi ư kiến về việc
đề cử Lodge, Diệm không phản đối, nhưng không dấu
sự bất
măn và lo ngại. Nhu mỉa mai gọi Lodge là
Toàn quyền [Gouverneur General], trong khi Diệm
tuyên bố
dù có gửi ịá10 LodgeáỂ qua Việt Nam, Mỹ vẫn
phải huấn luyện người bắn pháo binh vào Dinh Gia
Long.
Trong buổi tiếp kiến
Kennedy vào trưa ngày
15/8, Lodge có cảm tưởng rằng Kennedy đặc biệt lo
ngại về
t́nh h́nh Việt Nam, và hàm ư rằng
chế độ Diệm đang đi vào đoạn kết. Cuộc tấn công
chùa ngày 21/8 đặt Lodge trước một việc đă rồi.
Một cái tát xiếc, như một kư giả Mỹ nhận định, nếu
xét kỹ những áp lực và đ̣i hỏi “ḥa
hoăn với Phật giáo” của Oat-shinh-tân.
Ngay trong ngày 23/8, Lodge
cho nhân viên
đi tiếp xúc hầu hết các nhân vật cao cấp Việt để
có được một h́nh ảnh rơ ràng về t́nh
h́nh. Lodge c̣n mời các kư giả Mỹ tới tham
khảo hầu cải thiện liên hệ giữa Ṭa Đại sứ với
các kư giả. Không kém quan trọng, Lodge cho
người đi tháo gỡ dây kẽm gai mà Cảnh sát
giăng kín trụ sở USOM, đích thân tiếp xúc
hai nhà sư xin tị nạn, và gặp đại diện nhóm
Caravelle. Lodge c̣n tiếp xúc với Đại sứ Italia
Giovanni d’Orlandi và Khâm sứ Vatican Salvatore
d’Asta.
Chỉ trong ṿng 24 giờ, Lodge đă nắm vững được t́nh
h́nh. Trước hết, quân đội không dính
líu ǵ đến cuộc tấn công chùa chiền,
và nhiều nhóm muốn làm đảo chính.
Nhân viên CIA Lucien
“Lu” Conein
và Rufus Phillips được Nguyễn Đ́nh Thuần,
Vơ Văn Hải, Chánh văn pḥng của Diệm, André
Đôn, và Lê Văn Kim, khẳng định rằng chính
Nhu cầm đầu cuộc tấn công chùa chiền.( 191) Buổi nói chuyện giữa
Đôn và Conein tại Bộ Tổng Tham Mưu khiến Lodge
chú ư nhất. Đôn yêu cầu đài VOA
cải chính là không phải quân đội đă
tham gia cuộc đàn áp, tấn công các
chùa chiền, mà chính Cảnh sát đặc biệt của
Nhu. Theo Đôn, khoảng 1,420 tăng ni bị bắt giữ
khắp miền Nam
trong ngày 21/8. Nhu là “khối óc” [thinker] của
Diệm; nhưng Diệm có quyền quyết định. Lệ Xuân hành
xử như “vợ” [platonic wife] Diệm. Diệm chưa bao
giờ lấy vợ và
không quen có đàn bà bao quanh. Chín
năm qua, Lệ Xuân chăm sóc Diệm sau mỗi ngày
làm việc mệt nhọc. Lệ Xuân nói chuyện, giúp
Diệm giải tỏa áp lực, và giống như bất cứ người vợ
nào, thống trị gia đ́nh. Giữa Diệm và Lệ
Xuân không có liên hệ t́nh dục,
v́ Diệm chưa hề trải qua mùi vị nam nữ. Diệm và Lệ
Xuân, theo Đôn, giống như Hitler và Eva Braun.
Đôn cũng tiết lộ Diệm rất thích những thanh niên
đẹp trai. Một Trung sĩ làm vườn đă được cất nhắc
lên Trung tá, trông coi dinh điền quân đội,
nhờ đẹp trai. Theo Đôn, không thể tách rời Diệm
với vợ chồng Nhu. Nếu phải chọn giữa Diệm và Nhu,
Đôn
muốn Nhu ra đi.( 192)
Tướng Lê Văn Kim, phụ tá
báo chí
của Đôn, tâm sự với Phillips, Giám đốc
Pḥng Cải Cách Điền Địa của cơ quan USOM, đặc
trách Ấp Chiến Lược, là quân đội đă trở
thành “tay sai” của Nhu. Chính Nhu đă bầy mưu để
các Tướng yêu cầu ban hành thiết quân luật.
Và, 1426 tăng ni, Phật tử đă bị bắt giữ. Sáng
ngày 23/8, sinh viên Y khoa và Dược đă bắt
đầu biểu t́nh. Nhu đă cho lệnh Cao Xuân Vỹ tổ chức
phản biểu t́nh vào ngày 25/8.
Trong bữa điểm tâm tại
tư dinh Nguyễn
Đ́nh Thuần ngày 24/8, Thuần cũng nói với
Phillips rằng vợ chồng Nhu phải ra đi. Theo Thuần,
ngày
hôm trước (23/8), Diệm đă viết thư cho Lệ Xuân,
yêu cầu từ nay đừng tuyên bố ǵ nữa. Diệm cũng
đă chuyển cho Bénoit Trần Tử Oai và Tổng
Giám Đốc Thông Tin [Phan Văn Tạo?] biết lệnh
này. Theo Thuần, Mỹ đừng lo ngại việc mở cửa cho
Cộng Sản với
cái giá phải yểm trợ một chính phủ có Nhu.
Nếu Mỹ cả quyết, các Tướng sẽ hành động.( 193)
Vị đắng của cảm giác
bị anh em Diệm-Nhu “phản
bội” và ư niệm vai tṛ Diệm đă mất đi sự
tối thiết hoặc hữu dụng trong chiến lược của Mỹ
khiến Lodge giữ
thái độ xa cách với Dinh Gia Long. Sách lược của
Lodge là giai đoạn mềm mỏng dưới thời Nolting đă
qua.
Diệm phải t́m đến Lodge–như ngày nào Diệm
đă phải t́m đến tu viện Maryknoll ở New Jersey và
Oat-shinh-tân cầu viện trợ. V́, thực ra Diệm cần
Mỹ hơn Mỹ
cần Diệm.
Chỉ có Tướng
Harkins vẫn ủng hộ Diệm. Trong
báo cáo ngày 22/8 về Oat-shinh-tân, Harkins
tán thành việc tấn công các chùa,
v́ muốn ổn định t́nh h́nh. Harkins cũng
không đồng ư việc đặt Đôn lên chức Tổng
Tham Mưu trưởng, hay Đính nắm Quân đoàn III
và Biệt Khu Thủ Đô, v́ việc bổ nhậm này
tạo cho phe đảo chính cơ hội nắm quyền dễ dàng.( 194)
Tuy nhiên, phe Cố vấn
ANQG Bundy cùng
Harriman và Hilsman tại Bộ Ngoại Giao
cảm thấy
đă quá đủ với họ Ngô. Ngày cuối tuần 24/8,
XLTV Ngoại trưởng George Ball bật đèn xanh cho
Lodge t́m
một giải pháp khác Diệm.
KẾT TỪ:
Mùa Phật Đản 2507
(1963) đă đi
vào lịch sử Phật giáo Việt Nam như một trong những
trang
bi hùng nhất. Bảy ngọn lửa cúng dường cho đạo pháp
của tăng ni làm rúng động lương tâm nhân
loại, ngoại trừ anh chị em nhà họ Ngô và nha trảo,
trong “cơn điên cuồng tập thể của một gia đ́nh cai
trị
chưa từng thấy từ thời các Nga hoàng.”( 195)
Đây là lần đầu tiên Phật
Giáo
đă vượt ra ngoài thế thụ động, “xuất thế” quen
thuộc,
đứng lên tranh đấu cho quyền tự do và b́nh đẳng
tín ngưỡng của ḿnh. So với đồng đạo ở phía Bắc vĩ
tuyến 17, lănh đạo Phật Giáo miền Nam đă chứng tỏ
một ḷng v́ đạo cao sâu hơn nhiều bậc. Họ đă
giành đoạt được quyền tự do và b́nh đẳng tôn
giáo bằng máu, nước mắt và mồ hôi, mà
không chờ đợi, van vái ân sủng của nhà cầm
quyền.
Cuộc tranh đấu của Phật
Giáo miền Nam trong năm 1963,
qua những tài liệu văn khố hiện đă giải mật, nặng
tính chất tôn giáo hơn chính trị. Mặc
dù chế độ Diệm-Nhu-Thục cố t́nh diễn giải cuộc
tranh đấu
của Phật Giáo dưới góc cạnh xấu xí nhất–như nặng
mang tính chất chính trị hơn tôn giáo,
có bàn tay Cộng Sản giật giây, có bàn
tay ngoại cường (hiểu như người Mỹ), v.. v...– mùa Phật đản đẫm máu 1963
là cao điểm
của phong trào duy tân Phật Giáo Việt Nam từ thập
niên 1920. Tính cách phi-chính-trị của cuộc
tranh đấu khiến người Mỹ, đặc biệt là Cố vấn ANQG
Bundy
và Đại sứ Lodge ra sức tiếp trợ. Nói cách
khác, cuộc tranh đấu của Phật Giáo đă khơi động
niềm cảm phục của các viên chức Mỹ cũng như dư
luận thế
giới, nơi giáo hội và chính phủ đă
hoàn toàn biệt phân, và tự do tín
ngưỡng được coi như nhu cầu tối thiết, một quyền
người cơ bản. Ngay đến
đại diện Vatican ở Sài G̣n cũng phải cảnh cáo Diệm
rằng việc đàn áp Phật Giáo là một tội
ác, làm giảm uy tín giáo hội Ki-tô.
