Việt Nam Văn Hiến
Năm Thứ 4889

www.vietnamvanhien.net



"Phiến Cộng" Trong Dinh Gia Long
(The communist rebels in the Gia Long Palace)
Chính Đạo

© 2004, 2010 by Chieu N. Vu. All Rights Reserved.





Đề Mục


1- "Phiến Cộng" Trong Dinh Gia Long
2- Những Thế Lực Chi Phối Bên Ngoài
3- "Sự Điên Rồ Tập Thể Của Một Gia Đình Trị"

4- Kết Từ


Một trong những vấn nạn, nếu không phải nghi án, lịch sử cận đại còn gây nhiều tranh luận là vấn đề âm mưu ve vãn [flirtation] Cộng Sản Hà Nội của anh em Tổng thống Ngô Ðình Diệm (1897-1963) trong hai năm 1962-1963. Nhiều học giả thế giới đã cố gắng đưa ra những giải thích về vấn đề này. Người cho rằng anh em họ Ngô không còn biết lý lẽ [no longer be rational] nữa trước áp lực Mỹ. (1) Người cho rằng họ Ngô chỉ muốn blackmail hay chơi một ván bài poker với Mỹ. (2) Người cho rằng họ Ngô thực sự muốn nói chuyện với miền Bắc, (3) và nếu không có cuộc đảo chính 1/11/1963, Cộng Sản đã chiếm miền Nam vào cuối năm 1963. Bi thảm cho họ Ngô là những người tin rằng họ Ngô muốn dâng miền Nam cho Cộng Sản Bắc Việt–đặc biệt là Ðại sứ Henry Cabot Lodge–lại có quyết định chung cuộc số phận họ Ngô.

Vấn đề ve vãn Cộng Sản này khá phức tạp. Nó không hạn chế trong phạm vi quốc nội mà còn bị chi phối, hoặc ít nữa ảnh hưởng, bởi các trào lưu chính trị và chiến lược thế giới của nhiều hơn một ngoại bang. Ngoài Liên bang Mỹ, Liên Sô Nga và Trung Hoa Cộng Hòa Nhân Dân Quốc [Trung Cộng]–ba quốc gia ảnh hưởng sâu đậm trên nội tình Việt Nam–còn có những quốc gia khác như Pháp, India [Ấn Ðộ], Poland [Ba Lan] hay vương quốc Ki-tô Vatican.

Trong biên khảo Tôn Giáo & Chính Trị: Phật Giáo, 1963-1967 dưới bút danh Chính Ðạo, và tâm bút Ngàn Năm Soi Mặt, ký tên Nguyên Vũ, chúng tôi đã lược nhắc đến vấn nạn “Phiến Cộng trong Dinh Gia Long.” (4) Bài viết này–được tu chỉnh lại trong thời gian tác giả soạn thảo tập Lâu Ðài Trên Bãi Cát, dựa trên tiểu luận Master’s Degree, “The Vietnam War: Lost or Won?,” tại Ðại học Wisconsin-Eau Claire năm 1977, dưới sự hướng dẫn của cố Giảng sư Richard D. Coy–xin được coi như đóng góp thêm vào vấn nạn trên. Kết luận của chúng tôi là chưa đủ tư liệu để biết rõ mục đích của anh em họ Ngô trong việc ve vãn Cộng Sản giữa lúc áp lực Mỹ ngày một nặng từ năm 1960. Dẫu vậy, có thể tạm thời kết luận rằng họ Ngô, qua thành tích dĩ vãng, khó thể có ý định tìm hòa bình cho tương lai của đất nước và dân tộc. Hành động của họ Ngô có thể là một thứ quyết định, hoặc đe dọa, “ăn không được thì đạp đổ” để cảnh giác người Mỹ–hoặc một cái tát xiếc lãnh tụ Ðảng Cộng Hòa mà anh em họ Ngô đoán biết đang có sứ mệnh lật đổ họ. Cũng có thể nó được phóng đại lên để Ðại sứ Lodge ép Tổng Giám mục Ngô Ðình Thục (1897-1984) cùng vợ chồng Ngô Ðình Nhu-Trần Thị Lệ Xuân ra đi, khởi đầu một thí nghiệm mới, hy vọng tìm ra một chính phủ chống Cộng hữu hiệu hơn.

 

I. TIẾP XÚC VỚI CỘNG SẢN:

 

Không ai có thể chối cãi việc anh em họ Ngô tiếp xúc Cộng Sản. Nếu thời điểm họ Ngô bắt đầu ve vãn Cộng Sản còn gây bàn cãi, đầu mối bằng xương, bằng thịt xuất hiện tại ngay chính Dinh Gia Long sáng ngày 2/9/1963 là Mieczylslaw Maneli, Trưởng đoàn Poland trong Ủy Ban Quốc Tế Kiểm Soát Ðình Chiến (ICC, sẽ dẫn UBQT/ KSÐC). Cố vấn Ngô Ðình Nhu (1910-1963) cũng tuyên bố với viên chức tình báo Mỹ, và ngay cả các Tướng miền Nam, nhiều lần, rằng ông ta–ngoài Maneli–từng tiếp xúc Việt Cộng.(5) Tình báo Mỹ, Pháp và Việt đều nói về buổi họp mặt bí mật với Phạm Hùng (Phó Thủ tướng Bắc Việt, đặc trách kế hoạch thống nhất hai miền Nam-Bắc từ năm 1958). Một số người, kể cả Trung tá Nguyễn Văn Châu, còn tiết lộ, dù chẳng trưng được bằng cớ có thể kiểm chứng nào, những cuộc tiếp xúc giữa Nhu và cán bộ CSBV ngay tại Sài Gòn vào hạ tuần tháng 10/1963.( 6)

Ðích thân Tổng thống Diệm, theo Trần Văn Dĩnh–một cựu thông ngôn tại Tòa lãnh sự Nhật ở Huế, có liên hệ với Diệm từ năm 1942, và xử lý thường vụ Tòa Ðại sứ Việt Nam tại Oat-shinh-tân từ ngày 22/8/1963, đang trên đường qua India nhận nhiệm sở mới–cũng định tìm cách tiếp xúc một cán bộ cao cấp của Hà Nội ở New Dehli vào khoảng trung tuần tháng 11/1963.(7)

 

A. NHỮNG ÐẦU MỐI:

Có nhiều đầu mối Cộng Sản mà Nhu tiếp xúc hay có tin đã tiếp xúc.

 

1. Mieczylslaw Maneli:

Từ mùa Xuân 1963, theo Maneli, nhiều nhà ngoại giao đã yêu cầu Maneli gặp Nhu. Trong số này có Ðại sứ Pháp Roger Lalouette, Ðại sứ India (Ấn Ðộ) trong UBQT/KSÐC, Ramchundur Goburdhun, Ðại sứ Italia (Ý) Giovanni d'Orlandi và tân Ðặc sứ Vatican (Tòa thánh La Mã) Salvatore d'Asta. Họ cho biết đã nói với Nhu về Maneli, và Nhu ngỏ ý muốn gặp. Tối Chủ Nhật, 25/8, Maneli được giới thiệu với Nhu trong buổi tiếp tân của Trương Công Cừu, vừa để ra mắt ngoại giao đoàn nhân dịp được cử thay Vũ Văn Mẫu làm Ngoại trưởng, vừa đón tiếp Ðại sứ Lodge.(8) Ngay sau lần gặp sơ khởi này, Maneli vội báo cáo về Warsaw, đồng thời thông báo với Ðại sứ Liên Sô Suren A. Tovmassian ở Hà Nội và Hà Văn Lâu, Trưởng đoàn VNDCCH tại UBQT/KSÐC. Lâu và Tovmassian, theo Maneli, tán thành. Ðiều Maneli không nói rõ trong hồi ký là từ cuối tháng 8/1963 tình báo Mỹ đã biết về hành vi “bí mật ai cũng biết” của đại biểu Poland. Qua ngày 2/9, Nhu công khai tiếp Maneli tại Dinh Gia Long. Sau đó, Maneli ra Hà Nội báo cáo. Nhưng Warsaw đột ngột cho lệnh Maneli ngừng gặp Nhu.(9)

Ngay chiều 2/9, Cố vấn Nhu nhìn nhận với Lodge rằng mới gặp Maneli hôm đó. Theo Nhu, Maneli hỏi có thể báo cáo gì với Phạm Văn Ðồng về những lời tuyên bố của Charles de Gaulle (ngày 29/8/1963), và Hồ Chí Minh (tháng 8/1963 hoặc ngày 29/5/1963). Nhu trả lời: “Không.”(10)

Ngày 2/9/1963 này, mật báo viên của tình báo Mỹ–người từng tiết lộ tin Maneli gặp Nhu tối 25/8 từ ngày 30/8–nhận xét rằng việc Maneli và nhân viên Pháp (không phải cá nhân Lalouette) làm trung gian cho Nhu và Phạm Văn Ðồng là một thứ bí mật chẳng dấu được ai (open secret) trong giới ngoại giao Sài Gòn đã nhiều tháng. Mật báo viên này cũng được Maneli nhờ giới thiệu với Nhu nhưng từ chối.(11)

Bốn ngày sau, chiều 6/9, Nhu lại xác nhận với viên chức CIA là d'Orlandi và Goburdhun đã nhiều lần yêu cầu Nhu gặp Maneli. Ngày 2/9, theo Nhu, Maneli khuyên Nhu nên lợi dụng những lời tuyên bố của de Gaulle và Hồ để thương thuyết với Hà Nội. Maneli nói đã được Phạm Văn Ðồng ủy quyền làm trung gian [authorized by Pham Van Dong to act as intermediary]. Nhu trả lời Maneli rằng lời tuyên bố của de Gaulle rất “lôi cuốn” [interesting], nhưng chỉ những người thực sự chiến đấu mới có quyền nói và hành động. Nam Việt Nam liên kết với Mỹ và sẽ là điều vô luân khi đơn phương dò dẫm sau lưng người Mỹ. Vấn đề hiệp thương bất lợi cho tinh thần chiến đấu cũng như sự thông suốt về chính trị của dân chúng miền Nam. Nhu khẳng định không thương thuyết với Hà Nội, chỉ tiếp xúc Việt Cọng miền Nam. Nhu còn nói không có đường dây bí mật nào với miền Bắc, nhưng Maneli và Goburdhun lúc nào cũng sẵn sàng.(12)

Như thế, đích miệng Nhu hai lần thú nhận từng gặp Maneli, người tự nhận là sứ giả của Phạm Văn Ðồng, Thủ tướng Bắc Việt–một hành động phạm pháp cũng như đi ngược lại quốc sách chống Cộng.

Ngày 16/9, Thiếu tướng Trần Thiện Khiêm mật báo với Mỹ rằng các Tướng nóng lòng làm đảo chính hơn khi thấy thêm nhiều chứng cớ về việc Nhu muốn thương thuyết với miền Bắc. [The Generals are . . . becoming increasingly concerned over additional evidence [of] Nhu negotiating for settlement with North]. Theo Khiêm–người từng cứu giá chế độ trong cuộc đảo chính hụt ngày 11/11/1960–Nhu tiết lộ với một số Tướng (như Big Minh, Lê Văn Nghiêm) về cuộc tiếp xúc với Maneli. Maneli đã mang tới đề nghị của Ðồng về việc hiệp thương giữa Bắc và Nam; và Nhu đang nghiên cứu, sẽ cho các Tướng biết thêm những bước kế tiếp. Nhu tuyên bố Maneli đã hoàn toàn dưới sự sử dụng của Nhu và sẵn sàng bay ra Hà Nội bất cứ lúc nào được chỉ thị. Nhu còn thêm rằng Ðại sứ Pháp Lalouette từng đề nghị tương tự.( 13)

 

2. Cán bộ “Việt Cộng”:

Nhu còn thú nhận đã bí mật tiếp xúc với một số cán bộ Việt Cộng (hiểu theo nghĩa Mặt Trận Dân Tộc Giải Phóng Miền Nam). Mùa Xuân 1963, nhân dịp phát động chiến dịch Chiêu Hồi (tháng 4/1963), Nhu nhiều lần khoe đón tiếp cán bộ Cộng Sản cao cấp ngay tại Dinh Gia Long. Có lần, Nhu chỉ vào chiếc ghế Ðại sứ Frederick (Fritz) Nolting đang ngồi, nói một lãnh tụ Việt Cộng vừa mới rời chỗ đó. Rồi giải thích rằng đang gặp lãnh tụ Việt Cộng để thuyết phục họ mang quân về hàng. Nolting báo cáo chi tiết này về Oat-shinh-tân, và xin cho Nhu toàn quyền hành động hầu thành lập một chính phủ “mở rộng.” Nhưng các cố vấn của Kennedy không hài lòng–họ coi đó gần như một hành động bội phản.(14)

Chieàu ngaøy 24/5, Nhu yeâu caàu Töôùng Paul Harkins (Tö leänh MAC-V), Richard G. Weede, (Tham möu tröôûng MAC-V), John H. Richardson (CIA) vaø coá vaán chính trò William C. Trueheart vaøo Dinh Gia Long hoïp baøn veà lieân heä vôùi caùn boä CS. Nhu tieát loä môùi nhaän ñöôïc tin maät laø CS vöøa toå chöùc moät Hoäi nghò caùn boä chính trò vaø quaân söï ngaøy 19/5/1963 taïi ñoàn ñieàn Memot treân ñaát Cambodia [“Mieân” hay Kampucuhea]. Maät baùo vieân cuûa Nhu tham gia hoäi nghò naøy. Keát quaû, Hoäi nghò treân quyeát ñònh ruùt saùu [6] tieåu ñoaøn ñaëc coâng töø Vieät Nam qua Laøo laøm nghóa vuï Quoác teá töø ngaøy 20/5, vì Laøo trôû thaønh öu tieân thöù nhaát cuûa Haø Noäi vaø Nam Vieät Nam bò ñaët uoáng haøng thöù hai. Caùc ñôn vò chính qui seõ ruùt veà maät khu Cambodia, hay ngöøng tham chieán, giao traùch nhieäm chieán ñaáu cho caùc ñôn vò ñòa phöông vaø töï veä. Nhu tuyeân boá neáu baùo caùo treân chính xaùc, VNCH seõ toång taán coâng, ñaùnh tan caùc löïc löôïng ñòa phöông, vaø ngaên chaën ñaëc coâng töø Laøo ñoät nhaäp Nam Vieät Nam. Caàm ñaàu löïc luôïng ñaëc bieät naøy laø Ngheä (?). Tôùi Laøo, Ngheä seõ laø coá vaán cuûa Töôùng Traàn Sôn [Traàn Vaên Traø, hay Chu Huy Maân?], Tö leänh Löïc löôïng ngoaïi quoác taïi Laøo.(15)

Chiều 2/9, Nhu cũng thú nhận với Lodge rằng mình tiếp xúc với Việt Cọng. Những cán bộ VC này đã rất chán nản, muốn ngừng hoạt động. Sáu tháng trước, một Ðại tá VC muốn đào ngũ với ba [3] tiểu đoàn, nhưng Nhu khuyên ông ta ở lại biên giới Lào chờ cơ hội thuận tiện. Một Tướng VC ở Cambodia cũng muốn gặp Nhu. Không những VC đang thất vọng mà còn cảm thấy bị Bắc Việt lợi dụng.( 16)

Có người cho rằng đây là lời bịa đặt của Nhu. Nhận định này quá vội vã. Trong hậu trường chính trị Sài Gòn, luôn luôn có những màn đi đêm lạ lùng. Không thiếu người nỗ lực “lôi kéo những phần tử Quốc Gia” ra khỏi sự kiềm tỏa của Cộng Sản trong MTDT/GPMN. Trong số nhân vật được coi là “người quốc gia” có Kiến trúc sư Huỳnh Tấn Phát và Luật sư Nguyễn Hữu Thọ. Từ năm 1948-1949, Y sĩ Lê Văn Hoạch, một cựu Thủ tướng Nam Kỳ Tự Trị (1946-1947), và Nguyễn Hòa Hiệp đã không ngừng tìm cách đưa phần tử quốc gia về thành. Mùa Thu 1964, Ðại tướng Raymond Nguyễn Khánh–cũng qua Quốc Vụ Khanh Lê Văn Hoạch–trao đổi thư từ với Phát, Tổng thư ký MTDT/GPMN, nhưng cũng đồng thời cầm đầu guồng máy tình báo trí vận tại Sài Gòn-Gia Ðịnh. Món quà trao đổi là vợ con Phát lấỳ tù binh Mỹ. Hai năm sau, dù đang lưu vong ở Paris, Khánh còn mưu toan móc nối Nguyễn Hữu Thọ, đưa Chủ tịch MTDT/GPMN về hồi chính. Một trong những trung gian là Lê Văn Trường ở Paris, người tự nhận là “thượng cấp” của Thọ. Năm 1966, Lodge cũng lọt vào một màn ảo thuật âm mưu đưa Nguyễn Hữu Thọ bỏ mật khu.(17) Năm 1967, tình báo Mỹ còn mở đường giây liên lạc trực tiếp với MTDT/GPMN bằng cách phóng thích vợ Trần Bửu Kiếm, vợ Trần Bạch Ðằng, cùng một cán bộ cao cấp qua khuôn khổ trao trả tù binh. Trần Bạch Ðằng còn nhận được một máy truyền tin để liên lạc với tình báo Mỹ. Các giới chức cao cấp của VNCH–từ Thiệu, Kỳ, tới Linh Quang Viên, Nguyễn Ngọc Loan–đều được thông báo về kế hoạch “BUTTERCUP” này và quay mặt làm ngơ. Dư luận bào chí Sài Gòn từng một thời loan tin VNCH đã bắt được một cán bộ giao liên của Việt Cộng khi vào Sài Gòn tiếp xúc Tòa Ðại sứ Mỹ. Những người giàu tưởng tượng còn suy diễn rằng kế hoạch “BUTTERCUP” trực tiếp ảnh hưởng đến cuộc Tổng Công Kích và Tổng Khởi Nghĩa Tết Mậu Thân (1968), nên trong những ngày đầu Xuân khói lửa, các đơn vị Mỹ và Ðồng Minh đã án binh bất động.

