Năm
Thứ 4889
www.vietnamvanhien.org
www.vietnamvanhien.net
www.vietnamvanhien.info
www.vietnamvanhien.com
TỪ ĐIỆN BIÊN
PHỦ TỚI GENEVA
Chính Đạo
Trong lịch sử cận
đại Việt, hai biến cố nổi bật lên như dấu mốc hệ
trọng, của khúc quanh ḍng lịch sử Việt. Đó là chiến thắng
Điện Biên Phủ của Việt Minh ngày 7/5/1954, và việc
kư kết Hiệp định Đ́nh Chiến Geneva [Giơ-neo-vơ]
ngày 20-21/7/1954 giữa Pháp và Việt Minh, chấm dứt
cuộc tái xâm lăng của Pháp (1945-1956). Nhưng hai
biến cố này cũng đồng thời khởi đầu việc Liên bang
Mỹ trực tiếp can thiệp vào Việt Nam, thiết lập nên
hai thực thể chính trị phía Bắc và Nam vĩ tuyến
17, dẫn đến cuộc can thiệp bằng quân sự của Mỹ từ
1965 tới 1973, thường được biết như “trận chiến ở
hải ngoại dài nhất trong lịch sử Mỹ.”( 1)
1. Xem, chẳng hạn,
George C. Herring, America’s Longest
War: The United States and Viet-Nam, 1950-1975
(New York: John Wisley & Sons, 1978).
Đă có
nhiều nghiên cứu giá trị về hai biến cố trên, bằng
nhiều loại ngôn ngữ. Trong thập niên 1980-1990, do
sự giải mật một số tài liệu của hai Đảng Cộng Sản
Việt Nam [CSVN] và Cộng Sản Trung Hoa [CSTH],(2)
cùng những tài liệu văn khố Mỹ, Bri-tên và Pháp,
các học giả đă tái dựng khá trung thực hai biến cố
trên.( 3)
2.
Xem, Cộng Ḥa Xă Hội Chủ Nghĩa Việt Nam [CHXHCNVN], Sự thật về quan hệ Việt Nam-Trung Quốc
trong 30 năm qua (Hà Nội: Sự Thật, 1979); Từ điển bách khoa quân sự Việt Nam (Hà
Nội: NXB QĐND, 1996); Lê Trọng Tấn, Từ
Đồng Quan đến Điện Biên, Đỗ Thận ghi (Hà Nội:
NXB QĐND, 1994); Vơ Nguyên Giáp, Điện
Biên Phủ: Điểm hẹn lịch sử, Hữu Mai viết (Hà
Nội: NXB QĐND, 2001); Idem., Điện Biên
Phủ (Hà Nội: NXB CTQG, 1994); Hoàng Văn Hoan,
“Sự thực về t́nh hữu nghị chiến đấu Việt Trung không
thể xuyên tạc” (Bắc Kinh: 1979), tr.1-10.
3. Hai
biên khảo xuất sắc sử dụng tài liệu Trung Cộng là
Quang Zhai, China and the Vietnam Wars,
1950-1975 (Chapel Hill, Univ. of North Carolina
Press, 2000); Chen Jian, “China and the First
Indochina War, 1950-54;” China Quarterly
(Aug. 1993), pp. 105-110. Trong số những tác giả sử
dụng tài liệu văn khố lục quân Pháp, tác phẩm xuất sắc
nhất là Bernard B. Fall, Hell in A Very
Small Place: The Siege of Dien Bien Phu [Địa
ngục trong một nơi rất nhỏ bé: Cuộc vây hăm Điện Biên
Phủ] (New York: Vantage Books, 1966,1968).
Bài viết
này, ngoài những tư liệu đă công bố, dựa theo một
số tư liệu nguyên bản Việt và văn khố Pháp, Mỹ
khác, nhằm tái dựng lại hai biến cố Điện Biên Phủ
và Hiệp ước Geneva trong ánh sáng khách quan lịch
sử.( 4)
4. Tư liệu chính
chúng tôi sử dụng gồm SHAT (Vincennes), Indochine,
10H xxx [“Fiche de Renseignements,” 3ème Bureau],
246-248; Edmond Chabani, “Notes sur l’histoire des
hauts pays du Nord-Ouest Vietnam (Lai chau, 25 mai
1951); Ibid., 10H xxx; Ibid., [Tư liệu Ely], cartons
1, 39, 40; US Department of Defense, US-Vietnam
Relations, 1945-1967, 12 tập (Washington, DC:
GPO, 1971), Bk 9; US Department of State, Foreign Relations of the United States
[FRUS], vol XVI, Geneva; và Great Britain,
House of Commons, Documents
relating to the discussion of Korea and Indo-China
at the Geneva Conference.” Miscellaneous
No.16 (1954) ”, Cmd.
9186.
I.
ĐIỆN BIÊN PHỦ
Điện Biên Phủ c̣n
có tên là Mường Then (mường trời, mường các thần
thánh), Mường Theng, hay Mường Thanh, ở về phía
Tây Nam Lai Châu, cách biên giới Lào-Việt khoảng 8
cây số. Đây là vựa lúa và thuốc phiện của miền Tây
Bắc. Nó cũng là điểm gặp gỡ của hệ thống đường ṃn
từ Hoa Nam xuống Bắc Trung bộ, và từ Lào qua Lai
Châu, Sơn La. Thung lũng này dài 18 cây số, rộng
từ 6 tới 8 cây số, vây quanh bằng núi rừng trùng
điệp. Một con sông nhỏ, Nam Yun (Nậm Rốm), một chi
nhánh của sông Mekong (sông Khung hay Cửu Long),
chảy xuôi theo hướng Bắc Nam, chia thung lũng làm
hai. Khí hậu chỉ có hai mùa: khô và mưa. Mùa khô
từ tháng 10 tới tháng 5 Tây lịch (tức tháng chín
lịch Thái). Dân Thái ở dưới đồng bằng, sống bằng
nghề nông. Dân Mèo sống trên núi, trồng thuốc
phiện.
Năm 1886, vua Hàm
Nghi phong cho Đèo Văn Chương (tức Trí), Tri phủ
Điện Biên, làm Tuyên phủ sứ, v́ có công kháng
chiến chống Pháp. Phái đoàn Auguste Pavie Pháp đă
đến đây năm 1887, nhưng đầu năm 1888 mới tiếp xúc
được với Đèo Văn Trí, cố thuyết phục Trí bỏ rơi
Hàm Nghi. Phải tới chuyến đi thứ hai vào vùng 16
châu Thái (12 châu theo truyền thuyết) từ tháng
3/1888 tới tháng 1/1889, Pavie mới thu phục được
các tù trưởng thiểu số chấp nhận sự bảo hộ của
Pháp từ năm 1890. Năm 1891, đặt vào Đạo quan binh
thứ tư [4ème Territoire militaire]. Dưới thời Pháp
thuộc, người Pháp đặt tại đây một viên chức hành
chính, lo việc sản xuất và vận chuyển thuốc phiện.
Năm 1939, một phi trường nhỏ được thiết lập. Từ
1945 tới 1947, Điện Biên Phủ nhiều lần đổi chủ.
Sau chiến dịch Meigo (9-10/3/1945), tàn quân Pháp
rút về đây hy vọng phát động một cuộc chiến kháng
Nhật. Nhưng chưa đầy hai tháng sau, ngày 6/5/1945,
Sabattier và Alessandri phải rút chạy qua Vân Nam.
Các Tướng lănh
Nhật muốn biến Điện Biên Phủ thành một căn cứ
kháng chiến chống Đồng Minh, nhưng hai quả bom nguyên
tử trên đất Nhật vào thượng tuần tháng 8/1945
khiến Nhật phải đầu hàng không điều kiện.
Từ tháng 9/1945,
quân đội Tưởng Giới Thạch qua Đông Dương giải giới
quân Nhật ở phía Bắc vĩ tuyến 16. Quan tướng của
Lư Hán khó thể bỏ qua Điện Biên Phủ và số lượng
thuốc phiện thô sản xuất tại đây. Mặc dù Pháp bí
mật dàn xếp cho đạo quân của Marcel Le Page cùng
gia đ́nh Đèo Văn Long trở lại vùng Lai Châu [Mương
La], quan tướng Tưởng lưu lại Điện Biên Phủ cho
tới hết mùa thuốc phiện 1946 mới triệt thoái.
Từ mùa Thu 1953,
Điện Biên trở thành một vị trí quyết đấu giữa tân
Tổng Tư lệnh Pháp, Henri-Eugène Navarre, và Đại
tướng Vơ Nguyên Giáp cùng các cố vấn Trung Cộng.
Cuộc quyết đấu này là một “tai nạn” hơn “điểm hẹn
lịch sử.”
A. BỐI CẢNH CHÍNH
TRỊ-QUÂN SỰ:
Thời gian này, dư
luận Pháp đang mong muốn t́m lối thoát khỏi băi
lầy Đông Dương trong danh dự. Cuộc chiến đă kéo
dài 8 năm. Lực lượng chính qui Việt Minh tăng lên
tới 6 đại (sư) đoàn, kể cả một đại đoàn pháo
binh-pḥng không (351). Các đại đơn vị này được
Trung Cộng huấn luyện và trang bị. Cố vấn Trung
Cộng–do La Quí Ba và Vi Quốc Thanh cầm đầu–lên tới
gần 300 ngườợi, bố trí từ quân ủy trung ương xuống
các sư đoàn. Từ năm 1951, cố vấn Trung Cộng thi
hành một loạt những cuộc chỉnh quân, chỉnh phong,
về chính trị cũng như quân sự. Những đơn vị địa
phương, du kích (dân quân) ngày một gia tăng, đặc
biệt là tại miền Bắc.
Do áp lực của Đại
đoàn 320 (Đại đoàn Đồng bằng), kế hoạch b́nh định
của Pháp và Quốc Gia Việt Nam [QGVN] bị bẻ găy
từng mảng. Các vùng lănh thổ do Việt Minh kiểm
soát gồm nhiều mật khu bất khả xâm phạm: vùng
thượng du Bắc Việt, vùng Thanh Hóa-Nghệ An-Hà Tĩnh
(Liên Khu IV), vùng Quảng Ngăi-Qui Nhơn-Tuy Ḥa
(Liên Khu V), vùng Tây Ninh-Gia Định (chiến khu C,
D), vùng Đồng Tháp Mười, vùng U Minh-Cà Mau. Việt
Minh thường tuyên bố đă làm chủ được 3/4 lănh thổ.
Pháp chỉ kiểm soát được các thành phố, tỉnh lỵ và
quận lỵ cùng trục lộ giao thông nối liền chúng với
nhau. Phần chính phủ QGVN do Quốc trưởng Bảo Đại
(1949-1955) cầm đầu chỉ mờ nhạt trên bối cảnh cuộc
chiến ngày một gia tăng cường độ. Chẳng những Pháp
không muốn trao trả độc lập thực sự mà cũng rất e
dè trong việc tổ chức và huấn luyện quân đội
QGVN.( 5)
5.
Theo Thủ tướng Nguyễn Văn Tâm ngày 9/11/1953, trên
tổng số 21,063,543 dân, chính phủ QGVN kiểm soát
hoặc bán kiểm soát được 39.8%, tức 8,388,693 người.
Chia ra như sau: (1) Kiểm soát hoàn toàn được
6,431,453 người (30.5%): Bắc, 1,642,560 / 10,298,337
(15.9%); Trung, 1,552,000 / 6,466,800 (24%); và,
Nam, 3,236,893 / 4,298,406 (75.3%); (2) Số dân sôi
đậu: Bắc, 1,449,583 (14.1%); Nam, 507,657 (11.8%);
(3) Số dân do VM kiểm soát hoàn toàn lên tới
12,676,513 người (60.2%), chia ra như sau: Bắc:
7,207,857 (70%); Trung: 4,914,800 (76%); Nam:
553,856 (12.9%); Tờ tŕnh ngày 9/11/1953, Ban Tham
Mưu Đặc Biệt; SHAT (Vincennes), 10H 243, 254.
Sở dĩ Pháp
c̣n cầm cự được là nhờ viện trợ Mỹ. Mục tiêu chiến
lược của Mỹ nhằm biến Đông Dương thành một tiền
đồn chống Cộng, ngăn cản sự bành trướng của Trung
Cộng xuống vùng Đông Nam Á–vựa lúa của Á châu, và
cũng đồng thời nguồn cung cấp tài nguyên thiên
nhiên dồi dào cho thị trường thế giới. Nhưng viện
trợ Mỹ có những thắt trói của nó. Mỹ áp lực Pháp
phải trao trả dần độc lập thực sự cho chế độ QGVN
cũng như quyền tự trị cho quân đội. Mục tiêu giành
độc lập khỏi tay Pháp của người Việt không Cộng
Sản được chuyển hướng dần thành cuộc “thánh chiến
Chống Cộng” [an anti-Communist crusade] trong bối
cảnh cuộc chiến tranh lạnh Mỹ-Nga. Ṇng cốt của
cuộc thánh chiến này là chỉ thị của Khâm sứ
Antonin Drapier từ năm 1947, và nhất là Thánh lệnh
của Giáo hoàng Pius XII ngày 15/7/1949. Tuy nhiên,
tới cuối năm 1951, Giám mục Lê Hữu Từ và hai giáo
phận Bùi Chu-Phát Diệm mới chính thức “chống
Cộng.” Sự thay đổi lập trường này, theo De Lattre
de Tassigny, là do chuyến thăm Vatican ngày
15/10/1951 của ông ta. Pius XII không chỉ ban phép
lành cho quân viễn chinh Pháp, mà c̣n bổ nhiệm một
Linh mục gốc Ireland [Ái Nhĩ Lan], John Dooley,
làm Khâm sứ.( 6)
6. Xem
Pierre Darcourt, De Lattre au Vietnam (Paris: La Table
Ronde, 1965), tr. 257-265.
Nhưng Pháp–một
quốc gia theo chính sách đại nghị, và có nền chính
trị đa nguyên–chỉ muốn “thánh chiến chống Cộng”
nếu cuộc thánh chiến ấy giúp bảo vệ quyền lợi thực
dân, kinh tế và văn hóa của Pháp. Niềm tự hào quốc
gia và chủng tộc khiến Pháp tiếp tục cuộc chiến,
trong khi dư luận ngày một nghiêng về việc kết
thúc chiến tranh. Nhiều cá nhân đă lên tiếng gọi
cuộc chiến Đông Dương là cuộc chiến tranh bẩn thỉu
[la sale guerre] của tư bản và quân phiệt, và hô
hào đ̣i thương thuyết với Việt Minh. Trong khi đó,
cuộc chiến Đông Dương cũng bắt đầu kích động những
mầm mống chống đối bằng vũ lực ở các thuộc địa Bắc
Phi, như Algérie, Maroc, v.. v... Ngay những chính
khách Pháp thân Mỹ và cực hữu nhất cũng đi đến kết
luận rằng thương thuyết là giải pháp duy nhấtợ. Từ
tháng 7/1953, một số người đă nghiêng về ư định
dùng Trung Cộng và Liên sô Nga làm trung gian ḥa
giải. Ngày 29/7/1953, chẳng hạn, Tổng Ủy viên
Maurice Dejean nói với Đại sứ Heath rằng có thể
đạt một giải pháp chính trị cho Đông Dương qua
Trung Cộng.( 7)
7. FRUS, 1952-1954, XIII:705. Hơn 10
năm sau, TT Richard M. Nixon và Tiến sĩ Henry A.
Kissinger cũng [bị Jean Sainteny và t́nh báo Pháp?]
đưa ra “lối thoátờ” Trung Cộng cho cuộc chiến Việt
Nam.
B. KẾ HOẠCH
LANIEL-NAVARRE:
Kế hoạch Navarre
thoạt tiên được gọi là kế hoạch
“Letourneau-Navarre,” và rồi “Laniel-Navarre.”
Đại tướng
Henri-Eugène Navarre được cựu Thủ tướng René Mayer
và Thống chế Alphonse Juin, Tổng Tham mưu trưởng,
chọn làm Tổng Tư lệnh quân viễn chinh Pháp, thay
thế Raoul Salan từ ngày 28/5/1953. Quan điểm chiến
lược của Navarre là tập trung lực lượng viễn chinh
Pháp thành những “quả đấm mạnh,” lưu động, nhằm
truy kích và tiêu diệt các đơn vị chính qui Việt
Minh, tạo thế chủ động chiến trường, bẻ găy xương
sống Việt Minh trong mùa khô 1954-1955. Việc lưu
giữ đồn bót và b́nh định sẽ được giao dần cho
chính phủ và quân đội QGVN.
Tháng 3/1953,
Jean Letourneau trao cho Mỹ dự thảo đầu tiên của
Navarre. Mục tiêu hàng đầu của Navarre là b́nh
định phía Nam vĩ tuyến 18 (đèo Ngang), và tạm thời
duy tŕ t́nh trạng hiện hữu ở miền Bắc, tức bảo vệ
vùng châu thổ sông Hồng và Thượng Lào (trục Luang
Prabang-Cánh Đồng Chum [Plaine de Jars]). Đồng
thời, xây dựng lựỳc lượng tổng trừ bị chiến lược.
Navarre hy vọng rằng từ năm 1954 sẽ lấy lại thế
chủ động chiến trường ở miền Bắc đèo Ngang.(
8)
8.
Henri-Eugène Navare, Agonie de l’Indochine (tr. 67);
Fall, Hell, 1968:ix; Giáp, Điện Biên Phủ, 2001:17-18;
Tấn 1994:279-280.
Kế hoạch
Navarre gồm có việc tăng thêm 59,600 binh sĩ QGVN
năm 1953, 76,000 năm 1954, và 20,000 năm 1955, đưa
tổng số lên 331,650 vào tháng 1/1956. Navarre c̣n
xin tăng viện hai hay ba sư Pháp, thành lập 27
chiến đoàn cơ động [groupement mobile], bốn sư
đoàn QĐQGVN cùng 84 tiểu đoàn Khinh Quân.( 9)
9.
Ngày 31/12/1953, QĐQGVN có 198,020 người, chia ra
151,020 chính qui và 47,000 phụ lực; VNCH, Bộ TTM,
Quân sử, IV, 1972:196.
Ngày 16/6/1953,
sau hơn một tháng viếng thăm các chiến trường,
Navarre họp với các Tư lệnh vùng tại Sài G̣n để
thảo luận về dự thảo kế hoạch mùa khô 1953-1954.
Tại Bắc Việt, từ mùa Hè 1953, Navarre sẽ tạo thế
chủ động bằng những cuộc hành quân Biệt kích, đột
nhập hậu phương của Việt Minh. Từ ngày 15/9, sẽ mở
những cuộc tấn công ngăn chặn các âm mưu quân sự
của Việt Minh, đánh vào hậu phương và bên sườn các
đơn vị chủ lực. Navarre cũng sẽ di tản các đơn vị
chủ lực tại những nơi xét không cần thiết, và xúc
tiến việc b́nh định. Lập các quân đoàn tác chiến
bằng cách gom các tiểu đoàn thành trung đoàn,
trung đoàn thành sư đoàn. Tuy nhiên, vẫn duy tŕ
các đơn vị trừ bị. Ngoài ra, tiếp tục huấn luyện
và tổ chức các đơn vị Quốc Gia Liên Hiệp [Kết],
tập cho họ quen tác chiến và được hưởng nhiều tự
trị hơn. Navarre muốn triệt thoái căn cứ Na Sản,
một cứ điểm quân sự ở phía Tây Bắc, đă bị hai đại
đoàn Việt Minh vây hăm và nhiều lần tấn công trong
chiến dịch mùa Khô 1952-1953. Trung tướng René
Cogny, Tư lệnh Bắc Việt, đề nghị lập thêm một cứ
điểm ở Mương Then (Điện Biên Phủ) và dời thủ phủ
của Liên bang Thái tự trị [ZANO] từ Lai Châu về
đây.(10)
10. The Pentagon Papers (Gravel) 1971, I:496;
Fall, Hell, 1968:31-32. Hiện nay Điện Biên Phủ
là tỉnh lỵ tân lập Điện Biên.
Tháng 6/1953,
chính phủ Mayer bị đổ. Joseph Laniel
(6/1953-6/1954) lên thay. Thời gian này, cuộc
chiến Triều Tiên (1950-1953) đă tạm ngưng tiếng
súng; Mỹ và Trung Cộng đồng ư ngồi vào bàn hội
nghị Panmunjon (Bàn Môn Điếm). Ngày 27/7/1953, hai
phe lâm chiến kư Hiệp ước đ́nh chiến Panmunjon.
Triều Tiên tạm thời chia làm hai nước, ranh giới
là vĩ tuyến 38.
Dưới mắt các chiến
lược gia Pháp, Bắc Kinh sẽ rảnh tay hơn trong việc
trợ giúp Việt Minh. Hơn nữa, đa số chính khách đều
kết luận rằng Pháp chẳng c̣n lối giải quyết nào
hơn thương thuyết. Ngay trong nội các Laniel, một
số Bộ trưởng muốn thảo luận trực tiếp với Hồ Chí
Minh; một số muốn Mỹ trực tiếp tài trợ hoàn toàn
cuộc chiến, đổi lấy việc Pháp tham gia cộng đồng
pḥng thủ Âu châu [communauté européenne de
défense hay CED]; một số lại muốn dùng CED để áp
lực Liên sô Nga hầu giải quyết cuộc chiến. Một số
khác nữa muốn thương thuyết với Bắc Kinh, trao đổi
việc chấm dứt chiến tranh bằng viện trợ kinh tế
cho Trung Cộng.( 11)
11.
Jean Chauvel, “L’Armistice de Genève;” Historia
(Paris), hors série No. 25 (1972), tr. 146.
Laniel chủ
trương không bỏ rơi Đông Dương, và phải thương
thuyết trên thế mạnh, sau khi Pháp giành được thế
chủ động trên chiến trường. Laniel trông cậy Mỹỳ
gia tăng viện trợ để chống lại khuynh hướng thương
thuyết tức khắc, và bằng mọi giá.( 12)
12.
CĐ 2110, 30/11/1953, Dillon gửi BNG; FRUS,
1952-1954, XIII: 887-888. Mỹ đă viện trợ cho Pháp
tại Đông Dương 568 triệu MK năm 1953 (33% tổng số
chiến phí) và dự trù 1.313 tỉ MK cho năm 1954 (61%
tổng số chiến phíÔ); The Pentagon Papers (Gravel)
1971, I:408. Từ 1950 tới 31/3/1954, Mỹ viện trợ 785
triệu MK cho quân viễn chinh Pháp và quân đội ba
QGLK; Ibid., I:498.
Ngày
3/7/1953–đúng ngày Laniel tuyên bố kiện toàn nền
độc lập của QGVN để tạo kích xúc tâm lư
(13)–Navarre về nước, vận động cho kế hoạch quân
sự 1953-1954. Ngày 24/7, Navarre ra điều trần
trước Hội Đồng Quốc Pḥng. Tuy nhiên, Laniel chỉ
tăng viện cho Navarre được 10 tiểu đoàn tác chiến,
kể cả một tiểu đoàn đang ở Triều Tiên.( 14)
13.
Ngoại trưởng Bidault không hài ḷng với quyết định
trao độc lập hoàn toàn cho Việt Nam. FRUS,
1952-1954, XIII:706-9.
14. FRUS, 1952-1954, XIII:704.
Ngoài ra, Laniel
cũng cho Navarre biết ư định t́m cách ngưng bắn
như trường hợp Triều Tiên, và Navarre không cần
bảo vệ Thượng Lào.
Kế hoạch
“Letourneau-Navarre” được cải danh thành
“Laniel-Navarre” khi Laniel xin thêm 400 triệu Mỹ
Kim viện trợ cho năm 1954. Về quân viện Mỹ, không
gặp trở ngại. Ngày 12/7, Ngoại trưởng Foster
Dulles chấp thuận trên nguyên tắc với Bidault.(15)
Ngày 30/7, Quốc Hội Mỹ biểu quyết quân viện
thêm 150 tỉ francs (400 triệu MK) cho tài khoá
1953-1954 như Laniel yêu cầu.( 16)
15.
Ngày 21/7/1953, nhật báo Le Monde tiết lộ nội dung
buổi mật đàm giữa Bidault và Dulles ngày 12/7/1953 tại
Oat-shinh-tân.
16. FRUS, 1952-1954, XIII:701-703.
Ngày 5/8, BNG
Mỹ biện minh cho việc thêm quân viện như sau: nội
các Laniel là “chính phủ Pháp cuối cùng c̣n muốn
tiếp tục cuộc chiến Đông Dương,” việc mất Đông
Dương “rất quan trọng [critical] cho nền an ninh
Mỹ;” nếu Cộng Sản kiểm soát Đông Dương sẽ làm nguy
hiểm “nguồn cung cấp nguyên liệu thô quan trọng
[vital raw material sources];” sẽ khiến các quốc
gia Đông Nam Á giảm niềm tin vào sự lănh đạo của
phương Tây; gây khó khăn và tốn kém cho việc pḥng
thủ Philippines, Đài Loan và Nhậtợ; và khiến việc
xây dựng kinh tế Nhật thêm phức tạp. “Nếu Pháp
quyết định rút lui, Mỹ phải suy xét rất kỹ là có
nên thay thế hay chăng [If the French actually
decided to withdraw, the US would have to consider
most seriously whether to take over in this area].”(
17)
17.
Báo cáo của BNG ngày 5/8/1953 để sử dụng cho phiên
họp NSC ngày 6/8/1953; The Pentagon Papers (Gravel)
1971, I:405-407 [Tài liệu 16]).
Tại Đông Dương,
trong tháng 7/1953, Pháp tung ra một loạt tấn công
chớp nhoáng vào hậu phương của Việt Minh. Ngày
17/7, ba tiểu đoàn Dù nhảy xuống Bắc Lạng Sơn, rồi
rút về hướng Đ́nh Lập-Tiên Yên (Hành quân
Hirondelle [Chim Én hay Nhạn]). Ngày 28/7, Tướng
LeBlanc mở cuộc hành quân Camargue, truy đánh
Trung đoàn 95/325 CSBV tại vùng Quảng Trị-Thừa
Thiên.
Ngày 2/8,
Navarre trở lại Sài G̣n. Sáu ngày sau, Thứ Bảy,
8/8, Pháp di tản Na Sản bằng phi cơ [cho đến ngày
13/8]. Không quân Pháp cũng di tản 10,000 người
Thái, tức khoảng 1,800 gia đ́nh.( 18)
18. Có
tài liệu ghi từ ngày 7 tới 12/8/1953; SHAT
(Vincennes), 10H 282.
Việt Minh không
kịp phản ứng trước việc Pháp triệt thoái bằng cầu
không vận. Mặc dù Quân ủy trung ương Đảng LĐVN đă
chọn Na Sản làm một trong những mục tiêu chính của
chiến dịch Đông Xuân 1953-1954, thời gian này các
đơn vị Việt Minh đang trải qua giai đoạn chính
huấn quân sự cũng như chỉnh phong chính trị (tinh
thần đấu tranh giai cấp).( 19)
19.
Giáp, Điện Biên Phủ, 2001:12-14. Theo Lê Trọng Tấn,
các đơn vị Việt Minh đang qua đợt chỉnh quân từ
tháng 6/1953. Ngày 7/8, tiến hành chỉnh quân chính
trị; Tấn, Từ Đồng Quan Đến Điện Biên (Hà Nội: NXB
QĐND, 1994), tr.272-273. Tấn [Lê Trọng Tố,
1914-1986] từng đi lính Không quân Pháp, đá bóng cho
đội Avionton (?);Ibid., 1994:273.
Trong
tháng 8/1953, Navarre c̣n mở hai cuộc hành quân
lớn ở châu thổ sông Hồng. Ngày 13/8, Pháp tảo
thanh vùng Tri Lễ, Ước Lễ, khoảng 17 cây số Nam
tỉnh lÿ Hà Đông. Từ năm 1952, vùng này trở thành
mật khu của Việt Minh, đe dọa khu trù mật Đồng
Quan. Ngày Thứ Sáu, 28/8, Pháp mở chiến dịch
Claude [cho tới ngày 15/9/1953], tảo thanh vùng
Tiên Lăng (10 cây số Nam Hải Pḥng). Tuy nhiên,
ngay sau khi Pháp rút lui, VM chiếm lại các căn
cứ.
Ngày
15/10,
Pháp lại mở chiến dịch Mouette [Hải Âu, cho tới
ngày 6/11]. Sử dụng 22 tiểu đoàn đánh vùng Rịa /
Nho Quan, Tây Nam tỉnh Ninh B́nh. Các tiểu đoàn
được kết hợp thành hai sư đoàn nhẹ, do Đại tá
Christian de Castries và Vanuxem chỉ huy. Việt
Minh sử dụng đại đoàn 320 chống trả. Ngày 27/10,
hai bên chạm súng nặng. Ngày 6/11, Navarre cho
lệnh chấm dứt hành quân.( 20)
20. Giáp, Điện Biên
Phủ, 2001:31-39. Ngày 4/11/1953, Phó TT Mỹ Richard
M. Nixon thăm các đơn vị đang tham dự cuộc hành quân
Mouette. Theo Pháp, Sư đoàn 320 VM thiệt hại trên
20% quân số ; FRUS, 1952-1954, XIII:860.