Các tăng ni lănh đạo phong
trào tranh
đấu không chỉ chứng tỏ tinh thần Bồ tát đại dũng
trước bạo
lực, sẵn sàng dùng nhục thân bảo vệ Phật
pháp, mà c̣n chứng tỏ một chiến thuật vận động đấu
tranh tỉ mỉ, xuất sắc. Họ đă phối hợp giữa vận
động quần
chúng và các cơ quan truyền thông quốc tế để
tạo nên những biến động thu hút dư luận và cảm
t́nh của ngay những người chưa đủ khả năng t́m
kiếm ra vị
trí Việt Nam trên bản đồ thế giới.
Cuộc tranh đấu của Phật
Giáo hẳn có thể
đă không xảy ra, hoặc giảm bớt cường độ và
rút ngắn về thời gian, nếu nhà cầm quyền khéo
léo kiểm soát và giảm thiểu những hậu quả tại hại.
Nhưng chế độ Diệm-Thục-Nhu, giống như bất cứ một
chế độ giáo
phiệt tương tự nào, đă đánh giá thấp
biên độ và khả năng phát triển của phong
trào tranh đấu. Họ đă sử dụng nguyên vẹn những thủ
thuật đă áp dụng đối với Cao Đài, Ḥa
Hảo, B́nh Xuyên của tám chín năm trước, khi
người Mỹ can đảm hy sinh cả giao t́nh với nước
Pháp để
giữ Diệm ở lại chiếc ghế Thủ tướng. Nhưng hơn tám
năm đă
qua, hơn hai tỉ Mỹ kim đă đổ vào Việt Nam. Viễn
ảnh thua
trận bắt đầu ám ảnh những chuyên viên về Việt Nam,
mà Fishel, Mendendall hay Mansfield chỉ là ít
nhân vật tiêu biểu. Dù rằng vẫn chưa có một
con ngựa nào khá hơn Diệm xuất hiện, các
viên chức Mỹ đă mất đi ảo tưởng về khả năng duy
tŕ
một miền Nam chống Cộng của họ Ngô. Đó là chưa
nói đến mối bận tâm canh cánh bên ḷng
về âm mưu ve văn Cộng Sản của anh em Diệm-Nhu
trong
mùa Xuân-Hè 1963, hoặc mối đại họa là bỗng
một ngày nào đó Diệm-Nhu công khai
đ̣i Mỹ triệt thoái khỏi Nam Việt Nam.
Cuộc tranh đấu của Phật
Giáo cũng bùng nổ trong
một t́nh thế an ninh-quân sự đặc biệt. Từ năm
1962-1963,
Bắc Kinh đă sốt sắng hơn trong việc sử dụng thanh
nam, thanh nữ
và tài nguyên Việt Nam, Lào,
Kampuchea–cùng cái gọi là học thuyết Mao về “chiến
tranh giải phóng”–để gạt ảnh hưởng Mỹ khỏi ngưỡng
cửa chiến lược
Đông Nam. Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam đă
có cả lực lượng vũ trang lên tới cấp trung đoàn,
và một hệ thống hành chính nông thôn,
cùng t́nh báo tại các thành thị. Mặc
dù không chính thức ủng hộ cuộc tranh đấu của Phật
Giáo, Trung Ương Cục Miền Nam–mới được cải tổ vào
cuối
Hè 1961–đă lợi dụng cơ hội gửi cán bộ t́nh
báo chiến lược xâm nhập vào thành thị,
khoét dần những lỗ hổng làm cơ sở tiềm sinh trong
giới
sinh viên, học sinh, tôn giáo. Cho đến một
lúc, các lănh đạo Phật Giáo mới khám
phá ra rằng chiến thắng của Phật Giáo năm 1963 mới
chỉ
là chiến thắng phiến diện. Giai đoạn 1966-1968,
khi Cố vấn QNQG
Bundy đă rời chính quyền và Lodge cùng
Ellsworth Bunker đă mất hết thiện cảm, các lănh tụ
Phật Giáo sẽ tri nghiệm được rằng đừng nên trộn
lẫn giữa
tôn giáo và chính trị.
9/2003-9/5/2010
Chính
Đạo
© 2004,
2010, by Chieu
N. Vu. All Rights Reserved
Phụ
chú:
1. CĐ số 9195,
ngày 6/5/1963,
Quách Ṭng Đức gửi Đô trưởng
Sài G̣n, Tỉnh trưởng, Thị trưởng, các Đại biểu
CP; Trung Tâm Lưu Trữ Quốc Gia [TTLTQG] II (Thành
phố Hồ
Chí Minh), Phủ Tổng thống Đệ Nhất Việt Nam Cộng
Ḥa
[PTT/Đ1CH], Hồ sơ [HS] 8501; 8352. Một học giả
Việt Nam cũng từng
tham khảo tư liệu này; Lê Cung, Phong trào
Phật
Giáo miền Nam Việt Nam năm 1963 (Huế: Thuận
Hóa,
2003), tr. 131-32.
2. Lời khai của Bénoit Trần
Tử Oai, [Bộ trưởng
Thông tin], Bùi Văn Lương, Ngô Đ́nh Diệm,
Ibid., tr. 16; Ngô Đ́nh Nhu: Ibid., tr. 16-20;
Nguyễn
Ngọc Thơ: Ibid., tr. 20-1; Nguyễn Đ́nh Thuần:
Ibid., tr.
25-7; trong UN/GA Official Records, Agenda Item
77: “The violation
of Human rights in South Vietnam;” Doc.
A/5630, 7/12/1963, tr. 22,
23, 16 [Diệm], 16-20 [Nhu], 20-1 [Thơ], 25-7
[Thuần 12-6] [ [Sẽ dẫn
UNGA Doc. A/5630].
3. Xem, thư ngày 20/2/1962,
Thích Tịnh Khiết
gửi Ngô Đ́nh Diệm, về việc đàn áp Phật
Giáo tại Phú Yên, B́nh Định, Quảng
Ngăi, Quảng Nam; TTLTQG II (TP/HCM), PTT/Đ1CH, HS
7941; thư
ngày 17/2/1962, Wesley Fishel gửi John A. Hannah,
Viện trưởng
Đại học Tiểu bang Michigan (MSU); Foreign
Relations of the
United States [FRUS], 1961-1963, II:148-52;
báo cáo
của Đại sứ Roger Lalouette ngày 10/3/1962; Chính
Đạo, Việt Nam Niên Biểu, 1939-1975 [VNNB],
I-C: 1955-1963,
tr. 248-50. Xem thêm chú [32] infra.
4. TTLTQG 2 (TP/HCM),
PTT/Đ1CH, HS 8540. Xem thêm
Thích Trí Quang, “Cuộc vận động Phật giáo Việt
Nam: Giai đoạn phát khởi;” Liên Hoa nguyệt san
(29/1/1964), tr. 22, 28; dẫn trong Vũ Văn Mẫu, Sáu
tháng
pháp nạn 1963 (Giao Điểm: 2003), tr. 91.
5. Thư ngày 11/3/1955, gửi
Thủ tướng, của
Đoàn Trung Côn [C̣n], Hội trưởng sáng
lập Tịnh Độ Tông Việt Nam, TTK Ủy ban vận động
Phong
trào Phật Giáo Xă hội; TTLTQG II (TP/HCM), Phủ Thủ
tướng [PThT], HS 29229: (Phật Giáo, 1954-1955).
Xem bảng tổng
kết số chùa tại miền Nam vào tháng 9-10/1963 trong
Ibid., PTT/Đ1CH, HS 8506, & 8512.
6. VNCH, Vấn đề Phật Giáo:
Lập trường của chính
phủ VNCH: Văn kiện căn bản, Tập I (từ 6/5/1963 tới
21/8/1963), tr. 1;
TTLTQG II (TP/HCM), PTT/Đ1CH, HS 8511. Người chủ
biên tập
tài liệu ba thứ tiếng Việt, Anh, Pháp, gồm 3 tập
này là Tôn Thất Thiện, của Việt Tấn Xă. Xem
thêm chi tiết trong Ibid., HS 8368 và 8507.
7. TTLTQG 2 (TP/HCM),
PTT/Đ1CH, HS 8507.
8. Archives du Ministère
des Affaires
Etrangères [AMAE] (Paris), Cambodge-Laos-Vietnam
[CLV], Sud
Vietnam [SV], 17:70-3.
9. Xem Phụ Bản I,
Chính Đạo, Tôn
Giáo & Chính Trị: Phật Giáo, 1963-1967
(Houston: Văn Hóa, 1994). Đa số chi tiết dưới đây
rút từ tài liệu Mỹ ngữ trên. Chúng tôi
chỉ ghi tài liệu khác nếu cần thiết. Xem thêm Cao
Văn Luận, Bên Gịng Lịch Sử (Sài
G̣n: 1972), tr. 328. Ngày 16/9/1963, Lănh sự
Pháp ở Tourane báo cáo rằng theo Tướng
Nghiêm chính sách bài Phật giáo chỉ
là của Thục. Ngày 8/5, khi Nghiêm vào
Sài G̣n gặp Diệm, Diệm cho lệnh phải thẳng tay với
Phật
giáo, và nhận lệnh từ Cẩn. Đại tá Đỗ Cao
Trí, Tư lệnh Sư đoàn 1, được lệnh “duy tŕ trật tự
ở Huế.” Sau đó Trí được thăng cấp Tướng, thay
Nghiêm nắm Vùng I. AMAE (Paris), CLV, SV, 17:70-3.
Về
những việc làm của Trí, xem TTLTQG II (TP/HCM),
PTT/Đ1CH, HS 8527.
10. Xem TTLTQG II (TP/HCM),
PTT/Đ1CH, HS 8425.