Trong hai năm 1962-1963, chung quanh Nhu có khá nhiều cán bộ tình báo chiến lược CSBV. Phạm Ngọc Thảo, và Vũ Ngọc Nhạ chỉ là hai người được biết nhiều nhất. Lời thú nhận “móc nối Việt Cộng” của Nhu, bởi thế, cần được nghiên cứu kỹ càng hơn trước khi có một nhận định võ đoán [sweeping remark]. Cho tới khi có tài liệu chứng minh ngược lại, chúng ta không thể không tin lời khai của chính Nhu. (Theo hình luật Mỹ, lời tự thú của nghi can là bằng chứng rất đáng tin cậy)

 

3. Phái viên khác của Hà Nội:

Theo một nguồn tin, Nhu còn mượn cớ đi săn, để bí mật gặp cán bộ CSBV.


a. Truờng hợp Phạm Hùng:

Cán bộ CS được William Colby nêu đích danh là Phạm Hùng, Ủy viên Bộ Chính Trị Ðảng Lao Ðộng Việt Nam, Phó Thủ tướng, từng là Chủ Nhiệm Ủy Ban Thống Nhất. Theo Colby–trưởng lưới tình báo CIA tại Sài Gòn, Giám đốc Sở CIA Ðông Nam Á, Phụ tá Giám đốc kế hoạch bình định nông thôn ở Việt Nam [CORDS], và rồi Tổng Giám đốc CIA–nhiều năm sau cái chết của anh em Diệm-Nhu, một Tướng cao cấp thuộc nhóm đảo chính 1963 [Trần Văn Ðôn?] tuyên bố đã nghe tin Nhu gặp Phạm Hùng vào [tháng 2/1963]. Cuộc gặp mặt này xảy ra trong giai đoạn Diệm-Nhu có nhiều dị biệt lớn lao với Mỹ (hậu quả của bản báo cáo của Thượng Nghị Sĩ Mike Mansfield), và đang nỗ lực tìm cách thoát khỏi sự bế tắc giữa hai gọng kìm Mỹ và Cộng Sản.( 18)

Là người thân thiết với Nhu và chống việc thay Diệm, Colby không trích dẫn lời chứng của Tướng [Ðôn?] một cách tắc trách. Muốn bác bỏ hay “chỉnh lý”, cần tìm ra tư liệu văn khố Bộ Chính Trị Ðảng CSVN, Nga hay Trung Cộng chứng minh không có màn đi đêm, mà không thể chỉ dùng lối nhận định võ đoán là “tin đồn vô căn.” Về chi tiết Phạm Hùng là “người cầm đầu các nỗ lực của Cộng Sản tại miền Nam [the leader of the Communist effort in the South] mà Colby đề cập cũng không nhất thiết phải hiểu thu hẹp như Bí thư Trung Ương Cục Miền Nam thời gian này [1963]. Năm 1963, Phạm Hùng, với cương vị Phó Thủ tướng, Ủy viên Bộ Chính Trị, có thể được kể như người cầm đầu nỗ lực của CS tại miền Nam. Những Nguyễn Văn Linh, Võ Toàn (Võ Chí Công), Trần Văn Trà, Trần Nam Trung (Trần Lương), Trần Văn Tấn (Lê hay Trịnh Trọng Tấn) chỉ là nhóm 10 cán bộ trung cấp (Ủy viên trung ương Ðảng) tại “B”. Câu văn của Colby có thể cũng chỉ nhằm ghi nhận rằng Phạm Hùng là người cầm đầu CS miền Nam khi Colby được mật báo về chuyện gặp gỡ bí mật Nhu-Hùng bốn năm năm trước.(19) Trần Bạch Ðằng, một cán bộ CS cao cấp, phụ trách tuyên giáo của Trung Ương Cục Miền Nam–nhân vật chủ chốt trong kế hoạch BUTTERCUP–nói với tác giả năm 2004-2005 là không hề tiếp xúc với họ Ngô. (19b) Nhưng có thể Trần Bạch Ðằng hay Thiếu tướng Trần Ðộ không được thông báo về các gián điệp chiến lược trực tiếp nhận lệnh của Lê Duẩn hay BCT.

Cuộc gặp mặt Hùng-Nhu này, tưởng nên ghi thêm, cũng được tình báo Pháp ghi nhận. Tin tình báo thì thường chỉ ghi “reliably informed.” Lời chứng của các Tướng Ðôn, Khiêm, Minh hay Nghiêm có mức khả tín nào sẽ được tài liệu văn khố bạch hóa trong tương lai.

.

b. Những đầu mối khác:

Vài tác giả còn ghi nhận đại diện CSBV vào gặp Nhu ngay tại Sài Gòn, qua trung gian Ðại sứ India trong UBQT/KSÐC “nhiều lần.”(20) Trần Văn Dĩnh tiết lộ ngày 29/10 đích thân Diệm chỉ thị cho Dĩnh chuẩn bị gặp một đại diện Hà Nội (Lê Ðức Thọ?) để dò ý. Theo dự trù, Dĩnh sẽ gặp phái viên Hà Nội ngày 15/11/1963 tại New Dehli, nơi Nguyễn Cơ Thạch (Phạm Văn Cương) giữ chức Tổng Lãnh sự từ ngày 26/7/1956. Nhưng cuộc đảo chính 1/11/1963 khiến âm mưu này phải bỏ dở. Theo Dĩnh, Diệm còn dặn dò phải dấu kín Nhu.(21)

Những âm mưu đi đêm giữa Nhu với Hà Nội, dĩ nhiên, phải nhiều thời gian nữa mới có thể rõ chi tiết, khi tài liệu văn khố Bộ Chính Trị Ðảng CSVN, Trung Cộng, Liên Sô Nga hay Vatican mở ra cho các nhà nghiên cứu. Một số tư liệu Pháp và Mỹ hiện cũng chưa giải mật. Người học sử nghiêm túc không thể không thận trọng về mặt trận tình báo dầy phủ sương mờ nghi hoặc này, chẳng nên áp dụng cứng ngắc thứ luật “bằng chứng” [evidence] của luật pháp Mỹ gọi là “hearsay” [nghe lại lời kể của một người khác]. Hơn nữa, có những bằng chứng không thể bài bác, sau khi phối kiểm lại, cho thấy Diệm-Nhu quả thực đã ve vãn Hà Nội, tìm cách gặp đại biểu Hà Nội, khiến Mỹ lo ngại rằng một sự thỏa thuận Bắc-Nam có thể trở thành sự thực vào khoảng cuối năm 1963.

 

B. NHỮNG BIỂU HIỆU:

Việc ve vãn Cộng Sản Hà Nội còn có thể tăng bổ [corroborate] bằng những lời tuyên bố và việc làm của họ Ngô trong ba năm 1961-1963 liên quan đến các vấn đề “thống nhất và trung lập,” yêu cầu cắt giảm lính Mỹ và tuyên truyền chống Mỹ.

 

1. Thống nhất và trung lập:

Những tài liệu văn khố hiện đã mở ra cho người nghiên cứu chưa tiết lộ rõ ràng chi tiết về phản ứng của họ Ngô với điều kiện “thống nhất và trung lập” mà Hà Nội cũng như MTDT/GPMN tung ra từ năm 1962.

Ngô Ðình Diệm, vào tháng 5/1963, tâm sự với Ðại sứ Lalouette rằng chiến trận sẽ tự động tàn lụn đi, không cần phải có thương thuyết, vì các lãnh đạo miền Bắc cảm thấy được sự vô ích trong âm mưu đánh chiếm miền Nam.(22) Chỉ từ tháng 8/1963, Diệm mới có vẻ tách khỏi lập trường chống Cộng, nghiêng về “trung lập.” Ngày 30/8, Diệm triệu tập Hội đồng chính phủ để nghiên cứu tuyên ngôn ngày 29/8/1963 của Tổng thống de Gaulle, về giải pháp trung lập, thống nhất, độc lập với mọi ảnh hưởng ngoại bang. Rồi cho lệnh Việt Tấn Xã dịch tuyên ngôn trên, in trên trang nhất bản tin Việt Tấn Xã. Chính phủ Diệm cũng cho lệnh Ðại sứ Phạm Khắc Hy ở Paris xin gặp Ngoại trưởng Maurice Couve de Murville, yêu cầu giải thích lập trường Pháp. Một số viên chức thân cận Nhu, như Quyền Ngoại trưởng Trương Công Cừu–được Lodge gọi là “tên xu nịnh không hề biết xấu hổ nhất mà tôi từng được biết”–nói với viên chức Pháp rằng người Việt đã hiểu được những gì de Gaulle muốn nói.(23)

Nhu là người duy nhất trực hoặc gián tiếp đề cập đến trung lập. Gần cuối tháng 8/1963, Trần Thiện Khiêm mật báo với Mỹ rằng Nhu từng tuyên bố với các Tướng (kể cả Dương Văn “Big” Minh, Lê Văn Nghiêm) là nếu Mỹ cắt viện trợ, Nhu có thể liên lạc với Hà Nội, yêu cầu giảm bớt cường độ chiến tranh, trong khi thương thuyết một thỏa ước vĩnh viễn.( 24) Nguồn tin tình báo Mỹ ngày 30/8/1963 khẳng quyết rằng ít tháng trước ngày Nhu tiếp Maneli tại Dinh Gia Long, Nhu đã chủ trương trung lập hóa và thống nhất Việt Nam.(25) Nhưng trong lần gặp Lodge chiều Thứ Hai 2/9/1963, và John H. Richardson (?) chiều Thứ Sáu, 6/9, Nhu minh xác rằng mình cực lực chống trung lập, vì trung lập hoàn toàn đi ngược với quan điểm và chính sách VNCH.( 26)

 

2. Giảm quân số Mỹ:

Việc đòi hỏi giảm quân số Mỹ được Nhu đề cập từ đầu năm 1963.(27) Ngày Thứ Sáu, 12/4/1963, khi tiếp chuyện một viên chức CIA ở Sài Gòn Nhu tuyên bố cần giảm từ 500 tới 3,000 hay 4,000 lính Mỹ. Nhu nói khi người Mỹ mới tới, người Việt rất kính nể họ vì họ làm việc chăm chỉ, có kỷ luật và không gấu ó lẫn nhau hay với người khác. Tuy nhiên kỷ luật đã bị sa sút, theo thời gian và nhân số. Diệm đã nhận được quá nhiều lời than phiền. Tướng Tôn Thất Ðính, chẳng hạn, than phiền rằng có quá nhiều người Mỹ.(28) Tại quân trường sĩ quan trừ bị Thủ Ðức, trong mùa Hè 1963 được lưu truyền những việc làm “anh hùng” của một số sĩ quan Việt chống lại thái độ trịch thượng, thực dân của cố vấn Mỹ. Ðại tá “Lam Sơn,” chẳng hạn, từng “gõ can [gậy chỉ huy] lên đầu một cố vấn Mỹ,” hay Tướng Ðính “rút súng dọa bắn” một nhân viên CIA Mỹ.

Ngày 22/4/1963, cơ quan CIA tiên đoán chế độ Diệm sẽ yêu cầu Mỹ giảm quân số tại miền Nam. Diệm và Nhu đều quan tâm đến vấn đề nhân viên Mỹ “xen vào” (infringements) chủ quyền của VN, đặc biệt là cơ quan quân viện [MAAG] và các đơn vị Lực lượng đặc biệt [LLÐB] Mỹ. Phủ Tổng thống đang tra hỏi những viên chức giữ chức vụ phối hợp với Mỹ về các hành vi của nhân sự Mỹ.(29)

Hơn một tháng sau, trong bài phỏng vấn Nhu trên báo Washington Post [Bưu điện Oat-shinh-tân] số ra ngày Chủ Nhật, 12/5/1963, Warren Unna thuật rằng Nhu muốn khoảng 12,000-13,000 quân Mỹ sẽ giảm xuống một nửa. Vì theo Nhu, đa số các cố vấn Mỹ tại địa phương chỉ thu thập tin tức tình báo, và sự hiện diện đông đảo của cố vấn Mỹ tạo cơ sở cho tuyên truyền của VC. Do áp lực của Mỹ, năm ngày sau, 17/5, Diệm mượn tuyên cáo chung [với Nolting] về vấn đề quĩ tài trợ chống nội loạn [CIP] để chính thức cải chính lời tuyên bố của Nhu: Số nhân viên Mỹ tại Nam Việt Nam sẽ tùy thuộc vào nhu cầu an ninh, kinh tế và xã hội.(30) Ngày Thứ Hai, 20/5, Nolting cũng báo cáo là Nhu cải chính rằng đã bị Unna trích dẫn sai lạc.( 31) Ba ngày sau nữa, 23/5, Nhu chính thức cải chính rằng chỉ muốn phát động “một cuộc cách mạng thực sự, để tiến dần đến tự túc,” nhưng đã bị hiểu lầm quá nhiều như bài Mỹ hay bài ngoại.(32)

Hạ tuần tháng 5/1963, sau khi chào Diệm để về Pháp nghỉ, Lalouette cũng tiết lộ Diệm và Nhu đã yêu cầu giảm bớt số cố vấn Mỹ.(33)

Phó Tổng thống Nguyễn Ngọc Thơ, người được chính phủ Mỹ coi như nhân vật có thể kế vị Diệm trong trường hợp bất trắc, cũng xa gần không muốn Mỹ gửi cố vấn dân sự xuống các tỉnh.

Mạnh miệng nhất là Lệ Xuân. Trong thời gian đi giải độc ở châu Âu và Mỹ, “Rồng Cái” ví von quân nhân Mỹ tại Việt Nam như những tên lính đánh thuê nho nhỏ [little soldiers of fortune]. Vợ chồng Nhu còn chê bai cả binh chủng Lực lượng Ðặc biệt do Kennedy lập nên; và, nói thẳng rằng quân đội Mỹ không thích hợp với chiến tranh du kích.

Trong bài phỏng vấn trên tờ Espresso của Italia, ra ngày 10/10, Nhu tuyên bố miền Nam có thể sống còn dù Mỹ yểm trợ hay không. Nhu chỉ cần các đơn vị trực thăng và tiền, không muốn lính Mỹ vì binh sĩ Mỹ không có khả năng đánh chiến tranh du kích. Ngay LLÐB do Kennedy thành lập cũng chẳng có giá trị gì. Diệm và Nhu chống lại việc đưa quân chiến đấu Mỹ vào miền Nam kể cả trong giai đoạn nghiêm trọng nhất trong mùa Ðông 1961-1962 [sic]. Cuộc chiến không thể thắng được với người Mỹ, vì người Mỹ cản trở sự chuyển biến cách mạng của xã hội, một điều kiện tiên quyết của chiến thắng.(34) Ước muốn của Nhu là Mỹ chỉ cung cấp quân viện, phi cơ, súng đạn, thiết giáp, thiết vận xa, v.. v... và giao mọi việc khác cho họ Ngô.

 

3. Chống Mỹ:

Suốt từ đầu năm 1950, sau khi lội núi vượt sông đi bộ 17 ngày qua Bắc Kinh xin viện trợ, ngày 3/2/1950 Hồ được Phó Chủ tịch Trung Cộng là Liu Shaoqi [Lưu Thiếu Kỳ] cho qua Mat-scơ-va gặp Josef Stalin để giải thích lý do giải tán Ðảng Cộng Sản Ðông Dương ngày 11/11/1945, Hồ ngả hẳn về khối Cộng Sản do Liên sô Nga cầm đầu. Ngoài những chiến dịch suy tôn Stalin, Mao Trạch Ðông, tái lập Ðảng Cộng Sản dưới bảng hiệu Ðảng Lao Ðộng Việt Nam [LÐVN] năm 1951, hay chỉnh phong, chỉnh cán, chỉnh quân, cải cách ruộng đất, áp dụng những “nghi lễ Mao-ít” trong đời sống thường nhật, Hồ chỉ thị cho thuộc hạ đẩy mạnh phong trào tố cáo “đế quốc Mỹ xâm lược.”(35) Sau năm 1954, cơ quan tuyên truyền Hà Nội cũng ngày đêm ra rả gọi sự trợ giúp của Mỹ cho chế độ chống Cộng ở miền Nam là “đế quốc” hay “tân thực dân.”

Từ sau cuộc đảo chính của Nhảy Dù và TQLC ngày 11/11/1960, chế độ Diệm bắt đầu dùng đến thuật ngữ “thực dân Mỹ.” Ngày 17/11, Ủy Ban Nhân Dân Chống Phiến Cọng của Trương Công Cừu, Ngô Trọng Hiếu và Nguyễn Văn Châu sử dụng phương tiện của chính phủ rải truyền đơn tố cáo “thực dân Mỹ, Anh, Pháp” dính líu vào cuộc đảo chính. Ðích thân Diệm tố cáo với Tướng Lionel McGarr, Tư lệnh MAAG, rằng có những phần tử Mỹ nói xấu chế độ. Nhu thì đi thẳng vào vấn đề hơn. Trong cuộc thảo luận với Lalouette, Nhu nghi Mỹ nhúng tay vào cuộc đảo chính. Một trong những chứng cớ là Ðại sứ Elbridge Durbrow chỉ đứng ra hòa giải, và còn cho Hoàng Cơ Thụy vào bao tải đựng văn kiện ngoại giao đưa trốn khỏi nước. Nhóm sĩ quan Nhảy Dù thì tuyên bố ở Phnom Penh là được Mỹ yểm trợ.(36)

Báo cáo ngày 18/12/1962 của TNS Mike Mansfield (1903-2001), Chủ tịch Khối đa số Thượng viện Mỹ, khiến vợ chồng Nhu lại xa gần đả kích “thực dân.”(37)

Ngày 2/3/1963, Diệm tuyên bố không cần học hỏi gì ở Oat-shinh-tân.( 38)

Gần cuối tháng 3/1963, Nhu cho lệnh Tung và Ðính mở chiến dịch tuyên truyền “chống Mỹ.“(39) Lệ Xuân mượn ngày Lễ Hai Bà Trưng 1963, và rồi tổ chức Phong Trào Phụ Nữ Liên Ðới [PTPNLÐ] để chỉ trích Mỹ can thiệp vào nội tình Việt Nam. Theo Lệ Xuân, đừng nên tỏ vẻ biết ơn viện trợ của ngoại quốc; vì nhiều kẻ viện trợ tưởng rằng chúng có quyền phá hủy phong tục, truyền thống và luật pháp lành mạnh của Việt Nam, biến Việt Nam thành bù nhìn, dụ dỗ đàn bà Việt Nam vào đường sa đọa. Vì thế, ngày 13/4/1963, Ðại sứ Nolting đã từ chối lời mời lên Ðà Lạt nghỉ của Lệ Xuân.(40) Khi được tin Lodge sẽ thay Nolting ở Sài Gòn, Nhu gọi Lodge là “Toàn quyền,” tước vị của viên chức cầm đầu Ðông Dương dưới thời “Bảo hộ” Pháp.