Cùng ngày
15/10/1953, Pháp mở cuộc hành quân Pélican [Con bồ
nông] ở vùng duyên hải Thanh Hóa. Hôm sau, đổ bộ
500 quân xuống Lạch Trường, rồi rút lui.
Theo
Tướng
John
W.
O’Daniel–người
được Navarre đích thân cho xem kế hoạch Thu Đông
1953-1954 ngày 29/6/1953–chính phủ Pháp không thực
hiện đúng những ǵ đă kư kết với Mỹ: (a) Pháp không
có những kế hoạch tổng quát cho cuộc
tấn công mùa Thu 1953 ngoài những cuộc hành quân
giới hạn nhằm khiến quân địch bất ngờ [keep the
enemy off balance]; (b) việc cải tổ các đơn vị
thành Trung đoàn và Sư đoàn vẫn c̣n trong giai
đoạn thiết kế [planning stages]; (c) không khẩn
trương huấn luyện các sĩ quan cao cấp Việt và tham
mưu, (d) việc tổ chức Bộ chỉ huy huấn luyện đang
gặp “khó khăn chính trị;” (e) việc tổ chức lực
lượng thủy bộ chưa quá giai đoạn thiết kế.” Do đó
Đô đốc Arthur Radford, Tổng Tham mưu trưởng Liên
quân Mỹ, đề nghị phải có điều kiện cho việc tăng
quân viện: Pháp cần chứng tỏ hành động ở Đông
Dương, và tiếp tục chấp nhận và hành động theo cố
vấn của Mỹ. Và các cấp của Pháp phải yểm trợ và nỗ
lực thực hiện kế hoạch Navarre.( 21)
21.
Phiếu tŕnh [Memorandum] của Radford ngày 28/8/1953;
The Pentagon Papers (Gravel) 1971, I:411.
Kế hoạch ṇng
cốt của Navarre trong mùa khô 1953 là mặt trận Tây
Bắc Bắc Việt và Thượng Lào. Có những dấu hiệu cho
thấy các đơn vị chủ lực của Việt Minh đang di
chuyển về hướng Lai Châu, đặc biệt là hai Đại đoàn
316 [98, 174, 176] (từ Thanh Hóa) và 308 [36, 88,
102]. Điều này chứng tỏ mục tiêu chiến lược của
Việt Minh trong dịp Đông Xuân 1953-1954 là vùng
Tây Bắc và Thượng Lào hơn vùng châu thổ Bắc Việt.
C. CHIẾN DỊCH CASTOR:
Ư định tái chiếm
Điện Biên làm điểm tiếp vận cho các đơn vị Thái
chống Cộng đă được Raoul Salan đưa ra từ ngày
30/12/1952.( 22) Trước đó một
tháng, ngày 30/11, một tiểu đoàn Lào mới di tản
khỏi Mương Then. Khoảng
13,000 dân cư ở lại, lọt vào ṿngỳ kiểm soát của
Việt Minh. Trung đoàn 148 độc lập của Việt Minh đă
có mặt trong khu vực này từ chiến dịch Đông Xuân
1952-1953. Trong tháng 11-12/1952, Trung đoàn 148
tham gia cuộc vây hăm Na Sản, cách Điện Biên
khoảng 70 dặm (110 km) về phía Bắc. Bộ Chỉ huy
Trung đoàn và Tiểu đoàn 900 đang có mặt tại Điện
Biên. Ngày 7/1/1953, Ban Tham mưu của Salan đă
thảo kế hoạch tái chiếm Điện Biên. Tuy nhiên, v́
t́nh h́nh suy thoái ở miền Bắc, chưa có cơ hội
thực hiện. Ngày 25/5, tức ba ngày trước khi bàn
giao cho Navarre, Salan vẫn nhấn mạnh vào sự cần
thiết tái chiếm Điện Biên.
Như đă lược nhắc,
ngày 16/6, Trung tướng Cogny, Tư lệnh miền Bắc, đề
nghị tái chiếm Điện Biên làm thủ phủ Liên bang
Thái tự trị. Sau khi Navarre thuyết tŕnh trước
Hội đồng Quốc Pḥng ngày 24/7/1953, hôm sau, 25/7,
Ban Tham mưu của Navarre soạn chỉ thị số 563 về kế
hoạch chiếm Điện Biên để ngăn chặn quân Việt Minh
tiến qua Thượng Lào.( 23)
22.
Ngày 30/12/1952 Salan ra chỉ thị số 40, cho lệnh tái
chiếm Điện Biên Phủ ngày 10/1/1953; Fall, Hell,
1968:25.
23.
Fall , Hell, 1968:33.
Tuy
nhiên, trong tháng 8/1953 nỗ lực của Pháp tại Bắc
Việt là cuộc di tản 9,000 binh sĩ Pháp và thân
nhân bằng hàng không khỏi Na Sản. Măi tới ngày
2/11, Phụ tá Hành quân của Navarre mới ra chỉ thị
(số 852) về hệ thống chỉ huy chiến dịch Castor, dự
trù sẽ bắt đầu từ ngày 15 tới 20/11/1953, nhưng
không thể chậm hơn ngày 1/12/1953. Hai ngày sau,
4/11, Ban Tham Mưu của Cogny viết Tờ tŕnh phản
đối chỉ thị chiếm Điện Biên, v́ nơi đây sẽ trở
thành “máy nghiền các tiểu đoàn.” Ngày này, Cogny
thư cho Navarre phản đối.( 24) Dẫu vậy,
ngày 11 và 12/11/1953, Cogny vẫn chỉ thị cho
các đơn vị thi hành kế hoạch hành quân Castor.
24.
Fall, Hell, 1968:35-36. Thủ tướng Laniel cho rằng đây
chỉ là sự phản kháng chiếu lệ để tránh trách nhiệmƯ.
Thứ Bảy, 14/11,
Navarre ra lệnh hành quân cuối cùng về Điện Biên.
Cogny và Đại tá Boucher de Crèvecoeur, Tư lệnh
Lào, được lệnh phối hợp hành quân. Hôm sau, 15/11,
Ban Tham mưu của Navarre báo động về sự hiện diện
tại vùng Tây Bắc của Đại đoàn 316–đại đơn vị này
có 2 trung đoàn 174 và 176 tuyển mộ từ các sắc tộc
trong khu Thái tự trị. Hai ngày sau, 17/11, khi Bộ
trưởng Các Quốc Gia Liên Kết Marc Jacquet, cùng
Navarre, Maurice Dejean và Thủ tướng Nguyễn Văn
Tâm tới thăm Hà Nội, đích thân Cogny tŕnh bày về
chiến dịch “Castor” sắp tới. Jacquet không hề phản
đối hay bận tâm báo cáo về Paris. Điều này chứng
tỏ các cấp chỉ huy Pháp không ngại đương đầu với
Việt Minh tại Điện Biên. Họ vững tin ở khả năng
không vận của Pháp, và sự khó khăn của Việt Minh
về tiếp vận cũng như hỏa lực tại một trận địa cách
hậu cứ trên 500 cây số rừng núi.( 25)
25.
Ngày 6/11/1953, Tướng O'Daniel thăm Đông Dương [cho
tới ngày 15/11]. Sau những buổi bàn thảo với
Navarre, hoàn toàn ủng hộ kế hoạch Navarre. Ngày
20/11, Navarre xin Heath thêm phi cơ vận tải C-47.
Ngày 23/11, Mỹ đồng ư gửi thêm 25 phi cơ C-47 trước
ngày 12/12/1953. Đây là quà tặng cho Laniel và
Bidault trước khi Hội nghị Bermuda khai mạc ngày
4/12/1953; FRUS, 1952-1954, XIII:882-3.
Thứ Sáu, 20/11,
Chiến dịch Castor bắt đầu. Tướng Jean Gilles chỉ
huy sáu tiểu đoàn Dù, kể cả Tiểu đoàn 5 Dù Việt
Nam, nhảy xuống Điện Biên trong ba ngày 20-23/11.
Các đơn vị truyền tin, thiết giáp, pháo binh, công
binh cũng được thả dù hay không vận tới trận địa.
D. TRIỆT THOÁI LAI CHÂU:
Từ ngày 4/11,
Pháp quyết định bỏ Lai Châu (Mường La), và di tản
chính phủ Thái tự trị của Đèo Văn Long xuống Điện
Biên Phủ. Ngày 13/11, Cogny thông báo cho Chỉ huy
trưởng Lai Châu, Trung tá Trancart, biết chi tiết
cuộc Hành quân “Pollux” này. Binh đoàn lưu động
Thái số 1 (GMPT 1) của Đại úy Bordier lập tức di
chuyển từ Lai Châu xuống Điện Biên, nhưng bị Trung
đoàn 148 chận đánh và khuấy nhiễu dọc đường. Ngày
22/11, một cánh quân Tiểu đoàn 1 Nhảy Dù (II/1
RCP) phải rời Điện Biên lên đón. Hôm sau, 23/11,
Liên đoàn Thái lưu động 1 bắt tay được Tiểu đoàn 1
Dù (II/1 RCP) ở phía Bắc Điện Biên khoảng 7 cây
số. Từ ngày này, cờ Thái tự trị–ngôi sao đỏ 16
cánh trên nền xanh da trời, trắng, xanh da
trời–phất phới khắp thung lũng.( 26)
26. SHAT (Vincennes), 10H 179; Fall, Hell,
1968:19-20.
Ngày Thứ Bảy,
28/11, Navarre bay ra Hà Nội. Cogny đề nghị tấn
công hậu cứ Việt Minh v́ các đại đoàn 304, 312 và
351 đang hướng về Tây Bắc, nhưng Navarre không
chấp thuận. Hôm sau, Navarre cùng Cogny tới thị
sát Điện Biên. Đại tá Christian de Castries, một
sĩ quan Kÿ binh từng theo Navarre nhiều năm, được
chọn làm Tư lệnh cứ điểm chiến lược Tây Bắc này.
Trước sự tập trung đông đảo của quân Việt Minh,
ngày 30/11, Cogny ra chỉ thị tổ chức pḥng thủ
Điện Biên lâu dài. Ba ngày sau, 3/12, phần nào do
lời nghị ḥa của Hồ Chí Minh ngày 29/11, Navarre
cho lệnh de Castries giữ Điện Biên bằng mọi giá.
Chiến dịch Castor cải danh thành Mặt trận Tây Bắc
[GONO].( 27)
27.
Fall, Hell, 1968:39-40.
E. MẶT TRẬN THƯỢNG LÀO:
Ngày Thứ Tư,
25/11, Đại tá Boucher de Crèvecoeur, Tư lệnh Lào,
mở chiến dịch Ardèche, tung 6 tiểu đoàn đánh chiếm
Mường Ng̣i, Mường Khoa (Thượng Lào). Mục đích nhằm
xây dựng một hành lang chiến lược dài theo sông
Nam Ou [Nậm U] nối liền Luang Prabang với Điện
Biên.
Ngày 3/12, Pháp
cũng mở cuộc hành quân Regate từ Điện Biên xuống,
và Luang Prabang lên, hợp điểm ở Sop Nao. Liên
đoàn GAP 2 của Trung tá Langlais tới Sop Nao không
gặp trở ngại, nhưng trên đường về, phải vượt rừợng
núi trở lại Điện Biên v́ Trung đoàn 148 VM bám
sát. Hành lang chiến lược nối liền với Luang
Prabang, dọc theo sông Nậm U, để di tản Điện Biên
khi cần thiết hầu như trở thành ảo vọng vào dịp
Giáng Sinh 1953.( 28)
28.
Fall, Hell, 1968:73-76.
II. KẾ HOẠCH
ĐÔNG-XUÂN 1953-1954 CỦA VIỆT MINH:
Từ
tháng 8/1953, Bộ Tổng tư lệnh Việt Minh bắt đầu
nghiên cứu kế hoạch hành quân Đông-Xuân (tức mùa
khô) 1953-1954. Vấn đề quan trọng nhất là chọn
đồng bằng Bắc Việt làm mục tiêu chiến dịch, hay
tiếp tục hành quân ở miền Tây Bắc, giải phóng Lai
Châu, rồi đánh thông xuống miền Trung.
A. KẾ HOẠCH VƠ NGUYÊN GIÁP BỊ BÁC:
Ngày 13/8,
Ban Chấp hành Trung ương [BCH/TƯ] Đảng Lao Động
Việt Nam [LĐVN] gửi điện văn xin ư kiến Bắc Kinh
về t́nh h́nh tổng quát và phương hướng chiến lược.
Trong thời gian chờ quyết định của Trung Cộng,
ngày 18/8, Bộ chính trị Đảng LĐVN, theo đề nghị
của Vơ Nguyên Giáp, Tổng Tư lệnh Việt Minh, ra
Nghị quyết lấy đồng bằng làm hướng chủ yếu, và Tây
Bắc làm hướng phu.ỳ Thời gian này, Wei Guoping [Vi
Quốc Thanh] đang về nước nghỉ. Luo Qibo [La Quí
Ba] tham dự buổi họp và báo cáo về Bắc Kinh.(
29)
29. Jian, 1993:99.
Qiang Zhai ghi là ngày 22/8/1953; Zhai, 2000:44;
Giáp, Điện Biên Phủ, 2001:22-23. Phụ tá cho Vi Quốc
Thanh là Đặng Nhất Phạm; Tin Việt Nam, No. 55
(9/1985). Xem thêm Hoàng Văn Hoan, “Sự thực về t́nh
hữu nghị chiến đấu Việt-Trung không thể xuyên tạc”
(11/1979), in lại trong Tin Việt Nam, No. 33
(11/1983), tr. 1-30. Tài liệu này để trả lời Sách
Trắng (10/1979) của Hà Nội.
Ngày 27/8,
và rồi 29/8, Quân ủy TC liên tiếp gửi điện văn cho
Luo qibo và BCH/TƯ Đảng LĐVN phản đối việc tấn
công đồng bằng. Và đề nghị chiếm Lai Châu, đánh
qua Lào, rồi xuống Miên. Tháng 9/1953, Bộ Chính
trị Đảng LĐVN đồng ư đề nghị của Bắc Kinh.(
30)
30. Jian 1993:99; Zhai
2000:44-45; Tấn 1994:285-286.
Ngày
1/10, Vơ Nguyên Giáp tới Tỉn Keo, Tuyên Quang, đệ
tŕnh kế hoạch Đông-Xuân 1953-1954. Chỉ có Hồ,
Trường Chinh, và Phạm Văn Đồng hiện diện. Nguyễn
Chí Thanh và Trần Đăng Ninh vắng mặt.( 31)
31.
Giáp, Điện Biên Phủ, 1994:24; Điện Biên Phủ,
2001:23-28.
Ngày
10/10, Đảng CSTH báo cho Hồ biết Vi Quốc Thanh lại
được chỉ định làm Cố vấn trưởng quân sự; và La Quí
Ba, Cố vấn trưởng chính trị. Ngày 27/10, Vi Quốc
Thanh trở lại Thái Nguyên, mang theo một bản sao
kế hoạch Navarre.( 32)
32.
Jian 1993:99-100; Zhai 2000:45; Giáp, Điện Biên Phủ,
2001:46. Theo Giáp, t́nh báo Trung Cộng đă có được
bản sao kế hoạch này, kèm theo bản đồ và chuyển cho
Việt Nam từ tháng 9/1953; Giáp, Điện Biên Phủ,
2001:17.
Ngày
3/11, Bộ Chính trị Đảng LĐVN chấp thuận kế hoạch
hành quân Đông Xuân 1953-1954 do Thanh và các cán
bộ Việt Nam soạn thảo: Chiến dịch mùa khô
1953-1954 sẽ là hướng Tây Bắc, với mục tiêu Lai
Châu.( 33)
33.
Jian 1993:100.
Từ ngày 15/10,
Giáp đă cho lệnh Đại đoàn 316 từ Thanh Hóa tiến về
hướng Tây Bắc. Thực ra, hai Trung đoàn 98/316 và
176/316 vẫn có mặt tại đây. Trung đoàn 98 hoạt
động từ Sầm Nưa về Sơn La. Trung đoàn 176 hoạt
động dài theo sông Đà. Chỉ có Bộ Tư lệnh đại đoàn
và Trung đoàn 174/316 về Thạch Thành, Thanh Hóa
chỉnh quân sau chiến dịch Thượng Lào mùa Xuân
1953. Nay Tư lệnh Phó Vũ Lập dẫn Trung đoàn
174/316 và Sở chỉ huy đại đoàn rời Thanh Hóa, vượt
sông Đà ngày 15/11/1953.( 34)
34.
Giáp, Điện Biên Phủ, 2001:39.
B. ĐIỆN BIÊN PHỦ LÀM MỤC TIÊU CHÍNH:
Ngày
20-24/11/1953, Hội nghị phổ biến kế hoạch Đông
Xuân của Việt Minh diễn ra tại Đồng Đau, Định Hóa,
Thái Nguyên. Giữa thời gian này, đột ngột diễn ra
việc Pháp đổ quân xuống Điện Biên, và rồi
Crèvecoeur mở hành lang Thượng Lào từ ngày 25/11.
V́ chưa hiểu rơ ư định Navarre, Giáp và Thanh chưa
có quyết định mới nào hơn đưa đại quân tiến vào
Tây Bắc và đánh chiếm Lai Châu.
Giáp cho
lệnh Đại đoàn 308 của Vương Thừa Vũ (Trung đoàn
36, 88, 102) tiến về Lai Châu. Đại đoàn 316 (Trung
đoàn 98, 174, 176 + đại đội 812 vũ khí nặng) được
lệnh phải có mặt ở Tuần Giáo, Nam Lai Châu và Đông
Bắc Điện Biên, chậm nhất là ngày 6/12. Đại đoàn
304 (-) (hai Trung đoàn 57, 345) của Hoàng Minh
Thảo [và Hoàng Sâm] đang ở Thanh Hóa cũng di
chuyển lên Tây Bắc làm kế nghi binh, rồi luồn
đường rừng trở lại Phú Thọ, đề pḥng quân Pháp tập
hậu mật khu ở đây. Trong khi đó, Đại đoàn 325 [18,
95, 101] của Trần Quí Hai và 1 Trung đoàn của 304
cũng đánh qua Trung và Hạ Lào. Liên Khu V th́ mở
rộng hoạt động lên vùng cao nguyên miền Trung.(
35)
35.
Giáp, Điện Biên Phủ, 1994:27; 2001:39-41. Ngày
27/11, t́nh báo Lục quân Mỹ ghi nhận 6 Sư đoàn VM
đang di chuyển về hướng Tây; FRUS, 1952-1954,
XIII:886-887. Ngày 14/1/1954, Giám đốc CIA, Allen
Dulles, báo cáo tại phiên họp thứ 180 HĐ/ANQG Mỹ là
Pháp có 15 tiểu đoàn tại Điện Biên với 6 ngày lương
thực; VM có 19 tiểu đoàn.
Từ ngày 26/11,
Hoàng Văn Thái, Tổng Tham Mưu Phó, cùng Mai Gia
Sinh, Cố vấn Tham Mưu, cầm đầu Bộ chỉ huy tiền
phương rời Thái Nguyên ra mặt trận. Ngày 6/12, Bộ
Chính trị Đảng LĐVN và các “chuyên gia” TC đồng ư
đánh Điện Biên Ư.( 36) Kế hoạch sơ
khởi chia làm hai đợt. Đợt thứ nhất,
dùng đại đoàn 316 đánh Lai Châu, kết thúc vào cuối
tháng 1/1954. Sau đó cho binh sĩ nghỉ ngơi 20
ngày. Đợt 2 đánh Điện Biên. Thời gian tác chiến
khoảng 45 ngày. Chiến dịch sẽ kết thúc vào đầu
tháng 4/1954. Đại bộ phận sẽ rút, chỉ dùng một số
đơn vị qua Lào, cùng Pathet Lào uy hiếp Luang
Prabang. Ba đại đoàn 308, 312 và 316 chính thức
tham chiến.( 37)
Ngày N dự trù là 25/1/1954.
36.
Jian 1993:101; HCMTT, 7:1953-1954, 1996: 574c 18;
Giáp, Điện Biên Phủ, 2001:48.
37. Giáp, Điện Biên
Phủ, 2001:46-47; SHAT (Vincennes), 10H 1174. Báo cáo về phương án
tác chiến mùa Xuân 1954 của Tổng Quân Ủy tŕnh bộ
CT: Dự trù 45 ngày. Cần sửa đường xá cho
xe kéo pháo chạy. Hoàn tất trước cuối tháng 1/1954.
Lương thực từ Thanh Hóa và xin TC giúp đỡ. Quân tác
chiến dự trù 42,500 và 14,500 nhân công. (VKĐTT, 14:1953,
2001:593-598).
Đây là
một chiến dịch vô cùng gian nan. Vấn đề tiếp vận
hầu như bất khả. Việt Minh phải vận dụng tới hơn
100,000 nhân công để di chuyển thực phẩm và đạn
dược cho các đơn vị hành quân.
Đầu tháng
12/1953, Đại đoàn 308 vượt sông Hồng, đưa Trung
đoàn 36 theo đường tắt chiếm cao điểm Pom Lót,
phía Nam-Tây Nam Điện Biên để chặn đường Pháp
triệt thoái. Cùng lên đường với đại đoàn 308 [36,
88, 102] có trung đoàn sơn pháo 75 ly 675/351.
Giáp c̣n tung thêm vào mặt trận Đại đoàn 312 [141,
165, 209] từ Yên Báy tiến sang Tây Bắc, Đại đoàn
351 (Pháo, công binh), và Đại đoàn 304 [9, 57, 66]
thiếu một Trung đoàn.
C. BỎ ĐÁNH NHANH, THẮNG NHANH.
Ngày 1/1/1954, Vơ Nguyên
Giáp được cử làm Tư lệnh kiêm Bí thư đảng ủy Mặt
trận Tây Bắc. Bốn ngày sau, 5/1, Giáp lên đường ra
Mặt trận. Bộ Chỉ huy, ngoài Giáp, có Hoàng Văn
Thái, tham mưu trưởng (đă tới Tuần Giáo từ tháng
11/1953); Lê Liêm, chính trị; Đặng Kim Giang, hậu
cần; Lê Trọng Nghĩa, quân báo.( 38)
38.
Giáp , Điện Biên Phủ, 1994:28.
Ngày 12/1, Giáp tới
Tuần Giáo. Trong khi thảo luận cách tấn công, mọi
người chủ trương đánh nhanh, thắng nhanh (chiến
thuật biển người). Vi Quốc Thanh, theo Giáp, nhấn
mạnh phải đánh nhanh: tiếp liệu khó khăn, công sự
pḥng thủ của Pháp c̣n dă chiến. Giáp cũng đồng ư.(
39)
39.
Giáp,
Điện
Biên
Phủ,
1994:33-34.
Tài liệu TC cho rằng Giáp muốn dùng chiến thuật biển
người.
Thời gian này,
theo ước đoán của Navarre, về lượng, VM không tăng
gia bao lăm. Về phẩm, quân đội VM tiến bộ đáng kể.
Các tiểu đoàn VM thuộc loại thiện chiến hơn các
tiểu đoàn bộ binh Pháp, ngoại trừ Nhảy Dù. Về vũ
khí, VM có thêm súng nặng như cối 80, 120, Bazoka
90. Các đơn vị pháo binh có 1 trung đoàn sơn pháo
75, 1 trung đoàn pháo dă chiến 105 (ṇng ngắn) của
Sư đoàn 351. Pḥng không có đại liên 12.7, đại bác
20 ly, và cả đại bác 37 ly. Bởi thế, ban đêm VM có
thể tập trung lực lượng úp đồn; ban ngày đương đầu
Pháp ở địa thế chọn lựa sẵn. Viện trợ Trung Cộng
đột ngột gia tăng trong mấy tuần qua: súng pḥng
không, pháo binh, lương thực, kho tiếp tế gần biên
giới, xe hơi, và nhất là cố vấn quân sự. Đặc biệt
là cán bộ chính trị của VM đă khiến cả nước lâm
chiến; trong khi quân Pháp chỉ hành quân mà không
lâm chiến [Nous faisons des opérations militaires
mais nous ne faisons pas la “guerre”]. (40)
40.
SHAT (Vincennes), 10H 252.
Ngày
14/1/1954, VM họp ở hang Thẩm Púa, sát Điện Biên,
đễ phổ biến kế hoạch. Hoàng Văn Thái tuyên bố mục
tiêu chính là Điện Biên Phủ. Hai cách đánh: “đánh
nhanh, giải quyết nhanh,” và “đánh chắc, tiến
chắc.” “Đánh nhanh, giải quyết nhanh,” th́ tấn
công theo hướng Tây; “đánh chắc, tiến chắc” th́
tấn công từ hướng Đông. Giáp và cố vấn Trung Cộng
đă quyết định “đánh nhanh, giải quyết nhanh.” Đại
đoàn 308 [36, 88, 102] đánh thọc sâu vào cứ điểm
phía Tây (đồng bằng). Đại đoàn 312 [141, 165,
209], 316 [98, 174, 176] đột kích vào hướng Đông,
nơi có những cứ điểm mạnh. Dự kiến trận đánh sẽ
kéo dài ba ngày, ba đêm. Tập trung mọi nỗ lực đưa
pháo và pḥng không vào trận địa. Đại đoàn 308 có
nhiệm vụ mở đường đưa pháo vào mặt trận. Ngày
17/1, Trung đoàn 165/312 vượt núi Tà Lèng vào sát
Điện Biên. Hai trung đoàn 209/312 và 141/312 kéo
pháo. Ngày N là 17 giờ ngày 25/1/1954. Nhưng trưa
25/1, có lệnh ngưng tấn công, kéo pháo ra. Đổi
sang “đánh chắc, thắng chắc.”( 41)
41.
Giáp, Điện Biên Phủ, 1994:36-39; Tấn 1994:305-306.
Theo Giáp,
trước ngày N, Pháp bắt được một cán bộ VM. Ngày
giờ tấn công bị lộ, nên Giáp đ́nh hoăn 24 tiếng.
Ngày 25/1, Giáp cũng đổi ư: Muốn đánh chắc, tiến
chắc [steady progress]. Hôm sau, 26/1, Giáp gặp cố
vấn trưởng Thanh, đề nghị tạm hoăn tấn công, lùi
về vị trí tập kết. Bỏ lối đánh nhanh, thắng nhanh
[quick solution] đổi sang đánh chắc, tiến chắc.
(42)
42.
Giáp, Điện Biên Phủ, 1994:40-41; 2001:93-94,
101-110. Tấn ghi lệnh hoăn tấn công và rút pháo khỏi
trận địa vào tối ngày 25/1/1954; Tấn 1994:325-329.
Theo tài liệu
Trung Cộng, chính cố vấn TC đă chủ trương đánh
chắc, tiến chắc, không tán thành lối đánh biển
người của Giáp. Cách nào đi nữa, ngày 31/1/1954,
Giáp chuyển sở chỉ huy từ Nà Tấu vào Mường Phăng,
rặng núi cao phía Đông Điện Biên.( 43)
43.
Giáp , Điện Biên Phủ, 2001:111-112, 144-145.
Ngày 5/2, các
đơn vị Việt Minh mới kéo hết pháo ra. Ngày 10/2,
Đại đoàn 316, 312 và Trung đoàn sơn pháo 675 bắt
đầu làm 6 con đường khác để đưa pháo lên hai đỉnh
núi Pú Hồng Mèo và Pú Tà Cọ. Ngày 17/2, hoàn tất.
Sau đó, đào hầm dấu pháo. Mỗi hầm pháo ăn sâu vào
ḷng núi tới 200-300 mét.( 44)
44.
Tấn 1994:331-332. Đây là kinh nghiệm TC ở Triều Tiên;
Giáp, Điện Biên Phủ, 2001:151.
LÊ TRỌNG TỐ hay TIẾN (Tướng,
1914-1986)
x Bí danh
Lê Trọng Tấn
Sinh tại Yên
Nghĩa, Hoài Đức, Hà Đông. Theo Việt Minh từ
1944. Đảng viên CS từ 1945. Tháng 8/1945, nhập
ngũ. Ủy viên quân sự ban khởi nghĩa Hà Đông.
1945-1950: Phó TrĐ trưởng, TrĐ trưởng, Khu
trưởng Khu 14. Phó TL Khu 10; TrĐ trưởng kiêm
chính ủy TrĐ 209; tham dự trận Đông Khê (bắt
được Charton năm 1950).
1951-1954:
Tư
lệnh
Đại
Đoàn
312
(TrĐ 141, 165, 209) [Tài liệu Pháp ghi năm 1953;
10H 281]. 1953-1954: Tham dự chiến dịch Tây Bắc
và Điện Biên Phủ.