11. Nguyễn Văn Đẳng, “Phúc
tŕnh của
Ṭa Hành chánh tỉnh Thừa Thiên về lễ Phật
Đản tại Huế (20/5/1963),” tr. 2; TTLTQG II
(TP/HCM), PTT/Đ1CH,
HS 8529; Báo cáo số 249-VP/M, ngày 10/5/1963;
[Ibid., TNTP.167; Lê Cung, 2003:136.Theo một nguồn
tin, Cẩn
c̣n sai Hồ Đắc Khương, Đại biểu Chính phủ tại
Trung nguyên Trung Phần, gửi điện tín xin hoăn thi
hành lệnh trên. Cẩn cũng bảo Đẳng đừng can thiệp
v́ có giao t́nh với Tổng Hội Phật Giáo Việt
Nam và, theo lời đồn, bài vị Ngô Đ́nh
Dinh, cha Ngô Đ́nh Khả, c̣n đặt tại chùa
Diệu Đế. Dinh theo đạo thờ cúng tổ tiên. Khả
(1856-1914), cha Diệm, là người đầu tiên theo đạo
Ki-tô, và hành nghề thông ngôn trong
thời gian Pháp đánh chiếm Bắc và Trung Việt. Chức
vụ cuối cùng của Khả là Đề đốc kinh thành
vào cuối đời Thành Thái, và được hàm
Thượng thư khi về hưu. Nhờ tước hàm Thượng thư này
của
Khả, năm 1917 Diệm được tập ấm chức cửu phẩm, làm
việc tại
Tân Thư viện Huế, tức Musée Khải Định. Xem
Chính Đạo, “Jean Baptiste Ngô Đ́nh Diệm
(1897-1963);” Cuộc thánh chiến chống Cộng
(Houston: Văn
Hoá, 2004). Cũng có tin bài vị Dinh đặt tại
chùa Từ Hiếu. Tuy nhiên, vào tháng 12/2004,
chưa thể khẳng định có chăng bài vị nói trên
(tiếp xúc với một tăng của chùa này).
12. UN Doc. A/5630,
7/12/1963:22, col2; Báo cáo
số 2262-TT/VP/BTM, ngày 9/5/1963, Thừa Thiên
gửi BNV;
TTLTQG II (TP/HCM), PTT/Đ1CH, HS 8529. Xem thêm
Thích
Trí Quang, “Cuộc vận động Phật giáo Việt Nam: Giai
đoạn
phát khởi;” Liên Hoa nguyệt san
(29/1/1964), tr.
22, 28; dẫn trong Vũ Văn Mẫu, Sáu tháng pháp
nạn 1963 (Giao Điểm: 2003), tr. 91.
13. Xem thêm Nguyễn Ngu
Í, “Đại
học Huế tranh đấu chống chế độ cũ qua hai giờ
nói chuyện
với Giáo sư Lê Tuyên;” Bách Khoa, số
171 (15/2/1964), tr. 37-47, và số 172 (1/3/1964),
tr. 27-42. Sẽ
dẫn: Nguyễn Ngu Í, 1964a, và Nguyễn Ngu Í, 1964b.
14. CĐ số 5,
10/5/1963, Huế gửi BNG; FRUS,
1961-1963, III:284; Airgram A-20, 3/6/1963,
Helble gửi Sài
G̣n; Ibid., III:277,n2; Chính Đạo, VNNB,
I-C:1955-1963, tr. 279-80; US-Vietnam
Relations, 1945-1967,
Bk 3, p. 5.
15. Xem danh sách các nạn
nhân trong
Phụ lục đính kèm của báo cáo của
Nguyễn Văn Đẳng ngày 20/5/1963; TTLTQG II
(TP/HCM),
PTT/Đ1CH, HS 8529. Sỹ sau này bị kết án chung
thân khổ sai, nhưng được Nguyễn Văn Thiệu ân xá
vào năm 1966 sau cuộc nổi dạy của miền Trung.
16. CĐ số 100/MM,
ngày 9/5/1963, TNTP
gửi Đổng lư VPTT; TTLTQG II (TP/HCM),
PTT/Đ1CH, HS 8523.
17. TTLTQG II (TP/HCM),
PTT/Đ1CH, HS 8529 [?].
18. Xem, chẳng hạn, báo cáo
của Thị trưởng
Huế và các cấp chỉ huy cảnh sát, quân đội
trong TTLTQG II (TP/HCM), PTT, Đ1CH, HS 8529.
19.
Ibid., HS 8506.
20. UN/GA Doc. A/5630,
1963, tr. 12, col.2.
21. “I had
concluded, according to the specialists in
artillery and artificiers, whom we had
consulted in Hue and Sai Gon,
that it was probably bombs of plastic . . . that we had many
bullets because
the United States had given us many free, but we
had no plastic;
plastic is the arm of the Viet Cong guerilla.” A/5630,
1963:24,
col 1.
22. UN/GA Doc. A/5630,
1963:22-3.
23. FRUS, 1961-1963, III:284-85.
24. Tâm thư 10/5/1963, công
điện cùng
ngày của Thích Tịnh Khiết, và tài liệu giải
thích ngày 16/5/1963, 23/5/1963 (Tịnh Khiết, Mật
Nguyện,
Mật Hiền, Trí Quang, Thiện Siêu kư) có thể
t́m thấy trong TTLTQG II (TP/HCM), PTT/Đ1CH, HS
8541
và 8531. Bản dịch Mỹ ngữ trong FRUS,
1961-1963,
III:287-88. Chùa Tường Vân ở xă Thủy Xuân,
Hương Thủy. Ngảy 9/9, thị trưởng Huế là Nguyễn Mâu
tổ chức
một buổi học tập cho các Ni cô tại chùa Diệu
Đức, xă Thủy Trường, Hương Thủy. 62 người tham
gia. Theo
Mâu, có tin Việt Cộng rất lo sợ về những lớp “cải
huấn”
của Mâu. Bởi thế Mâu cho lệnh câu lưu điều tra hai
sư
Lưu Phương (Trương Văn Sung) ở chùa Trúc Lâm
và Tâm Thành (Nguyễn Đ́nh Hiệp) ở
chùa Tường Vân xă Thủy Xuân, Hương Thủy,
v́ hai sư này đi vận động dân chúng để được
miễn học tập. (CĐ số 5010-TT/NA/CT-M, ngày
9/9/1963, Nguyễn
Mâu gửi BNV; TTLTQG 2 (TP/HCM), PTT/ĐICH, HS 8529)
25. Công báo Việt Nam
[CBVN], III:3
[19/8/1950]:434-437. Người soạn thảo luật
này là
Nguyễn Khắc Vệ, Tổng trưởng Tư Pháp của chính phủ
Trần
Văn Hữu. Bản dịch Anh ngữ Dụ số 10 ngày 6/8/1950
cùng hai
tu chính ngày 19/12/1952 và 3/4/1954 trích
in trong phần phụ bản XV của UNGA, Doc. A/5630,
7/12/1963:86-9.
26. Nguyễn Ngu
Í 1964a:40-1. [Xem
chú 13 supra]
27. CĐ ngày 13/5/1963,
Thừa Thiên gửi
BNV; TTLTQG II (TP/HCM), PTT/Đ1CH, HS 8529; FRUS,
1961-1963,
III:288, n3. Đại biểu chính phủ cũng yêu cầu
hoăn ngày cầu siêu cho nạn nhân Huế từ 14/5
tới 21/5;
28. Tâm Châu, Bạch Thư
về vấn đề chia rẽ của
Ấn Quang với Việt Nam Quốc Tự (Montréal: Tổ
đ́nh Từ
Quang, 1994), tr:17. Một nhân chứng khai UBLP/BVPG
gồm 14 hội
đoàn. Xem thêm Việt Nam Cộng Ḥa, Phủ Tổng thống,
Phủ Đặc Ủy Trung Ương T́nh Báo, “Bản nghiên cứu
đặc biệt: Phật Giáo Việt Nam” [n.d.]; PTT/ Đ1CH,
HS 8573.
29. Tục danh Đoàn Văn Hanh,
sinh khoảng năm 1922
tại Ninh B́nh, Bắc Việt. Tu tại chùa Xuân Dương,
huyện Đa Phúc, Phúc Yên (Phái Vĩnh
Nghiêm). 1951: Cùng Tố Liên vào Huế tổ chức
Đại hội thống nhất Phật giáo. 1952: Phó Trị sự
Giáo Hội Tăng Già Toàn Quốc Việt Nam. 1955: Tham
gia Giáo Hội Tăng Già Bắc Việt tại miền Nam. 1959:
Thành lập Hội Phật Giáo Quán Âm Phổ Tế. Trụ
sở tại 584/1 đường Phan Thanh Giản Sài G̣n.
1/1963: Lập
Ủy Ban Liên Phái chống phim Sakya. 9/5/1963: Thành
lập Ủy Ban Liên Phái Bảo Vệ Phật Giáo, qui tụ 11
hội đoàn. Trụ sở đặt tại chùa Xá Lợi. 25/5/1963:
Phát động phong trào tranh đấu tích cực ở miền
Nam. 30/5/1963: Tuyệt thực 48 giờ cùng hàng trăm
tăng ni.
Thứ Sáu, 14/6/1963: Tham gia phái đoàn Phật
Giáo nói chuyện với Ủy Ban Liên Bộ của chính
phủ Diệm. 16/7/1963: Dẫn đầu một đoàn biểu t́nh
trước tư
dinh Đại sứ Nolting. 21/8/1963, mờ sáng: Bị bắt
tại
chùa Xá Lợi cho tới ngày 1/11/1963. 31/12/1963:
Tham dự Đại Hội Thống Nhất Phật Giáo ở Chùa Xá
Lợi [cho tới ngày 4/1/1964]. Được bầu làm Chủ tịch
Viện Hoá Đạo với nhiệm kỳ 2 năm. 13/1/1964: Nhận
chức Viện
trưởng Hoá Đạo. 20/1/1965: Cùng Trí Quang,
Pháp Tri, Thiện Hoa và Hộ Giác tuyệt thực chống
chính phủ Trần Văn Hương. 27/1/1965: Hội Đồng Quân
Lực
ra tuyên cáo nắm lại chính quyền. Viện Hoá
Đạo ra lệnh ngừng tranh đấu. Các sư ngưng tuyệt
thực.