Từ cuối tháng 8/1963, nữ phát ngôn viên bán chính thức của chế độ–tức Lệ Xuân–ngày càng bộc lộ bản chất và tư cách đích thực của một người ít học vấn, nhưng do “Thiên mệnh Mỹ” và viện trợ Mỹ bỗng dưng lọt vào trung tâm quyền lực của miền Nam. Tổng Giám mục Thục cũng hòa điệu vào vở bi hài kịch mà Cố vấn An Ninh Quốc Gia Mỹ McGeorge Bundy phải chua chát gọi là “cơn điên cuồng tập thể của một gia đình cai trị chưa hề thấy từ sau [ngày sụp đổ của] Nga hoàng.”( 41)

Tuy nhiên, cho tới nay vẫn chưa có tài liệu về những đầu mối bản xứ giúp gia đình họ Ngô ve vãn Việt Cộng. Có người cho rằng Mã Tuyên, một lãnh tụ Hoa kiều ở Chợ Lớn, là đầu mối quan trọng. Lại có tin Albert Phạm Ngọc Thuần [sau đổi thành Phạm Ngọc Thảo], cựu Giám đốc Mật vụ của Ủy Ban Hành Chính Kháng chiến Nam Bộ (1947-1949), và lúc đó giữ chức Thanh tra Ấp Chiến lược, với cấp Trung tá, là đầu mối khác. Ngoài ra, phải kể Vũ Ngọc Nhạ của cụm tình báo chiến lược A-22, và các ổ trí vận ở Sài Gòn dưới quyền Trần Bạch Ðằng, với những thành viên như em gái Bộ trưởng Trần Lê Quang, v.. v...

B. NGUYÊN DO:

Có nhiều yếu tố dẫn đến việc Diệm-Nhu tự biến mình thành “phiến Cộng.”

 

1. Giải tỏa áp lực Mỹ:

Mục tiêu tối hậu của người Mỹ là duy trì một miền Nam chống Cộng, để ngăn chặn (containment) sức bành trướng của Trung Cộng và Nga Sô xuống vùng Ðông Nam Á (NSAM 111). Trên căn bản, người Mỹ chỉ yểm trợ một miền Nam chống Cộng mà không phải cá nhân nào. Nhưng họ Ngô muốn đồng hóa miền Nam với gia đình mình. Kiểu “sau lưng Hiến Pháp còn có tôi.” Bởi thế, những lời cố vấn để cải thiện hành chính, kinh tế, chính trị và quân sự được diễn dịch thành “áp lực” miên viễn.

Trong khi đó, từ năm 1960, người Mỹ muốn “rút ngắn hơn giây cương” con ngựa kéo cỗ xe chống Cộng miền Nam. Ba vấn đề được nhấn mạnh là đảng Cần Lao, nhân sự, và mở rộng sinh hoạt chính trị. Người Mỹ từng nhiều lần yêu cầu Diệm giới hạn quyền lực của Ðảng Cần Lao, vợ chồng cố vấn Nhu, Cẩn và Thục, cũng như mở rộng chính quyền cho những chính khách chống Cộng. Anh em nhà họ Ngô cương quyết không chịu nhượng bộ. Họ muốn độc quyền “thiên mệnh Mỹ” và “phép lạ Mỹ.”

Cuộc tranh đấu của Phật giáo từ ngày 7/5/1963 khiến áp lực Mỹ ngày một gia tăng. Chính phủ John F. Kennedy (1/1961-11/1963) công khai áp lực Diệm phải đáp ứng những nguyện vọng của Phật giáo, thành thực tôn trọng bản Tuyên cáo chung 16/6/1963, và từng đe dọa sẽ tách biệt khỏi chính sách Phật giáo của chế độ Diệm nếu có thêm một vụ tự thiêu. Diệm-Nhu quyết không nhân nhượng, tìm đủ cách phản ứng: Từ bịa đặt ra việc Cộng Sản ném lựu đạn (sau sửa sai thành hai trái mìn từ lực) trước Ðài phát thanh Huế, đàn áp, bắt giữ người biểu tình, tới vu cáo cuộc tranh đấu của Phật giáo do Cộng Sản chi phối, nhằm lật đổ chính quyền. Cả Diệm lẫn Nhu đều lên án “đế quốc” [và Cộng Sản] nhúng tay vào cuộc tranh đấu của Phật Giáo.( 42)

 

2. Lo ngại bị Mỹ bỏ rơi:

Từ năm 1960, họ Ngô không còn được chính phủ Mỹ chiều chuộng như xưa. Sau cuộc đảo chính hụt ngày 11/11/1960, Diệm-Nhu bắt đầu nghi ngờ sự yểm trợ mà Bảo Ðại từng cay đắng gọi là “mù lòa” của chính phủ Mỹ, và nhóm “Những người bạn Mỹ của Việt Nam” [American Friends of Vietnam] như cựu Tướng William Donovan, TNS Mike Mansfield, Hồng y Francis Spellman, v.. v... (43)

 

a. “Sự áp bức của báo chí Mỹ”:

Ðiều khiến họ Ngô cực kỳ bất mãn là báo chí Mỹ không ngừng đả kích chế độ Diệm. Từ đầu năm 1957, báo Foreign Affairs [Ngoại giao] đã cảnh giác dư luận Mỹ về tình trạng “cảnh sát trị ở miền Nam.” Nhiều người cho rằng Mỹ đang sa lầy, không thể chiến thắng với họ Ngô.

Vài học giả ít nhiều liên hệ với Ðại học Công Lập Tiểu Bang Michigan [MSU], Ðại học ký giao kèo cố vấn cho những kế hoạch hành chính và luật pháp với Sài Gòn, cũng công bố những nghiên cứu bất lợi cho chế độ như Milton C. Taylor trên tờ New Republic ngày 14/6/1961, và Frank C. Child trên cùng báo này ngày 4/12/1961. Dưới mắt Diệm, nhóm MSU chịu trách nhiệm về các chỉ trích “không đúng sự thực, không hợp lý, và phá hoại”. Diệm và Nhu cho rằng các giáo sư MSU đã lợi dụng cơ hội để nghiên cứu làm công tác gián điệp và tiết lộ những tin xấu về chính phủ.( 44)

Trong khi đó một nhóm ký giả trẻ như Neil Sheehan, Malcom Browne, David Halberstam, v.. v... được Trung tá Paul Vann, cùng viên chức trong Dinh Gia Long (Trần Kim Tuyến, Nguyễn Ðình Thuần), và cán bộ tình báo chiến lược Bắc Việt (như Vũ Ngọc Nhạ, Pham Xuân ẩn) cung cấp tin tức mật–do những lý do và mục đích khác nhau–tìm cách trình bày chiến cuộc và gia đình họ Ngô dưới những góc cạnh bi quan nhất. Sợi giây xuyên suốt qua những bài tường thuật của họ là trận chiến đang thua và Mỹ không thể thắng trận với họ Ngô. Theo họ, Nam Việt Nam đang trở thành một thứ “bãi lầy” hay “cát lún,” nghĩa địa của uy tín và danh dự của siêu cường Mỹ. (“Chiến thắng” Ấp Bắc ở Mỹ Tho vào đầu năm 1963 chỉ là một thí dụ) Qua những cuộc phỏng vấn Nhu và nhất là Lệ Xuân, họ biến vợ chồng Nhu-Lệ Xuân thành một thứ quái vật đen của chế độ.

Trong một chuyến thăm Mỹ bí mật, ngày 7/9/1960 Lệ Xuân đã nhờ Tướng Edward Lansdale và CIA bí mật can thiệp, công khai thanh minh cho Lệ Xuân về những tin đồn vô căn. Tại sao cơ quan CIA không nói Lệ Xuân là người thứ tư trong danh sách cần tiêu diệt của Cộng Sản (sau Diệm, Nhu và Cẩn). Tại sao những người Mỹ không hành động như Tướng Williams, Tư lệnh MAAG, con người chỉ biết làm bổn phận của mình? Các nhân viên và sĩ quan Mỹ tại Sài Gòn không thân thiện với chính phủ VNCH. Khi VC gia tăng tấn công, Durbrow chẳng những không tích cực giúp đỡ mà chỉ lo can thiệp vào nội tình cai trị của Diệm. Thái độ của Mỹ về việc tranh chấp biên giới với Miên thật khó hiểu. VC đột nhập qua ngả biên giới trong khi Mỹ cố tình ve vãn Sihanouk, tảng lờ việc Sihanouk thân thiện với Trung Cộng. Nhưng Lansdale chẳng làm được gì giúp vợ chồng Nhu.(45)

Vì không thích bị chỉ trích, họ Ngô tìm đủ cách phản ứng. Từ áp lực Tòa Ðại sứ Mỹ can thiệp, tới sử dụng tờ nhật báo Mỹ ngữ ở Sài Gòn, Times of Vietnam [Việt Nam Thời Báo], hay vài ký giả nổi danh như Margueritte Higgins, v.. v... để trả đũa. Rồi dần dần đến những biện pháp kiểm duyệt, trục xuất, và ngay cả bạo động–tức hành hung và đe dọa trục xuất hay giam giữ..(46)

Cuối năm 1961, sau khi Kennedy không đồng ý gửi quân chiến đấu vào Nam Việt Nam như Taylor đã hứa với Diệm, lại còn ép Diệm phải cải tổ chính phủ, họ Ngô mở chiến dịch chống Mỹ trên báo chí Việt Nam để cảnh giác Kennedy về thứ gọi là “tự do quá trớn” của báo chí Mỹ. Trong buổi nói chuyện với Robert J. Manning ngày 17/7/1963, Nhu nhận định rằng một số ký giả trẻ Mỹ có tham vọng lật đổ chính phủ hiện hữu để lập một chế độ mới, và “chính phủ Việt Nam bị báo chí Mỹ áp bức.”( 47)

 

b. Lo sợ Mỹ thay đổi chính sách:

Từ sau cuộc đảo chính hụt 11/11/1960, anh em Diệm-Nhu-Thục luôn luôn lo sợ Mỹ thay đổi chính sách.

Trong hai năm 1960-1961, Ðại sứ Lalouette ít nhất hai lần dò hỏi Ðại sứ Durbrow về việc liệu chính phủ Mỹ có thay đổi chính sách với miền Nam, hoặc gia đình họ Ngô hay chăng.

Tình hình chính trị và quân sự tại Lào và diễn biến cuộc thương thuyết Hiệp ước Geneva 1962, bảo đảm nền trung lập của chính phủ liên hiệp Lào, cũng khiến Diệm và Nhu lo sợ Mỹ bỏ rơi miền Nam. Ngày 19/10/1961, khi gặp Lansdale, Nhu không dấu sự lo sợ rằng diễn biến ở Lào được coi như sự bỏ rơi chính sách chống Cộng, và giải kết Liên phòng Ðông Nam Á. Ngày 10/7/1962, đích thân Kennedy phải viết thư trấn an Diệm là không thay đổi chính sách từ ngày nhiệm chức, và sẽ tiếp tục giúp VN tự bảo vệ và chiến thắng CS. Riêng tại Lào, nếu không trung lập, sẽ là chiến tranh. Trong buổi họp thượng đỉnh với Khrushchev tại Vienna ngày 3-4/6/1961, điều duy nhất Khrushchev chịu hứa với Kennedy là chỉ bảo đảm duy trì độc lập và trung lập của Lào. Bởi thế Kennedy yêu cầu Diệm đồng ý ký hiệp ước Geneva về Lào (22/7/1962). Sau nhiều giờ thuyết phục Diệm, phải tới lúc từ Dinh Gia Long trở lại Tòa Ðại sứ, Nolting mới được thông báo là Diệm đồng ý. (48)

Có lẽ vì mối lo ngại canh cánh bên lòng này, ngày 21/7, Ngoại trưởng Vũ Văn Mẫu còn nêu lên vấn đề liệu Nga Sô có kiềm chế Trung Cộng hay CSVN tại Lào. Và, khi TNS Mansfield hoàn tất bản báo cáo vào cuối năm 1962, phản ứng của họ Ngô giận dữ khác thường–khởi đầu một chuỗi những dữ kiện được biết như “cơn điên cuồng [hay mê sảng] của một gia đình cai trị chưa từng thấy từ thời các Ngs hoàng.”

Ngoài ra, cần đề cập đến không khí hòa hoãn đặc biệt giữa Mỹ và Nga vào cuối năm 1962, đầu 1963. Tháng 12/1962, Nikita S. Khrushchev đề nghị hai siêu cường nên hạn chế cuộc chạy đua vũ trang nguyên tử. Ngày 10/6/1963, Kennedy đáp ứng bằng bài diễn văn tại Ðại học American ở Kentucky, kêu gọi tiến về một nền hòa bình thế giới. Khrushchev hết lời ca ngợi, và sau đó, đại diện Mỹ, Bri-tên cùng Nga bắt đầu thương thuyết về hạn chế thí nghiệm bom nguyên tử. Ngày 5/8/1963, Hiệp ước cấm thí nghiệm nguyên tử trên không gian, trong khí quyển và dưới đáy biển [The Treaty Banning Nuclear Weapons Tests in the Atmosphere, in Outer Sapce and Under the Water] tại Mat-scơ-va (14 UST 1313) càng khiến Diệm-Nhu lo sợ hơn về sự thay đổi chính sách chống Cộng của Mỹ tại Nam Việt Nam. Trong buổi nói chuyện với 15 Tướng tại Bộ Tổng Tham Mưu ngày 30/8/1963, Nhu tuyên bố mật vụ Mỹ đang gia tăng nỗ lực lật đổ chính phủ Diệm từ sau ngày ký hiệp ước cấm thử bom nguyên tử. ( 49)

Việc thay thế Ðại sứ Nolting bằng Lodge vào giữa năm 1963 càng tăng thêm nỗi hãi sợ bị bỏ rơi của họ Ngô. Nhu dùng tiếng “Toàn quyền” để gọi Lodge, trong khi Diệm hờn oán sai Thuần cho Truheart biết Diệm rất bất mãn việc thay đại sứ Mỹ ở Sài Gòn. và nghi rằng Mỹ đang thay đổi chính sách, bắt Diệm phải làm theo Mỹ hay sẽ bị loại bỏ [Diem thought a new American policy was involved and an effort to force him to do our bidding or to unseat him]. Diệm cũng tuyên bố dẫu có gửi 10 Lodge tới Sài Gòn, vẫn phải huấn luyện pháo binh bắn vào Dinh Gia Long [“they can send ten Lodges, but I will not permit myself or my country to be humiliated, not if they train their artillery on this Palace”]. (50)  (Ngày 1/11/1963, Thiếu úy Hoàng Nguyên của Pháo binh Sư đoàn 5 là sĩ quan tiền sát điều chỉnh tác xạ vào Thành Cộng Hòa và một số mục tiêu khác)

Phía sau hậu trường chính trị, Nhu tìm cách giảng hòa với Pháp, hy vọng dùng Pháp để giảm bớt áp lực Mỹ. (Kế hoạch này đã khởi xướng từ năm 1961). Có lúc Nhu còn xa gần nhắc đến Trung Cộng. Và, đáng sợ hơn nữa, nuôi ý định ve vãn Cộng Sản.

 

c. Lo sợ Mỹ bỏ rơi họ Ngô:

Mối lo ngại này chẳng phải vô bằng chứng. Từ sau cuộc Trưng cầu truất phế Bảo Ðại ngày 23/10/1955, các viên chức Mỹ và dư luận thế giới đối diện một sự thực khó thể chối cãi là chế độ Diệm độc tài, gia đình trị, và giáo phiệt. Ngay những người thân cận cũ trong nhóm Bạn Mỹ của Việt Nam không dấu sự hoài nghi khả năng của anh em Diệm.