1962: Thiếu
tướng, Phó T/TMT. 1964-1969: Vào Nam. Phó Tư
lệnh, ủy viên quân ủy QGPMN. 1970-1971: Phó
T/TMT, Tư lệnh Mặt trận đường 9. 1971-1972: Đại
diện Bộ TTL/QĐNDVN bên cạnh BCH Quân Giải phóng
Lào. 3/8/1972: Thay Văn Tiến Dũng làm Tư lệnh
chiến dịch Trị Thiên. 1973: Tư lệnh QĐ 1.
6/1974: Kiêm Viện trưởng Viện Khoa học quân sự
BQP.
Năm 1975,
đang là Phó Tổng Tham Mưu trưởng, kiêm Hiệu
trưởng trường bổ túc Quân Sự Cao Cấp, Tấn được
điều vào làm Tư lệnh chiến dịch Huế-Đà Nẵng. Rồi
Tư lệnh cánh quân duyên hải (Lê Quang Ḥa làm Bí
Thư). 4/1975: Phó Tư lệnh Chiến dịch HCM.
1976-1977:
Phó
Tổng
Tham
Mưu
trưởng,
kiêm Hiệu trưởng trường bổ túc Quân Sự Cao Cấp.
12/1978-1979: Tư lệnh Mặt trận Tây Nam.
12/1976:
Ủy
viên
Ban
Chấp
Hành
Trung Ương. 1978-1986: UV Thường vụ QUTW. 1980:
Thay Văn Tiến Dũng làm Tổng Tham Mưu trưởng.
[3/1982: Ủy viên TƯĐ (số 110/116)].
9/1985:
Đại
tướng,
Thứ
trưởng
Quốc
Pḥng, Tổng TMT/QĐND. (ND, 8/9/1985).
6/12/86:
Hà
Nội
loan
tin
chết.
Có tin bị thanh trừng.
Một trở ngại khác
cho việc sử dụng pháo là bản đồ. Các pháo đội Việt
Minh chỉ có loại bản đồ 1/100,000, nên tác xạ
không chính xác. Ngày 1/2/1954, VM lấy được bản đồ
1/25,000 của Trung úy Nègre.( 45) Hai ngày
sau, 3/2, đúng ngày Tết, Giáp cho lệnh pháo kích
phi trường Điện Biên. 2 máy bay thám
thính Morane bị hư hại.( 46)
45.
Fall, Hell, 1968:78; Giáp , Điện Biên Phủ,
2001:147-148.
46.
Giáp , Điện Biên Phủ, 2001:134-135.
D. CÁC MẶT TRẬN HỖ TRỢ:
Trong thời gian
chuẩn bị đánh Điện Biên, các đơn vị Việt Minh được
lệnh mở những cuộc tấn công khắp nơi để tạo rối
loạn và khiến Navarre không thể tập trung các cánh
quân chủ lực mạnh, hay b́nh yên lo kế hoạch b́nh
định ở miền Nam vĩ tuyến 18.
1. Cao
nguyên Trung Việt [Tây Nguyên]:
Tài liệu CSVN ghi
chiến dịch “Bắc Tây Nguyên” kéo dài từ ngày
26/11/1953 tới ngày 18/2/1954, do Liên Khu V của
Nguyễn Chánh, Tư lệnh kiêm Bí thư, chỉ huy. Lực
lượng tham chiến có 2 trung đoàn 108 và 803. Thoạt
tiên, các đơn vị VM tấn công cùng một lúc ba cứ
điểm: Măng Đen, Kong Pray và Măng Bút. Sau đó,
Chánh cho Trung đoàn 108 đánh lên phía Bắc chiếm
Dakto. Trung đoàn 803 xuống phía Nam, uy hiếp thị
xă Kontum.
Thời gian này,
Navarre cũng quyết tiến vào Liên Khu V, vùng bất
khả xâm phạm của Việt Minh từ năm 1945. Ngày
12/12, Navarre ra chỉ thị chuẩn bị cuộc hành quân
Atlante. Chiến dịch này chia làm ba giai đoạn.
Giai đoạn thứ nhất chiếm Tuy Ḥa-Phú Yên. Giai
đoạn thứ hai chiếm Qui Nhơn-Bồng Sơn. Giai đoạn
thứ ba nối liền Bồng Sơn với Quảng Nam. Tướng
LeBlanc, Tư lệnh Trung Việt, được giao Chỉ huy.
LeBlanc sử dụng 22 tiểu đoàn Bộ binh và Dù trong
các GM 10 (Bắc Phi), GM 41, 42 và GM 100 mới ở
Triều Tiên về.
Ngày 20/1/1954,
15 tiểu đoàn Pháp đổ bộ xuống Nam Phú Yên Tuy Ḥa.
Nguyễn Chánh được lệnh tiếp tục chiến dịch “Tây
nguyên,” không đưa quân chủ lực trở lại bảo vệ
đồng bằng. Ngày 28/1, Việt Minh tấn công Pleiku.
Navarre ra lệnh đ́nh chỉ cuộc hành quân ở đồng
bằng Liên Khu V. Rút GM 100 và hai tiểu đoàn Dù ra
khỏi cuộc hành quân Atlante, cùng với hai GM 11 và
21 lên Cao nguyên, thành lập hai cứ điểm mạnh ở An
Khê và Pleiku.( 47)
47.Tấn
1994:302-303.
Ngày 5/2,
Việt Minh chiếm Kontum. Tiến sát đến đường 19.
Nhiều đồn bót rút chạy trước khi quân Việt Minh
tới nơi.
Ngày 12/3,
Navarre cho đổ bộ lên Qui Nhơn. Nhưng hai ngày
sau, 14/3, Binh đoàn lưu động 100 bị phục kích
trên đường 13 [19], từ Qui Nhơn lên Pleiku. Ngày
22/3, Binh đoàn 100 bị tấn công ở Pleijring Pleiku.
2. Trung Lào:
Ngày 21/12/1953,
hai tiểu đoàn của đại đoàn 325 tấn công Khăm He.
Hôm sau, 22/12, Pháp rút chạy khỏi Ba-na-phào. Một
đại đội của Trung đoàn 66/304 đuổi theo đến Ba
Cuội, tấn công. Bắt được 600 tù binh.( 48)
48. Tấn 1994:293.
Liên quân
Việt Minh và Pathet Lào tiến tới Thà Khẹt và truy
kích địch tới đường 9. Pháp phải co về Seno (Xê
Nô), gần Savanakhet. Ngày 25/12, Việt Minh chiếm
Thà Khẹt trên bờ sông Cửu Long, đối diện với Thái
Lan, khoảng 400 cây số Nam thủ đô Vientiane. Một
số vị trí trên đường 9 phải rút. Pathet Lào-Việt
Minh kiểm soát một vùng rộng từ Sầm Nưa tới đường
9, từ Trường Sơn chạy về hướng Tây tới sông Cửu
Long. Đường số 13 dài theo sông Cửu Long bị cắt
đứt.
Navarre phải rút
bốn tiểu đoàn cơ động khỏi đồng bằng Bắc Việt và
một tiểu đoàn ở miền Nam qua thiết lập cứ điểm
Seno. Chủ Nhật, 27/12, Navarre và Dejean viếng
thăm Savanakhet. Một binh đoàn mới, GM 7, được ném
xuống đây, trấn giữ Seno.
3. Hạ Lào:
Việt Minh tổ
chức tiểu đoàn (+) 436/101/325, trang bị tiểu liên
K-50 và trung liên, tấn công xuống Hạ Lào. Xuất
phát từ phía Tây Nghệ-Tĩnh đơn vị này vượt rừng
núi tấn công Attopeu gần ngă ba biên giới
Việt-Miên-Lào. Trong hai ngày 30-31/12/1953, đơn
vị này chiếm Attopeu. Thừa thắng, chiếm vùng cao
nguyên Boloven thuộc tỉnh Saravan (phía Tây
Kontum). Sau đó tiến công Pakse, và tiến vào cao
nguyên Boloven chặn đánh tàn quân từ Attopeu. Rồi
tiến đến Saravan, nơi Pháp vừa thiết lập một cứ
điểm mới.( 49)
49.
Tấn 1994:294-300; Giáp, ĐBP, 1994:101.
4. Thượng Lào:
Ngày 3/12/1953,
như đă lược nhắc, Pháp hành quân từ Điện Biên
xuống, và Luang Prabang lên, hợp điểm ở Sop Nao,
hy vong tạo thành một hành lang chiến lược nối
liền Điện Biên với Luang Prabang, dọc theo sông
Nậm U.
Ngày 26/1/1954,
v́ thiếu lương thực, Đại đoàn 308 kéo sang Thượng
Lào đánh Nậm U. Ba ngày sau, 29/1, tới Sôp Nao.
Trong bốn ngày 29/1-1/2, 308 đánh ép Pháp rút khỏi
Mường Khoa, Mường Ng̣i và Nậm Bạc. Trung đoàn
102/308 tiêu diệt được tàn quân rút chạy từ Mường
Khoa. Ngày 2/2, hai trung đoàn 36 và 88/308 tới bờ
sông Mekong, cách Luang Prabang khoảng 7 cây số.
Thủ tướng Souvana Phouma kêu gọi các cường quốc
giúp bảo vệ độc lập của Lào. Ngày 5/2 [mồng 3 Tết]
truy quét tàn quân Pháp ở Nậm U. Hôm sau, 6/2,
Tiểu đoàn 89/36 vượt sông Nậm U, diệt đồn Bản Ca.
Đại đoàn chỉ c̣n cách Luang Prabang 10 cây số.
Navarre phải đổ quân trừ bị vào Luang Prabang.(
50)
50.
Tấn 1994:311ff; Giáp, Điện Biên Phủ, 1994:45, 100-105.
5. Lai Châu:
Ngày 6/12, Pháp
bắt đầu di tản thường dân khỏi Lai Châu. Một số về
Hà Nội; số khác xuống Điện Biên Phủ. Đèo Văn Long
cùng gia đ́nh về Hà Nội. [Hoàn tất ngày 8/12/1953]
Riêng 23 đại đội Thái rải rác khắp lănh thổ Lai
Châu được lệnh di tản bằng đường bộ về Điện Biên.
Ngày 6/12 này, Đại
đoàn 316 đă có mặt ở Tuần Giáo. Ngày 7/12, Hoàng
Văn Thái cho lệnh 316 cắt bằng được con đường Lai
Châu-Điện Biên, không cho các đại đội Thái rút về
Điện Biên Phủ. Lê Quảng Ba-Chu Huy Mân sai một
tiểu đoàn lên Điện Biên, bám quân Thái ở vùng Him
Lam-Bản Tấu, không cho tiến ra ngoài hoạt động.
Một tiểu đoàn sang Lào, giúp Pathet Lào chiếm Sầm
Nưa, bảo vệ sườn cho đại đoàn. Một tiểu đoàn bảo
vệ Sơn La, Tuần Giáo. Hai Trung đoàn 174 và 98 làm
lực lượng chủ yếu tấn công các đơn vị Thái đang
triệt thoái.
Cánh chủ yếu
Việt Minh tới Tuần Giáo th́ rẽ tắt qua đèo Pa
Thông, cắt đường Lai Châu-Điện Biên ở Pu San-Mường
Phồn. Cánh thứ yếu có tiểu đoàn 439/98 tiến thẳng
lên Lai Châu. Ngày 10/12, tiểu đoàn 439/98 nương
đêm tối đánh đồn Pa Ham dưới chân đèo Cla Vô, cách
Lai Châu khoảng 30 cây số. 2 giờ sáng ngày 12/12,
tiểu đoàn 439 chiếm Lai Châu.( 51)
51.
Tấn 1994:289-291.
Ngày
11/12, de Castries đă sai Chiến đoàn [GAP] 2 tiến
lên hướng đèo Pu San phía Bắc Điện Biên đón các
đơn vị từ Lai Châu chạy về. Bị Trung đoàn 98/316
bố trí trên đỉnh núi Pu San cùng 1 tiểu đoàn của
trung đoàn 176/316 chặn đánh tại Bản Tấu, cách
Mương Thanh 16 cây số. Giao tranh kéo dài suốt hai
ngày 11-12/12. Khi tới Pu San, chiến đoàn GAP 2
không thể tiến lên được Mương Pồn, cách đó chỉ 4
cây số, nơi ba đại đội biệt kích Thái đang chờ
đợi. Ngày 12/12, cánh quân tiền tiêu của Trung
đoàn 174/316 phát hiện đoàn quân di tản từ Lai
Châu tại Mường Muôn-Mường Pồn. Ngày 13/12, bao vây
và tấn công ba đại đội Thái tại Mường Pồn.
Các đơn vị khác
cũng bị Đại đoàn 316 truy kích, tiêu diệt và bắt
giữ. Trong số 2,101 người rời Lai Châu ngày 9/12,
chỉ c̣n lại 175 binh sĩ Thái và 10 người Pháp về
tới Điện Biên ngày 22/12/1953.( 52)
52.
Tấn 1994:291.
6. Đồng bằng Bắc
Việt:
Đại đoàn 320 cùng
các đơn vị Liên Khu III cũng hoạt động mạnh.
Tháng 1/1954, Đại
đoàn 320 tấn công hệ thống pḥng thủ sông Đáy,
đánh thông tuyến liên lạc từ Thanh Liêm (Hà Nam),
Ư Yên (Nam Định) với Khu III. Hầu hết các trục
giao thông thủy bộ đều bị đánh phá.
Du kích c̣n tấn
công, phá hoại các phi trường Cát Bi, Gia Lâm.
Quốc lộ 5 nối liền Hà Nội-Hải Pḥng bị đặt ḿn,
đào xới. Chủ Nhật, 31/1, chuyến tàu chở binh sĩ
tăng viện từ Hải Pḥng lên bị trúng ḿn tại Phạm
Xá, cách Hải Dương khoảng 20 cây số. 15 chết; 25
bị thương. VM c̣n đột nhập phi trường Đồ Sơn, phá
hủy 5 phi cơ DC-3. Ngày 4/3, Việt Minh đột kích
phi trường Gia Lâm. 11 phi cơ bị phá hủy. Ngày
7/3, Việt Minh đột kích Cát Bi. Theo tài liệu CS,
“38 chiếc phóng pháo kiểu B-26, 10 chiếc khu trục,
3 chiếc vận tải và 9 chiếc “bà già” bị phá hủy.(
53)
53. Sự kiện 1990:86.
Ngày
16/3, Navarre cho lệnh di tản các làng lân cận phi
trường Gia Lâm, Bạch Mai, Cát Bi Đồ Sơn để bảo vệ
an ninh. Thủ hiến Trí phản đối nhưng vô hiệu.
B́nh Trị Thiên,
t́nh h́nh cũng rộ lên.
E. GONO:
Mặc dù ngày
28/11/1953 t́nh báo Pháp phát hiện các đại đoàn
Việt Minh xuất hiện ở vùng Tây Bắc, Navarre vẫn
quyết thử lửa với Việt Minh. Navarre tin vào sự
yểm trợ hầu như không giới hạn của Mỹ về chiến phí
và phi cơ. Ngày 3/12, giữa lúc lời đề nghị thương
thuyết của Hồ Chí Minh đang gây xôn xao dư luận
thế giới, Navarre tăng viện cho Điện Biên, quyết
cố thủ lâu dài để ngăn chặn Việt Minh tiến qua
Thượng Lào. Chiến dịch Castor đổi tên thành Chiến
dịch Tây Bắc [GONO].
Ngày 4/12,
Cogny đưa tiểu đoàn 31 Công Binh vào Điện Biên,
xây dựng phi trường và các bunker. Ngày 25/12,
tổng số quân Pháp-Việt pḥng thủ Điện Biên lên tới
10 tiểu đoàn. Điện Biên được tổ chức thành ba phân
khu: Bắc, trung tâm, và Nam. Mỗi phân khu gồm
nhiều trung tâm pḥng thủ. Chung quanh 49 cứ điểm
và mỗi trung tâm đều có công sự hào chiến đấu, dây
thép gai dày từ 50 tới 70 mét và hệ thống ḿn đủ
loại. Ngoài hệ thống hỏa lực chung, mỗi cứ điểm có
hỏa lực riêng bố trí thành hệ thống liên hoàn chặt
chẽ. Mỗi cứ điểm, mỗi trung tâm vừa có thể độc lập
tác chiến, lại vừa có thể hỗ trợ cho nhau.(
54)
54.
2001:155. Tấn 1994:309. Xem phóng đồ các căn cứ và
trận đánh trong Giáp, 1994; Fall, Hell, 1968.
Ngày
15/1/1954, De Castries rải truyền đơn thách thức
Việt Minh nếu không tiến công là hèn nhát.( 55) Giáp và cố
vấn Trung Cộng không phản ứng, điều quân vào mặt
trận, đặc biệt là kéo pháo lên các cao địa. Măi tới ngày
31/1, sau khi thay đổi cách đánh từ biển người qua
giao thông hào, Giáp mới cho pháo kích phi trường
lần đầu tiên bằng sơn pháo 75 ly.
55.
Tấn 1994:310.
Đầu tháng 3/1954,
tại Điện Biên Pháp đă có tới 12 tiểu đoàn và 7 đại
đội, quân số 12,000. Mặc dù số quân đồn trú tương
đối nhỏ, chỉ khoảng 2% tổng số quân viễn chinh
Pháp tại Đông Dương, đây là lực lượng tinh binh,
tổng trừợ bị, quen cơ động chiến. Nhưng cơn ác
mộng của Pháp, vượt ngoài mức dự tính của Navarre
và Cogny, là mặt trận tiếp vận: Giáp và Đảng LĐVN
đă có khả năng vận động một số lượng nhân công
hàng trăm ngàn người, và nhất là Trung Cộng cung
cấp cho Việt Minh những đoàn công-voa nên có thể
di chuyển nhanh chóng từ biên giới Vân Nam tới
vùng mặt trận hàng ngàn tấn vật liệu và nhu yếu
phẩm, đặc biệt là những dàn pḥng không. Nhưng
vượt ngoài mức dự tưởng của Navarre và Cogny là
khả năng của Việt Minh đưa được pháo lên các cao
địa, và làm hầm che chở kiên cố để dấu súng đạn.
Trong khi đó, toa rập với thời tiết của Điện Biên,
cố vấn Trung Cộng và Giáp đă trở lại với chiến
thuật địa đạo ở Triều Tiên khiến giảm thiểu tầm
sát hại của phi pháo. Trọn hai tháng đầu của chiến
dịch, những cảnh tượng quen thuộc diễn ra hằng
ngày là Pháp dùng bộ binh, thiết giáp và bulldozer
lấp các giao thông hào, gài ḿn bẫy; đêm, đại đoàn
312 vừa tháo ḿn vừa đào hào, dưới những cơn pháo
khuấy rối của Pháp. Bi thảm hơn nữa là cảnh sống
trong các địa đạo của những người lính ngày thêm
ṃn mỏi v́ thiếu ăn, thiếu ngủ, thiếu cả nước
uống; ngày đêm bị ŕnh rập v́ pháo chùm, pháo trực
xạ, lúc nào cũng có thể bị bắn xẻ. Không kém khủng
hoảng là thứ xúc động và áp lực phải chứng kiến
cảnh thương binh không được di tản, thiếu thuốc
men, không có chỗ nằm dưỡng bệnh thoải mái, mà c̣n
bị chen chúc ngồi trong hầm sâu, bị thương không
chỉ một lần, chết cũng không chỉ một lần. Không
chỉ có các binh sĩ Thái hay Việt ră ngũ, đào ngũ.
Lính Bắc Phi, Lê Dương cũng mất hết tinh thần lính
đánh thuê nhà nghềạ. Ngay đến Nhảy Dù Pháp cũng
mất dần sự kiêu ngạo của những ngày xưa cũ. Họ
tiếp tục chiến đấu bằng tất cả sự anh dũng có thể
có, nhưng không thể thay thế những h́nh hài thương
tật, bệnh hoạn.
IV. MẮT
BĂO:
Thứ Bảy, 13/3, sau ba tháng
vây hăm, Việt Minh bắt đầu tấn công. Cuộc tấn công
này chia làm 3 đợt chính. Đợt 1, từ 13 tới
28/3/1954, nhằm tiêu diệt các căn cứ trọng điểm
phía Bắc thung lũng Điện Biên. Đợt 2, từ Thứ Ba
30/3 tới 28/4, khởi đầu bằng cuộc tấn công đồng
loạt tuyến pḥng ngự phía Đông, rồi phát triển
thành trận chiến địa hào, xen lấn dần vào khu
trung tâm, cắt đứt đường không vận bằng các cuộc
tấn công từ hướng Tây và trận địa pháo. Trung đoàn
57/304 cũng lấn áp dần vào căn cứ Isabelle [Hồng
Cúm] ở phía Nam, và tăng cường chốt chặn không cho
Điện Biên bắt tay với lực lượng Pháp ở Thượng Lào.
Giai đoạn thứ ba, từ Thứ Bảy 1/5 tới 7/5/1954 là
đợt dứt điểm để chào mừng phiên họp đầu tiên của
Hội nghị Geneva về Đông Dương (8/5/1954).
A. ĐỢT
1 (13-28/3/1954):
Mục tiêu chính
của đợt này là các tiền đồn phía Bắc thung lũng:
Béatrice (Him Lam), Gabrielle (Độc Lập) và
Anne-Marie (Ban Kéo).( 56)
56.
Fall, Hell, 1968:134-171; Tấn 1994:333-357; Giáp, Điện
Biên Phủ, 1994; Giáp, Điện Biên Phủ, 2001:200,
202-237.
Hai đại đoàn
308 và 312 có nhiệm vụ tác chiến. Đại đoàn
308, tức Đại đoàn Tiên Phong hay Đại đoàn
Thép, do Vương Thừa Vũ làm Tư lệnh kiêm Chính
ủy; Phó Tư lệnh là Cao Văn Khánh. Gồm ba Trung
đoàn 36, 88, 102. Đại đoàn 312 do Lê Trọng Tấn
làm Tư lệnh, Trần Độ làm Chính ủy. Gồm ba
Trung đoàn 141, 165, 209. Được tăng cường Tiểu
đoàn 154 pháo. Trung đoàn 57/304 có nhiệm vụ
kềm chế pháo
ở
Isabelle.
Đại
đoàn
316 đánh nghi binh ở một số cứ điểm Đông.
a.
Béatrice
[Him Lam]:
Căn cứ hỏa lực
Béatrice (Him Lam) là cứ điểm mạnh nhất của Điện
Biên. Cách Mường Thanh 2.5 cây số, án ngữ đường 41
từ Tuần Giáo tới Điện Biên, Béatrice có 3 mỏm, làm
thành 3 đồn có thể chiến đấu độc lập và yểm trợ
lẫn nhau. Băi ḿn và dây thép gai dày từ 100 tới
200 mét.
Béatrice do
Tiểu đoàn 3 Bán Liên đoàn Lê dương 13 [3/13 DBLE]
trấn giữ. Từ ngày 11/3, căn cứ nằm về Đông Bắc tập
đoàn cứ điểm Điện Biên này đă bị vây hăm chặt chẽ
đến độ phải nhờ thiết giáp mở đường lấy nước uống
từ dưới sông Nam Yum. Sáng ngày 13/3, Tiểu đoàn 2
Thái của Thiếu tá Jean Chenel chỉ có thể tiến lên
được Béatrice sau khi phi cơ thả bom napalm dọc
theo trục tiến quân.( 57)
57.
Fall, Hell, 1968:134. Fall có lẽ đă tham khảo báo cáo
hàng ngày của pḥng 3 Bộ Tư lệnh Bắc Việt mà chúng tôi
có trong tay.
Ngày này,
phi trường cũng bị đóng cửa từ 16G00 sau khi một
phi cơ C-119, một phi cơ C-46, hai phi cơ C-47 và
một khu trục bị trúng pháo khi cất hay hạ cánh.
Lực lượng VM sử
dụng là Trung đoàn 141/312, với Trung đoàn 209/312
phụ lực. Trận đánh khởi đầu bằng những đợt pháo
kích của VM từ 17G10 [17G15, theo tài liệu Pháp]
trên toàn bộ các vị trí trong căn cứ. Các loại
pháo 105, 85 và 75 ly bắn vào Bộ Tư lệnh, vị trí
pháo, và hai tiền đồn Béatrice và Isabelle. 17 phi
vụ B-26 và khu trục can thiệp từ 17G00.
Từ phía Đông, hai
trung đoàn 141/312 và 209/312 vượt sông hướng về
Béatrice. Khoảng 17G00 ngày 13/3, Trung đoàn 141
có mặt tại sát đồn. Khoảng18G25, Trung đoàn 209
tới vị trí.
Lúc 18G15 Việt
Minh bắt đầu tấn công. 15 phút sau có tin Chỉ huy
trưởng và Chỉ huy phó đồn tử trận. 20G00, hai
trung đoàn 141/312 và 209/312 đồng loạt tấn công
Béatrice. Nửa giờ sau, tiền đồn Đông Bắc Béatrice
(TĐ 10) mất liên lạc. Mười phút sau nữa, lúc
20G40, đến tiền đồn Tây Bắc Béatrice (TĐ 11).
Trong khi đó,
lúc 19G50, Bộ chỉ huy Chiến đoàn lưu động [GM] 9
bị trúng pháo. Hai sĩ quan chết, kể cả Trung tá
Gaucher, Chỉ huy trưởng Phân khu trung tâm, và 2
bị thương.( 58)
58. Theo
Tấn, Trung tá Chỉ huy trưởng cùng toàn Ban tham mưu
cũng tử thương trong đợt pháo đầu; 1994:343.
Khoảng
23G00, Đại đội 9/3 Lê dương tái tổ chức pḥng thủ
quanh Bộ Chỉ huy Béatrice. Không c̣n một sĩ quan
nào, chỉ có Hạ sĩ quan. Nửa giờ sau, lúc 23G30,
Béatrice bị tràn ngập. Lúc 00G15, Đại đội 9/3 mất
liên lạc. Chỉ c̣n 50 quân nhân Lê Dương chạy thoát
qua đồn Dominique.( 59)
59.
Theo Tấn, chiếm Béatrice lúc 11G30 ngày 13/3;
1994:350.
Suốt thời
gian này, căn cứ Gabrielle cũng bị Đại đoàn 304
tấn công liên tục vào lúc 22G50, 1G45, 4G40 và
5G10 [ngày 14/3/1954].
Lúc 8G45 ngày Chủ
Nhật, 14/3, Việt Minh gửi một sĩ quan Pháp bị
thương mang theo một tờ giấy đề nghị ngưng bắn
[une trève] cho tới 12G00 để thu dọn người chết và
di tản thương binh. De Castries chấp thuận. Trưa
đó, lúc 12G45, Hà Nội được tin Bộ Chỉ huy căn cứ
Điện Biên vẫn giữ liên lạc với hai tiền đồn
Gabrielle ở phía Bắc và Isabelle ở phía Nam. Phía
Tây căn cứ Huguette (hệ thống bảo vệ sân bay Mương
Thanh) trinh sát t́m thấy công sự chiến đấu. Tại
Isabelle, tiền thám phát hiện Việt Minh ở phía
Đông.
Buổi chiều, De
Castries cho tái chiếm Béatrice nhưng không thành
công. Một tiểu đoàn Dù được thả xuống tăng viện.
Pḥng không 37 ly của VM dày đặc ở hướng Bắc và
Đông Bắc trong khi trận địa pháo Việt Minh tiếp
tục khuấy rối phi đạo, vị trí pháo binh và Bộ Tư
lệnh.
b. Gabrielle (Độc
Lập):
Gabrielle [Độc
Lập], nằm trên một quả đồi dài 700 mét, rộng 150
mét, cách Mường Thanh 4 cây số, do tiểu đoàn 5/7
Bắc Phi (5/7 RTA) trấn giữ. Được tăng cường 4 cối
120 ly, ngăn chặn hướng từ Lai Châu xuống Điện
Biên.
Vương Thừa Vũ chỉ
huy trận đánh này. Chỉ huy phó là Cao Văn Khánh
(phó 308) và Đàm Quang Trung (phó 312). Trung đoàn
165/312 chủ yếu, Trung đoàn 88/308 có nhiệm vụ
tiến công tiêu diệt và chiếm lĩnh. Trung đoàn
165/312 đánh hướng Đông Bắc. Trung đoàn 88/308,
thứ yếu, đánh hướng Đông Nam.
18G00 ngày 14/3,
Việt Minh đă vây kín Gabrielle. 23G30, trận chiến
mở màn. Quân đồn trú đẩy lui được đợt tấn công đầu
tiên. 3G30 ngày 15/3, VM mở đợt tấn công thứ hai
từ hướng Đông. Các căn cứ Eliane 2 (A1), Dominique
và Claudine ở phía Nam cũng bị đánh. Isabelle bị
pháo và khuấy nhiễu để không thể yểm trợ hỏa lực.