24/8/1964: Khánh yêu cầu Trí Quang, Tâm
Châu và Thiện Minh kêu gọi sinh viên, học sinh
và Phật tử ngưng biểu t́nh. Các lănh tụ
Phật giáo ra điều kiện: hủy bỏ hiến chương Vũng
Tàu,
thành lập chính phủ dân sự, bảo đảm tự do tôn
giáo, và tổ chức bầu cử ngày 1/11/1965. /1975: Tị
nạn ở Pháp, rồi Canada. Hiện tu tại Tổ đ́nh Từ
Quang,
Montréal, Québec. 9/1/1995: Cùng 126 tăng sĩ
kư tên vào kháng thư phản đối việc bắt giữ
Huyền Quang và Trí Độ. 2/5/1995: Tham dự biểu
t́nh ở Oat-shinh-tân.
30.
Thiện Hoà, tục danh Hứa Khắc Lợi, sinh tại Chợ
Lớn, đi tu từ năm
1935. 1935: Theo học Phật học đường Lưỡng Xuyên.
1936-1938: Theo
học An Nam Phật học đường tại chùa Tây Thiên, Huế.
1938-1939: Theo học Phật học đường Long Khánh,
B́nh
Định. 1939: Theo học Phật học đường Báo Quốc, Huế.
1945-1950: Ở Bắc. 5/1950: Về Sài G̣n. Dạy tại Phật
học
đường Sùng Đức. 1951: Giám đốc Phật học đường Nam
Việt tại chùa Ấn Quang. 1953: Trị sự trưởng
GHTGNV. 1959: Trị sự
trưởng GHTGTQ. 15/5/1963: Gặp Ngô Đ́nh Diệm về 5
nguyện vọng của Phật Giáo. 26/8/1963: Chủ tịch Ủy
Ban Liên
Hiệp Bảo Vệ Phật Giáo Thuần Túy, ủng hộ Ngô
Đ́nh Diệm. 1967: Tổng Vụ trưởng TV Tài chính
& Kiến thiết của GHPGVNTN tại Ấn Quang. 1973:
Phó Tăng
Thống. 7/2/1978: Chết tại chùa Ấn Quang.
31. CĐ 1066, ngày
9/5/1963, BNG gửi
Sài G̣n, FRUS, 1961-1963, III:283. Xem
thêm
báo cáo ngày 18/6/1962 của Bùi Văn Lương;
TTLTQG II KLTQG II (TP/HCM), PTT/Đ1CH, HS 7941.
32. FRUS, 1961-1963, III:310.
33. Bộ Công Dân
vụ [Civic Action] bao
gồm Tổng Nha Thông tin dưới quyền Phan Văn Tạo.
34. FRUS, 1961-1963, III:309-310;
Mẫu 2003:246-255.
35. Tâm Châu, Bạch Thư về
vấn đề chia rẽ của Ấn
Quang với Việt Nam Quốc Tự (Montréal: Tổ đ́nh Từ
Quang,
1994), tr. 18.
36. Không rơ Lương hay
VTX của Tôn
Thất Thiện và Đặng Đức Khôi đă phát
minh ra lối giải thích mới này.
37. FRUS, 1961-1963, III:311.
38. Đề nghị này
Nolting đă
tŕnh về BNG ngày 18/5 và được Rusk chấp thuận ba
ngày sau, 21/5; FRUS, 1961-1963,
III:312,n3.
39. FRUS, 1961-1963, III:314.
Sau
này, Nhu c̣n phát minh ra lối giải thích
“pain of growth” [sự đau đớn khi phát triển] của
Phật
giáo Việt Nam, một hiện tượng quen thuộc của các
nước
chậm tiến.
40. Gravel, II:226. Theo
Trueheart, Diệm có vẻ “giận
dữ” [quite agitated], và không muốn nghe theo lời
khuyên của Mỹ; FRUS, 1961-1963, III:338.
41. CĐ ngày 19/5/1963,
Thừa Thiên gửi
BNV; TTLTQG II KLTQG II, PTT/Đ1CH, HS 8529.
42. Ibid., HS 8541.
43. Ibid.
44. CĐ 1136, 9/6/1963,
Trueheart gửi BNG; FRUS,
1961-1963, III:368.
45. TTLTQG II KLTQG II,
PTT/Đ1CH, HS 8541.
46. VNCH, Vấn đề Phật
Giáo: Lập trường của
chính phủ VNCH: Văn kiện căn bản, Tập I (từ
6/5/1963 tới
21/8/1963), tr. 1; Ibid., HS 8511. Người chủ biên
tập tài
liệu này là Tôn Thất Thiện, Giám đốc Việt
Tấn Xă.
47. Nguyên văn: The
Buddhists (estimated at some ten
million) have long been resentful of the mandarins
of Hue and their
ruling Catholic oligarchy; the Buddhists
particularly resent a host of
restrictions imposed on their religious freedom by
President Diem. Most
of Ngo Dinh Diem’s high Government officials,
chiefs of provinces and
military officers are Catholics, and most young
army officers are
convinced that they must be at least nominal
Catholics if they wish to
rise above the rank of captain. Diem apparently
believes (and with some
reason) that Catholics are more loyal to him
personally and also more
genuinely dedicated in their anti-Communism.
Catholicism, therefore,
seems to have become a kind of status symbol, as
well as a prerequisite
for advancement . . .
The Buddhists say that
most Government supplies pass
through Catholic hands and are distributed
chiefly to Catholics. One
American adviser has reported that Catholic
battalion commanders in
South Vietnam’s army get better equipment and
heavier weapons than the
non-Catholics. In the countryside, there are a
number of villages where
Christian priests are in control and maintain
their own private armies.
In the northern coastal region around Hue, small
units of these troops,
known as the ‘Bishop’s Boys’, are directly
responsible to the
Archbishop, and their primary mission is to
protect churches and
priests. They are armed with United Sattes
weapons and trained at least
in part by United States advisers.
Vast supplies of United
States food relief (wheat, flour,
rice, cooking oils) are distributed in South
Vietnam through Catholic
Relief Services to Catholic priests in the
provinces. Some Viet-Namese
are convinced that many of these supplies never
reach the intended
beneficiaries but find their way into the black
market instead.” A/5630:90.
48. NYT, 29/5/1963;
FRUS, 1961-1963, III:335-336.
49. CĐ 1162,
30/5/1963, BNG gửi Sài
G̣n; FRUS, 1961-1963, III:337n3.
50. Thư ngày 28/5/1963, Tâm
Châu gửi TT;
Báo cáo ngày 30/5/1963 của Q. Đô trưởng
Vũ Tiến Huân; TTLTQG II KLTQG II, PTT/Đ1CH, HS
8501.
51. FRUS, 1961-1963, IV:340-341.
52. Xem Trần Ngọc Châu,
“Phúc tŕnh
về cuộc tranh chấp của Tỉnh hội Phật giáo
tại Đà Nẵng” (19/9/1963); TTLTQG II (Sài
G̣n), HS 8520.
53. TTLTQG II KLTQG II,
PTT/Đ1CH, HS 8520.
54. FRUS, 1961-1963,
III:343-347; A/5630.
55. FRUS, 1961-1963,
III:348-349. Tướng
Đôn báo cáo rằng đây là loại lựu
đạn cay Pháp sử dụng trong Thế chiến thứ nhất
(1914-1918).
56. Ngày 26/2/1964, Thích
Trí Quang
yêu cầu Thủ tướng Nguyễn Khánh điều tra và trừng
trị thủ phạm; đồng thời bồi thường xứng đáng cho
các nạn
nhân. Ngày 7/3/1964, đích thân Trí
Quang gặp Thiếu tướng Tôn Thất Xứng, Tư lệnh QĐ I,
Vùng I Chiến thuật, yêu cầu giải quyết. Ngày
17/3/1964, Thiếu tướng Xứng xác nhận một đơn vị
quân đội
đă nhận lệnh xua chó berger và ném lựu đạn
cường toan vào đám đông Phật tử đang tiến đến
chùa Từ Đàm. Ngày 5/3/1964, Nha CS
Trung nguyên Trung phần đă xác nhận việc
này. “Hiện c̣n khoảng 40 nạn nhân bị xuất
huyết, mắt càng ngày càng mờ, cơn điên cuồng
ngày càng tăng.” [41 người bị thương trong
các
ngày 3, 4, 5, và 6/6/1963 điều trị tại Huế. 20
người xin
về nhà. 47 người trong số trên là Phật tử. Danh
sách do Nha CSBTNTP: 45 người. Phật tử trở lại
điều trị ở Huế,
10 người]; (PThT, HS 29369) Ngày 21/3/1964, do sự
can thiệp của
Đại tá Nguyễn Chánh Thi, 12 nạn nhân được phi
cơ quân sự đưa từ Huế vào Sài G̣n. 5 người
điều trị tại Grall, 7 người khác ở Tổng Y Viện
Cộng Ḥa.
(Tờ tŕnh số 330/BYT/VP/M, ngày 13/4/1964, Đại
tá Vương Quang Trường gửi Phó Thủ tướng đặc trách
Văn Hóa-Xă hội; (PThT, HS 29369)
57. FRUS, 1961-1963,
III:349-52.
58. Xem Chính Đạo, “Phiến
Cộng trong Dinh Gia
Long;” Đi Tới (Montréal, Canada), số 73 & 74,
9-10/2003,
tr. 46-77; Idem., Cuộc thánh chiến chống Cộng
(Houston,
TX: Văn Hoá, 2004). Bản cập nhật đăng trên
Hợp Lưu
online [hopluu.net] va vietnamvanhien.net..
59. Xem báo cáo của Nha
Cảnh Sát Bắc
Trung nguyên Trung Phần về những hành động và
âm mưu của người Mỹ có liên hệ đến cuộc đấu tranh
của Phật Giáo, 12-16/9/1963 [Thiếu tá Đào
Quang Hiếu, 16/9/1963]; HS 8502.