Ngày 24/1/1962, Giáo sư Wesley R. Fishel của Ðại học Tiểu bang Michigan [MSU] tiết lộ rằng chế độ Diệm đã xa rời quần chúng, chống đối ngày một nhiều. Lần đầu tiên sau bảy năm rưỡi thân thiết với họ Ngô, Fishel cảm thấy bi quan về hiện tình VNCH. Trong hai năm rưỡi qua, tình hình chính trị, kinh tế, xã hội và tâm lý đã ung hoại sâu xa. Về kinh tế, những tiến bộ ít năm trước bắt đầu xoay chiều, phần vì lũ lụt, phần vì VC gia tăng hoạt động. Năm nay [1962], VNCH không xuất cảng được gạo. Trong khi đó, Ðảng Cần Lao của Nhu xen vào các hoạt động kinh tế, tạo nên những hậu quả tai hại. Về quân sự, sự gia tăng lính Mỹ cùng trực thăng khiến tình hình khả quan hơn, nhưng chẳng hiểu ưu thế ấy giữ được bao lâu. VC và Trung Cộng chắc chắn sẽ có phản ứng. Những chuyến thăm vùng Cao nguyên và đồng bằng Cửu Long khiến Fishel lo ngại rằng VC sẽ khởi sự tấn công trong vòng ít tuần nữa. Về chính trị và tâm lý, tình hình VNCH đang ở mức thấp nhất. Hy vọng và sự hứng khởi của những năm 1955-1956 đã lịm tắt. Một cảm giác hận thù phảng phất trong không gian. Trong vòng 4 tuần lễ viếng thăm Việt Nam, Fishel đã nói chuyện với 118 người quen cũ, không ai thuộc thành phần đối lập, và ít nữa hai phần ba còn theo Diệm năm 1959, tất cả đều bày tỏ mối sợ hãi chung là Cộng Sản đang chiến thắng (Viet Cong are coming). Diệm ngày càng bị trói buộc bởi “những vùng ảnh hưởng ác quỉ” (evil influences) chung quanh. Chưa ai buộc tội Diệm làm sai, nhưng Diệm không chịu sửa đổi những lỗi lầm của người chung quanh. Vài ba người can đảm còn ở quanh Diệm không dám nói thẳng với Diệm những điều “chói tai” vì có thể Diệm sẽ cách chức họ, và các “ảnh hưởng ác quỉ” sẽ thay họ bằng tay chân chúng. Ai là những ảnh hưởng ác quỉ này? Theo Fishel, Nhu và vợ [Lệ Xuân] luôn luôn đứng đầu bảng. Lý thuyết của Nhu đã thất bại, nhưng cả Diệm lẫn Nhu chưa chịu nhìn nhận. Lệ Xuân–thông minh, sinh động, dơ dáy và tàn bạo theo kiểu Borgia [as brillant, vivacious, bitchy, and brutal in her Borgia-like fashion as ever]–làm các giai tầng xã hội xa cách chế độ của người anh chồng ở lúc mà Diệm cần sự yểm trợ của họ. Lệ Xuân đã bảo trợ việc biểu quyết một đạo luật “trong sạch hóa xã hội;” cấm khiêu vũ, thuốc ngừa thai, và kiểm soát việc ăn mặc, tỏ tình nơi công cộng, v.. v... Sự áp dụng mù lòa giáo điều Ki-tô này sẽ khiến chia rẽ các tín đồ Ki-tô và những người Lương, tạo nên sự căng thẳng mà trước đó ít khi xảy ra. Ngoài ra, còn có nhân vật tham vọng Nguyễn Ðình Thuần, người cũng bị ghét như vợ chồng Nhu. Viện trợ Mỹ, theo Fishel, chỉ giúp những ngón tay và ngón chân của VNCH cử động; nhưng thân mình vẫn bất động. Nếu không có một cú kích xúc tâm lý quan trọng trong vài tháng tới, không còn cách nào cứu vãn miền Nam. Theo Fishel, cần phải loại bỏ vợ chồng Nhu mới hy vọng tạo nên được cú kích xúc tâm lý khả dĩ. (51)

Thượng Nghị sĩ Mike Mansfield, lãnh tụ khối đa số, người đỡ đầu của chế độ Diệm và từng ba lần cứu nguy cho Diệm trong hai năm 1954-1955, cũng bắt đầu đổi ý. Cuối năm 1962, sau một chuyến thăm Việt Nam, Mansfield kết luận là Mỹ phải duyệt xét lại chính sách, vì sau khi đã trút vào miền Nam nhiều tỉ [hơn hai tỉ] Mỹ kim, tình hình an ninh đã trở lại với giai đoạn Diệm mới lên cầm quyền.

Nguyên văn: “Indeed, it was distressing on this visit to hear the situation described in much the same terms as on my last visit although it is seven years and billions of dollars later. Vietnam, outside the cities, is still insecure place which is run at least at night largely by the Vietcong. The government in Saigon is still seeking acceptance by the ordinary people in large areas of the countryside. Out of fear or indiferrence or hostility the peasants still withhold acquiescence, let alone approval of that government. In short, it would be well to face the fact that we are once again at the beginning of the beginning. . . . The real question which confronts us, therefore, is how much are we ourselves prepared to put into Southeast Asia and for how long in order to serve such interests as we may have in that region? Before we can answer this question, we must reassess our interests, using the words “vital” or “essential” with the greatest realism and restraint in the reassessment. When that has been done, we will be in a better position to estimate what we must, in fact, expend in the way of scarce resources, energy and lives in order to preserve those interests. We may well discover that it is in our interests to do less rather than more than we are now doing. If this is the case, we will do well to concentrate on a vigorous diplomacy which would be designed to lighten our commitments without bringing about sudden and catastrophic upheveals in Southeast Asia.” (52)

Một số viên chức trẻ tung tin họ Ngô phải ra đi [The Ngos must go]. Ðại sứ Durbrow đề nghị “thay ngựa” một cách hợp pháp qua cuộc bầu cử Tổng thống vào tháng 4/1961. Ngày 22/10/1961, Joseph A. Mendenhall, Cố vấn chính trị Sài Gòn, đặt câu hỏi: “Sự vững chắc của chính phủ Diệm ra sao?” (“How stable is the Diem government?”) rồi tự trả lời: “Chính phủ này ít vững chắc hơn so với sáu hay ba tháng trước, và ít vững chắc ngay cả với tuần trước.” (“It is less stable then it was six or three months ago or even than it was a week ago;”) Những cuộc thất trận trong hai tháng 9-10/1961 và cái chết của Ðại tá [Hoàng Thụy] Nam “tạo nên tình trạng gần như hoảng hốt ở Sài Gòn” (“have produced an atmosphere bordering on panic in Saigon). Theo Mendenhall, chỉ có hai cách để thay đổi là cuộc cách mạng tại Dinh Ðộc Lập hay một cuộc đảo chính bằng quân sự. Việt Cộng không đủ sức mạnh lật đổ Diệm trong tương lai gần. (53)


Từ năm 1962, các viên chức Mỹ lại bắt đầu nghiên cứu một giải-pháp-khác-Diệm. Ngày 16/8/1962, trong phiếu trình về tình hình Việt Nam, Mendenhall ghi nhận: Lực lượng Việt Cộng (VC) đã tăng từ 2,000 vào cuối năm 1959 lên 20,000 trong năm 1962. Chính phủ chỉ còn kiểm soát được thành phố và các tỉnh, quận lị. Tình trạng an ninh ngày một tồi tệ hơn. Tổng thống Diệm và sự yếu kém của ông ta là nguyên nhân chính của tình trạng thoái hóa. Hai nhược điểm của chính phủ Diệm là: (1) Chính quyền tổ chức không hữu hiệu, hậu quả của việc Diệm không có những quyết định dứt khoát, không chịu chia xẻ bớt trách nhiệm, không có hệ thống chỉ huy, không nhìn nhận lỗi lầm và thiếu tin tưởng; và (2) thiếu khả năng lôi kéo quần chúng vì Diệm không có những đặc tính của một nhà chính trị. Ðể chiến thắng VC, cần một chính quyền hữu hiệu hoặc phải được dân chúng mến mộ, nhưng Diệm thiếu cả hai. Ấp Chiến lược không đạt được những kết quả mong muốn. Dân chúng không được bảo vệ kịp thời và đúng mức; chính sách Ấp chiến lược khiến mất lòng dân hơn lôi kéo họ về phía chính quyền. Chính phủ cũng chẳng quan tâm gì đến các khía cạnh xã hội và kinh tế trong các Ấp Chiến lược. Chẳng có cơ hội nào khiến Diệm và Nhu thay đổi. Diệm đã già (65 tuổi) và không bỏ được lề lối quan lại. Diệm và Nhu đều nghĩ rằng họ biết người Việt hơn ai hết, vì thế ít khi nhận lời khuyên can. Cả hai đều không tin cậy người ngoài gia đình và họ không thể thay đổi nguyên tắc “chia để trị.” Không thể thắng VC với cách làm việc của Diệm-Nhu, và dù áp lực cách nào đi nữa, Diệm-Nhu cũng không chịu thay đổi lề lối làm việc. Ðề nghị: Loại bỏ Diệm, vợ chồng Nhu, và tất cả những người trong họ Ngô. (54)

Phó Phụ tá Ngoại trưởng đặc trách Viễn Ðông vụ, Edward E. Rice, phê bình: “Có vẻ như một việc rất phức tạp và không dễ giữ bí mật trước khi thi hành.” Ngày 17/8/1962, Bạch Cung quyết định rằng báo cáo tháng 5/1961 của PTT Lyndon B. Johnson là căn bản của chính sách Việt Nam: Chính phủ Kennedy tiếp tục làm việc với Diệm vì chưa tìm được người thay. (55)

Ðặc biệt, quyết định thay Ðại sứ Nolting bằng Lodge vào tháng 6/1963–giữa cơn khủng hoảng Phật Giáo–càng tăng thêm nỗi hãi sợ bị bỏ rơi của họ Ngô. (56)

 

3. Ðụng chạm cá nhân với Mỹ:

Sự căng thẳng liên hệ với Mỹ trước hết là do quyền lợi cá nhân của họ Ngô. Anh em họ Ngô không thể hiểu nổi tại sao người Mỹ yểm trợ nhiệt tình miền Nam mà không tiếp tục ủng hộ mọi kế sách do họ đặt ra, và nhất là không thấy được một chân lý: Họ Ngô đồng nhất thể với chế độ chống Cộng Việt Nam Cộng Hòa.

 

a. Mặc cảm “vệ tinh”:

Việt Nam Cộng Hòa là một thực thể chính trị do Mỹ lập nên và cần viện trợ Mỹ để tồn tại, vào khoảng 200-400 triệu MK mỗi năm và ngày càng gia tăng. Họ Ngô hiểu rõ điều ấy hơn bất cứ một ai tại Nam Việt Nam. Nói cách khác, bản chất liên hệ giữa Nam Việt Nam và Liên bang Mỹ là liên hệ vệ tinh chiến lược, hay patron-client [ông chủ và đầy tớ].( 57)

Trên căn bản đây là thứ liên hệ bất bình đẳng, giữa người cho và người nhận. Nhưng họ Ngô lại muốn được nhìn ngắm và hành xử như lãnh tụ một quốc gia hoàn toàn độc lập, có khả năng tự túc, tự cường, một “chí sĩ,” “lãnh tụ anh minh” của toàn quốc dân Việt Nam. Trên nóc một doanh trại trường Sĩ quan trừ bị Thủ Ðức, chẳng hạn, có một khẩu hiệu khổng lồ: “Một lãnh tụ: Ngô Ðình Diệm; Một lý tưởng: chống Cộng.” Trong các rạp chiếu bóng, mỗi đầu xuất phim, ai nấy phải đứng lên nghiêm chỉnh chào quốc kỳ và suy tôn Ngô Tổng thống. Những lời “có vấn” của Mỹ, bởi thế, không được đón nhận một cách cởi mở, phục thiện, mà thường tiềm ẩn mặc cảm xin xỏ, nhờ vả. Hệ thống tuyên truyền Cộng Sản–ngày đêm ra rả bêu riếu chế độ Diệm là “bù nhìn,” “ngụy quyền,” “tay sai đế quốc Mỹ,” “buôn dân bán nước”–khoét sâu hơn sự ngăn cách giữa họ Ngô với chính phủ Mỹ. (Thực ra, chế độ VNDCCH cũng chẳng vinh dự gì hơn–nói theo Trường Chinh và Nguyễn Ngọc Minh [Trần Văn Giàu], chỉ là một tiền đồn của Trung Cộng, với nhiệm vụ chống Mỹ đến người Việt Nam cuối cùng, đổi lấy vài chục tỉ viện trợ suốt cuộc chiến)

Ngày 12/4/1963, khi tiếp chuyện một viên chức CIA ở Sài Gòn [Richardson?] Nhu tuyên bố gần trọn đời Diệm đã chống lại sự đô hộ của Pháp [sic], thật tế nhị [sensitive] nếu sự trợ giúp của Mỹ hàm chứa bóng tối của tình trạng bị bảo hộ hay “condomunium.” Không thể định chế hóa liên hệ Mỹ Việt. Ngoài vấn đề định chế [institutional] và luật pháp [juridical], Nhu sẵn sàng hợp tác chặt chẽ với Mỹ. (58)

Vào trung tuần tháng 9/1963, cơ quan CIA trình lên Kennedy “Vấn đề Nhu” [Problem of Nhu] như sau: Nhu có tinh thần chống Mỹ, cáo buộc Mỹ là thực dân, phong kiến, đang muốn biến Nam Việt Nam thành chư hầu. Nhu tung tin một số viên chức Mỹ nằm trên danh sách sẽ bị thủ tiêu. Nhu nói rằng Mỹ phải giảm áp lực vì đang đe dọa nền độc lập của Nam VN. Nhu liên tục nói dối với Lodge và chánh sở CIA Sài Gòn về vai trò của mình trong cuộc tấn công chùa chiền (20/8/1963). Nhu thường nói nếu Mỹ cắt viện trợ sẽ có nguồn viện trợ khác. Nếu không có viện trợ, Nhu sẽ tìm cách thương thuyết với Hà-Nội. Tin Nhu bắt đầu thương thuyết với Hà Nội lan truyền rộng rãi, khiến tinh thần binh sĩ hoang mang. Nhu tin rằng chỉ có Nhu mới cứu được Việt Nam.( 59)

 

b. Khác biệt trong ước muốn viện trợ:

Trong giai đoạn 1955-1959, kinh viện của Mỹ cho Việt Nam được quản trị qua quĩ song hành [“counterpart fund” financing]: Các nhà nhập cảng Việt sẽ mua hàng hóa cần thiết (như phân bón, thép, máy móc, xe hơi và xi-măng) qua chương trình nhập cảng. Chính phủ Mỹ sẽ trả tiền trực tiếp cho các người bán; và các nhà nhập cảng Việt sẽ trả bằng tiền Việt Nam vào một quĩ song hành đặc biệt. Quĩ này sẽ xuất chi cho chính phủ Nam Việt Nam trên những điều thỏa thuận, đặc biệt là trả lương quân nhân, công chức. Khoảng 80% quĩ song hành đặc biệt dùng cho việc quốc phòng. Từ năm 1955 tới 1959, vì triệt để tôn trọng nền độc lập của VNCH, người Mỹ không hề ra một điều kiện nào để đổi lấy viện trợ, ngoại trừ chính sách chống Cộng. Vì không có điều kiện tiên quyết, nên Mỹ khó áp lực được Diệm. Nhưng từ năm 1956, Nhu thuyết phục Diệm dùng viện trợ Mỹ để phát triển đảng Cần Lao. Rồi đến Giám mục Thục muốn dùng viện trợ Mỹ cho các giáo mục. Theo Chester Cooper, một nhân viên Hội đồng An Ninh Quốc Gia Mỹ, “Từ đó, khởi đầu sự tham nhũng do chính phủ bảo trợ làm lũng đoạn miền Nam dưới chế độ Diệm.” (60) (Thực ra, tham nhũng và hối mại quyền thế là một di sản hàng ngàn năm của các nước Á Châu, bất kể màu sắc ý thức hệ hay tôn giáo–từ Ki-tô Philippines, Phật giáo Thái Lan và Myanmar, tới Islam ở Indonesia và Malaya, “định hướng xã hội chủ nghĩa” ở Trung Cộng, Việt Nam hay Bắc Hàn).

Trên nguyên tắc, họ Ngô không hài lòng với cách viện trợ của Mỹ. Thứ nhất, viện trợ Mỹ không tháo khoán cùng một lúc mà chỉ tháo khoán theo thời kỳ, cho từng chương trình viện trợ.

Thứ hai, viện trợ Mỹ chỉ được dùng để mua hàng Mỹ, chuyên chở bằng các phương tiện của Mỹ.

Thứ ba, miền Nam chỉ nhận được viện trợ Mỹ và các nước đồng minh thân thiết như Bri-tên, AustraliaNew Zealand. Pháp viện trợ rất giới hạn về văn hóa và kỹ thuật. Các nước Tây Âu như Tây Germany [Ðức], Holland hay Nhật chỉ yểm trợ rất giới hạn.