5G30 ngày 15/3,
một phần căn cứ Gabrielle thất thủ. Pháp tung toàn
lực phản công. Sử dụng cả chiến xa tăng viện.
Nhưng bị đẩy lui. Pháo binh Pháp bị thiệt hại
nặng. Hai Thiếu tá Pháp bị thương và bắt sống. Một
giờ sau, Việt Minh chiếm hoàn toàn Gabrielle.( 60) Chỉ có 14
sĩ quan và 150 binh sĩ sống sót chạy thoát. Pháp ước lượng
1500 VM bỏ xác tại hàng rào kẽm gai. Các tiền đồn
khác, tổng cộng 14 chết, 100 bị thương.
60.
Tài liệu Pháp ghi thất thủ lúc 9G45 ngày 15/3/1954;
Tấn, 1994:352.
c. Anne-Marie
[Bản Kéo]
Anne-Marie [Bản
Kéo] nằm trên một ngọn đồi phía Tây Bắc sân bay,
cách khu trung tâm 2 cây số. Do tiểu đoàn 3
Thái án ngữ. Ngày 16/3, một đại đội của Tiểu đoàn
3 Thái đột ngột ră ngũ, rút khỏi một tiền đồn
ngoài căn cứ. Trong ngày, binh sĩ TĐ 3 Thái tiếp
tục rời vị trí. Chẳng hiểu do ảnh hưởng của kế
hoạch địch vận của Việt Minh hay đă quá mỏi mệt,
sợ hăi.( 61)
61.
Lê Trọng Tấn ghi là ngày 17/3/1954; Tấn 1994:353.
Ngày 16/3
này, thời tiết tốt hơn, cho phép Pháp thu được tất
cả số dù tiếp tế. Việc thả Tiểu đoàn 6 Dù hoàn tất
lúc 16G00. Ngoài ra, Điện Biên nhận thêm được hai
khẩu 105 ly. Nhưng Trung tá Piroth, Chỉ huy trưởng
Pháo binh, tự tử v́ chẳng biết cách nào phản pháo
Việt Minh.
Một trực thăng di
tản thương binh không bị bắn. 1 Dakota chở thương
binh rời Điện Biên Phủ. Một trực thăng được sửa
chữa, bay về Luang Prabang. VM đề nghị phóng thích
60 thương binh Tiểu đoàn 5/7 RTA.
Ngày 18/3,
Castries cải tổ lại hệ thống pḥng thủ. Căn cứ
Huguette bắt đầu cai quản thêm hai đồn phía Nam
Anne-Marie. Lập thêm một căn cứ nhỏ giữa Huguette
6 và Dominique 1, giao cho TĐ 2 Thái pḥng thủ.
Trong căn cứ Dominique đặt thêm một đồn, giao cho
hai đại đội của TĐ 5 Dù VN phụ trách. Hai đại đội
khác của TĐ 5 Dù giữ một đồn khác trong căn cứ
Eliane.
Ngày 19/3, tiếp
tục thả thêm binh sĩ tiểu đoàn 5 Dù.
VM bắn vào phi cơ
tải thương. Pháp di tản được 132 thương binh bằng
một phi vụ Dakota và 4 trực thăng. Trong đêm 19
rạng 20/3, thêm 5 phi vụ Dakota tải thương được
hoàn tất.
Kết quả sơ khởi từ
ngày 13 tới 19/3/1954, tổng số thiệt hại của Pháp
như sau: Chết: 6 SQ, 15 HSQ, và 93 binh. Bị
thương: 9 SQ, 30 HSQ, 255 binh. Mất tích: 11 SQ,
31 HSQ, 517 binh. Đó là chưa kể TĐ V/7 RTA và TĐ 3
Thái.
Số thiệt hại của
Việt Minh khá nặng (tài liệu CS rất ít khi đưa ra
số thương vong). Ngược lại, theo cố vấn của Bắc
Kinh, cơ quan tuyên truyền Việt Minh không những
chỉ nâng cao số thương vong và thiệt hại của Pháp
mà c̣n tung ra huyền thoại người hùng Điện Biên,
như lấy người chặn pháo, hay chặt tay xông vào mục
tiêu sau khi đă bị thương. Lời khai của các tù
binh Viêt Minh phủ nhận những huyền thoại này.
Trong số đoàn người gọi là “bầy chuột sông Nậm
Rốm,” tức binh sĩ lạc ngũ, bỏ đơn vị không chỉ có
lính Pháp, Lê dương, Bắc Phi, QGVN, mà c̣n không
ít bộ đội cụ Hồ.
Từ ngày 19/3,
cường độ giao tranh lắng xuống. Vơ Nguyên Giáp và
các cố vấn Trung Cộng đẩy mạnh công tác đào hào
lấn dần tới các vị trí pḥng thủ của Pháp. Bắc
Kinh gửi cố vấn có kinh nghiệm về giao thông hào ở
Triều Tiên qua giúp. Cố vấn Trung Cộng và Giáp
cũng quyết hạn chế dần việc sử dụng phi trường
Mương Thanh và Isabelle, bằng pḥng không, trận
địa pháo và nhất là t́m cách đặt chất nổ cắt phi
đạo làm nhiều đoạn. Ngày 24/3, việc di tản thương
binh bằng trực thăng phải tạm hoăn. Ngày 27/3, phi
cơ không c̣n hạ cánh được xuống phi trường. Hôm
sau, Chủ Nhật, 28/3, phi trường Điện Biên ngưng
hoạt động v́ pháo VM khống chế.
Ngày 28/3,
Chiến đoàn GAP 2 chạm súng nặng với Việt Minh khi
từ Isabelle tiến lên Khu trung tâm. Theo tài liệu
Pháp, Pháp chết 20 (2SQ), bị thương 85 (5 SQ).
Việt Minh chết 400 và khoảng 1000 bị thương được
đồng đội mang đi. Pháp bắt 20 tù binh, thu hơn 100
vũ khí đủ loại.( 62)
62.
SHAT (Vincennes), 10H 179.
Thời
gian này, chính phủ Laniel cử Tướng Paul Ely, Tổng
Tham Mưu trưởng Pháp, qua Mỹ xin cầu viện từ ngày
20/3 tới 25/3/1954. Trong những buổi thảo luận, Đô
đốc Radford đề cập đến kế hoạch Vulture (Chim Ưng)
để yểm trợ không lực cho Pháp tại Điện Biên.(
63)
63.
Fall, Hell, 1968:297-314; The Pentagon Papers
(Gravel) 1971, I:97-104, 455-479.
B.
TẤN CÔNG ĐỢT THỨ HAI [30/3-29/4/1954].
Trong khi đó,
Vi Quốc Thanh và Giáp đang chuẩn bị tấn công đợt
hai. Cả 5 đại đoàn sẽ cùng tấn công trong đợt này.
Mục tiêu chính là chiếm cao điểm Dominique 1 (E),
Dominique 2 (D1) thuộc căn cứ Dominique; Eliane 1
(C1), Eliane 4 (C2), Eliane 2 (A1) thuộc căn cứ
Eliane ở phía Đông. Ngày 27/3, Giáp triệu tập Hội
nghị về nhiệm vụ tác chiến đợt 2 tại Mương Phăng.
Đại đoàn 312 có nhiệm vụ tiêu diệt Dominique 1
(E), Dominique 2 (D1), Dominique 3 (D2), và thọc
sâu vào Dominique 6 (căn cứ pháo binh). Đồng thời,
tiêu hao lực lượng cơ động Pháp, tức Tiểu đoàn 5
và 6 Dù. Đại đoàn 308 kềm chế pháo ở cánh phía Tây
Mương Thanh, giả vờ tấn công Hueguette 7 (cứ điểm
106) và FrancỄoise (311) nằm trong cụm căn cứ
Huguette bảo vệ sân bay. Trung đoàn 57/304, cùng
tiểu đoàn 888/176 của Đại đoàn 316 kềm chế
Isabelle (Hồng Cúm) ở phía Nam. Về lực lượng bộ
binh, Thanh và Giáp dùng 18 tiểu đoàn Việt Minh
chống 5 tiểu đoàn (tỉ lệ 3.6:1).( 64)
64.
Giáp, Điện Biên Phủ, 2001:255-262.
Những ngày cuối
tháng 3/1954, thời tiết thật xấu. Mưa gió tầm tă.
Phi cơ tiếp tế phải quay trở lại Hà Nội. Ngày
29/3, Pháp khám phá ra những nỗ lực đào hầm của
Việt Minh lấn sâu vào hàng kẽm gai của các căn cứ
Huguette 7, Dominique 2, Eliane 1 và 2. Pháp sử
dụng bulldozer và tăng phụ giúp bộ binh lấp lại
các địa đạo này.
B́nh minh ngày
29/3, dân chúng làng Bản Kéo và Nan Long Tong (Tây
Bắc Huguette 7) nhận lệnh di tản. Pháo Việt Minh
gia tăng mức khuấy rối và phá hoại tất cả các căn
cứ. Nặng nhất là Huguette 7.
Chiều
ngày 30/3, Việt Minh pháo kích Isabelle và xâm
nhập Dominique 4 cùng Eliane 2 (A1). Lúc 18G45, VM
đồng loạt tấn công các căn cứ phía Đông.
Eliane 1
(C1):
Đại đoàn 316 (-)
[Trung đoàn 174 của Nguyễn Hữu An, và 98 của Vũ
Lăng] đánh Eliane 2 (A1) và Eliane 1 (C1).
Trung
đoàn 98 chiếm được Eliane 1 (C-1) trong ṿng 45
phút. Loại khỏi ṿng chiến Đại đội của TĐ 1/4
Maroc. Tuy nhiên, khi đánh xuống Eliane 4 (C2)
không thành công.( 65)
65.
Giáp, Điện Biên Phủ, 2001:263-269. Pháp ghi Eliane 1
thất thủ lúc 19G30; EMIFT Fiche số 134, ngày
30/3/1954, 10H 179
Eliane 2
(A1):
Trung đoàn
174/316 của Nguyễn Hữu An chịu trách nhiệm đánh
Eliane 2 (A1). An bị mất liên lạc với Đại đoàn từ
giờ khởi sự. Lính Maroc và 1 Lê dương Dù dưới
quyền Nicolas chống cự quyết liệt. An tung thêm
tiểu đoàn 255/174 vào trận, nhưng bị pháo Pháp bắn
dữ dội, thương vong rất nhiều. Quá nửa đêm, chưa
dứt điểm. Mỗi bên giữ nửa quả đồi.( 66)
66.
Giáp, Điện Biên Phủ, 2001:265-267.
Dominique:
Phía Đông Điện
Biên, các cứ điểm Dominique do Tiểu đoàn 3/3 RTA,
một pháo đội 105 ly, và một đại đội Thái giữ. Đại
đoàn 312 trách nhiệm nhổ các căn cứ này.
Tại Dominique 1
(E), trận đánh xảy ra khi đang có sự hoán chuyển
giữa một đại đội của TĐ 3 Algérie, với một đại đội
TĐ 5 Dù. 19G45, thất thủ. Dominique 2 (D1), trận
đánh kéo dài 1 giờ. Đại úy TĐT 3 Algérie
(Garandeau) chết v́ pháo. 20G00, Hoàng Cầm báo cáo
chiếm được mục tiêu.( 67)
67.
EMIFT Fiche số 135, ngày 30/3/1954, 10H 179; Giáp,
Điện Biên Phủ, 2001:264-265.
Dominique
3 (D2):
Thừa
thắng, Tấn cho tiểu đoàn 130, dự bị của Trung đoàn
209, đánh xuống Dominique 3 (D-2).
Giáp quyết định
giao cho Vương Thừa Vũ chỉ huy cuộc tấn công A1 và
C1 trong ngày. Trung đoàn 102/308 được điều từ
phía Tây thung lũng qua hướng Đông tăng viện.
Trung đoàn 36 và 88/308 thực sự tấn công các cứ
điểm 106 và 311 ở phía Tây; Trung đoàn 165/312
đánh cứ điểm Huguette 6 (105) ở phía Bắc phi đạo.(
68)
68.
Giáp, Điện Biên Phủ, 2001:269.
Huguette:
Tại phía Tây,
lúc 20G00, Việt Minh tấn công Huguette 7. Tiểu
đoàn Thái số 2[3?] tan hàng. Một pháo đội 105 bị
thiêu hủy. Hai khẩu đội 155 ly cũng bị hư.(
69)
69.
EMIFT Fiche số 135, ngày 30/3/1954, 10H 179.
Tổng
kết sơ khởi, theo Castries, ba căn cứ Dominique 1,
2 và 6 thất thủ. Eliane 1 thất thủ. Eliane 2 đang
giằng co.
Tại hướng Tây,
chiến đấu tiếp tục trong căn cứ Huguette 7 (do 1
đại đội TĐ 5 Dù Việt Nam, dưới quyền Đại túy
Bizard chỉ huy, tử thủ). Nhờ thời tiết tốt phi cơ
có thể can thiệp. Trong đêm 30/3 rạng 31/3, VM đột
nhập Huguette 6 (105) và 1. Isabelle bị pháo kích,
mất liên lạc. De Castries lại xin tăng viện.(
70)
70.
Fall, Hell, 1968:208; EMIFT Fiche số 136, ngày
31/3/1954, 10H 179.
Ngày Thứ Tư, 31/3,
Navarre bay ra Hà Nội. Cogny không ra phi trường
đón. Măi tới 7G45 mới gặp nhau, hai bên căi vă dữ
dội. Dự định thả ba tiểu đoàn 2/1 Dù, tiểu đoàn 1
Dù thuộc địa, và tiểu đoàn 2 Lê dương không thực
hiện được v́ pḥng không Việt Minh dày đặc.
Tại
Điện Biên, VM đột nhập giữa các căn cứ Epervier 4
và Dominique 3, Dominique 3 và 5. Bị đẩy lui lúc
8G00.
Lúc 04G00, De
Castries cho điều một tiểu đoàn của GAP 2, phối
hợp với thiết giáp, từ Isabelle lên tăng viện;
nhưng bị Trung đoàn 57/304 chặn đường. Thiệt hại
nặng. Pháp ước lượng 1000 VM chết.( 71)
71.
EMIFT Fiche số 137, 138 ngày 31/3/1954, 10H 179.
Tại tuyến
Đông, Begeard cho lệnh TĐ 8 Dù tiến lên giải tỏa
Dominique 2 (D1), và tái chiếm được gần hết đỉnh
cao này. Nhưng Việt Minh tung thêm quân, đánh sáp
lá cà dữ dội. Cuối cùng, TĐ 8 Dù phải triệt thoái
lúc 15G30. Căn cứ Dominique 5 (D3) do một đại đội
Thái trấn giữ cũng phải rút bỏ. Đích thân Begeard
chỉ huy Tiểu đoàn 6 và một bộ phận TĐ 5 Dù tiến về
Eliane 1 (C1). Hai đại đội của Trung đoàn 102/308
và Trung đoàn 98/312 chống giữ mănh liệt. Lúc
18G00, Begeard phải rút lui, để lại trận địa gần
100 xác chết.( 72)
72.
Giáp, Điện Biên Phủ, 2001:272-273; EMIFT Fiche số 142,
ngày 31/3/1954, 10H 179.
Tại
Eliane 2 (A1), lúc 8G00, Pháp tái chiếm căn cứ
này. Thiết giáp thanh toán chiến trườợng.
Trưa ngày 31/3,
Trung đoàn 102/308 của Hùng Sinh bàn giao với
174/316. Tuy nhiên, mới chỉ có 4 đại đội của hai
TĐ 54/102 và 18/102 tới kịp mặt trận.
Lúc 18G15 ngày
31/3, Trung đoàn 102/308 lại bắt đầu tấn công
Eliane 2 (A1), nhưng vẫn thất bại. Lực lượng Lê
dương Dù chống trả mănh liệt. Cận chiến diễn ra
trong từng giao thông hào. Những đợt tấn công biển
người của Hùng Sinh đều bị hỏa lức từ hầm chỉ huy
kiên cố của Eliane 2 đẩy lui. 300 VM tử trận. Lúc
22G45, Trung đoàn 102/308 mở đợt tấn công mới lên
Eliane 2 (A1), trong khi Isabelle bị pháo kích và
khuấy rối.( 73)
73.
EMIFT Fiche số 142, ngày 31/3/1954, & số 143,
ngày 1/4/1954, 10H 179; Giáp, Điện Biên Phủ,
2001:274-275; Fall, Hell, 1968:208.
Ngày Thứ Năm, 1/4,
Pháp đưa tăng viện tùng thiết lên giải tỏa Eliane
2 (A1). Giao tranh diễn ra ác liệt. Một đại đội
của TĐ 6 Dù (BPC), và binh sĩ sống sót của Tiểu
đoàn 1 Lê dương Dù (BEP) dưới quyền Lucciani chiếm
lại một cối 120 ly và cải thiện vị trí pḥng thủ.
Pháp cũng tăng viện được cho đơn vị này một đội
súng phóng lửa. Lực lượng Việt Minh chỉ c̣n khoảng
50 người. Begeard điều tàn quân của Lê dương Dù
dưới quyền Trung úy Rancoule về Bộ chỉ huy Tiểu
đoàn tại Huguette.
Lúc 14G00, VM
gửi thêm tăng viện, và đặt pháo binh ở Eliane 1,
Dominique 1, 2, 6. Pháp c̣n 2 đại đội của Tiểu
đoàn 1 BEP, 1 đại đội của Tiểu đoàn 6 BPC. Begeard
cho lệnh các phần tử Tiểu đoàn 6 BPC và 5 Dù Việt
Nam tăng viện cho Eliane 4.( 75)
74.
EMIFT Fiche số 145, 146, 147 ngày 1/4/1954, 10H 179.
75.
2001:276-277; EMIFT Fiche số 147 ngày 1/4/1954, 10H
179.
Sáng Thứ
Tư, 2/4, Giáp chỉ thị Vương Thừa Vũ bàn giao
Eliane 2 (A-1) cho Trung đoàn 174/316, và chỉ giữ
một lực lượng nhỏ tử thủ căn cứ này.
Lực lượng Việt
Minh chỉ c̣n khoảng 50 người. Tàn binh của Tiểu
đoàn 1/ 4 RTM (Maroc) tập trung về căn cứ Junon.
Một phần của Tiểu đoàn 1 Nhảy Dù thuộc địa được
thả xuống Điện Biên. Nhiều binh sĩ phải bay trở
lại Hà Nội. (76) Sáng Thứ Tư,
2/4, t́nh h́nh thêm tồi tệ. Trên hướng Đông,
lúc1G00 ngày 2/4, VM lại tấn công Eliane 2 .
Tại mặt trận
phía Tây, lúc 22G00 ngày 31/3, Trung đoàn 36/308
chiếm được một góc Huguette 7 (cứ điểm 106) do một
đại đội vá víu những binh sĩ Lê dương, Việt và
Thái trấn giữ phía Tây Bắc phi trường.( 77)
76.
Giáp, Điện Biên Phủ, 2001:276-277.
Ngày 1/4, một
đại đội Lê dương Dù lên thay thế Đại đội 1/5 Dù.
Khoảng 22G00 ngày 1/4, một đơn vị của Đại đoàn 312
mở đợt tấn công khác vào Huguette 7. Lúc 23G30,
đại đoàn này c̣n tấn công vào Huguette 6 (cứ điểm
105), nắm sát phía Tây Bắc phi đạo. 1G00 sáng Thứ
Sáu, 2/4, Việt Minh lại tấn công Huguette 6 và 7.
Trận đánh tại Huguette 7 và 6 bùng nổ dữ dội lúc
4G00 sáng ngày 2/4. Thiếu tá ClemencỄon tập họp
được khoảng 100 binh sĩ Đại đội 1/5 Dù và Lê dương
kéo lên tăng viện cho Huguette 7. Nhờ có chiến xa
hộ tống, đơn vị này đến được Huguette 7 khi lực
lượng pḥng thủ chỉ c̣n Trung úy Spozio bị thương
nặng và 13 binh sĩ. 8G05 ngày 2/ 4, Langlais quyết
định rút khỏi Huguette 7. Huguette 6 bắt đầu phải
gánh chịu mũi tấn kích.( 78)
78. EMIFT
Fiche số 149 ngày 2/4/1954, 10H 179. [Trung đoàn
36/308 chiếm được Huguette 7 từ ngày 31/3?
(2001:276-277)]
Tại căn cứ
FrancỄoise (cứ điểm 311), nằm về phía Nam Huguette
7 và phía Tây Huguette một cây số, t́nh h́nh có
đột biến từ đêm 31 rạng ngày 1/4. Căn cứ này do
hai đại đội Thái trấn giữ, dưới quyền chỉ huy của
Chuẩn úy Cante. 14G00 ngày 1/4, các binh sĩ Thái
đột ngột ră ngũ. Hai đại đội của Tiểu đoàn 1/2 REI
kịp thời kéo lên, thu được các loại súng cộng
đồng, rồi kéo về Huguette. Trung tá Langlais rất
bất măn, quyết định tước khí giới binh sĩ Thái, và
muốn biến họ thành lao công chiến trường. Nhưng
hôm sau, 2/4, lính Thái kéo ra đầu hàng Trung đoàn
88/308. Một số khác gia nhập vào đạo binh ră ngũ
được mệnh danh là “bầy chuột sông Nậm Rốm” lên tới
khoảng 3,000-4000 người, sống lẩn khuất trong các
căn cứ và địa đạo bị bỏ hoang, mưu sinh bằng cách
trộm cắp các chuyến thả dù thực phẩm và buôn lậu.(
79)
79.
EMIFT Fiche số 151 ngày 2/4/1954, & số 157 ngày
3/4/1954; 10H 179. Theo Giáp, Trung đoàn 88/308 dụ
hàng được hai đại đội Thái bảo vệ cứ điểm (Huguette
F); Giáp, Điện Biên Phủ, 2001:276-277.
Chiều ngày 2/4,
Trung đoàn 165/312 bắt đầu đánh Huguette 6 (105)
do 100 Lê dương Dù trấn giữ, nhưng không chiếm
được hoàn toàn căn cứ này. Trận đánh kéo dài suốt
đêm. Langlais điều một đại đội Lê dương Dù và ba
thiết giáp kéo lên tăng viện. Sáng ngày 3/4, Việt
Minh phải rút về vị trí cũ với thiệt hại nặng v́
hỏa lực chiến xa.( 80)
80.
Fall ghi biến cố này xảy ra ngày 1/4/1954; Hell,
1968:208-209, 216-217.
Sáng Thứ Sáu, t́nh
h́nh Eliane 2 (A1) thêm tồi tệ. Tuy nhiên, sự can
thiệp của không quân Pháp, đặc biệt là những thảm
bom napalm từ phi cơ C-119, gây thiệt hại lớn cho
bộ binh cũng như các căn cứ pháo của Việt Minh tại
hai căn cứ cũ Dominique 1 và Eliane 1.
Trong đêm, Hà Nội
thả xuống Điện Biên được khoảng 100 lính TĐ 1 Dù
thuộc địa (RCP) tăng viện. Các đơn vị này thành
lập căn cứ mới mang tên Eliane 3.
Thứ Bảy, 3/4/1954,
t́nh h́nh Điện Biên thêm tồợi tệ. Mỗi tiểu đoàn
chỉ c̣n khoảng 300 quân nhân.( 81) Tăng viện
chỉ nhỏ giọt, không đủ bù cho số thương vong và
đào ngũ. Tinh
thần TĐ 2 Thái xuống thấp. 12 Lê dương tại
Huguette 6 đào ngũ.
81.
EMIFT Fiche số 157 ngày 3/4/1954, & 157 ngày
3/4/1954; 10H 179.
Lúc 19G00 ngày
3/4, Trung đoàn 165/312 tấn công Huguette 6 (cứ
điểm 105). Pháp phản công bằng chiến xa. Lúc
22G30, VM lại tấn công nhưng không thành công.(
82)
82. Giáp, Điện Biên
Phủ, 2001:276-277.
Trong đêm 3
rạng 4/ 4/1954, Điện Biên được tăng viện 305 quân
của Tiểu đoàn 1 Dù thuộc địa (RCP) của Thiếu tá
Bréchignac. Một số chuyên viên t́nh nguyện cũng
được thả vào thung lũng. T́nh h́nh mặt trận tạm
lắng dịu v́ Giáp cũng cần thời gian tái tiếp tế và
cho các đơn vị chuẩn bị đợt đánh mới. 3 đợt thả
không thành công v́ lư do kỹ thuật [c̣n 192 người
nữa]. Lực lượng tăng viện này được đưa vào hai căn
cứ tân lập Eliane 10 và D3. Trong đêm, hai căn cứ
Huguette 6 và Claudine 4 tiếp tục bị “sờ sẫm
[tâtés].”( 83)
83. EMIFT Fiche số
162 ngày 4/4/1954, & số 163 ngày 3/4/1954; 10H
179.
Lúc 9G00 sáng
ngày 4/4, Pháp khám phá ra vị trí súng không giật
của VM trí tại núi Trọc (hay Cháy [le mont
Chauve]). Pháo binh Pháp tiêu diệt được vị trí
này. T́m thấy 200 xác VM trướÔc căn cứ Huguette 6.
Không có phi cơ lên vùng.( 84)
84. EMIFT Fiche số
164 ngày 4/4/1954, & 165 ngày 4/4/1954; 10H 179.
Tối đó, lúc 22G00,
chạm súng ở Huguette 6 và Claudine 5. V́ thời tiết
xấu, chuyến thả dù đêm TĐ 1 Dù phải đ́nh hoăn.
Ngày 5/4/1954,
lúc 0G30, Huguette 1, 2 và 5 bị “sờ sẫm.” Đại đoàn
312 tấn công Huguette 6. Trận đánh kéo dài đến
2G40. Tăng viện Pháp bắt tay được lực lượng pḥng
thủ. Khoảng 1000 tử thi VM. Phần đông c̣n rất trẻ.
Pháp cũng thiệt hại nặng v́ pháo binh.( 85)
85. EMIFT Fiche số
166 ngày 4/4/1954, & 167 ngày 5/4/1954; 10H 179.
Thời gian
này, Pháp c̣n các cứ điểm: Epervier: khu chỉ huy;
Eliane ở phía Đông; Tây Bắc là Huguette (6 đồn):
H6 ở đầu sân bay, H1 ở giữa, H2 và H9 ở phía Nam.
H5 và H4 ở Tây Nam. Mất hai đồn trong đợt tấn công
thứ hai. Tây Nam là Claudine và Junon, kế sát Bộ
Tư lệnh. Claudine gồm 5 căn cứ, sau chia làm hai:
Claudine (311B) và Lilie (311A). Junon có 3 cứ
điểm.
Ngày
6/4/1954, Giáp họp hội nghị sơ kết đợt tấn công
đợt 2. Nguyễn Hữu An bị phê b́nh nghiêm khắc một
cách oan uổng: tấn công chậm không v́ lỗi An!(
86)
86. Giáp, Điện Biên
Phủ, 2001:276-277.
Giáp
quyết định xiết chặt ṿng vây, đóng cửa phi
trường. Đại đoàn 308 có nhiệm vụ đánh các cứ điểm
Huguette 1 (206), Lilie (311A), Claudine (311B).
Chia cắt các cứ điểm Huguette 6 (105), Huguette 1
(206), Huguette 2 (208). Phối hợp với 312 làm giao
thông hào cắt ngang sân bay phía Nam Huguette 1
(206). Đại đoàn 312 pḥng ngự đồi E và D, chuẩn bị
tiêu diệt các cứ điểm Huguette 6 [5?]( 105) ở Bắc
sân bay, các vị trí 203, 204 và khu Tiểu đoàn 2
Thái (Huguette 2), phối hợp 308 đào giao thông hào
cắt ngang sân bay Mường Thanh.
Đại
đoàn 316 củng cố tuyến phía Đông, chuẩn bị tiêu
diệt Eliane 2 (A1) và C2.
Trung
đoàn 57/304 vây hăm Isabelle do Trung tá Lalande
chỉ huy. Cứ điểm này gồm 5 căn cứ.
Ngày 8/4/1954,
Giáp cho phổ biến lệnh tác chiến mới.
Giáp
xin tăng viện thêm 25,000 tân binh và cố vấn Trung
Cộng xin thêm một trung đoàn đoàn pḥng không với
67 đại bác 37 ly.( 87)
87.
Fall, Hell, 1968:223.
Tại mặt trận
phía Đông, lúc 16G45, Trung đoàn 174/316 di tản
triền Đông của Eliane 2 (A1).
88.
EMIFT Fiche số 179 ngày 7/4/1954, & số 180 ngày
7/4/1954; 10H 179.