60. FRUS, 1961-1963, III:356-358;
TTLTQG II,
PTT/Đ1CH, HS 8509.
61. FRUS, 1961-1963, III:359-360,
360-361. Sau
này, mới xác nhận “phần tử quá khích”
là nhóm “Phật giáo nhập thế,” hay “tân
tăng,” mà người dưới phố gọi là “sư hổ mang”–và đa
số đi tu để trốn lính. Họ gọi phái Lục Ḥa Tăng
là “thày cúng.”
62. FRUS, 1961-1963,
III:360; Vấn đề Phật
Giáo, I:1; TTLTQG II, PTT/Đ1CH, HS 8511.
63. CĐ ngày 4/6/1963,
Nguyễn Quang
Tŕnh gửi Viện trưởng Huế; Ibid., HS 8501. Giáo sư
Wulff,
một chứng nhân của cuộc thảm sát 8/5 tại Huế, đă
viết hồi kư về biến cố trên, và bạn ông chụp
được nhiều h́nh ảnh tại nhà xác Huế. Các
tài liệu này được nạp cho Liên Hiệp Quốc, khiến
LHQ
quyết định mở cuộc điều tra. Trong dịp viếng thăm
Bệnh viện Huế
ngày 18/4/1964, Đại tá Nguyễn Chánh Thi
đă yêu cầu di tản những bệnh nhân bị phỏng v́
chất cường toan trong ngày 4/6/1963 tại Huế vào
Sài G̣n điều trị. Xem tờ tŕnh ngày
13/4/1964, Bộ trưởng Y tế gửi Phó Thủ tướng đặc
trách Văn
hoá-Xă hội; TTLTQG II, Phủ Thủ tướng, HS 29369.
64. FRUS, 1961-1963,
III:367-68.
65. “Quyết nghị của
Phong Trào
Phụ Nữ Liên Đới Việt
Nam” (Sài
G̣n, 7/6/1963), TTLTQG II, (TP/HCM), PTT/Đ1CH, HS
8515; FRUS,
1961-1963, III:362n2.
66. The Pentagon Papers
(Gravel), II:208; FRUS,
1961-1963, III:366-69. . Ngày 12/11/1963,
Tướng Trần Tử Oai
tiết lộ với một viên chức Mỹ là Nhu đă trao 12
triệu cho TGĐ Thông tin Phan Văn Tạo để mở chiến
dịch chống
Phật Giáo; Memorandum ngày 13 Nov 1963; LBJL, NS
File,
Country File, Vietnam, Box 1.
67. Năm 1956-1957, Hồ Vinh,
một giáo sư Pháp
văn trường Phan Châu Trinh Đà Nẵng từng bị tra tấn
đến
chết trong nhà lao Thừa Phủ (Huế). Nguyễn Đăng
Ngọc, hiệu
trưởng, một cán bộ Cần Lao, đích thân đến
các lớp đọc bức công điện mật, loan tin “tên Cộng
Sản Vinh” đă “tự tử” trong ngục. Xem thêm lời khai
của
Phan Quang Đông, và bản án Ngô
Đ́nh Cẩn ngày 22/4/1964 về những cuộc thủ tiêu
những người bị vu cáo là Cộng Sản hay gián điệp
Pháp, như Nguyễn Văn Yến, v.. v...
68. CĐ 1194, 8/6/1963
& 1196, 8/6/1963, BNG
gửi Đại sứ Việt Nam; FRUS,
1961-1963,
III:363-364, 364-66. Trong số các đề nghị, BNG yêu
cầu
VNCH “ít nữa cũng tạm thời ít nhắc đến thuyết Nhân
Vị trước công chúng và tuyên truyền của
chính phủ v́ đám đông đồng hóa
Nhân Vị với Ki-tô giáo; bổ nhiệm các
tuyên úy Phật giáo; thành lập một Hội
Đồng Tôn Giáo Quốc Gia, vài tăng hay
lănh tụ Phật tử ứng cử trong cuộc tranh cử vào
Quốc Hội
tháng 8/1963, và cho họ đắc cử [at least
temporarily
playdown Personalism in public pronouncements
and GVN propaganda
because of popular identification Personalism
with Catholicism; appoint
Buddhist chaplains; create National Religious
Council, permit several
monks or lay Buddhist leaders run for and win
seats in August National
Assembly elections [NVN: two monk
representatives]; Ibid.,
III:364-65. Trong báo cáo về Oat-shinh-tân,
Trueheart nói không có ư định gặp Diệm,
v́ Thuần đă đạt được một số tiến bộ. BNG Mỹ đồng
ư.
69. FRUS, 1961-1963, III:369-71.
Giao
t́nh giữa chính phủ Diệm và báo chí
Tây phương đầy sóng gió từ năm 1957, sau khi Diệm
được tâng bốc như “Winston Churchill của Đông Nam
Á.”
70. FRUS, 1961-1963, III:371-73.
Về lễ cầu
hồn cho John XIII, Paul Hiếu không nói đúng sự
thực. Xem văn thư về lễ trên trong TTLTQG II,
PTT/Đ1CH, HS
8428.
71. FRUS, 1961-1963,
III:374. Hiện nay, tại
góc đường Cách Mạng Tháng Tám và
Nguyễn Đ́nh ChiểƯu (trụ sở UyỰ Ban Nhân Dân Quận
3, Thành phố Hồ Chí Minh, tức Ṭa Đại sứ Cao
Miên cũ), c̣n một miếu nhỏ thờ Thượng tọa Quảng
Đức)
72. FRUS, 1961-1963,
III:375-76.
73. FRUS, 1961-1963,
III:376-78.
74. FRUS, 1961-1963,
III:376-78.
75. Mẫu, 2003:277.
76. “Thông điệp của Tổng
thống gởi đồng bào thủ
đô ngày 11/6/1963;” TTLTQG II, PTT/Đ1CH, HS 8506,
8501; NYT, 12/6/1963. Sau này, có lẽ do áp lực Mỹ,
bản dịch tiếng Anh được viết nhẹ hơn: “Buddhism
in Vietnam finds
its fundamendal safeguard in the Constitution of
which I personally am
the guardian.”
77. Nguyên văn: “If
Diem does not take prompt and
effective steps to reestablish Buddhist
confidence in him we will have
to reexamine our entire relationship with his
regime;” CĐ 1207,
11/6/1963, BNG gửi Đại sứ Việt Nam; FRUS,
1961-1963,
III:383.
78. FRUS, 1961-1963,
III:385-87. Theo
tài liệu Bạch Cung ngày 14/6/1963, Kennedy không
biết ǵ về đe dọa giải kết [disassociation] này,
và nhấn mạnh rằng đây là lần chót; từ nay
bất cứ lời đe dọa chính thức nào cần được sự phê
chuẩn của Kennedy. Ibid., III:386-87.
79. Tâm Châu 1994:19; FRUS,
1961-1963,
III:384.
80. FRUS, 1961-1963,
III:387-89. Theo Thuần, Phật
giáo đă sửa đổi đôi chút các
đ̣i hỏi, nhưng Trueheart nhấn mạnh nên bỏ các tiểu
tiết để đạt ngay thỏa ước.
81. FRUS, 1961-1963, III:391.
82. TTLTQG II, PTT/Đ1CH, HS
8509. [Xem Phụ Bản] Xem
thêm Tâm Châu, 1994:41-4; The Pentagon Papers
(Gravel), II:226-27; FRUS, 1961-1963, III:Tài
liệu
177, 178, 179.
83. NYT, 16/6/1963;
FRUS, 1961-1963, III:396-97.
84. NYT, 17/6/1963;
FRUS, 1961-1963, III:396-97.
Theo bản tin AP ngày 17/6, đây là cuộc biểu
t́nh chống chính phủ bạo động nhất từ nhiều năm
qua;
Ibid., III:397n3.
85. Lănh đạo hệ phái này
cho rằng họ
là hệ phái lâu đời nhất tại Việt Nam, với hai
triệu
Phật tử. Măi tới năm 1964, Cổ Sơn Môn mới gia nhập
Giáo Hội Phật Giáo Thống Nhất.
86. TTLTQG II, PTT/Đ1CH, HS
8501; Mẫu, 2003:302-4.
87. TTLTQG II, PTT/Đ1CH, HS
8501; Mẫu, 2003:307-13. Theo
Nhu, TNCH lên tới 1.5 triệu đoàn viên; Ibid.,
tr.300, 304, 310.
88. FRUS, 1961-1963, III:401.
Gene Gregory
từng biết Diệm từ thập niên 1950.
89. FRUS, 1961-1963, III,
tr. 409-10.
90. Nguyên văn bản dịch
tiếng Pháp: “Un bon
catholique, en vertu même de la doctrine
catholique, est le
meilleur des citoyens, attaché à sa patrie,
loyalement
soumis à l'autorité civile établie, sous n'importe
quelle légitime de gouvernement.” Ainsi
s'explique Pie XI
dans l’encyclique illius Magistri du 31 décembre
1929.”
91. Nolting, From Trust
to Tragedy: The Political Memoirs
of Frederick Nolting [Từ tin cậy tới thảm
kịch: Hồi kư
chính trị của Frederick Nolting] (New York:
Preager, 1988), tr.
115-116. Lập luận của Nolting giống hệt tuyên cáo
của
chính phủ Diệm ngày 21/8/1963–“lợi dụng tín ngưỡng
cho mục đích chính trị.”
92. Thư ngày 26/6/1963,
Tịnh Khiết gửi TT; TTLTQG II,
PTT/Đ1CH, HS 8541.