Họ Ngô muốn được viện trợ theo kiểu Lend-Lease [mua/thuê trả dài hạn], hay cho vay dài hạn với lãi xuất thấp nhưng Mỹ không chấp thuận. (61)

Chiều ngày 2/9/1963, Nhu còn lập lại rằng muốn được vay dài hạn, với lãi xuất thấp, hơn là viện trợ. Như thế người Mỹ tránh được trách nhiệm về những gì người Việt làm.( 62)

Chủ đề Nhu ưa thích nhất là làm một cuộc cách mạng tiến tới tự lực và tự túc. Nhưng, như Nhu than phiền với Ðại sứ Nolting vào hạ tuần tháng 5/1963, Nhu đã bị hiểu lầm quá nhiều là bài ngoại hay chống Mỹ. Nhu nhấn mạnh rằng chỉ làm một cuộc cách mạng thực sự (kiểu mỗi gia đình một miếng đất trong khu vực Ðồng Tháp Mười và các chiến khu C, D, v.. v..., hay khẩu hiệu “tam giác,” “tam túc”) nhưng bị hiểu lầm, và phá bĩnh bởi những kẻ bên lề. (63)

Từ tháng 9/1963–sau khi bị Mỹ áp lực rời nước–vợ chồng Nhu-Lệ Xuân còn tuyên bố không cần viện trợ Mỹ. Trong bài phỏng vấn trên tờ Espresso của Italia, ngày 10/10, Nhu tuyên bố miền Nam có thể sống còn dù có Mỹ yểm trợ hay không. Nhu muốn Mỹ đối xử với Việt Nam như Yugoslavia, viện trợ tiền nhưng không can thiệp vào nội bộ. “Nếu người Mỹ cắt viện trợ, chưa hẳn đã là điều xấu.” [If the Americans interrupt their help, it may not be a bad thing after all].”( 64)

Ngô Trọng Hiếu cũng tuyên bố “Chúng tôi không cần người Mỹ, trên cả phương diện kinh tế.”( 65)

 

c. Khác biệt trong triết lý hành động:

Họ Ngô tin rằng chỉ có họ mới biết chống Cộng một cách hữu hiệu. Theo họ, người Mỹ không biết gì nhiều về Việt Cộng. (66)

Họ Ngô cũng tin rằng không thể áp dụng thể chế dân chủ kiểu “một chính phủ bao gồm nhiều khuynh hướng chính trị quốc gia.” Diệm chủ trương độc tài hay trung ương tập quyền, theo kiểu Cộng Sản Bắc Việt, nhưng chỉ khoác cho nó lớp xiêm áo dân chủ tượng trưng, trên giấy tờ. Hiến Pháp 1956, chẳng hạn, dành cho Diệm quyền uy tối thượng, như ban hành các sắc luật cần thiết trong trường hợp lâm nguy. Một quan sát viên ngoại quốc, vốn có lập trường chống Cộng vững mạnh, gọi chế độ VNCH là chế độ “Cộng Hòa Nhân Dân chống Cộng” duy nhất trên thế giới; và trong vòng 24 giờ, nếu người ta thay đi lá quốc kỳ [nền vàng ba sọc đỏ], nó sẽ giống hệt miền Bắc. Trong khi đó, dư luận Mỹ nối liền viện trợ với tinh thần dân chủ thực sự, và chẳng ưa thích gì loại “dân chủ Nhân Vị, chậm tiến” của họ Ngô. Sở dĩ năm 1954-1955, chính phủ Eisenhower coi Diệm như cá nhân duy nhất xứng đáng được nhận viện trợ Mỹ vì họ tin rằng độc tài bản xứ không xấu bằng thực dân Pháp, và các viên chức Mỹ tự tin có khả năng “uốn nắn” Diệm theo con đường dân chủ. Nhưng từ Dulles tới Rusk đều sai lầm. Chẳng những là “một nhà tiên tri không có lời rao giảng [a messiah without a message]” Diệm còn nặng mang tinh thần “thánh chiến Trung Cổ” [medieval crusade]. Diệm vừa chống Cộng vừa nặng mang tự ti mặc cảm với các lãnh tụ Cộng Sản, trong khi đánh giá thấp mọi tổ chức và cá nhân chống Cộng không Ki-tô.

Ngày 12/4/1961, Diệm tuyên bố với ký giả Joseph Alsop rằng chính phủ Mỹ không yểm trợ Diệm đúng cách.( 67)

Ngày 6/1/1962, khi gặp các viên chức Mỹ, Diệm cũng qui trách cho lỗi lầm của Mỹ khiến không chống Cộng hữu hiệu. Theo Diệm, sai lầm của Mỹ là không chấp thuận đề nghị xin tăng 20,000 quân VNCH trong chuyến qua Mỹ năm 1957, coi Bảo An như lực lượng cảnh sát thôn quê hơn là quân đội; không xây dựng các trục lộ chiến lược mà Diệm đề nghị. Xen kẽ với các phê bình trên là một cuộc độc thoại miên man về thành tích và kinh nghiệm 40 năm chống Cộng: từng bị Việt Minh bắt giữ sau năm 1945 và bị giam trong một vùng rừng núi Bắc Việt; lý do từ quan năm 1933 là do lập trường chống cả thực dân lẫn Cộng Sản [Diem’s anti-colonialist and anti-communist convictions led to his withdrawal from the French civil service]; và, từ năm 1922, khi khởi đầu hoạn lộ với chức tri huyện, Diệm đã chống Cộng và nghiên cứu về Cộng Sản qua các tài liệu ấn hành ở Switzerland [Thụy Sĩ]. Suốt 40 năm kế tiếp, lập trường này không thay đổi.( II:41-2) Nhưng ngày 26/1/1962, Phụ tá Giám đốc Viễn Ðông vụ, Sở Quốc tế An ninh vụ của Bộ Quốc Phòng Mỹ [Far East Affairs, Office of International Security Affairs, DOD], Kent, nhận xét:

Diệm là người không biết san xẻ quyền lực; không biết hòa hài hay nhân nhượng; có ảo tưởng về sự toàn năng của mình. Diệm là một ông quan qua huấn luyện và thừa kế. Ông ta tự cho mình là chính nghĩa, được thần linh hướng dẫn. Ông ta có lẽ thiếu khả năng nhận hiểu rằng lợi ích quốc gia Việt Nam sẽ được phục vụ nếu ông ta rời bỏ quyền lực. Việc nhúng tay vào quân sự của ông ta khiến việc lãnh đạo và chỉ huy bị thiệt hại nặng. Ông ta không có kinh nghiệm về quân sự.” [“Diem is psychologically unable to delegate authority; He is unable to compromise; He has illusions of omniscience. He is mandarin by training and inheritance. His conviction of self-righteousness. He believes that he enjoys divine guidance. He is probably incapable concluding that the best interests of Vietnam would be served if he relinquished power. His hands on the military made the leadership of the armed forces seriously suffered. He lacks military background.” (II:60-2) (68)

 

Họ Ngô không thể chấp nhận những thứ quái lạ như “tự do báo chí” (tự do quá trớn, tự do thiếu trách nhiệm). Cuối năm 1961, họ Ngô cho báo chí Mỹ tấn công chính phủ Mỹ để dạy Mỹ một bài học về cách kiểm soát báo chí. Ðầu năm 1962, Diệm còn định viết thư cho Kennedy than phiền về sự “lộng hành” của báo chí Mỹ.( 69)

 

d. Kỳ thị chủng tộc:

Ẩn tàng dưới sự chống Mỹ âm thầm, thẳm sâu trên là mặc cảm bài ngoại [xenophobia]. Người Việt thường có thói quen coi người ngoại quốc như “mọi rợ” hay “ngu xuẩn,” “khờ khạo.” Tiếng thông dụng nhất trong dân gian về một người Mỹ là “mọi da đỏ.” Tiếng thông dụng trong giới có quyền chức là “bàn tay lông lá.” Nhiều sĩ quan cho rằng cố vấn Mỹ chẳng có gì để “cố vấn” được họ, vì họ là những người từng “dày dạn kinh nghiệm trận mạc”–như đóng đồn, khai thông trục lộ, v.. v... dưới sự che chở của đạo quân viễn chinh Pháp.

Ngô Ðình Nhu nhiều hơn một lần chê người Mỹ “muốn giúp” mà “chẳng hiểu mô tê gì cả.”( 70)

Mặc dù Nhu có lần khẳng định với viên chức Mỹ là không có tinh thần bài ngoại hay chống Mỹ, việc làm và lời nói của Nhu biểu lộ quá rõ ràng những cá tính này.

 

e. Mặc cảm tự tôn “văn hóa”:

Anh em họ Ngô, đặc biệt là Nhu, còn mang thêm mặc cảm tự tôn văn hóa.

Ngô Ðình Diệm, vì chỉ đậu Trung học đệ nhất cấp [Diplôme]–khởi đầu hoạn lộ bằng chức cửu phẩm tập ấm tại Tân thư viện Huế năm 1917, và trong vòng 8, 9 năm thăng tiến lên chức Tuần vũ Phan Thiết–nặng mang tinh thần Ki-tô Vatican trung cổ, phảng phất thứ luân lý Nho giáo phổ thông. Bởi thế, dù ngưỡng mộ xã hội Mỹ và nền văn minh Mỹ, Diệm không chấp nhận được nền văn hóa pháp trị, sự biệt phân giữa nhà nước và giáo hội, hay bầu không khí “dân chủ quá trớn” của nước Mỹ.

Từng tốt nghiệp trường cổ ngữ Chartes (chương trình quản thủ thư viện và văn khố) tại Paris, Nhu quen nói và viết tiếng Pháp hơn tiếng Việt. Ngay vợ và các con Nhu đều theo học trường Pháp. Nhu cho rằng nền văn hóa Ki-tô/thuộc địa mà thế hệ mình thụ hưởng cao thâm hơn nền “văn hóa da đỏ.” Thứ mặc cảm này phần nào vay mượn từ người Pháp. Nhu, theo một nguồn tin, không chịu học tiếng Mỹ, và chỉ chịu đối thoại với các viên chức Mỹ bằng tiếng Pháp hay qua các thông ngôn.( 71)

Mặc cảm tự tôn văn hóa trên, thực ra do lòng tự ti mà thành. Ðược huấn luyện ở Pháp trong thập niên 1930, trở lại sống trong xã hội bảo hộ và rồi một xã hội nửa-thuộc-địa đang bị chiến tranh tàn phá trong hai thập niên 1940-1950–tức một xã hội chậm tiến hay kém phát triển [underdevelopped], theo cách diễn tả của Nhu–nên Nhu chưa có dịp nghiệm chứng nền văn hóa kỹ-nghệ-hóa của một siêu cường, với những phát kiến đưa nhân loại vào một cuộc cách mạng khoa học chưa hề có tiền lệ, một nền văn hóa vật bản thực dụng, thắng vượt khỏi thứ nền văn hóa vật bản/Ki-tô cứng đọng của Âu Châu. Nhu cũng chưa từng cảm nhận được sự chuyển vận của một xã hội thực sự độc lập, pháp trị hiến định. Tóm lại, Nhu chẳng hiểu gì về người Mỹ, văn hóa Mỹ, cấu trúc xã hội Mỹ ngoài những cảm nhận bình dân. Mặc cảm tự tôn của Diệm-Nhu, ngắn và gọn, là thứ tự tôn văn hóa kiểu Trung cổ.( 72)

Vợ Nhu, một phụ nữ chưa kịp tốt nghiệp trung học, cũng lây cái bệnh “tự tôn văn hóa” trung cổ này. Chung qui cũng do họ bị vây bủa tứ hướng bằng những vách đá “ngu dốt sặc sỡ và điêu ngoa hào nhoáng” lạnh lẽo của những giai tầng tự nhận là “sang cả” [elite] của các xã hội thuộc địa mà Nhu rất thích gọi là “chậm tiến” [underdeveloped].

Là một gia đình thăng tiến vượt mức nhờ theo đạo Ki-tô, hết lòng phục vụ bảo hộ Phàp, lại có một người đi tu lên tới chức Giám mục từ năm 1938, họ Ngô cho rằng tôn giáo Ki-tô của họ là chân lý, và tâm niệm rằng tất cả những người theo đạo khác đều là ác quỉ (Satan). Thái độ kiêu ngạo, cửa quyền của Diệm-Thục đối xử với các giáo phái Cao Ðài, Hòa Hảo trong thập niên 1950 và rồi Phật giáo từ năm 1956 tới 1963 là những bằng chứng cụ thể. Cuộc đấu tranh của Phật giáo trong năm 1963, bởi thế, được nhìn ngắm và kết tội như âm mưu chống lại chính quyền, do Cộng Sản và “những tên phiêu lưu quốc tế” giật giây. Anh em họ Ngô tìm đủ cách trình bày cuộc tranh đấu Phật Giáo dưới những góc cạnh xấu xí nhất–như các nhà sư đã biến nhà chùa thành nhà chứa, các sư ni không tự thiêu mà đã bị mưu sát, và hành động tự thiêu chẳng là gì khác hơn “nướng thịt sư,” v.. v... –những lời tuyên bố mà bất cứ ai có lương tâm và giáo dục gia đình cơ bản cũng khó thể phát biểu, nói chi những người đang thực sự cầm quyền một chế độ.( 73)

 

4. Niềm tin vào “Ấp Chiến Lược”:

Chính thức phát động ở Nam Việt Nam từ năm 1962, kế hoạch Ấp Chiến Lược chỉ là một mô hình cải tổ hiện đại trong nỗ lực trị an từ cổ xưa. Hình thái sơ đẳng nhất là các đơn vị “đồn điền” mà Nguyễn Tri Phương đã thực hiện tại miền Nam trong thập niên 1850. Dòng họ Ngô đã có kinh nghiệm gia truyền này từ Ngô Ðình Khả, cha họ, một thời là phụ tá của Khâm mạng tiết chế Nguyễn Thân khi đánh dẹp phong trào Cần Vương/Kháng Pháp trong hai năm 1895-1896 ở Hà Tĩnh/Quảng Bình. Ðại cương, kế hoạch này nhằm loại bỏ những cán bộ đối nghịch nằm vùng khỏi dân chúng, ổn định tình hình an ninh/trật tự tại các xóm thôn, song song với việc truy lùng và tiêu diệt các đơn vị vũ trang đối nghịch. Ý niệm này được cải thiện dần theo kinh nghiệm đánh dẹp Cộng Sản trong thập niên 1920 và đầu thập niên 1930 của Pháp mà Diệm đã hăng say tham dự, thăng quan tiến chức vượt mức thông thường, nên, nếu tin được lời chứng của Ngô Ðình Thục, Cộng Sản phải gửi sát thủ người Hoa ra tận Phan Rang thanh toán, nhưng Diệm chỉ bị thương. Ðầu thập niên 1940, Pháp sử dụng chiến thuật “vét láng” tại vùng thượng du Bắc Việt. Ðầu thập niên 1950, Thủ hiến Nguyễn Hữu Trí thực hiện khu trù mật Ðồng Quan, và các làng chiến đấu ở đồng bằng Bắc Việt.

Từ năm 1961, Ngô Ðình Diệm đã chọn kế hoạch của Robert Thompson, một chuyên viên Bri-tên từng thành công trong việc diệt Cộng ở Malaya, lúc đó cầm đầu Ðoàn cố vấn Bri-tên tại Sài Gòn. Nhưng kế hoạch Ấp Chiến Lược của Diệm-Nhu được tổ chức qui mô hơn, trên bình diện quốc sách.


Những thắng lợi nho nhỏ vào đầu năm 1962 khiến họ Ngô lạc quan thái quá. Thực ra, những chiến thắng này phần lớn do việc tăng cường hỏa lực Mỹ (thiết vận xa, trực thăng, khu trục, bom đạn, và nhất là thuốc khai quang mà Diệm nhiều lần thúc dục Mỹ sử dụng, trong khi Tổng thống Kennedy không hoàn toàn ủng hộ vì biết rõ những hậu quả tệ hại cho môi sinh), và chiến thuật “diều hâu” (đổ quân bằng trực thăng). Họ Ngô cũng không thể dự đoán được phản ứng của CSBV nhằm phá hoại quốc sách này: Gài nhân viên tình báo chiến lược tìm hiểu và phá hoại, vận động dân chúng phá Ấp Chiến Lược, và nhất là sử dụng cơ quan tuyên truyền quốc tế, qua Nga và Trung Cộng, để lên án Ấp Chiến lược là “trại tập trung,” v.. v...

Bởi thế, họ Ngô tin tưởng rằng Ấp Chiến Lược, một khi hoàn tất và củng cố, sẽ khiến Bắc Việt tự động ngưng lại tham vọng chiếm miền Nam bằng vũ lực.( 74)

Ngày 30/8/1963, Lalouette cũng san xẻ với họ Ngô nhận định chủ quan rằng cuộc chiến tranh du kích sẽ sớm kết thúc trong vòng 1, 2 năm. Việt Cộng hiện đang chán nản và tinh thần miền Bắc xuống thấp. Khi cuộc chiến du kích chấm dứt, chính là miền Nam, lúc ấy sẽ mạnh hơn miền Bắc, sẽ đề nghị hiệp thương, trao đổi gạo miền Nam lấy than miền Bắc. Ðiều này có thể dẫn tới việc thống nhất đất nước với miền Nam vượt thắng [“In a year or two the guerrilla danger might be ended. The Viet Cong are very discouraged and morale is very low in North Vietnam. . . . When the guerrilla war is ended, it might be for the South Vietnamese, who would be stronger than the North Vietnamese, to propose trading some of their rice for North Vietnamese coal. This might lead towards a unified Vietnam with South Vietnam the dominant element. But all of this was remote.”].  Lối suy luận đơn giản, kiểu tháp ngà này, chứng tỏ cả Diệm-Nhu lẫn Lalouette chẳng biết gì hoặc đánh giá sai lầm về khả năng kiểm soát dân chúng hay quyết tâm nhất thống đất nước của chính phủ VNDCCH và Ðảng CSVN. Lalouette cũng như họ Ngô cũng chẳng biết gì về bài học lịch sử cận kim Việt Nam: Vì chủ trương thống nhất ba miền, Hồ đã chấp nhận chiến tranh chống Pháp năm 1946. (75)

Chiều Thứ Sáu, 6/9/1963, Nhu tuyên bố với nhân viên CIA rằng chiến tranh du kích sẽ nghiêng về phía miền Nam vào cuối năm 1963 và trong tương lai VNCH và Mỹ có thể thương thuyết với miền Bắc ở thế mạnh [at some future time SVN and US might be able [to] negotiate with North Vietnam from position of strength]. Không một chính phủ nào, theo Nhu, có thể thương thuyết với miền Bắc dù công khai hay bí mật, ngoại trừ trường hợp đã thắng cuộc chiến tranh du kích và cũng không với điều kiện trung lập mà phải trong khuôn khổ một miền Nam mạnh tìm cách kết hợp miền Bắc vào Thế Giới Tự Do. (76)

Thực tế, việc thực hiện Ấp Chiến Lược không tiến triển tốt đẹp như họ Ngô ảo tưởng. Ngày1/5/1963, Rufus Phillips, Phó Giám đốc USOM, nhận định rằng mặc dù trên lý thuyết Ấp Chiến Lược thật tuyệt hảo, nhưng việc thực thi gặp nhiều khó khăn lớn: thiếu sự hiểu biết về nguyên tắc Ấp Chiến Lược, và thiếu ý chí thực hiện. Các viên chức mọi cấp khiến dân chúng xa lánh hơn là ngả theo chính phủ. (77) Vào tháng 9/1963, Phó Tổng thống Thơ vẫn hoài nghi hiệu quả của kế hoạch Ấp Chiến Lược, và nhận xét rằng toàn quốc chỉ có chừng 20-30 ấp được phòng thủ tốt. Dân chúng không chỉ ở lại các làng xóm vì bị VC đe dọa mà vì họ bất mãn chính phủ. (78)

 

5. Dự đoán sai lạc về thực lực Cộng Sản:

Không kém quan trọng, cuộc chiến chống Cộng đang bị thất lợi. Việt Cộng không những chỉ khủng bố, ám sát các viên chức hành chính nông thôn hẻo lánh, mà còn dám tấn công cả những đơn vị lớn của VNCH. Các trận đánh Tua Hai (Tây Ninh, 1960), Pleiku (công trường làm đường, 1960) hay Quảng Ngãi mới chỉ là khởi đầu. Ðáng sợ hơn nữa, Việt Cộng trở thành những bóng ma, khi ẩn khi hiện bất thường. Du kích Cộng Sản hoàn toàn nắm thế chủ động.( 79)

Nhưng họ Ngô, như đã lược nhắc, vẫn cả tin rằng phe miền Nam đang thắng to, và có thể giải phóng được miền Bắc. Niềm tin này đi ngược với thực tế chiến trường.