Từ ngày Thứ Tư,
7/4, Việt Minh tăng cường đào giao thông hào phía
Tây Isabelle và phía Tây phi trường.( 88) Ngày này,
lúc 10G00, Đại đội 12/3 Thái tại Huguette 2 đào
ngũ. Việc ră ngũ
này tạo nên tinh thần nghi kỵ giữa các sĩ quan chỉ
huy Pháp và các quân nhân Việt trong các tiểu đoàn
Dù, đặc biệt là Tiểu đoàn 5 Dù Việt Nam. Hai đại
đội TĐ 5 Dù đă bị giải khí giới, sử dụng như
cu-li. Lư do là tất cả các sĩ quan bản xứ yêu cầu
Đại úy Botella cho hạ súng, ngưng chiến đấu. Một
Trung úy bị mất tích, và t́m thấy trong nhà ăn Hạ
sĩ quan, ngụy trang làm bếp. Những người cai quản
họ trong việc thu nhặt thực phẩm tiếp tế được lệnh
bắn ngay nếu có dấu vết nhỏ kháng cự hay bất tuân
lệnh. ợ, Một Trung đội trưởng Tiểu đoàn 6 Dù cho
lệnh binh sĩ rút lui trước cuộc tấn công của VM.
Ngày 10/4, hiện tượng tương tự xảy ra tại TĐ 1 Dù.
Một binh sĩ Dù tung lựu đạn giết chết Trung sĩ
nhất Laire và một số Hạ sĩ quan khác trong hầm v́
bị hành hung và trừng trị v́ tội trễ nải khi phản
công VM. Từ đầu tháng 3, lính Bắc Phi cũng đă suy
giảm tinh thần, rút về phía sau không chiến đấu.
Kỷ luật lỏng lẻo.( 89) Thứ Năm,
8/4/1954, 60 VM thuộc Trung đoàn 57/304 bị giết ở
phía Tây Isabelle.( 90)
89.
“Critiques des organisations et activités Amies;”
10H 179. [9 trang]) Xem thêm Fall, Hell,
1968:286-288.
90.
EMIFT Fiche số 184 ngày 8/4/1954; 10H 179.
Ngày 7/4, Tiểu đoàn
2 Dù Lê dương (2è BEP) xuống tăng viện. Thứ Sáu,
9/4, Pháp đề nghị trao đổi tù binh bị thương.
Hôm sau, VM đồng ư, nhưng đề nghị hai điểm trao
đổi. De Castries đề nghị tại một vị trí. Cogny
đồng ư.
Thứ Bảy, 10/4,
Pháp cố tái chiếm Eliane 1. Giao tranh ác liệt.
Tiểu đoàn 1/2 Dù lên thay Tiểu đoàn 6 Dù. (91)
91.
EMIFT Fiche số 195, 196 ngày 10/4/1954; 10H 179.
Chủ Nhật,
11/4, lúc 0G45, VM phản công ở Eliane 1. Pháp tiếp
tục thả tăng viện xuống Điện Biên được 222 quân
nhân. Nhưng ba ngày sau, 14/4, phi đạo bị cắt làm
ba v́ địa đạo.( 92)
92.
EMIFT Fiche số 222 ngày 14/4/1954; 10H 179.
Ngày
15/4, t́nh trạng thương bệnh binh Pháp đă đến mức
tệ hại. Không c̣n ai được di tản. Số bị thương
được phân loại như sau: 405 ngồi, 286 nằm.(
93)
93.
EMIFT Fiche số 233, ngày 15/4/1954; 10H 179.
Thời gian
này, mặt trận Điện Biên Phủ đă gây chấn động thế
giới. Ai nấy đều cho rằng Điện Biên sẽ là trận
đánh quyết định số phận Pháp tại Đông Dương.
Ngày 3/4/1954,
Mao Zedong [Mao Trạch Đông] viết thư cho Peng
Dehuai [Bành Đức Hoài], Phó Chủ tịch Quân ủy Trung
ương, thường vụ, cựu Tư lệnh Triều Tiên, nói Việt
Minh cần lập thêm 4 trung đoàn pháo binh và hai
trung đoàn công binh, phải hoàn tất huấn luyện
trong ṿng 6 tháng. Nếu không đủ, lấy pháo từ các
đơn vị Trung Cộng. Cũng phải lựa chọn cố vấn có
kinh nghiệm Triều Tiên. Việt Minh cần gọi nhập ngũ
thêm 5,000-8,000 người và chuẩn bị đánh chiếm Hà
Nội vào dầu năm 1955.( 94)
94. Jian
1993:102-103.
Ngày
9/4/1954,
QUTƯ/CSTC hai lần gửi công điện cho Vi Quốc Thanh
hứa cung cấp đầy đủ đạn dược cho Việt Minh. Chỉ
thị cho Thanh chiến thuật đánh ở Điện Biên Phủ:
cắt đứt tuyến địa đầu địch bằng cách tấn công ở
giữa; phá hủy hầm pḥng thủ bằng cách tập trung
hỏa lực; củng cố vị trí ngay sau khi chiếm được
một vị trí, như thế tiếp tục xiết chặt ṿng vây;
dùng thiện xạ bắn tỉa (snipers), và dùng tuyên
truyền.( 95)
95. CMAG
in Vietnam, tr. 101; Jian, 1993:103.
Bắc
Kinh c̣n gửi qua Điện Biên một toán “chuyên gia”
về địa đạo có kinh nghiệm ở Triều Tiên qua huấn
luyện cho Việt Minh.( 96)
96. Jian 1993:102.
Ngày 28/4/1954,
Mao thư cho Bành Đức Hoài, nêu lên mối nguy hiểm
Pháp có thể thả Nhảy Dù chặn đường tiếp vận. Ngày
30/4, QUTƯ/TC chỉ thị Thanh phải bảo vệ trục tiếp
vận. Ngày 3/5, Tướng Su Yu, Tham mưu trưởng Trung
Cộng, do chỉ thị của Mao, nhắc nhủ Thanh về nguy
hiểm Pháp thả dù cắt trục tiếp vận.( 97)
97. Jian 1993:102,
104-105.
Phần Pháp
cũng hối hả xin Mỹ viện trợ. Như đă lược nhắc,
ngày 20/3, Tướng Ely, Tổng Tham Mưu trưởng Pháp,
đă qua Oat-shinh-tân gặp Đô đốc Radford xin thêm
phi cơ, vũ khí và quân viện. Trong thời gian Ely ở
Mỹ, Radford đề cập đến kế hoạch Vulture, tức sử
dụng không lực hùng hậu để làm suy yếu tiềm năng
của Việt Minh tại Điện Biên. Kế hoạch Vulture này
trù tính sẽ sử dụng 98 oanh tạc cơ B-29 và 450
chiến đấu cơ Mỹ từ căn cứ Clark (Philippines) và
Nhật. Từ ngày 3-4/4, chính phủ Pháp liên tiếp yêu
cầu Mỹ cho biết quyết định về kế hoạch Vulture, v́
t́nh h́nh Điện Biên đă sa lún. Tuy nhiên, Ngoại
trưởng Dulles trả lời sợ Quốc hội không chấp
thuận.
Ngày 4/4, TT
Eisenhower quyết định không can thiệp vào Đông
Dương. Tại Paris, lúc 23G00 ngày 4/4, Đại sứ
Dillon được mời dự phiên họp khẩn cấp giới hạn của
chính phủ Laniel. Bidault và rồi Laniel nói t́nh
h́nh Điện Biên nguy kịch; nếu không có tăng viện,
số phận đă định. Pháp chỉ cần chiến hạm Mỹ tiếp
tay, như Radford đă hứa với Ely, có thể đảo ngược
t́nh h́nh. Hiện nay, Trung Cộng đă công khai yểm
trợ VM. Cố vấn kỹ thuật ở cấp Sư đoàn. Ngay tại Bộ
Tư lệnh của Giáp có Tướng Ly chen-hou (?).Liên lạc
điện thoại do cố vấn TC thực hiện. 40 pḥng không
37 ly, điều khiển bằng radar, do cán binh Trung
Cộng điều khiển, đă xuất hiện ở Điện Biên. Tài xế
khoảng 1,000 xe vận tải là lính TC; và 500 xe mới
tăng cường từ ngày 1/3/1954. TC c̣n trợ giúp nhiều
loại quân trang, đạn dược, v.. v...
Đượỳc báo cáo,
ngày 5/4, Dulles cho biết Mỹ không thể đơn phương
hành động; và đang thảo luận với Bri-tên một liên
minh hành động [united action]. Bidault khẳng định
với Dillon rằng Pháp vẫn tiếp tục chiến đấu, cho
dẫu đơn độc.
Từ 11 tới
14/4/1954, Dulles thăm London (gặp Anthony Eden và
Churchill) và Paris (gặp Bidault). Ba nước đồng ư
“liên minh hành động”. Nhưng ngày 18/4, Đại sứ
Bri-tên Roger Markins thông báo rằng Bri-tên không
thể tham dự Hội nghị 10 nước pḥng thủ Á Châu về
vấn đề “liên minh hành động” tại Đông Dương. Để gỡ
sĩ diện, Dulles phải triệu tập một phiên họp gồm
16 quốc gia, kể cả ba nước Đông Dương.( 98)
98. Gravel 1971, I:
Trong khi đó, tại
Điện Biên, t́nh h́nh ngày thêm nguy kịch. Trận địa
pháo, các giao thông hào chi chít lún ngập bùn
lầy, cùng khí hậu rừng núi vào những ngày cuối mùa
khô, đầu mùa mưa, biến thung lũng Mương Thanh
thành một địa ngục có thực.
Quân
số
mỗi tiểu đoàn Pháp chỉ c̣n khoảng 300 người. Ngày
9/4, Cogny thả thêm được hai đại đội của Tiểu đoàn
2 Lê dương Dù xuống Điện Biên. Quá ít và nhỏ giọt.
Những binh sĩ mới này được đưa ngay tới căn cứ D3.
Tại
hướng Tây, một đại đội TĐ 5 Dù di chuyển lên
Huguette 6. Một đơn vị Maroc thiết lập căn cứ
Lilie hay Liliane giữa Huguette và Claudine.
Claudine 1 (đổi tên thành Lilie 1), và Huguette 4
(Lilie 3) cùng Lilie 2 họp thành một tập đoàn cứ
điểm mới, dưới quyền Thiếu tá Nicolas từ ngày
14/4.
Tại
hướng Đông, rạng sáng ngày Thứ Bảy 10/4, Bigeard
mở cuộc tấn công lên Eliane 1. Đồng thời, lúc
16G00, thay thế Eliane 2 bằng hai đại đội của Tiểu
đoàn 1 Dù (1 RCP) của Bréchignac.
Ngay
trong đêm 10/4, Trung đoàn 98/316 VM đă tấn công
E1. Bộ chỉ huy Tiểu đoàn 6 Dù tại E4 cũng bị tấn
công và pháo. Bigeard tập trung các binh sĩ TĐ 1
Dù, Bắc Phi, Thái và TĐ 5 Dù VN phản công lên A1.
Việt Minh phải rút lui, bỏ lại 400 xác. Sáng ngày
11/4, Bigeard điều Đại đội 7/2 Lê dương Dù lên
tăng viện E1. Ngày 12/4, Trung đoàn 98 của Vũ Lăng
lại mở đợt tấn công khác lên E1, nhưng không thành
công. E1 tồn tại cho đến những ngày cuối cùng của
Điện Biên.
Ngày
14/4,
hai căn cứ Huguette 6 và 1 hoàn toàn bị cô lập với
khu trung tâm. Ngày 18/4, Langlais quyết định rút
bỏ Huguette 6.( 99)
99. Fall, Hell, 1968:258-260.
Ngày
22/4,
Huguette 1 (206), do Lê dương pḥng thủ, bị Việt
Minh tấn công. Công điện kêu cứu cuối cùng ngưng
lúc 2G30 ngày Thứ Sáu, 23/4/1954.
Số phận Điện Biên
coi như chấm dứt. Chính phủ Laniel lại thêm một
lần yêu cầu Mỹ tăng viện và can thiệp. Dulles,
Bidault và Eden gặp nhau trong ba ngày
22-24/4/1954, nhưng chẳng đi đến kết qủa nào.
Ngoại trưởng Eden nói Bri-tên không thể có hành
động nào trước khi Hội nghị Geneva kết thúc. Sau
buổi họp, Eden về London tham khảo ư kiến thay v́
sang Geneva.
Theo Bidault,
trong buổi họp ngày 23/4, Dulles đề nghị dùng bom
nguyên tử trong kế hoạch Vulture, nhưng Bidault
không chấp thuận. Thứ Bảy, 24/4, tai Hội nghị NATO
Radford cố thuyết phục Eden, nhưng Ngoại trưởng
Bri-tên cương quyết muốn cho Geneva một cơ hội.
Dulles cho Paris biết không thể can thiệp, v́ phải
có sự phê chuẩn của Quốc Hội. Ngày 27/4, Đại sứ
René Massigli gặp Churchill; nhưng Churchill cũng
từ chối “đồng ḷng hành động.”
Ngày 24/4, Pháp
yêu cầu Không lực Mỹ can thiệp vào Điện Biên Phủ.
Hôm sau, 25/4, Mỹ chính thức từ chối.
Từ ngày 12/4,
Navarre cũng đă bắt đầu nghiên cứu kế hoạch Condor
(Chim Ưng) để triệt thoái khỏi Điện Biên bằng
đường bộ. Ba ngày sau, 15/4, Navarre phong Đại tá
Castries lên cấp Thiếu tướng. Chủ Nhật, 18/4, Ely
chấp thuận cho Navarre tiếp xúc mật với Việt Minh,
không cần thông báo cho Maurice Dejean. Ngày 19/4,
Navarre cho Ely biết sẽ có tin tức của VM trong
khoảng 1 tuần.
Ngày 23/4, báo
Le Figaro đăng một bản tin về Việt Nam, tựa đề
“Liệu 100 phi cơ có đủ cứu Điện Biên Phủ?” Theo
tác giả Pháp không đủ nhân viên phi hành và phi cơ
để tiếp tế cho Điện Biên. Chắc Mỹ cũng không giúp.(
100)
100. Fall, 1968:345/
Thứ Sáu,
30/4/1954–ngày lễ thành lập binh chủng Lê Dương
(Camerone)–Việt Minh pháo kích dữ dội Isabelle
suốt một tiếng đồng hồ. Hàng không mẫu hạm Belleau
Wood thay hàng không mẫu hạm Arromanches. Mang
theo phi cơ F14 (Corsair).
C.
TẤN CÔNG ĐỢT 3 [1-7/5/1954]:
Đợt
tấn công thứ III tại Điện Biên bắt đầu từ ngày
1/5/1954. Thời gian này, Hội nghị Geneva đă khai
mạc từ ngày 26/4. Ngũ cường đồng ư mời 9 phe tham
dự, kể cả Việt Minh và Quốc Gia Việt Nam. Phái
đoàn Phạm Văn Đồng sẽ tới Geneva ngày 4/5 và phiên
họp đầu tiên về Đông Dương sẽ khởi sự ngày 8/5.
Trong khi đó, Liên bang Mỹ không ngừng đe dọa sẽ
can thiệp vào Đông Nam Á. Bởi thế cuối tháng
3/1954, Hồ và Phạm Văn Đồng đă bí mật qua Bắc Kinh
thảo luận về chiến lược tấn công ngoại giao ở
Geneva–một hội nghị quốc tế mà Chu Ân Lai quyết
định phải đạt được kết quả: nâng cao uy tín Trung
Cộng trên chính trường quốc tế. Hồ và Đảng LĐVN
cũng đă được thông báo là có khả năng sẽ chia Việt
Nam làm hai. Ngoài ra, Bắc Kinh cần một chiến
thắng lớn ở Điện Biên để có thế mạnh ở bàn Hội
nghị. Bắc Kinh chỉ thị cho Hồ giải quyết Điện Biên
càng sớm càng tốt, hầu giải quyết nhanh và ưu thế
nhất tại bàn hội nghị. Bắc Kinh không những gửi
thêm đạn dược mà c̣n gia tăng lương thực và đưa
qua 18 dàn phóng hỏa tiễn 75 ly, một vũ khí lần
đầu tiên xuất hiện trên chiến trường Đông Dương.
Trong khi đó, hậu phương gửi ra mặt trận khoảng
25,000 tân binh để bù vào số thiệt hại sau hơn một
tháng tấn công và vây hăm.
Trong đợt tấn công
cuối cùng, dứt điểm này, mục tiêu chẳng c̣n bao
nhiêu. Toàn căn cứ chỉ c̣n khoảng 2,900 binh sĩ
Pháp khỏe mạnh. Tại phía Đông Bắc, Pháp có các căn
cứ Dominique 3 (do Tiểu đoàn 2 Thái, Tiểu đoàn 1
Algériens và một đại đội của TĐ 6 Dù [BPC] giữ),
Eliane 1 (E1), do một đại đội của TĐ 5 Dù của
Trung úy Phạm Văn Phú (1933-1975), mới được đặc
cách mặt trận lên Đại úy, và TĐ 2/1 Dù. Tại E-4,
đặt Bộ chỉ huy của Thiếu tá Bréchignac.
Tuyến Đông Bắc,
Đại đoàn 316, phối thuộc Trung đoàn 9/304, tiêu
diệt A1, C1 và C2.( 101) Phía Đông
Đại đoàn 312 sẽ tiêu diệt các cứ điểm 505, 505A,
506, 507, 508 (ở sát sông Nậm Rốm), áp sát vào khu
vực hầm chỉ huy của de Castries. Trên tuyến Tây,
Đại đoàn 308 đánh Lilie (Huguette 5 cũ, hay 311A),
Claudine (Huguette 4 cũ, tức 311B) ở phía Tây Bắc
phi đạo, và rồi phát triển vào cứ điểm Lilie
(310), cách hầm chỉ huy khoảng 50 thước. Tại phía
Nam, Đại đoàn 304, tăng cường thêm 1 tiểu đoàn của
Trung đoàn 9/304, ngăn chặn quanh Isabelle không
cho rút qua Lào.( 102)
101. Fall, Hell,
1968:351-353.
102.
Giáp, Điện Biên Phủ, 2001:350-351.
Ngày N là
Thứ Bảy, 1/5/1954. Trận này, Việt Minh được tăng
viện thêm một trung đoàn Đại bác 75 ly không giật
và 18 dàn phóng hỏa tiễn 75 ly sáu ṇng.( 103)
103. Tấn 1994:375;
Jian 1993:105.
1. Tuyến Đông Bắc:
Đài chỉ huy của
Thiếu tá Bréchignac đặt tại E4. Đại úy Botella là
sĩ quan thường vụ. Tiểu đoàn 5 Dù trên thực tế đă
ngừng hiện hữu. Chỉ c̣n một số quân nhân dưới giao
thông hào do Đại úy Bizard chỉ huy, và một đại đội
với 80 binh sĩ trên E1, dưới quyền tân Đại úy Phạm
Văn Phú, 21 tuổi. Trên E1 c̣n có Đại đội 3 của
Trung úy Leguère và Đại đội 1 của Trung úy Périou.
20G00 ngày 1/5,
sau đợt pháo kích mở màn, các đơn vị của 312 và
316 tấn công vào khu Eliane cũ và Eliane 2 (A1)
Tại Eliane 1, TĐ
2/1 Nhảy Dù của Trung úy Leguère đánh xáp lá cà
với VM. 20G15, Leguère xin tăng viện. Brèchignac
cho lệnh Đại đội 1 của Trung úy Périou tăng viện.
Lúc 2G07, cả E1 và D3 bị tràn ngập.
Trung đoàn
98/316 có nhiệm vụ đánh C1. 19G27, hỏa lực của
Trung đoàn bắn rất chính xác vào C1. Pháp sử dụng
cả súng phun lửa, nhưng bị thất thủ trong đêm.(
104)
104. Fall, Hell,
1968:353; Giáp, Điện Biên Phủ, 2001:356; Tấn
1994:377-378.
Đại đoàn 316, phối
thuộc Trung đoàn 9 (-)/304, bắt đầu tấn công
Dominique 3 lúc 20G00, và chiếm được căn cứ này
lúc 2 giờ 07 sáng ngày 2/5. Sau đó, chiếm căn cứ
Eliane 1 (E1).
Eliane 2 (A1) do
Tiểu đoàn 1/13 Lê dương Dù của Thiếu tá Coustant
trấn giữ bị đánh mạnh nhất. Lúc 20G00, Trung đoàn
174/316 của Nguyễn Hữu An tấn công dữ dội nhưng bị
đẩy lui. Lúc 02G50 ngày 2/5, Trung đoàn 174/316
tiếp tục tấn công Eliane 2. Tuy nhiên, cho tới
6G45 vẫn đứng vững.
2. Tuyến
Đông:
Đại
đoàn
312
chịu
trách
nhiệm đánh 505 và Dominique 3 (505A). Đây là dăy căn
cứ trên đất bằng, nằm giữa đường 41 và bờ sông Nam
Yum. Hai tiểu đoàn 166 và 165 của Trung đoàn
209/312, do Hoàng Cầm chỉ huy, tấn công căn cứ 555
và Dominique 3 (555A). Tiểu đoàn 6 Dù của Thiếu tá
Thomas cùng các binh sĩ Thái và Algériens của Chenel
hết sức cầm cự. Hoàng Cầm phải đưa thêm tăng viện
vào mặt trận. Quân Pháp từ căn cứ 507 cũng cho lính
tùng thiết kéo lên phản kích. Lúc 4G20 ngày 2/5, D3
bị tràn ngập.( 105)
Từ
đây,
Hoàng
Cầm
cho
lệnh hai cánh quân cùng đào hào về hướng hai căn cứ
506 và 507.
105.
Tấn 1994:376.
3. Tại hướng
Tây:
20G00 ngày 1/5,
sau một đợt pháo kích dữ dội, Trung đoàn 88/308
tấn công vị trí Huguette 5 (311A), Huguette 4
(311B) ở phía Tây Bắc phi đạo. Huguette 5 (311A)
do Lê dương trấn giữ đă bị tấn công ṛng ră một
tuần lễ. 20G05, Huguette 5 thất thủ. Sau đó, Trung
đoàn 36/308 tiếp tục đánh Huguette 4 (311B), cứ
điểm ngay sát phía Tây phi đạo. Lúc 2G07 ngày 2/5,
H4 (311B) bị Trung đoàn 36/308 tấn công mạnh. Lúc
03G05 ngày Chủ Nhật, 2/5, VM tấn công lần thứ hai
H4. Viện binh từ H3 và Lilie 2 giúp giải tỏa một
số địa đạo phía Nam H4. 6G25, H4 vẫn đứng vững.(
106)
106.
Giáp, Điện Biên Phủ, 2001:350-351.
Tuyến Nam, Đại
đoàn 304, tăng cường thêm 1 tiểu đoàn của Trung
đoàn 9/304, ngăn chặn quanh Isabelle không cho rút
qua Lào.( 107)
107.
Tấn 1994:377.
Nhờ thời tiết nắng
ráo, không lực Pháp có thể can thiệp mạnh. B29 Mỹ
oanh tạc dữ dội các vị trí Việt Minh. Có lẽ v́ vậy
mặt trận lắng dịu phần nào.
Thứ Hai, 3/5, lúc
2G50, Pháp được tăng viện thêm Đại đội 2/1 Dù của
Trung úy Marcel Edme, với 107 người. Quá ít và phí
phạm. Các cấp chỉ huy phải điều thương binh tăng
viện đi tăng viện cho E10 và E12.( 108)
108. Fall,
Hell, 1968:356, 361-362.
Tại tuyến Đông,
Đại tá Langlais điều ngay toán quân tăng viện Tiểu
đoàn 1 Dù lên Eliane 2. Hôm sau, Thứ Ba, 4/5, thêm
đại đội 3/1 BCP của Đại úy Jean Pouget và một bộ
phận chỉ huy của Tiểu đoàn 1 BCP, kể cả Đại úy
Francois Penduff, nhảy xuống mặt trận. Đại tá
Langlais quyết định hoán đổi các binh sĩ TĐ 1/13
Lê dương của Coutant mệt mỏi ở Eliane 2 (A1) xuống
căn cứ E3 ở chân đồi, và đưa đại đội 3/1 Dù mới
được tăng viện lên Eliane 2.
Tại
hướng
Tây,
Thứ
Ba,
4/5,
Trung đoàn 36/308; 3 tiểu đoàn thuộc 88/308 và
102/308, công thêm một tiểu đoàn của Đại đoàn 312
đánh chiếm Lilie (311A), rồi tràn xuống H4 (311B)
nằm trong cụm căn cứ Claudine. Thiếu tá Giraud từ
Huguette cho quân phản công, tăng viện H4 (311B).
3G35 ngày 5/5, căn cứ này thất thủ. Quân Việt Minh
như thế chỉ c̣n cách de Castries khoảng 300 thước.(
109)
109.
Fall,
Hell,
1968:363;
Giáp,
Điện
Biên Phủ, 2001:360, 363; Tấn 1994:377.
Thứ Ba,
4/5, De Castries được thông báo về kế hoạch
Albatros [Chim Biển]. Dự trù sẽ bắt đầu lúc 20G00
ngày 7/5. VM biết được một phần kế hoạch này.(
110)
110. Tấn 1994:381;
Giáp 2001:359-360.
Thứ Tư,
5/5, Trung Cộng tăng viện cho Việt Minh 18 dàn
phóng hỏa tiễn 6 ṇng.( 111)
111. Jian 1993:105.
Thứ Năm, 6/5,
trận địa pháo khuấy rối ở Eliane 4, 10 và 12.
20G00, bắt đầu tổng tấn công. Hiệu lệnh là tiếng
nổ của 1000 ki-lô chất nổ chôn ngầm dưới căn cứ
Eliane 2 (A1). Căn cứ này mới được hoán đổi quân.
Tiểu đoàn 1/13 Lê dương của Thiết tá Coutant xuống
căn cứ Eliane 3 dưới chân đồi dưỡng sức, thay bằng
đại đội 3/1 Dù, mới nhảy xuống Điện Biên, dưới
quyền Đại úy Pouget. (112)
112.
Giáp, Điện Biên Phủ, 2001:360-361; EMIFT Fiche số
373, ngày 6/5/1954; 10H 179.
Trung
đoàn 174/316 sử dụng hai tiểu đoàn tấn công. Một
mũi từ hướng Đông Nam. Một mũi từ hướng Tây đánh
tới, chặn đường rút về khu trung tâm. Đúng 20G30,
Lê Quảng Ba cho lệnh châm ng̣i nổ. Nhưng một tấn
thuốc nổ không phát ra tiếng nổ to như mọi người
trông đợi. Nguyễn Hữu An vẫn cho nổ súng. Sau 15
phút dùng pháo dọn đường, bộ binh bắt đầu xung
phong. Giao tranh diễn ra ác liệt tại cả hai căn
cứ Eliane 2 và Eliane 3. 3 giờ sáng ngày 7/5,
Trung đoàn 174 chiếm được hầm chỉ huy, bắt sống
Pouget và hơn 100 tù binh khác. 4G30 sáng ngày
7/5, mặt trận mới im tiếng súng.( 113)
113.
Tấn1994:382-383; Giáp, Điện Biên Phủ, 2001:361-367.
Tại căn cứ C2,
Pháp đă tăng cường thêm 6 đại đội thuộc Tiểu đoàn
2 Dù Lê dương và Tiểu đoàn 5 Dù VN. Trung đoàn 98
của Vũ Lăng gặp sức phản kháng mănh liệt trong
từng lô-cốt và địa đạo. Lăng phải điều thêm tiếp
viện vào căn cứ. 7G30 phút ngày Thứ Sáu, 7/5, Đại
đoàn 316 mở đợt tấn công cuối cùng, chia quân làm
ba mũi tiến vào C-2. Măi tới 9G30 phút mới giải
quyết xong mục tiêu. Hơn 600 binh sĩ Pháp bị bắt
hoặc tử thương.( 114)
114.
Tấn1994:383-384.
Như thế, toàn bộ
tuyến cao điểm phía Đông Điện Biên đều đă thất
thủ.
Tại hướng Đông
do Đại đoàn 312 án ngữ, Không quân Pháp đánh bom
napalm lên căn cứ Eliane 10 (506), nhưng Trung
đoàn 165 không bị thiệt hại nhiều. Tại căn cứ 507,
Trung đoàn 209/316 của Hoàng Cầm gặp nhiều khó
khăn. Bộc phá không phá nổi loại hàng rào “bùng
nhùng.” Măi tới 15G00 mới chiếm được căn cứ 507.(
115)
115.
Tấn1994:385-387.
Lúc
15G00, Đại đoàn 312 bắt đầu vượt qua cầu Mương
Thanh đánh sang khu trung tâm. 17G20, Trung đoàn
209/312, với sự trợ lực của Trung đoàn 141/312,
tiến được vào hầm chỉ huy và bắt sống Tướng de
Castries.( 116)
116.
Tấn1994:388-389; Giáp, Điện Biên Phủ, 2001:373-375.