93. Ibid., HS 8541.
94. CĐ 1219, 14/6/1963, BNG
gửi Đại sứ SG; FRUS,
1961-1963, III:394-395. Charles Ben Wood,
người phụ trách
Pḥng Đông Dương, soạn thảo Kế hoạch này từ
tháng 5/1963, chuyển về Oat-shinh-tân ngày
23/5/1963, và được Bạch Cung chấp thuận ngày
6/6/1963; FRUS,
1961-1963, III:Tài liệu 133. Ngày 16/6,
Sài-g̣n mới nhận được lệnh trên.
95. Chính Đạo, VNNB,
I-C:1955-1963, tr. 296, 298.
96. FRUS, 1961-1963, III:400-401.
97. FRUS, 1961-1963, III:402-4.
98. FRUS, 1961-1963, III:392.
99. Max Frankel, “US Warns
South Viet-Nam on Demands of
Buddhists” [Mỹ cảnh giác Nam Việt-Nam
về những
đ̣i hỏi của Phật tử]; NYT, 15/6/1963. Tài
liệu
BNG ghi là ngày 14/6/1963; FRUS, 1961-1963,
III:393.
100. FRUS, 1961-1963, III:392.
101. Báo cáo của Đại
tá Nguyễn Văn An ngày 22/5/1963 &
15/6/1963;
TTLTQG II, PTT/Đ1CH, HS 8508.
102. Ngày 18/7, Cảnh sát
Quận 5 bắt giữ ba
người bị t́nh nghi hoạt động nội tuyến cho CS
trong hàng
ngũ Phật Giáo; Ibid., HS 8501.
103. Hội nghị Khu Ủy Khu V
mở rộng [từ 15/7 tới ngày
31/7/1963] ra nghị quyết: “trước mắt ra sức nuôi
dưỡng mở rộng
cuộc đấu tranh của đồng bào Phật Giáo và
nhân dân các tầng lớp chống địch đàn
áp Phật Giáo, chia rẽ các tôn giáo.”
[tr. 942] (Huế: thuộc Liên tỉnh 1 của Khu V) Tuy
nhiên,
đường lối tổng quát không thay đổi: Cần phải và
có khả năng kiềm chế địch trong loại chiến tranh
thứ ba
và thắng địch trong loại chiến tranh ấy [tr. 907];
trường kỳ
kháng chiến, đánh địch trường kỳ, giành thắng lợi
từng phần [tr. 908]; ở miền núi, đấu tranh vơ
trang
là chính [tr. 910]; ở đồng bằng, đấu tranh chính
trị, vũ trang song song.[ tr.910]; ở đô thị đấu tranh
chính trị là chủ yếu, có kết hợp đấu tranh vũ
trang trong một mức độ nhất định.[ tr. 911] [VKĐTT,
24:895-954]
Nghị quyết tháng
10/1963 của Khu VI mới ghi nhận
“cần chú ư tranh thủ xây dựng cơ sở trong
tín đồ Phật Giáo và từng mặt liên minh
hành động tiến tới nắm một số sư săi tiến bộ, có
uy tín trong giới Phật Giáo, cũng như phải tích
cực tranh thủ xây dựng những phấn tử lớp trên . . . có xu hướng tiến bộ để
tiến
tới h́nh thành Mặt Trận lâm thời của thành
phố.” (VKĐTT, 24:989)
104. CĐ số 1250
gửi Sài G̣n, DOS,
Central Files, PER-Lodge, Henry Cabot. (Ngày 22/6,
Trueheart
báo cáo là Diệm đồng ư tiếp
Trueheart vào chiều ngày 22/6; CĐ số 1230 từ
Sài G̣n; Ibid)
105. FRUS, 1961-1963, III:414.
Diệm khẳng định với
Trueheart là sẽ tôn trọng những điều thỏa thuận
với Phật
giáo; phủ nhận không có việc Nhu sử dụng Thanh
Niên Cộng Hoà để chống lại Phật giáo; nhưng
không đề cập ǵ đến Bạch thư của Lệ Xuân. Về Cổ
Sơn
Môn, Diệm nói họ có quyền tự do họp Đại
Hội và bày tỏ ư kiến. Việc phóng
thích những người tham dự biểu t́nh, Diệm nói cần
thanh lọc; nếu họ không Cộng sản sẽ được phóng
thích. Tóm lại, chính Diệm tách dần khỏi
những lời cố vấn của Mỹ; Ibid., III:411-13.
106. Ibid.
107. CĐ 1271,
26/6/1963, Ball gửi Đại
sứ VN; Ibid., III:415-16.
108. FRUS, 1961-1963, III:427-28.
109. FRUS, 1961-1963, III:426n3.
110. FRUS, 1961-1963, III:429-31;
Chính
Đạo, VNNB, I-C:1955-1963, tr. 304-5.
111. Nolting, 1988:126.
112. The Pentagon
Papers (Gravel), II:236; FRUS,
1961-1963, III:474; Chính Đạo, VNNB,
I-C:1955-1963, tr.
307.
113. US-Vietnam
Relations, 1945-1967, Bk 11, tr. 427.
114. FRUS, 1961-1963, III:433n2.
115. FRUS, 1961-1963, III:441-43.
116. FRUS, 1961-1963,
III:443-44.
117. FRUS, 1962-1963, III:445-47.
118. FRUS, 1962-1963, III:449-50.
119. Thời thực dân Pháp,
cái
mũ “Cộng Sản” đồng nghĩa với “phản
loạn.” Nhưng hiện tượng
chụp mũ “Cộng Sản” cho người khác ư kiến hoặc ḿnh
không ưa c̣n phát triển rộng răi hơn,
v́ quốc sách miền Nam là “chống Cộng.” Tàn
tích của thói quen “Tố Cộng” này được bảo quản tốt
đẹp ở hải ngoại.
120. FRUS, 1962-1963,
III:451-53.
121. Hôm sau, Browne
và Arnett bị truy
tố về tội hành hung hai Phó Thẩm
sát viên công nhựt Nguyễn Văn Lăng và
Lâm Văn Lư. Xem báo cáo của Phạm Công
Kỉnh, Quận trưởng Cảnh Sát Q. 3, trong TTLTQG II,
PTT, Đ1CH,
HS 8536. Theo Trần Thiện Khiêm, các kư giả
này dùng đá và máy ảnh để
đánh trả Cảnh sát. Một viên chức nào
đó, phê bằng mực đỏ: “Có thực không?” Ibid.,
HS 8527. BNG Mỹ chỉ thị Trueheart can thiệp để
miễn tố. Thoạt
tiên, Diệm không đồng ư. Măi tới ngày
17/7 mới thuận. FRUS, 1962-1963, III:470-72.
122. The Pentagon
Papers (Gravel), II:729-33;
US-Vietnam Relations, Bk 12:534;
123. FRUS, 1962-1963, III:483-85.
124. Nguyên văn: [He is
hurt by what he considers
misrepresentations and calumnies (both in Vietnam
and outside), torn by
conflicting advise, resentful of US pressure, and
not completely in
control of his government’s actions (Nhus). He
is, in brief, in a
martyr’s mood himself.]; CĐ 85, ngày
15/7/1963, Nolting
gửi BNG; FRUS, 1961-1963, III:487; Nolting
1988:113.
125. Khán
giả và công an, mật
vụ khoảng 500 người. Khoảng 11G45, đoàn biểu
t́nh
kéo về chùa Xá Lợi, tuyên bố sẽ tuyệt thực
48 giờ. FRUS, 1961-1963, Tài liệu 221;
Tâm
Châu, 1994:19. Ngày 9/7/1963, Tâm Châu
đă viết thư cho Đại sứ Mỹ, yêu cầu Mỹ cho quân
bảo vệ chùa Xá Lợi v́ đang có dấu hiệu
Diệm-Nhu sẽ đánh chùa. Ibid., III:478-79.
126. Mẫu, 2003:353.
127. Báo cáo ngày 23/7/1963
của Đại biểu CP tại Cao nguyên trung phần;
TTLTQG II,
PTT, Đ1CH, HS 8501.
128. Mẫu, 2003:354-360.
129. FRUS, 1961-1963,
III, Tài liệu 234. Tưởng
nên ghi nhận Hilsman từng là Giám đốc cơ quan sưu
tầm và t́nh báo, từng ghé thăm Sài
G̣n vào tháng 1/1963 và gặp gỡ nhiều
nhân vật quan trọng, kể cả Ngô Đ́nh Diệm. Xem FRUS,
1961-1963, vol III: Jan-August 1963
(Washington, DC: GPO, 1991),
tr. 1-16.
130. FRUS, 1961-1963,
III, Tài liệu 237.
131. Ngày 24/7, Thuần cho
Nolting biết
Chiêu đă bị phạt kỷ luật. Báo chí loan
tin Chiêu bị 40 ngày trọng cấm. Ngày 26/7, Tịnh
Khiết viết thư xin Diệm nhẹ tay hơn với Chiêu.
Ngày 30/7,
Nhu định truy tố Chiêu ra ṭa để có dịp nói
rơ “nguyên do thúc đẩy Chiêu biểu t́nh
... cho báo chí ghi chép.” CĐ ngày
31/7/1963, Đổng lư văn pḥng Phủ TT gửi Bộ trưởng
Phụ
tá Quốc Pḥng. Sau đó, Chiêu được ân
thưởng “Trung dũng bội tinh.” TTLTQG II,
PTT/Đ1CH, HS 8501.
Theo Vũ Văn Mẫu, các thương phế binh đều là giả;
Mẫu,
2003:313-14.
132. FRUS, 1961-1963,
III:Tài liệu 198, 200.
133. TTLTQG II, PTT/Đ1CH,
HS 8501. Hội
c̣n đại diện chế độ qua New York tŕnh bày
với Tổng thư Kư LHQ về cuộc tranh đấu của Phật
Giáo
vào tháng 10/1963. Tưởng cũng nên ghi nhận, Hội
chỉ
bênh vực Nhu, và đồng ư bắt Thục cũng như Lệ
Xuân phải rời nước để trấn an dư luận.