Ðể đáp ứng sự tăng gia viện trợ quân sự Mỹ, BV điều động một số binh đội từ Lào vào Việt Nam, và tăng cường thêm cán bộ. Ngày 25/12/1959, toán cán bộ hồi kết B-500, gồm 25 người, lên đường vào Nam. Cầm đầu là Tư Chương (Tăng Thiên Kim, sau này là Trung đoàn trưởng Q.761); Ðặng Ngọc Sĩ (sau này là Tư lệnh đặc công B-2) làm Phó. Hoạt động ở Cao nguyên, tới miền Nam vào đầu tháng 12/1960.( 80) Theo tài liệu CS, từ 1961 tới 1963, hơn 40,000 cán binh được đưa vào “B” [miền Nam], cùng 165,000 vũ khí đủ loại, đủ trang bị 73,000 tân binh miền Nam. Năm 1963, đích thân Trần Văn Trà cũng từ Lào vào “B,” nắm chức Tư lệnh “lực lượng võ trang giải phóng miền Nam Việt Nam.”( 81)

Tính đến ngày 1/7/1963, tức hơn một năm sau ngày phát động quốc sách Ấp chiến lược, VNCH kiểm soát được khoảng 6,766,000 dân trên tổng số 14.8 triệu. Tuy nhiên, chỉ hoàn toàn kiểm soát khoảng 3.5 triệu, giảm đi 100,000 người. Số làng chính phủ kiểm soát là 939, với 741 làng hoàn toàn. Việt Cộng kiểm soát 431 làng, kể cả 375 làng hoàn toàn. (82)

Từ mùa Thu 1961, Trung Ương Cục Miền Nam đã được tái lập. Ngày 1/1/1962, Ðảng bộ miền Nam Ðảng Lao Ðộng (tức CSÐD) chính thức lấy tên là Ðảng Nhân Dân Cách Mạng Việt Nam để “tham gia” MTDT/GPMN. Ðồng thời, thành lập Thanh niên Nhân Dân Cách Mạng Miền Nam.( 83)

Vậy mà chiều ngày 2/9, Nhu vẫn còn tiên đoán một cách lạc quan rằng trong tương lai BV phải tiếp tế bằng không quân. Tiếp vận đường biển đã bị ngăn cản, và đường bộ cũng hầu như bất khả. Nếu tiếp tế bằng phi cơ, sẽ bị phòng không bắn hạ.( 84)

 

6. Lo sợ bị đảo chính:

Trong khi đó, giới quân đội ngày thêm bất mãn. Cuộc đảo chính hụt 11/11/1960 hay cuộc đánh bom Dinh Ðộc Lập ngày 27/2/1962 chỉ là những dấu hiệu mặt nổi của sự bất mãn sâu xa, tiềm ẩn này. Một số tướng và sĩ quan cao cấp như Dương Văn “Big” Minh, Lê Văn Kim, Lê Văn Nghiêm, Phạm Văn Ðổng lúc nào cũng chờ cơ hội làm đảo chính. Ðó là chưa kể những Phạm Ngọc Thảo, Huỳnh Văn Trọng, Trần Kim Tuyến, Huỳnh Văn Lang, Trần Thiện Khiêm, Nguyễn Khánh, Nguyễn Văn Thiệu, v.. v...

Không chỉ có giới quân đội bất mãn. Các tầng lớp trí thức và thị dân ngày càng thất vọng với họ Ngô.

Không kém nguy hiểm là chính sách giáo phiệt. Những phần tử không Ki-tô ngày thêm chống đối. Từ năm 1956, Ðại sứ/Cao ủy Pháp, Henri Hoppenot, đã nêu lên vấn đề hiềm khích giữa Phật Giáo và Ki-tô giáo, cũng như sự tranh chấp trong nội bộ Ki-tô giáo, nhất là giữa phe phù Ngô Ðình Thục và phe di cư. Từ cuối năm 1954, Ðặc sứ Collins, một tín đồ Ki-tô Roma, đã báo cáo về Oat-shinh-tân là ngày 11/12/1954, Giám Mục Lê Hữu Từ than phiền về sự thất bại của chế độ Diệm. Theo Từ, ngày Diệm mới lên cầm quyền, một niềm hy vọng lan rộng trong mọi tầng lớp dân chúng. Nhưng niềm hy vọng đó đã giảm mất một nửa [50%], và sự bất mãn ngày thêm gia tăng. Diệm có đầu óc độc tài và tìm đủ cách đốn hạ bất cứ ai có tài năng. Diệm còn thiếu cương quyết, và vây bọc bởi những cố vấn xấu, phần lớn là phần tử trong gia đình. (85)

Ðại đa số nông dân, những người cày sâu, cuốc bẫm, hai sương một nắng, cũng ngừng ủng hộ. Từ năm 1957, họ phải chịu cảnh một cổ hai tròng. Là nạn nhân của Việt Cộng ban đêm, ban ngày họ trở thành nạn nhân của cường hào, ác bá, cùng các tệ nạn Tố Cộng, Diệt Cộng, rồi đến những kế hoạch Khu trù mật, doanh điền, ấp tân sinh, v.. v... Chính phủ Diệm có phần hữu lý khi nhận định rằng nông dân đã phải ngả theo Cộng Sản vì sợ hãi cái gọi là “bạo lực cách mạng.” Nhưng không chỉ có một yếu tố này. Một trong những lý do trực tiếp là chính phủ và quân đội thiếu khả năng hay phương tiện duy trì an ninh và bảo vệ dân chúng, kể cả những gia đình bị dồn vào Khu trù mật hay Ấp chiến lược. Không thiếu viên chức lợi dụng các kế hoạch quốc sách này để thu đoạt tư lợi.( 86)

Nhưng thay vì phân tích rõ ràng tình hình và tái duyệt quốc sách của mình, cũng như vấn đề nhân sự và thực hiện, để kịp thời đối phó, Diệm-Nhu trút trách nhiệm mọi thất bại cho sự thiếu ủng hộ của Mỹ, và còn nghi ngờ rằng chính người Mỹ đã “bật đèn xanh” cho phe chống đối. Từ đó, nảy sinh ra sự căng thẳng liên hệ Mỹ-Việt, và cuộc đương đầu khó tránh.


7. Kế hoạch gài bẫy của Bắc Việt:

Ðáng ngại hơn nữa, và đây là thảm kịch của họ Ngô nói riêng, toàn dân quân miền Nam nói chung, qua kế hoạch “chiêu hồi,” anh em Diệm bị lôi cuốn dần vào cái bẫy sập “hòa bình, thống nhất, trung lập” của Hà Nội.

 

a. Ðộc lập, thống nhất, trung lập

Từ ngày ký Hiệp ước Geneva 20-21/7/1954, Hà Nội luôn luôn nêu ra lập trường thống nhất đất nước theo tinh thần Hiệp định Pháp-VNDCCH nói trên. Cả Nga Sô và Trung Cộng cũng thường khuyên nhủ Hà Nội chỉ nên tạm thời tìm cách vận động hòa bình trong khuôn khổ Hiệp ước Geneva. (Xem infra) Nhờ vậy, chính phủ Diệm được tạm thời yên ổn trong 4, 5 năm đầu.

Từ đầu năm 1959, Ðảng LÐVN quyết định đánh chiếm miền Nam bằng võ lực. Một mặt, qui tụ những thành phần chống đối ở miền Nam thành một cánh tay ngoại vi, tức Mặt Trận Dân Tộc Giải Phóng Miền Nam [MTDT/GPMN], do cán bộ CS cầm đầu. Mặt khác, xâm nhập cán bộ hồi kết vào miền Nam (“B”), tái thiết lập Trung Ương Cục Miền Nam (1961), dưới danh hiệu Ðảng Nhân Dân Cách Mạng miền Nam Việt Nam [NDCM/NVN], và tổ chức cùng hệ thống hóa các lực lượng võ trang thành những đơn vị lên tới cấp tiểu đoàn, trung đoàn.

Tuy nhiên, kế hoạch đánh chiếm miền Nam của Hà Nội gặp nhiều trở ngại. Cả Mat-scơ-va lẫn Bắc Kinh, trong mối lo ngại Mỹ sẽ can thiệp (tức đưa quân chiến đấu) vào Nam Việt Nam, cố vấn Hồ và Ðảng LÐVN chỉ nên tranh đấu chính trị trong khuôn khổ Hiệp ước Geneva. Nhưng sau ngày Nikita S. Khrushchev hạ bệ Stalin, liên hệ giữa Mat-scơ-va và Bắc Kinh ngày một xấu đi. Bắc Kinh lên án Khrushchev là bọn “xét lại,” trong khi Mat-scơ-va gọi Mao là bọn “giáo điều.” Mặc dù Hồ tìm cách hòa giải hai đàn anh, Bắc Kinh áp lực Hà Nội phải ngả về phe mình. Ðể mua chuộc Hà Nội, Bắc Kinh gia tăng viện trợ cho kế hoạch đánh chiếm miền Nam của Ðảng LÐVN. Mao Nhuận Chi và Ðảng CSTH cũng nhìn nhận ngay mặt trận ma MTDT/GPMN–dù có liên hệ đến tàn dư các lực lượng giáo phái và thân Pháp–được Bộ Chính Trị Ðảng LÐVN chính thức cho ra công khai trong dịp đảo chính hụt của Nhảy Dù và TQLC ngày 11/11/1960. Nhiều phái đoàn quân sự Trung Cộng tới phía bắc vĩ tuyến 17 để tham quan và giúp Bộ Tổng Tham Mưu QÐNDVN thiết lập kế hoạch phòng thủ. Trần Canh, người từng chỉ huy trận Lê Hồng Phong II vào tháng 9-10/1950 cho Võ Giáp đứng ra nhận chiến công, cũng trở lại Việt Nam thăm Hồ. Không kém quan trọng là guồng máy tuyên truyền của Bắc Kinh trong nỗ lực biến MTDT/GPMN thành một thực thể chính trị, có quân đội và chính quyền ở miền nam Việt Nam.

Ngày 1/1/1962, Hồ lại chính thức đề nghị thống nhất, hòa bình trong khuôn khổ Hiệp định Geneva. Hồ mong mỏi hai miền Bắc và Nam sẽ thương thuyết “để hòa bình thống nhất Tổ quốc, trên cơ sở độc lập, dân chủ như Hiệp định Giơ-ne-vơ [Geneva, 20-21/7/1954] qui định.”( 87) Vì thế, có tin Hồ đã gửi cho Diệm một chậu đào “vui Xuân” Nhâm Dần (1962)–chậu đào rồi sẽ tưới bằng máu họ Ngô.( 88)

Ngày 28/3/1962, Nhân Dân đăng bài phỏng vấn HCM của báo Daily Telegraphs. Hồ đề nghị bình thường hoá ngoại giao giữa hai miền về mặt văn hoá và kinh tế, về việc đi lại và thư tín giữa hai miền v... v... Ngoài ra, còn những lời tuyên bố và bài viết của Thiếu tướng Nguyễn Văn Vịnh,(89) rồi đến buổi gặp bí mật giữa Ngoại trưởng Ung Văn Khiêm và Harriman tại Geneva, nhân dịp ký Hiệp ước 1962 về Lào, qua trung gian Burma.( 90)

Ngày 19/4/1962, Phát ngôn viên BNG Bắc Việt cũng nhắc đến công hàm ngày 16/4/1962 của Bri-tên gửi Mat-scơ-va. Hàm ý tán thành một hội nghị quốc tế về Việt Nam.( 91)

Trong năm 1962, Lê Duẩn cũng chỉ thị cho miền Nam thành lập một chế độ trung lập, hòa giải hòa hợp.( 92) Bởi thế ngày 10/8/1962, MTDT/GPMN công bố lập trường trung lập, thống nhất trong hòa bình, gồm 14 điểm: tức trung lập chống Mỹ.( 93)

Vào tháng 5/1963, trong bài phỏng vấn của Alfred Burchett trên tờ báo chuyên về ngoại giao của Liên Sô Nga bằng Anh ngữ, New Times [Tân Thời Báo], Hồ còn lập lại đề nghị này. Bài này có lẽ được trích đăng trên các tờ tuần báo Người bảo vệ Dân tộc và tuần báo Cách mạng Châu Phi tại Algeria, và báo Nhân Dân ngày 8/8/1963.( 94)

Lập trường “trung lập” của Ðảng LÐVN được một số người lưu vong ở Pháp và Miên (Trần Văn Hữu, Hồ Thông Minh, Lê Văn Trường, Trần Ðình Lan, v.. v...) hưởng ứng, với sự tiếp sức, trực hay gián tiếp, của những nhân vật có quyền lực ở Pháp.( 95)

 

b. Mỹ triệt thoái:

Hồ Chí Minh, Phạm Văn Ðồng cũng như MTDT/GPMN không ngớt nêu ra điều kiện Mỹ không được can thiệp vào nội tình chính trị miền Nam. Ðiều này có nghĩa Mỹ phải triệt thoái khỏi miền Nam. Ðây cũng là mục tiêu tối hậu của Trung Cộng, mà ảnh hưởng ngày càng gia tăng ở phía Bắc vĩ tuyến 17.

Cho tới nay, vẫn chưa đủ tài liệu khả tín để giải thích lý do anh em Diệm-Nhu công khai bài Mỹ và đặt vấn đề Mỹ giảm quân từ đầu năm 1963,

Như đã lược nhắc, ngày Thứ Sáu, 12/4/1963, khi tiếp chuyện một viên chức CIA ở Sài Gòn Nhu đã nêu lên vấn đề rút bớt quân số Mỹ. Ngày 22/4/1963, cơ quan CIA ghi nhận có những dấu hiệu cho thấy Diệm-Nhu muốn giảm lính Mỹ ở Nam Việt Nam vì vi phạm chủ quyền của Việt Nam [infringements” of Vietnamese sovereignty], đặc biệt là Lực lượng đặc biệt Mỹ.( 96) Ngày Chủ Nhật, 12/5/1963, Warren Unna tường thuật trên báo Washington Post, rằng Nhu muốn quân Mỹ sẽ giảm xuống một nửa. (97)

Ðiều đáng ngạc nhiên là ngày 23/5/1963, Diệm không hề thảo luận với Lalouette vấn đề giảm quân Mỹ khi Lalouette vào chào Diệm để về Pháp nghỉ. Nhưng cuối tháng 8/1963, sau khi từ Pháp trở lại nhiệm sở và gần gũi với Nhu trong cuộc tấn công chùa chiền đêm 20-21/8/1963, Lalouette khuyên Lodge nên tiếp tục yểm trợ Diệm-Nhu, mặc dù Nhu có khả năng thương thuyết với Hà Nội, và điều kiện cho một giải pháp chính trị là sự triệt thoái của quân Mỹ. Bởi thế, ngày 4/9/1963, Lodge lại báo cáo rằng Nhu có thể dàn xếp một thỏa hiệp với VC để ngừng chiến tranh, và một trong những điều kiện [quid pro quo= consideration] là “Triệt thoái một số lính Mỹ.”( 98)

 

c. Thành lập chính phủ liên hiệp:

Trong số những mục tiêu giai đoạn của CSBV là thành lập một chính phủ liên hiệp ở miền Nam. Thư của Lê Duẩn gửi Nguyễn Văn Linh năm 1962 là một bằng chứng. Trong những cuộc phỏng vấn dành cho Burchett độc quyền năm 1963, đích thân Hồ–mà quyền lực thực sự đã bị mất dần vào tay Lê Duẩn–không ngớt lập lại những điều kiện để đi tới hòa bình, “thu xếp một cuộc ngừng bắn giữa quân đội Ngô Ðình Diệm và các lực lượng vũ trang của Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam,” là triệt thoái quân Mỹ, thành lập một chính phủ “triệt để tôn trọng Hiệp nghị Giơ-neo-vơ, cam kết không tham gia bất cứ khối quân sự nào, và không cho phép nước ngoài lập căn cứ quân sự trên lãnh thổ mình.”( 99)

Tuy nhiên, ngày 28/8/1963, Hồ đột ngột thay đổi thái độ; lên án việc đàn áp Phật Giáo là “tội ác dã man của chúng trời đất không thể dung.” Hồ còn trở lại với thứ luận điệu hiếu chiến quen thuộc, gọi chính phủ Diệm bằng những lời nặng nề như “bè lũ” đã “gây những tội ác tày trời, là vì có quan thầy ủng hộ,” “bọn Ngô Ðình Diệm buôn dân, bán nước.”( 100)

Lời khen ngợi Diệm là “a patriot” [người ái quốc] mà Maneli gợi nhớ hoặc đã chuyển cho Nhu ngày 2/9/1963, khó có vẻ gần gũi với tiếng “buôn dân, bán nước” đã công bố bốn ngày trước trên báo Nhân Dân và đài phát thanh Hà Nội. Phải chăng ngay chính Maneli cũng biến thành một người đưa tin bị Hồ và Ðảng LÐVN đưa vào cuộc chơi “tiến công ngoại giao” ác nghiệt?