Tại phía
Tây, trung đoàn Thủ Đô [102]/308 cũng diệt được
căn cứ Claudine 5 (510), chỉ cách hầm de Castries
khoảng 50 thước.( 117)
117.
Tấn1994:385.
Nửa đêm 7/5,
tại phía Nam, Chính ủy Lê Chưởng báo cáo đă bắt
sống được Đại tá Lalande và toàn bộ binh sĩ.(
118)
118.
Giáp, Điện Biên Phủ, 2001:376.
V.
HIỆP ƯỚC GENEVA 20-21/7/1954:
Tin Điện Biên
Phủ thất thủ sau 56 ngày bị vây đánh được đón nhận
như một quốc tang ở Paris. Đây không chỉ là sự
thất bại quân sự đầu tiên của một cường quốc Tây
phương trước một đạo quân bản xứ hạng ba, hạng tư
trên thế giới, mà ngay cả giấc mơ “thương thuyết
trên thế mạnh” của Pháp cũng tan thành mây khói.
Lúc 16G45 ngày
Thứ Bảy, 8/5 (23G45 Việt Nam), để khai mạc Hội
nghị nghị Geneva về Đông Dương, tại trụ sở Liên
Hiệp Quốc, đối diện bờ hồ, Ngoại trưởng Pháp
Bidault đề nghị ngưng bắn để t́m hoà b́nh.(
119)
119.
Great
Britain, Documents relating to the discussion of
Korea and Indo-China at the Geneva Conference. Miscellaneous No.16 (1954), Cmd. 9186, p.
70. Commissaire Général de France et
Commandement en Chef en Indochine, “Note a/s
Conférence de Genève sur l’Indochine (14 juillet
1954); SHAT (Vincennes), 1K 233 [Tư liệu Ely],
carton 39, d. 1; Indochine, 10H 246-248; US-Vietnam
Relations, 1945-1967 (Washington, DC: GPO, 1971), Bk
9.
A.
ĐƯỜNG TỚI GENEVA:
Sự thất trận ở
Điện Biên Phủ, như bản tin t́nh báo Mỹ (NIE 63-54)
nhận định, có ảnh hưởng chính trị bất lợi hơn là
hậu quả quân sự. Chiến bại này khiến vị thế Pháp ở
Đông Dương suy thoái. Nó chẳng những làm giảm uy
tín Pháp trong ḷng người Đông Dương, mà c̣n gia
tăng mối lo sợ rằng Pháp không đủ sức bảo vệ họ.
Nó làm giảm tinh thần chiến đấu của Pháp và dân
Đông Dương, và khiến liên hệ Pháp-Việt căng thẳng,
v́ người bản xứ lo sợ Pháp “bán đứt” họ cho Việt
Minh [sell out to Viet Minh]. Nó cũng gia tăng
thái độ “trùm chăn” [fence sitting] trong số người
ủng hộ chính phủ Quốc Gia, và gia tăng sự ủng hộ
chế độ Việt Minh. Nhưng có thể chưa mang đến sự
sụp đổ hoàn toàn của Pháp và chính phủ bản xứ
trong vài tháng tới nếu tiếp tục duy tŕ quân viễn
chinh Pháp và hy vọng Mỹ sẽ can thiệp.( 120)
120. The
Pentagon Papers (Gravel), I:Doc 40 [485]. [Tổng
số quân Liên Hiệp Pháp là 605,500 (chính qui và tiểu
đoàn khinh quân: 402,000; bán quân sự: 203,500. Việt
Minh: 291,000 (chính qui và tiểu đoàn địa phương:
185,000; bán quân sự: 106,000); Ibid., (Gravel),
I:486.
Thực ra, từ năm
1952, phong trào đ̣i thương thuyết với Việt Minh
đă phát triển ngày một mạnh tại Pháp. Ngày
28/8/1953, Ngoại trưởng Bidault tuyên bố có thể
Pháp sẽ t́m giải pháp chính trị cho Đông Dương,
nhưng phải hỏi ư kiến Các Quốc Gia Liên Hiệp trước
khi có hành động. Gần một tháng sau, 25/9, khi
đang tham dự Đại Hội Đồng LHQ từ 15/9 tới
9/12/1953, Maurice Schumann tuyên bố tại Liên Hiệp
Quốc là Pháp muốn thương thuyết để đạt một giải
pháp chính trị nhằm chấm dứt chiến tranh.
Như để khuyến
khích Pháp, ngày 28/9/1953, Liên Sô lập lại đề
nghị họp “ngũ cường.” Ngày 8/10, Chu Ân Lai tuyên
bố Trung Quốc muốn đóng góp vào việc củng cố nền
hoà b́nh ở Viễn Đông và trên thế giới.
Ngày
27/10/1953, Laniel tuyên bố sẵn sàng nắm mọi cơ
hội t́m hoà b́nh cho Đông Dương. Ngày này, Quốc
Hội Pháp biểu quyết ủng hộ việc đi t́m một giải
pháp chính trị, qua thương thuyết.( 121)
121.
FRUS, 1952-1954, XIII:854.
Vài tuần sau, ngày
Thứ Năm, 12/11, Laniel tuyên bố trước Thượng Viện:
Pháp không đ̣i đối phương phải đầu hàng không điều
kiện, và cũng không nghĩ rằng vấn đề Đông Dương
chỉ có thể giải quyết được bằng quân sự. Laniel thêm
rằng từ sau bài diễn văn ngày 27/10/1953 của ḿnh
trước Hạ Viện, chưa thấy Hồ trả lời. Đó là nhiệm
vụ của những người muốn hoà b́nh tức khắc ở Đông
Dương t́m cách thuyết phục Hồ. Hôm sau, 13/11, khi
phê b́nh về lời tuyên bố của Laniel trong buổi họp
tại Bộ Ngoại Giao, Dulles nói không bất măn v́ đó
chỉ là thực tế chính trị–chính phủ Pháp phải nói
muốn thương thuyết. Không một chính phủ Pháp nào
có thể từ chối thương thuyết khi chính Mỹ đang đàm
phán tại Triều Tiên.( 122)
122.
FRUS, 1952-1954, I:864, chú 3.
Ngày Chủ Nhật,
29/11/1953, báo Expressen [Tin Nhanh]
của Norway [Na Uy], bỗng đăng bài phỏng vấn Hồ
Chí Minh hồi cuối tháng 10/1953 để trả lời tuyên
bố của Laniel. Hồ nói sẵn sàng cứu xét mọi đề nghị
của Pháp, nhưng chỉ thương thuyết với Pháp.
Phản ứng đầu
tiên của Ngoại trưởng Bidault là bài phỏng vấn của
Hồ chỉ có tính cách tuyên truyền.( 123)
123.
FRUS, 1952-1954, XIII:890-891.
Nhưng Tổng
thống Pháp có ư nghĩ khác. Ngay 3 giờ sáng Thứ
Hai, 30/11, Auriol mời Laniel vào điện Elysée, yêu
cầu tiếp xúc ngay với các đại diện Đông Dương, hầu
có thể thương thuyết với Hồ càng sớm càng tốt.
Laniel không đồng ư, nói cần tham khảo Mỹ và
Bri-tên tại Bermuda vào thượng tuần tháng sau,
trước khi thảo luận với Các Quốc Gia Liên Hiệp.(
124)
Sau
đó, Laniel nhờ Đại sứ Mỹ Dillon thông báo với
Dulles rằng chính sách của Pháp không thay đổi
trước ngày khai mạc Hội nghị Bermuda
(4-8/12/1953).
124.
FRUS, 1952-1954, I:887-888.
3 giờ chiều
ngày 4/12/1953, tại Bermuda, Dulles gặp riêng
Laniel. Laniel cũng nghĩ rằng đề nghị của HCM trên
tờ Expressen chỉ có tính cách tuyên truyền. Tuy
nhiên nó tạo nhiều phản ứng sôi nổi trong chính
giới Pháp. Tổng thống Auriol và một số thành viên
trong chính phủ muốn thông báo ngay cho HCM là
Pháp muốn điều đ́nh. Riêng Laniel vẫn muốn hoà đàm
trên thế mạnh–vào khoảng tháng 4/1954, Navarre có
thể tạo được ưu thế quân sự, và có thể bắt đầu
thương thuyết. Pháp cũng sẽ chỉ nghiên cứu việc
thương thuyết nếu Hồ nhờ cậy một trung gian nào
đó. Và, Pháp sẽ thảo luận kỹ càng với Các Quốc Gia
Liên Hiệp.( 125) Ngày 7/12/1953,
Mỹ, Bri-tên và Pháp đồng ư trên nguyên
tắc họp ngũ cường.( 126)
125.
FRUS, 1952-1954, XIII:897-8.
126.
FRUS, 1952-1954, XIII:901-902.
Ngày 14/12/1953,
Hồ Chí Minh nhận lời thương thuyết với Pháp. Nhân
ngày Tết Nguyên đán Giáp Ngọ (3/2/1954), Hồ lập
lại lời đề nghị văn hồi hoà b́nh.
Trong khi đó,
Trung Cộng ra công cổ vơ cho việc t́m ḥa b́nh.
Tại Vienna, khi Lê Đ́nh Thám, Chủ tịch Ủy ban Bảo
vệ Hoà b́nh, tuyên bốÔ có thể t́m một giải pháp
hoà b́nh ở VN, Quách Mạt Nhược, trưởng phái đoàn
TC, ủng hộ nhiệt liệt. Ngày Thứ Ba, 1/12/1953,
Nhân Dân Nhật Báo đăng lại lời tuyên bố của Hồ và,
trong bài xă luận, hoàn toàn ủng hộ. Ngày
18/12/1953, Chính phủ TC tổ chức một ngày đoàn kết
với nhân dân VN tại Bắc Kinh. Lê Đ́nh Thám và Lưu
Ninh Nhất, Phó Chủ nhiệm Tổng công hội TQ, nhắc
lại những luận điểm “hoà b́nh.”
Ngày 18/2/1954,
Molotov lại kêu gọi mở hội nghị để giải quyết vấn
đề Triều Tiên và Đông Dương. Tứ cường đồng ư mời
Trung Cộng tham dự Hội nghị Geneva, khai mạc ngày
26/4. Sẽ bàn cả vấn đề Triều Tiên và Đông
Dương–hai điểm nóng của cuộc chiến tranh lạnh
Mỹ-Nga ở Á Châu, cũng hai cửa ngơ chiến lược quan
trọng của Trung Cộng.
Sau
khi Hội nghị tứ cường tại Berlin [Bá Linh] đồng
ư mời 9 phe liên hệ tham dự Hội nghị Geneva, và
khi trận Điện Biên vừa bùng nổ đợt 3, Bắc Kinh
bí mậtờ áp lực Hồ phải chấp nhận chia đôi Việt
Nam, để tránh tạo cơ hội cho Mỹ tham chiến ở
Đông Dương. Kinh nghiệm Triều Tiên c̣n đậm nét
trong tâm khảm các nhà lănh đạo Trung Cộng.
Ngày
15/3/1954,
Chu Ân Lai (1898-1975) điện thư cho Hồ đề nghị:
nên chọn một tuyến chia cắt tương đối rơ ràng để
khu vực do VNDCCH kiểm soát tương đối toàn vẹn.
Vĩ tuyến 16 có thể là một lựa chọn.( 127)
Lai cũng mời Hồ sang Bắc Kinh để thảo luận vào
cuối tháng 3 hoặc đầu tháng 4/1954. Khi
Hồ và Phạm Văn Đồng tới Bắc Kinh vào hạ tuần
tháng 3/1954, Mao, Lưu Thiếu Kỳ và Lai thúc dục
Hồ phải đạt kết quả tại Geneva.
127.
Nguyên văn: “If a cease fire is achieved, it is
better to have a relatively fixed demarcation line
so that [the DRV] can keep a relatively complete
area]. The site of the demarcation line
would be determined by two factors: its advantage
to the DRV and its acceptability to the enemy.
“The farther south the line is drawn, the better.
.
.
.
The sixteenth parallel can be considered as one
possible choice.” Zhou nianpu [Chu niên biểu],
I:358; dịch qua Anh ngữ trong Zhai, 2000:51.
Ngày
31/3/1954,
Bộ chính trị Đảng CSTH chấp thuận kế hoạch của Chu
Ân Lai và ủy Lai qua Mat-scơ-va họp bàn với Liên
Sô. Hôm sau, 1/4, Lai, Hồ và Đồng bay qua Nga. Tại
Mat-scơ-va, Lai và Hồ họp với Nikita Khrushchev và
Vyacheslav Molotov. Khrushchev chẳng kỳ vọng
nhiều, trong khi Mao coi hội nghị Geneva cực kỳ
quan trọng với Trung Cộng.( 128)
128.
Zhai, 2000:52.
Ngày
19/4,
Bắc Kinh công bố danh sách phái đoàn dự Hội nghị
do Chu Ân Lai cầm đầu. Lai cùng tùy tùng ghé qua
Mat-scơ-va để tham khảo ư kiến lần chót, và tập
luyện các nghi lễ ngoại giao quốc tế, trước khi
qua Geneva ngày 21/4/1954. Ngày này, Lai cũng nhắn
tin với Laniel là muốn gặp riêng Thủ tướng Pháp.(
129)
129.
Ngày 21/6/1954, tân Thủ tướng Mendès-France hỏi ư
kiến Thứ trưởng Ngoại Giao Mỹ, Tướng Walter B.
Smith, về dự định mời Chu Ân Lai qua Paris. Smith
nhấn mạnh là đă cảnh cáo Nga rằng không nên hạ
nhục Pháp, cần đạt một giải pháp hợp lư, và Mỹ
luôn luôn yểm trợ Pháp.
Ngày
24/4/1954, phái đoàn Chu Ân Lai tới Geneva. Gồm
200 người. Những nhân vật đáng kể nhất có ba Thứ
trưởng Ngoại giao Zhang Wentian [Trương Văn Thiên]
(1898-?), Cựu Đại sứ ở Mat-scơ-va; Wang Jiaxiang
[Vương Gia Tường](1907-1974), và Li Kenung [Lư
Khắc Nông], phụ trách t́nh báo; Wang Bingnan
[Vương Bính Nam], Tổng thư kư [Director of the
General Office] Bộ Ngoại giao. Có 5 cố vấn: Phương
Nghị, Bí thư Vụ chính trị của Bộ Ngoại Giao; Trần
Gia Khang, Vụ trưởng Vụ châu Á từ năm 1952; Huang
Hoa [Hoàng Hoa], Cố vấn bộ Ngoại Giao từ năm 1953;
Hoạn Hương, Vụ trưởng Vụ Tây Âu Bộ Ngoại Giao; và
Lôi Anh Phu. Ngoài ra c̣n một số nhân viên không
chính thức: Lôi Nhiệm Dân, Thứ trưởng Ngoại
thương; Qiao Guanhoa [Kiều Quán Hoa] và vợ là Cung
Bành, phát ngôn viên; Kha Bái Niên, Vụ trưởng Vụ
Mỹ-Australia; Wu Leng-si, Phó Giám đốc Tân Hoa xă.
Phần Pháp, ngân
sách đă kiệt quệ. Mầm mống rối loạn không những
chỉ xảy ra tại nội địa Pháp mà bắt đầu nhen nhúm ở
các thuộc địa. Áp lực chính trị của Liên Bang Mỹ
th́ ngày một tăng theo số tiền viện trợ, khiến
Pháp phải tự hỏi tại sao xương máu Pháp phải đổ
xuống để mất dần quyền sở hữu Đông Dương? Hơn nữa,
mục tiêu đích thực của Pháp là quyền lợi vật chất
và tinh thần (văn hóa). Pháp không đặt nặng vấn đề
ư thức hệ “chống Cộng” như Mỹ. (130)
130.
Ngày 25/7/1954, chẳng hạn, Mandès France tuyên
bố sẽ duy tŕ liên hệ văn hóa và kinh tế với
miền Bắc, nhưng vẫn giúp đỡ Việt Nam Tự Do
(Nam Việt Nam) phát triển. US-Vietnam
Relations, Bk 10, 1971: IV, A.3.: 1.
Mandès-France cũng hứa tôn trọng Hiệp ước
4/6/1954, trả độc lập hoàn toàn cho Việt Nam.
Thoạt tiên, Pháp,
hoặc ít nữa chính phủ Laniel, muốn đạt được ḥa
b́nh trong thế mạnh. Nhưng kế hoạch Laniel-Navarre
bị phá sản trong mùa Xuân 1954 tại Điện Biên Phủ.
Pháp nhiều lần xin Mỹ can thiệp bằng không lực (kế
hoạch Vautour hay Vulture), nhưng v́ Bri-tên và
khối ANZUS không đồng ư tham chiến, Tổng thống
Eisenhower không có quyết dịnh rơ ràng cho tới khi
Pháp thất trận Điện Biên Phủ.
B.
HỘI NGHỊ GENEVA (26/4-21/7/1954):
Ngày 26/4, Hội
nghị Geneva khai mạc. Một ngày họp về Triều Tiên,
một ngày họp về Đông Dương. Phiên họp về Triều
Tiên không thành công v́ Bắc Kinh không nh́n nhận
vai tṛ của LHQ; chỉ muốn có các nước trung lập.
Về Đông Dương, ngày 2/5, Mỹ, Bri-tên và Pháp đồng
ư công thức Hội nghị do Liên Sô đề nghị–sẽ có 9
phe tham dự, kể cả VNDCCH và Quốc Gia Việt Nam.
Ngày 3/5, Việt Minh được mời tham dự Hội nghị
Geneva. Ngày này, Ngoại trưởng Mỹ Dulles rời
Geneva. Gửi thư cho Bidault, ngỏ ư muốn giúp Pháp.
Nhưng từ đó, không trở lại Geneva nữa.
Ngày 4/5, phái
đoàn Phạm Văn Đồng tới Geneva. Có Tạ Quang Bửu, Hà
Văn Lâu, Hoàng Văn Hoan, v.. v... Ngoại trưởng
Nguyễn Quốc Định cầm đầu phái đoàn QGVN. (Sau thay
thế bằng Trần Văn Đỗ, Ngoại trưởng chính phủ Diệm)
Giữa lúc phiên họp
về Đông Dương sắp khai mạc, ngày 7/5/1954, Điện
Biên Phủ thất thủ sau 56 ngày bị vây đánh. Giấc mơ
“thương thuyết trên thế mạnh” của Pháp tan thành
mây khói. Lúc 16G45 ngày Thứ Bảy, 8/5/1954, (23G45
Việt Nam), để khai mạc Hội nghị nghị Geneva về
Đông Dương, tại trụ sở Liên Hiệp Quốc, đối diện bờ
hồ, Ngoại trưởng Pháp Bidault đề nghị ngưng bắn
tại Đông Dương để t́m hoà b́nh.
4/5/1954:
Điện-Biên-Phủ: Pháp tung Tiểu đoàn Dù
dự bị cuối cùng vào mặt trận. Tướng
de Castries nhận được kế hoạch bí mật
Albatros (Hải Âu), tức kế hoạch rút khỏi
Điện Biên Phủ qua Lào bằng 3 cánh quân,
từ đêm 7/5/1954.
Phía Mỹ không
hài ḷng. Trong hai năm 1953-1954, như đă lược
thuật, Mỹ không ngừng chống một giải pháp chính
trị cho Đông Dương. Ngày 26/4/1954, Dulles bảo
thẳng Ngoại trưởng Bidault rằng ngưng bắn là đầu
hàng. (131)
131. The
Pentagon Papers (Gravel), I:Doc. 37
[478-479].
Tuy nhiên, Bri-tên
chống lại ư muốn mở rộng chiến tranh. Ngày 27/4,
khi Dulles tuyên bố không muốn thấy ngưng bắn,
Ngoại trưởng Anthony Eden nói can thiệp bằng vơ
lực quá nguy hiểm, nguy hiểm hơn cả Triều Tiên
[Korea].( 132) Hai
ngày sau, 29/4, Dulles đề nghị với Eisenhower
rằng giữa cảnh xuống dốc của Pháp, yếu ớt của
Bri-tên, Mỹ phải đảm nhiệm vai tṛ lănh đạo.(
133) Nhưng phe quân sự Mỹ chống lại việc can
thiệp đơn phương. Eisenhower đồng
ư. Dulles chẳng có biện pháp nào hơn bày một cuộc
cờ khác.
132. Ibid., I:Doc 38
[480-481). Ngày 25/4/1954, Eden gặp Dulles ở London
vào buổi sáng, rồi Bidault ở phi trường Orly, trên
đường qua Geneva; Ibid., I:Doc 35 [477]. Ngày
26/4/1954, Dulles gặp Eden và Bidault tại tư dinh
Bidault. Eden có vẻ nghiêng về phía ngưng bắn.
Bidault cũng vậy; Ibid., I:Doc. 37 [478-479) Ngày
27/4/1954, Bidault gặp Molotov.
133. Dulte 21, ngày
29/4/1954, Dulles gửi BNG; Ibid., I:Doc 39:481-482.
Khi khó thể
tránh được việc ngưng bắn, Dulles không tham dự
Hội nghị Geneva về Đông Dương, mà chỉ cử đại diện
là Thứ trưởng Walter Bedell Smith, với chỉ thị
Smith không được liên hệ với đại diện Trung Cộng.
Mỹ, Dulles nhấn mạnh, ờ chỉ là một “quốc gia quan
tâm” [interested nation] không phải phe lâm chiến
hay một thành viên ḥa đàm [“belligerent or a
principal in the negotiation.”] Mỹ tham dự để giúp
các quốc gia [liên kết] được vẹn toàn lănh thổ và
độc lập chính trị, dưới những chính phủ vững chắc,
để họ khỏi bị rơi vào ách độc tài đế quốc Cộng Sản
[these people should not be amalgamated into the
Communist bloc of imperialistic dictatorship]. Mỹ
không chấp thuận, dù gián hay trực tiếp, việc
ngưng bắn, hay một h́nh thức nào làm tổn hại đến
các chính quyền hợp pháp. Ngoài ra, Smith phải hợp
tác với Pháp và các nước được công nhận.( 134)
134. Tel. ngày 12/5;
Ibid., I:507-508.
21/5/1954: Đề nghị
của Tổng Tham Mưu Trưởng Radford; Ibid., I:508-511)
Trước đó, Dulles
đă tiếp xúc với Bảo Đại và đang cho nghiên cứu
việc sử dụng thí nghiệm Ngô Đ́nh Diệm, hy vọng sẽ
tạo được một tiền đồn chống Cộng trên phần đất c̣n
lại phía Nam vĩ tuyến 17, với những “phần tử quốc
gia chân chính.”
Hội nghị Geneva,
trên thực tế, chỉ c̣n là cuộc mặc cả giữa Pháp với
phe Liên Sô, Trung Cộng và VNDCCH. Đại diện của
QGVN bị hoàn toàn lăng quên. Ngoại trưởng Nguyễn
Quốc Định và rồi Trần Văn Đỗ, từ ngày 12/7, chỉ
được tham dự những phiên họp công khai, không được
dự các buổi mật đàm quân sự hay chính trị
Pháp-Việt Minh.
Những buổi
họp bí mật của Ủy ban Quân sự [Commission
Militaire] Pháp-Việt Minh bắt đầu ngày 2/6/1954
giữa Tạ Quang Bửu, Hà Văn Lâu cùng Tướng Delteil
và Đại tá Marcel de Brébisson. Ngày 10/6, trong
một cuộc họp mật, Bửu đột ngột gợi ư cho việc chia
cắt Việt Nam. Đặt một bàn tay lên vùng Bắc Việt,
Bửu nói: “Chúng tôi cần một thủ đô [Hà Nội] và một
hải cảng [Hải Pḥng].”( 135)
135. Chauvel,
1972:149.
Đại diện Pháp
ngạc nhiên, nhưng hân hoan khôn tả. Nguyên tắc
chia đôi Việt Nam đă được Hà Nội đề xướng. Tướng
Paul Ely, tân Tổng Ủy viên Đông Dương, kiêm Tổng
Tư lệnh quân viễn chinh Pháp, không muốn mất Hà
Nội hay Hải Pḥng. Pháp đề ra phương pháp ngưng
bắn da beo (leopard spot), hay ngưng bắn tại chỗ.
Các chiến lược gia Mỹ cho rằng Bắc Việt là trọng
điểm của cánh cung bảo vệ toàn vùng Đông Nam Á nên
không đồng ư. Cuối cùng, Pháp chấp nhận chia đôi
Việt Nam, mỗi phe tập trung vào một khu vực rơ
ràng. Về vấn đề Lào và Kampuchea, Pháp đ̣i hỏi
Việt Minh phải rút quân khỏi hai nước này. Việt
Minh, do áp lực của Trung Cộng, đồng ư; đổi lấy
điều kiện không một quốc gia thứ ba nào được thiết
lập căn cứ quân sự trên lănh thổ ba nước Đông
Dương.
Vấn đề chính
trị bắt đầu thảo luận từ ngày 29/5/1954. Tuy nhiên
Chauvel và Phạm Văn Đồng không đạt được kết quả
đáng kể tại các phiên họp công khai. Từ ngày Thứ
Bảy 12/6, Đồng và Chauvel bắt đầu mật đàm. Vấn đề
gay go nhất là vai tṛ của chính phủ QGVN. Đồng
muốn Pháp trả hoàn toàn độc lập cho VNDCCH, bỏ rơi
chế độ QGVN. Nhưng Pháp, với sự yểm trợ của
Bri-tên và Mỹ, muốn cho QGVN một cơ hội. Đó là
tổng tuyển cử để quyết định thể chế tương lai.
Việt Minh muốn tổng tuyển cử trong ṿng 6 tháng,
nhưng Pháp muốn kéo dài càng sớm càng tốt. [Cuối
cùng, Molotov và Chu Ân Lai đồng ư sẽ tổng tuyển
cử trong ṿng hai năm].
Hội nghị
Geneva, tưởng cần lập lại, là cơ hội cho Bắc Kinh
xuất hiện như một cường quốc sau 5 năm năm bị cô
lập và phong tỏa. Chu Ân Lai muốn bằng mọi giá
ngăn chặn sự can thiệp của Mỹ vào Đông Dương, cửa
ngơ chiến lược Đông Nam của Trung Cộng. (Hai cửa
ngơ chiến lược khác là Đại Hàn và Đài Loan).
Ngày 18/5, một
cộng sự viên của Chu Ân Lai nói với Pháp là Trung
Hoa tới Geneva để t́m hoà b́nh, không phải để ủng
hộ Việt Minh.( 136)
136.
Jian, 1993:108.
Ngày 30/5, Chu
Ân Lai điện cho Bắc Kinh và Hà Nội, thông báo nếu
cần có thể biến Hà Nội, Hải Pḥng và quốc lộ số 5
nối liền hai thị xă này thành vùng phi quân sự.
(137)
137.
Sự thật về quan hệ Việt Nam-Trung Quốc
trong 30 năm qua (Hà Nội: Sự Thật, 1979), tr.
32.
Ngày 20/6/1954,
Mao chỉ thị Cố vấn quân sự Trung Cộng ngăn Giáp mở
rộng chiến tranh vào Trung và Nam Việt, hay tiến
đánh châu thổ sông Hồng.( 138)
138.
Jian 1993:107. Molotov cũng gửi điện văn cho Hồ, yêu
cầu đừng mở rộng chiến tranh, đang có triển vọng ḥa
b́nh; Giáp, Điện Biên Phủ (2001), tr. 409.
Tuy nhiên, thương
thuyết bế tắc v́ hai vấn đề quan trọng: Vấn đề
Kampuchea-Lào và ranh giới phân chia Việt Nam; và,
vấn đề trung lập hóa Đông Dương. Thái độ của phe
Cộng Sản bỗng cứng rắn hơn sau khi Molotov về
Mat-scơ-va từ ngày 30/5 tới 2/6. Một trong những
nguyên do có lẽ là việc Laniel quyết định trao trả
độc lập cho chế độ Bảo Đại ngày 4/6/1954. Ngày
6/6, phe Cộng Sản đả kích chính phủ Laniel và Mỹ.
Ngày 8/6, Molotov đả kích Ngoại trưởng Bidault đă
tạo nên những trở ngại cho con đường tái lập ḥa
b́nh. Hai ngày sau, 10/6, Molotov đề nghị Pháp bàn
thảo vấn đề chính trị trực tiếp với Việt Minh.
Ngày 12/6, chính
phủ Laniel bị bất tín nhiệm. Hai ngày sau, 14/6,
t́nh h́nh căng thẳng đến độ các quan sát viên lo
sợ rằng Hội nghị Geneva sẽ đổ vỡ. Tuy nhiên, phía
sau hậu trường, những cuộc thương thuyết mật tạo
được nhiều tiến bộ. Phe Cộng Sản phân chia trách
nhiệm rơ ràng: Liên Sô phụ trách các vấn đề tổng
quát, kiểm soát đ́nh chiến, và những nguyên tắc
chính trị. Trung Cộng chịu trách nhiệm những vấn
đề thực tế, biên giới, vùng tập trung.