134. Newsweek, 9/8/1963;
Chính Đạo,
VNNB, I-C:1955-1963, tr. 314.
135. Ngày 11/8, Thuần báo
cáo với
Nolting là Lệ Xuân giao cho Khiêm
tổ chức một lực lượng Mật vụ riêng; nhưng Nhu
phủ nhận.
Ngày Thứ Bảy, 31/8, khi được kư giả người Úc,
Denis Warner, phỏng vấn, Khiêm cho Warner coi một
danh
sách các viên chức mà Khiêm định
ám sát. Theo CIA, Chương, cha Khiêm và Lệ
Xuân, coi Khiêm như “bất lực, tham nhũng và
hèn nhát;” FRUS, 1961-1963, IV:Tài liệu
68.
136. Ngày 5/8, báo NYT đăng
lại tin này;
Chính Đạo, VNNB, I-C:1955-1963, tr. 312.
Tại Việt
Nam, Tịnh Khiết cũng viết thư cho Diệm, báo động
về Kế hoạch
Nước Lũ, gồm hai giai đoạn đảo chính và phản đảo
chính giả; Thư ngày 5 & 7//8/1963, Tịnh Khiết
gửi TT;
TTLTQG II, PTT/Đ1CH, HS 8541.
137. Ibid., HS 8541; Mẫu,
2003:344-46.
138. TTLTQG II, PTT/Đ1CH,
HS 8541; Mẫu, 2003:343-44.
139. Chính Đạo, Tôn
Giáo &
Chính trị, 1994:334-335. Xem thêm TTLTQG II,
PTT/Đ1CH, HS 8541 (Thanh Tuệ), 8532 (Diệu Quang),
8534 (đô
thành)
140. Nolting 1988:117.
141. Trong báo cáo ngày
10/8, Nolting
cho biết Thơ, Thuần, Nhu, Mẫu, Bửu Hội v.. v...
đưa ra giải pháp
sau: Lệ Xuân đi “nghỉ dài hạn,” Thục sẽ được thăng
cấp [về
Roma]. Thuần c̣n mật báo rằng các Bộ trưởng đều
đồng ư đă đến giờ thứ 11 của Diệm. Lệ Xuân
cùng em ruột là Trần Văn Khiêm tổ chức một
toán cảnh sát đặc biệt để bắt cóc đối thủ. Chắc
chắn Nhu cũng biết việc này.
142. FRUS, 1961-1963,
III:Tài liệu 252;
Chính Đạo, VNNB, I-C:1955-1963, tr. 315.
143. Nolting, 1988:119.
144. NYHT, 15/8/1963;
Nolting 1988:118; TTLTQG II
PTT, Đ1CH, HS 8506.
145. Ngày 9/8/1963, trong
phiếu tŕnh lên
Kennedy về vợ chồng Nhu, Michael
Forrestal tiết lộ
Miên, Ceylon [Sri Lanka], và Nepal đă đưa vấn đề
Phật giáo ra trước văn pḥng Tổng Thư Kư
Liên Hiệp Quốc. Có thể sẽ họp Đại Hội Đồng LHQ.
146. Văn thư số 4406/NA/CT
ngày 10/8/1963; HS 8529)
147.
CĐ số 4435-TT/NA/CT/M ngày
12/8/1963, Thừa Thiên gửi BNV; HS 8529)
148. Tục danh Bùi Huy
Chương (1945-1963), 17 tuổi, tu
tại chùa Phước Duyên, Hưng Long, Thừa Thiên; HS
8541; Nguyễn Ngu Í 1964a:42.
149. HS 8541.
150. Nguyễn Ngu
Í 1964a:42.
151.
CĐ số 4470-TT/NA/CT/M ngày
15/8/1963, Thừa Thiên gửi BNV; HS 8529; Nguyễn Ngu
Í,
1964a:42-43. [Xem chú 13 supra]
152.
CĐ số 4470-TT/NA/CT/M ngày
15/8/1963, Thừa Thiên gửi BNV; HS 8529; Nguyễn Ngu
Í 1964a:43)
153. (HS 8532)
154. HS 8527; Nguyễn Ngu
Í 1964a:43.
155.
CĐ số 4545-TT/NA/CT/M ngày
17/8/1963, Thừa Thiên gửi BNV; HS 8529)
156.
CĐ số 4545-TT/NA/CT/M ngày 17/8/1963,
Thừa
Thiên gửi BNV; HS 8529)
157. Nguyễn Ngu
Í 1964a:43)
158. Nguyễn Ngu
Í 1964a:43-44. [Xem
chú 13 supra]
159. Nguyễn Ngu
Í 1964b:28)
160.
CĐ số 4545-TT/NA/CT/M ngày
17/8/1963, Thừa Thiên gửi BNV; HS 8529; Nguyễn Ngu
Í
1964a:46.
161.
CĐ số 4529-TT/NA/CT/M ngày
18/8/1963, Thừa Thiên gửi BNV; HS 8529.
162. Nguyễn Ngu
Í 1964a:33.
163. Nguyễn Ngu
Í 1964b:35-6. Theo Vũ Văn
Mẫu, Thế đă lẻn về Sài G̣n, xin cho trở lại nhiệm
sở cũ. Ngày 19/8,ờ Mẫu kư giấy cho Thế ra đi; Mẫu,
2003:218-221, 387.
164. Phạm Trọng Nhân, “Cuốn
sổ tay của một
nhân viên ngoại giao nhân vụ tấn công
chùa Xá Lợi,” Bách Khoa, số 169
(15/1/1964), tr. 34. [Sẽ dẫn: Nhân 1964a]
165. Mẫu, 2003:377-379.
165 bis. KLTQG II,
PTT/Đ1CH, HS 8541.
166. Phiếu tŕnh ngày
17/8/1963 của Bộ TTM
v/v Cộng Sản đang lợi dụng Phật Giáo; TTLTQG
II,
PTT/Đ1CH, HS 8501.
167. Thông cáo của TT/VNCH
ngày
20/8/1963; Ibid., HS 8501.
168. Theo tờ tŕnh của
Tôn
Thất Đính ngày 22/8/1963, phía Tăng ni
không có ai bị thương; phía công lực, 20
người bị thương. Tại Sài G̣n, 389 sư ni, 106 Phật
tử
và 133 học sinh bị bắt giữ. Phiếu Đệ Tŕnh số
0289/QĐIII/VPTL, ngày 22/8/1963, Tôn Thất
Đính kính đệ Tổng thống; TTLTQG II, PTT/Đ1CH, HS
8527 [số cũ: TM-HS.209]; Lê Cung, 2003:312-316.
Xem thêm The
Pentagon Papers (Gravel), II:232;
Tâm Châu
1994:19. Nguyễn Ngu Í 1964b:37-44. [Xem chú 13
supra]
169. Nguyễn Mâu, “Bản tổng
kết thành tích
kế hoạch thanh toán vụ tranh chấp
bạo động của
Phật Giáo tại Thừa Thiên-Huế, từ 21/8 tới
20/9/1963
(3/10/1963);” TTLTQG II, PTT/Đ1CH, HS 8501. Theo
Mâu, 964
người, kể cả 100 tăng ni, 42 giáo chức, 40 công
chức bị
bắt, nhưng 638 người, trong đó có 96 tăng ni, được
phóng thích; Ibid.
170. Nhân, “Cuốn sổ tay;” Bách
Khoa, số
169 (15/1/1964), tr. 31-43, và số 170 (1/2/1964),
tr. 21-31);
Mẫu, 2003:390-398. Riêng tại Sài-g̣n, số tăng ni
Phật tử bị bắt lên tới 2,000 người.
171. Nhân 1964a:35-36; Mẫu,
2003:399-418.
172. Sắc Lệnh
số 84-TTP, ngày 20/8/1963; KLTTƯ
II, PTT/1CH, HS 8501 & 8506 [SC.04-HS.8466;
Cung, 2003:311]. Lệnh
này hết hiệu lực từ 12G00 ngày 16/9/1963; SL số
104-TTP,
ngày 14/9/1963. Tuy nhiên, t́nh trạng khẩn cấp ban
hành ngày 15/10/1961, qua SL 209-TTP, được duy tŕ
cho đến khi có lệnh mới.; Ibid. [8561?]
[SC.04-HS.8466];
Lê Cung, 2003:311. “Sắc lệnh tuyên bố t́nh trạng
giới nghiêm” trên toàn quốc.
173. Ngày 6/9, Nhu biện
bạch với một viên chức
CIA Mỹ rằng không liên quan ǵ đến việc
ban hành thiết quân luật hay tấn công chùa
chiền. Tối ngày 18/8, các Tướng đă yêu cầu
Diệm ban hành thiết quân luật. Ngày 19 hay 20/8,
Đỗ Cao Trí cũng vào gặp Nhu tŕnh bày
một kế hoạch tấn công các chùa và danh
sách những người cần bắt mà Trí đă chuẩn bị
từ một tháng trước. Nhu chỉ là con dê tế thần
trong
cuộc khủng hoảng này. Từ sau ngày 21/8, Nhu vẫn
theo đuổi
chính sách ḥa hoăn. Nhân viên
CIA có cảm tưởng Nhu dấu diếm sự thực [deception];
FRUS,
1961-1963, IV, Tài liệu 69.
174. VNCH, UBLBĐTACL, Biên
bản số 62:
Phiên họp của UBLBĐTACL tại Dinh Gia Long ngày
23/8/1963, tr. 6-12; PTT/1CH, HS 8278.
175. PTT/1CH, HS 8511.
176. HS 8530; CĐ ngày
29/8/1963, Thừa
Thiên gửi BNV; HS 8530) Tài liệu Việt Tấn
Xă tăng lên 80,000 người “lên án bọn
người lợi dụng tôn giáo để đầu cơ chính trị;” HS
8511.
177. CĐ ngày
29/8/1963, Thừa Thiên gửi
BNV; HS 8530.
178. Cao Văn Luận
1972:352-86.