Có lẽ vì vậy, chính phủ Poland cho lệnh Maneli chấm dứt ngay mọi liên hệ với Nhu. Ðồng thời, phản ứng của khối CS với lời tuyên cáo của de Gaulle ngày 29/8/1963 thật lãnh đạm. Chỉ có một đại diện của Hà Nội ở Algers trình bày ý kiến riêng rằng tuyên ngôn của de Gaulle “positive” [tích cực]. Trước áp lực Mỹ, BNG Pháp phải trở lại với lập trường “không can thiệp vào nội tình chính trị Việt Nam” quen thuộc. [Xem infra]

Nếu quả thực những đề nghị trở lại với Hiệp ước Geneva và triệt thoái quân Mỹ là nhắm vào một giải pháp chính trị cho miền Nam, hẳn phản ứng của Hồ với sự ve vãn của Nhu hay lời tuyên bố của de Gaulle đã khác. Cho đến khi có tài liệu chứng minh ngược lại, cuộc “tấn công hòa bình” của Hồ và Ðảng LÐVN có lẽ chẳng nhắm mục đích nào khác hơn khoét sâu sự nghi kỵ giữa Mỹ và họ Ngô. Nhưng Nhu, trong cơn mê sảng vì bị loại khỏi quyền lực, không nhận hiểu được điều này.

 

Phụ chú:

1. William Henderson and Wesley R. Fishel, “The Foreign Policy of Ngo Dinh Diem,” Vietnam Perspective (Aug 1966), tr. 17-8; Mieczylslaw Maneli, War of the Vanquished [Cuộc chiến của những kẻ bại] (New York: 1971), tr. 148-50; David Kaiser, American Tragedy: Kennedy, Johnson, and the Origins of the Vietnam War (Cambridge, Mass: Belknap Press, 2000), tr. 256-57. Thực ra, từ năm 1954-1955, viên chức Pháp đã nêu lên với Ngoại trưởng Mỹ bản chất “illogical” của Diệm về Hiệp ước Genève: Diệm phủ nhận Hiệp ước đình chiến giữa Pháp và Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa này, trong khi vui hưởng việc cai trị miền Nam, do Hiệp định trên tạo ra. Rồi, từ cuối thập niên 1950, không ngừng tố cáo CSBV đã “xâm lăng miền Nam.”

2. George McT Kahin, Intervention: How America Became Involved in Vietnam (New York: Alfred A. Knof, 1986), tr. 58.

3. Kahin, Intervention, tr. 153-55; Fredrik Logwall, Choosing War: The Last Chance for Peace and the Escalation of War in Vietnam (Berkeley: Univ of California Press, 1999), tr. 7-8; Francis X. Winters, The Year of the Hare: America in Vietnam, January 25, 1963-February 15, 1964 (Athens: Univ. of Georgia Press, 1997), tr. 43-4.

4. Ðộc giả Ði Tới và Hợp Lưu cũng đã có dịp đọc qua bài “Cái chết của một hàng tướng: Dương Văn Minh (1916-2001),” trước khi bài này in trong Ngàn Năm Soi Mặt (Houston: Văn Hóa, 2002).

5. Frederick Nolting, From Trust to Tragedy: The Political Memoirs of Frederick Nolting, Kennedy’s Ambassador to Diem’s Vietnam (New York: Prager Publishers, 1988), tr, 117-18; Chính Ðạo, Tôn Giáo & Chính Trị: Phật Giáo, 1963-1967 (Houston: Van Hoa, 1997), tr. 51.

6. Nguyễn Văn Châu, Ngô Ðình Diệm: Nỗ lực hòa bình dang dở, bản dịch Việt ngữ của Nguyễn Vi Khanh (Los Alamitos, CA: Xuân Thu, 1988), tr. 161-64. Trung tá Châu–một cựu Quân ủy trung ương của Ðảng Cần Lao, trước khi nắm Nha Chiến tranh Tâm lý, và rồi đưa qua Oat-shinh-tân làm tùy viên quân sự vào tháng 9/1962–thời gian này có mặt ở Sài Gòn, nhưng không nêu tên nhân chứng. Ðây là một nỗ lực vụng về để chạy tội “phản bội và âm mưu phản bội” của họ Ngô.

7. Ellen Hammer, A Death in November (NY: Oxford Univ Press, 1987), tr. 268-70; Winters, Year of the Hare, tr. 99; Seymour M. Hersh, The Dark Side of Camelot (Boston: Little, Brown, 1997), tr. 433-34; Philip E. Catton, Diem’s Final Failure (Lawrence, Kansas: Press of Univ. of Kansas, 2002), tr. 195.

8. Maneli, 1971:137-39. Từ cuối tháng 8/1963, tình báo Mỹ đã biết tin về kế hoạch của Maneli; Foreign Relations of the United States [Bang giao quốc tế của Liên bang Mỹ], 1961-1963, IV:89-90. Se dẫn: FRUS, 1961-1963. Sau ngày 1/11/1963, Bộ trưởng Nội Vụ Tôn Thất Ðính cũng tiết lộ trong một buổi họp báo việc Nhu liên lạc với Hà Nội, qua trung gian Maneli; Maneli 1971:112-14. Những lời chứng trong sách của Maneli ấn hành tại Mỹ, tưởng cần nhấn mạnh, chỉ là một thứ truyền khẩu sử, hay dã sử; cần được phối kiểm với các tài liệu văn khố khác.

9. Maneli, 1971:140-47; FRUS, 1961-1963, IV:89 [một nhân chứng đã cho CIA biết tin Maneli gặp Nhu từ tối ngày 30/8/1963]; Tel 403, 2 Sept 1963, Lodge gửi BNG; Ibid., IV:84-5 [TL 44]

10. CÐ 403, ngày 2/9/1963, Lodge gửi BNG; Ibid., IV:85.

11. CÐ CIA ngày 2/9/1963; Ibid., IV:89-90.

12. CÐ 0689, CAS gửi CIA; Ibid., IV:125-26.

13. Ibid., IV:239-40.

14. Nolting, From Trust to Tragedy, 1988:117-18.

15. Thö ngaøy 25/5/1963, Trueheart göûi Hilsman; FRUS, 1961-1963, III:327-30. Theo Trueheart, Nhu ñaõ cung caáp loaïi tin voâ caên cöù naøy nhieàu laàn. [Noù cuõng chöùng minh tình baùo cuûa Nhu hoaøn toaøn ñi ngöôïc laïi söï thöïc]

16. CÐ 403, ngày 2/9/1963, Lodge gửi BNG; Ibid., IV:85.

17. Xem Chính Ðạo, VNNB, 1939-1975, tập I-D: 1964-1968 (đang in).

18. William Colby, Lost Victory, 1989:102-3. Trong cuốn Our Endless War in năm 1987, Ðôn không nhắc đến chi tiết này. Ấn bản tiếng Việt của tập hồi ký trên ghi rằng Nhu được Trung tá Bường, tỉnh trưởng Bình Tuy, đưa đến gặp Phạm Hùng và hai người khác. Nhu hứa với Phạm Hùng là sẽ cho Lệ Xuân và Lệ Thủy ngồi lên chuyến xe lửa thống nhất đầu tiên ra Hà Nội (tr. 183). Tướng Ðôn, tưởng cũng nên ghi nhận, là một trong những “nguồn tin đáng tin cậy” của các viên chức Mỹ. Một trong những lý do là Ðôn từng được OSS huấn luyện vào mùa Hè 1945, rồi gửi trở lại nội địa lấy tin tức về quân Nhật. Ðôn rất thân thiết với Lucien “Lou” Conein và Edward Lansdale.

19. Colby dùng từ “apocryphal” [sự phóng đại], khi phê bình lời nhận xét của Phạm Hùng về Ấp chiến lược do người bạn [Ðôn hay Khiêm?] thuật lại, mà không nhắm vào bản tin về buổi gặp mặt giữa Ngô Ðình Nhu và Phạm Hùng; Colby 1989:102-3.

19b. Phỏng vấn tại Sài Gòn, Việt Nam, tháng 4/2005. Nhưng cũng có tin nhật ký của Lê Duẩn chứa đựng những thông tin về các đầu mối tình báo chiến lược

20. Châu, 1988:162-163.

21. Chẳng hiểu do ngẫu nhiên hay vì một lý do nào cả Châu và Dĩnh, hai cán bộ Cần Lao cao cấp, đều có mặt ở Sài Gòn vào những ngày cuối của chế độ Diệm.

22. Báo cáo ngày 29/5/1963, Lalouette gửi BNG; CLV, SV, d. 18.

23. Xem Ðoạn II, infra.

24. FRUS, 1961-1963, IV:89-90.

25. Ibid. [FRUS, 1961-1963, IV:89-90].

26. Nguyên văn: “He said he is adamantly opposed to neutralism, ... Neutralism, according to Nhu, is completely contrary to GVN’s outlook and policy.” FRUS, 1961-1963, IV:126.

27. Tính đến ngày 9/1/1962, quân Mỹ ở Nam Việt Nam tăng hơn 100%: Từ 948 người vào cuối tháng 11/1961 lên 2,646 người ngày 9/1/1962 và dự trù sẽ lên 5,576 vào cuối tháng 6/1962. Ngày 30/1/1963, Tướng Earl Wheeler báo cáo Mỹ đã có hơn 400 cố vấn cấp Tiểu đoàn và tương đương; trên 100 cố vấn tỉnh; 220 người trong ngành an ninh tại NVN. Gần 300 phi cơ đã hoạt động, gồm 148 trực thăng vận tải, 11 trực thăng võ trang, 81 vận tải có cánh, 13 khu trục (chiến đấu cơ), 9 oanh tạc cơ hạng nhẹ, 4 thám thính chiến đấu, 37 liên lạc. Về quân đội VNCH, có 196,357 Bộ binh, 6,595 Hải quân, 5,817 Không quân, 5,281 TQLC, 75,909 ÐPQ, 95,828 Dân vệ; FRUS, 1961-1963, III, tài liệu 26.

28. FRUS, 1961-1963, III:222-25.

29. FRUS, 1961-1963, III:246-47.

30. Việt Nam cũng hứa sẽ đóng góp 2.3 tỉ đồng; FRUS, 1961-1963, III:307-8,309n3.

31. FRUS, 1961-1963, III:309.

32. FRUS, 1961-1963, III:317-21.

33. Báo cáo ngày 29/5/1963; AMAE (Paris), CLV, SV, d. 91:137-143; CÐ ngày 31/5/1963; Ibid., d. 91:144-147.

34. CÐ 652, ngày 7/10/63, Lodge gửi McNamara; FRUS, 1961-1963, IV:386. (Nên lưu ý là lời tuyên bố này xảy ra sau khi Lodge áp lực Nhu phải rời nước).

35. Tới cuối năm 1949, HCM vẫn giữ kín liên hệ với QTCS; tự nhận là “người quốc gia.” Phía sau hậu trường, từ năm 1945-1946, Hồ đã nối lại liên lạc với CSTH tại vùng Quảng Tây-Quảng Ðông. Hồ còn đồng ý cho Trung đoàn 1 của Quân khu Quảng Ðông hoạt động trong lãnh thổ Việt Bắc từ tháng 3/1946. Ðơn vị của Ðồng chí “Lộc” [Huang Jingwen] này còn huấn luyện cho các binh sĩ Việt Minh, cũng như tổ chức các đơn vị võ trang người Việt gốc Hoa. Zhai 2000:11-12.

36. Xem Chính Ðạo, Việt Nam Niên Biểu, I-C: 1955-1963, 2000:198-203.

37. FRUS, 1961-1963, II:779-787.

38. Báo cáo ngày 2/3/1963, Lalouette gửi BNG; AMAE (Paris), CLV, SV, d. 17. Xem thêm bài phỏng vấn trên báo US News & World Report.

39. Ðính 1998, tr. 270-272.

40. FRUS, 1961-1963, III:225. Ngày 16/4/1963, khi vào gặp Diệm để thông báo sắp về Mỹ nghỉ, Nolting than phiền về những lời tuyên bố của Lệ Xuân. Diệm hứa sẽ không còn tái diễn nữa.

41. FRUS, 1961-1963, IV:175.

42. Xem, thư Diệm gửi U Thant ngày 5/9/1963; United Nations, General Assembly, Official Records, Agenda Item 77, và lời khai của Nhu cùng các viên chức khác trong Ibid., Doc. A/5630, 7/12/1963; Xem thêm Chính Ðạo, “Mùa Phật đản đẫm máu;” đã phổ biến trong Ði Tới (Canada), số 75-76, tháng 12/2003; website Chuyển Luân (Australia), tháng 12/2003, Hợp Lưu và Việt Nam Văn Hiến. (ấn bản 2010).

43. VNNB, I-C: 1955-1963, tr. 203.

44. Ngày 24/1/1962, Diệm trả đũa bằng cách cho Fishel biết sẽ chấm dứt giao kèo với nhóm chuyên viên MSU. Fishel nghĩ rằng giọng nói là của Diệm, nhưng lối lý luận là của Nhu [The voice was that of the President, but the reasoning was that of his brother, Nhu]. Thư ngày 17/2/1962, Fishel gửi Hannah; FRUS, 1961-1963, II:148-52.

45. FRUS, 1958-1960, I:568-69.

46. Xem David Halberstam, The Making of A Quagmire (New York: Random House, 1965; Neil Sheehan, The Bright Shining Lie (New York: Vintage Books, 1988), tr. 269-371.

47. FRUS, 1961-1963, III:500-4. [“It was his firm convicton that the Government of Vietnam was being oppressed by the US press rather than the American correspondents being oppressed by the Vietnamese government;”]

48. FRUS, 1961-1963, I:1961, tr. 411-16. 48; Tels 20, 6/7/1962, và 28, 9/7/1962, BNG gửi Sài Gòn; & Tel 35, 10/7/1962, Sài Gòn gửi BNG; FRUS, 1961-1963, II:1962, tr. 497-98 [TL 234], 511-13 [TL 238] và 514-15 [TL 239]. Về phía QTCS, Kremli chống lại việc gây chiến ở Lào và Việt Nam do Hà Nội đề xướng, với sự chấp thuận của Mao, nên có lẽ “phe ta” không ngồi lại được với nhau như Lê Duẩn sau này nhận xét..

49. CIA Information report ngày 2/9/1963; FRUS, 1961-1963, IV:91. Tưởng cũng nên ghi nhận sự hòa hoãn Mỹ-Nga này, theo tài liệu Trung Cộng, cũng khiến Lê Duẩn và Lê Ðức Thọ nghiêng hẳn về phía “giáo điều” của Bắc Kinh, và xa gần đả kích chủ nghĩa “xét lại” của Nga.

50. CÐ số 1250 gửi Sài Gòn, DOS, Central Files, PER-Lodge, Henry Cabot; CÐ số 1230 từ Sài Gòn; FRUS, 1961-1963, III:414. Theo Thuần, Diệm sẽ trở nên cứng đầu hơn. Truheart nói không biết Lodge đã nhận được những chỉ thị gì, nhưng cách tốt nhất để tránh đương đầu với Mỹ là chính phủ Diệm nên bắt đầu thay đổi cách làm việc.( Ibid)

 

51. Thư ngày 17/2/1962, Fishel gửi Hannah; FRUS, 1961-1963, II:149. Theo Fishel, một Bộ trưởng (Huỳnh Hữu Nghĩa) đã cải đạo; (Ibid, II:46) và nhiều sĩ quan cũng cải đạo để mong được thăng cấp. (Ibid., II:56, 45)

52. Báo cáo ngày 18/12/1962, FRUS, 1961-1963, II:779-84; Chính Ðạo, VNNB, I-C: 1955-1963, tr. 239-40, 268-69. Báo cáo này đã nạp cho Bạch Cung ngày 26/12/1962; nhưng chỉ được phổ biến ngày 25/2/1963. Xem thêm Báo cáo ngày 2/3/1963 của Ðại sứ Herve Alphand; AMAE (Paris), CLV, SV, d. 17, và báo cáo ngày 2/3/1963 của Lalouette; Ibid. (Dư luận là liên hệ giữa Mỹ và VN khó thể cải thiện. Hệ thống quân sự Mỹ, 5 ngành, 11 Tướng. Chiến tranh đưa vào các mật khu VC, Cà Mau và chiến khu D, nhưng các Tướng hoài nghi về một giải pháp quân sự). Chester L. Cooper, trong The Lost Crusade: America in Vietnam, nhận định: “Thus a bare five years after Diem’s assumption of power, his ‘miracle’ began to show stains of ugly reality; p. 165)

53. Chính Ðạo, VNNB, I-C: 1955-1963, tr. 203-6, 220; FRUS, 1961-1963, I:416-17,

54. FRUS, 1961-1963, II:596-601; Chính Ðạo, VNNB, I-C: 1955-1963, tr. 256-58. Những người có thể thay thế: (1) Phó Tổng thống Nguyễn Ngọc Thơ và Tướng Dương Văn Minh; (2) Tướng Lê Văn Kim và Dương Văn Minh; (3) Trần Quốc Bửu.

55. FRUS, 1961-1963, II:601-3.

56. Xem chú 50 supra.

57. Các viên chức Mỹ cho lối diễn tả này rằng nó là tuyên truyền của Cộng Sản. Thư ngày 4/4/1963, Wood gửi Nolting, III:205.

58. FRUS, 1961-1963, III:222-25.

59. FRUS, 1961-1963, IV:212-15.

60. Cooper, Lost Crusade, tr. 165-67.

61. FRUS, 1961-1963, III:501-2, IV:84-5.

62. Xem thêm việc tài trợ quĩ chống phản loạn; FRUS, 1961-1963, III:210-11.

63. Nguyên văn: “He is neither anti-American nor xenophobic . . . He is unpopular because he wants to promote a genuine revolution among the people and this annoyed the stand-patters;” Tel 1056, 23 May 1963, Nolting gửi BNG; FRUS, 1961-1963, III:324 [TL134].