Ngày 15/6,
tại Geneva, Molotov, Lai và Đồng họp mật. Lai, với
sự đồng ư của Molotov, ép Đồng phải chấp nhận
những giải pháp riêng biệt cho Việt Nam, Lào và
Kampuchea–tức triệt thoái quân Việt Minh khỏi
Kampuchea và Lào. (139)
139. Jian, 1993:108.
Hôm sau, 16/6, Lai
công khai phá vỡ sự bế tắc bằng cách chấp nhận
quân ngoại quốc phải triệt thoái khỏi Kampuchea và
Lào.
Ngày 17/6, Lai gặp
Bidault, cho biết đồng ư có hai nước Việt Nam,
công nhận chính phủ hiện hữu ở Lào và Kampuchea,
và rút hết quân ngoại quốc khỏi hai vương quốc
này.
Đêm 19/6, Molotov
bay về Mat-scơ-va. Phần Eden và Smith cũng rời
Geneva.
Ngày
21/6,
UBQS
không
họp.
Đại
tá de Brebisson gặp Hà Văn Lâu để dàn xếp cho
Chauvel gặp Phạm Văn Đồng. Hôm sau, 22/6, gặp
Chauvel, Đồng nói:
Các
ông
cứ lần lữa, các ông cứ ngần ngại quyết định....
Những người Việt mà các ông hết ḷng yểm
trợ–điều này các ông rơ hơn ai hết–sẽ bắn vào
lưng người Pháp trước khi ngả qua phe chúng tôi.”
(140)
140.
Nguyên văn: “Vous tergiversez, vous hésitez à
prendre la décision.... Les vietnamiens que vous
soutenez à bout de bras–vous le savez
d'ailleurs–tireront dans le dos des Francais avant
de passer chez nous;“ SHAT (Vinvennes), 1K xxx.
Đêm
22-23/6/1954, Delteil, de Brébisson lại họp mật
cùng Bửu và Lâu.
Từ
ngày
Quốc
Hội
Pháp
cửợ
Mendès-France
lập chính phủ mới, lời tuyên bố sẽ từ chức nếu không
đạt được Hiệp ước trong ṿng 4 tuần lễ của
Mendes-France khiến Mỹ lo ngại. Ngày 17/6, Dulles
chỉ thị cho phái đoàn Mỹ ở Geneva là Mỹ không có ư
định “bán” [sell] việc chia cắt đất nước với phe
QGVN. Dulles cũng cho lệnh U. Alexis Johnson lưu ư
phái đoàn Pháp [Chauvel] về điều kiện di tản quân
Pháp và kiều dân, cùng giáo dân Ki-tô Việt.( 141)
141.
The Pentagon Papers
(Gravel), I:531 [Doc. 190].
Nhưng ngày
18/6, U. Alexis Johnson báo cáo về Oat-shinh-tân
rằng theo Chauvel, đ́nh chiến kiểu “da beo”
[leopard spot] không thực tiễn. Pháp sẽ đồng ư
chia vào khoảng vĩ tuyến 19, phía Bắc Đồng Hới.
Mật đàm với phái đoàn VM không mang lại kết quả v́
VM cứng rắn hơn.( 142)
142.
Ibid., I:533.
Ngày 18/6, khi
gặp Thứ trưởng Smith, Molotov cũng khuyên Mỹ nên
chấp nhận chia đôi Việt Nam. Pháp không thể đuổi
theo hai thỏ cùng một lúc. Sau khi chia đôi, sẽ
t́m cách thống nhất bằng tuyển cử. Muốn giải quyết
vấn đề Đông Dương, nên thực tế [realistic].(
143)
143.
Ibid., I:535-536.
Trong buổi hội
kiến giữa Mandès-France và Smith tại Quai d’Orsay
ngày 20/6/1954, Mandès-France yêu cầu Mỹ can thiệp
để Diệm, “a fanatic giống như Lư Thừa Văn,” t́m
cách chống lại việc thương thuyết.( 144)
144.
FRUS, 1952-1954, XIII:2:1726.
Ngày Thứ Tư
23/6, Lai gặp Mendès-France ở Berne, thủ đô
Switzerland. Lai, theo Chauvel nói với Dillon,
chấp nhận có hai nước Việt Nam. Giải pháp sẽ qua
hai giai đoạn: Ngưng bắn càng sớm càng tốt, và ḥa
b́nh có thể cần nhiều thời gian. Lai chấp thuận đề
nghị của Pháp là giải quyết vấn đề quân sự trước,
chính trị sau. Trước hết, ngưng bắn và tập trung
tại những vùng lớn rộng. Lai sẵn sàng thảo luận
vùng tập trung nếu Pháp muốn, nhưng Mendès-France
muốn bàn ở Geneva. Vấn đề chính trị, sẽ do hai
chính phủ Việt Nam thảo luận. Pháp có thể tiếp tay
vào những cuộc thương thuyết này. Mendes-France
nói chiến tranh đă kéo dài hơn 8 năm, cần thời
gian cho hai bên nguội lại [cool off]. Lai im
lặng, không đ̣i bầu cử sớm nữa. Mendès-France c̣n
yêu cầu Lai can thiệp cho phe Việt Minh bớt cứng
rắn hơn. Lai đồng ư. (145)
145.
CĐ 5035, 24/6/1954, Dillon gửi BNG; The Pentagon
Papers (Gravel), I:537-538. Chauvel trở lại Geneva
tối ngày 24/6 và tiếp tục nói chuyện với Việt Minh
hôm sau, 27/6; Ibid.]
Hôm sau, Thứ Năm,
24/6, Mendès-France họp mật với Charles Guy la
Chambre, Parodi, Chauvel và Ely. Rồi cho lệnh phái
đoàn Pháp đề nghị chia đôi VN ở vĩ tuyến 18.
Trước một sự
việc đă rồi, ngày 24/6 Dulles cho phái đoàn Geneva
biết vai tṛ của Mỹ sẽ rút c̣n “người quan sát.”(
146)
146. Ibid.,
I:538-539.
Hai ngày sau,
Thứ Bảy, 26/6, Đại sứ Pháp Henri Bonnet trao cho
Dulles một văn thư tóm lược về diễn tiến Hội nghị
Geneva. Ngày 28/6, trả lời văn thư ngày 26/6 của
Mendès-France–đặc biệt là yêu cầu Mỹ can thiệp để
Diệm đừng phản ứng nông nổi về việc chia cắt đất
nước(147)–Dulles nêu lên 7 điều kiện căn bản mà Mỹ
và Bri-tên đă đồng ư trong cuộc họp thượng đỉnh
Eisenhower-Churchill từ ngày 25 tới 29/6/1954 về
việc ngưng bắn:
147.
FRUS, 1952-1954, XIII:2:1757; Gravel
I:539-540
1. Duy tŕ sự
toàn vẹn lănh thổ và độc lập của hai nước Miên,
Lào; bảo đảm việc triệt thoái quân đội VM khỏi
hai quốc gia này.
2. Duy tŕ ít nhất miền Nam VN, và nếu có thể
một “túi” [enclave] ở miền Bắc. Giới tuyến không
thể nằm xa hơn phía Nam Đồng Hới [tức vĩ độ
17.5]. (VM đang đ̣i vĩ tuyến 13; Pháp chỉ chịu
cắt ngang vĩ tuyến 18, v́ cần đường thông thương
qua Lào, tức QL-9).
3. Không áp
đặt lên Lào, Kampuchea và phần c̣n lại của Việt
Nam bất cứ một giới hạn nào làm giảm tiềm năng
duy tŕ những chế độ không Cộng Sản vững vàng;
đặc biệt là những giới hạn làm giảm quyền duy
tŕ các lực lượng thích ứng để giữ an ninh trong
nước, quyền nhập cảng vũ khí và sử dụng cố vấn
nước ngoài.
4. Không có
những điều khoản chính trị khiến vùng đất c̣n
lại của Việt Nam có thể sẽ lọt vào tay Cộng Sản.
5. Không loại
trừ viễn tượng thống nhất VN bằng phương thức
hoà b́nh. (VM đ̣i trong ṿng 6 tháng; Pháp muốn
1 năm sau ngày rút quân)
6. Cung cấp
những phương tiện di chuyển yên ổn và nhân đạo,
dưới sự kiểm soát quốc tế, cho những người tự
nguyện muốn rời vùng này qua vùng khác.
7.
Cung cấp hệ thống kiểm soát quốc tế. (148)
148.
FRUS, 1952-1954, XIII:2:1758.
Ngày 30/6, Đại sứ
Dillon mới trao được công điện trên cho
Mendès-France.
Thời gian này,
Hội nghị Geneva tạm ngưng họp cho các Ngoại trưởng
về nước tham khảo. T́nh h́nh chiến sự tại Đông
Dương cũng cực kỳ bất lợi cho Pháp.
Ngày 24/6, tại
miền Trung, trận An Khê nổ lớn. Chiến đoàn lưu
động [GM] 100 của Pháp bị tiêu diệt.( 149)
149. Giáp, ĐBP,
2001:402.
Tại miền
Bắc, ngày 22/6, Pháp triệt thoái các tỉnh Hà Nam,
Bùi Chu, Phát Diệm và Nam Định về hướng Hải Pḥng,
giao cho QĐVN trách nhiệm bảo vệ lănh thổ. Ngày
Thứ Năm, 24/6, Thủ hiến Nguyễn Hữu Trí–lúc đó đang
vận động xin Mỹ viện trợ để bảo vệ Bắc Việt–mới
báo cáo rằng Pháp triệt thoái miền Nam châu thổ.
Hai ngày sau, Thứ Bảy, 26/6, Tướng Cogny gặp Trí,
chính thức thông báo việc quân Pháp triệt thoái từ
4 ngày trước.
Cuộc triệt
thoái này cũng khiến Thủ tướng được chỉ định Ngô
Đ́nh Diệm như ngồi trên lửa bỏng. Hai tỉnh Bùi
Chu, Phát Diệm là vùng đông giáo dân Ki-tô bậc
nhất miền Bắc, và là một trong những thế tựa của
Diệm khi đi xin viện trợ Mỹ từ năm 1950. Bởi thế,
Diệm không ngớt yêu cầu Mỹ can thiệp. Nhưng những
lời chỉ trích cay đắng của họ Ngô–như không quân
Pháp oanh kích vào đoàn người di tản–chẳng thay
đổi ǵ được t́nh thế.( 150)
150.
FRUS,
1952-1954,
XIII:1762-1763;
Chính
Đạo,
Nhân vật chí, 1997:272.
Tại Geneva,
ngày 30/6, Đại tá de Brébisson được Tướng Ely giải
thích rằng kế hoạch rút Nam Bắc Việt đă được hoạch
định từ ngày 15/5 và thuần có tính cách chiến
lược, nhằm bảo vệ đạo quân viễn chinh Pháp. Đích
thân Ely đă trao lệnh triệt thoái cho Navarre
trong dịp qua Đông Dương. Trong khi đó, nhân dịp
ḥa đàm ngưng họp, Chu Ân Lai chu du một số nước ở
Á châu, như India và Burma, cổ vơ chính sách sống
chung ḥa b́nh. Ngày Thứ Bảy, 3/7, Lai mời Hồ qua
Liễu Châu (Nam Ninh) để thảo luận cho tới ngày
5/7. Vơ Nguyên Giáp được tháp tùng. Lai thuyết
phục Hồ nên chấp nhận chia đôi Việt Nam ở khoảng
vĩ tuyến 16; giải quyết vấn đề Kampuchea và Lào
riêng biệt–quân Pathet Lào sẽ tập trung ở vùng Sầm
Nuea và Phong Saly; Kampuchea có thể theo chế độ
không Cộng Sản. Theo tài liệu Trung Cộng, Hồ đồng
ư.( 151)
151.
Jian 1993:109. Tài liệu CSVN ghi Lai và Hồ gặp nhau
ở “biên giới Việt-Trung;” Sự kiện 1990:92; VKĐTT,
15:1954, 2001:167n. Theo Giáp, Lai đề nghị vĩ tuyến
17, nhưng Hồ không chấp thuận; Giáp, Điện Biên Phủ,
2001:406-408.
Ngày Chủ Nhật
5/7, theo tư liệu Trung Cộng, Bộ chính trị Đảng
Lao Động Việt Nam ra nghị quyết theo chiều hướng
lời cố vấn của Lai.( 152)
152.
Jian, 1993:109. Giáp không nhắc đến chi tiết này.
Theo Giáp, Hội nghị Trung ương lần thứ 6 họp ngày
15/7/1954 mới biểu quyết việc chia đôi theo vĩ tuyến
17; Giáp, Điện Biên Phủ, 2001:409-410.
Tại
Geneva, ngày 8/7, đại diện quân sự Việt Minh đề
nghị ranh giới ở phía Bắc Tuy Ḥa 40 cây số; và
hưu chiến 90 ngày cho Pháp di tản châu thổ sông
Hồng. Đại tá de Brébisson không thuận và cũng
không hẹn ngày gặp lại.
Ngày
8/7 này, Chauvel ăn tối với Lư Khắc Nông [Li
Konung] và Trương Văn Thiên [Zhang Wentian], Cựu
Đại sứ ở Mat-scơ-va. Có cả Đại sứ Liên Sô. Chauvel
than phiền về thái độ cứng rắn của Việt Minh. Đại
diện TC cho biết Lai đă nói chuyện [very good
meeting] với Hồ và có kết quả tốt cho Pháp.
Hai ngày sau,
Thứ Bảy, 10/7, từ Bắc Kinh, Lai điện cho Việt
Minh: “Phải có những điều kiện công bằng và hợp lư
để chính phủ Pháp có thể nhận được, để đi đến hiệp
định trong ṿng 10 ngày, điều kiện đưa ra nên giản
đơn, rơ ràng để dễ đi đến hiệp thương, không nên
làm phức tạp lôi thôi để tránh thảo luận mất th́
giờ, rườm rà, kéo dài đàm phán để cho Mỹ phá hoại.”(
153)
153.
STVQHVNTQ, 1979:32.
Ngày 9/7, Chauvel
cũng gặp Molotov. Chauvel yêu cầu cho làm việc với
phái đoàn quân sự Liên Sô. Theo Chauvel, nếu chỉ
nói chuyện với đại biểu Nga và TC, sẽ đạt được
những điểm mà Mỹ và Bri-tên đề ra. Ngày Thứ Bảy,
10/7, Molotov gặp Mendès-France. Ngày 11/7,
Mendès-France gặp Phạm Văn Đồng.
Ngày 11/7, Lai
cũng trở lại Geneva. Hôm sau, 12/7, khi gặp
Mendès-France tại Berne, Lai đồng ư vĩ tuyến 17.
Nhưng buổi tối, Lai chưa thuyết phục được Đồng.
Đồng chỉ bằng ḷng cắt đất từ vĩ tuyến 16. (Joyaux ghi
ngày 13/7, tr. 287, 290). [Xem
20/7/1954]
Thời gian
này, Pháp cũng không khỏi lo ngại về thái độ của
Mỹ. Ngày 6/7, Đại sứ Dillon báo cáo về BNG Mỹ là
các Ngoại trưởng sẽ trở lại ngày 12/7, và Pháp yêu
cầu Dulles hoặc Smith trở lại Geneva. Dulles không
đồng ư. (154)
154. The
Pentagon Papers (Gravel), I:546, 548, 550-551 [thư
ngày 10/7 gửi Mandès-France], 552-553 [phản ứng
của Mendès-France ngày 11/7/1954]) Sau đó ngày
14/7, cho Smith trở lại Geneva; Ibid., I:557.
Cũng ngày
6/7 này, Mendès-France nói với Dillon là ngày hôm
sau, 7/7, Mendès-France sẽ tuyên bố là nếu ngày
21/7 chưa đạt được ḥa ước, sẽ ra một dự luật gửi
quân dịch [conscripts] qua Đông Dương.
Mendès-France sẽ khiến dự luật trên được biểu
quyết trước khi từ chức, và chuyến tàu chở quân
dịch qua Đông Dương sẽ bắt đầu ngày 25/7/1954.(
155)
155. Ibid., I:545.
Dẫu vậy, ngày Chủ
Nhật, 11/7, Dillon trao cho Pháp thư Dulles gửi
Mendès-France, thông báo ḿnh hoặc Bedell Smith
không thể trở lại Geneva, và U. Alexis Johnson vẫn
tiếp tục làm quyền trưởng đoàn.
Hôm sau, 12/7,
Molotov gặp Chu Ân Lai tại Geneva, rồi gặp
Mendès-France tại Berne. Lai đồng ư chia cắt Việt
Nam theo vĩ tuyến 17. Buổi tối 12/7, Lai gặp Đồng.
Đồng bằng ḷng chia cắt, nhưng cương quyết chọn vĩ
tuyến 16 (phía Nam Đà Nẵng). Trước đó Đồng và Bửu
chỉ thuận nhường đến vĩ tuyến 13, tức phía Bắc Phú
Yên.
Ngày 13/7, do
Pháp yêu cầu, Dulles bay sang Paris gặp
Mendès-France. Theo Mendès-France, cả Liên Sô,
Trung Cộng và Việt Minh đều muốn ngưng chiến v́ sợ
Mỹ can thiệp vào Đông Dương. Thủ tướng Pháp yêu
cầu Dulles có mặt ở Paris; và tiết lộ Pháp chỉ
thuận cắt đất tới vĩ tuyến 18. Bởi thế, ngày 14/7,
Dulles đồng ư gửi Tướng Smith trở lại Geneva. Hôm
sau, 15/7, Dulles báo cáo trước HĐ/ANQG rằng
Mendès-France hứa sẽ cho Việt Nam độc lập nhiều
hơn Laniel. Nếu Hội nghị Geneva thất bại, sẽ gửi
hai Sư đoàn qua Đông Dương.( 156)
156.
Ibid., I:558-559; SHAT (Vincennes), xxx. Từ ngày
2/7/1954, Ely đă viết thư cho Tổng Tham Mưu Trưởng
Pháp, đề nghị nếu Geneva thất bại sẽ gửi qua Đông
Dương sư đoàn 11 Bộ binh và các đơn vị Tổng trừ bị;
Ibid.
Tại Việt Bắc, Ban
CH/TƯƯ Đảng LĐVN triệu tập Hội nghị thứ 6 (mở
rộng) từ ngày 15 tới 18/7/1954, để thảo luận về
đ̣i hỏi của Lai. HCM báo cáo về “t́nh h́nh mới,
nhiệm vụ mới.” Hồ chỉ trích bọn “tả khuynh” chống
lại việc tạm thời chấp nhận chia cắt Việt Nam. “Tả
khuynh” thấy thắng luôn, muốn đánh bừa, đánh đến
cùng, chỉ thấy cây mà không thấy rừng, chỉ thấy
Pháp mà không thấy Mỹ, thiên về tác chiến, xem
khinh ngoại giao. . . Tả khuynh th́
sẽ bị cô lập, sẽ xa rời nhân dân ta và thế giới,
và sẽ thất bại.” Trường Chinh báo cáo về “Hoàn
thành nhiệỳm vụ mới và đẩy mạnh công tác trước
mặt.” Chủ trương tranh thủ và củng cố hoà b́nh,
thực hiện thống nhất, hoàn thành độc lập, và tiếp
tục cải cách ruộng đất. Vơ Nguyên Giáp báo cáo về
“Sự tiến triển của Hội nghị Genève.” Theo Giáp, đế
quốc Mỹ trở thành kẻ thù chính trực tiếp của nhân
dân Đông Dương. Chủ trương “tranh thủ và củng cố
hoà b́nh, thực hiện thống nhất, hoàn thành độc
lập.” Cuối cùng, Ban CH/TƯƯ ra nghị quyết chủ
trương “tranh thủ và củng cố hoà b́nh, thực hiện
thống nhất, hoàn thành độc lập,” và tiếp tục cải
cách ruộng đất. (157)
157. VKĐTT, 15:1954,
2001:170-171; Jian 1993:109.
(VKĐTT,
15:1954, 2001:173-227).
(VKĐTT,
15:1954,
2001:223-227;
50
năm,
1982:135-6).
Giáp,
Điện Biên Phủ, 2001: 409-410.
Phần
tư thế kỷ sau, vào tháng 10/1979, Hà Nội lên án
Mao Trạch Đông và đồng bọn đă phản bội VNDCCH,
ngăn cản nhân dân ba nước Đông Dương đạt thắng
lợi hoàn toàn; Sách Trắng, 1979:35-36; Trường
Chinh, “Nhân dân Việt Nam cương quyết đánh bại
mọi mưu mô xâm lược của chủ nghĩa bành trướng và
chủ nghĩa bá quyền nước lớn;” Tạp Chí Cộng Sản
(3/1982), trích in trong Chống chủ nghĩa bành
trướng bá quyền Trung Quốc (Hà Nội: 1983), tr.
41 [33-55].
Thứ Bảy, 17/7,
Chu Ân Lai tuyên bố ở Geneva rằng hạn định tổng
tuyển cử sẽ do Pháp và VM bàn định trực tiếp. Tuy
vậy, ngày Thứ Hai, 19/7, Vương Bính Nam nói với
Đại tá Guillermarz tại Geneva là có thể Tổng tuyển
cử vào năm 1956.
Về vấn đề Ủy
ban Kiểm Soát Đ́nh chiến [ICC], ngày Chủ Nhật,
18/7, Chu Ân Lai nói với Eden là đồng ư cho India,
Canada và Poland trong Ủy ban Kiểm soát đ́nh chiến.
Như thế chỉ c̣n
lại vấn đề trung lập hóa Đông Dương và thái độ của
Mỹ. Ngày 18/7, Hoàng Hoa, phát ngôn viên phái đoàn
TC, tuyên bố với AP: “Vấn đề căn bản là không hiểu
các nước Tây phương có đồng ư vấn đề trung lập hoá
Đông Dương hay chăng.” Hoàng Hoa cũng hy vọng Mỹ
sẽ tôn trọng những Hiệp ước sẽ được kư kết. Nhưng
trưa Thứ Ba, 20/7, khi ăn cơm với Mendès-France,
Lai bỏ điều kiện trung lập hoá Đông Dương.
Chiều đó,
Mendès-France, Chu Ân Lai, Anthony Eden và Phạm
Văn Đồng họp mật tại villa Le Bocage, tư dinh của
Molotov để giải quyết những vấn đề tồn đọng.
Molotov quyết định chọn vĩ tuyến 17 (VM đ̣i vĩ
tuyến 16, Pháp đ̣i vĩ tuyến 18). Molotov cũng
quyết định tổng tuyển cử trong ṿng 2 năm (VM đ̣i
6 tháng).
Thứ Tư, 21/7,
Hiệp ước Geneva được kư kết. Căn bản là hiệp định
quân sự kư giữa Tạ Quang Bửu và Delteil. Việt Nam
chia làm 2 vùng tập trung; ranh giới là vĩ tuyến
17 (sông Bến Hải hay Cửa Tùng). Một khu phi quân
sự, rộng không quá 5 cây số dài theo hai bên bờ
sông Bến Hải, bắt đầu có hiệu lực từ ngày
14/8/1954.( 158)
158.
Tạ Quang Bửu cũng đại diện Lào kư với Pháp hiệp ước
ngưng bắn; và kư một hiệp ước ngưng bắn khác với Bộ
trưởng Quốc Pḥng Miên, Neak Tieulong.
Hai bên
chính thức ngừng bắn ngày 27/7 ở Bắc, 1/8 ở Trung,
Lào ngày 6/8, Kampuchea ngày 7/8 và Nam bộ ngày
11/8/1954.( 159)
159. Giáp, ĐBP,
2001:414.
Phía Quốc
Gia Việt Nam, bị lăng quên, không khỏi bi phẫn.
Ngày Thứ Bảy, 17/7/1954, Nguyễn Hữu Châu gửi cho
Pháp một văn thư phản kháng việc không được thông
báo ǵ về vấn đề chia cắt Việt Nam, và yêu cầu đặt
Việt Nam dưới sự kiểm soát của Liên Hiệp Quốc.(
160)
160. The
Pentagon Papers (Gravel), I:560-561.
Trong phiên
họp thu hẹp thứ 23 do Molotov làm chủ tọa ngày hôm
sau, Chủ Nhật 18/7, Trần Văn Đỗ tuyên bố sẽ không
tham dự vào cuộc thảo luận bản tuyên cáo chung, vi
Việt Nam không có cơ hội được bày tỏ lập trường và
quan điểm.( 161)
161. Ibid.,
I:563-565.
Phần
Thứ trưởng Smith khẳng định Mỹ sẽ không phá hoại
giải pháp chính trị bằng vơ lực. Mỹ không kư vào
baản tuyên cáo chung, nhưng tôn trọng [respect]
những điếu thỏa thuận.
Tại Sài
G̣n, ngày 19/7, Diệm nói với Heath là sẽ không kư
Hiệp định nếu không có một vùng lănh thổ tại miền
Bắc. Sau đó, sửa lại thành một vùng lănh thổ dưới
sự kiểm soát của quốc tế. Khi được hỏi về lời
tuyên bố của Ngoại trưởng Đỗ tại Geneva là không
chịu chia cắt VN và xin đặt VN dưới sự kiểm soát
của Liên Hiệp Quốc, cả Diệm lẫn XLTV Ngoại trưởng
Nguyễn Dương Đôn tránh trả lời. Trong khi đó mặc
dù coi ngưng bắn là một sự đầu hàng
[capitulation], Cao Ủy Ely tuyên bố sẽ dùng mọi
biện pháp để ngăn chặn những cuộc biểu t́nh chống
Pháp. Và, sẽ cho lệnh bắt Diệm nếu cần.( 162)
162.
FRUS, 1952-1954, XIII, 2:1855.
Cả Liên Sô lẫn
Trung Cộng đều muốn chấp nhận sự hiện hữu trên
thực tế hai nước Việt Nam, theo kiểu Đông-Tây
Germany hay Nam-Bắc Triều Tiên. Chín năm kháng
chiến, hàng trăm ngàn binh sĩ tử vong, hàng triệu
thường dân bị sát hại, tài sản đất nước khánh
kiệt, Hồ và Đảng LĐVN chỉ được một phần đất hẹp
hơn vùng lănh thổ giải giới quân Nhật của Tưởng
Giới Thạch năm 1945-1946, hay một ”nước Việt Nam
tự do” mà Georges Thierry d’Argenlieu muốn dành
cho Hồ năm 1946. Đổi lại, chỉ có lời hứa sẽ tổng
tuyển cử trong ṿng hai năm–lời hứa mà siêu cường
Mỹ chỉ “respect” [tôn trọng], nhưng không cam đoan
sẽ tuân theo. Dẫu vậy, Hồ Chí Minh cũng đạt được
những thắng lợi to lớn. Quyền kiểm soát miền Bắc
vĩ tuyến 17 đă thu đoạt được bằng họng súng–hoặc,
văn hoa hơn, bằng bạo lực cách mạng. Khác với t́nh
cảnh cô lập của những năm 1945-1947, Hồ có cả một
hậu phương vĩ đại là Trung Cộng, Nga Sô và khối
Cominform, nguồn cung cấp quân và kinh viện. Không
kém quan trọng, Hồ có một đạo quân chính qui trên
300,000 người được tôi luyện qua 8 năm chiến
tranh. Và thêm một hiệp ước nh́n nhận, ít nhất
trên lư thuyết–với sự chứng kiến của hầu hết cường
quốc–sự chính thống của chế độ Hồ.
Sau ngày Hiệp
định Geneva kư kết, Mỹ tuyên bố không bị ràng buộc
bởi Hiệp ước nhưng chỉ “tôn trọng” nó. Tôn trọng,
theo Dulles, có nghĩa sẽ không chống lại một giải
pháp dựa trên tinh thần tuyên bố 7 điểm ngày
28/6/1954.( 163)
163. FRUS,
1952-1954, XIII:1757 [Từ ngày 7/7/1954, Dulles đă
chỉ thị cho Đại sứ Mỹ ở Paris: “Respect” means “we
would not oppose a settlement which conformed to
seven points contained Deptel 4583 (dated June 28,
1954]; FRUS, 1952-1954, XIII:1757], 1791-1792 [It
does not mean we would guarantee such settlement
or that we would necessarily support it publicly.