179. Phủ Đặc Ủy Trung
Ương T́nh Báo,
Bản tin đặc biệt ngày 24/8/1963; HS 8513; Nhân
1964a:37,
39.
180. PTT ICH, HS 8501.
181. PTT ICH, HS 8513.
182. HS 8511; Herald
Tribune, 24/8/1963; Nhân
1964a:34.
183. Nguyên văn: “You must
go to Saigon fast and tell
Diem and the Nhu’s to leave the country now. The
people hate them
and they shouldn’t stay for the people to kill
them. They will surely
be killed if they stay, and nobody at the Palace
now is telling them
how the people really feel. They are cut off
from reality. Why do they
need power, after nine years of it, if the
family is killed? The US
told Synman Rhee to leave. Why not Diem and
Nhu?” JFK Library, NSF
Country File, Vietnam; FRUS, 1961-1963, III:666;
William C. Gibbons, The
U.S. Government and the Vietnam War, 3 vols
(Princeton, NJ:
Princeton Univ Press, 1993), II:155.
184. FRUS, 1961-1963, IV:114-5.
Ngày
5/9/1963, Harriman mới chuyển thư này cho Bundy,
Cố vấn ANQG của
Kennedy.
185. CĐ số 896,
ngày 23/8/1963, Phnom
Penh gửi Paris; CLV, SV, d. 17)
186. Bộ Ngoại Giao
Pháp,
CĐ số 4879/83, Đại sứ
ở Mỹ gửi BNG;
CLV, SV, 17:29.
187. CLV, SV, 17:33.
188. Từ ngày
11/7/1963, cơ quan an ninh Mỹ
đă ghi nhận có dấu hiệu là các sĩ quan cao
cấp và ngay chính Nhu đang âm mưu đảo chính.
Trong hai buổi tiếp xúc với “khoảng 14 Tướng,” kể
cả tân
Thiếu tướng Đỗ Cao Trí, Tư lệnh QĐ I, Nhu tuyên bố
có thể có một cuộc đảo chính nếu Diệm trở
thành “nô bộc” của Mỹ [if he believed the
government,
meaning Diem, was becoming servile to the United
States, he himself
would lead a coup d’Etat]. Ngày 25/6, chính Nhu
cũng
nói với một quan sát viên Mỹ như trên. FRUS,
1961-1963, III:490-491. Ngày 13/7, cơ quan
CIA báo
cáo Đôn tự nhận nằm trong một nhóm âm mưu
đảo chính; Ibid., III:491. Ngày 15/7, một cá
nhân thuộc nhóm Trần Kim Tuyến tuyên bố sắp
có đảo chính, nhưng không trước ngày 20/7.
Ngày 16/7, Big Minh nghĩ cần phải có sự thay đổi
chính phủ; Ibid., III:491n8.
189. Nolting, 1988:121.
190. FRUS, 1961-1963, III:605.
191. The Pentagon
Papers (Gravel), II:234.
192. FRUS, 1961-1963, III,
tài liệu 275;
Chính Đạo, VNNB, IC: 1961-1963, tr. 208,
322-23.
Trong hồi kư của McNamara, đoạn nói về Lệ Xuân,
tương tự như nhận định này. McNamara c̣n gọi Lệ
Xuân là “một mụ phù thủy.” Theo cựu Đại
tá Phạm Văn Liễu, năm 1954, đài phát thanh
Quân Đội Quốc Gia đă phát thanh hầu như mỗi
ngày một câu đồng dao: “Nực cười cho họ Ngô
Đ́nh, Trai không có vợ, mượn t́nh em
dâu.” Trai không có vợ ám chỉ Ngô
Đ́nh Diệm, và “em dâu” là Lệ Xuân; Trả Ta Sông
Núi (Houston: Văn Hóa,
2001), tập I, tr. 310.
193. FRUS, 1961-1963, III,
Tài liệu 174, 273.
194. FRUS, 1961-1963, III:607-610.
195. FRUS, 1961-1964, IV:175.
Giới Thiệu Sử
Gia Vũ Ngự Chiêu
Tiến Sĩ Vũ
Ngự Chiêu
(ảnh của PBase.com)
Chính
Đạolà một trong hai bút
danh của Vũ Ngự Chiêu. Bút danh
kia là Nguyên
Vũ,
rất nổi tiếng ở Miền Nam trước năm
1975. Trước 1975, Vũ Ngự
Chiêu phục vụ trong binh chủng Pháo Binh
Dù,
QLVNCH, và đă có hơn 20 tác phẩm xuất bản.
Sau khi ra hải ngoại, ông vừa tiếp tục cầm
bút vừa đeo
đuổi việc học. Tốt nghiệp Tiến Sĩ Sử tại
Đại Học Wisconsin-Madison năm
1984, sau khi cùng gia đ́nh di chuyển về
Houston,
ông là Giám Đốc nhà xuất bản Văn Hóa
và tốt nghiệp Tiến Sĩ Luật tại Đại Học
Houston năm 1999.
Những tác phẩm của Vũ Ngự Chiêu xuất hiện
trước năm 1975
dưới bút danh Nguyên Vũ gồm có Đời
Pháo Thủ (bút kư), Những Cái Chết Vô
Danh (tập truyện), Trở Về Từ Cơi Chết
(truyện), Ṿng Tay
Lửa (trường thiên), Thềm Địa Ngục
(truyện), Đêm Hưu Chiến
(truyện), Sau Bảy Năm Ở Lính (bút kư), Đêm
Da Vàng (trường thiên), v.v. Tại hải
ngoại, Vũ Ngự
Chiêu đă in thêm các tập Xuân buồn
thảm: Cuộc Sụp Đổ của Nam Việt Nam (bút
kư), Trận Chiến
Chưa Tàn (truyện), Giặc Cờ Đỏ (trường
thiên), cùng
hai tâm bút Paris: Xuân 1996, và Ngàn
Năm Soi Mặt.
Về nghiên cứu sử học, ông đă in ba tác
phẩm
bằng tiếng Anh dưới tên thực, và 10 biên
khảo bằng
Việt ngữ với bút danh Chính Đạo. Biên khảo
duy nhất
bằng Việt ngữ kư tên thực của ông là bộ
Các Vua Cuối Nhà Nguyễn, 1883-1945, gồm ba
tập. Những
tác phẩm kư tên Chính Đạo thường được viết
cho độc giả không chuyên môn, dễ đọc hơn,
không
quá khô khan như các biên khảo đúng
yêu sách bác học.
Ông vừa xuất bản tác phẩm mới nhất với tựa
đề Cuộc
Thánh Chiến Chống Cộng, 1945-1975, tập I,
gồm 5 phần: Sơ lược
tiểu sử Tổng thống Jean Baptiste Ngô Đ́nh
Diệm
(1897-1963); Từ Điện Biên Phủ tới Geneva;
Cuộc truất phế Bảo Đại;
Mùa Phật Đản đẫm máu (1963); và “Phiến
Cộng” trong
Dinh Gia Long.
Sau
năm 1975 ở hải ngoại, có những ḍng thác
ngụy tạo
ngụy biện nhằm vặn méo sử kiện để chạy tội
và biện minh
cho sự vô minh của ḿnh, Vũ Ngự Chiêu đă
dần
dần xuất hiện như một nhà sử học
khai sáng
và can trường. Giá trị tinh thần của người
trí
thức không chỉ là tôn trọng sự thật mà
c̣n nói lên sự thật và chấp nhận hậu quả
của
quyết định can trường đó. Đó là một sự đổi
đời
tâm linh có ư nghĩa đă h́nh
thành nơi Vũ Ngự Chiêu. Huyền thoại và
huyễn mị
lịch sử đă làm cho người Việt xa nhau, chỉ
có sự
thật mới làm cho người Việt gần lại với
nhau, trong t́nh
dân tộc, nghĩa đồng bào. Những tác phẩm
mới của Vũ
Ngự Chiêu là một đóng góp sáng
giá và có ư nghĩa trong chiều hướng
đó.
Trích
Từ : http://www.chuyenluan.net
Những biên khảo cuả Tiến Sĩ Vũ Ngự Chiêu
đă
và đang được phổ biến trên trang mạng Việt
Nam Văn Hiến
như sau:
1- Trụ Đồng Mă
Viện: Sự Đàn Hồi
của Biên Giới Trung Hoa
2- Nh́n
Lại Mùa
Xuân Khói Lửa 1789
3- Đất
Đai Việt Nam Bị Cộng
Hoà Nhân Dân Trung Hoa Xâm Chiếm
4- Liên
hệ
Việt Nam và Pháp
5- Vấn Đề
Tài Liệu Nghiên Cứu Lịch Sử
6- Góp
Phần
Nghiên Cứu Về Trương Vĩnh Kư
7- Cuộc
truất phế Bảo Đại
8- Hồ
Chí Minh Nhà
Ngoại Giao
9- Phỏng
Vần Sử Gia Về Hồ
Chí Minh
10- Bài học
Mậu Thân 1968
11- Mẫu
Phỏng Vấn Bà
Trần Thị Lệ Xuân
12- Ngô Đ́nh
Diệm Là Ai
?
13- Chuyến
Đi Cầu Viện Bí Mật của
Hồ
14- Sự
H́nh
Thành Phong Trào Quốc Gia Mới
15- Mùa Phật
Đản Đẫm Máu
16- Huỳnh
Thúc Kháng
và Báo Tiếng Dân
17- Khái Hưng
Trần Khánh Giư
18- Phiến
Cộng Trong Dinh Gia Long
Trân trọng
giơí thiệu cùng bạn đọc
|
Trang mạng Việt Nam Văn Hiến
Trang Mùa Phật Đản
Đẫm Máu
www.vietnamvanhien.net
Email:
thuky@vietnamvanhien.net
Trang
mạng Việt Nam
Văn Hiến là nơi lưu trữ và phổ biến
di sản văn hóa của Việt Tộc
|