64. CÐ 652, ngày 7/10/63, Lodge gửi McNamara; FRUS, 1961-1963, IV:386.

65. Nguyên văn: “We don’t need the Americans anymore even in the economic field, as we can confront our economic problems with our own resources.” Ibid.

66. Châu, 1988:164.

67. Durbrow đề nghị BNG Mỹ cho lệnh Durbrow bảo thẳng Diệm rằng nếu Diệm không thi hành kế hoạch chống phản loạn, sẽ tạm ngưng việc tăng gia 20,000 quân nhân VNCH.

68. Biên bản buổi nói chuyện ngày 26/1/1962 giữa [Diệm với Fowler Hamilton (USAID, Administrator), Arthur Z. Gardner (USOM director), và Henry Koren (Office of SEA Affairs, Director); FRUS, 1961-1963, II:41-4; 60-2.

69. Ibid., II:44.

70. Ðoàn Thêm, Những ngày chưa quên, 1954-1963 (Los Alamitos, CA: Xuân Thu, 1989), tr. 188; Châu, 1988:109.

71. Thêm, Những ngày chưa quên, 1989:188. Nhu nhiều hơn một lần thố lộ: “Một thằng [Pháp] rất hiểu mình thì chỉ tính xỏ mình, một thằng [Mỹ] muốn giúp mình thì chẳng hiểu mô tê gì cả.” Châu, 1988:109. Tôi chưa tham khảo bản Pháp ngữ của Trung tá Châu, chẳng hiểu tác giả dùng danh từ nào để dịch thành “thằng” trong bản Việt ngữ.

72. Tuy nhiên, Nhu học thuộc lòng bài học Machiavelli: Không ngại ngần khẳng định lòng trung thành với Mỹ, dù chỉ đầu môi chót lưỡi, để đạt mục tiêu. Ngày 2/9/1963, chẳng hạn, Nhu từng tâm sự với Ðại sứ Lodge là từng bảo sứ giả của Hà Nội rằng Nhu luôn luôn trung thành với Mỹ nên không thèm chú ý đến những lời tuyên bố của Hồ Chí Minh hay de Gaulle; FRUS, 1961-1963, IV:85. Bốn ngày sau, 6/9, Nhu còn khẳng định không thể làm một việc vô đạo đức như móc nối với Hà Nội sau lưng người Mỹ; Ibid., IV:125.

73. Có tất cả 7 cuộc tự thiêu vì đạo pháp của tăng ni. Thượng tọa Quảng Ðức (11/6/1963, Sài Gòn), Ðại đức Nguyên Hương (4/8/1963, Phan Thiết), Ðại đức Thanh Tuệ (13/8/1963, Huế), Ni cô Diệu Quang (15/8/1963, Ninh Hòa), Thượng tọa Tiêu Diêu (16/8/1963, Huế), Ðại đức Quảng Hương (5/10/1963, Sài Gòn), và Ðại đức Thiện Mỹ (27/10/1963, Sài Gòn); Chính Ðạo, Tôn Giáo & Chính Trị: Phật Giáo, 1963-1967 (Houston: Văn Hóa, 1994), tr. 334-335. Ngoài ra, còn một Phật tử, Thương phế binh Hồng Thể (29/9/1963, Vũng Tàu). Xem thêm Thích Thiện Hoa, 50 Năm chấn hưng Phật giáo Việt Nam, tr. 144-62. Tiếng “nhà chứa” mà Diệm dùng có lẽ đề cập đến hiện tượng “tân tăng” ở miền Nam Việt Nam–những người vừa muốn làm tu sĩ, vừa muốn hưởng thụ mọi lạc thú thế tục như sinh lý, ăn mặn, và trợ cấp Mỹ.

74. Xem những lời tâm sự của Diệm với Lalouette vào tháng 5/1963; nhận xét của Hilsman, FRUS, 1961-1963, III:189-92, hay Thompson; Ibid., III:193-95.

75. CÐ 384, Saigon, 30/8/1963, Lodge gửi Rusk; FRUS, 1961-1963, IV:58-9; Vũ Ngự Chiêu, “Social and Cultural Change in Vietnam Between 1940 and 1946;” Part III: “The Brutality of World Politics,” chương XII-XIV; Ph.D. Dissertation, 1984, UW-Madison.

76. Nguyên văn: “Neither the GVN nor any other government could possibly negotiate with Hanoi either openly or secretly, except after having won guerrilla war and not in terms of neutralization but rather within framework of strong SVN seeking to incorporate North Vietnam within free world order;” FRUS, 1961-1963, IV:126.

77. FRUS, 1961-1963, III:256-257.

78. FRUS, 1961-1963, IV:323.

79. Xem, chẳng hạn, chiến dịch “Hòa Bình” tại Củ Chi từ 21 tới 25/1/1962; FRUS, 1961-1963, II:99-101.

80. Trần Văn Trà 1993:165ff.

81. Chính Ðạo, 55 Ngày & 55 Ðêm: Cuộc sụp đổ của VNCH, in lần thứ 5, có bổ sung (Houston: Văn Hóa, 1999), tr. 55.

82. FRUS, 1961-1963, III:Tài liệu 253. Tài liệu chính thức của Việt Nam ghi nhận ngày 2/9, đã hoàn thành 8,227 trong số 10,592 ấp dự trù. 76% dân chúng, tức 9,563,370 người, đã vào ở trong các ấp chiến lược; Memorandum của Maxwell D. Taylor; Ibid., IV:99. Giống như hầu hết các quốc sách khác, Ấp chiến lược phần lớn chỉ có hình thức mà thiếu thực chất.

83. Ngày 18/1/1962, đài phát thanh Hà Nội loan tin thành lập Ðảng Cách Mạng Nhân Dân miền Nam; AMAE (Paris), CLV, SV, d. 91, tr. 35.

84. FRUS, 1961-1963, IV:126.

85. Báo cáo số 085/HC/2, ngày 28/7/1956, Hoppenot gửi Nha Á Châu-Ðại dương; SLV, SV, 46:33-5; FRUS, 1952-1954, XIII, 2:2361-362.

86. Tại miền Tây, trong ba năm 1964-1967 người viết từng được nghe kể lại hàng trăm mẩu chuyện cười ra nước mắt về các “Khu trù mật” hay “Ấp chiến lược” dựng lên trong khoảng 48 giờ trước ngày Diệm đến thanh tra. Giữa năm 1966, vẫn còn cảnh một Thủ tướng bay tới một “ấp tân sinh” mới thành lập, phát heo giống cho thân nhân các viên chức tỉnh Chương Thiện, ngụy trang thành dân.ỳ Xem thêm Hilsman’s Research Paper on strategic concept of SVN, 2 Feb 1962; FRUS, 1961-1963, II:73-5.

87. Báo cáo số 41/AS, Lalouette gửi Couve de Murville; AMAE (Paris), CLV, SV, hộp 91; Nhân Dân, 1/1/1962; Hồ Chí Minh Toàn Tập, 1989, 9:272.

88. Theo Tướng Ðỗấ Mậu, ông Diệm khoe chậu đào do bà con ngoài Bắc gửi tặng. Cựu Tổng Giám đốc Thanh Niên Cao Xuân Vỹ cho rằng Hồ gửi chậu đào vào dịp Tết Quí Mão, 1963.

89. Ngày 1/1/1962, Thiếu tướng Nguyễn Văn Vịnh tuyên bố rằng miền Nam chưa chuẩn bị tấn công ra Bắc. Ngày 18/4/1962, Ðài phát thanh Hà Nội trích lời Dân biểu Vịnh (Chủ nhiệm Ủy Ban Thống nhất trung ương, Thứ trưởng Quốc Phòng) là nên tái triệu tập Hội nghị Geneva; CÐ 1330, ngày 20/4/1962, Ðại sứ Sài Gòn gửi BNG; FRUS, 1961-1963, II:342.

90. FRUS, 1961-1963, II:543-44.

91. CÐ 1330, ngày 20/4/1962, Ðại sứ Sài Gòn gửi BNG; FRUS, 1961-1963, II:343.

92. Thư vào Nam của Lê Duẩn về việc thành lập một chính phủ miền Nam liên hiệp, trung lập, và tuyên cáo 14 điểm của MT/GPMN ít lâu sau cho thấy có thể Hà Nội muốn thấy có một chính phủ miền Nam “trung lập” và “độc lập” với Mỹ. Cho tới khi có tài liệu chứng minh ngược lại, khó thể nhìn những kế hoạch này ngoài “chiến tranh toàn diện” của Hà Nội–tức sử dụng mọi phương tiện để đạt chiến thắng cuối cùng; và, bước đầu tiên là ngăn chặn Mỹ đưa quân tác chiến vào miền Nam, uy hiếp cửa ngõ chiến lược Ðông Nam của Trung Cộng.

93. Viện Sử học, Việt Nam: Những sự kiện, 1945-1986 (Hà Nội: NXBKHXH, 1990), tr. 222.

94. Hồ Chí Minh Toàn tập, tập 9:1961-1964 (Hà Nội: 1978), tr. 533-40.

95. Xem, chẳng hạn, cuộc tiếp xúc điện thoại giữa viên chức ngoại giao Pháp và Trần Văn Hữu ngày 23/8/1963: “Diệm đang bị đánh đến chết. Còn phải chịu đựng thêm vài tháng. Chậm lắm là cuối năm sẽ có một chính phủ mới. Ðể lập nên một đội ngũ mới, cần kêu gọi những người đang bị bắt giữ hay đang lẩn trốn ở Việt Nam. Những nhân vật cần có trong tay phải được nắm giữ ngay, đặc biệt là những người đang ở Phi Châu. [Chú thích ghi là Lê Thành Khôi, một nhân vật tả phái cực đoan (dù rằng không Cộng Sản) hiện đang ở đang ở Madagascar cùng Sainteny]. Cuộc tranh đấu chống Cộng đã lỗi thời. Hai cường quốc Nga-Mỹ không thể bắt tay ngầm như ở Mat-scơ-va trong lúc đòi hỏi thuộc hạ (nguyên văn: bọn tí hon) tiếp tục chiến đấu cho lýÔ tưởng của họ.” CLV, SV, 18:61.

96. CIA Information Report, TDCSDB-3/654,285, 22/4/1963; JFKL, NSF, Vietnam Country Series, 4-5/63; FRUS, 1961-1963, III:246-247.

97. Lời tuyên bố của Nhu khiến các viên chức Mỹ cực kỳ quan tâm. Ngày Thứ Hai, 13/5, lúc 18G46 [07G46 14/5 Việt Nam], Ngoại trưởng Rusk chỉ thị cho Ðại sứ Sài Gòn: Mỹ sẽ cắt giảm khoảng 1000 người vào cuối năm, nhưng tùy thuộc ở sự tiến triển tình hình an ninh. Nếu Diệm không muốn cắt giảm cố vấn Mỹ, nên ra tuyên cáo chính thức. Nếu Diệm đồng ý với Nhu, yêu cầu Diệm giải thích vị thế và ý định của Diệm; FRUS, 1961-1963, III:294-296. Hôm sau, 14/5, Ủy Ban Ngoại Giao Hạ Viện chất vấn gay gắt Heinz và Hilsman về lời tuyên bốÔ của Nhu. Chính tờ Washington Post, trong phần xã luận, kêu gọi phải đặt lại vấn đề bang giao Mỹ-Việt. Ngày 20/5, Nolting mới báo cáo là Nhu tuyên bố rằng đã bị Unna trích dần sai lạc; FRUS, 1961-1963, III:309. Ba ngày sau, 23/5, Nhu lại cải chính rằng chỉ muốn phát động một cuộc cách mạng thực sự, để tiến dần đến tự túc. Ðã bị hiểu lầm quá nhiều như bài Mỹ hay bài ngoại.

98. CÐ số 410, Saigon to Washington; JFKL, NSF, Country Vietnam, Vietnam State Cables; FRUS, 1961-1963, IV:111, n3.

99. Nhân Dân, 8/8/1963; Hồ Chí Minh toàn tập, 9:537-538.

100. Nhân Dân, 29/8/1963; dẫn trong Hồ Chí Minh toàn tập, 9:549-560. Tài liệu Việt Nam, Những sự kiện, 1945-1985, tr. 230 ghi là ngày 28/8/1963.

 

 

 

“PHIẾN CỘNG” TRONG

DINH GIA LONG

[The Communist Rebels in the Gia Long Palace]

Chính Ðạo

© 2004, 2010 by Chieu N. Vu. All Rights Reserved.


 







Giới Thiệu Sử Gia Vũ Ngự Chiêu


Tiến Sĩ Vũ Ngự Chiêu
(ảnh của PBase.com)


Chính Đạolà một trong hai  bút danh của  Vũ Ngự Chiêu. Bút danh kia là Nguyên Vũ, rất nổi tiếng ở Miền Nam trước năm 1975.  Trước 1975, Vũ Ngự Chiêu phục vụ trong binh chủng Pháo Binh Dù, QLVNCH, và đã có hơn 20 tác phẩm xuất bản. Sau khi ra hải ngoại, ông vừa tiếp tục cầm bút vừa đeo đuổi việc học. Tốt nghiệp Tiến Sĩ Sử tại Đại Học Wisconsin-Madison năm 1984, sau khi cùng gia đình di chuyển về Houston, ông là Giám Đốc nhà xuất bản Văn Hóa và tốt nghiệp Tiến Sĩ Luật tại Đại Học Houston năm 1999.  

    Những tác phẩm của Vũ Ngự Chiêu xuất hiện trước năm 1975 dưới bút danh Nguyên Vũ gồm có  Đời Pháo Thủ (bút ký), Những Cái Chết Vô Danh (tập truyện), Trở Về Từ Cõi Chết (truyện), Vòng Tay Lửa (trường thiên), Thềm Địa Ngục (truyện), Đêm Hưu Chiến (truyện), Sau Bảy Năm Ở Lính (bút ký), Đêm Da Vàng (trường thiên), v.v.  Tại hải ngoại, Vũ Ngự Chiêu đã in thêm các tập Xuân buồn thảm: Cuộc Sụp Đổ của Nam Việt Nam (bút ký), Trận Chiến Chưa Tàn (truyện), Giặc Cờ Đỏ (trường thiên), cùng hai tâm bút Paris: Xuân 1996, và Ngàn Năm Soi Mặt.  

    Về nghiên cứu sử học, ông đã in ba tác phẩm bằng tiếng Anh dưới tên thực, và 10 biên khảo bằng Việt ngữ với bút danh Chính Đạo. Biên khảo duy nhất bằng Việt ngữ ký tên thực của ông là bộ Các Vua Cuối Nhà Nguyễn, 1883-1945, gồm ba tập. Những tác phẩm ký tên Chính Đạo thường được viết cho độc giả không chuyên môn, dễ đọc hơn, không quá khô khan như các biên khảo đúng yêu sách bác học.  

   Ông vừa xuất bản tác phẩm mới nhất với tựa đề Cuộc Thánh Chiến Chống Cộng, 1945-1975, tập I, gồm 5 phần: Sơ lược tiểu sử Tổng thống Jean Baptiste Ngô Đình Diệm (1897-1963); Từ Điện Biên Phủ tới Geneva; Cuộc truất phế Bảo Đại; Mùa Phật Đản đẫm máu (1963); và “Phiến Cộng” trong Dinh Gia Long.  

Sau năm 1975 ở hải ngoại, có những dòng thác ngụy tạo ngụy biện nhằm vặn méo sử kiện để chạy tội và biện minh cho sự vô minh của mình, Vũ Ngự Chiêu đã dần dần xuất hiện như  một nhà sử học khai sáng và can trường. Giá trị tinh thần của người trí thức không chỉ là tôn trọng sự thật mà còn nói lên sự thật và chấp nhận hậu quả của quyết định can trường đó. Đó là một sự đổi đời tâm linh có ý nghĩa đã hình thành nơi Vũ Ngự Chiêu. Huyền thoại và huyễn mị lịch sử đã làm cho người Việt xa nhau, chỉ có sự thật mới làm cho người Việt gần lại với nhau, trong tình dân tộc, nghĩa đồng bào. Những tác phẩm mới của Vũ Ngự Chiêu là một đóng góp sáng giá và có ý nghĩa trong chiều hướng đó.   


Trích Từ : http://www.chuyenluan.net


    Những biên khảo cuả Tiến Sĩ Vũ Ngự Chiêu đã và đang được phổ biến trên trang mạng Việt Nam Văn Hiến như sau:

1- Trụ Đồng Mã Viện: Sự Đàn Hồi của Biên Giới Trung Hoa
2-
Nhìn Lại Mùa Xuân Khói Lửa 1789
3-
Đất Đai Việt Nam Bị Cộng Hoà Nhân Dân Trung Hoa Xâm Chiếm
4- Liên hệ Việt Nam và Pháp
5- Vấn Đề Tài Liệu Nghiên Cứu Lịch Sử
6- Góp Phần Nghiên Cứu Về Trương Vĩnh Ký
8- Cuộc truất phế Bảo Đại
9- Hồ Chí Minh Nhà Ngoại Giao
10-
Phỏng Vần Sử Gia Về Hồ Chí Minh
11- Bài học Mậu Thân 1968
12- Mẫu Phỏng Vấn Bà Trần Thị Lệ Xuân
13- Ngô Đình Diệm Là Ai ?
14- Chuyến Đi Cầu Viện Bí Mật của Hồ
15- Sự Hình Thành Phong Trào Quốc Gia Mới
16- Mùa Phật Đản Đẫm Máu
17- Huỳnh Thúc Kháng  và  Báo Tiếng Dân
18- Khái Hưng Trần Khánh Giư
19- Phiến Cộng Trong Dinh Gia Long


Trân trọng giơí thiệu cùng bạn đọc






Trang mạng Việt Nam Văn Hiến
Trang Phiến Cộng Trong Dinh Gia Long
www.vietnamvanhien.net
email: thuky@vietnamvanhien.net


Trang mạng Việt Nam Văn Hiến là nơi bảo tồn di sản văn hóa và phục hồi nền  "An Lạc & Tự Chủ" của Việt tộc.

Trở lên đầu trang