“Respect” would also mean that we would not seek
directly or indirectly to upset settlement by
force.” (Ibid., XIII:1791-1792) Hôm sau,
trong công điện số 5 gửi Paris, sao gửi Sài G̣n,
Dulles nhấn mạnh là phải có sự đồng ư của các Quốc
Gia Liên Kết nữa. (Ibid., XIII:2:1792n5)
Thí nghiệm sơ
khởi của Mỹ là tạo nên một chính phủ bản xứ mạnh,
nhiệt t́nh chống Cộng, dưới sự che chở của đạo
quân viễn chinh Pháp và Hiệp định Geneva (mà cả Mỹ
và QGVN không kư kết hoặc nh́n nhận). Bảo Đại được
tạm thời giữ làm Quốc trưởng, nhưng mọi quyền hành
đều ủy nhiệm cho Thủ tướng Diệm. Bộ Ngoại Giao Mỹ
hy vọng rằng Diệm sẽ có khả năng thành lập một
chính phủ chống Cộng mà Mỹ mong muốn.( 164)
164. Có những dấu
hiệu cho thấy thí nghiệm Ngô Đ́nh Diệm là do các
viên chức Pháp thuộc cánh hữu (nhân viên chính phủ
Laniel) đề xướng. Ngày 9/5/1955(?),Ngoại trưởng
Dulles nói thẳng với Thủ tướng Pháp Edgar Faure rằng
việc chọn Diệm làm Thủ tướng không do Mỹ. Ngày
8/5/1955, một phụ tá của Faure, đặc trách Việt Nam,
nh́n nhận chính Pháp đă do Pháp chọn v́ nghĩ rằng
Diệm là người có cơ hội thành công; FRUS, 1955-1957,
I:378-380.
Nhờ sự trợ giúp
của Liên Bang Mỹ và một số nước khác, hơn 800,000
dân miền Bắc bỏ quê hương vào Nam “t́m tự do.”
Tháng 10/1955, sau khi đoạt lại quyền chỉ huy quân
đội, Cảnh sát và đánh dẹp xong các sứ quân, Thủ
tướng Diệm tổ chức “trưng cầu dân ư” truất phế Bảo
Đại, rồi tuyên bố thành lập một chế độ Cộng Ḥa.
Hiệp ước Geneva không những bị vi phạm, mà một số
người liên quan đến Hiệp ước trên đều biến khỏi
sân khấu quyền lực.
Kết Luận:
Từ thời điểm
này nh́n lại, Điện Biên Phủ và Geneva là hai mặt
của đồng tiền chiến tranh kháng Pháp. Chiến công
Điện Biên Phủ khiến Hội nghị Geneva sớm được khai
mạc và kết thúc; trong khi Hội nghị Geneva nâng
tầm quan trọng chiến lược của Điện Biên vượt ngoài
biên độ của nó.( 165)
165.
Sau này, Hồ ví chiến dịch CCRĐ như một thứ Điện Biên
Phủ chống địa chủ phong kiến. Năm 1972, giới lănh
đạo gọi cuộc oanh tạc vào dịp Giáng Sinh 1972 như
một thứ “Điện Biên Phủ trên không.”
Hiệp định
Geneva kư vào lúc 1 giờ sáng ngày 21/7, nhưng kim
đồng hồ tại pḥng họp được vặn ngược lại một giờ
để Thủ tướng Mendès-France (21/6/1954-6/2/1955)
giữ được lời hứa hoàn thành thương thuyết trong
ṿng 4 tuần lễ, và trên thực tế hiệp ước này hoàn
tất vào khoảng 8 giờ sáng ngày 21/7/1954 Việt Nam.
Văn bản quan trọng nhất là hiệp ước đ́nh chiến, kư
giữa Tạ Quang Bửu và Delteil: Việt Nam tạm chia
làm hai vùng tập trung quân đội sau khi ngưng bắn
để đi tới một giải pháp chính trị cho việc thống
nhất đất nước qua tổng tuyển cử hai năm sau. Ranh
giới tạm thời là vĩ tuyến 17 (sông Bến Hải-Cửa
Tùng). Một khu phi quân sự, rộng không quá 5 cây
số dài theo hai bên bờ sông Bến Hải, bắt đầu có
hiệu lực từ ngày 14/8/1954. Phía Nam vĩ tuyến 17
dành cho Pháp và phe QGVN chống Cộng. Ủy Ban Quốc
Tế Kiểm Soát Đ́nh Chiến [UBQT/KSDC] gồm Poland,
Canada và India. India là Chủ tịch. Những điểm
kiểm soát cố định đặt tại Lào Kay, Lạng Sơn, Tiên
Yên, Hải Pḥng, Vinh, Đồng Hới, Muong Sen, Tourane
(Đà Nẵng), Qui Nhơn, Nha Trang, Ba Ng̣i, Sài G̣n,
Vũng Tàu, Tân Châu. Ngoài ra c̣n những toán lưu
động dài theo biên giới, vùng giới tuyến và các
khu tập trung. Lào theo “các trung tâm tập kết tạm
thời,” rồi rút về Phongsaly và Sam Nuea.( 166)
166. SHAT
(Vincennes), 10H
Không được thảo
luận hay kư vào ḥa ước quân sự giữa Pháp và
VNDCCH, mà cũng bị gạt sang bên lề những cuộc mật
đàm chính trị giữa Pháp với Trung Cộng và Liên Sô,
phe QGVN chẳng có phản ứng nào khác hơn từ chối kư
vào bản tuyên cáo chung ngày 21/7 và xin được ghi
vào biên bản lời phản kháng.( 167)
167. Xem tuyên bố
của Ngoại trưởng Trần Văn Đỗ ngày18/7/1954 (phiên
họp thứ 30 thu hẹp), và trong phiên họp thứ 31
khoáng đại, ngày 21/7/1954; tr. 376-377, 378-379;
Ibid.
Nhưng sự đồng ư
hay không đồng ư của QGVN không đáng kể
[irrelevant]. Ngay Hồ Chí Minh, Chủ tịch VNDCCH,
cũng không có quyền lựa chọn. Ngày 30/5/1954, Chu
Ân Lai đă đề nghị Hồ chấp nhận giới tuyến 16, và,
nếu cần, biến quốc lộ 5 từ Hà Nội xuống Hải Pḥng
làm vùng phi quân sự. Chỉ sau khi đă bí mật qua
Liễu Châu (Quảng Tây) gặp Chu Ân Lai, Hồ và Vơ
Nguyên Giáp mới biết sơ lược về vĩ tuyến 17 trên
bản đồ. Ngày 10/7, Chu Ân Lai c̣n thúc dục Hồ phải
gấp rút kư ḥa ước trong ṿng 10 ngày.
Mục đích của Nga
Sô khi giúp Pháp kư được hiệp ước ngưng bắn–với
những điều kiện khá thuận lợi–không nằm tại Đông
Dương mà ngay chính Âu Châu. Nga không muốn Pháp
tán thành việc tái vơ trang Tây Germany, hay gia
nhập Liên Minh Pḥng vệ Âu Châu [EDC].
Bắc Kinh th́
muốn “cố gắng phá vỡ sự cô lập của Mỹ; và tạo tiền
lệ là giải quyết các vấn đề quốc tế qua việc thảo
luận giữa các cường quốc.”( 168)
168. Chỉ thị
BCT/Đảng CSTQ cho Chu Ân Lai vào tháng 4/1954; Zhai,
China, 2000, tr. 52.
Sau 8 năm xương
máu chống Pháp, Hồ phải chấp nhận giải pháp tạm
chia đôi Việt Nam. Giấc mộng thống nhất đất nước
phải ngưng lại cho quyền lợi chiến lược của Nga và
Trung Cộng.( 169)
169. Zhai, China,
2000, tr. 49-64.
Đây là một trong
những lư do khiến sau này Lê Duẩn-Lê Đức Thọ và
Trường Chinh đă chống lại áp lực của Bắc Kinh,
quyết định thương thuyết với Mỹ từ năm 1968 để t́m
một giải pháp cho Mỹ rút quân. Năm 1972, Lê Duẩn
c̣n mở chiến dịch Quảng Trị, đưa quân vượt biên
giới tấn công miền Nam từ tháng 3 tới tháng
9/1972. Và, theo một phản ứng giây chuyền, ảnh
hưởng của chiến dịch Điện Biên Phủ cùng Hiệp định
Geneva và Paris (27/1/1973) c̣n dẫn đến cuộc chiến
Đông Dương lần thứ ba, từ 1978 tới 1989, tô đậm
bằng “bài học cho Việt Nam” của Đặng Tiểu B́nh
(17/2-20/3/1979), chiến lược bắt Việt Nam xuất
huyết cho tới chết,(170) và rồi là Hiệp ước về
biên giới trong hai năm 1999 và 2000.
170.
Tháng 10/1979, Hà Nội lên án Mao Trạch Đông và đồng
bọn đă phản bội VNDCCH, ngăn cản nhân dân ba nước
Đông Dương đạt thắng lợi hoàn toàn; Sách
Trắng, 1979:35-36; Trường Chinh, “Nhân dân
Việt Nam cương quyết đánh bại mọi mưu mô xâm lược
của chủ nghĩa bành trướng và chủ nghĩa bá quyền nước
lớn;” Tạp Chí Cộng Sản (3/1982),
trích in trong Chống chủ nghĩa bành
trướng bá quyền Trung Quốc (Hà Nội: 1983), tr.
41 [33-55].
1. Lực
lượng đôi bên:
Tổng số quân
nhân Pháp:
Thoạt tiên: 10,814
quân nhân (280 SQ, 503 HSQ, 9,371 binh) [gồm 1412
Pháp, 2,969 Lê dương, 2,607 Bắc Phi, 2,151 chính
qui và 1,428 phụ lực Việt (kể cả 2,575 sắc tộc
Thái)].
Từ 13/3 tới
6/5/1954 tăng viện thêm 4,291 người. (Fall, Hell,
1968:Appendix A)
Thiết giáp:
Thuộc Trung đoàn 1
Kÿ Mă [1er RCC].
Gồm 2 Trung đội 1
& 3: 7 xe tại Bộ Tư lệnh.
Trung đội 3 tại
căn cứ Isabelle.
Pháo:
6 pháo đội 105 ly
(24 khẩu), 1 pháo đội 155 ly (4 khẩu) , 3 đại đội
cối nặng (Nhảy Dù & Lê dương)
Claudine: 3
pháo đội 105 ly, 1 pháo đội 155 ly, 1 đại đội
cối của Nhảy Dù.
Isabelle: 2
pháo đội 105 ly.
Dominique: 1
pháo đội 105 ly.
CĂN CỨ:
Béatrice:
3/13 DBLE [Bán liên đoàn Lê dương 3/13]
Claudine:
1/13 DBLE [Bán liên đoàn Lê dương 1/13]
Dominique:
3/3 RTA [Tiểu đoàn 3/3 khố đỏ Algériens] (Fall:
3/3 Algerian Rifles)
Gabrielle:
5/7 RTA (Algériens)
Eliane: 1/4
RTM (Maroccains)
Huguette:
1/2 REL [Tiểu đoàn 1/2 Lê dương]
Eliane: BT 2
[Tiểu đoàn 2 Thái]
Anne-Marie:
BT 3[Tiểu đoàn 3 Thái]
Isabelle:
3/3 REL, 2/1 RTA.
Francoise
& những tiền đồn khác: 11 đại đội của GMPT 1
[Liên đoàn lưu động phụ lực Thái số 1].
Thứ
Sáu, 27/11/1953: Báo cáo về LK V của Tổng Quân Ủy
tŕnh bộ CT; VKĐTT, 14:1953, 2001:581-592.
6/12/1953:
Báo cáo về phương án tác chiến mùa Xuân 1954 của
Tổng Quân Ủy tŕnh bộ CT; VKĐTT, 14:1953,
2001:593-598.
Thứ
Năm, 26/11/1953: Sài-G̣n: Phái đoàn Ủy ban
Ngoại Giao Hạ Viện Mỹ đến thăm Đông Dương
[cho tới ngày 1/12/1953]. Gồm Dân
biểu Walter H. Judd, Minnesota, Marguerite
Stitt Church, Illinois; Clement J. Zablocki,
Wisconsin; và, E. Ross Adair, Indiana Thứ
Hai, 30/11/1953: Heath dẫn phái đoàn Dân
biểu Mỹ tới thăm Bảo Đại. Theo Heath, Bảo
Đại không có vẻ ǵ lo lắng về bài phỏng vấn
HCM trên tờ Expressen. Theo Bảo Đại đây là
hậu quả tất nhiên của những lời tuyên bố của
các viên chức Pháp như Laniel, Jacquet ít
tuần qua. HCM đă trả đũa bằng lời đề nghị
thương thuyết trống rỗng với mục đích tuyên
truyền, và đặt Pháp xuống hố. Rồi cười cười,
nói với Dân biểu Judd rằng nếu HCM đề nghị
thương thuyết với ḿnh, Bảo Đại sẽ trả lời:
“Tốt. Hăy hạ súng xuống và đầu hàng. Chúng
tôi sẽ ân xá.” Bảo Đại nhắc lại chuyện xảy
ra thời 1949. Buổi tối trước ngày kư Hiệp
ước Elysée 8/3/1949, VM đă cử đại diện tới
gặp chính phủ Pháp, nêu lên câu hỏi: “Tại
sao lại nhượng bộ [nhiều] như thế! Chúng tôi
sẽ kư một hiệp ước ngưng bắn khác với các
ông theo những điều khoản của Hiệp uớc [sơ
bộ 6/3/]1946.” Bảo Đại nghĩ rằng đề nghị của
HCM là do VM sợ Bảo Đại và Pháp có thể đạt
được những thoả thuận mới (FRUS, 1952-1954,
XIII:892-3).
Thứ Ba,
1/12/1953: Bảo Đại nói với Heath: Bảo Đại
rất bi quan v́ lời tuyên bố của Bộ trưởng
Các Quốc Gia Liên Hiệp, Marc Jacquet, về
vấn đề thương thuyết Pháp-Việt Minh. Tướng
Hinh đă đọc được lời tuyên bố của Jacquet về
đề nghị của Hồ, và Bảo Đại nghĩ rằng Pháp
quả thực muốn thương thuyết. Bảo Đại cay
đắng nêu lên câu hỏi chẳng hiểu phe nhóm nào
đang có thực quyền tại Pháp. Sự thay đổi
đường lối ngoại giao hiện tại là do ai? Ảnh
hưởng của giới thương mại, chủ ngân hàng,
hay một nhóm chính trị nào đó? Bảo Đại nói
nếu biết được nhóm nào, ông ta có thể thương
thuyết hợp tác với họ trên những căn bản
thực tế. Về việc ngưng bắn, Bảo Đại tuyên bố
thà từ chức hơn chấp nhận một cuộc ngưng bắn
mà đất nước bị chia đôi; sau đó sẽ tổ chức
một phong trào tái chiếm Việt Nam. Bảo Đại
thêm rằng những lời bàn luận về ngưng bắn
bắt đầu có ảnh hưởng trên các đơn vị viễn
chinh Pháp–họ tự hỏi tại sao phải hy sinh
thêm khi sắp có ngưng bắn. Về phía Việt Nam,
đại đa số đều muốn “đồng minh” với Pháp trên
căn bản độc lập và b́nh đẳng.
Heath an
ủi Bảo Đại là mặc dù chưa nhận được chỉ thị
chính thức của Washington, theo ông ta chính
phủ Mỹ sẽ sử dụng tất cả ảnh hưởng của ḿnh
để ngăn chặn việc mở cửa cho Cộng Sản xâm
lăng Việt Nam. Cá nhân Heath nghĩ rằng không
có lư do ǵ để ngưng bắn trong khi Pháp và
Việt Nam có kế hoạch để chiến thắng. Tuy
nhiên Bảo Đại cho rằng Mỹ khó có ảnh hưởng
mạnh mẽ với Pháp v́ chính Mỹ cũng đă ngưng
bắn ở Triều Tiên. (a)
a. FRUS, 1952-1954, XIII:892-893).
Thứ Năm,
3/12/1953: HĐ/ANQG Mỹ họp về đề nghị hoà
đàm của Hồ Chí Minh. Giám
đốc CIA, Allen Dulles, cho rằng nó tạo nên
những ảnh hưởng đáng kể tại Pháp và Đông
Dương. Dulles cũng đề cập đến vấn đề Hồ
c̣n sống hay đă chết. Theo ông ta, Hồ có
thể c̣n sống; nhưng chưa có bằng chứng xác
thực nào (FRUS, 1952-1954, XIII:891).
4/12/1953:
Navarre tiếp TNS Edward J. Thye
của Minnesota. Theo Navarre, chẳng lo ngại
ǵ về đề nghị thương thuyết của HCM v́
việc đó không thể xảy ra trong hiện tại
(FRUS, 1952-1954, I:899).
24/4/1954:
Bảo Đại gặp Dulles. Có mặt
Đại sứ Heath [một nhân viên phái đoàn Mỹ
trong Hội nghị Geneva, sẽ khai mạc ngày
26/4]. Dulles hỏi Bảo Đại rằng Việt Nam sẽ
làm ǵ nếu Pháp quyết định ngưng bắn. Bảo
Đại nói sẽ tiếp tục chiến đấu; nhưng cần
được yểm trợ vũ khí. Theo Bảo Đại,
Điện-biên-phủ có thể là trận đánh cuối cùng
của Pháp, nhưng người Việt chưa đánh trận
Điện-biên-phủ cuối cùng của họ (FRUS,
1952-1954, XIII:1384-5). [Xem
thêm 28/6/1954].
[71]
No.21.
Extract from a Speech by M. Pham Van Dong, Head
of Delegation of the Democratic People's
Republic of Viet-Nam, Geneva, 10 May, 1954(1)
No person of
good faith can deny the fact that almost a
century has elapsed since the time when France
seized the countries of Indo-China and
established their colonial domination; that in
the course of the Second World War the French
authorities in Indo-China surrendered to the
Japanese, that after the capitulation of the
Japanese people, the people of Viet-Nam rose in
rebellion, seized the power, and established the
Democratic Republic of Viet-Nam.
But France
signed treaties with this Democratic Republic of
Viet-Nam, treaties which were subsequently
violated by the colonisers who wanted to wage
the war for the reconquest of our country, that
the resistance of the peoples of Viet, Khmer and
Lao is becoming more and more victorious; that
for the last few years this war has been carried
out due to the intervention of the American
imperialists; and that at present the advocates
of this war, in agreement with the American
interventionists, are seeking by all means to
prolong and extend this war.
Geneva/Tổng tuyển cử:
29/6/1955: - Vũ
Văn Mẫu cho Đại sứ Mỹ biết kế hoạch chống lại Tổng
tuyển cử của Diệm. Sẽ công bố ngày 20/7/1955 hoặc
trễ hơn. (FRUS, 1955-1957, I:470-471)[Xem
5/7/1955] Thứ Sáu, 15/7/1955:, 19G 26 [7G 26,
16/7/1955 Việt Nam]: Dulles điện cho Đại sứ Sài
G̣n, yêu cầu Diệm đọc diễn văn về tổng tuyển cử
trước ngày 18/7/1955. Thứ Bảy,
16/7/1955: Diệm tuyên bố trên đài phát thanh là
không chấp nhận Tổng tuyển cử. Lư do thứ
nhất là chính phủ Diệm không hề kư Hiệp ước Geneva
nên “không bị ràng buộc bởi những điều khoản của
Hiệp định.” “Ở miền Bắc không thể có tuyển cử tự
do.” Ngoài ra, không có bằng chứng nào cho thấy
Bắc Việt đặt quyền lợi quốc gia trên quyền lợi của
Quốc Tế Cộng Sản. (Gravel, I:287; FRUS, 19551957,
I:489-490) VKĐTT, 16:1955, 2002:457-462.
Thứ Bảy,
23/7/1955: Geneva: Molotov gặp Eden. Molotov không có
vẻ ǵ nóng giận. Eden giải thích là Bri-tên cũng
như Pháp khuyến khích Diệm trả lời đề nghị ngày
20[19]/7/1955 của Phạm Văn Đồng. (FRUS, 1955-1957,
I:497-498) 3/8/1955: Dulles chỉ thị cho Đại sứ Mỹ
khuyên Diệm nên trả lời thư ngày 20[19]/7/1955.
(FRUS, 1955-1957, I:505)
9/8/1955: Chính
phủ Diệm phát thanh lại lời tuyên bố của Diệm
ngày 16/7/1955. Ngoại trưởng Mẫu
nhờ Bri-tên và Pháp chuyển thư của Diệạm đến các
nước liên hệ và đồng bào phía Bắc vĩ tuyến 17.
(FRUS, 1955-1957, I:505n5)
10/8/1955: Hồ
Chí Minh kêu gọi hiệp thương và hứa tự do tổng
tuyển cử. *
Sài-G̣n: Diệm lại bác bỏ việc hiệp thương với
Hà-nội.
20/9/1955: Phạm
Văn Đồng viết thư cho Nga và Bri-tên, than phiền
việc tŕ trễ hiệp thương. (FRUS, 1955-1957,
I:540-542) 21/9/1955: - Diệm lại tuyên bố không
thể hiệp thương hay tổng tuyển cử.
5/10/1955: Giám
đốc Sở Philippines và Đông Nam Á, Young, thư cho
Đại sứ Reinhardt: Nên bắt đầu có những mắt nh́n
xa hơn tại Việt Nam. Trên b́nh diện
quốc tế, từ nay, không cần bận tâm đến việc tổng
tuyển cử năm 1956 nữa. Vấn đề thống nhất c̣n xa.
Phe CS không áp lực.
11/4/1956:
London: Gromyko và Lord Reading họp sơ bộ về
việc tái triệu tập Hội nghị Geneva. Hai bên đồng ư
không thể triệp tập Hội nghị Geneva, tạm đ́nh hoăn
bầu cử vô hạn định, và cởi bỏ cho Pháp trách nhiệm
tổ chức bầu cử. UBQTKSĐC [ICC] được yêu cầu tiếp
tục nhiệm vụ cho tới ngày tổng tuyển cử. Pháp cũng
được yêu cầu làm trung gian. (Cameron, Vietnam
Crisis, I:432-436; FRUS, 1955-1957, I:680-682)
Ngày 10/5/1956, Sebald báo cáo cho Dulles tin này.
Theo Sebald, đây là một chiến thắng ngoại giao cho
Việt Nam Cộng Ḥa.
2/5/1956:
Paris: Hội nghị tay đôi Pháp-Mỹ.
Christian
Pineau nói với Dulles là Pháp chống lại việc
triệu tập Hội nghị Geneva, v́ thật vô ích
khi cả Mỹ lẫn VNCH sẽ vắng mặt.
Về
quân sự, Pháp muốn duy tŕ căn cứ Seno ở
Lào, nhưng cần giữ được xưởng Ba Son ở Sài
G̣n để bảo tŕ các chiến hạm.
Pháp
không
có
ư
định
bang
giao với VNDCCH. (FRUS, 1955-1957,
I:676-677)
Chính Đạo
Giới Thiệu Sử Gia
Chính Đạo
Tiến Sĩ Vũ Ngự
Chiêu
(ảnh của PBase.com)
Chính Đạo là
một trong hai bút danh của Vũ Ngự Chiêu.
Bút danh kia là Nguyên Vũ, rất nổi tiếng ở
Miền Nam trước năm 1975. Trước 1975,
Vũ Ngự Chiêu phục vụ trong binh chủng Pháo
Binh Dù, QLVNCH, và đă có hơn 20 tác phẩm
xuất bản. Sau khi ra hải ngoại, ông vừa tiếp
tục cầm bút vừa đeo đuổi việc học. Tốt
nghiệp Tiến Sĩ Sử tại Đại Học
Wisconsin-Madison năm 1984, sau khi cùng gia
đ́nh di chuyển về Houston, ông là Giám Đốc
nhà xuất bản Văn Hóa và tốt nghiệp Tiến Sĩ
Luật tại Đại Học Houston năm 1999.
Những tác phẩm của Vũ Ngự Chiêu xuất hiện
trước năm 1975 dưới bút danh Nguyên Vũ gồm
có Đời Pháo Thủ (bút kư), Những Cái
Chết Vô Danh (tập truyện), Trở Về Từ Cơi
Chết (truyện), Ṿng Tay Lửa (trường thiên),
Thềm Địa Ngục (truyện), Đêm Hưu Chiến
(truyện), Sau Bảy Năm Ở Lính (bút kư), Đêm
Da Vàng (trường thiên), v.v. Tại hải
ngoại, Vũ Ngự Chiêu đă in thêm các tập Xuân
buồn thảm: Cuộc Sụp Đổ của Nam Việt Nam (bút
kư), Trận Chiến Chưa Tàn (truyện), Giặc Cờ
Đỏ (trường thiên), cùng hai tâm bút Paris:
Xuân 1996, và Ngàn Năm Soi Mặt.
Về nghiên cứu sử học, ông đă in ba tác phẩm
bằng tiếng Anh dưới tên thực, và 10 biên
khảo bằng Việt ngữ với bút danh Chính Đạo.
Biên khảo duy nhất bằng Việt ngữ kư tên thực
của ông là bộ Các Vua Cuối Nhà Nguyễn,
1883-1945, gồm ba tập. Những tác phẩm kư tên
Chính Đạo thường được viết cho độc giả không
chuyên môn, dễ đọc hơn, không quá khô khan
như các biên khảo đúng yêu sách bác học.
Ông
vừa xuất bản tác phẩm mới nhất với tựa đề
Cuộc Thánh Chiến Chống Cộng, 1945-1975, tập
I, gồm 5 phần: Sơ lược tiểu sử Tổng thống
Jean Baptiste Ngô Đ́nh Diệm (1897-1963); Từ
Điện Biên Phủ tới Geneva; Cuộc truất phế Bảo
Đại; Mùa Phật Đản đẫm máu (1963); và “Phiến
Cộng” trong Dinh Gia Long.
Sau năm 1975 ở hải ngoại, có những ḍng thác
ngụy tạo ngụy biện nhằm vặn méo sử kiện để
chạy tội và biện minh cho sự vô minh của
ḿnh, Vũ Ngự Chiêu đă dần dần xuất hiện
như một nhà sử học khai sáng và can
trường. Giá trị tinh thần của người trí thức
không chỉ là tôn trọng sự thật mà c̣n nói
lên sự thật và chấp nhận hậu quả của quyết
định can trường đó. Đó là một sự đổi đời tâm
linh có ư nghĩa đă h́nh thành nơi Vũ Ngự
Chiêu. Huyền thoại và huyễn mị lịch sử đă
làm cho người Việt xa nhau, chỉ có sự thật
mới làm cho người Việt gần lại với nhau,
trong t́nh dân tộc, nghĩa đồng bào. Những
tác phẩm mới của Vũ Ngự Chiêu là một đóng
góp sáng giá và có ư nghĩa trong chiều hướng
đó.
Trích
Từ : http://www.chuyenluan.net
Những
biên khảo cuả Tiến Sĩ Vũ Ngự Chiêu đă cho
phép lưu trữ và phổ biến trên nhóm mạng Việt
Nam Văn Hiến như sau:
1-
Trụ Đồng Mă
Viện: Sự Đàn Hồi của Biên Giới Trung Hoa
2- Nh́n
Lại Mùa Xuân Khói Lửa 1789
3- Đất
Đai Việt Nam Bị Cộng Hoà Nhân Dân Trung Hoa
Xâm Chiếm
4- Liên
hệ Việt Nam và Pháp
5- Vấn Đề Tài
Liệu Nghiên Cứu Lịch Sử
6- Góp
Phần Nghiên Cứu Về Trương Vĩnh Kư
8- Cuộc
truất phế Bảo Đại
9- Hồ
Chí Minh Nhà Ngoại Giao
10- Phỏng
Vần Sử Gia Về Hồ Chí Minh
11- Bài học Mậu
Thân 1968
12- Mẫu
Phỏng Vấn Bà Trần Thị Lệ Xuân
13- Ngô Đ́nh Diệm
Là Ai ?
14- Chuyến Đi
Cầu Viện Bí Mật của Hồ
15- Sự
H́nh Thành Phong Trào Quốc Gia Mới
16- Mùa Phật Đản
Đẫm Máu
17- Huỳnh Thúc
Kháng và Báo Tiếng Dân
18- Khái Hưng Trần
Khánh Giư
19- Phiến Cộng
Trong Dinh Gia Long
20- Vơ Nguyên Giáp
- Nh́n Lại Bản Lư Lịch Tự Khai
21- Nguyễn Ái Quốc:
Người Việt Đầu Tiên Đến Mỹ ?
22- Phiá Bên Kia Cuộc Cách
Mạng 1945: Đế Quốc Việt Nam ( 3-8/1945)
23-Từ
Điện
Biên Phủ Tới Geneva
Trân trọng giơí
thiệu cùng bạn đọc
|
Nhóm mạng Việt Nam Văn
Hiến
Trang
: Từ Điện Biên Phủ Tới Geneva
www.vietnamvanhien.net
www.vietnamvanhien.org
www.vietnamvanhien.info
www.vietnamvanhien.com
Email:
thuky@vietnamvanhien.net
Nhóm
mạng Việt Nam Văn Hiến là nơi lưu trữ và phổ biến
những biên khảo, sáng tác và ư kiến của quư học
giả, nhân sỹ, thi-văn sỹ và độc giả nhằm hai mục đích:
(1) Bảo tồn di sản văn hóa
của Việt tộc.
(2) Thắp sáng niềm tin Diên Hồng và nếp sống Văn Hiến
hầu phục hồi nền
"An Lạc & Tự Chủ" ngàn đời của Việt tộc.
|